- Xu
- 13,791,480
Bài viết: 2022 



Đề kiểm tra đọc hiểu truyện ngắn Nước mắt - Nam Cao bao gồm hệ thống các câu hỏi phân bố theo 4 cấp độ nhận biết, thông hiểu, vận dụng, vận dụng cao giúp các bạn học sinh củng cố lại phần kiến thức đã học và kỹ năng làm bài đọc hiểu. Các kĩ năng cơ bản đó là: Nhận diện đề tài, chủ đề chính, chủ đề phụ, tư tưởng, giá trị văn hóa, triết lí nhân sinh, sự kiện, nhân vật, chi tiết quan trọng, không gian, thời gian, người kể chuyện toàn tri, hạn tri, sự thay đổi điểm nhìn.. của các văn bản truyện; so sánh được hai văn bản văn học viết cùng đề tài.
Đọc văn bản sau:
Trả lời câu hỏi:
Câu 1. Xác định thể loại của văn bản.
Câu 2. Xác định: Ngôi kể, điểm nhìn trần thuật trong văn bản.
Câu 3. Xác định đề tài của văn bản trên. Em biết được truyện ngắn nào của Nam Cao cũng viết về đề tài này?
Câu 4. Nhân vật chính trong truyện là ai?
Câu 5. Câu chuyện được kể trong văn bản là câu chuyện gì?
Câu 6. Vì sao Điền lại bực tức, cáu gắt với vợ, con? Sự thay đổi trong thái độ, suy nghĩ của Điền ở phần cuối truyện cho em hiểu điều gì về vẻ đẹp của nhân vật Điền?
Câu 7. Từ văn bản, em hiểu được điều gì về cuộc sống của những trí thức như Điền trong xã hội cũ?
Câu 8. Nhận xét về những đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật Điền.
[COLOR=rgb(0, 89, 179) ]Gợi ý trả lời câu hỏi:[/COLOR]
Câu 1. Thể loại của văn bản: Truyện ngắn
Câu 2.
- Ngôi kể: Thứ ba;
- Điểm nhìn: Có điểm nhìn của người kể chuyện; có điểm nhìn của nhân vật (chủ yếu là điểm nhìn của nhân vật Điền)
=> Như vậy, truyện có sự chuyển dịch điểm nhìn linh hoạt, từ người kể chuyện sang nhân vật Điền. Sự thay đổi điểm nhìn trần thuật giúp nhà văn thâm nhập được vào thế giới tâm hồn nhân vật; đi sâu khắc họa sự thay đổi tâm lý của nhân vật: Từ tức giận, oán trách sang thương cảm, xót xa. Đồng thời, sự chuyển dịch điểm nhìn còn giúp lời kể trở nên linh hoạt, đa dạng: Giọng trần thuật khách quan, giàu cảm xúc, khiến cho truyện ngắn thấm đẫm chất trữ tình.
Câu 3. Đề tài của văn bản trên: Truyện viết về đề tài người trí thức nghèo trước Cách mạng tháng Tám.
Truyện cùng đề tài của Nam Cao: Giăng sáng, Đời thừa, Sống mòn, Quên điều độ..
Câu 4. Nhân vật chính trong truyện là nhân vật Điền - một trí thức nghèo.
Câu 5. Câu chuyện: Truyện kể lại tình huống Điền đi nhận lương, không may mất một đồng bạc, hắn tiếc tiền, quên mua thuốc cho con theo lời vợ dặn. Về nhà, vợ trách, Điền càng thêm bực bội, cáu gắt với vợ con. Cuối cùng, anh cũng bình tĩnh lại, thương xót, đồng cảm cho những người khốn khổ quanh mình.
Câu 6.
- Nam Cao đã đặt nhân Điền vào tình huống khiến Điền phải nóng giận, bực tức: Điền đi nhận lương, có một tờ tiền bị rách, Điền chẳng những không đổi được mà còn làm mất luôn tờ tiền đó. Vì nghèo, khổ, mất tiền, Điền sinh ra tiếc, rồi bực mình. Về nhà lại nghe vợ càu nhàu do quên mua thuốc cho con, Điền càng thêm cáu gắt, trút bực tức lên vợ con mình.
- Vẻ đẹp của nhân vật Điền:
+ Điền là người có thương vợ, thương con: Anh nhịn ăn, nhịn tiêu, không dám mua sách, mua áo để lấy tiền cho vợ con; anh thương con bé Hường bị ốm, ôm nó vào lòng, quạt cho nó; anh thấu hiểu cho sự khó tính, hay cằn nhằn của vợ..
+ Điền là người nhân hậu, bao dung: Biết đặt mình vào hoàn cảnh người khác để thấu hiểu cho vợ, cho con gái, cho ông ký ở nhà dây thép.
+ Điền là người trí thức có ý thức phản tỉnh cao, luôn nghiêm khắc với bản thân: Từ chỗ ích kỉ trong suy nghĩ, giận dỗi với mọi người, anh dần tự xem xét để nhận ra lỗi sai của mình, để có cái nhìn nhân ái hơn.
Câu 7. Truyện "Nước mắt" cho ta hiểu được phần nào về hoàn cảnh nghèo khổ, bi đát của người trí thức trong xã hội cũ thông qua cảnh ngộ của Điền: Là người mang danh trí thức nhưng thực chất nghèo khổ, cơ cực, bị gánh nặng áo cơm "ghì" sát đất: Không dám mua thuốc chữa bệnh, không dám mua một chiếc áo, một quyển sách; không dám thuê xe mà cuốc bộ lên tỉnh trong thời tiết nóng bức; con cái ốm đau liên miên, dè sẻn từng đồng mua thuốc..
Câu 8. Những đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật Điền:
- Ngôi kể thứ ba, điểm nhìn trần thuật có sự chuyển dịch từ bên ngoài vào bên trong, từ điểm nhìn người kể chuyện sang điểm nhìn nhân vật khiến nội tâm nhân vật hiện lên chân thực, rõ nét.
- Đặt nhân vật trong tình huống có vấn đề: Điền lên tỉnh lấy tiền, gặp phải ông ký khó tính, đánh mất một đồng bạc và quên không lấy thuốc cho con, vợ gắt gỏng.. - tình huống đời thường khiến bất cứ ai cũng không giữ được bình tĩnh.
- Sử dụng những chi tiết đắt giá để miêu tả tâm lí chân thực, tinh tế: Chi tiết tờ giấy bạc cũ bay mất thổi bùng lên sự giận dữ; chi tiết về tiếng khóc cái Hường là xoa dịu trái tim Điền..
- Truyện đặc biệt thành công khi sử dụng ngôn ngữ nửa trực tiếp khiến nhân vật trở nên sống động, tâm lí được đào sâu, giọng văn đa dạng..
Đọc hiểu: Nước mắt - Nam Cao
Đọc văn bản sau:
(Lược: Điền cả đêm mệt mỏi chăm con là thằng cu Chuyên ốm, sáng ra chuẩn bị lên tỉnh lĩnh tiền. Vợ dặn phải mua thuốc cho con bé Hường đang nổi mụn khắp mặt. Hắn cáu kỉnh, bực tức vì đủ thứ phải chi tiêu, nhưng lại không chịu nổi sự càu nhàu của vợ nên đành chịu. Bản thân hắn mắc bệnh ở tim, cũng chẳng có tiền để theo đuổi thuốc thang. Làm chẳng đủ ăn, chẳng dám mua một cái áo, một quyển sách, lại suốt ngày con ốm, con đau. Hắn ngao ngán cho kiếp mình. Để tiết kiệm tiền xe, mãi đến mười giờ Ðiền mới đi bộ tới trạm Quỳnh Nha, gặp ông đội Trạm để lĩnh thư, sau đó mới lên nhà dây thép lĩnh tiền)
Ở nhà dây thép tỉnh, Ðiền phải đợi khá lâu. Người gửi tiền, lĩnh tiền đông. Ðiền thì lại ghét chen chúc và xô đẩy. Nhưng kết cục rồi cũng phải len vào. Nếu cứ muốn làm người nhã nhặn mãi ở đây thì có lẽ chẳng bao giờ hắn lĩnh được ba chục bạc. Hắn lễ phép đưa căn cước và tấm bưu phiếu cho người thư ký:
- Thưa ông, ông làm ơn..
