Welcome! You have been invited by PhươngThảo0710 to join our community. Please click here to register.
1 người đang xem
Bài viết: 66 Tìm chủ đề
962 23
Những chi tiết nổi bật trong Truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" của nhà văn Tô Hoài

truyen-ngan-vo-chong-a-phu-sgk-ngu-van-12-tap-2-678x381.png


(Nguồn ảnh: Internet)

Chi tiết 1. Căn buồng Mị nằm

- Căn buồng ấy kín mít, có ô vuông bằng bàn tay. Hình ảnh đó giàu sức gợi, khiến người ta liên tưởng đến nhà tù, một thứ ngục thất đang giam hãm đời Mị. Đó là một không gian nhỏ bé, trơ trọi đối lập với cái mênh mông, rộng lớn của đất trời Tây Bắc.

- Chân dung số phận khổ đau của đời Mị được nhà văn khắc họa thật rõ nét: Mị sống câm lặng như đá núi "không nói", lầm lụi, chậm chạp trợ lì như "con rùa" quẩn quanh nơi có cửa. Nếu ở trên, Mị có lúc tưởng mình là "con trâu Con ngựa" - Nhưng hình ảnh đó mới chỉ gợi nỗi khổ cực vì lao động vất vả thì hình ảnh "con rùa" có sức ám ảnh mang ý nghĩa về thân phận bị đè nén, bị bỏ quên. Mị mất hết ý niệm về không gian, thời gian: Chỉ thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng. Cuộc sống của Mị không có sắc màu, âm thanh, không có cả ngắn dài thời gian, không chia biệt đêm ngày.

- Căn buồng ấy là biểu tượng cho ngục thất tinh thần, địa ngục trần gian giam cầm khát vọng sống, khát vọng tự do của đời Mị

- Nhà văn đã tố cáo sâu sắc chế độ cai trị miền núi đã đầy đọa con người, làm tê liệt quyền sống, quyền khao khát hạnh phúc của họ.


Chi tiết 2. Dòng nước mắt A Phủ

- Do sơ ý để hổ bắt mất bò, A Phủ bị thổng lí Pá Tra trói đứng, bỏ mặc cho đói rét suốt mấy đêm liền giữa kì sương muối khắc nghiệt ở Hồng Ngài, còn Mị sau bao năm bị đọa đày cùng cực cũng đã trở nên chai lì. Những đêm trước, tuy vẫn trở dậy thổi lửa, hợ tay, nhìn thấy A Phủ bị trói nhưng Mị chỉ dửng dưng, vô cảm. Đêm ấy, trong nỗi bất lực, bế tắc và hoàn toàn tuyệt vọng, A Phủ đã khóc, đúng lúc đó, Mị nhìn sang và bắt gặp dòng nước mắt của A Phủ.

- Trực tiếp bộc lộ những cảm xúc: Đau đớn, tuyệt vọng.. trong hoàn cảnh cùng đường của A Phủ

- Tạo ra bước ngoặt quan trọng trong tâm lí nhân vật Mị

- Thúc đẩy xung đột truyện lên đến cao trào, là đầu mối của một loạt những hành động bất ngờ làm thay đổi cuộc đời các nhân vật, vừa tạo sự vận động, phát triển của tính cách nhân vật vừa tạo sự vận động cho cốt truyện.

- Góp phần thể hiện giá trị hiện thực, nhân đạo của tác phẩm

- Thể hiện biệt tài phân tích tâm lí nhân vật của Tô Hoài


Chi tiết 3. Nắm lá ngón

- Xuất hiện ba lần trong tác phẩm và chỉ gắn liền với nhân vật Mị- người con gái miền cao lương thiện, xinh đẹp, tài hoa nhưng cuộc đời nhiều bất hạnh.

- Mị - một cô gái miền cao đang tràn bung sức trẻ - ngay trong đêm tình hội xuân nồng nàn thì cuộc đời màu hồng chấm dứt. Cô bị trói gô như súc nô, bắt về nhà thống lí Pá Tra "cúng trình ma" như một món hàng. Người ta làm gì cuộc đời cô, thực sự lúc đó cô không biết, mãi cho đến lúc A Sử đứng trước mặt bố cô tuyên bố đã cúng trình ma, thôi thì cô đã là người nhà thống lí mất rồi! Một cú đánh ngã tự do, một cái rơi thật sự thẳng. Mị đi từ cuộc đời đẹp như trong tranh xuống hố sâu của địa ngục - nơi mà kẻ khác sống bằng âm thanh của tiếng than và hít thở hơi mùi máu, mà mỗi bước đi là một nỗi tủi nhục đến tột cùng. Mị sống không bằng chết, sống như một xác người trong kiếp cầm súc và rồi "có áp bức có đấu tranh". Cô tìm về cha già, tay cầm nắm lá ngón. "Lá ngón" xuất hiện lần đầu tiên như một lối thoát đen. Đây là lối thoát ngắn và hữu hiệu nhất. Nhưng lại là lối thoát cho những ai muốn chấm dứt hiện tại nghiệt ngã chứ không phải lối thoát cho người muốn sang trang mới

- Mang tầm ý nghĩa tố cáo cao độ: Sự dã man của xã hội ép buộc con người lương thiện đi tìm cái chết.

