Welcome! You have been invited by Pn227 to join our community. Please click here to register.
1 người đang xem
Bài viết: 6269 Tìm chủ đề
1037 14
Phân tích các quan điểm chính trị - pháp lý cơ bản của Thomas Jeffrrson (1743-1826). Tại sao có thể coi ông là nhà tư tưởng và nhà hoạt động chính trị xuất sắc ở Mỹ trong thế kỷ XVIII – XIX.

Học phần: Lịch sử học thuyết chính trị pháp lý
Các quan điểm chính trị - pháp lý cơ bản của Thomas Jeffrrson (1743-1826) :

- Ông đề cao tư tưởng chủ quyền nhân dân, nhân quyền, tự do, dân chủ, độc lập tự do và độc lập dân tộc của Mỹ:

+ Khi làm luật sư bào chữa cho các vụ án dân sự ông thường nói đến "luật của tạo hóa" hay "luật tự nhiên", theo đó mọi người sinh ra phải được tự do. Luật này phải cao hơn luật của người đời và do vậy "tất cả mọi người sinh ra đều tự do", đều có quyền "tự do tự nhiên", "tự do cá nhân".

Từ đó, ông kiên quyết đấu tranh chống chế độ nô lệ, đòi xóa bỏ chế độ này.

+ Khi trở thành thành viên của Viện Lập pháp Virginia, ông cùng các bạn đồng chí hướng đã thông qua những quyết nghị chống lại ách chuyên quyền và độc đoán của Vua Anh với các thuộc địa ở Mỹ:

+ Ông phản đối việc "đánh thuế mà không tham khảo ý kiến dân", việc gửi dân thuộc địa bị buộc tội "phản bội" sang nước Anh để xét xử;

+ Ông đề xướng việc sử dụng các biện pháp cứng rắn (tẩy chay hàng hóa Anh) để buộc Anh phải huỷ bỏ luật thuế bất công;

+ Ông kêu gọi 13 thuộc địa liên kết và thống nhất hành động để đối phó với sự bất công của nước Anh.

+ Ông luôn đi tiên phong trong cuộc đấu tranh vì nhân quyền, độc lập tự do và độc lập dân tộc ở Mỹ.

- Với tư tưởng "phải tạo ra một sự thống nhất trong hành động" của 13 bang thuộc địa để chống lại thực dân Anh, Jefferson và một số người khác đã thuyết phục Viện lập pháp của mình chấp nhận ý kiến thành lập một Uỷ ban liên lạc ở mỗi thuộc địa, họ xúc tiến việc triệu tập một Đại hội Liên thuộc địa.

- Jefferson soạn bản dự thảo "chỉ thị" của Đại hội mà ông hy vọng sẽ được thông qua, trong đó trình bày phần lớn các tư tưởng cách mạng tiến bộ của ông.

- Từ tư tưởng về "những quyền tự do mà tạo hóa đã ban cho mọi người", ông khẳng định rằng mọi dân tộc đều có quyền rời xứ sở, nơi chôn rau cắt rốn của họ và thiết lập một NN mới, XH mới với luật lệ riêng của họ, hoàn toàn không lệ thuộc vào quê hương họ. Đó là trường hợp của những người đã xây dựng 13 thuộc địa.

+ Ông phủ nhận mọi quyền hành của Quốc hội Anh tại các thuộc địa Mỹ, cho rằng Nghị viện Anh không có quyền lập ra luật để thi hành tại Mỹ, vì đó là 2 quốc gia khác nhau. Trước nay họ tự ý chọn vua Anh là lãnh đạo và nếu giờ đây họ có thoát ly khỏi nước Anh thì cũng là quyền tự nhiên.

- Khi xem xét về quyền lực của nhà vua, ông khẳng định: "Nhà vua chính là ông quan chính của nhân dân, được bổ nhiệm bởi luật pháp và có thẩm quyền nhất định để giúp làm chuyển động bộ máy nhà nước khổng lồ tồn tại vì hạnh phúc của nhân dân, bởi vậy, vua được đặt dưới sự kiểm tra của nhân dân. Các ông vua là các đầy tớ chứ không phải là ông chủ của nhân dân".

- Dựa vào quan điểm nguồn gốc khế ước của nhà nước, Jefferson cho rằng quyền lực nhà nước xuất phát từ quyền lực nhân dân. Không một ai có thể bị tước quyền tham gia vào thành lập chính quyền nhà nước và kiểm tra nó.

Nếu chính quyền chà đạp các quyền của nhân dân thì nhân dân có thể thay đổi chính phủ bằng chính phủ khác đáp ứng được những lợi ích của nhân dân Jefferson đã khẳng định tư tưởng chủ quyền nhân dân và thừa nhận quyền nhân dân nổi dậy chống lại bạo chúa.

- Jefferson lên án gay gắt chế độ nô lệ, ông đã đề nghị một dự án luật cho phép những người chủ có thể trả tự do cho những nô lệ nếu họ muốn. Trong dự luật này, ông đổ lỗi cho nước Anh đã mang chế độ nô lệ sang thuộc địa và nay thuộc địa muốn bãi bỏ nhưng lại bị Nghị viện và Nội các của Nhà Vua chống lại để bảo vệ quyền lợi kinh tế của một số nhà buôn nô lệ người Anh. Quyền tự do của thuộc địa đã bị xâm phạm nghiêm trọng bởi những hành vi của Vua và Nghị viện Anh. Ông phê phán sự lạm dụng quyền lực của Vua và Nghị viện Anh.

- Bản dự thảo không được Viện lập pháp tán thành, ông đã cho in bản dự thảo này dưới tựa đề "Khái quát chung về các quyền của thuộc địa Anh tại Mỹ" ngay tại Philadelphia nên hầu hết các đại biểu của Đại hội Liên thuộc địa đều đọc làm cho nó trở thành tài liệu không chính thức của Đại hội.

- Sau đó, tác phẩm này còn được tái bản nhiều lần và được phổ biến rộng rãi không chỉ ở khắp các thuộc địa ở Mỹ mà còn cả ở chính quốc. Qua tác phẩm này, Jefferson đã gióng lên một tiếng chuông cảnh tỉnh với toàn dân Mỹ về ý thức đòi quyền tự do, dân chủ, bình đẳng và độc lập của họ. Đồng thời còn lôi kéo được nhiều người Anh ở chính quốc ủng hộ cho quyền lợi chân chính của các thuộc địa Mỹ.

- Những tư tưởng này được tái hiện lại trong "Tuyên ngôn độc lập" 4/7/1776 do một uỷ ban gồm 5 người được Đại hội Liên thuộc địa bầu ra mà Jefferson là Chủ tịch và là tác giả chính, là người viết toàn văn.

- Trong Tuyên ngôn này, bình đẳng, tự do và quyền khởi nghĩa được thừa nhận là những quyền tự nhiên, không thể bị tước đoạt của nhân dân. Ông viết: "Mọi thứ trên thế giới đều thay đổi ngoài những quyền tự nhiên của con người". Các quyền tự nhiên cao hơn các đạo luật do chính quyền nhà nước ban hành.

- Ở phần đầu của Tuyên ngôn, Jefferson gợi lên những nguyên tắc về chính quyền.

Ông viết: "Chúng tôi cho rằng những chân lý sau đây là những sự thật hiển nhiên: Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ các quyền không ai có thể tước đoạt được. Trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Chính để bảo đảm các quyền này mà các chính quyền đã được thiết lập giữa con người và các quyền lực chính đáng được trao cho chính quyền do sự ưng thuận của những người được cai trị. Khi một hình thức chính quyền nào đó có khuynh hướng phá đổ các mục tiêu này, nhân dân có quyền và nhiệm vụ thay đổi hình thức đó hay phế bỏ và thiết lập một chính quyền mới theo các nguyên tắc và bằng cách tổ chức các quyền hành theo những hình thức thấy là thích hợp nhất để đảm bảo an ninh và hạnh phúc của nhân dân"

Jefferson phủ nhận quan điểm NN có mọi quyền vì Tuyên ngôn đã trịnh trọng tuyên bố có sự hiện hữu của các quyền không thể tước đoạt và để đảm bảo cho các quyền đó thì phải thành lập NN. Đây là điểm kế thừa Locke song khác Locke, ông coi "quyền sở hữu" là quyền công dân do PL quy định, không phải là quyền tự nhiên nên ông thay từ "quyền sở hữu" bằng "quyền mưu cầu hạnh phúc".

