Phân tích nhân vật Mị: Những đêm đông dài... thì chết mất - Vợ chồng A Phủ

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Diệp Lam Lạc, 2 Tháng ba 2023.

  1. Diệp Lam Lạc

    Bài viết:
    111
    Đề bài: Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết héo. Mỗi đêm, Mị dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu lần.

    Thường khi đến gà gáy sáng Mị ngồi dậy ra bếp sưởi một lúc thật lâu thì các chị em trong nhà mới bắt đầu ra dóm lò bung ngô, nấu cháo lợn. Mỗi đêm, khi nghe tiếng phù phù thổi bếp, A Phủ lại mở mắt. Ngọn lửa sưởi bùng lên, cùng lúc ấy thì Mị cũng nhìn sang, thấy mắt A Phủ trừng trừng, mới biết A Phủ còn sống. Mấy đêm nay như thế. Nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa. Có đêm A Sử chợt về, thấy Mị ngồi đấy, A Sử đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp. Nhưng đêm sau Mị vẫn ra sưởi như đêm trước.

    Lúc ấy đã khuya. Trong nhà đã ngủ yên, thì Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hóm má đã xám đen lại. Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn đợi ngày rũ xương ở đây thôi.. Người kia việc gì mà phải chết. A Phủ.. Mị phảng phất nghĩ như vậy.

    Ðám than đã vạc hẳn lửa. Mị không thổi, cũng không đứng lên. Mị nhớ lại đời mình, Mị tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy. Mị phải chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế, trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng không thấy sợ..

    Lúc ấy, trong nhà đã tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt, nhưng Mị tưởng như A Phủ đương biết có người bước lại.. Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ cứ thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng, Mị chỉ thì thào được một tiếng "Ði ngay..", rồi Mị nghẹn lại. A Phủ bỗng khuỵu xuống, không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy.

    Mị đứng lặng trong bóng tối.

    Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy, chạy xuống tới lưng dốc, Mị nói, thở trong hơi gió thốc lạnh buốt:

    - A Phủ cho tôi đi.

    A Phủ chưa kịp nói, Mị lại nói:

    - Ở đây thì chết mất ".

    (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài, Ngữ văn 12 tập hai, NXB giáo dục, 2008, tr13, 14).

    Phân tích diễn biến tâm trạng của Mị trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét những nét mới trong cảm hứng nhân đạo của văn học phê phán sau năm 1945.

    Dàn ý chi tiết:

    I. MỞ BÀI


    - Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

    - Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích" Ngày Tết, Mị cũng uống rượu.. Em không yêu, quả pao rơi rồi. "Là một phần diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân. Qua đó người đọc thấy được đăc sắc trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của Tô Hoài.

    II. THÂN BÀI

    1. Khái quát:

    Vợ chồng A Phủ chủ yếu kể về cuộc đời của đôi trai gái vùng cao là Mị và A Phủ, cũng là cuộc đời, số phận của người dân Tây Bắc dưới chế độ phong kiến miền núi. Cuộc đời Mị và A Phủ chia làm nhiều chặng đường, có lúc phải đi qua bóng tối khổ đau nhưng mỗi chặng là một bước quan trọng đưa hai nhân vật đến gần với ánh sáng của tự do, hạnh phúc.

    Giới thiệu nhân vật Mị: Trong những trang viết của Tô Hoài, Mị vốn là một cô gái Mèo xinh đẹp, tài hoa, hiếu thảo. Bởi vậy, Mị trở thành niềm ao ước của biết bao nhiêu chàng trai. Những đêm tình mùa xuân, trai bản đến đứng nhẵn cả chân vách buồng. Bao nhiêu chàng trai đã đi theo tiếng sáo của Mị từ núi này sang núi khác. Mị là đóa hoa của núi rừng và cuộc đời hứa hẹn nhiều hạnh phúc. Thế nhưng, chỉ vì nghèo, cha mẹ không trả nổi tiền cho nhà thống lí nên Mị đã bị bắt về làm dâu gạt nợ. Từ đây, Mị trở thành con dâu nhà giàu nhưng thực ra là rơi vào cảnh một cổ hai tròng, một tròng con dâu và một tròng con nợ. Từ khi về làm dâu nhà thống lí, sự đày đọa về thể xác dẫn đến sự tê liệt trong tinh thần nên Mị không còn nghĩ ngợi gì nữa, cứ lùi lũi như con rùa nới xó cửa. Trong đầu của Mị chỉ còn các các việc lặp đi lặp lại nối nhau vẽ ra trước mắt. Chi tiết về ô cửa sổ bằng bàn tay trong căn buồng của Mị nằm đã thể hiện một ngục thất tinh thần, thiếu sinh khí, thiếu sự sống, cho thấy Mị đã tê liệt đến mức không còn ý niệm về thời gian và không gian quanh mình. Ai ma tôp từng khawnrh định" Nhà văn phải biết khơi lên ở con người niềm trắc ẩn, ý thức phản kháng cái ác; cái khát vọng khôi phục và bảo vệ những cái tốt đẹp ". Nhà văn Tô Hoài quả thực đã làm được điều đó khi thể hiện sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị. Những tưởng Mị sẽ cam chịu, chấp nhận kiếp sống ấy cho đến chết nhưng bằng một trái tim đầy yêu thương nhà văn Tô Hoài đã khám phá phát hiện ra đằng sau sự cam chịu, chấp nhận ấy của Mị là sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Và chính sức sống tiềm ẩn bên trong một khi sống dậy thì rất mãnh liệt ấy đã giúp Mị từng bước tháo cũi sổ lồng, tìm được hạnh phúc cho cuộc đời mình.

    Giới thiệu nhân vật A Phủ: A Phủ cũng như Mị, là nạn nhân của bọn phong kiến miền núi. Chỉ vì trận đánh nhau với A Sử con thống lí Pá Tra mà A Phủ bị làng phạt vạ, trở thành đầy tớ cho nhà thống lí. Nếu không có tiền trả nợ thì A Phủ và đời con đời cháu A Phủ sẽ mãi là đầy tớ của nhà thống lí. Từ khi trở thành đầy tớ trừ nợ, một mình A Phủ quanh năm rong ruổi ngoài gò rừng đốt nương, cày cuốc, chăn bò, chăn ngựa.. Một lần sơ ý để hổ vồ mất bò, A Phủ bị thống lí Pá Tra bắt trói bỏ mấy ngày liền giữa mùa đông giá rét. Và nếu không có Mị cắt dây trói cứu thoát thì A Phủ có lẽ sẽ bị trói cho đến chết.

    2. Diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm cắt dây cho A Phủ rồi chạy trốn

    2.1. Mị có thói quen thức sưởi lửa suốt đêm

    Sau đêm tình mùa xuân, khát vọng sống của Mị bị dập tắt. Những tưởng Mị sẽ hoàn toàn trở lên câm lặng, sẽ mãi mãi lầm lũi và cứ thế mà chết đi, mà trở thành một con ma trong nhà thống lí. Cho đến những đêm mùa đông rét mướt ấy.

    Đêm đông trên rẻo cao lạnh, dài và buồn nên Mị có thói quen trở dậy đốt lửa, hơ tay, hơ lưng. Mỗi đêm, Mị dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu lần bởi nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị đến chết héo. Từ chỉ thời gian mỗi đêm, không biết bao nhiêu lần: Gợi thói quen lặp đi lặp lại như một bản năng, ăn vào vô thức. Đó là bản năng tìm tới hơi ấm, ánh sáng. Mị chỉ biết, chỉ còn ở với ngọn lửa: Điệp từ" chỉ "diễn tả nét nghĩa tồn tại ít ỏi. Trong văn hóa nhân loại, ngọn lửa thường là vật biểu trưng cho ánh sáng, sự sống. Ở đây, ngọn lửa ngầm ẩn sự hiện hữu tuy tối thiểu nhưng dai dẳng của sức sống trong Mị. Có lần A Sử bắt gặp vàđánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp. Nhưng đêm sau Mị vẫn ra sưởi như đêm trước. Từ vẫn tiếp tục nhấn mạnh niềm khát sống bền bỉ. Hình tượng ngọn lửa là nguồn sáng- nguồn ấm-nguồn sống duy nhất đồng thời tiềm sâu sức sống dai dẳng, bền bỉ, bất chấp của Mị.

    2.2. Vô cảm

    Sau cuộc nổi loạn thất bại vào đêm tình mùa xuân, Mị đã bị cường quyền, thần quyền nhà thống lý Pá Tra vùi dập, chà đạp, để bị rơi vào trạng thái tê liệt còn đáng sợ hơn cả trước đây. Điều đó thể hiện trong cách Mị nhìn A Phủ bị trói đứng. Mị trơ lì tê liệt đến mức vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi. Ba chữ cũng thế thôi tách riêng thành một nhịp, lời văn nửa trực tiếp đã tái hiện chính xác thái độ lạnh lùng đến vô cảm của Mị. Lúc này, Mị không chỉ khước từ quyền sống của chính mình mà còn không quan tâm đến cả sự sống của đồng loại. Lí giải vấn đề này, ta thấy có ba nguyên nhân. Một là, cảnh người bị trói đến chết có lẽ không phải là hiếm hoi ở nhà thống lí. Hai là, cuộc sống bao năm làm con rùa lùi lũi trong xó cửa đã tạo cho Mị một sức ì, một quán tính cam chịu, nhẫn nhục quá lớn. Ba là, Mị đã chịu đựng quá nhiều đau khổ về thể xác lẫn tinh thần nên đã trở nên chai sần vô cảm, khả năng cảm thông, chia sẻ với cảnh ngộ khốn cùng của người khác ở Mị gần như bị tê liệt. Mị chẳng khác gì" tảng đá ", chẳng khác gì đã bị vật hóa.

    2.3. Đồng cảm

    Tâm hồn Mị có lẽ sẽ mãi mãi hóa đá nếu như Mị không bắt gặp giọt nước mắt của A Phủ. Như mọi đêm, Mị dậy thổi lửa hơ tay, ngọn lửa bập bùng sáng lên, lé mắt trông sang, Mị bỗng bắt gặp dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má tuyệt vọng của A Phủ. Dòng nước mắt ấy đã gợi kí ức đau thương của chính Mị, đưa Mị từ cõi quên trở về với cõi nhớ. Mị nhớ lại đêm tình mùa xuân bị A Sử trói, nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng cổ mà không sao lau đi được. Có thể nói, chính" dòng nước mắt lấp lánh "ấy của A Phủ đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị khiến Mị đồng cảm với người có cùng cảnh ngộ.

    2.4. Thương người cùng cảnh ngộ:

    Tô Hoài đã khéo léo dùng cách trần thuật nửa trực tiếp để cho người đọc thấy rõ cảm xúc của Mị: " Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết ". Dạng thức cảm thán đã cho thấy Mị không còn thờ ơ, vô cảm với đồng loại mà trong tâm hồn cô đã dấy lên một tình thương yêu mãnh liệt. Tâm lí này cho thấy phẩm chất nhân hậu tiềm ẩn trong tâm hồn người phụ nữ cùng khổ.

    2.5. Nhận thức: Chúng nó thật độc ác

    Cùng với lòng thương người, Mị đã nhận ra bản chất tàn ác, vô nhân đạo của cha con nhà thống lý. Chỉ vì bị hổ ăn mất một con bò mà một người thanh niên khoẻ mạnh, siêng năng, say sưa với cuộc đời đã phải lấy mạng mình thay cho con bò. Bọn thống trị coi sinh mạng của A Phủ chỉ bằng, thậm chí không bằng một con vật. Thân phận của Mị thì có khác gì A Phủ, cha con Pá Tra đã biến Mị từ một con người yêu đời, yêu cuộc sống, tài hoa chăm chỉ, hiếu thảo, tha thiết với tình yêu thành một con dâu gạt nợ, một kẻ nô lệ đúng nghĩa. Ngày trước, chúng còn tàn ác khi trói một người đàn bà đến chết trong nhà này. Từ số phận của A Phủ, của chính mình và người đàn bà ngày trước, Mị bỗng nhận thức ra rằng " Chúng nó thật độc ác ". Như vậy, từ chỗ cúi đầu chấp nhận tất cả những đau đớn đọa đày ở nhà thống lý đến chỗ nhận thức được sự tàn bạo của bọn phong kiến miền núi là một bước tiến trong nhận thức và tình cảm của Mị. Mị đã thể hiện thái độ phản kháng, không còn chấp nhận sự áp chế của thần quyền và cường quyền nữa. Thương mình, người, lòng Mị sục sôi niềm căm hờn phẫn uất với cha con thống lí Pá Tra nên lần đầu tiên, sau bao năm tháng câm lặng, đã biết kết án cha con thống lí. Mị như lột xác, trở lại làm cô gái dũng cảm, khát khao tự do, sục sôi tinh thần phản kháng.

    2. 6. Tình thương lớn hơn nỗi sợ hãi và cái chết nên dẫn đến hành động cắt dây trói cho A Phủ

    Rồi Mị phảng phất nghĩ gần nghĩ xa: " Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn đợi ngày rũ xương ở đây thôi.. Người kia việc gì mà phải chết ".

    Mị xót xa cho A Phủ như xót xa cho chính bản thân mình. Mị thương cho A Phủ không đáng phải chết. Mị tưởng tượng rằng có thể một lúc nào A Phủ trốn được rồi, cha con nhà thống lí sẽ bảo Mị cởi trói và Mị liền phải trói thay vào đấy, phải chết trên cái cọc ấy. Tuy nhiên lòng thương người trong Mị đã lớn hơn tất cả mọi nỗi sợ hãi, khiến Mị đi đến hành động cắt dây trói trói cho A Phủ.

    2.7. Từ cứu người đến cứu mình

    Cắt dây trói cho A Phủ xong, Mị bỗng hốt hoảng. Mị chỉ thì thào được một tiếng «Đi ngay.. » rồi nghẹn lại. Mị đứng lặng trong bóng tối, rồi Mị chạy vụt theo, đuổi kịp A Phủ và nói với A Phủ sau bao nhiêu năm câm nín: " A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất ". Câu nói ấy cho thấy việc chạy trốn cùng A Phủ không phải là hành động mang tính bản năng. Nỗi sợ hãi và hành động chạy theo A Phủ vô cùng đột ngột nhưng ngẫm ra lại hết sức hợp lí, dường như không thể khác được. Là người, ai cũng sợ chết, nhất là khi cái chết cận kề. Vốn là một cô gái yêu đời và ham sống, Mị không thể chấp nhận cúi đầu chờ chết ở cái nơi địa ngục trần gian này. Ngoài ra, phải kể đến chất xúc tác làm cho cuộc nổi loạn được hoàn tất, đó là hành động quật sức vùng lên chạy của A Phủ. Hành động ấy như tia lửa bắt cháy nguồn sống mãnh liệt trong Mị, thôi thúc Mị hành động táo bạo: Cùng A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài. Vậy là, sau bao năm tháng bị vùi dập, sức sống tiềm tàng trong tâm hồn Mị đã bùng cháy mãnh liệt trong đêm đông «định mệnh». Sức sống ấy như nguồn sức mạnh vô song giúp Mị chiến thắng tất cả mọi thế lực bạo tàn, gồm cả cường quyền và thần quyền. Chính sức mạnh ấy đã giải cứu cho A Phủ và Mị khỏi thế giới địa ngục để đến với chân trời tự do, hạnh phúc