- Hiện thân cho nỗi thống khổ của nhân dân, cho những tích tụ đắng cay, đầy đau đớn và uất hận.

- Mang một tầng ý nghĩa nhân sinh tuy bản thân tượng trưng cho cái chết.


Chi tiết 4. Tiếng sáo đêm xuân

- Nằm ở phần giữa tác phẩm

- Tiếng sáo được miêu tả từ xa đến gần, với những cung bậc khác nhau: Khi tiếng sáo lấp ló ngoài đầu núi, tiếng sáo văng vẳng gọi bạn đầu làng, tiếng sáo lửng lơ bay ngoài đường, trong đầu Mị, rập rờn tiếng sáo, tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi

- Là chi tiết có ý nghĩa tả thực về nét đẹp văn hóa của miền núi cao Tây Bắc, khiến người ta liên tưởng đến âm thanh quen thuộc, gần gũi của núi rừng trong những đêm xuân ở Hồng Ngài. \

- Tiếng sáo mang đến chất thơ, làm dịu mát cuộc sống trăm đắng ngàn cay với nỗi đời cơ cực của con người nơi đây, khiển mảnh đất Tây Bắc vốn xa lạ, hoang vu trở nên gần gũi, thơ mộng.

- Diễn tả vẻ đẹp tâm hồn Mị trong đêm tình mùa xuân. Tiếng sáo lay thức tâm hồn Mị, khiến lòng Mị thiết tha, bồi hồi, nhẩm thầm bài hát của người đang thổi và những kí ức đẹp đẽ nồng nàn của người con gái đã trở về. Tiếng sáo đã làm bừng lên khát vọng sống

- Chi tiết giàu chất thơ, lai láng dư vị trữ tình có sức sống lâu bên trong tâm hồn người.


Chi tiết 5. Câu hát

[HIDETHANKS=1]- Những câu hát này Mị không nghe trực tiếp, nó là lời Mị tự "nhẩm thầm" khi nghe tiếng sáo. Và một điều không phải ngẫu nhiên: Chúng đều là lời ca của những người đang yêu hoặc đang đi tìm tình yêu, thể hiện khát vọng tình yêu - đặc biệt là khát vọng tình yêu tự do (hãy chú ý từ thể chủ động: "Ta đi tìm người yêu, cô gái không yêu có quyền từ chối bắt pao, cô có quyền lựa chọn:" Em yêu người nào, em bắt pao nào "). Trước khi về nhà thống lí, Mị từng có một thời tuổi trẻ say mê theo tiếng sáo, theo lời hát. Và Mị đã từng yêu. Mị về nhà thổng lí với thân phận con dâu gạt nợ, bị cầm tù trong một cuộc hôn nhân ép buộc:" A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau Chính những lời ca đẹp cùng với tiếng sáo, chứ không phải chỉ bản thân tiếng sáo – đã gọi về quá khứ hạnh phúc gắn với tình yêu, tuổi trẻ, từ đó thổi bùng dậy khao khát yêu và sống trong tâm hồn Mị. Làm phép giả định ngược lại, nếu đó chỉ là những lời ca buồn, tiếng than não nuột cho thân phận thì có thể nhận được đồng cảm nhưng chưa chắc đã làm bừng lên khát vọng sống trong nhân vật.

– Về nghệ thuật: Cùng với tiếng sáo, những câu hát góp phần thúc đẩy, tạo bước ngoặt trong diễn biến tâm lí của Mị. Chúng cũng tạo nên sắc thái trữ tình, chất thơ cho tác phẩm. "Chất Tây Bắc" rất riêng của vợ chồng A Phủ không chỉ được gợi ra từ cảnh sắc thiên nhiên, phong tục, Con người.. mà còn từ chính những lời ca như thế.


Chi tiết 6. Sự xuất hiện của Mị

"Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pa Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi"

Chỉ với hai câu văn giản dị ấy thôi, bản chất sự vật đã hiện lên khá rõ nét. Câu văn cũng như dài thêm ra để đọc giả lĩnh hội một cách thấu đáo. Vị trí của Mị xuất hiện đã nói lên tất cả "ngồi quay sợi bên tảng đá, cạnh tàu ngựa". Còn hình ảnh nào đắt hơn chi tiết đó? Con người ngang hàng với những vật vô tri, thậm chí gắn liền với chúng. Với cái cúi mặt và nét buồn rười rượi chứa đựng nhiều nỗi vất vả, người đọc như xót xa, cảm thông cho nhân vật nhưng cũng không khỏi tò mò về cuộc đời của người phụ nữ ấy.


=> Chi tiết chỉ là một yếu tố trong các yếu tố khác để thể hiện tất cả chiều sâu của một truyện ngắn.

- Hết-[/HIDETHANKS]
 

Những người đang xem chủ đề này

Xu hướng nội dung

Back