Đối với tư tưởng chính trị chính thống thì đây là quan điểm hoàn toàn mới. Tuyên ngôn là văn bản NN đầu tiên tuyên bố chủ quyền ND là cơ sở đời sống NN, qua đó thừa nhận quyền khởi nghĩa của ND, quyền thay đổi hoặc tiêu diệt một hình thức NN nào đó để thiết lập một hình thức NN có lợi cho họ. NN được thành lập để đảm bảo các quyền không thể chuyển nhượng, không thể tước bỏ của ND nên nhiệm vụ đầu tiên của NN, của quốc gia và các tổ chức chính trị là phải bảo đảm tự do và hạnh phúc cho mọi người. Vì thế, nếu chính quyền NN lạm quyền hoặc theo đuổi mục đích áp bức con người bằng nền chuyên chế độc tài thì không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ tự nhiên của ND là phải lật đổ chính quyền NN đó.

Ở phần 2 của Tuyên ngôn, Jefferson kê khai những hành động bất công của Vua Anh đối với nhân dân Mỹ nhằm lên án những hành động này đồng thời biện minh cho cách mạng Mỹ. Ông cho rằng Nghị viện Anh không có quyền bính hợp pháp nào trên đất Mỹ.

Trong phần cuối, Tuyên ngôn long trọng tuyên bố: "Các thuộc địa thống nhất này, là và phải là những quốc gia tự do và độc lập, được giải thoát khỏi mọi ràng buộc với Nhà Vua Anh và tất cả mọi liên lạc chính trị giữa các thuộc địa với quốc gia Anh phải được cắt đứt hoàn toàn.

Và rằng: Với tính cách là những quốc gia tự do và độc lập, các thuộc địa được toàn quyền lâm chiến, ký kết hòa bình, ký kết các hiệp ước, thiết lập quan hệ thương mại và thực hiện mọi hành động thuộc thẩm quyền chính đáng của các quốc gia độc lập"

Jefferson nhiều lần nhấn mạnh rằng muốn thiết lập các quan hệ quốc tế với các nước khác, các thuộc địa phải trở thành các quốc gia độc lập có chủ quyền, mà muốn vậy thì không có cách nào khác là họ phải đoàn kết thống nhất với nhau và cùng chiến đấu chống lại nước Anh nhằm chấm dứt hoàn toàn ách thống trị của nước này.

Trong dự thảo Tuyên ngôn có đoạn được Jefferson lấy hết tâm trí và nhiệt tình để viết nhưng không được chấp thuận, đó là đoạn lên án chế độ nô lệ, cho rằng nó trái với quyền TN và đề nghị xóa bỏ CĐ đó ở tất cả các thuộc địa.

Không chỉ viết ra và tuyên truyền cho ý tưởng của mình, Jefferson còn tích cực hoạt động để nhằm từng bước biến những lời tuyên ngôn đó thành hiện thực.

Sau ngày tuyên bố độc lập, mặc dù được tái cử vào khóa sau của Đại hội Liên thuộc địa song Jefferson từ chối và trở về Viện lập pháp Virginia để cố gắng làm cho luật lệ của Tiểu bang ông phù hợp với những lý tưởng cao xa mà ông đã công bố cho toàn quốc.

Ông nói luật lệ ở Virginia là luật lệ của nước Anh, một số lớn quá hủ lậu và không phù hợp nên ông muốn thay đổi và cải cách những luật lệ đó; ông muốn xây dựng một chế độ mới theo giai cấp quý tộc cũ cũng như mới và đặt nền tảng cho một nhà nước thực sự cộng hòa, không còn đặc quyền nữa.

Jefferson tham gia vào cơ quan lập pháp Virginia lần này với quyết định lãnh đạo một chương trình cải cách mạnh bạo. Ông đề nghị với cơ quan lập pháp hết dự luật nọ tới dự luật kia, có cái được chấp thuận song cũng có cái bị bãi bỏ. Điều này chứng tỏ Jefferson đã hiểu rõ tầm quan trọng của PL trong quản lý và cải cách xã hội, ông đề cao vai trò của pháp luật.

Trước tiên là dự luật về đất đai. Số là đất đai của các gia đình ở Virginia được giữ nguyên vẹn từ đời này sang đời khác vì hai đạo luật của Anh: Luật cấm chia cắt đất đai và luật để hết đất cát cho trưởng nam. Vì thế, đất đai và nô lệ không bao giờ được phân chia hoặc bán mà phải tồn tại đời đời trong gia đình đầu tiên và được truyền từ con trai cả này sang con trai cả khác.

Jefferson nhận thấy tính chất bất công của chế độ này và cho rằng sự bình đẳng trong xã hội sẽ không thể thực hiện được nếu còn tồn tại nó. Ông đề nghị một dự luật bãi bỏ các luật lệ xưa, cho phép bán đất đai, hoặc phân chia cho bà con hay gia đình, người khác tuỳ ý. Dự luật này đã được thông qua.

Tiếp đó, Jefferson hướng vào việc phát triển giáo dục. Theo ông, chế độ dân chủ không thể phát triển được nếu không có một nền giáo dục phổ cập. NN và XH không thể phát triển được nếu chỉ có con nhà giàu được đi học. Vì vậy, ông đề nghị một dự luật thành lập trường tiểu học trong khắp tiểu bang. Mọi khoản chi phí cho các trường này sẽ do công quỹ tài trợ để giáo dục tất cả các trẻ em nam cũng như nữ.

Tiểu bang cũng sẽ xây dựng và quản lý một số trường trung học để trẻ em thông minh và hiếu học có thể tiếp tục học. Đại học Đường William và Mary (Trường Đại học ở thủ đô Virginia) sẽ được hoàn toàn cải tổ và mở rộng thêm để các chàng trai trẻ thông minh nhất của các trường trung học sẽ được gửi đến hoàn tất học vấn mà không mất tiền.

Dự luật này không được chấp thuận. Song 20 năm sau (vào năm 1796), Virginia đã thông qua một đạo luật cho phép mở trường tiểu học công.

Kiên trì với ý tưởng mong muốn xóa bỏ chế độ nô lệ để thiết lập một chế độ tự do dân chủ thực sự, Jefferson đã đề nghị một dự luật nhằm kìm hãm sự bành trướng của chế độ nô lệ bằng cách cấm mọi sự nhập cảng nô lệ. Ông biết nếu đòi xóa bỏ hoàn toàn chế độ nô lệ lúc này là chưa thể được nên ông phải lùi một bước là hạn chế sự tiếp tục phát triển của nó và quả nhiên dự luật đã được thông qua.

Cải cách quan trọng nhất mà Jefferson thực hiện được thời đó và làm ông tự hào nhất là đạo luật thừa nhận quyền tự do tín ngưỡng. Ông cho rằng nhân dân chỉ có thể hưởng tự do thực sự và sống đời sống dân chủ khi giáo hội và NN tách rời nhau.

Khi giáo hội và NN không tách rời nhau thì độc tài và chuyên chế là điều không thể tránh khỏi, "trong mọi quốc gia và vào mọi thời đại", giáo hội bao giờ cũng "có ác cảm với tự do", "cũng liên minh với độc tài chuyên chế", và "dân quyền của ta không lệ thuộc tư tưởng tôn giáo"..

Ông cho rằng những người chủ trương dị giáo có quyền có tín ngưỡng riêng của họ và quyền đó phải được tôn trọng. Ông chủ trương không ai bị bắt buộc phải theo một tôn giáo nào và NN không có quyền can thiệp trong các vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng.

Jefferson đòi quyền tự do tín ngưỡng hoàn toàn, ông thề rằng: "Tôi đã thề trước bàn thờ Chúa sẽ mãi mãi chống đối mọi hình thức áp bức trí óc con người".