- Ơn oán gì? Ðợi đấy!
Ðiền sửng sốt. Sao người ta lại có thể cục cằn đến thế? Hắn hối hận vì đã phí một lời lịch sự. Gã kia thì vẫn cứ cúi đầu lia lịa viết, cau có, phụng phịu, làu nhàu, như cáu kỉnh với công chúng đến làm phiền gã. Ðiền lộ vẻ khinh bỉ và yên lặng đợi.. Một lúc lâu sau, gã mới ngẩng đầu lên. Tức thì hàng chục cái bàn tay cầm căn cước chìa vào. Gã hùng hổ giật xoét lấy từng cái một, đập cả chồng đánh bẹp xuống bàn. Rồi vẫn hầm hầm, gã lần lượt giở từng chiếc một ra xem để phát tiền. May cho Ðiền, cái bưu phiếu của hắn ở trên cùng. Viên thư ký biên những điều cần, cộp cái dấu đề ngày, vào sổ, rồi ném cái giấy căn cước trả Ðiền. Gã ném theo cho Ðiền ba tập giấy bạc chỉ thoáng trông cũng biết là rách lắm. Ðiền nhăn mặt: Ở nhà quê, giấy bạc rách quá người ta không chịu lấy. Ðiền kiểm lại. Kể thì cái nào cũng rách, nhưng cố nhiên là hắn không dám khó tính đến đòi đổi cả. Hắn chỉ nằn nì xin đổi một cái vừa rách làm ba, vừa nhòe nhoẹt mực. Viên thư ký lắc đầu quảy quày:
- Không biết! Không biết! Không biết!
Ðiền không còn thể bình tĩnh nữa. Hắn đỏ bừng mặt, ném tờ giấy bạc vào:
- Thế này thì ông bảo tôi tiêu làm sao được?
Lập tức người thư ký đứng phắt lên, sừng sộ với Ðiền:
- Anh muốn tù phải không?
Ðiền biết gã nhận lầm mình bởi cái mũ tàng và cái áo the sờn, nên cứng cỏi nói bằng tiếng Pháp:
- Ông nên có lễ độ một chút, ông phải biết: Ông ăn lương để làm việc cho công chúng chứ không phải đối đãi với công chúng như những người đi lĩnh chẩn.
- Nhưng.. nhưng..
Gã nói không thành câu nữa. Mặt gã cũng đỏ lên như một hòn gạch. Gã lại ngồi phịch xuống. Gã nhặt tờ giấy bạc, ném ra giả Ðiền:
- Không tiêu được thì vất đi!
Cái quạt điện đang quay, nên tờ giấy bạc bay vèo. Những người chưa lĩnh được tiền sốt ruột, đẩy Ðiền ra. Ðiền chạy theo tờ giấy bạc, và xô ngã một con bé độ năm sáu tuổi, theo mẹ đi gửi giấy. Hắn vội vàng đỡ nó dậy, giũ áo quần cho nó. Ðến khi hắn quay ra thì tờ giấy bạc đã biến đi đâu mất. Trông thấy cái mặt ngây ra của hắn, một vài người cười chế nhạo. Ðiền thấy mình lố linh. Hắn bực tức chạy vội ra khỏi nhà dây thép, và cúi cổ bước thật nhanh, đi một quãng dài, không dám quay đầu lại. Ðến khi gần ra khỏi tỉnh, hắn mới đi chậm hơn một chút. Ấy thế là một đồng bạc mất! Hắn tức lên đến họng. Hắn vừa đi vừa nguyền rủa người thư ký. Rồi hắn lại nguyền rủa hắn. Bởi vì chính hắn cũng có lỗi một phần vào đấy nữa, hắn ân hận vì đã không chịu cứ nhận tờ giấy bạc rách ấy để đem lại nhà băng đổi. Hắn cứ loanh quanh nghĩ đến nó và tiếc mãi. Hắn nhất định nhịn bữa ăn đã định, để bù vào đấy. Hắn buồn bã đi thẳng về..
Về đến nhà thì trời đã sâm sẩm tối. Ðiền nhọc ươn người. Hắn đi tập tễnh như một người què, bước vào sân. Vợ hắn gọi hắn ngay:
- Thuốc của cái Hường đâu?
Hắn chợt nhớ ra, thừ mặt, rồi chẳng đáp nửa lời, hắn lại ấm nước, rót ra chén, ừng ực uống. Hắn uống hết chén này đến chén khác, không còn biết bao nhiêu chén. Mồ hôi vã ra như tắm. Uống xong, hắn mới vừa thở vừa bảo vợ:
- Tôi quên rồi!
Người đàn bà buông mặt xuống ngay. Thị giận dỗi với chồng:
- Quên! Chỉ quên suốt đời.. Có mà tiếc tiền ấy!.. Quên.. quên thế nào! Người đâu mà có người tệ thế!..
Ðiền gần muốn nhảy lại vợ mà bóp cổ. Con vợ thật là khốn nạn! Sau một ngày hắn đã phải chịu không còn biết bao nhiêu nỗi khổ, đấy là những lời thở ra để mà đón hắn! Hắn quắc mắt lên, và nghiến răng..
- Im ngay! Câm cái mồm!
- Câm.. câm cái gì? Mình trông con kia kìa! Mặt nó sưng lên bằng cái lệnh, chẳng còn trông thấy mắt, và mụn thì đầy lên kia!
Thị nói như người gào. Ðiền đưa mắt nhìn con gái. Mặt nó sưng to thật. Hắn nghẹn ngào trong cổ, không nói được. Vợ hắn càng gào mãi lên:
- Tiếc tiền! Tiếc tiền!.. Nó chết rồi để tiền mà tiêu.
Ðiền tức sùi bọt mép. Mắt hắn lòe ra lửa. Hắn giơ một bàn tay run lên, đánh nhịp cho lời nói bực dọc đến thành tàn nhẫn:
- Cho nó chết! Cho nó chết!..
Sống làm gì nữa? Nay ốm, mai đau thì chết đi cũng phải!.. Sống lắm cũng chỉ khổ và làm người ta khổ thôi, được gì? Chết đi! Mày chết đi!..
Nói xong, Ðiền hét lớn:
- Thằng Bình đâu?
Không thấy thằng ở chạy lên, Ðiền quát hỏi con:
- Thằng Bình nó đi đâu Hường?
Hường sợ hãi, trả lời bằng một câu đứt làm mấy đoạn:
- Nó lại đau bụng xin về rồi.
- Cả thằng ấy nữa!.. Nó cũng chết đi cho rảnh! Nay đau bụng, mai đau bụng.. Nay xin về, mai xin về!..
Hắn vùng vằng đi vào nhà, quăng mũ quăng áo, quăng nốt cả cái thần xác mỏi mệt xuống một cái giường, thở hổn hển, như để đẩy bớt ra ngoài cái khí giận đang cuồn cuộn trong ngực. Hắn thấy mình khổ quá, khổ như một con chó vậy. Hắn nhịn đói từ sáng đến giờ. Hắn đi bộ què chân, nắng hơ sém cả da. Hắn xẻn từ đồng xu uống nước trở đi. Hắn chịu nhục với mọi người.. Như thế, bởi vì đâu? Chẳng phải vì vợ vì con ư? Nhưng nào vợ con có thèm biết cho đâu! Ðã chẳng an ủi một lời, vợ hắn còn vơ lấy một sự hắn quên để mà đay nghiến hắn. Ừ, mà cho rằng hắn không quên nữa, cho rằng hắn không lấy thuốc cho con là cố ý, là muốn khỏi mất mấy đồng bạc nữa, thì vợ hắn có nên nói tệ hắn như vậy hay không? Hắn hà tiện vì ai? Hắn khổ sở vì ai, riêng vào cái thân hắn chẳng phí phạm một đồng xu nào cả. Mấy mươi lần vợ hắn giục hắn may một cái áo sơ-mi, hắn chỉ ư hừ rồi để đấy, chưa bao giờ dám bỏ tiền ra mà may cả. Thế rồi bao nhiêu tiền cũng vào vợ, vào con hết.. Hắn bủn xỉn, hắn tiếc tiền.. ừ, nhưng mà hắn tiếc tiền cho ai? Ðiền cứ càng nghĩ càng thấy hắn là người khổ, vợ hắn là người tệ bạc. Hắn muốn chẳng thiết gì vợ con, nhà cửa nữa. Hắn sẽ đi phắt một nơi nào, sống cho mình, đứa nào chết mặc thây, bấy giờ họa chăng vợ hắn mới biết thân!..