    3. Đánh giá

    3.1. Nghệ thuật

    Tô Hoài đã tạo tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn; Nghệ thuật kể chuyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật: Kể và tả một cách tỉ mỉ, chi tiết tạo được sức hấp dẫn, lôi cuốn; diễn tả chân thực, hợp lí, sinh động, tài tình những xúc cảm, hành động của nhân vật.. Diễn biến tâm lí nhân vật Mị trong đêm cắt dây trói cho A Phủ rồi chạy trốn phức tạp nhưng hợp lôgic, mang tính tất yếu, thể hiện được quá trình chuyển biến nhận thức của Mị: Từ những nhận thức sâu sắc về cuộc đời, số phận mình, số phận A Phủ; về tội ác của cha con thống lí Pá Tra.. Mị đi đến quyết định cởi trói cho A Phủ, giải thoát cho chính mình. Đoạn văn thể hiện rõ tính cách, phẩm chất của nhân vật và nội dung tư tưởng của tác phẩm, đồng thời cho thấy sự thay đổi số phận nhân vật một cách thuyết phục. Ngôn ngữ sinh động, chọn lọc và sáng tạo, câu văn giàu chất tạo hình và thấm đẫm chất thơ cũng là nét đặc sắc trong văn phong Tô Hoài.

    3.2. Nhận xét tình cảm của nhà văn Tô Hoài đối với nhân dân Tây Bắc (nhân đạo)

    Qua đoạn trích, Tô Hoài mở ra bức tranh hiện thực tăm tối, ngột ngạt của chế độ phong kiến miền núi, lên án giai cấp thống trị bất nhân được thực dân Pháp bảo trợ đã chà đạp lên quyền sống, quyền hạnh phúc của những người dân lương thiện miền núi Tây Bắc. Nhà văn đã thể hiện sự đồng cảm với nỗi khổ đau mà người dân miền núi trong chế độ cũ phải gánh chịu như đồng cảm với thân phận làm dâu gạt nợ của Mị; với thân phận đây tớ và nỗi đau của A Phủ khi bị trói vào cây cọc để thế mạng con bò. Nhà văn còn phát hiện ra sức sống mãnh liệt, khát vọng tự do và tinh thần phản kháng của con người bị áp bức và không chỉ bênh vực mà còn đưa họ đến chân trời tự do, rộng mở. Từ đây, Tô Hoài đã khẳng định được chân lí muôn đời: Ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Bạo lực không thể đè bẹp, hủy diệt khát vọng sống, khát vọng tự do, hạnh phúc. Chỉ có điều là để có thể giành được sự sống, tự do, hạnh phúc, con người có thể phải trải qua nhiều tủi nhục, đắng cay. Tấm lòng nhà văn dành cho đồng bào miền núi thật sâu nặng, nghĩa tình mà xét đến cùng đó chính là tấm lòng nhân đạo của người nghệ sĩ dành cho đất và người Tây Bắc.

    3.3. Nét mới trong cảm hứng nhân đạo của tác phẩm và đoạn trích

    Nếu bức chân dung của những người nông dân trong văn học trước cách mạng đều bị dồn vào bước đường cùng, không lối thoát thì nhà văn Tô Hoài lại phản chiếu vào nhân vật của mình ánh sáng của cách mạng và ý thức của thời đại để giải phóng số phận nhân vật, hướng con người đến ánh sáng của tự do. Việc Mị cởi trói cho A Phủ có thể coi như một chiếc bản lề khép mở hai thế giới, khép lại thế giới tăm tối của cuộc sống trâu ngựa, nô lệ và mở ra một cuộc sống tươi sáng. Mị và A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài đi theo tiếng gọi của cách mạng là một mốc son chói lọi thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc và mới mẻ của Tô Hoài nói riêng và của các nhà văn sau cách mạng nói chung.

    KẾT LUẬN CHUNG

    Văn chương không chỉ đơn giản là thú vui bình sinh lúc an nhàn mà còn là" điểm tựa "cho con người mỗi phút giây yếu lòng. Nó đem lại cho ta niềm tin yêu cuộc sống và vững tin vào chính mình để thay đổi.
    Trong sáng tác văn chương" nhà văn có thể viết về bóng tối nhưng từ bóng tối phải hướng đến ánh sáng ". Phải chăng, cũng vì lẽ đó mà" Vợ chồng A Phủ "đã được Tô Hoài viết lên để gửi gắm những giá trị nhân văn cao cả. Tác phẩm là câu chuyện về những người dân lao động vùng cao Tây Bắc không cam chịu áp bức và vùng lên phản kháng, tìm cuộc sống tự do. Sự" đổi đời "của các nhân vật trong tác phẩm không phải nhờ có phép màu của ông Bụt, bà Tiên mà từ chính sức mạnh, tiềm lực bên trong của họ. Tác phẩm từ đầu đến cuổi đều thể hiện tiếng nói thương yêu, ca ngợi, tin tưởng con người. Đó chính là lí do khiến" Truyện Tây Bắc "đạt giải nhất truyện ngắn – giải thưởng do Hội nghệ sĩ Việt Nam trao tặng năm 1954 – 1955.

    Bài làm tham khảo:

    Bài làm


    Mở đầu bài thơ" Tiếng hát con tàu ", nhà thơ Chế Lan Viên hạ bút:

    " Tây Bắc ư, có riêng gì Tây Bắc

    Khi lòng ta đã hóa những con tàu

    Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát

    Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu? "

    Tây Bắc – mảnh hồn thiêng của núi sông, miền đất hứa nâng giấc cho biết bao câu bút gạo cội. Nếu Nguyễn Tuân đến đây vì" thứ vàng mười đã qua thử lửa "qua tuỳ bút" Người lái đò sông Đà "thì Tô Hoài lại thăng hoa trên mảnh đất này với tập" Truyện Tây Bắc "mà linh hồn của nó là truyện ngắn" Vợ chồng A Phủ ". Thưởng thức từng trang văn, độc giả không khỏi ấn tượng với" nàng dâu gạt nợ "của nhà thống lí Pá Tra – Mị. Đặc biệt, đoạn trích dưới đây đã miêu tả tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm đông cứu A Phủ, đồng thời ta thấy được tư tưởng nhân đạo của nhà văn Tô Hoài gửi gắm:

    " Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết héo [..] A Phủ nói: "Đi với tôi". Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi. "

    Người yêu văn chương hẳn không còn xa lạ với tên tuổi nhà văn Tô Hoài - cây đại thụ tỏa bóng xuống cánh rừng văn học Việt Nam hiện đại. Đó là cuộc đời sáng tạo và bền bỉ không ngừng với số lượng tác phẩm đạt tới mức kỉ lục: Gần 200 đầu sách. Với vốn hiểu biết phong phú, ngôn ngữ trong sáng, gần gũi, tác phẩm của Tô Hoài đã thu hút được nhiều thế hệ độc giả.

    " Vợ chồng A Phủ " được sáng tác năm 1952, in trong tập" Truyện Tây Bắc "cùng" Mường Giơn "và" Cứu đất cứu Mường ". Tác phẩm là kết quả chuyến đi thực tế dài tám tháng cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc của nhà văn. Tác phẩm gồm hai phần: Phần đầu kể về cuộc sống tủi nhục của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài, là nô lệ trong nhà thống lí Pá Tra. Kết thúc phần đầu là cảnh Mị cắt dây trói cứu A Phủ và cùng A Phủ trốn khỏi nhà Pá Tra. Phần kể Mị và A Phủ ở Phiềng Sa, họ thành vợ chồng, được cán bộ A Châu giác ngộ cách mạng. A Phủ trở thành đội trưởng du kích đánh Pháp bảo vệ làng.

    Đoạn trích trên nằm ở phần đầu tác phẩm, khắc họa tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm đông cứu A Phủ, đồng thời ta thấy được tư tưởng nhân đạo mà nhà văn Tô Hoài gửi gắm.

    Tô Hoài đã từng quan niệm rằng: " Nhân vật là linh hồn và là trụ cột của tác phẩm " . Đặc biệt trong văn xuôi với thể loại truyện ngắn, một tác phẩm có thành công hay không phụ thuộc hoàn toàn vào nhân vật tham gia bởi nhân vật là trung tâm của câu truyện, có nhân vật mới có thể xây dựng được cốt truyện, diễn biến truyện, việc xây dựng nhân vật chính là dụng ý của nhà văn để thể hiện rõ được nội dung và tình cảm.

    Trong tác phẩm " Vợ Chồng A Phủ " Mị là nhân vật chính của câu chuyện. Trước khi về làm dâu nhà thống lí, Mị vốn là một cô gái vùng cao trẻ trung, xinh đẹp, hồn nhiên, có tài" thổi lá cũng hay như thổi sáo, có biết bao nhiêu người mê ", nhưng vì món nợ truyền kiếp, Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Cuộc sống làm dâu của Mị không hề dễ dàng: Bị bóc lột sức lao động, làm việc quần quật suốt ngày đêm; bị chà đạp về quyền sống" không bằng con trâu con ngựa "; và bị hủy diệt về tinh thần" mỗi ngày, Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa ". Nhưng trong con người tưởng như đã chết của Mị vẫn âm ỉ một sức sống tiềm tàng chỉ chờ cơ hội là bùng cháy. Và cơ hội ấy đã đến vào một đêm tình mùa xuân, ngọn gió xuân đã thổi bùng ngọn lửa chưa bao giờ nguội lạnh trong tâm hồn Mị. Đêm tình mùa xuân đến, Mị muốn đi chơi nhưng bị A Sử (chồng Mị) trói đứng vào cột nhà. Còn A Phủ một thanh niên cường tráng, gan góc do đánh A Sử nên đã bị bắt, bị phạt vạ và trở thành kẻ ở trừ nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Không may A Phủ để hổ vồ mất một con bò, A Phủ đã bị đánh, bị trói đứng vào cọc đến gần chết. Cảm thương cho người cùng cảnh ngộ, Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ. Cả hai cùng chạy đến Phiềng Sa và trở thành vợ chồng. Được cán bộ A Châu giáp ngộ cách mạng giúp đỡ, A Phủ tham gia đội du kích cùng bản làng, tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp và tay sai.

    Không phải là đêm tình mùa xuân lãng mạn, lần này, tâm trạng và hành động của Mị được đặt trong bối cảnh những đêm đông lạnh lẽo:

    Đêm đông trên rẻo cao lạnh, dài và buồn nên Mị có thói quen trở dậy đốt lửa, hơ tay, hơ lưng. Mỗi đêm, Mị dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu lần bởi nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị đến chết héo. Từ chỉ thời gian mỗi đêm, không biết bao nhiêu lần: Gợi thói quen lặp đi lặp lại như một bản năng, ăn vào vô thức. Đó là bản năng tìm tới hơi ấm, ánh sáng. Mị chỉ biết, chỉ còn ở với ngọn lửa: Điệp từ" chỉ "diễn tả nét nghĩa tồn tại ít ỏi. Trong văn hóa nhân loại, ngọn lửa thường là vật biểu trưng cho ánh sáng, sự sống. Ở đây, ngọn lửa ngầm ẩn sự hiện hữu tuy tối thiểu nhưng dai dẳng của sức sống trong Mị. Có lần A Sử bắt gặp vàđánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp. Nhưng đêm sau Mị vẫn ra sưởi như đêm trước. Từ vẫn tiếp tục nhấn mạnh niềm khát sống bền bỉ. Hình tượng ngọn lửa là nguồn sáng- nguồn ấm-nguồn sống duy nhất đồng thời tiềm sâu sức sống dai dẳng, bền bỉ, bất chấp của Mị.

    Tâm trạng Mị lúc đầu là trạng thái vô cảm, thản nhiên đến đáng sợ. Sau đêm tình mùa xuân, Mị trở lại với kiếp sống chai sạn, băng giá, tê liệt về cả thể xác lẫn tinh thần. Những gì xảy ra xung quanh, Mị không cần biết, không" thèm biết ":

    Sự vô cảm với nỗi đau của cả người khác và chính mình được thể hiện trong những chi tiết miêu tả thái độ, tâm tư của Mị khi hằng đêm ra sưởi lửa, hơ tay ở bếp lửa gần nơi A Phủ bị nhà thống lí trói bắt đứng ở cây cọc ngoài trời. Có tới mấy đêm, Mị thờ ơ, không đoái hoài đến cảnh một người con trai đang trói, bị đói và rét đang chờ chết ngày bên cạnh mình. Mị cũng ý thức được sự thản nhiên của mình khi" thản nhiên thổi lửa, hơ tay " bên cạnh một người sắp chết, thậm chí cô còn nghĩ rằng" Nếu A Phủ có là cái xác chết đứng đấy thì cũng thế thôi ". Thật ra thì cô không chỉ thờ ơ với nỗi khổ của A Phủ. Bản thân mình bị A Sử đánh ngã xuống cửa bếp, cô còn dửng dưng, không thấy bất bình, chẳng hề sợ hãi, đêm sau, Mị vẫn ra ngồi sưởi như đêm trước. Đắng cay thay cho Mị lòng nhân ái lòng yêu thương con người vốn dĩ là một phẩm chất đã di truyền vào máu thịt của người phụ nữ, nhưng ở đây thì Mị đã bị thần quyền và cường quyền vùi lấp mất rồi, cho nên Mị chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa. Những bếp lửa lớn bao giờ cũng gắn với sinh hoạt cộng đồng và nó biểu thị cho sự hân hoan, cho niềm vui sướng. Còn những ngọn lửa nhỏ bé, le lói thường biểu tượng cho cái kiếp sống lụi tàn.

    Và nếu chúng ta đọc Hai Đứa Trẻ của Thạch Lam, chắc chắn ta sẽ hiểu rõ được hình ảnh của ngọn đèn con chị Tí cứ thế leo lét trong cái bóng tối bủa vây ôm lấy phố huyện. Và ở đây, chúng ta lại bắt gặp một ngọn lửa trên rẻo cao trong đêm mùa đông, ở đây lửa thì cô độc mà Mị thì cô đơn đến héo hắt, cứ thế người và lửa soi vào nhau cô đọc cô đơn trong những ngày dằng dặc của băng giá, hình ảnh Mị vì thế hiện lên càng trở nên đau khổ và cam chịu. Tất cả đã nói lên tình trạng sống câm lặng, chai sạn, giá băng là dấu ấn của sự tê liệt tinh thần ở Mị.

    Thái độ thản nhiên, lạnh lùng đến đáng sợ của Mị phải chăng vì ở cô không có tình đồng loại? Vì sao vậy? Lí giải vấn đề này, ta thấy có ba nguyên nhân. Một là, cảnh người bị trói đến chết không phải là hiếm hoi ở nhà thống lí Pá Tra. Hai là, cuộc sống bao năm làm" con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa "đã tạo cho Mị một cách sống cam chịu, nhẫn nhục. Ba là, Mị đã chịu đựng quá nhiều đau khổ về thể xác lẫn tinh thần nên cô đã trở nên chai lì về cảm xúc, vô cảm trong cả suy nghĩ; khả năng cảm thông, chia sẻ với cảnh ngộ khốn cùng của người khác ở Mị gần như bị tê liệt. Cho dù hiểu thế nào đi chăng nữa thì nó cũng phản ánh tội ác của giai cấp thống trị, thấy được được tình cảnh đáng thương, bất hạnh, đặc biệt là hoàn cảnh để khẳng định sự trỗi dậy mãnh liệt của Mị ở những phần sau.

    Như nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng quan niệm: " Văn học và đời sống là hai vòng trong đồng tâm mà tâm điểm là con người " Và xứ mệnh nhà văn tồn tại ở trên đời có lẽ trước hết là để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cũng đường tuyệt lộ bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường. Xét trên bình diện nhân văn ấy thì đích đến cuối cũng của nghệ thuật là để cứu vớt con người. Có lẽ chính vì vậy, mà ngay trong lúc tưởng như A Phủ sắp phải trở thành hồn ma và tình trạng của Mị tưởng chừng chỉ là sự hiện diện của con người vô tri, thì Tô Hoài đã phả vào đấy tấm lòng sự trân trọng của ông đối với con người bởi không có gì cao quý bằng hai chữ" con người ".

    Giọt nước mắt của A Phủ đúng là một chi tiết nâng tầm Tô Hoài. Theo nhà giáo Đỗ Kim Hồi thì chỗ đáng nể của Tô Hoài chính là ở đấy: " Nhà văn luôn biết tìm ra cái quyết định tất cả từ cái dường như không là cái gì hết cả ". Quả đúng là như vậy, dòng nước mắt của A Phủ đã đánh thức và làm hồi sinh lòng thương người trong Mị bởi chính nhờ ngọn lửa đêm ấy Mị lé mắt trông sang và nhìn thấy" dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen " lại của A Phủ. Một người con trai khỏe mạnh, cường tráng bây giờ hốc hác thê thảm với hai hõm má đã xám đen khi bị trói đứng chết; một người con trai ngang tàng mạnh mẽ bây giờ lại phải lặng lẽ khóc, dòng nước mắt không thể kiềm chế vì quá cay đắng, không thể che giấu vì không tự lau đi được, nước mắt của sự đau đớn vì cái chết đang gặm nhấm A Phủ từ từ, " chết đau, chết đói, chết rét ". Giọt nước mắt ấy không chỉ chảy xuống gò má đã xám đen của A Phủ mà dòng nước mắt ấy còn chảy cả vào trải tim của Mị. Trái tim ấy vốn dĩ đã bị đóng băng trong sự vô cảm, chai sạn nay được dòng nước mắt của A Phủ làm cho tan vỡ cái giá băng, cái lạnh lùng. Giọt nước mắt ấy đã thấm sâu vào đáy trái tim Mị thức dậy lòng nhân ái. Cho nên giọt nước mắt lấp lánh ấy chính là giọt nước mắt cuối cũng của A Phủ, nó cũng chính là giọt nước mắt làm tràn ly và đưa Mị về cõi quên, trở về cõi nhớ, và trải tim Mị quặn đau khi trông người lại ngẫm đến mình. Mị nhớ cái kí ức hãi hùng của Mị vào đêm tình mùa xuân năm trước, cũng bị A Sử trói đứng thế kia " tóc Mị xõa xuống hẵn cuốn luôn tóc lên cột ", " nhiều lần khóc nước mắt, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được " . Đây chính là lúc mà Mị đã hồi sinh được hoàn toàn, được đánh thức không chỉ ở cảm xúc mà còn được đánh thức bởi lí trí, cảm nhận cái nỗi đau của động loại bằng chính nỗi đau của mình.

    Tô Hoài đã khéo léo dùng cách trần thuật nửa trực tiếp để cho người đọc thấy rõ cảm xúc của Mị:" Trời ơi nó bắt trói đứng người ta đến chết ". Dạng thức cảm thán đã cho thấy Mị không còn thờ ơ, vô cảm với đồng loại mà trong tâm hồn cô đã dấy lên một tình thương yêu mãnh liệt. Tâm lí này cho thấy phẩm chất nhân hậu tiềm ẩn trong tâm hồn người phụ nữ cùng khổ.

    Hình dung ra cái chết của mình nếu tiếp tục bị trói như thế; nhớ tới cái chết của người đàn bà ngày trước ở nhà thống lí; nghĩ đến cái chết của A Phủ sắp tới – Mị bất chợt nhận ra tất cả những cái chết ấy đều có nguyên nhân từ sự tàn bạo của cha con thống lí Pá Tra. Mị đã nhận ra bản chất độc ác, vô nhân đạo của kẻ thù, lòng thương thân thức dậy tình người, lòng nhân hậu dẫn đến sự căm hờn, phẫn uất: Chúng nó thật độc ác! Từ chỗ cúi đầu chấp nhận tất cả những đau đớn đọa đày ở nhà thống lí đến chỗ cảm nhận được điều này là một bước tiến lớn trong nhận thức và tình cảm của nhân vật. Mị đã thể hiện thái độ phản kháng, không còn chấp nhận sự áp chế của thần quyền và cường quyền nữa.

    Mị nhận thấy sự khác biệt giữa mình và A Phủ . Với bản thân mình, Mị có vẻ như đã cam chịu:" Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây ", nhưng trong lòng Mị lại phảng phất nghĩ về sự vô lí trong cái chết của A Phủ: người kia việc gì phải chết thế. Sau bao nhiều năm tháng sống trong sự thờ ơ, vô cảm thì chắc hẳn đây là ý nghĩ đầu tiên Mị dành cho người khác. Xúc cảm của trái tim nhân hậu vị tha tiếp tục đậm nét hơn khi Mị nhận ra tình cảnh của A Phủ: chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết rét, phải chết.. Nhưng từ " chết " xuất hiện liên tiếp tới 9 lần trong tâm chí Mị cũng là một biểu hiện rõ nhất của niềm ham sống một lần nữa đã trở lại với Mị. Nghĩ tới việc nếu A Phủ trốn thoát, Mị phải chết thay, Mị cũng không thấy sợ. Như vậy, nguyên nhân khiến Mị cởi trói cho A Phủ không phải vì sợ liên lụy mà là do sự thức đẩy của cảm giác bất bình, phẫn uất, thương người, sự đồng cảm với người cũng cảnh ngộ. Dẫu vậy, khi rút dao cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị vẫn như đang làm theo sự mách bảo của tiềm thức mơ hồ tồn tại trong một tấm lòng nhân hậu chưa hoàn toàn bị phá hủy, vì thế nên khi gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hoảng hốt, có lẽ lúc ấy, lí trí của Mị mới chợt nhận ra tiền thức đã xui khiến cô làm một việc thật ghê gớm!

    Giải thoát cho A Phủ, Mị cũng đồng thời thoát ra khỏi trạng thái vô cảm, lặng lẽ, trái tim nhân hậu hồi sinh thì đồng thời khát vọng sống cũng hồi sinh. Có lẽ, sau giây phút đứng lặng trong bóng tối, nhìn A Phủ lao vụt đi, hình ảnh một con người trên bờ vực của cái chết đang mạnh mẽ thoát ra khỏi chốn địa ngục trần gian, tìm cho mình sự sống khiến Mị đột ngột hiểu điều mình cần làm ngày bây giờ, ngay lập tức, đó là tự giải thoát mình khỏi ách thông trị, đày ải, trói buộc tàn bạo của cường quyền và thần quyền trong suốt thời gian qua. Hành động này Mị không có kế hoạch không tình sẵn mà nó đến một cách bất ngờ và được tiếp sức bởi hành động của A Phủ khi quật sức vùng lên chạy. Chính hành động của A Phủ giống như một ngọn gió sức mạnh để thổi bùng lên khát vọng sống của Mị," Mị vụt chạy ra trời tối lắm, nhưng Mị vẫn đuổi kịp A Phủ "chạy, đã lăn, chạy, chạy". Ở đoạn văn này tác giả đã sử dụng một loạt các động từ mạnh để diễn tả cái tốc độ rất nhanh của Mị, Mị ra sức chạy thoát chạy trốn khỏi nhà thống lí Pá Tra nơi địa ngục trần gian để tìm thấy tự do. Đây chính là hành động của niềm khao khát sống rất mãnh liệt, niềm khao khát ấy được thể hiện ra rất rõ qua lời nói của Mị. Có thể nói đây là một hạnh động tất yếu của Mị, tự giải thoát khỏi những gông xiềng và cường quyền bạo lực, đó cũng là con đường duy nhất để tự cứu người cứu mình.

    Với việc tạo tình hình huống truyện độc đáo, hấp dẫn, lôi cuốn, cách miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tài tình hợp lí cũng với ngôn ngữ hình ảnh đậm chất miền núi giàu chất thơ, Tô Hoài đã tạo nên sự thay đổi số phận nhân vật một cách thuyết phục khiến độc giả không nào quên được.

    Còn gì đẹp hơn khi nhà văn viết về cuộc sống để ca ngợi con người? Văn học luôn lấy con người làm đối tượng phản anh ra và mỗi giải đoạn, ta lại thấy những nhân vật điển hình. Nhìn lại chặng đường của nền văn học Việt Nam, ta bắt gặp hình tượng Chí Phèo vừa đi vừa chửi "ngật ngưỡng bước ra từ trang sách" của Nam Cao, điển hình cho nỗi thống khổ của người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Ta xót thương cho thân phận bị cái đói cái nghèo thì sát đất của người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" – Nguyễn Minh Châu, tiêu biểu cho người lao động miền biển. Ta day dứt trước số phận của Mị trong thân phận "nàng dâu gạt nợ" nhà thống lí Pá Tra qua ngòi bút tài hoa của nhà văn Tô Hoài, là đại diện cho người lao động nghèo miền núi từ trong đau thương đã nhận thức, đấu tranh tự đứng lên giải phóng chính mình.

    Nội dung HOT bị ẩn:
    Bạn cần đăng nhập & nhấn Thích để xem
    "Nghệ thuật nằm ngoài quy luật của sự băng hoại, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết" (Schedrin). Để làm được điều đó, nghệ thuật phải hướng đến con người với một tinh thần nhân đạo sâu sắc. Và như thế, tôi tin rằng "Vợ chồng A Phủ" là một tuyệt tác trường tồn. Áng văn ấy, cùng tên tuổi nhà văn Tô Hoài – một nhà văn, nhà nhân đạo chủ nghĩa sẽ còn sống mãi, ghi một dấu ấn không phải trong nền văn học nước nhà.

    "Ta bây giờ như chồi non mọc lại

    Rón rén xanh, khe khẽ tự vươn mình

    Đã bao lần tưởng úa tàn hoang dại

    Nhưng rồi lại cựa quậy đón bình minh."
     
    Last edited by a moderator: 22 Tháng tư 2024
  2. Đăng ký Binance
Trả lời qua Facebook
Đang tải...