Dự luật này đã bị phản đối dữ dội nhưng rồi cuối cùng cũng được thông qua, song mãi 10 năm sau nó mới được đưa ra thi hành Nhờ có Jefferson, lần đầu tiên trong lịch sử, quyền tự do tín ngưỡng, tự do được tin tưởng và thờ phụng theo lương tâm đã được ghi nhận trong luật, được coi là một quyền tự do tự nhiên và NN không bao giờ được can thiệp vào.

Jefferson rất tự hào về điều này, coi đó là một trong ba điều có giá trị nhất trong đời ông, đó là: Tác giả của bản Tuyên ngôn độc lập, tác giả của Quy chế Virginia về tự do tín ngưỡng và cha đẻ Viện Đại học Virginia

Thông qua việc thực hiện những cải cách của mình, Jefferson đã đặt nền tảng cho chế độ dân chủ trước tiên là ở Virginia và sau đó là trên toàn nước Mỹ.

Trong những năm 1783-1784, khi được bầu làm đại biểu Virginia tại Quốc hội Mỹ, ông đã soạn thảo nhiều văn kiện mà sau này trở thành nền tảng vững chắc cho việc thống nhất, mở rộng lãnh thổ cũng như xây dựng nền dân chủ Mỹ, đó là:

Lập ra hệ thống tiền tệ chung cho 13 tiểu bang, tức là đồng đô la Mỹ hiện nay.

Thảo ra chương trình để cai quản vùng lãnh thổ Tây Bắc mà hiện tại chưa thuộc bang nào. Nhờ chương trình này mà lãnh thổ Mỹ đã mở rộng hơn rất nhiều. Jefferson đề nghị là các lãnh thổ đó muốn gia nhập Liên bang thì phải có chế độ cộng hòa hoặc dân chủ, người thừa hưởng chức tước quý tộc không có quyền công dân và sau 1800, chế độ nô lệ bị bãi bỏ hoàn toàn.

Những đề nghị của ông đã được Quốc hội chấp thuận trừ hai điều khoản nói về chức tước thừa kế và loại bỏ chế độ nô lệ. Điều đó làm ông vô cùng thất vọng. Song 3 năm sau, các điều khoản này được đặt lại trong Quy chế lãnh thổ Tây Bắc và 65 năm sau, Tổng thống Abraham Lincoln đã dựa vào đó để nêu lên và thực hiện được chương trình chống chế độ nô lệ của mình.

Khi Hiến pháp năm 1787 được thông qua, ông vô cùng tức giận và chỉ trích Hiến pháp vì không có điều khoản nào nói đến "quyền công dân", bảo đảm công bằng và tự do cho người dân. Ông cho rằng dù có một chính phủ tốt đến đâu đi nữa thì người công dân vẫn cần được che chở khi chống đối chính phủ.

Công dân chỉ có thể bị bắt giam khi có trát của tòa. Một người công dân phải được quyền tự do nói và viết (tự do ngôn luận), tự do tụ họp với các công dân khác (tự do hội họp, lập hội) và gửi đơn đề nghị lên Chính phủ khi nào muốn. Công dân phải có quyền tự do tín ngưỡng, có quyền vũ trang bảo vệ gia đình họ, bảo đảm không một người lính nào được chiếm đóng nhà cửa tư nhân trong thời bình và không một công dân nào, nhà cửa hoặc tài sản của họ có thể bị lục soát hoặc tịch thu nếu không có lệnh của Tòa án.. Jefferson khẳng định ND phải được hưởng tất cả các quyền và các bảo đảm đó mà không một chính phủ chân chính nào có thể chối từ.

Ông viết rất nhiều thư cho các bạn bè và các học trò của ông yêu cầu phải đấu tranh cho những điều này và nhờ họ, tất cả những yêu cầu trên của Jefferson đã trở thành những điều được bổ sung trong Hiến pháp Mỹ

Jefferson góp phần tích cực vào việc thể chế hóa tư tưởng về quyền con người, quyền tự do dân chủ của công dân trong pháp luật ở Mỹ.

Jefferson không chỉ có tài trình bày, phổ biến tư tưởng của mình, hoạt động quên mình để thực hiện lý tưởng mà còn đấu tranh không khoan nhượng với phe phái đối địch để bảo vệ những lý tưởng đó.

Hiến pháp năm 1787 vốn là sự hòa giải giữa các xu hướng khác nhau, những quy định của nó lại mang tính khái quát cao nên có thể được hiểu và áp dụng theo nhiều cách khác nhau.

Vì thế, ở những năm đầu của NN Liên bang, trong những người nắm chính quyền đã có hai cách hiểu và áp dụng Hiến pháp khác nhau nên đã tạo ra hai phe đối địch nhau vô cùng gay gắt.

Một phái chủ trương xây dựng một NN Liên bang mạnh với quyền lực tập trung nên gọi là phe Liên bang. Phe này gồm những đại diện điển hình là George Washington, Alexander Hamilton, John Adams. Họ đại diện cho giai cấp quý tộc, những người giàu sang và được ưu đãi.

Phái kia chống mọi mưu toan chủ trương phục hồi chế độ quân chủ, họ muốn Hoa Kỳ là một quốc gia cộng hòa thực thụ, vì vậy được gọi là phái Cộng hòa, gồm đại diện chính là Jefferson, James Madison, James Monroe

Phái Liên bang chủ trương phải có một Chính phủ Liên bang mạnh vì quốc gia phải có 1 quyền hành pháp mạnh và xã hội đòi hỏi phải có một chính phủ có đủ khả năng và quyền hành để củng cố trật tự trong nước, vì thế, chỉ chính thể quân chủ mới là thể chế cai trị có hiệu quả Phái này muốn có một ông Vua hoặc một ông Tổng thống do dân bầu lên cầm quyền suốt đời, họ muốn có một NN Liên bang với những quyền hạn rộng lớn, muốn hạn chế quyền bầu cử, cho rằng quyền bầu cử và quyền ứng cử không phải là các "quyền tự nhiên" của con người. Do vậy, để có thể là cử tri cần phải có một tài sản tối thiểu nào đó, hoặc để có thể được bầu phải làm chủ một bất động sản.

Nhiệm vụ điều khiển công việc NN phải được giao phó cho những người có tài sản, địa vị và học thức, tức là những người quý tộc; chính phủ phải gồm toàn những người giàu có và càng có ít người tham gia vào chính phủ càng tốt; Thượng nghị sỹ phải được hưởng chức vụ suốt đời và phải được chọn trong hàng giàu sang quý phái.

Họ phê phán chế độ dân chủ, Hamilton tuyên bố rằng chủ nghĩa dân chủ là một liều thuốc độc cực mạnh nên chế độ dân chủ không phù hợp.

John Jay thì cho rằng dân chủ chỉ đem lại một chính phủ bất lực.

John Adams thì viết "Nên nhớ rằng chế độ dân chủ không bao giờ tồn tại lâu dài. Nó sẽ sớm suy yếu, hao mòn và sẽ tự huỷ mất".

Ông ta còn cho rằng những người tuyên truyền cho "tự do bình đẳng, bác ái và nhân quyền" đều là người ti tiện và có thể bỏ tiền ra thuê để làm việc đó.

Phái Cộng hòa của Jefferson thì tin tưởng ở chế độ dân chủ và đem hết sức để đấu tranh cho sự thành công của nó. Họ phê phán việc hạn chế quyền bầu cử; phản đối việc không quy định các quyền tự do của công dân trong Hiến pháp và phản đối điều khoản để các Tổng thống có thể được tái cử mãi mãi, không hạn định số nhiệm kỳ.

Họ cho rằng các Tổng thống chỉ nên giữ 1 hoặc nhiều nhất là 2 nhiệm kỳ và cũng là một công dân như mọi công dân khác, chỉ khác về chức vụ mà thôi. Họ chống mọi đặc quyền, mọi chức tước của giới quý tộc.

Xã hội lý tưởng của phái Cộng hòa là một xã hội dân chủ gồm những nông dân, tiểu địa chủ trực tiếp canh tác đất đai của mình. Có thể thấy đó là hình thức cộng hòa dân chủ nông dân, trong đó ND sẽ tham gia thông qua các đại diện của mình vào việc điều hành NN. Mọi quan chức phải được bầu với nhiệm kỳ hạn chế và bị ND kiểm tra. Mọi quyền tự do cá nhân sẽ được bảo vệ một cách hữu hiệu trong phạm vi các tiểu bang.

Jefferson cho rằng Hoa kỳ có thể có một tương lai tốt đẹp nếu nó luôn là một nước nông nghiệp. Ông có ác cảm với các thành phố lớn vì chúng chỉ làm nảy sinh sự bất bình đẳng. Theo ông, chính quyền tốt nhất là chính quyền cai trị ít nhất.

Ông căm thù các chính phủ thối nát, tham lam và độc tài. Ông nhấn mạnh quyền của dân phải được bảo vệ khỏi sự lấn át của chính quyền.

Jefferson không đề nghị thủ tiêu chế độ tư bản, nhưng khao khát hạn chế những bất hạnh mà CNTB gây ra cho người lao động bằng con đường củng cố nền kinh tế trang trại nhỏ trước nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa, giải phóng kinh tế nhỏ khỏi các loại thuế..

Ông phê phán các quan điểm của Montesquieu về sự ưu việt của hình thức NN quân chủ, về bản chất của nền cộng hòa là có lãnh thổ nhỏ; ông coi đó là những sai lầm của Montesquieu và chứng minh rằng ở những nước có lãnh thổ rộng như Mỹ, Pháp vẫn thúc đẩy sự phát triển nền cộng hòa.

Chống lại việc tập trung quyền hành vào tay NN Liên bang, vẫn trên cơ sở chủ quyền nhân dân, Jefferson khẳng định rằng NN Liên bang là do các tiểu bang lập ra, là một công cụ của các tiểu bang và mọi hành động của NN Liên bang phải chịu sự tài phán của các tiểu bang. Nếu NN Liên bang vượt quá quyền hạn của mình, các tiểu bang có thể nổi loạn và tách ra khỏi Hợp chủng quốc.

Jefferson đề cao tinh thần pháp quyền, đặc biệt là tinh thần tôn trọng Hiến pháp, cả trong suy nghĩ lẫn hành động của ông. Khi là Phó Tổng thống, ông đã đấu tranh để xóa bỏ các đạo luật vi hiến như luật cho phép trục xuất mọi người ngoại quốc có lập trường trái ý nhà cầm quyền, luật cấm tự do ngôn luận, báo chí.

Ông lãnh đạo thông qua nhiều đạo luật mà hiện đang còn hiệu lực. Khi trở thành Tổng thống, ông đã ân xá và viết thư riêng để xin lỗi những người là nạn nhân của hai đạo luật nói trên vì cho rằng đó là hai đạo luật hành hạ dân chúng.

Ông đã cảm thấy bị cắn rứt lương tâm khi ký Hiệp ước mua bang Louisianna của Napoleon với giá vô cùng rẻ mạt để mở rộng gấp đôi nước Mỹ chỉ vì trong Hiến pháp không quy định quyền đó cho Tổng thống. Chỉ đến khi được Quốc hội phê chuẩn hiệp ước đó ông mới thanh thản trở lại vì mình đã không vi phạm Hiến pháp. Ông công kích đạo luật về quốc tịch buộc một người nhập cư phải ở trên đất Mỹ 14 năm mới được nhập tịch Mỹ.

Ông nói: "Những người bị áp bức sẽ không còn tìm được chỗ trú ngụ trên trái đất này hay sao?".

Jefferson còn là người luôn luôn đề cao tinh thần đoàn kết và hòa hợp dân tộc. Trong diễn văn nhận chức Tổng thống, ông đã kêu gọi chấm dứt cuộc "đối chọi quan điểm" giữa hai phái vì ông cho rằng: "Tất cả chúng ta đều muốn có chế độ cộng hòa và tất cả chúng ta đều muốn có một Liên bang". Ông kêu gọi tình đoàn kết quốc gia và tình thân hữu, kêu gọi "lẽ phải" và tôn trọng thiểu số. Ông nói: "Đồng bào chúng ta hãy đoàn kết một lòng và một ý. Hãy phục hồi hòa khí và tình thương trong liên hệ xã hội vì nếu không có tự do thì ngay cả cuộc sống chỉ là những sự buồn chán".

Ông khẳng định rằng tôn chỉ của tự do đã hướng dẫn quốc gia đến giờ này phải được coi là thiêng liêng vì "nhờ sáng suốt của thánh hiền và nhờ máu của các bậc anh hùng chúng ta mới đạt được tự do ngày nay". Ông cam kết với nhân dân là ông chống sự hà khắc và bất công, ông sẽ xóa bỏ những thuế má bất công mà đã bị nhân dân phản đối. Trong thời gian làm Tổng thống, ông còn xóa bỏ cả những nghi lễ có tính chất phong kiến và quý tộc mà các Tổng thống tiền nhiệm đã tạo ra và thay vào đó là những nghi thức giản dị và mang tính dân chủ.

Tóm lại, Jefferson vừa là một nhà tư tưởng vĩ đại, vừa là một nhà hoạt động cách mạng tích cực và một nhà hoạt động chính trị lỗi lạc của nước Mỹ. Công lao của ông đối với nước Mỹ được đánh giá khá cao. Chẳng hạn, Vincent Sheean đã viết: "Khó biết được rõ dân tộc Mỹ mang ơn Jefferson những gì. Ông đã viết bản Tuyên ngôn độc lập, những tu chánh án về quyền tự do công dân, vạch đường lối dân chủ cho lịch sử Mỹ, lập ra những nguyên tắc tự do bình đẳng, tạo ra đồng mỹ kim, thực hiện tự do tín ngưỡng, đưa ra phóng thích những dân nô lệ, mở rộng lãnh thổ của nước Mỹ và khám phá miền Tây Mỹ. Không có thể nói rằng một người Mỹ nào khác, kể cả Abraham Lincon đã phụng sự quốc dân Mỹ nhiều hơn là Jefferson"

Tổng thống Abraham Lincon – người đã tiếp tục công việc bỏ dở của Jefferson và đã xóa bỏ được chế độ nô lệ ở Mỹ – cũng tuyên bố: "Nếu chúng ta muốn biết Thomas Jefferson là một vĩ nhân cao xa như thế nào thì có thể thấy bằng chứng ở lòng tin tưởng của mọi chính trị gia thuộc đủ các đảng phái đối với những lý thuyết của ông. Ngày nay, tất cả các chính đảng trong nước Mỹ đều coi Jefferson là Thánh hộ mệnh của họ".

Đến khi về hưu, Jefferson vẫn chưa thôi cống hiến cho nước Mỹ và chưa chịu từ bỏ sự nghiệp của mình. Ông tiếp tục soạn thảo chương trình mở trường tiểu học, trung học và đại học miễn phí cho Tiểu bang Virginia nhằm thực hiện chương trình phổ cập cho mọi người rồi nhờ một người bạn thân là dân biểu trình bày tại Viện lập pháp Virginia.

Chương trình này lại bị bỏ phiếu chống lần nữa. Ông lên án những dân biểu chống chương trình này là dốt và không biết "những thực tế quan trọng rằng kiến thức là sức mạnh, kiến thức là bình an và kiến thức là hạnh phúc".

Song ông nhất quyết không chịu thua, ông kiên trì vận động khắp mọi nơi, mọi giới và cuối cùng Viện dân biểu Virginia đã chấp thuận trích một ngân khoản mở trường miễn phí cho những người nghèo và một ngân khoản nhỏ khác để bảo trợ Đại học đường Virginia, chính Jefferson đã vẽ đồ án kiến trúc và chỉ huy xây dựng Đại học đường Virginia.
 

Những người đang xem chủ đề này

Nội dung nổi bật

Xu hướng nội dung

Back