Ở ngoài hè, vợ Ðiền bảo thầm con:
- Con vào hỏi xem thày có xơi cơm thì u thổi.
Ðiền nghe thấy mà nuốt bọt. Hắn đang thèm cơm lắm. Nhưng không hiểu sao Ðiền muốn nhịn, muốn đầy đọa mình cho khổ hơn thế nữa, hơn nhiều nữa. Hắn thấy một cái thú chua chát trong sự tự làm khổ mình như vậy. Bởi thế khi Hường vào, rụt rè nhắc lại câu mẹ dặn, Ðiền quát lên với nó:
- Không ăn!
Nó bịu xịu đi ra. Mẹ con thì thầm. Rồi Hường lại rón rén vào.
- Thầy có xơi cháo đậu, để u con đi nấu.
- Không ăn!
Biết rằng chồng giận, vợ Ðiền phải thân hành vào vậy.
Thị ôn tồn nói:
- Mình ăn cơm rồi à?
Ðiền không đáp. Thị lẳng lặng một thoáng, rồi lại bảo:
- Mình ăn từ trưa thì bây giờ đói rồi, còn gì? Hay là mình nhọc, không muốn ăn cơm? Tôi quấy cho mình một chút bột sắn mình ăn nhé?
- Không ăn! Ðừng hỏi gì lôi thôi!
Vợ Ðiền sầm mặt, ẵm con đi nằm. Ðiền thấy hơi hả dạ. Nhưng bỗng con bé Hường chạy vội ra đầu chái, về phía giường Ðiền. Ðiền nghe tiếng đôi guốc của nó lẹc kẹc rất nhanh một thoáng, rồi im lặng. Rồi Hường xịt mũi. Nó xụt xịt rất lâu ngoài ấy. Nó nghẹt mũi hay nó khóc? Ðiền cố lắng tai nghe. Hắn nghe thấy những tiếng Hường nức nở. Hắn đột nhiên rún người. Lòng hắn quăng ra. Những ý giận hờn bừa bộn vụt tan. Còn lại cái hình ảnh bé nhỏ của Hường, với cái mặt đầy mụn và sưng lên của nó, đôi mắt giàn giụa nước và miệng mếu. Con bé còn nhỏ tuổi nhưng đã rất hay khóc vụng; mỗi lần muốn khóc, nó lại tránh ra một chỗ, cố nén tiếng, không cho ai biết. Ðiền thấy thương nó quá. Tội nghiệp cho con bé! Nó ốm đau luôn và thường bị mẹ mắng chửi suốt ngày như tát nước. Mẹ nó mắng chửi nó, nhiều khi bất công và vô lý. Nhưng lạ thay! Lúc này Ðiền không vin vào đấy mà trách vợ. Hắn thấy vợ hắn không tệ. Thị vốn thương con lắm. Những lúc thị gắt gỏng với con như thế chỉ là những lúc thị sốt ruột quá, lo lắng quá. Cũng như hắn vậy, sao hắn nỡ đem lòng giận thị? Ai chả thế? Người không phải là thánh. Sự khổ sở dễ khiến lòng chua chát. Khi người ta lam lũ quá, lại còn lo trăm thứ, bị làm rầy vì trăm thứ, thì ai mà bình tĩnh được? Ai mà chả hay gắt gỏng? Gắt gỏng thì chính mình khổ trước. Không giữ được thì phải bật ra ngoài như vậy. Thật ra có ai muốn cau có làm chi? Vậy thì vợ hắn gắt lên với hắn lúc này cũng chỉ là việc thường thôi. Cũng như hắn gắt lại với thị và gắt với con. Cũng như ông ký nhà dây thép..
Ngẫm nghĩ một lúc, Ðiền thấy thương ông ấy quá. Ðiền tưởng ra cho ông ấy một gia đình đông con và túng thiếu tựa nhà Ðiền. Số lương chẳng đủ tiêu. Sau mỗi ngày công việc rối tít mù, loạn óc lên vì những con số, vì những cái bưu phiếu cái nọ chưa xong đã đến cái kia, ông mỏi mệt trở về nhà, lại phải nghe mấy đứa con lớn chí chóe đánh nhau, đứa con nhỏ khóc, chủ nợ réo đòi và vợ thì sưng sỉa hoặc gào thét như một con mẹ dại. Nhà cứ om lên như chợ. Ðêm nằm ông nghe vợ bàn bạc; ông nghĩ đến trăm thứ tiền, trăm thứ việc, ông nằm mơ thấy mình trúng số, để sáng hôm sau tưng hửng, lại mải mốt đi đến sở, nhăn mặt lại khi thấy những người gửi tiền, người lĩnh tiền đi vòng trong, vòng ngoài, và người nào cũng muốn ông làm trước cho..
[..] Ðiền rất bùi ngùi. Hắn bùi ngùi cả cho ông ký đã gây sự với hắn sáng hôm nay. Hắn chắc rằng vì việc ấy mà tối hôm nay ông còn buồn bực hơn tối mọi ngày. Hắn cũng vậy, hắn chả thường buồn bực rất lâu vì những việc xảy ra không đáng kể đó ư? Chao ôi! Chẳng qua hắn và ông cũng cùng khổ như nhau cả đấy thôi! Yên ủi nhau còn chẳng thấy đâu, còn làm khổ lẫn nhau làm gì nữa? Ðiền hối hận vì cái cử chỉ của mình đối với ông vô cùng..
Bây giờ trong lòng hắn chỉ còn lại sự xót thương. Hắn thương vợ, thương con, thương tất cả những người phải khổ đau. Lòng hắn thiết tha rướn lên, muốn vươn ra để ấp ôm lấy mọi người. Mắt hắn đầm đìa. Hắn gọi con rất dịu dàng:
- Hường ơi!.. Vào đây với thầy con!..
Con bé lau nước mắt xong rồi mới chạy vào. Nó rón rén đứng bên giường:
- Thầy bảo con gì cơ?
- Con lên đây nằm thầy quạt cho.
Vợ hắn biết là chồng mình đã hết giận, bảo chồng:
- Mình lại đây này.. Cả cái Hường cũng lại đây, nằm ghé bên em. Em nó ngủ rồi. Mình quạt cho cả thằng Chuyên với cái Hường. Tôi đi lấy gạo thổi cơm. Lúc nãy còn một ít cơm nguội, chúng nó ăn, tôi cũng chưa ăn gì..

Trả lời câu hỏi:
Câu 1. Xác định thể loại của văn bản.
Câu 2. Xác định: Ngôi kể, điểm nhìn trần thuật trong văn bản.
Câu 3. Xác định đề tài của văn bản trên. Em biết được truyện ngắn nào của Nam Cao cũng viết về đề tài này?
Câu 4. Nhân vật chính trong truyện là ai?
Câu 5. Câu chuyện được kể trong văn bản là câu chuyện gì?
Câu 6. Vì sao Điền lại bực tức, cáu gắt với vợ, con? Sự thay đổi trong thái độ, suy nghĩ của Điền ở phần cuối truyện cho em hiểu điều gì về vẻ đẹp của nhân vật Điền?
Câu 7. Từ văn bản, em hiểu được điều gì về cuộc sống của những trí thức như Điền trong xã hội cũ?
Câu 8. Nhận xét về những đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật Điền.
[COLOR=rgb(0, 89, 179) ]Gợi ý trả lời câu hỏi:[/COLOR]
Câu 1. Thể loại của văn bản: Truyện ngắn
Câu 2.
- Ngôi kể: Thứ ba;
- Điểm nhìn: Có điểm nhìn của người kể chuyện; có điểm nhìn của nhân vật (chủ yếu là điểm nhìn của nhân vật Điền)
=> Như vậy, truyện có sự chuyển dịch điểm nhìn linh hoạt, từ người kể chuyện sang nhân vật Điền. Sự thay đổi điểm nhìn trần thuật giúp nhà văn thâm nhập được vào thế giới tâm hồn nhân vật; đi sâu khắc họa sự thay đổi tâm lý của nhân vật: Từ tức giận, oán trách sang thương cảm, xót xa. Đồng thời, sự chuyển dịch điểm nhìn còn giúp lời kể trở nên linh hoạt, đa dạng: Giọng trần thuật khách quan, giàu cảm xúc, khiến cho truyện ngắn thấm đẫm chất trữ tình.
Câu 3. Đề tài của văn bản trên: Truyện viết về đề tài người trí thức nghèo trước Cách mạng tháng Tám.
Truyện cùng đề tài của Nam Cao: Giăng sáng, Đời thừa, Sống mòn, Quên điều độ..
Câu 4. Nhân vật chính trong truyện là nhân vật Điền - một trí thức nghèo.
Câu 5. Câu chuyện: Truyện kể lại tình huống Điền đi nhận lương, không may mất một đồng bạc, hắn tiếc tiền, quên mua thuốc cho con theo lời vợ dặn. Về nhà, vợ trách, Điền càng thêm bực bội, cáu gắt với vợ con. Cuối cùng, anh cũng bình tĩnh lại, thương xót, đồng cảm cho những người khốn khổ quanh mình.
Câu 6.
- Nam Cao đã đặt nhân Điền vào tình huống khiến Điền phải nóng giận, bực tức: Điền đi nhận lương, có một tờ tiền bị rách, Điền chẳng những không đổi được mà còn làm mất luôn tờ tiền đó. Vì nghèo, khổ, mất tiền, Điền sinh ra tiếc, rồi bực mình. Về nhà lại nghe vợ càu nhàu do quên mua thuốc cho con, Điền càng thêm cáu gắt, trút bực tức lên vợ con mình.
- Vẻ đẹp của nhân vật Điền:
+ Điền là người có thương vợ, thương con: Anh nhịn ăn, nhịn tiêu, không dám mua sách, mua áo để lấy tiền cho vợ con; anh thương con bé Hường bị ốm, ôm nó vào lòng, quạt cho nó; anh thấu hiểu cho sự khó tính, hay cằn nhằn của vợ..
+ Điền là người nhân hậu, bao dung: Biết đặt mình vào hoàn cảnh người khác để thấu hiểu cho vợ, cho con gái, cho ông ký ở nhà dây thép.
+ Điền là người trí thức có ý thức phản tỉnh cao, luôn nghiêm khắc với bản thân: Từ chỗ ích kỉ trong suy nghĩ, giận dỗi với mọi người, anh dần tự xem xét để nhận ra lỗi sai của mình, để có cái nhìn nhân ái hơn.
Câu 7. Truyện "Nước mắt" cho ta hiểu được phần nào về hoàn cảnh nghèo khổ, bi đát của người trí thức trong xã hội cũ thông qua cảnh ngộ của Điền: Là người mang danh trí thức nhưng thực chất nghèo khổ, cơ cực, bị gánh nặng áo cơm "ghì" sát đất: Không dám mua thuốc chữa bệnh, không dám mua một chiếc áo, một quyển sách; không dám thuê xe mà cuốc bộ lên tỉnh trong thời tiết nóng bức; con cái ốm đau liên miên, dè sẻn từng đồng mua thuốc..
Câu 8. Những đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật Điền:
- Ngôi kể thứ ba, điểm nhìn trần thuật có sự chuyển dịch từ bên ngoài vào bên trong, từ điểm nhìn người kể chuyện sang điểm nhìn nhân vật khiến nội tâm nhân vật hiện lên chân thực, rõ nét.
- Đặt nhân vật trong tình huống có vấn đề: Điền lên tỉnh lấy tiền, gặp phải ông ký khó tính, đánh mất một đồng bạc và quên không lấy thuốc cho con, vợ gắt gỏng.. - tình huống đời thường khiến bất cứ ai cũng không giữ được bình tĩnh.
- Sử dụng những chi tiết đắt giá để miêu tả tâm lí chân thực, tinh tế: Chi tiết tờ giấy bạc cũ bay mất thổi bùng lên sự giận dữ; chi tiết về tiếng khóc cái Hường là xoa dịu trái tim Điền..
- Truyện đặc biệt thành công khi sử dụng ngôn ngữ nửa trực tiếp khiến nhân vật trở nên sống động, tâm lí được đào sâu, giọng văn đa dạng..
Chỉnh sửa cuối: