

ÔN TẬP ĐỌC HIỂU THƠ VĂN NGUYỄN DU
1. Giới thiệu ngắn gọn về tác giả Nguyễn Du.
- Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, tên hiệu là Thanh Hiên, sinh ngày 3 /1 /1766 tại phường Bích Câu - Thăng Long. Ra đi thanh thản năm 1820 tại Huế. Quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Nguyễn Du xuất thân trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan to dưới triều vua Lê, chúa Trịnh. Đó là một gia đình có truyền thống yêu văn chương nghệ thuật. Ông có một cuộc đầy rẫy bi kịch và đau thương.
- Nguyễn Du là một danh nhân văn hóa thế giới, là đại thi hào lỗi lạc của thơ ca trung đại Việt Nam. Ông có những đóng góp lớn cho nền văn học nước nhà với những tác phẩm tiêu biểu được cả thế giới biết đến như thi phẩm Truyện Kiều- đỉnh cao của văn học dân tộc, là tinh hoa văn hóa vang vọng ngàn đời.
2. Phong cách sáng tác của Nguyễn Du:
Có thể nói phong cách sáng tác của Nguyễn Du được gói gọn trong một từ "thương (Thương người, thương đời và thương mình) không phải ngẫu nhiên mà Tố Hữu viết:
" Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày "
Sống giữa thời cuộc đất nước gặp những biến động dữ dội," kinh thiên động địa", thơ văn Nguyễn Du nhìn chung đã phản ánh được sự tàn bạo của xã hội phong kiến bấy giờ. Bằng ngòi bút sắc sảo của mình, ông đã khắc họa những bất công, sự chà đạp lên người lao động, đòi quyền tự do, quyền sống của con người.
Nguyễn Du là người tài hoa, thông thạo nhiều thể thơ chữ Hán từ thơ lục bát, năm chữ, bảy chữ.. nên đã vẽ nên một bức tranh truyền cảm bằng ngôn từ đề cao quyền sống, sự tự do và khát vọng hạnh phúc của con người, đặc biệt là người phụ nữ tài hoa bạc mệnh trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ.
Thơ, truyện của Đại thi hào Nguyễn Du luôn rực rỡ sắc màu, tràn đầy sức sống, giàu đường nét chủ yếu đề cập đến đời sống, thế sự. Tác phẩm chữ Hán của ông nhiều nhưng mãi đến năm 1959 mới được các nhà Nho Bùi Kỷ, Phan Võ, Nguyễn Khắc Hanh sưu tầm và dịch.

3. Một số đề ôn tập đọc hiểu Thơ văn Nguyễn Du
Đề tham khảo 1:
Đọc đoạn trích sau:
Lược dẫn: Trong tiết Thanh Minh, Thúy Kiều cùng với Thúy Vân và Vương Quan đi chơi xuân, khi trở về, gặp một nấm mộ vô danh ven đường, không người hương khói. Kiều hỏi thì được Vương Quan cho biết đó là mộ Đạm Tiên, một ca nhi nổi danh tài sắc nhưng bạc mệnh.
Lòng đâu sẵn mối thương tâm,
Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa.
Đau đớn thay phận đàn bà!
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Phũ phàng chi bấy hóa công,
Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha.
Sống làm vợ khắp người ta,
Hại thay thác xuống làm ma không chồng.
Nào người phượng chạ loan chung,
Nào người tích lục tham hồng là ai?
Đã không kẻ đoái người hoài,
Sẵn đây ta thắp một vài nén nhang.
Gọi là gặp gỡ giữa đàng,
Họa là người dưới suối vàng biết cho.
Lầm rầm khấn vái nhỏ to,
Sụp ngồi đặt cỏ trước mồ bước ra.
Một vùng cỏ áy bóng tà,
Gió hiu hiu thổi một và bông lau.
Rút trâm giắt sẵn mái đầu,
Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần.
Lại càng mê mẩn tâm thần
Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra.
Lại càng ủ dột nét hoa,
Sầu tuôn đứt nối, châu sa vắn dài.
(Trích Truyện Kiều, Nguyễn Du, Nxb Dân Trí, Hà Nội, 2013)
Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa.
Đau đớn thay phận đàn bà!
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Phũ phàng chi bấy hóa công,
Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha.
Sống làm vợ khắp người ta,
Hại thay thác xuống làm ma không chồng.
Nào người phượng chạ loan chung,
Nào người tích lục tham hồng là ai?
Đã không kẻ đoái người hoài,
Sẵn đây ta thắp một vài nén nhang.
Gọi là gặp gỡ giữa đàng,
Họa là người dưới suối vàng biết cho.
Lầm rầm khấn vái nhỏ to,
Sụp ngồi đặt cỏ trước mồ bước ra.
Một vùng cỏ áy bóng tà,
Gió hiu hiu thổi một và bông lau.
Rút trâm giắt sẵn mái đầu,
Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần.
Lại càng mê mẩn tâm thần
Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra.
Lại càng ủ dột nét hoa,
Sầu tuôn đứt nối, châu sa vắn dài.
(Trích Truyện Kiều, Nguyễn Du, Nxb Dân Trí, Hà Nội, 2013)
Thực hiện các yêu cầu sau?
Câu 1. Xác định thể thơ của đoạn trích?
Câu 2. Đoạn trích trên có sử dụng kết hợp các phương thức biểu đạt nào?
Câu 3. Đoạn trích sử dụng điểm nhìn của nhân vật nào?
Câu 4: Nêu nội dung khái quát của đoạn trích?
Câu 5. Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong bốn câu thơ cuối?
Câu 6: Em hãy nêu chủ đề của đoạn trích?
Câu 7: Theo em, quan niệm Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung có còn đúng với xã hội hiện nay không? Lí giải?
Câu 8: Em có suy nghĩ gì về thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến sau khi đọc đoạn trích? (Viết khoảng 5 – 7 dòng)
Đáp án tham khảo:
Câu 1:
Thể thơ: Lục bát
Câu 2:
Phương thức kết hợp: Tự sự và biểu cảm
Câu 3:
Điểm nhìn của nhân vật Thúy Kiều
Câu 4:
- Nội dung khái quát của đoạn trích:
+ Nỗi thương cảm của Thúy Kiều đối với Đạm Tiên
+ Nỗi thương cảm của Thúy Kiều đối với những người phụ nữ hồng nhan bạc mệnh
Câu 5:
- Biện pháp tu từ: Điệp từ
- Tác dụng:
+ Nhấn mạnh làm nổi bật tâm trạng đau đớn, xót xa của Thúy Kiều khi thăm mộ Đạm Tiên.
+ Thể hiện sự đồng cảm, niềm xót thương sâu sắc của nàng Kiều dành cho Đạm Tiên.
Câu 6:
Chủ đề của đoạn trích: Thông qua tâm trạng xót xa, thương cảm của Thúy Kiều dành cho Đạm Tiên, đoạn trích thể hiện tấm lòng nhân đạo cao cả của Nguyễn Du: Đồng cảm, xót thương đối với những người phụ nữ hồng nhan, bạc mệnh nói riêng và thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến nói chung.
Câu 7
- Quan niệm Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung không còn đúng với xã hội hiện đại.
- Lí giải: Vì trong xã hội hiện đại, nam nữ đã bình đẳng, bình quyền, người phụ nữ không còn bị ràng buộc hay phụ thuộc vào nam giới, họ đã có quyền tự chủ, tự quyết định cuộc đời và số phận của mình.
Câu 8: Suy nghĩ gì về thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến sau khi đọc đoạn trích:
- Với quan điểm trọng nam khinh nữ, người phụ nữ trong xã hội phong kiến thường không có tiếng nói, không tự quyết định được cuộc đời của mình
- Là phái đẹp, họ vừa được nâng niu, nhưng cũng dễ trở thành món đồ chơi trong tay nam giới
- Khi còn hương sắc, họ được yêu mến, nhưng khi hương sắc tàn phai, họ lại bị chà đạp, hắt hủi, ruồng rẫy, bỏ rơi..
Xem tiếp bên dưới.. (Đề 2)
Chỉnh sửa cuối: