Người Thăng Long - Hà Ân

Thảo luận trong 'Văn Học' bắt đầu bởi Mạc Hồng Viên, 24 Tháng mười một 2018.

  1. Mạc Hồng Viên

    Bài viết:
    184
    Chương 10

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Cũng vào những ngày này, tuyết trắng phau bay xuống đầy kinh thành Đại Đô nước Nguyên. Các tướng khiếp tiết, loại thân vệ, đã mặc quần áo chiến may bằng lông thú xứ lạnh. Họ dàn quân túc vệ ngoài cửa hoàng thành mười dặm để đón hoàng tử Thoát Hoan đi hành hương về. Lúc đó trên vọng lâu cửa cấm cung, Hốt Tất Liệt hoàng đế triều nhà Nguyên của "thiên quốc", đứng nhìn con trai đang dẫn đoàn người ngựa phi đến trong một cơn lốc bụi tuyết mịt mù. Hốt Tất Liệt cảm thấy bằng lòng về mình, vì đã theo đúng lời di huấn của cha là phải gìn giữ sao cho chất máu thảo nguyên vũ dũng vẫn tiếp tục lưu thông trong huyết quản, mặc dù triều Nguyên đã lập nên ở vùng đất trồng trọt phì nhiêu từ bao đời nay đã có một nền văn minh cao.

    - Ta, con của Tô Lui, cháu của Thành Cát Tư Hãn, vị đại hãn đầu tiên của chín tộc Thát Đát chúa tể thiên hạ, hiện nay đang trị vì đất Trung Quốc rộng bao la, người đông như kiến. Ta vẫn làm tròn lời di huấn của ông cha ta.

    Một niềm tự hào dân lên nóng tai Hốt Tất Liệt. Nguyên chúa tự hào về đứa con trai của mình. Đúng là một chàng trai anh hùng như con chim ưng trên thảo nguyên. Hốt Tất Liệt nhớ lại một câu nói đầy lo âu của ông nội. Lần ấy trước đây vài chục năm, Thành Cát Tư Hãn thân chinh đánh nước Khôresmơ. Kinh thành Mécvơ của nước này trở thành một bãi hoang tàn. Bảy mươi vạn người Mécvơ bị chặt đầu cùng với quốc vưong Khôresmơ. Nhưng hoàng tử Khôresmơ trốn thoát, lấy dân binh chống lại. Kì lạ thay, cậu bé mười bảy tuổi ấy đã liên tiếp đánh thắng các cánh quân Thát Đát thiện chiến. Có trận quân Thát Đát bị diệt hơn một tu man. Mỗi tu man là một vạn quân. Thành Cát Tư Hãn nổi giận, thề sẽ bắt sống cậu bé cứng cổ, đem dựng nêu treo chết mòn trên thảo nguyên để làm gương cho những kẻ dám chống lại mình. Thành Cát Tư Hãn huy động một lực lượng rất lớn, tiến quân thận trọng, dồn cậu bé về phía biển Ba Tư. Quân Khôresmơ mòn mỏi dần. Cuối cùng, cậu bé chỉ còn hơn một trăm lính hộ thân, cậu bị vây trên một mỏm núi vách dựng đứng trên mặt biển. Thành Cát Tư Hãn ra lệnh cho binh lính bẻ đầu mũi tên rồi mới bắn, mục đích là bắn cho cậu bé đau mà bắt sống cậu ta. Quân Thành Cát Tư Hãn từ từ tiến lên núi. Quân Khôresmơ cũng từ từ rút lên núi. Sau lưng họ là biển sâu xanh thẳm.

    Chắc chắn là bắt được kẻ thù, Thành Cát Tư Hãn đã nghĩ đến những câu hỏi trước lúc hành tội hoàng tử Khôresmơ. Nhưng đúng lúc đó, cậu bé cứng cổ gọi tên Thành Cát Tư Hãn và mắng lớn:

    - Hỡi này kẻ bạo ngược! Thượng đế sẽ trừng phạt mày! Còn ta đây, mày đừng hòng làm nhục được ta. Xem đây!

    Từ mỏm đá cheo leo, cậu bé thúc ngựa nhảy xuống vụng biển xanh. Cậu bé rơi rất lâu mới xuống tới mặt nước, trong khi rơi cậu bé vẫn lớn tiếng chửi mắng bọn cướp nước. Thành Cát Tư Hãn đứng trên mỏm đá cậu bé vừa đứng, sững sờ nhìn xuống biển. Đại Hãn lẩm bẩm:

    - Con người như vậy xứng đáng có kẻ hầu người hạ.

    Thành Cát Tư Hãn ra lệnh chọn một trăm lính Thát Đát đi theo hầu hoàng tử Khôresmơ. Một trăm người tình nguyện được chọn và họ đã theo nhau thúc ngựa nhảy xuống biển. Nhưng câu nói nổi tiếng của Đại Hãn không phải là câu khen ngợi đối thủ mà là một lời lo âu về con cháu của mình. Sau khi đã tiễn một trăm người đi theo hoàng tử Khôresmơ, Đại Hãn đã nói với các tướng tòng chinh như thế này:

    - Con cháu ta sẽ mặc gấm vóc, trị vì các xứ giàu sang. Ta rất lo chúng sẽ không nhớ gì đến ta, đến chúng ta, những người đã cả đời chinh chiến để mở nước, đã phải sống hết sức gian lao và đau khổ.

    Cũng vì lời nói đó mà Hốt Tất Liệt bắt các con lần lượt phải hành hương về đất tổ mỗi khi đến tuổi trưởng thành. Khí thiêng đất tổ sẽ tôi rèn họ thành những dũng sĩ Thát Đát chúa tể thảo nguyên xưa, những dũng sĩ của Đại Hãn anh hùng. Bây giờ thì một dũng sĩ Thát Đát đang phi ngựa về kia, Thoát Hoan, đứa con trai của ta, thông minh, anh hùng và đẹp như thần tướng đang phi ngựa về kia.

    Không phải Hốt Tất Liệt lo sợ vô căn cứ. Ngay như y, bố mẹ đều Thát Đát cả, y lại sinh ra trong một cuộc viễn chinh, lớn lên theo anh đánh đông đánh tây, rồi tự mình lập ra một triều đại thật giàu sang trên đất nước Trung Quốc mênh mông này. Có phải chính cái giàu sang này đã làm cho Hốt Tất Liệt nhớ đến câu nói nổi tiếng của ông nội chăng? Hay là vì cái xa hoa của cấm cung Trung Quốc làm cho y sa đọa rồi và làm cho y lo lắng đến đàn con? Có thể cả hai nhưng chắc chắn rằng quyền uy trên đất nước mênh mông này làm cho y khát khao một quyền uy trên một đất nước mênh mông hơn nữa. Quyền uy làm cho con người thành lang sói, ăn không đã thèm, lúc nào cũng như một con thú đói. Bây giờ thì y đã già rồi, mộng chinh chiến chiếm đoạt làm cỏ những nước láng giềng đã khó tự thực hiện thì y sai các con y làm. Một đứa con của y đang về kia.

    Thoát Hoan là hoàng tử thứ chín của Hốt Tất Liệt. Đó là một chàng trai có vẻ đẹp mà nhiều tiểu tiết trái ngược nhau. Gã có một tấm thân cường tráng của giống người du mục quanh năm cưỡi ngựa trên thảo nguyên, nhưng bộ mặt của gã lại là một bộ mặt thanh tú pha máu nòi Nam Tống, tóc đen, mắt đen. Dáng gã ngồi ngựa lịch sự nhưng ánh mắt lại là mắt của giống chim đại bàng ăn thịt sống của vùng hoang mạc xa xôi.

    Thoát Hoan đã đến cửa thành. Giàn kèn vòi tu tu thổi một điệu mừng trầm trầm buồn buồn.

    Giữ tục thượng võ của dũng sĩ du mục thảo nguyên, Hốt Tất Liệt không ngồi trên ngai vàng đón con vào chầu mà Thoát Hoan cũng để nguyên quần áo phủ bụi đường đến gặp vua cha. Hốt Tất Liệt xuống cổng thành. Thoát Hoan đi rất nhanh qua cửa lớn vòng thành thứ nhất vào khu điện các, nơi làm việc của các quan văn võ trong triều. Thoát Hoan đi rất nhanh qua cổng vòng thành thứ hai sang khu đại điện. Đây là nơi hoàng đế nhà Nguyên thiết triều. Hốt Tất Liệt đứng trên thềm son chờ con. Bên trái y là Tả thừa tướng A Mê, một khối óc trí lự, một tín đồ theo đạo Hồi, bên phải là Hữu thừa tướng A Lý Hải Nha, công thần khai quốc, người đã chỉ huy cuộc công chiến diệt nước Nam Tống, cuộc công chiến đã đem lại cho Hốt Tất Liệt ngôi vua trên cả một đất nước Trung Quốc mênh mông. Thoát Hoan định lạy bố, nhưng Hốt Tất Liệt đã ngăn lại.

    - Thưa cha, con đã trở về!

    Hốt Tất Liệt ngắm đứa con yêu. Thoát Hoan mặc một chiếc áo lông chuột tuyết màu xám tro. Những vệt tuyết tan còn chảy đẫm hai vai áo. Một chiếc mũ lông cáo rất dày có chỏm nhọn bằng vàng. Ngang sườn Thoát Hoan cài một thanh kiếm Ba Tư lưỡi cong rất quý. Bụi đường và tuyết phủ trắng lông mày, lông mi gã hoàng tử trẻ. Hài lòng về con nhưng Hốt Tất Liệt vẫn làm ra vẻ nghiêm khắc:

    - Con ta đi đường có vất vả lắm chăng?

    - Thưa cha, nỗi vất vả đường trường ấy sánh sao được với sự gian lao của cha những lần đánh đông đánh tây.

    Hốt Tất Liệt cười lớn. Hốt Tất Liệt sai nội giám đưa hoàng tử Thoát Hoan đi thay quần áo mới. Chiều tối hoàng cung mở tiệc mừng hoàng tử đi hành hương về mạnh khoẻ. Những cung tần mĩ nữ kén từ hàng chục nước xa lạ múa chầu, họ tấu những khúc nhạc của các nước chư hầu xa xôi, họ hát những bản nỉ non ai oán trong khi các tướng ăn uống như hùm cuốn. Gần nửa đêm tiệc mới mãn. Thoát Hoan lạy vua cha xin về phủ lập ngoài hoàng thành nhưng Hốt Tất Liệt giữ lại. Hoàng đế nhà Đại Nguyên nói:

    - Đêm nay cha con ta sẽ ngủ chung.

    Hốt Tất Liệt dẫn con từ khu Đại điện vào nội cung nhưng cũng không dừng lại ở khu này. Hai cha con lại qua một vòng thành nữa vào đến khu chính giữa. Đây là một khu đất rộng không có một công trình xây dựng nào. Nó chỉ là một bãi cỏ rộng mênh mông. Giống cỏ này lấy từ bãi cỏ thiêng bên bờ sông Ônôn đem về trồng ở đây. Hốt Tất Liệt luôn luôn tự nhắc mình để khỏi quên đất tổ Ônôn. Nơi ấy, lần đầu tiên các bộ tộc du mục thảo nguyên họp đại hội Kurintai bầu Đại Hãn, chúa tể của các bộ tộc Thát Đát và của cả muôn loài.

    Hốt Tất Liệt sai các khiếp tiết dựng một lều trận ở giữa bãi. Cái lều bằng nỉ đen lợp trên một bộ khung bằng gỗ. Trong lều, Hốt Tất Liệt sai trải hai tấm da gấu tuyết và thắp một đĩa đèn thô sơ bằng mỡ cừu. Hốt Tất Liệt bảo con:

    - Ngày mai con sẽ được trao quyền đại tướng đi đánh phương nam. Đêm nay cha con ngủ trên thảm cỏ thiêng. Mong rằng cỏ thiêng nhắn nhủ con ghi nhớ dòng giống anh hùng của chúng ta.

    Tất cả các tướng tùy tùng đều phải ra ngoài vòng thành.

    Hốt Tất Liệt và Thoát Hoan vào lều trận. Trong lều lợp lụa đỏ. Trên những cọc lều treo những vật tùy thân của một nhà quý tộc Thát Đát: Một bộ yên cương nạm vàng, hàm thiếc và bàn đạp cũng bằng vàng, một cây thương chín đốt có ngù làm bằng lông đuôi ngựa nhuộm đỏ, một cây cung cánh dài của bộ binh, một cây cung cánh ngắn dùng khi cưỡi ngựa, cả hai cánh cung đều sơn son rất đẹp, một ống tên làm bằng gỗ bọc gấm thêu con đại bàng đang bay, một cái roi ngựa tết bằng gân cừu, một thanh kiếm Xa Mắc Căng, nơi rèn khí giới nổi tiếng thế giới, một cái que bằng trúc Thiên Sơn cán làm bằng sừng dê núi. Cái que này dùng để gợt mồ hôi ngựa lúc tắm cho chúng. Nó được cài vào hia và là vật không thể thiếu được của một dũng sĩ Thát Đát.

    Trong lều còn có một cái vò sành đựng sữa ngựa và hai cái bát gỗ mộc. Hốt Tất Liệt rót sữa ra hai cái bát.

    - Cha ông ta chỉ uống thứ này thay nước, thế mà các vị đã lập nên biết bao vương quốc.

    Đêm ấy hai cha con Hốt Tất Liệt nằm trên thảm da gấu nhưng cả hai đều không ngủ. Hoàng đế nhà Đại Nguyên nói cho con nghe kế hoạch đánh chiếm nước Đại Việt.

    - Chúa tôi nước này không chịu thần phục chúng ta. Chúng ta là thiên triều. Chúng ta muốn mở cương giới xuống biển phương nam. Nước Đại Việt lại án ngữ con đường nam chinh của chúng ta mà hai mươi nhăm năm trước quân ta đã bị họ đánh cho thua to cho nên không thể không trừng trị. Đánh vào Đại Việt phải tiến quân mấy mặt. Ta đã sai Toa Đô đem quân vào Chiêm Thành rồi. Khi con xuất quân, hai mặt thủy bộ cùng tiến, Toa Đô sẽ từ mé nam đánh úp vào lưng nước Đại Việt.

    Hốt Tất Liệt bình tĩnh dặn dò con. Thoát Hoan sẽ có một cánh quân tinh nhuệ gồm người man mặc áo đen, man áo trắng tiến từ nước Đại Lý cũ vào mé tây bắc nước Đại Việt. Quân chủ lực sẽ chọn những tu man Thát Đát thiện chiến nhất cưỡi toàn ngựa Đại Lý. Ngựa thảo nguyên không chịu nổi khí hậu nóng nước Việt. Quân thủy sẽ chọn người Hán vùng Lưỡng Quảng. Quân bộ có các chiến cụ đánh thành cũng là quân Hán. Lương thảo biện ở vùng mé nam sông Đại Giang.

    - Đại Việt thạo sông nước, lại có một đội voi trận rất ghê gớm. Nhưng quân thiên triều là vô địch. Con sẽ có những tướng lỗi lạc và thâm trầm nhất.

    Hốt Tất Liệt kể tên A Lý Hải Nha. Tên này đã chỉ huy cuộc đánh diệt nhà Nam Tống. Hắn đánh bộ giỏi, đánh ngựa cũng giỏi, biết dùng lửa, dùng nước làm vũ khí, biết chiêu hàng, biết làm cỏ.. Nói tóm lại, hắn là danh tướng bậc nhất của Nguyên triều. Ngoài ra còn Lý Hằng, người đã đánh bại tể tướng nhà Nam Tống ở mỏm Nhai Sơn. Gã là một tên tướng Hán rất thông thạo dân tình mé nam. Còn Ô Mã Nhi, dũng tướng vô địch người Hồi Hột. Còn Lý Quán, gã gian thần nhà Tống đầu hàng, thằng này rất giỏi việc đánh thành..

    Rút lại Thoát Hoan sẽ có một đội quân đông và thiện chiến đủ ngựa, đủ thuyền, một kế sách đánh chắc thắng rất hiểm ác. Và nếu thắng, ngôi vua nước Việt sẽ về tay Thoát Hoan, và cả ngôi Đại Hãn nữa. Khác với nhiều nước, ngôi vua thường về con trưởng, người Nguyên có tục các con lớn đi mở nước ở nơi xa rồi làm vua nơi ấy, ngôi vua đất gốc hay truyền cho con út.

    Mờ sáng Hốt Tất Liệt nhắc lại cho con nghe sự tích ra đời của người Thát Đát. Sự tích cũ kể rằng ngày xưa trên thảo nguyên mênh mang chân núi Thiên Sơn có một con sói thần lông xám. Nó chính là tổ của người Thát Đát. Một nạn lụt lớn xảy ra. Muôn loài đều bị cuốn trôi đi, chỉ còn một đôi trai gái Thát Đát sót lại giữa một hẻm núi bốn bề vách dựng đứng thấu trời. Họ sinh con đẻ cái. Họ phát rừng trồng lương thực và chăn nuôi gia súc. Đây là một thung lũng rất phì nhiêu, nhưng lạ thay giông tố luôn luôn giáng xuống, mỗi lần có giông tố thì sấm sét nổ ra dữ dội, sét đánh vào các chỏm núi, sét đánh sạt cả những chỏm núi. Tuy thế, dân trong thung lũng đông dần lên. Đến lúc cái lũng không chứa nổi số dân nữa. Họ tìm đường thoát khỏi vách núi nhưng không sao trèo qua được. Nếu chịu bó tay thì sẽ bị chết đói hết. Mãi sau có người tìm ra tại sao sấm sét cứ đánh vào vách núi mãi: Đó là vì nó chứa sắt. Bộ lạc chia ra làm ba đội. Một đội gồm những chàng trai khoẻ mạnh nhất, họ đi đẵn tất cả cây cối trong lũng đem về làm củi. Một đội khác gồm những cô gái Mông Cổ đảm đang khéo tay, họ làm thịt tất cả gia súc lấy da khâu thành nhưng túi hơi làm bễ thổi lửa nung vách núi. Việc đốt lửa giao cho đội thứ ba gồm toàn người già yếu trông lửa nung vách núi. Họ nung mười ngày chín đêm, vách núi đỏ rừng rực rồi chảy thành một dòng suối sắt đỏ xuống đồng bằng. Những người Thát Đát theo dòng suối thép cũng tràn đi. Họ trở thành những dũng sĩ vô địch, đi mở nước, mở rất nhiều nước. Họ là những người sinh ra để cai trị muôn dân tộc khác.

    Hốt Tất Liệt nằm ngửa trên tấm da gấu, kể cho con nghe sự tích Sói thần lông xám và núi sắt bằng giọng kiêu hãnh, bồi hồi.

    - Ông nội ta khi lên ngôi Đại Hãn đã ban ra một bộ luật Yassa để cho thiên hạ tuân theo. Đại Hãn đã sai mười bảy vạn tù binh lấy đá xếp điều luật thứ nhất lên trên đỉnh Thiên Sơn.

    Thoát Hoan biết điều luật ấy và đã nhìn thấy nó trên đỉnh núi rất cao. Nó được xếp bằng những tảng đá thành một hàng chữ khổng lồ, mỗi chữ có chiều dài bằng ba mươi tầm tên. Cách Thiên Sơn vài trăm dặm, nếu tốt trời người ta có thể đọc dễ dàng điều luật đó:

    "Nếu trên trời chỉ có một Thượng đế vô hình thì dưới đất cũng chỉ có một vị chúa tể hữu hình: Đó là ta, Thành Cát Tư Hãn!"

    Nằm trên cỏ thiêng, nghe kể sự tích oai hùng, không dễ mấy ai được diễm phúc như hoàng tử Thoát Hoan.

    Sáng hôm sau hoàng đế nhà Đại Nguyên Hốt Tất Liệt phong tước vương cho con trai. Chính hoàng đế chọn mĩ tự cho tước vương của Thoát Hoan: Trấn Nam vương. Chỉ riêng điều đó đã chứa đựng ý tứ sâu xa. Chiếc lều trận ngủ đêm trước cũng được ban cho Trấn Nam vương theo tục "cấp vốn" của Thát Đát. Hốt Tất Liệt bảo con trai:

    - Ngôi báu cũng phải tự mình đi kiếm lấy, vương quốc cũng phải do mình chiếm lấy. Có thế hai phía mới xứng với nhau. Thiên tử mà mất ngôi còn nhục hơn con chó ghẻ bị bầy đuổi đi. Ngày xưa cố nội ta lúc còn là tù trưởng phiên trấn mà trong tiệc đại hạ, người giả say rượu chếnh choáng cứ nắm râu thiên tử nhà Tống mà giật lia giật lịa. Thế mà vua nhà Tống sợ, cứ phải chịu thôi. Con sẽ xuống phía nam núi Ngũ Lĩnh sắp sửa binh lương. Con sẽ dùng ngọn thương này mở đường đến ngôi vua của mình.

    Lễ mừng thân vương Thoát Hoan diễn ra tưng bừng ở kinh thành Đại Đô. Nhưng sự việc đáng lưu ý trong ngày hôm đó lại là mệnh lệnh lập hành tỉnh Kinh Hồ và cử A Lý Hải Nha coi việc của Hành tỉnh này. Đây chính là Mạc phủ của Trấn Nam vương Thoát Hoan và là bộ não điều khiển việc sửa soạn binh lương, quân tướng, xe ngựa, thuyền bè cho cuộc tiến quân đánh Đại Việt sắp tới.

    Chọn A Lý Hải Nha làm người phò tá cho con trai, Hốt Tất Liệt tin rằng đúng. A Lý Hải Nha là một tướng gốc Hồi Hột đã từng chinh chiến nửa đời người, một lão tướng rất mưu lược, trầm tĩnh, sâu sắc và tàn ác. Công lao tiễu phạt Nam Tống và mở nước Đại Nguyên đã đưa A Lý Hải Nha lên địa vị cực phẩm của triều đình. Ngay từ những năm trước đây, lúc Thoát Hoan chưa đến tuổi được đội mũ, Hốt Tất Liệt đã chọn A Lý Hải Nha làm quan tư giảng để coi sóc việc dạy dỗ cho Thoát Hoan thành một người đủ tài mở nước. Để tỏ bụng tin yêu, Hốt Tất Liệt cho phép A Lý Hải Nha nhận lễ vương sư của Thoát Hoan.

    Hốt Tất Liệt bảo A Lý Hải Nha:

    - Ở vùng Kinh Hồ muốn lương thảo có lương thảo, muốn ngựa có ngựa tốt nước Đại Lý, muốn thuyền có thuyền Lưỡng Quảng. Các ngươi sẽ có những binh tướng Lĩnh Nam trèo núi không thua gì người Giao Chỉ. Các ngươi cũng sẽ có những binh tướng thạo nghề sông biển như người phương nam. Nhà ngươi đã là công thần khai quốc của ta. Tên ngươi đã được khắc lên sách vàng. Bây giờ nhà ngươi mang ấn vàng thao gấm đi phò tá con ta. Hãy cố sức đem uy danh của thiên triều đến mở mắt cho bọn man di phương nam. Nhà ngươi phải kính cẩn vâng nhớ ý trẫm!

    Hốt Tất Liệt sai treo đèn lồng ở vườn hoa mẫu đơn để tiễn hai tướng lên đường nam chinh cho trọng thể.

    Trưa hôm sau nữa, theo lời tâu của quan giám tòa Khâm Thiên giờ Ngọ là giờ tốt, Thoát Hoan và A Lý Hải Nha rời Đại Đô lên đường xuống Lĩnh Nam. Hốt Tất Liệt cho một nghìn thân quân Thát Đát đi theo làm đội hộ vệ đặc biệt của con trai. Nghìn quân này do tên tướng tước Vạn Hộ hầu Lưu Thế Anh chỉ huy. Hốt Tất Liệt cũng thăng cho Lưu Thế Anh từ tước hầu Vạn Hộ đeo thẻ phù chạm hình con hổ có hai hạt minh châu lên tước thẻ phù có ba hạt châu.

    Một kẻ đã được nuôi dạy để đi mở nước làm vua, một kẻ mang trong huyết quản dòng máu kẻ cướp của bọn thảo tặc, một kẻ mang trong giấc mơ tiếng ru man rợ của chó sói, một kẻ mang trong tim cái định kiến thiên triều con trời tối ư ngu xuẩn, đã lên đường đi đánh cướp nước Đại Việt như thế đó.

    Trong lúc giàn kèn vòi của hoàng thành Đại Đô thổi tu tu để tiễn Trấn Nam vương Thoát Hoan thì cấm quân cung thủ Đại Đô bắn tên sơn đỏ tứ tung ra tám hướng để báo với thần sông thần núi các nơi biết mà phù trợ cho con trai của hoàng đế thiên triều. Kinh thành ăn mừng trước một chiến thắng lẫy lừng. Duy một nghìn gia đình của những người lính trong đội quân của Lưu Thế Anh là không vui.
     
  2. Mạc Hồng Viên

    Bài viết:
    184
    Chương 11

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Thoát Hoan rời Đại Đô được hai ngày thì ở nước Đại Việt cuộc triều hội các vương hầu họ Đông A diễn ra tưng bừng trên bãi Bình Than, cái bãi cát mênh mông được gọi là hòn châu có sáu rồng chầu. Sáng tinh mơ hôm ấy, các vương hầu từ chỗ đóng quân ở các bến thuyền có quy định trước, đáp thuyền nhẹ về Bình Than. Chung quanh bãi, những đội quân thủy tuần sát bằng những chiếc chải sơn then trường mình như đàn cá trong thần thoại. Ở mũi thuyền, những người cầm trống gõ nhịp cho trạo nhi từng tiếng tong tong. Những lá cờ đại, những lá phướn các màu cắm la liệt, một khu nhà rạp rất lớn cất trên một khu đất cao nhất bãi. Trước khu nhà, một lá cờ to bằng bốn chiếc chiếu màu đỏ trên đính chữ Trần bằng nhung đen. Chữ này do chính tay Trần Nhật Duật viết trên giấy rồi thư nhi theo hình cắt chữ trên nhung. Nét chữ của Trần Nhật Duật nom thật xương kính, trộn cũng không lẫn. Giáp binh túc vệ Thượng đô đeo kiếm tuần sát quanh khu nhà rạp, còn quân gia đồng hương Vạn Kiếp dưới quyền chỉ huy của hai gia tướng Yết Kiêu và Dã Tượng đứng thị lập ở ngoài rìa. Người ta còn thấy những người lính gia đồng ở thái ấp cũ An Sinh cũng có mặt dưới sự chỉ huy của Nguyễn Địa Lô.

    Lúc chuông chùa Phả Lại thỉnh hồi chiêu, Chiêu Minh vương và Hưng Đạo vương phò hai vua xuống thuyền ở bến Vạn Kiếp. Con thuyền Long Phụng nhổ sào chậm mất một khắc vì một chiếc thuyền đinh lướt qua bến theo lõng nước chảy xiết gần bờ. Thượng hoàng sửng sốt vì sự táo tợn của chủ thuyền. Người chú mục nhìn những người ngồi trên đầu thuyền đinh và kinh ngạc nhận ra vẻ mặt của một người thân. Người phán nhỏ với đức ông Chiêu Minh:

    - Kìa! Đúng là cái thằng hỗn láo ấy nó ngồi kia!

    Đức ông Hưng Đạo lại nghe tiếng và cũng nhận ra cái người cầm lái cái thuyền hỗn hào dám chẹn trước mặt thuyền Long Phụng của vua. Trần Quốc Tuấn nói ngay:

    - Nhân Huệ vương rồi. - Và Hưng Đạo vương tâu vua: - Tâu bệ hạ, xin cho triệu ngay Nhân Huệ vương đến Bình Than. Việc chống giặc chắc chắn phải cậy tới quân thủy mà người thạo thủy chiến không ai hơn nổi Nhân Huệ vương.

    Thượng hoàng rất đẹp lòng nói:

    - Để Quan gia xuống chỉ triệu cho thuận phép nước.

    Trần Nhân Tông vâng lời cha bèn sai ngay các quan cận thần đem thuyền nhẹ đuổi theo chiếc thuyền đinh.

    Khi đoàn thuyền vua đến Bình Than, vị vương chủ hội là Chiêu Văn vương đã dàn quân hổ bôn đứng nghênh đón từ bến thuyền.

    Tiếng tung hô vạn tuế vang dội cả một vùng sông nước mênh mang. Trống đồng đánh điệu mừng. Quân Long Dực, Hổ Dực giơ khiên đao múa bài đại hạ. Các vương hầu hôm nay không mang võ khí nhưng đều mặc áo chiến nên họ không lạy mà chỉ vái hai vua theo lệ quân ngũ.

    Thánh Tông bước vào nhà rạp. Trần Nhật Duật đã khéo bài trí bên trong nhà rạp như bạch hổ đường của tướng võ. Trên vách tường hậu bằng tre đực ken dày treo những lá mộc của các tướng thao lược nhất của triều Trần. Đây là chiếc mộc bằng gỗ bọc da trâu sơn xanh tròn to như cái nong, trên vẽ bảy vì sao theo nhóm tinh tú. Đó là tướng huy của đức ông Chiêu Minh. Đây là chiếc mộc khác sơn màu cỏ áy trên vẽ mặt trời mặt trăng hai màu chu sa và nguyệt bạch. Đó là tướng huy của đức ông Tĩnh Quốc. Đức ông Tĩnh Quốc vốn là người giỏi binh pháp của phái Âm Dương. Người ta còn nhận trên những lá mộc khác tướng huy của các đức ông Hưng Đạo, Chiêu Quốc, Tá Thiên.. trong đó lá mộc của đức ông Chiêu Văn vẽ tướng huy chòm sao Thiên Đồng.

    Nền nhà rạp trải sàm sạp một thứ chiếu cói thô vẽ hoa đỏ. Những chiếc kỉ nhỏ bày thành hai hàng liền nhau trên để sẵn giấy mực nghiên bút. Đầu nhà rạp, xoay lưng vào vách treo mộc là hai chiếc kỉ chạm rồng sơn son. Trên kỉ bày sẵn hai chiếc ống bằng gỗ. Hai chiếc ống này đựng thẻ phù và tín bài. Khi hai đức vua đã cho phép các tướng ngồi thì quan tướng vương tá là Trần Nhật Duật đem phù và bài cắm vào ống.

    Tất cả đã ngồi yên. Quan tướng giữ việc điển nghi là Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng tâu vua rằng kẻ lạ mặt trên thuyền đinh đã bị bắt giải về Bình Than rồi. Nhân Tông sai dẫn người đó vào. Người ấy chính là Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư. Một Nhân Huệ vương gân guốc, ánh mắt bướng bỉnh giễu cợt trong một bộ quần áo ngắn may bằng vải thô nhuộm chàm. Trần Khánh Dư lại còn khoác một cái nón mê, màu lá nón đã mốc. Các vương hầu muốn cười mà không dám, vì ai nấy đã từng biết tính nóng nảy và hay gây gổ của Nhân Huệ vương ngay từ khi ông còn giữ chức Phiêu kị đại tướng quân ở kinh thành.

    Nhân Huệ vương đường hoàng đến trước mặt hai vua bỏ nón xuống rồi mới làm lễ triều bái. Sau đó ông ngoảnh sang hai bên vái chào các vương hầu. Thượng hoàng cười bảo Trần Khánh Dư:

    - Ta không ngờ một trang nam tử lẫm liệt mà bây giờ đến nỗi này!

    Trần Khánh Dư kiêu hãnh:

    - Thưa vua anh, áo em cộc nhưng thân này vẫn cứng cáp hữu dụng như xưa.

    Thượng hoàng phán bảo Trần Khánh Dư rằng bây giờ là lúc đem cái thân hữu dụng ấy ra mà giúp nước. Thượng hoàng cho phép Trần Khánh Dư ngồi cuối hàng vương trên hàng hầu.

    Cuộc triều hội vừa mới bắt đầu đã sôi sục ngay. Không ai là không muốn bộc bạch lòng mình khi Thượng hoàng hỏi về thế nước. Thượng hoàng hỏi ba câu:

    Một là chúa Trung Quốc nhà Đại Nguyên muốn gì? Quân Nguyên đã vào Chiêm Thành, triều Nguyên dụ ta cấp lương và cho mượn đường bộ để đem quân vào Chiêm Thành.

    Hai là ta nên đối phó thế nào?

    Ba là phải làm gì ngay bây giờ?

    Cả ba câu hỏi này thực ra hai vua đã bàn bạc kĩ với các đức ông Tĩnh Quốc, Chiêu Minh và Hưng Đạo.

    Về câu hỏi thứ nhất, có người phân vân rằng nếu giặc muốn đánh ta thì chúng sẽ tiến quân vào bờ cõi chứ còn mượn đường làm gì cho thêm phiền phức thế. Thế là cuộc triều hội sôi sùng sục lên ngay. Thượng hoàng cho phép các vương hầu lần lượt nói. Ai nấy đều cho rằng giặc dù muốn đánh ta nhưng cũng phải có cớ. Nhưng mượn đường mà là cớ thì không ai giảng giải cho rõ được.

    Đến lượt đức ông Hưng Đạo. Trần Quốc Tuấn nói:

    - Giặc có mưu hiểm ác đánh ta. Hiện nay Hốt Tất Liệt gồm cả tính chất hung hãn thiện chiến của người Thát Đát du mục lẫn cả cái thâm hiểm sâu xa có mưu toan của các vua chúa Hán. Hắn không còn như ông nội hắn xưa kia, mỗi khi đánh chiếm một nước nào là cướp hết của cải, giết hết người dân mà hắn sẽ chia quận huyện để cai trị, lột da lột thịt trăm họ đời này qua đời khác. Lòng tham của Hốt Tất Liệt không đáy, nhưng hiện nay, ngoảnh về phía bắc, Hốt Tất Liệt vướng đất của dòng trưởng Lều Vàng. Ngoảnh về phía tây và tây nam, Hốt Tất Liệt cũng vướng đất của ngành thứ hai và ngành thứ ba, mặt đông là biển rồi. Chỉ còn phía nam. Chỉ còn các nước ở vùng biển phương nam giàu có này mới thực sự làm cho Hốt Tất Liệt thèm thuồng. Nhưng ngặt vì trước đây, sau khi bị thua ta một trận to thời Nguyên Phong, Hốt Tất Liệt đã phải cam đoan với ta là không đem quân sang xâm phạm bờ cõi nước ta và để ta giữ nguyên triều nghi, phong tục riêng. Giặc muốn xuống phương nam nhưng nước ta như cái then đóng cửa đường đi của chúng. Vậy theo ý thần, giặc muốn có cớ ta cưỡng lệnh, để chúng chính danh tiến quân vào bờ cõi nước ta. Vả chăng muốn tiến quân không thể khinh thường mà cứ đánh bừa đi được. Những người thân tín mà ta cho sang nước chúng báo tin về rằng việc sắm sửa quân mã lương thuyền của chúng chưa đủ dùng cho một cuộc viễn chinh với một nước như nước ta đã từng đánh chúng đại bại. Như ý thần tính toán, giặc sẽ xuất quân khoảng một hai năm tới.

    Thật rõ ràng và chính xác. Mọi người đều bằng lòng. Ngay Chiêu Quốc vương đến lượt tâu vua, cũng phải nhận rằng ý kiến của đức ông Hưng Đạo thật sâu sắc.

    Ấy thế mà đến câu hỏi thứ hai của Thượng hoàng vẫn cứ có hai cách kiến giải khác nhau:

    - Mưu mẹo của giặc hiểm độc như vậy, lọ là phải bàn gì nữa. Cứ việc phát quân phòng thủ biên giới. Nếu chúng trưng lương, đóng thuyền thì tiến đánh đốt thuyền đốt lương cho mất hậu họa. Ý kiến này của các đức ông Tá Thiên, Chiêu Quốc..

    - Mềm dẻo giữ mối bang giao. Giặc phải sắm sửa binh lương, tướng tá. Ta cũng phải sắm sửa binh lương tướng tá. Thảng hoặc nước chúng có nội loạn mà cuộc binh đao không phải xảy ra thì đó là phúc lớn cho trăm họ và xã tắc nước Đại Việt. Kiến giải này của các đức ông Chiêu Minh, Chiêu Văn, Nhân Huệ..

    Kiến giải này làm đẹp lòng yên dạ hai vua. Nhân Tông cho ngừng cuộc triều hội ban ngự tửu cho các vương hầu. Nhân lúc này, vị vua trẻ đến gần Nhân Huệ vương. Nhân Tông cởi chiếc áo bào vàng ra, bên trong nhà vua mặc chiếc áo gấm tía hoa bạc thêu cầm kiếm. Nhân Tông ban chiếc áo tía cho Nhân Huệ vương. Vua phán bảo Trần Khánh Dư.

    - Dân ta có câu "đánh kẻ chạy đi chứ ai đánh kẻ chạy lại", chú Nhân Huệ nên nhớ câu đó.

    Đến lúc này thì Nhân Huệ vương rơm rớm nước mắt. Chắc rằng từ nãy đã có người thuật lại lúc Trần Khánh Dư lướt thuyền qua bến Vạn Kiếp thì đã có chuyện gì xảy ra trên thuyền vua nên Nhân Huệ vương sau khi tạ ơn vua đã vái đức ông Hưng Đạo hai vái.

    Thượng hoàng sai bày bánh trái và hoa quả để các vương hầu ăn cho thêm phấn chấn. Không khí trong nhà rạp thân thiết hẳn lên. Nghĩa chúa tôi lui bước nhường chỗ cho tình máu mủ thiết tha. Đức ông Chiêu Minh bưng một bát rượu lớn đến mời đức ông Hưng Đạo:

    - Anh là bậc tôn trưởng, xin mời uống trước cho cả họ mừng.

    Trần Quốc Tuấn đỡ lấy bát rượu từ tay Trần Quang Khải. Hai người nhìn nhau đăm đăm. Hai hôm vừa qua, các đức ông Chiêu Minh và Hưng Đạo đã gặp nhau tay đôi. Những gì họ nói với nhau trong cuộc gặp gỡ đó không được kể lại, có lẽ các nhà chép sử rồi cũng chịu không tìm ra được chuyện thực. Nhưng chỉ biết đêm trước đây, hai đức ông rủ nhau đi thuyền ngắm cảnh sông. Họ đi chơi hay bàn việc nước, việc họ hàng? Hay họ luận bàn về anh hùng hoặc tình người? Không một ai đoán biết được. Bằng vào nét mặt bình lặng của hai người, ai nấy cho rằng hai đức ông không còn sự xung đột về lí trí và tình cảm nữa.

    Riêng Trần Nhật Duật nhận xét thì vẻ bâng khuâng đã mất trên vầng trán của đức ông Hưng Đạo và thay vào đấy là mấy nếp nhăn hằn sâu thêm, dấu hiệu của những đêm suy tính căng thẳng.

    Trần Quốc Tuấn nâng bát rượu lên, ngập ngừng một lát, xúc động bồi hồi. Đôi mắt vị tướng già bỗng nhòa mờ. Trần Quốc Tuấn nói, giọng lạc hẳn đi:

    - Tôi con nước Việt kì vọng ở họ Đông A. Gánh nặng non sông xã tắc nặng trĩu trên vai chúng ta. Tôi mời các chú các bác uống bát rượu nguyền cả họ hòa vui đại thống. Nào, cả các cháu các con cũng uống với chúng ta đi.

    Đột nhiên một sự im lặng trang trọng làm mọi người nghẹn ngào, xúc động. Những bát rượu uống không ồn ào có sức thề nguyền thôi thúc lắm!

    Uống xong bát rượu, Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư trợn mắt quật cái bát vỡ tan trên mặt đất. Nhân Huệ vương nói như quát:

    - Xin thề một lòng một dạ tận trung báo quốc. Xin thề thà chết không làm tổn hại đến mối đại thống họ Đông A.

    Thế là tiếng thề cùng cất lên. Các vương hầu quật bát thề độc, đòi quỷ thần chứng giám lòng mình. Thượng hoàng nghiêm khắc nói:

    - Vậy thì bây giờ các khanh cho nghe cao kiến phá giặc.

    Các vương hầu bàn tiếp kế giữ kế đánh. Đột nhiên có tiếng xôn xao bên ngoài. Đức ông quan tướng điển nghi Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng phụng mệnh vua ra xem có chuyện gì đã xảy ra bên ngoài nhà rạp.

    Hưng Nhượng vương ra bến thuyền thấy lính túc vệ đang cố đuổi mấy chiếc thuyền nhỏ đậu ở bến. Đứng trên thuyền, ngoài đám gia đồng chân sào, còn có vài thiếu niên mặc áo vóc tía xúng xính.

    Một thiến niên đã nhảy được lên bờ, hai tay đẩy chiếc giáo túc vệ ngáng đường mình.

    - Dẹp ra! Tội vạ đâu đã có ta chịu! Ta đã bảo ngươi dẹp ra ngay!

    Hưng Nhượng vương lại gần đám xô xát. Viên tiểu tướng giữ bến thuyền thấy Hưng Nhượng vương thì mừng quá reo to:

    - Nào! Đức ông quan tướng điển nghi đã ra. Xem hầu gia còn nạt mắng anh em chúng tôi nữa không nào?

    - Ta đã bảo các ngươi cứ dẹp ra mà! Nào ta có nộ nạt gì ai đâu.

    Hưng Nhượng vương nhận ra người vừa nói là Hoài Văn thượng vị hầu áo tía Trần Quốc Toản. Hoài Văn hầu là cháu nội của Hoài Đức vương Trần Bà Liệt. So về thế thứ, Quốc Toản còn là anh họ của Hưng Nhượng vương. Viên tiểu tướng túc vệ thưa với Hưng Nhượng vương:

    - Bẩm đức ông, tiểu hầu gia nhất định đòi vào, không cho bề dưới chúng tôi làm tròn phép nước.

    Hoài Văn hầu lừ mắt:

    - Phép nước mà ngươi không giữ tròn thì chính ta cũng trị ngươi đến nơi đến chốn.

    Hưng Nhượng vương cười gạt đi:

    - Được rồi! - Ông nói với viên tiểu tướng:- Ta cho phép ngươi thu giáo lại. - Ông ngoảnh sang Hoài Văn hầu: - Thưa hầu huynh, vậy thì thế nào là làm tròn phép nước?

    Hoài Văn hầu cũng hay đến vương phủ Hưng Đạo chơi nên giữa hai người cũng có mối giao tình thân mật, nhưng hôm nay Hoài Văn hầu đang cơn bực tức và Hưng Nhượng vương đang làm việc quân nên Hoài Văn không dám suồng sã:

    - Thưa đức ông, viên tướng này làm việc quân khá lắm.

    Trần Quốc Toản ngoảnh ngay sang viên tiểu tướng:

    - Đây ta thưởng cho ngươi. - Trần Quốc Toản đưa ngay cho viên tiểu tướng cái quạt nhài vàng trong tay rồi lại quay sang Hưng Nhượng vương - Nhưng tôi cũng hiểu phép nước. Các vương hầu được Quan gia triệu về đại hội, tôi chẳng ra gì cũng là hầu tước thượng vị áo tía. Hầu tước thường còn được dự huống là tôi, sao lại ngăn đường tôi? Mà anh Hoài Nhân kia (Trần Quốc Toản chỉ vào một chú bé áo tía trạc mười ba tuổi) lại tập tước vương cơ mà.

    Hưng Nhượng vương ôn tồn nhưng nghiêm nghị:

    - Vậy hai thế huynh có mang bài chỉ Quan gia triệu không?

    Hưng Nhượng vương thấy mặt hai người ngẩn ra. Đại hội này chỉ triệu các vương hầu từ mười bảy tuổi trở lên.

    - Không có bài chỉ hả? Vậy thì hai anh vui lòng ra khỏi đất cấm để cho quân tướng bề dưới làm tròn việc quân.

    Trần Quốc Toản xoay ra nài nỉ Trần Quốc Tảng. Thiếu niên hầu tước kể lể rằng khi biết tin có đại hội thì chậm quá rồi, hai vua đã ngự giá sang đông cho nên cậu không tiến triều để xin vua cho bài chỉ vào dự đại hội được. Từ Thăng Long về đây hai cậu đã thay ngựa ba lần. Đến bến Đại Than, hai cậu phải đổi một chiếc lược vàng mới có được chiếc thuyền câu bé teo kia để đáp sang Bình Than. Bây giờ thì chết sống hai cậu cũng phải được bệ kiến Quan gia để thỉnh mệnh. Trần Quốc Toản tán:

    - Cho chúng tôi vào nhé!

    - Không được.

    - Cứ cho chúng tôi vào, tội vạ đâu chúng tôi chịu mà.

    Trần Quốc Tảng chỉ cái biển cấm:

    - Các anh mà vượt qua cái biển này thì cả tôi cũng rơi đầu.

    Hoài Văn hầu tức đỏ mặt nhưng cũng biết phép đành đứng thộn mặt ra. Hưng Nhượng vương ngoảnh ra hỏi một thiếu niên áo đỏ còn ngồi trên chiếc thuyền câu:

    - Còn anh tên là gì, tước gì để tôi thỉnh mệnh Quan gia luôn thể cho.

    Thiếu niên ngồi trên thuyền đẹp trai vô cùng. Anh ta có đôi mắt đen láng và cái miệng cười thì rất nghịch ngợm. Hai con mắt đen láng ấy thoáng loé lên hóm hỉnh. Anh ta đáp:

    - Tôi là Phi Liêm hầu.

    Trần Quốc Tảng gật đầu, quay về nhà rạp. Bỗng thấy Hưng Nhượng vương chân bước ngập ngừng. Hưng Nhượng vương ngần ngừ muốn quay lại rồi lại thôi. Phi Liêm! Mĩ tự này hơi lạ lùng. Phi Liêm là tên một vì sao trên trời, theo khoa chiêm tinh, coi về sự bay bướm và óng ả của các mớ tóc. Phi Liêm! Kể ra thì vẻ đẹp của thiếu niên ngồi thuyền cũng xứng với mĩ tự đó.

    Nhưng các thiếu niên không được vua cho vào dự đại hội. Nhà vua sai Trần Quốc Tảng mang ra ban cho mỗi người một trái cam và dụ họ trở về bến Đại Than đợi mệnh.

    Trần Quốc Toản uất người lên. Những người lính túc vệ đứng canh vừa thương vừa buồn cười mà không dám cười sợ ông hầu tước trẻ con này nổi giận đổ quạu. Cậu bé hầu tước trợn mắt muốn nạt muốn quát nhưng ở đây thì cậu nạt, cậu quát ai cho được. Quả cam trong tay Trần Quốc Toản bị bóp nát ra còn trơ bã và hai giọt nước mắt từ từ lăn trên má cậu.

    Trong lúc Trần Quốc Toản nhìn quanh tìm Phi Liêm hầu để gọi anh ta vào diện kiến đức ông Chiêu Văn nhưng không thấy anh ta đâu cả. Nhìn mãi ra xa, Trần Quốc Tảng nhìn thấy chiếc thuyền chở Phi Liêm hầu đang sắp sửa vào bãi Đại Than, chỗ cái bến dành cho những thuyền quá giang.

    Không một ai biết Phi Liêm hầu là ai, trừ một người theo hầu mặc áo chiến quân túc vệ hoàng thành. Đức ông Chiêu Văn khi biết lập tức truy tìm tông tích anh ta. Mãi sau này, theo lệnh của Trần Nhật Duật, quan Đại Doãn kinh sư tra soát mãi mới tìm ra tung tích Phi Liêm hầu: Đó là công chúa An Tư mặc giả trai, nàng cũng là người mang mặt nạ "thương phu trích lệ" vào dự tiệc rượu mặt nạ mo nang mấy hôm trước. Thái hậu phải bênh che mãi, cô công chúa út mới khỏi bị trị tội.

    Sau hai ngày bàn sôi nổi về kế đánh giữ, chiều hôm nay hai vua và tất cả các vương hầu về thái ấp Vạn Kiếp. Ở đây, từ trước vẫn thiết lập nhà thờ tổ mặc dù ở kinh sư vẫn làm nhà thái miếu trong hoàng thành. Nhà thờ ở đây là nhà thờ tổ do chi trưởng đèn hương phụng thờ. Thánh Tông sai quan điển nghi sửa lễ để hai vua và các vương hầu tế cáo tổ tông. Đúng giờ Ngọ quan điển nghi dâng hương. Tông trưởng Trần Quốc Tuấn mở cửa hậu cung, mở tấm màn lụa đỏ phủ bài vị, thần chủ nội ngoại tông tộc họ Đông A.

    Nhân Tông làm chủ tế, dẫn nội ngoại tôn tử tế tổ một tuần. Mục đích tế lễ này để cáo ngoại với tổ tông về mối đại thống họ Đông A ngày một thêm bền chặt. Lễ tế càng thêm long trọng lúc cha con Thánh Tông, Nhân Tông và hai đức ông Chiêu Minh và Hưng Đạo múa khiên thờ.

    Khiên của Thánh Tông vẽ rồng mây long vân khánh hội. Khiên của Nhân Tông vẽ con thuồng luồng uống nước. Khiên của đức ông Chiêu Minh vẽ chòm sao Bắc Đẩu. Khiên của đức ông Hưng Đạo vẽ thanh long vờn bạch hổ. Quân sĩ dàn mấy hàng bên ngoài, khí giới sáng lòa. Trong nhà thờ, các vương hầu chia hai ban đứng nghiêm chỉnh. Chính giữa nhà thờ, chầu vào cửa giữa nội cung trải những chiếc chiếu dệt bằng cói thô. Hai vua và hai đức ông khoác khiên, cầm kiếm tuốt trần múa một bài khiên kiếm. Dàn trống đồng của quân Thánh Dực nổi một điệu quân trầm hùng.

    Trần Nhật Duật đứng đầu vương hầu ban tả. Một cảm xúc mãnh liệt làm đức ông hoàng Sáu thấy nóng ran cả người. Họ Đông A quả là một dòng họ thượng võ. Cáo với tổ tông rằng con cháu không buông lơi vũ khí, con cháu không quên tráng chí của tổ tông truyền lại chính là ý thành kính của hai vua.

    Trần Nhật Duật nhớ lại hai ngày sôi nổi vừa qua. Biết bao ý sâu lời hàm súc đã được tâu bày. Ý chí quyết thắng, ý chí quyết giữ từng tấc đất của giang sơn đã biểu lộ rõ rệt. Bây giờ đây, đứng chầu hai vua múa khiên thờ, Trần Nhật Duật chợt hiểu rằng nhờ khí thiêng sông núi mà mối đại thống họ Đông A mới xóa được những oán cừu truyền kiếp. Này kia, trên hai tấm da hổ trải hàng dưới, các đức ông Chiêu Minh và Hưng Đạo đang song song xoay khiên. Những cây kiếm sáng múa chậm chậm từng đường kiếm bí truyền của phái võ Tức Mạc. Vẻ mặt nghiêm khắc của Trần Quốc Tuấn, vẻ mặt cương cường của Trần Quang Khải bây giờ trở nên thân thiết với Chiêu Văn vương.

    Chiều hôm ấy, thái ấp Vạn Kiếp mở tiệc lớn. Nửa đêm tiệc tan, hai vua và quân tùy giá lên thuyền về kinh ngay trong đêm. Các vương hầu cũng chia nhiều đường thủy bộ khác nhau rời Vạn Kiếp. Họ được lệnh về Thăng Long bằng mọi cách sao cho kín đáo.

    Nửa tháng sau, triều đình cử lại một số chức trọng yếu:

    - Đức ông Chiêu Minh tiến phong đại vương và giữ chức Thái sư đầu triều.

    - Đức ông Hưng Đạo tiến chức Tiết chế coi quản chư quân thủy, bộ, tượng, mã.

    - Đức ông Chiêu Quốc thôi giữ chức trấn thủ lộ Tam Đái, chuyển trấn thủ lộ Đà Giang. Nhưng thực ra triều đình giao cho Chiêu Quốc vương luyện một đội quân tinh nhuệ để khi có chinh chiến xảy ra, giặc lấn ta mặt này thì Chiêu Quốc vương sẽ tiến quân đánh vòng ngay sang đất địch. Thế xung sát sẽ diễn ra và cuộc tiến quân của địch sẽ bị đập một trùy nặng.

    - Đức ông Nhân Huệ được phục tước vương, được tiến chức Phó đô tướng quân coi quản quân thủy, các bến thuyền, xưởng đóng thuyền chiến, xưởng bện thừng, xưởng dệt vải buồm. Nhân Huệ vương sẽ đóng ở Vân Đồn và chịu trách nhiệm kiểm tra thuyền buôn biển của lái buôn ngoại quốc.

    - Đức ông Hoài Thượng hầu Trần Văn Lộng tiến chức trấn thủ lộ Tam Đái.

    - Đức ông Chiêu Văn thôi giữ chức trấn thủ lộ Đà Giang. Trần Nhật Duật được tiến chức trấn thủ lộ Quy Hóa. Lộ này là một khu vực quan trọng nhằm án ngữ con đường tây bắc mà giặc có thể tiến quân sang. Đồng thời Chiêu Văn vương cũng được tiến chức Phó đô tướng quân coi quản phần việc phòng kẻ gian tế và việc phân phó do thám của ta sang dò tìm tin tức về giặc. Chính Trần Quốc Tuấn đã tâu vua trao chức này cho Chiêu Văn vương vì đức ông Chiêu Văn là một người trí lự và rất thông minh, quen biết rộng rãi nhiều người ngoại quốc. Ông cũng nói được nhiều thứ tiếng nước ngoài.

    Bên cạnh những việc thuyên chuyển chức tước, triều đình còn ban ra trăm họ nhiều lệ mới:

    - Bãi một nửa thuế ruộng, thuế bãi dâu.

    - Bãi hẳn thuế hóa vật của các phường lò rèn và đồ da.

    - Tuyển người giỏi sông nước vào các đoàn đội trạo nhi và cử Tá Thiên vương Trần Đức Việp ra ven biển lập thêm sáu sở đóng thuyền.

    - Thu đồ đồng và đồ sắt thừa trong dân.

    * * *

    Tất nhiên những việc ấy trước sau cũng lọt đến tai mắt của gã Đạt Lỗ Hoa Xích Buyan Têmua. Buyan Têmua đã mấy lần tiến triều diện kiến với vua ta để lục vấn nhưng lần nào vua ta cũng từ chối khéo. Nhà vua mở tiệc lớn đãi Buyan Têmua và tặng ngọc châu biển Đông cho gã. Nhà vua còn tặng Buyan Têmua cả những tảng trầm hương to đến mức ngay những bậc phú gia địch quốc của Trung Quốc cũng chưa bao giờ trông thấy.

    Cô gái Phi Liêm hầu không giả trai nữa. Cô lại trở về với cuộc sống quen thuộc với cô. Cô đàn cho các tì nữ nghe, rồi để cho họ trang điểm, để cho họ đeo vàng ngọc lên tai, lên cổ, để cho họ dâng hầu chén trà thơm.

    Rồi cô lại dẫn họ đi xem vườn hồng sau nội cung. Và tất cả ô, a như trên đời chỉ có cuộc sống nhiều kì thú như thế này thôi.

    Tết năm ấy, vua Nhân Tông trao ấn nguyên soái cho Trần Quốc Tuấn. Thế là Trần Quốc Tuấn phải tạm biệt thái ấp Vạn Kiếp trù phú có những chiếc cọn nước dẫn thủy nhập điền, có vườn cúc ẩn sĩ, có dãy nhà sách bằng trúc vàng lợp lá thông nhã thú, có căn phòng riêng sáng mát và yên ắng để về Thăng Long làm việc trong hoàng cung.

    Còn Trần Nhật Duật thì nay đây mai đó, lúc ở lộ Quy Hóa, lúc ở cửa Vân Đồn. Đức ông Hưng Đạo trở thành người nắm giữ tất cả mối rường trong quân đội, còn đức ông Chiêu Văn thì trở thành con người có hành tung kì bí nhất kinh thành Thăng Long và nhất cả nước nữa.
     
  3. Mạc Hồng Viên

    Bài viết:
    184
    Chương 12

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Đã lâu lắm Trần Quốc Tuấn mới trở lại thái ấp Vạn Kiếp thân thương, nơi ông sống bao nhiêu năm tháng nhàn nhã, xa cuộc đời bon chen, xa quyền thế, vui với những cuốn sách quý, vui với vườn tược cúc ẩn hương và nghiền ngẫm như một nhà hiền triết về chữ trung chữ hiếu.

    Đã lâu lắm ông mới lại ăn một cái tết ở nhà. Ngày ba mươi ông còn trên đường, ngày mồng một ông dừng lại một làng bên đường cái quan. Thế là các bô lão trong làng đem cờ lọng tế thần ra xúm xít rước Quốc công Tiết chế về ngôi đình làng. Đó là một làng nửa nông nửa chài. Sự trù phú, nết văn hiến của làng khiến Quốc công cao hứng ở lại qua ngày mồng hai. Mãi tới chiều mồng ba ông mới lên đường về Vạn Kiếp sau khi đã cầm trống trịch hội vật trong hai ngày hội làng.

    Mồng bốn, Vạn Kiếp mở hội võ mùa xuân. Từ hội võ trở về, ông đã gặp một người do con trai út của ông tiến cử. Đó là Đỗ Vỹ. Ông đã trao cho Đỗ Vỹ một trọng trách. Đỗ Vỹ sẽ phải bí mật đi ra nước ngoài để dò tìm những tin tức về địch. Điều quan trọng là Đỗ Vỹ phải bằng con mắt trí tuệ nhận xét về các tướng địch, về cách bày, cách chuyển lương để phán đoán cho ra hướng tiến quân của triều Nguyên.

    Ông đã gặp Đỗ Vỹ trong căn nhà dành cho con trai ông ngủ đêm ở đầu dãy nhà sách. Theo con mắt ông, Đỗ Vỹ quả có đủ trí lự và tầm mắt để tìm được những tin tức quý. Và đó thật là một con người tài hoa. Cái tài hoa ấy nếu gặp thời chắc chắn sẽ có chỗ đắc dụng. Bây giờ trước mắt ông, trên vách tường kia, còn treo bốn bức tranh do con người tài hoa ấy vẽ. Bức thứ nhất, Đỗ Vỹ vẽ mùa xuân ở cửa Đầu Quỷ. Bức thứ hai là cảnh đêm trăng hè ở cửa Vân Đồn. Bức thứ ba vẽ cảnh heo hút thu tàn ở rặng núi Yên Tử, còn bức cuối cùng vẽ một cảnh quen thuộc với Trần Quốc Tuấn. Đó là cảnh rừng bàng mùa đông ở phía bắc kinh thành Thăng Long. Bốn bức tranh vẽ thật có hồn. Ông đã từng đi qua các nơi đó. Ông cũng đã từng thưởng thức cảnh đẹp của những nơi đó vào đủ các mùa. Nhưng Trần Quốc Tuấn phải nhận rằng con người nghệ sĩ kia đã tinh lọc những cái gì tâm đắc nhất để đưa lên trang giấy nứa thô ráp và làm cho cảnh đó trở thành bất tử.

    Sáng hôm rằm tháng giêng, một chiếc thuyền chiến nhẹ cặp bến Vạn Kiếp đưa đức ông Nhân Huệ tới. Nhân Huệ vương đã quen cuộc sống dân dã nên mặc dù đã được phục tước và trao một chức cao nhưng ông vẫn mặc một bộ áo chiến bằng vải chàm bạc màu. Cho nên gia nô hương Vạn Kiếp không biết đã ngăn đức ông tại cửa rào chông của thái ấp và bắt Nhân Huệ vương xưng danh hiệu.

    - Ngươi vào trình với Quốc công có ta là Dư xin vào ra mắt.

    Câu nói nửa kính cẩn nửa suồng sã làm cho người gia nô đoán ngay ra. Anh ta vội mở rộng cửa mời Trần Khánh Dư vào chính đường. Sau đó một gia tướng vội đi thông báo có khách với Trần Quốc Tuấn. Chỉ một lát sau đã nghe tiếng Trần Quốc Tuấn oang oang:

    - Ông Phó đô tướng quân phải không?

    - Lạy anh. Em từ Vân Đồn tới theo lệnh đòi của phủ Tiết Chế.

    Trần Khánh Dư vái chào Trần Quốc Tuấn. Nom dáng của Nhân Huệ vương thật ngang tàng, cao ngạo. Cuộc đời chìm nổi chịu nỗi bất công đã làm cho Nhân Huệ vương luôn luôn có một cái nghiêng nhìn ngạo nghễ.

    - Ngồi xuống đây. - Trần Quốc Tuấn mời Trần Khánh Dư ngồi. Gia đồng bưng trà tới.

    - Trời rét ngăn ngắt mà em từ biển vào ban đêm chắc không ngủ được?

    - Thưa anh, đêm qua em ngủ lại ở mé bến dưới. Mãi sáng hôm nay em mới về đây.

    Nói xong Trần Khánh Dư trình Trần Quốc Tuấn những tờ cáo mật của các tướng thủy đạo về tình hình binh thuyền của ta và của quân Nguyên. Những bản cáo này là công lao của hàng trăm thám tử lành nghề đi thu thập tin tức. Họ đã phải trá hình làm người đánh cá, làm người lái buôn, làm người ngoại quốc và trải trăm nghìn nỗi đắng cay mới mang được về. Nhưng sau khi liếc qua, Trần Quốc Tuấn nhận ra tầm nhìn của những thám tử này không đủ rộng cho nên họ không rút ra được những điều chính yếu.

    Để những tờ cáo sang một bên ông từ tốn hỏi Trần Khánh Dư:

    - Nói đi. Thủy đạo cần cái gì bây giờ?

    Trần Khánh Dư biết tính Trần Quốc Tuấn làm việc gì cũng nhanh gọn, Nhân Huệ vương trình Trần Quốc Tuấn về đạo quân dưới quyền ông:

    - Quân thủy dư thuyền chiến nhưng thiếu nhiều thuyền vận tải. Nhất là những thuyền vận tải loại vừa. Những thuyền này dùng ở ven biển và trong các sông ngòi rất tiện. Thưa anh, xin cho lệnh gấp để đức ông Tá Thiên đóng sớm.

    Trần Quốc Tuấn trầm ngâm:

    - Có thể thay bằng thuyền nan được không? Dùng thuyền nan có lợi là dễ làm, tre bương không tốn kém lắm mà sau này khi tan giặc ta sẽ phải dùng tới nhiều gỗ. Nguồn lợi về gỗ không thể hao phí được.

    Trần Khánh Dư thấy ngay Trần Quốc Tuấn tính toán đúng.

    - Thưa anh, chỗ em có nhiều người biết đan thuyền nan.

    - Vậy thì em hãy lập lấy hai xưởng đan thuyền. Ừ, để ta xem nào.. Một xưởng nên lập ở cửa An Hưng, còn một xưởng lập ở cửa sông Mã. Ai coi thủy đạo cửa sông Mã?

    - Thưa anh, đức ông Văn Túc.

    - À, con trai của Thái sư. Thằng cháu này biết nhiều nghề khéo lắm. Giao cho y lập xưởng sông Mã.

    - Thưa anh, quân thủy thiếu nhiều câu liêm. Giáo và kiếm thì đủ, chỉ thiếu câu liêm. Ngoài Vân Đồn không có thợ rèn. Xin cho ít người giỏi nghề rèn để lập lò ngay ngoài đảo.

    - Được, em có nhớ viên gia tướng theo hầu ta ở Bình Than không nhỉ?

    - Bẩm, Yết Kiêu?

    - Không phải, người kia cơ, Dã Tượng cơ. Ta sẽ giao cho Dã Tượng ra ngoài đảo để dạy nghề rèn. Ta cho em mượn Dã Tượng một năm.

    Và Trần Quốc Tuấn kể qua về Dã Tượng cho Nhân Huệ vương. Dã Tượng vốn là người của trang Bát Đụn phủ Long Hưng. Trang này là điền trang do An Sinh vương Trần Liễu sau khi đã được triều đình tha tội đã bỏ của ra chiêu tập dân lưu tán về mở điền trang ở Bát Đụn. Lúc đó đất này còn là vùng lầy ven biển trải qua mấy chục năm khai phá, lấy nước sông Hóa dẫn thủy nhập điền đến nay đã thành ruộng tốt. Trần Quốc Tuấn đã cho lập ở đây một loạt đồn dân binh, lấy gia đồng thôn Bát Đụn và dân các hương chung quanh đóng để canh giữ hai cửa sông Hóa và sông Sinh. Ngoài số dân binh, Trần Quốc Tuấn còn đặt ở đây một xưởng thuyền chuyên đóng thuyền kiểu Chiêm Thành, loại thuyền lườn thon, mũi nhọn vượt thác rất tốt, và một lò rèn. Người chỉ huy lò rèn ở đây và coi việc xưởng thuyền chính là Dã Tượng. Dã Tượng rất giỏi nghề dạy voi. Anh ta cũng rất giỏi nghề rèn. Dã Tượng chính là cái tên mà bạn bè quý anh ta tặng cho anh ta. Nó có thể giảng ra là voi rừng hoặc người thợ rèn. Vì Dã chính là rèn.

    Trần Khánh Dư được Dã Tượng mừng lắm vì viên Phó đô tướng biết Trần Quốc Tuấn thấy việc rèn câu liêm là quan trọng nên mới cho Dã Tượng đi. Trần Khánh Dư đưa trình Trần Quốc Tuấn xem mẫu câu liêm định làm.

    - Bẩm đây là mẫu thường dùng ở trên biển của bọn cướp Trảo Oa. Nhưng chúng dùng cán dài hơn. Nay nếu ta dùng thì chỉ cần chọn luồng hoặc tre đực chừng trượng rưỡi là vừa.

    Trần Quốc Tuấn im lặng không nói thêm nữa. Ông biết nếu chỉ có bấy nhiêu việc thì Trần Khánh Dư đâu có chịu về mà về kín đáo trong đêm như vậy.

    Quả nhiên, Trần Khánh Dư đắn đo một hồi rồi nói:

    - Thưa anh, cách đây ba hôm thủy đạo Vân Đồn bắt được một chiếc thuyền gian tế.

    Thấy Trần Quốc Tuấn vẫn im lặng, Nhân Huệ vương tiếp.

    - Chiếc thuyền này chỉ có ba người. Hai người là phu thuyền đã bị bắn chết ngay khi chặn bắt. Người duy nhất còn lại đã nhai nuốt một phong thơ. Khi quan tuyển phong tra hỏi thì y cắn lưỡi tự tử. Thành thử vẫn không ra gốc tích y là người của ai.

    - Em nghĩ thế nào?

    - Thưa anh, chiếc thuyền này chắc có hẹn với một thuyền to ở ngoài khơi chờ. Thuyền ba người thì đi biển thế nào được.

    - Đúng đó. Sao nữa?

    - Bẩm, hắn nhất định đi Trung Quốc vì hành trang của cả ba tên đều có nhiều áo ấm.

    Trần Quốc Tuấn đăm chiêu:

    - Quần áo của chúng thế nào?

    - Bẩm, quần áo sang trọng. Vâng đúng là quần áo nhà sang. Riêng đôi hia bằng nỉ đen thì đúng là hia của các tướng tùy thân của các đức ông thân vương.

    - Những ai biết chuyện này?

    - Bẩm, chỉ bên đồn tuyển phong và em biết. Mà họ cũng không nhận ra đôi hia.

    - Vậy thì em không được nói cho ai biết về đôi hia ấy nữa nhé.

    Trần Quốc Tuấn sai dọn rượu cho Trần Khánh Dư ăn uống rồi trưa hôm ấy Nhân Huệ vương được lệnh về ngay Vân Đồn. Ở Vân Đồn, Trần Khánh Dư sẽ tra soát xem có những ai sẽ tới trong những ngày nối tiếp sau đây.

    Năm ngày sau Trần Quốc Tuấn nhận được cáo mật của Trần Khánh Dư:

    "Chỉ có mấy gia tướng của các đức ông Chiêu Minh, Chiêu Quốc và vài người nhà của viên thượng thư nhà vong Tống Tăng Uyên Tử."

    Đọc tờ cáo xong, Trần Quốc Tuấn chau mày suy nghĩ giờ lâu rồi cầm bút viết một thủ thư gửi đức ông Chiêu Minh.

    Nửa đêm về sáng, Trần Quốc Tuấn vẫn làm việc trong nhà sách với cậu thư nhi Trương Hán Siêu. Theo sự chỉ dẫn của ông, Trương Hán Siêu đang chép một cuốn sách ra những tờ mẫu để thợ khắc chữ lên ván in. Đó là bản in của cuốn Binh thư yếu lược.

    - Không được đá thảo. Cháu chép đá thảo thì đẹp đấy nhưng các tướng sĩ ít được học làm sao đọc được. Mà sách không đọc thông thì còn giá trị gì nữa. Đã gọi thợ khắc lên chưa?

    - Bẩm hai hiệp thợ mỗi hiệp sáu người.

    - Thưởng trước mỗi người một quan tiền. Thưởng chung một vò rượu ngon và một đôi gà béo. Cho họ nghỉ một ngày. Ngày kia bắt đầu khắc ván. Đã có gỗ mít chưa.

    - Bẩm các thứ dùng cho việc in đã sửa soạn từ trong năm.

    - Tốt lắm. À còn cụ Uẩn đã vào trong này ở chưa?

    Cụ Uẩn chính là ông già bến Bình Than đã cho Chiêu Văn vương thưởng thức món gỏi cá nhớ đời. Ông cụ chính lại là một trong những tay kiếm giỏi ngày xưa đi tùy thân theo Hiển hoàng. Trong ngày hội võ mùa xuân năm nay Trần Quốc Tuấn mới biết điều đó. Trần Quốc Tuấn đã thưởng cho ông cụ một chiếc nậm rượu và bảo ông cụ hễ nậm vơi thì cứ việc bảo gia tướng hương Vạn Kiếp rót cho đầy. Trần Quốc Tuấn cũng bảo ông cụ vào thái ấp mà ở.

    - Thưa Quốc công ông cụ vào được hai hôm lại xin ra. Ông cụ bảo ở trong này nó làm sao ấy, không ngủ được, ăn cũng không được, người cứ bần thần.

    Trần Quốc Tuấn cười:

    - Ta cũng vậy. Hồi mới về Thăng Long năm ngoái, ta cũng bần thần mấy tháng mãi sau mới quen dần đi đó.

    - Thưa Quốc công còn việc mở khoa thi năm nay?

    - Đó là việc của đức ông Chiêu Minh! Cháu muốn lên kinh dự thi à?

    - Bẩm không. Cháu xét thấy mình chưa đủ sức thi khoa này.

    - Thôi được. Triều đình không hẹp với ai cả. Nếu sau này lúc nào xét mình đảm đương việc nước được thì xin dự thi. Còn bây giờ việc ở Mạc phủ của ta cũng nặng lắm đối với cháu đó.

    Tất nhiên việc ở Mạc phủ của Trần Quốc Tuấn rất nặng nề. Có khi còn nặng và trọng yếu hơn việc trong một bộ. Nhưng Trần Quốc Tuấn hiểu lòng Trương Hán Siêu muốn có đỗ đạt để thành danh với người đời. Đó là một cách nghĩ chưa đúng, nhưng cậu bé thư nhi này còn trẻ. Cứ để thời gian sẽ làm cho cậu hiểu dần ra rằng kết quả công việc làm là giá trị, còn thi đỗ, làm quan chỉ là thứ phù phiếm, chẳng qua người đời mới hiểu có một mặt trong cách tuyển chọn người tài của triều đình đó thôi. Muốn chỉ khéo cho Trương Hán Siêu biết điều đó, Trần Quốc Tuấn đọc một lá sớ cho Trương Hán Siêu chép. Sớ tâu vua cử một ông lang lộ Thượng Hồng làm quan chữa thuốc cho đội quân đông bắc. Ông lang này có mấy phương thuốc gia truyền cực lạ. Một là cao dán vết thương. Vừa cầm máu chóng lên da non vừa làm vết thương không sưng tấy nên người bị thương rất dễ chịu. Hai là, ông ta nắn khớp tuyệt giỏi. Ba là một phương thuốc chữa đi tả hiệu nghiệm. Tuy thế nhiều quan ngự y ở kinh sư vẫn coi thường ông ta coi ông ta là thứ lang vườn. Bây giờ sớ tâu vua xin cử ông ta làm chức điều hộ quân trung hàm tứ phẩm hẳn làm cho các quan ngự y phải tức lồng lên.

    Trương Hán Siêu chừng đoán được ý của Trần Quốc Tuấn nên thảo xong sớ nhưng cứ cúi đầu im lặng.

    Đã hơn một năm trời, Trần Quốc Tuấn mới có dịp đi thăm thú vườn dâu tằm nhằm dịp tiết xuân. Dâu đầu năm đã hái lứa đầu, lại được bảy tám ngày mưa phùn liền nên lá ra xanh um. Đi trong vườn dâu không nhìn quá được một sải tay. Ông nghe thấy những người con gái trong nhà tằm tang của thái ấp đang vừa hái dâu vừa đùa cợt nhau.

    - Ôi chào, đã ba tháng rồi có được trông thấy nhau đâu. Biết người ta có giữ được lòng hay là người ta đã có mối khác.

    - Không. Tao biết. Trông anh ta không phải là người bạc đâu. Người bạc trông con mắt cứ láo liên lên chứ.

    - Thây kệ. Nhờ giời.

    - Con nỡm, giời nào trông nom cho hết những cái tủn mủn ấy. Việc của mày thì mày phải lo.

    - Lo cũng chẳng được. Việc quan đến, anh ta cứ phải đi biền biệt. Bây giờ nghe đâu đang ở tận cái nước Lão Qua nào ấy. Hình như để học bắt voi dạy voi chi chi đó.

    Té ra cô này ước hẹn với một người lính nào đó trong đội quân voi của ông. Từ mùa thu năm ngoái ông có cho một trăm người sang Lão Qua để mua voi, và học thêm cách nuôi, cách chữa bệnh cho những con thú dềnh dàng to lớn ấy.

    Trần Quốc Tuấn rời vườn dâu sang nhà tằm. Nơi này đang đổ kén. Những né tằm bằng bổi giắt những chiếc kén vàng ươm đang được những tang thất phụ gỡ ra nong. Mấy người đàn bà khác đang kéo tơ. Họ bỏ những chiếc kén vào trong những chiếc nồi nước sôi sùng sục. Khói bốc lên. Một mùi tanh bốc lên. Ở trại tằm, mùi tanh này chính là mùi của vụ tằm bội thu.

    Trần Quốc Tuấn rời nhà tằm. Những gia nô đi theo ông không hiểu vị tướng già nghĩ gì mà ngày hôm nay cứ lang thang đi từ bến thuyền qua xưởng thuyền, rồi từ tàu ngựa sang chuồng trâu, rồi lại từ vườn dâu tới nhà nuôi tằm. Trái với ngày xưa, ông không ngừng lại tra soát công việc mà vị tướng già cứ lặng nhìn những gia nô đang làm việc và lắng nghe những câu chuyện không đầu không đuôi ở chung quanh.

    Mãi tới xế chiều, ông trở về thái ấp rồi cho gọi Trương Hán Siêu và Yết Kiêu vào. Ông trao việc cho Yết Kiêu trước:

    - Ngày mai ngươi bảo quản trang cấp tiền cho ngươi lên kinh mua vải may áo. Ngươi đem theo hai mươi người lính và hai chiếc thuyền đinh. Quần áo chiến ba nghìn bộ. Hẹn hai tháng phải xong. Tiền nếu thiếu thì lấy thêm ở vương phủ Hưng Đạo.

    Ông thưởng trước cho Yết Kiêu và hai chục lính lên kinh mười hai quan tiền.

    - Phần nhà ngươi hai quan, còn cứ hai người một quan.

    Yết Kiêu đi ra rồi, Trần Quốc Tuấn ngồi yên lặng trước khi ngửng nhìn Trương Hán Siêu:

    - Bây giờ phải nghĩ cách chuyển dần các xưởng dệt, chuồng trâu, kho đụn vào trong núi Yên Tử đi. Ngày mai người lấy ngựa vào Yên Tử. Ngươi vào chùa chính bạch với sư cụ trụ trì rằng ta muốn nhờ sư cụ chọn cho một khu kín đáo để trữ lương, một khu nữa để đưa đàn bà trẻ con người già vào làm sẵn nhà ở và trại xưởng sẵn sàng. Khi sư cụ chọn chỗ cho rồi, ngươi trở về lo chuyển dần những cái gì không cần dùng ngay vào trong núi trước.

    - Bẩm, Quốc công lại lên kinh?

    - Đúng. Mai sớm ta khởi hành.

    Trương Hán Siêu nhìn vị tướng già, thấy vầng trán của người hằn sâu thêm mấy nếp nhăn.
     
  4. Mạc Hồng Viên

    Bài viết:
    184
    Chương 13

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Thấm thoắt đã hai năm qua. Hai mùa đông đã về. Mùa đông năm nay nữa với những ngày nắng hanh vàng suộm và những đêm mưa phùn gió bấc cắt thịt cắt da lại cũng là mùa bội thu.

    Hai năm qua, những người dân cày các lộ làm lụng cần mẫn trên những cánh đồng màu mỡ, những gia nô các trang trại ven biển lọc nước chạt, phơi muối, đánh cá và làm cá mắm, những người lính luyện tập bắn cung múa giáo trong Giảng Võ đường. Hai năm qua, các ông Học sĩ thuộc các viện và các đường thảo chiếu, chế, cáo, biểu.. phê trát cho liêu thuộc môn hạ.

    Trong hai năm ấy Trần Nhật Duật hầu như không có một ngày rảnh rang. Nay ông ở Thăng Long, mai ông đã ra một cửa biển để rồi vài ngày sau đó đã có mặt ở lộ Quy Hóa. Chiêu Văn vương lập Mạc phủ trấn thủ lộ Quy Hóa Giang ở chợ Ngọc bên bờ con sông Chảy. Ông thường mặc áo chiến ngắn vạt bằng vải chàm đi tuần thú trong lộ cùng với các tướng người sơn cước. Tướng quân Hà Đặc và em là Hà Chương, tước Quản quân Phụng ngự các động, các sách ở đạo Phù Ninh thường được Chiêu Văn vương chọn làm tướng theo hầu. Cũng chính từ lộ Quy Hóa, nhiều người được Chiêu Văn vương lựa chọn, đã trá hình lên đường, bí mật vượt ải sang nước giặc. Họ là tai mắt của triều đình. Họ được lựa chọn rất kĩ lưỡng và được đối đãi như bậc quốc sĩ anh hùng.

    Trong hai năm ấy, Trần Nhật Duật chỉ làm được có một việc riêng: Đó là việc bãi trồng dâu ở cái làng ven biển nên thơ mà ông yêu dấu. Theo lời tâu của ông, Quan gia hạ chỉ ban lệ Tiệt Cước. Lệ này "cắt chân" những phần đất phong của tất cả các vương hầu, phi tần, phu nhân. Thể lệ này, nếu sông nước bồi đắp thêm cho các bãi bồi thì số đất bãi được bồi đắp thêm ấy sẽ thuộc phần đất công của các làng xã. Tuy thế, Trần Nhật Duật vẫn lấy phần đất của mình ở bãi sông Cơ Xá ngay cạnh kinh thành Thăng Long để bù cho bà cung phi triều trước.

    Hôm nay một buổi sáng hanh giá, Trần Nhật Duật dẫn một đội quân riêng trở về đến kinh thành. Đội quân của ông được lệnh của phủ Tiết chế đóng lại ở rừng bàng phía bắc Thăng Long. Tuy rừng bàng xa Thăng Long mấy chục dặm đường nhưng người kinh thành vẫn rủ nhau lên để xem đội quân kì lạ của đức ông Chiêu Văn.

    Rừng bàng vào những ngày này đang trút lá. Cây đã phô bộ cánh gân guốc còn sót lại những chiếc lá cuối cùng màu tím đỏ.

    Hồ Dâm Đàm phủ một làn sương mỏng. Bóng thuyền của những người đánh cá lờ mờ, huyễn hoặc như trong một tích truyện xưa. Gió bấc hun hút. Trời lạnh lắm.

    Nhưng từ sáng sớm những người lính của Chiêu Văn vương đã làm náo động cảnh rừng già tiêu sơ. Họ gom lá bàng khô, nhóm lửa đốt sưởi. Khói lam đặc tỏa ra mù mịt. Lính hỏa đầu khoét bếp thổi cơm. Chỗ này một đám vật lợn, chỗ kia một đám làm thịt trâu. Lính các đô đã mang quang thúng đứng chực sẵn để chia thịt. Họ chuyện trò vui vẻ bằng nhiều thứ tiếng sơn cước. Họ mặc nhiều kiểu áo chiến khác nhau may bằng vải nhuộm chàm. Họ đi những đôi dép cỏ gọn nhẹ đan lấy. Có những người đeo vòng vía ở tay, có người đeo ở cổ. Thật là những người lính chất phác và dũng mãnh. Họ dùng những thứ binh khí rất lạ: Những lưỡi kiếm mỏng chuôi gỗ, vỏ gỗ, những lưỡi giáo ngắn, những cây dòng sắt hai ngạnh ngược chiều, những chiếc nỏ cánh luồng hun đen bóng, những ống suy đồng bắn những mũi tiêm thuốc độc. Thỉnh thoảng trong lúc đi lại, ống quần chàm bay lên để lộ chót bao dao găm đeo sát bắp chân họ. Nhưng họ cũng là những người lính thật tài hoa. Họ có những bộ lục lạc đồng thau đeo ở cổ tay, khi hai tay họ rung lên, tiếng lục lạc ròn tan, rậm rựt. Có người thổi kèn lau, có người thổi tiêu trúc, có người gõ bộ trống sáu chiếc. Họ chơi những khúc nhạc rất vui, trong khi đó một điệu múa thoáng nhìn tưởng như chậm chạp đã diễn ra trước những cặp mắt say mê của người kinh thành.

    Chiêu Văn vương giao quyền chỉ huy đội quân cho viên phó quan rồi dẫn một ngũ lính hộ vệ cưỡi ngựa về kinh thành. Ông về qua phủ đệ Chiêu Văn để thay áo tiến triều. Đến vương phủ, Chiêu Văn vương xuống ngựa. Viên tì tướng coi việc canh giữ cổng phủ mừng rỡ ra lệnh đánh mộc đạc báo cho mọi người trong phủ biết tin mừng vương gia đã trở về. Tiếng mõ nổi ran lên, lính gia đồng, thư nhi và kẻ ăn người làm reo mừng ra cổng lớn đón Chiêu Văn vương. Trần Nhật Duật đi vào rất nhanh. Ông hỏi lớn:

    - Quản gia đâu? Sao chính đường lại đóng cửa im ỉm thế kia? Mở ra, mở tất cả cửa ra!

    Vừa đi, Trần Nhật Duật vừa ra lệnh. Ông sai sắp gạo rượu bò lợn đem lên rừng bàng khao thưởng đội quân sơn cước đã giữ vững bộ ngũ trên đường về kinh. Ông sai sắp ban chiêng trống để dạy quân sơn cước nhạc quân. Ông sai hái hoa cắm vào các lọ trong chính đường, sai thay các rèm lụa bằng rèm gấm thổ, sai thị nữ sắp áo chầu, sai sửa tiệc cho cả vương phủ ăn mừng chủ đi xa về khang kiện. Thế là cả bấy nhiêu người chuyển vận như đèn cù. Vương phủ Chiêu Văn náo động, vui vẻ.

    Khi vào chính đường, Chiêu Văn vương chợt đứng sững lại. Ông thấy một đám người đứng chực hầu. Đứng trước là Hoàng Mãnh, Trịnh Mác. Điều này cũng không lạ, chắc vì hai viên tướng này theo Chiêu Quốc vương dẫn cánh quân sông Đà về kinh. Nhưng đằng sau hai người là cha con Mơ cùng với ba bô lão tóc bạc phơ.

    Họ vái lạy cung kính:

    - Kính lạy đức ông, kính chúc đức ông thiên tuế!

    Trần Nhật Duật vội đáp lễ và sai gia đồng mang đôn mời các bô lão ngồi.

    Thị nữ mời trà, mời trầu. Trần Nhật Duật bắt thị nữ phải giã ba miếng trầu thật nhỏ để riêng mời các bô lão. Ông câu đương họ Trương thưa:

    - Kính lạy đức ông, dân bản xã chúng tôi đồng thanh cử ba cụ đây đem đầu đến tạ ơn đức ông đã ban cho miếng no miếng ấm.

    Ba cụ đùn đẩy nhau, cuối cùng ông cụ cao tuổi nhất phải đứng ra nói bằng một giọng thành thật chất phác:

    - Thưa đức ông, lão là người già nhất làng. Lão được cả làng cử lên kinh xin đức ông cho tên tuổi chức tước để đem về làng thờ.

    Trần Nhật Duật giật mình vừa cảm động vừa buồn cười mà không tiện cười. Ông hỏi lại tên tuổi các cụ. Ông cụ già nhất đã tám mươi tư tuổi, người làng quen gọi là cụ đồ Bành mặc dù ông cụ chưa hề dạy học cho một ai cả. Hai cụ kia trên bảy mươi tuổi, đều là những lão nông mang những cái tên hết sức dân dã: Cụ Mừng, cụ Cót. Trần Nhật Duật vừa hỏi han các cụ vừa muốn lảng khéo cái chuyện xin tên tuổi để lập bài vị thờ sống đi. Với ông hoàng trẻ, cái chuyện ấy thật hài hước.

    Ông bảo Hoàng Mãnh đưa các cụ đi xem phố phường kinh thành. Sau đó, Trần Nhật Duật thay triều phục vào cung. Cổng thành có treo biển "Miễn triều" nhưng Trần Nhật Duật là thân vương có biển "Nhập nội" vua ban nên vẫn vào cung được. Ở cửa nội cung Trần Nhật Duật gặp quan tướng Nguyên súy trấn điện Bảo Nghĩa hầu. Hai anh em vái chào nhau. Bảo Nghĩa hầu cho biết hai vua đang bàn việc với các đức ông Chiêu Minh và Hưng Đạo trong cung Thánh Từ. Trần Nhật Duật còn đang lưỡng lự không biết mình có nên vào cung chầu hầu không thì một viên quan nội giám ra tuyên chỉ Nhân Tông cho gọi ông. Thì ra mỗi ai qua cửa Đại Hưng, các quan trấn điện đã tâu vua biết ngay rồi.

    Trần Nhật Duật sụp lạy hai vua làm lễ triều kiến. Trần Nhân Tông ban đôn gấm cho ông ngồi chầu hầu. Thượng hoàng Thánh Tông nói:

    - Em Sáu đến vừa hay. Em biết tin giặc xuất quân chưa?

    - Thưa anh, giặc gọi loa trên đường từ hành doanh Kinh Hồ về cho tới biên giới nước ta, ra lệnh cho quân dân nước chúng chữa đường chữa cầu để đạo quân viễn chinh đi đánh Chiêm Thành.

    Thượng hoàng nhìn em mỉm cười:

    - Vậy à?

    Trần Nhật Duật cũng mỉm cười.

    - Thưa anh nếu chỉ có vậy thì giặc quá ư hèn nhát.

    Nhưng rồi cả hai nụ cười cùng tắt trên môi hai anh em. Trần Nhật Duật đưa mắt rất nhanh. Vẻ đăm chiêu thoáng vần trên vầng trán của tất cả những người có mặt. Trần Quang Khải hỏi Trần Nhật Duật về thế giặc. Là một trong mấy đức ông được vua giao mệnh theo dõi từng cái nhấc chân nhấc tay của giặc, Trần Nhật Duật nhận biết được mối họa xâm lăng cực kì hiểm nghèo đang đe dọa giang sơn xã tắc. Giặc động binh năm chục vạn người cả lính lẫn phu. Đây là một đạo quân lớn do những tướng độc ác và thông thạo trận mạc chỉ huy. Âm mưu của chúng là chiếm lấy đất Việt chia thành quận huyện, đặt ách đô hộ lâu dài. Âm mưu này có cả cái khát máu của những bộ tộc du mục chỉ biết làm cỏ và phá sạch lẫn cái thâm độc của bọn vua chúa Trung Quốc luôn luôn giương danh "con trời", sinh ra để đè đầu cưỡi cổ các dân tộc khác.

    - Giặc đánh ta chứ không phải để tiếp viện cho đạo quân của chúng ở Chiêm Thành. Nếu đúng như vậy, chỉ vài ngày nữa, chúng sẽ cho sứ giả sang ta mượn đường và vay lương.

    Trần Thánh Tông trỏ ngay vào mớ giấy trên long án:

    - Còn sẽ gì nữa: Thư Thoát Hoan đã đến Thăng Long từ hôm qua. Chúng ta đang bàn kế đối phó với chúng đây.

    Trần Nhật Duật trợn mắt nổi giận:

    - Thằng nhãi nhép miệng còn hơi sữa mà đã dám láo xược vậy sao!

    Ông tâu vua những tin tức lượm lặt được về quân giặc. Những tin tức này do những do thám gan dạ trá hình làm lái buôn người Đại Lý đã đem về cho ông. Thoát Hoan đã lên đường hơn một tháng nay nhưng quân Thát Đát lần này phải tiến theo kiểu cuốn chiếu vì chúng đem theo nhiều lính đi bộ và các chiến cụ nặng nề dùng để công thành và vượt sông. Ngoài số quân kị là người Thát Đát, phần lớn đạo quân này gồm quân bộ và quân thủy đều là người Hán phương Nam. Nguyên chúa đã sai một thân vương xuống Kinh Hồ hành tỉnh phủ dụ bọn quân tướng xuất chinh và đặc cách giao cho Trấn Nam vương Thoát Hoan ngọn giáo vàng truyền quốc.

    - Thưa anh, ngọn giáo này đúc bằng vàng nữ trang của các hoàng hậu, phi, tần những nước đã bị quân Thát Đát làm cỏ. Trao giáo cho Thoát Hoan có nghĩa là ra lệnh cho thằng này đập tan nước Việt ta.

    Trần Nhật Duật lần lượt nói những điều hiểu biết của ông về đạo quân xâm lược. Trần Quốc Tuấn cũng nói những tin tức thu được bằng đường biển và đường đông bắc. Tất cả đã minh chứng rằng cuộc chinh chiến ắt phải xảy ra. Trần Nhật Duật tâu:

    - Tâu bệ hạ, cái thế không thể tránh khỏi chiến tranh rồi, xin bệ hạ xuống chiếu cần vương.

    Trần Quang Khải nói:

    - Chúng ta đang bàn việc đó thì em đến. Đây là sớ của Đức ông Tiết chế.

    Trần Quang Khải đưa lá sớ của Trần Quốc Tuấn cho Chiêu Văn vương. Trần Nhật Duật đón lá sớ mở rộng ra đọc. Vẻ mặt chăm chú của ông mỗi lúc mỗi hào hứng, mừng rỡ. Trần Quốc Tuấn bằng những lời đanh thép đã vạch trong sớ kế sách phá giặc: Lấy núi sông làm thành lũy, huy động cả nước làm binh! Trăm họ nước Việt sẽ vun góp ý chí chung thành một tòa thành vững chắc không gì phá nổi. Trần Quốc Tuấn tâu vua cho triệu mỗi hương một bô lão tuổi cao đức trọng về kinh để vua dụ hỏi.

    Trần Nhật Duật vốn sáng ý. Ông hiểu ngay rằng cuộc triều hội của bô lão cả nước vừa làm bền chặt ý chí quyết thắng của triều đình vừa tuyên dụ ý chí đó trở về trăm họ. Chợt nhớ tới mấy bô lão châu Ái đang ở chơi trong vương phủ Chiêu Văn, Trần Nhật Duật càng thấu hiểu rằng cần phải có sự gắn bó giữa triều đình với trăm họ. Chiến chinh sẽ diễn ra dữ dội trên đất nước, tình nghĩa keo sơn của cả nước sẽ là nền tảng cho mối đại thống họ Đông A và mệnh trời giao cho họ Đông A phải giữ cho vẹn toàn đất nước.

    Ông đứng dậy, hướng về phía Trần Quốc Tuấn kính cẩn vái hai vái:

    - Họ ta thật đại phúc. Anh trưởng quả là thanh kiếm thần trời ban cho nước Việt để giữ nước.

    Sự sôi nổi và thành thật của Trần Nhật Duật làm cho Trần Quốc Tuấn phải đứng dậy lúng túng đáp lễ.

    Sau đó, Trần Quang Khải đích thân thảo chiếu thay lời vua Thánh Tông cho triệu mỗi hương một cụ bô lão đức trọng nhất về kinh triều hội để nhà vua hỏi về việc lớn của đất nước.

    Đến sẩm tối hôm ấy, Trần Nhật Duật sau khi ăn cơm xong, chợt thấy lòng vẩn vơ bồi hồi như tưởng nhớ tới một thói quen nào đó bị bỏ quên chưa làm. Thoạt tiên ông nghĩ rằng sự có mặt cô gái vùng biển ở Thăng Long đã làm cho lòng ông xốn xang bồn chồn. Nhưng sau khi mình lại hỏi mình, Trần Nhật Duật thấy không phải đấy là nguyên cớ. Với Mơ, lòng ông đã trầm lắng xuống, lòng ông đã vào cõi sâu xa, có tình nhưng có nghĩa, có ước hẹn ba sinh dù cho bảy nổi ba chìm. Ông đã hiểu rằng về sau này dù hai người có gặp gỡ nhau hoặc chia tay nhau đột ngột đến đâu chăng nữa thì lòng ông vẫn giữ được yên bình.

    Thế rồi Trần Nhật Duật nghĩ rằng lòng mình bồn chồn vì cuộc gặp gỡ với Hoàng Mãnh quá ư ngắn ngủi chăng? Nhưng nghĩ kĩ thì cũng không phải vì thế. Người đời thường tô vẽ quá mức sự gắn bó âm dương giữa hai anh em đồng nhũ đồng tuế. Sự gắn bó đó có thật nhưng đâu đến nỗi làm lòng người bồi hồi đến thế! Mà Hoàng Mãnh đi đâu tối nay ông cũng đã biết. Chính ông là người đã bảo Hoàng Mãnh đưa Trịnh Mác đi uống rượu nghe hát trên một con thuyền nào đấy thả lửng lơ trên sông Tô Lịch.

    Mùa đông trăng lạnh, uống rượu bên một hỏa lò than rừng rực trong khi đó gió bấc bên ngoài mui lá thổi rít lên thì tuyệt thú. Nếu không bận nhiều việc quá thì đêm nay ông cũng mặc áo thường đi chơi với hai gã ấy rồi.

    Nếu không phải vì vắng mặt Hoàng Mãnh và Trịnh Mác thì là vì ai? Chiêu Quốc vương! Đúng rồi. Vì thiếu Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc.

    Thôi đúng rồi. Tất cả những lần trở về Thăng Long trước đây mỗi khi đi xa, bao giờ Trần Nhật Duật cũng đến thăm Chiêu Quốc vương. Những ngày sau đó là những cuộc du hí diễn ra liên miên với hai người: Một cuộc đua ngựa ngoài bãi sông để thử sức một con ngựa non nào đó, một cuộc săn đuổi bằng chó săn, hai phủ Chiêu Quốc và Chiêu Văn có những đàn chó sát thú lạ thường, đi săn với những con chó quý ấy là một thú mê mẩn đến quên ngày quên buổi: Hoặc một cuộc cờ để thử lối xuất quân mới; một sớm vãn cảnh chùa ngắm các công nương đi dâng hương, một bữa rượu lầm lì, một trận cầu náo động.. Gặp nhau, du hí với nhau.. phải chăng đó là điều làm ông bồn chồn như người đến cơn nghiện?

    Không phải. Không phải thế. Ông bồn chồn vì ông cảm thấy mình đang như người sốt vỡ da. Những người sốt vỡ da, sau những cơn lâm bệnh ấy hay có những thay đổi về thể chất và về tâm tính ông cảm thấy mình hình như đang có những thay đổi tương tự. Nhưng ông chưa hiểu, chưa mường tượng được mình sẽ thành một người như thế nào. Và đàng sau cảm xúc mơ hồ ấy, phảng phất một nỗi lo âu về những thay đổi sau một cơn sốt vỡ da của một người mẹ với đứa con. Ôi những nỗi lo âu của một bà mẹ có linh cảm kì diệu!

    Thực ra, điều ông không tìm ra được chính là vì sự thay đổi của ông biểu hiện sự tách rời dần dà giữa ông với vùng ảnh hưởng của tính cách Chiêu Quốc vương. Nó cũng là sự lớn mạnh về tính cách của ông, sự lớn mạnh nhằm vươn tới một tâm tính riêng biệt trí lự.

    Không muốn ngồi suy nghĩ mung lung nữa, Trần Nhật Duật sai gia đồng thắp đèn lồng theo mình ra chơi phố. Ông ra bến Đông, lấy thuyền của quân thủy để sang sông đến rìa rừng đa. Nơi ấy có một trại quân bí mật thuộc quyền coi quản của ông. Đó không phải là một trại quân bình thường mà nó là một trong mấy trạm chỉ huy phong đoàn, thứ quân coi giữ việc tuần sát lùng bắt bọn gian tế và gián điệp của giặc phái sang trà trộn để dò la binh dân bên ta.

    Trần Nhật Duật đến trại lúc canh hai đã sắp hết nhưng ở đây người ta vẫn thức để làm việc công. Viên tì tướng giữ trại ra đón Trần Nhật Duật và đưa ông vào ngôi nhà lá cuối trại.

    Trần Nhật Duật bước vào căn phòng nhỏ. Trong phòng có hai người mặt mũi lẫn quần áo đều kì dị đang ngồi lim dim trên chiếc chiếu cói trắng. Họ ngửng nhìn và nhận ra đức ông Chiêu Văn, họ vui mừng giơ hai tay úp mu xuống và cúi lạy Trần Nhật Duật. Đó là hai người Hồi Hột già, lái buôn chè và hương liệu rất thông thạo con đường từ Đại Đô qua Tây Trúc đến tận những nước xa lạ phương Tây.

    Trần Nhật Duật đáp lễ, ông ngồi xuống chiếu trước mặt hai người lái buôn Hồi Hột. Ông dùng tiếng Hồi Hột nói chuyện với họ. Quân hầu bưng vào những đĩa bánh và hoa quả. Theo tôn giáo Hồi Hột, họ không uống rượu, không uống trà chỉ uống nước lã. Hai người Hồi Hột này vốn đã đi buôn bán nhiều lần sang nước ta. Những lần ấy Chiêu Văn vương vẫn giúp đỡ họ, che chở cho họ khi họ ở Thăng Long và cả trên đường đi đường về của họ cho nên hai người lái buôn ấy rất nhớ ơn Trần Nhật Duật. Hồi đầu năm nay, họ nhận lời giúp Chiêu Văn vương trong việc dò xét động tĩnh mặt nước Đại Lý xưa. Nơi ấy bây giờ là một tỉnh của Trung Quốc. Nguyên chúa Hốt Tất Liệt giao cho con trai mình là Hốt Kha Xích làm trấn thủ và đặt tên tỉnh là Vân Nam. Vì thế vương hiệu của Hốt Kha Xích là Vân Nam vương.

    Một người Hồi Hột nói:

    - Ô! Tướng Ô Man đã dựng nêu. Trai tráng Ô Man đã cầm giáo đến họp ở chân nêu. Đó là ý muốn của Thượng Đế.

    Họ nói rất nghiêm trang, cách nói kiểu cách hô hoán như cách gọi gió gọi mưa của một pháp sư. Họ kể rằng quân Ô Man đã lên đường xuống phía tây bắc nước ta, một cánh quân bộ không đông lắm nhưng rất thông thạo việc đánh nhau ở trong rừng núi. Trần Nhật Duật hỏi viên tướng cầm đạo quân ấy tên là gì nhưng hai người lái buôn này không biết. Ông lại hỏi cánh quân ấy có bao nhiêu người thì họ trả lời là có mười tướng to chỉ huy một trăm tướng nhỏ, mỗi tướng nhỏ chỉ huy mười tên lính Ô Man. Mỗi người lính lại có một tên phu người Hán tải gạo, tải cỏ khô, cá thịt khô và chiến cụ.

    Một người Hồi Hột nói tiếp:

    - Ô. Những người phu họ khổ lắm, roi vọt, trăng trói, ăn không đủ no, mặc chiếc áo rách mà đi không biết ngày về. Mà cha mẹ vợ con họ còn khổ hơn.

    Trần Nhật Duật nhíu mày suy nghĩ. Thế là mặt này, giặc có một vạn quân Ô Man và một vạn phu. Đám quân Ô Man này có sở trường và sở đoản. Chúng đánh bộ và trèo núi giỏi nhưng không quen khép mình vào quân kỉ. Lúc thắng thế thì chúng đánh tràn đi như nước vỡ bờ, lúc thất thế thì lại xô nhau, giày xéo lên nhau cướp đường mà chạy. Trần Nhật Duật đã từng đi tuần thú ở biên giới tây bắc, ông đã đứng trên đồn cao nhìn sang bên kia biên giới xem lính Ô Man tập trận. Chúng tiến, lui theo hiệu chiêng không gắn bó được đội ngũ nhưng về bắn nỏ thì đó là những tay nỏ giỏi ghê gớm. Chúng lại thiện nghệ món mộc mây ken và kiếm ngắn. Kiếm Ô Man là một loại kiếm rất mỏng, hơi cong, rất nhẹ và sát thương đối phương nhờ ở đường kiếm đi thật nhanh. Nói về chiến đấu ở vùng rừng rậm thì kiếm và mộc mây chính là loại vũ khí thích hợp nhất.

    Ngoài ra lúc tiến quân có thể chúng sẽ dùng thêm một vài ngàn quân kị dùng thứ ngựa Đại Lý thấp nhỏ nhưng chân chắc đi đường núi dai sức, không sợ bóng cây ánh đá. Hai người Hồi Hột còn nói thêm là đội quân bộ của giặc chỉ có một số ít ngựa dùng của các tướng nhưng chúng lại có nhiều lừa, một giống lừa thấp nhỏ, chạy chậm nhưng bền sức và chúng chuyên dùng để thồ chiến cụ và lương thực.

    Đó là đối thủ tương lai của Trần Nhật Duật ở mạn Quy Hóa. Chúng không phải là lũ giặc tầm thường, nhưng dù sao đây cũng chỉ là mũi tiến công phụ và chẳng những không có một đội kị binh Thát Đát làm lõi cốt mà tướng giỏi cũng không có nốt. Bởi vì nếu có tướng giỏi nổi danh thì những người lái buôn Hồi Hột này phải biết rõ tên của chúng.

    Sự so sánh mạnh yếu với đội quân của giặc làm cho Trần Nhật Duật hơi tiếc. Thế là ông không có dịp chọi nhau với bọn kẻ cướp nổi danh và kẻ thù truyền kiếp hung hãn thâm hiểm nhất để xem cái danh tiếng vô địch quân "thiên triều" của chúng là thực hay hư.

    Trần Nhật Duật lại sai quân hầu bưng ra hai tảng trầm hương và hai túi sạ tặng cho hai người lái buôn Hồi Hột. Ông từ biệt họ và ra ngoài căn phòng nhỏ. Ông đến một dãy nhà khác của trại quân ở giáp dãy tường hậu. Chỗ này là nơi ở của Triệu Trung, viên hổ tướng nhà vong Tống. Viên tướng này biểu thị một tấm lòng yêu thật tha thiết những người Hán bần hàn và cũng vì vậy Trung căm thù bọn thống trị Trung Quốc, Trung hăm hở lập công trong một đội quân Việt. Trần Nhật Duật bàn việc suốt đêm với Triệu Trung về kế sách hành binh ở miền rừng, về việc thông hiệu trong đêm tối hoặc khi có sương mù, về những đòn tấn công sẽ dùng để đánh vào lòng mê tín dị đoan của bọn quân tướng Ô Man quá ư lạc hậu.
     
  5. Mạc Hồng Viên

    Bài viết:
    184
    Chương 14

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Từ mười chín tháng chạp, bô lão nhiều hương đã về đến kinh thành theo chỉ tuyên triệu của Thượng hoàng. Hương Hoằng cử cụ Bành thay mặt. Cụ Bành vừa tới kinh thành thì Chiêu Văn vương đã sai gia tướng đón ông cụ về phủ đệ khoản đãi và ở đấy chờ đến ngày đại hội tiến triều. Chiêu Văn vương cũng muốn qua cụ Bành, tìm hiểu lòng người ở cái hương xinh đẹp ven biển thân thiết với ông.

    Cụ Bành lần này lên kinh thành mang theo nhiều món lễ vật của dân hương Hoằng biếu Chiêu Văn vương: Bóng cá thủ, vây cá, mực Thanh, nước mắm vò đầu thơm sánh, đều là hải sản quý. Dân hương còn cho mang lên một chiếc áo lụa màu tía để xin Chiêu Văn vương đổi cho một chiếc áo khác ông đang mặc. Chiêu Văn vương hiểu rằng sau khi ông không chịu cho tên tuổi, dân hương Hoằng lập mẹo lấy cho được một chiếc áo có hơi hướng của ông để đem về thờ trong đình làng. Nhưng cầm chiếc áo lụa tía lên xem kĩ, Trần Nhật Duật chợt thấy lòng bồi hồi.

    Chiếc áo được may rất khéo, đường kim mũi chỉ chẳng những của một cô gái có bàn tay kì diệu mà rõ ràng người may áo đã dùng cả tơ lòng mình vào công việc đó. Ông dùng gang tay đo thử cổ áo, vai áo. Ông chợt mỉm cười kín đáo. Người may áo đã không đo người ông mà sao chiếc áo đúng kích thước đến thế. Đôi mắt Chiêu Văn vương thoáng láng ướt. Hồi đầu tháng chạp này, nhân một buổi lên phường Yên Hoa tra soát những người ngoại quốc an tháp ở đấy, ông đã giục ngựa đi thêm một đoạn đường nữa để đến vãn cảnh chùa làng Nghi Tàm. Ừ, phải rồi, hôm ấy là mùng một tháng chạp, người kinh thành theo đạo Phật đi lễ các chùa, dâng hương, niệm Phật.. Bấy giờ đã gần trưa, chùa Nghi Tàm yên lặng soi bóng xuống mặt nước hồ Dâm Đàm phẳng lặng như mặt gương. Trần Nhật Duật để những người tùy tùng lại trên đê, ông đi qua sân chùa trên. Mùi hương trầm ngào ngạt, tiếng mõ trầm mạc, tiếng tụng kinh của một lão ni mơ hồ như từ Thiên Trúc đưa về làm cho Trần Nhật Duật cảm thấy như mình đã trút tất cả bụi đời. Chùa trên rất sâu nên ánh sáng yếu. Trần Nhật Duật đứng một lúc mới quen mắt. Ông nhận ra đằng sau lão ni ngồi tụng kinh, có một người con gái chân ngồi xếp thẻ đang thành kính chắp hai tay khấn khứa. Người con gái ấy là Mơ. Không có một sự hò hẹn nào trước cả nhưng hai người không cảm thấy đột ngột chút nào và cũng không hề lạ lùng chút nào ở cuộc gặp gỡ này. Hình như họ yên trí con tạo đã hiểu lòng họ và vạch sẵn đường đời đôi bên đi phải gặp nhau. Mơ khẽ khàng bước ra khỏi chiếu, xỏ chân vào đôi dép cong.

    Vườn sau chùa Nghi Tàm nhìn chéo ra khoảng hồ Dâm Đàm rộng mênh mông. Sương bay là là trên mặt nước chỉ hơi gợn sóng. Những con sít, những con sâm cầm vừa ngụp lặn kiếm ăn vừa đuổi nhau, ghẹo nhau.

    - Kính lạy đức ông, mai sớm em xuôi thuyền về phủ Thiên Trường. Em chúc đức ông ở lại được an khang.

    Trần Nhật Duật dịu dàng nhìn cô gái, ông muốn dặn dò cô gái rất nhiều, ông muốn bộc bạch lòng ông nữa nhưng không hiểu sao ông chỉ nói rất ít.

    - Bọn giặc tràn xuống đến nơi rồi, mọi việc là hẵng tạm xếp lại đã. Mong em hiểu lòng ta.

    Mơ chảy nước mắt, những giọt nước mắt vừa xót xa vừa sung sướng. Trần Nhật Duật tháo trong ngực áo ra một chiếc khánh vàng. Đó là chiếc khánh ông đeo từ năm lên một tuổi. Mặt khánh chạm bốn chữ rất tinh tế: "Chiêu Văn đồng tử". Ông đưa chiếc khánh cho Mơ.

    - Cái này của mẹ cho. Em giữ lấy nó cũng như giữ lời nguyền của ta.

    Hôm sau, cô gái lên thuyền xuôi hương Hoằng. Bây giờ thấy trong lễ vật bày ra trước mặt có chiếc áo lụa tía may rất khéo, Trần Nhật Duật chợt thấy lòng bồi hồi. Ông nói với cụ Bành:

    - Thôi được! Mọi việc sẽ đâu có đó. Bây giờ cụ cứ ở đây. Triều hội chưa đến ngày. Cụ cứ ăn cơm, uống rượu rồi đi thăm phố phường cho biết.

    Ông lại sai gia nô đưa cụ Bành đi thăm phố phường Thăng Long. Ông bảo quản gia đưa tiền cho người dẫn đường đưa cụ Bành đi và dặn hễ cụ xem ra thích cái gì thì cứ việc mua luôn biếu cụ. Ông cũng sai mua the màu đại hồng may cho ông cụ một chiếc áo dài tay thụng để làm áo tiến triều. Và, mặc dù cụ Bành chưa phải cậy đến một cây gậy chống, Chiêu Văn vương vẫn sai gia nô đi kén ở phường Tàng Kiếm một cây gậy trúc đùi gà đẹp tuyệt trần. Chiếc gậy có bịt mấy vòng khâu bạc chạm chữ thọ.

    Nửa đêm ngày mười chín, có chỉ vua kèm thẻ phù vàng chạm chìm hình hai đầu hổ triệu Chiêu Văn vương vào cung. Vua Nhân Tông trao cho hai anh em Chiêu Minh, Chiêu Văn hai trọng trách. Đức ông Chiêu Minh sẽ là quan tướng điển nghi coi về mọi mặt lễ tiết trong buổi triều hội long trọng sắp tới. Đức ông Chiêu Văn là quan tướng trấn thủ kinh thành trong những ngày trước, đang và sau cuộc triều hội. Quyền trấn thủ kinh thành bao gồm việc sắp xếp đặt nơi ăn chốn ở cho các bô lão bốn phương, việc định chỗ đóng quân cho các vương hầu các lộ về dự triều hội, việc phòng giữ và yên dân, việc phòng cháy và nạn trộm cắp.. Nhưng thú vị nhất là công việc trấn áp quán sứ của gã Đạt Lỗ Hoa Xích. Bây giờ không còn là lúc phải dè nể gì thằng này nữa. Nhân Tông muốn nhân dịp này mượn mồm tên Đạt Lỗ Hoa Xích để nhắn với Thoát Hoan câu trả lời của nước Đại Việt: Sẵn sàng giáng như sấm sét bất kì bọn giặc xâm lăng nào! Ý muốn của Nhân Tông có đôi chút xốc nổi nhưng các đức ông Chiêu Minh và Chiêu Văn cũng chiều ý cháu mình.

    Thế là ngay sáng hôm hai mươi, Chiêu Văn vương ra lệnh cho Dã Tượng, viên chỉ huy đội tượng binh của phủ Hưng Đạo, đem một đàn voi bốn mươi tư con đến buộc ở bãi cỏ bên cạnh quán sứ Đạt Lỗ Hoa Xích. Những con voi trận gầm gừ cả ngày. Chúng kéo lê xích chân kêu loảng xoảng. Chốc chốc chúng lại ré những tiếng như gọi bạn rừng xa xôi. Tiếng voi ré làm cho đàn ngựa trong tàu của quán sứ Đạt Lỗ Hoa Xích sợ cuống lên. Chúng cắn thừng, giằng thừng, đá vào dóng gỗ chắn cửa chuồng ầm ầm. Những thằng dũng thủ Thát Đát đứng trong hàng rào nứa của quán sứ hầm hầm nhìn ra. Những thằng thơ lại Hán thì chửi đổng bằng thứ tiếng ngọng líu ngọng lô. Thoạt đầu chúng định cho người ra đuổi đội tượng binh đi, nhưng sau Buyan Têmua nhìn thấy những tốp kị binh thương giáp sáng lòa đi tuần, Buyan Têmua đâm ra sợ. Gã Đạt Lỗ Hoa Xích đã hiểu rằng việc buộc voi bên cạnh quán sứ không phải là do viên tiểu tướng chỉ huy đội voi mà là do lệnh từ cao hơn thế nhiều đưa xuống, vậy thì có nói cũng chẳng ăn thua gì. Hơn nữa ngay sáng hôm ấy, Buyan Têmua được tin quan tướng trấn thủ kinh thành đã nã bắt tất cả những kẻ vẫn thường ra vào quán sứ Đạt Lỗ Hoa Xích. Gã Đạt Lỗ Hoa Xích mới đầu sửng sốt rằng tại sao cái lũ "An Nam" man mọi này lại dám chống lại "thiên triều". Hắn tự nói thầm rằng từ xửa từ xưa tất cả các lũ Man, Di, Địch, Phiên chống lại "thiên triều" là chỉ có chết, nước mất nhà tan, chỉ trừ.. à, trước hết hãy trừ ra cái bọn rợ Đột Quyết, cái bọn này đã cho "thiên triều" bao phen nghiêng ngửa. Ừ, rồi thì lại phải trừ cái bọn Nữ Chân cũng làm cho "thiên triều" khốn đốn, rồi đến năm cái bọn rợ Phiên, rồi đến cái bọn đã bắt cả hai vua Tống bắt đem về giam trong một cái giếng cạn, thí cho một mớ giẻ rách mà che thân chống lại cái lạnh băng tuyết của rừng cây lá tùng phương bắc, chúng đã làm hai vua Tống quên mất mình là phận trời giao, thân là con trời. "Thiên tử" đâu phải chuyện chơi. "Thiên tử" là vua của tất cả các vua, là vua của tất cả mọi dân tộc, là cha của cả thiên hạ, kể cả cái lũ đông Địch, bắc Phiên, tây Di, nam Man cũng phải là con đỏ của "thiên tử". Nó giam vua Tống tức là giam bố chúng nó.

    Nhưng mà cứ phải trừ ra, trừ ra.. như thế nhiều quá. Cái lũ man di mọi rợ này sao mà đông quá lắm thế. Chúng thời nào cũng làm cho "thiên tử" đau đầu. Lần này không khéo cái bọn "Nam Man" này cũng lại làm cho "thiên tử" đau đầu một lần nữa chăng.

    Có một điều chắc chắn rằng Buyan Têmua đau đầu. Gã Đạt Lỗ Hoa Xích vội sai một tên thư lại thảo một bản cáo để gửi về nước. Đề phòng bản cáo lọt vào tay quan tướng nước Việt, Buyan Têmua sai viên quan thông đạt phải học thuộc lòng bản cáo, còn bản cáo thì đốt ngay trước mặt Đạt Lỗ Hoa Xích. Chiều ngày hai mươi, Buyan Têmua cho viên thông đạt cầm thẻ phù sơn đỏ chạm rồng của Nguyên chúa lên đường về nước. Nhưng tên này chưa đi hết địa phận kinh thành Thăng Long thì đã bị bắt ở bên kia bến Đông. Tên này bị lôi đến trước mặt quan tướng trấn thủ và hắn đã trổ tài học thuộc lòng để mong được Chiêu Văn vương tha tội chết. Bản cáo thế là đến tay các tướng giữ các trọng trách của triều đình nước Việt.

    Chiêu Văn vương cười nói với Hoàng Mãnh:

    - Thật bõ với lúc chúng mình bị nó ngáng giáo chặn lại ở ngã ba phường Cổ Vũ.

    Hoàng Mãnh chỉ cười. Anh ta đang có ý định xui Dã Tượng giả vờ đánh sổng voi, xua nó chạy vào sứ quán Đạt Lỗ Hoa Xích để "xem cái ổ nhặng xanh ấy nó vi vo thế nào?" Nhưng ý định ấy không được đem ra dùng. Chiều hôm đó, Hoàng Mãnh được lệnh Chiêu Văn vương đem quân tuần sát các khu trong kinh thành có người ngoại quốc ở để sinh sống hoặc lánh nạn. Hoàng Mãnh sai truyền loa nghiêm cấm các người nước ngoài đang cư ngụ tại Thăng Long không được rời kinh thành nếu không có thủ lệnh kèm theo tín bài của quan tướng trấn thủ Trần Nhật Duật.

    Chỉ một ngày mà không khí kinh thành sôi động hẳn lên. Người ta dọn đồ quý về quê. Người ta đưa các cụ già và trẻ nhỏ ra khỏi kinh thành. Người ta mua sắm võ khí. Ngay cả những đám cưới mà đồ lễ dẫn cũng phải có võ khí.

    Ba ngày liên tiếp, quang cảnh náo nhiệt diễn ra ở khắp các phủ đệ kinh thành. Các bô lão đại diện cho các hương lên kinh theo chỉ tuyên triệu của hai vua. Những hương gần kinh thành, đường gần nên các bô lão về sớm. Lên đến Thăng Long, các vương hầu trấn thủ các lộ đã cho gia tướng đón các cụ về phủ đệ khoản đãi trọng hậu. Cụ nào cũng đã có bộ cánh mới do dân hương may sắm cho nhưng các vương hầu vẫn kén the lụa thượng hạng may quần chùng áo dài, tay thụng cho các cụ. Và mỗi cụ phải có một chiếc gậy chống vừa đẹp vừa lạ. Thôi thì đủ các loại gậy trúc đùi gà, trúc xương cá, gậy lụi, gậy lõi mun, gậy gụ, gậy song xanh, gậy song vàng..

    Ba ngày này, Trần Nhật Duật làm việc không biết mệt mỏi. Người ta thấy quan tướng trấn thủ có mặt ở khắp nơi. Ông đến các đồn binh đôn đốc việc tuần phòng và tra soát kẻ lạ mặt. Thực ra công việc này dù có làm kĩ đến đâu cũng không ai an tâm.

    Ngày hai mươi hai, Trần Nhật Duật sai tì tướng vào quán sứ Đạt Lỗ Hoa Xích mời gã ta đến tướng phủ Chiêu Văn ăn tiệc. Đây cũng là cách dò xét tình ý một cách trực tiếp lòng dạ viên Đạt Lỗ Hoa Xích. Khi tiệc tan, Chiêu Văn vương mời Buyan Têmua ra cửa Giang Khẩu xem đua thuyền. Chiêu Văn vương cho các loại thuyền thoi, thuyền chiến nặng có lầu, thuyền nan cỡ nhỏ, cỡ to.. đua. Các đô thủy của lính tứ sương đã làm cho Buyan Têmua biết thế nào là sở trường sông nước của người phương nam.

    Sáng hôm hai mươi ba tháng chạp, đúng lúc các gia đình phường phố đang sửa soạn cúng tiễn ông Táo lên chầu trời, quan tướng điển nghi Chiêu Minh đại vương ra mệnh lệnh khẩn cấp:

    - Lính đô Thần Sách được lệnh ra quét dọn điện Hô Trà bên cạnh bến Đông Bộ Đầu. Lính phòng thành được lệnh quét dọn và làm cỏ sạch sẽ con đường trồng hoè dẫn từ bến Đông về tới cửa Đông hoàng thành. Bến thuyền cũng phải sang sửa kĩ lưỡng, nhất là các bậc lên xuống thì phải phẳng phiu dễ đi.

    - Các nội giám, cung nữ làm việc trong bếp ngự được lệnh sửa soạn đại tiệc cho một ngàn người dự. Đặc biệt là các món nấu phải thực chín thực nhừ, rượu phải kén thứ cốt chính cống kẻ Mơ.

    - Các nội sai cung Thánh Từ được lệnh đem lính đô Hổ Dực đến điện Diên Hồng để trần thiết sao cho cực kì trang nghiêm tráng lệ.

    Sẩm tối hôm hai mươi ba, đức ông quan tướng trấn phủ Chiêu Văn vương sai thét loa cho khắp sáu mươi mốt phố phường kinh thành biết tin sáng ngày mai, Thượng hoàng và Quan gia sẽ thiết triều hội trọng thể các bô lão cả nước để hỏi về việc tối quan trọng của nước nhà. Loa cũng truyền lệnh của Trần Nhật Duật cấm ngặt các tôn thất, quan lại và thế dân không được tụ bạ gây nhốn nháo trong phố phường. Ban đêm nếu ai có việc ra phố thì phải mang đèn và phải có tín bài của đội trưởng phòng thành mới được đi từ phường này sang phường kia.

    Trần Nhật Duật đã phi ngựa qua cổng quán sứ để chính mắt xem xét động tĩnh trong quán sứ. Tuy nhiên để đề phòng viên Đạt Lỗ Hoa Xích gây nhiễu loạn trong kinh thành, Trần Nhật Duật sai nhiều đô lính cưỡi ngựa tuần hành qua quán sứ của gã Đạt Lỗ Hoa Xích để đe nẹt gã.

    Tờ mờ sáng ngày hai mươi bốn, trên sông Cơ Xá xuất hiện nhiều thuyền bè cắm cờ cắm phướn đỏ rực sông. Có thuyền từ mạn xuôi lên. Có thuyền từ cửa sông Thiên Đức thuận dòng lao vun vút về bến Đông.

    Cả một mặt sông bao la đầy buồm gấm. Những con thuyền đủ loại của tất cả các miền xa lạ của đất nước. Đấy là loại thuyền mũi vươn cao cong như cần cổ thiên nga, hai bên mạn cặp những cây luồng to làm phao. Trần Nhật Duật nhìn thấy bóng dáng quen thuộc của các bô lão miền Quy Hóa đứng trên mũi những con thuyền đó. Đây là loại thuyền mình dài như con thuồng luồng trong thần thoại, hai bên thuyền những cặp bơi chèo chìa ra đều tăm tắp quạt nước. Đây là loại thuyền biển vùng Vân Đồn, vỏ tròn trái dưa, bồng bềnh lướt trôi như không chạm nước. Đây là loại thuyền nan có mui lá nhẹ nhàng, đơn sơ của vùng ruộng trũng đồng chiêm phủ Thiên Trường. Đây là loại thuyền đinh vuông vức, bề thế, chắc chắn trước sóng biển, sóng lừng của các phủ Diễn Châu, Hoan Châu. Những con thuyền từ nhiều lộ đưa bô lão và các vương hầu về Thăng Long dự yến vua ban.

    Đoàn thuyền hộ tống Trần Quốc Tuấn từ sông Thiên Đức rẽ qua sông Cơ Xá lúc trời bình minh. Trần Quốc Tuấn đứng trên mui thuyền say sưa ngắm cảnh trời nước mênh mang. Cảnh trí và không khí sớm mai trong lành gợi cảm xúc lâng lâng trong tâm hồn vị tướng già.

    Hôm nay, Trần Quốc Tuấn về kinh chầu vua. Cụ Uẩn lo lắng về tuổi cao của Trần Quốc Tuấn nên đã nài ông phải khoác thêm chiếc áo bông vỏ may bằng nhiễu kì cầu trước khi rời thang mộc ấp Mai Hiên. Đáng như mọi lần cụ Uẩn sẽ là người giữ lái thuyền tướng nhưng lần này thì không bởi vì cụ đã được dân hương và thái ấp Vạn Kiếp cử làm người thay mặt lên kinh hầu chỉ vua. Trần Quốc Tuấn đã sai gia nô đội Yết Kiêu đem mười chiếc thuyền to có lầu, đưa cụ Uẩn và các bô lão các hương ven hai bờ sông Lục Đầu về Thăng Long. Những chiếc thuyền ấy đang giương buồm thênh thang mé trước mặt vị tướng già và ông có thể nhận ra bóng dáng thấp nhỏ rụt rè của cụ Uẩn.

    Chân trời đàng đông bừng sáng lên. Thăng Long vụt hiện ra lộng lẫy với muôn ngàn cờ xí. Trên dòng sông bao la, thuyền các lộ chen nhau như lá tre.

    Bình minh trên sông thật khoáng đạt. Cây cỏ hai bờ một màu xanh non và những con cò trắng tinh khôi sợ hãi bay tít trên cao tránh tiếng hò khoan nhặt của thủy thủ. Tiếng hò bát ngát trên sông chen tiếng ốc trầm đục của thủy thủ lộ Hải Đông gợi không khí hội hè thượng võ.

    Trần Quốc Tuấn đăm đăm nhìn Thăng Long yêu dấu. Kinh thành hôm nay bừng tươi lên. Đội trống đồng của cấm quân đang đánh điệu mừng.

    Kìa, đỉnh tháp Báo Thiên xa lắc và mé ngoài là cửa Giang Khẩu rộng thêng thang. Kìa, là nóc vọng lâu của cửa Đông, bên trên bay phấp phới lá cờ đại bái chỉ dùng trong những lễ lớn hoặc lúc xuất quân. Còn đây là những nóc nhà cao, thấp lô nhô của phố phường nơi ông đã từng rong chơi những ngày còn trẻ.

    Trần Quốc Tuấn chợt thấy yêu Thăng Long biết bao nhiêu. Thăng Long là một kinh thành chứng kiến biết bao vinh quang của dân tộc. Thăng Long lưu giữ quá nửa tâm hồn của ông. Trần Quốc Tuấn nhớ tới những trại trồng hoa với những cô gái quê chất phác, những cô gái có đôi tay kì diệu vun xới nên những đóa hoa lộng lẫy ngát hương. Ông nhớ tới những đêm thả thuyền trên hồ Dâm Đàm, nghe những cô phường làm giấy vừa hát vừa giã dó đêm khuya. Ông nhớ tới những ngày rằm tháng giêng ngào ngạt khói hương cửa Phật. Những cụ bà, những người mẹ đi lễ chùa xin lộc cầu phúc cho con cháu và đó cũng là những ngày ông cưỡi ngựa rong chơi xem cỏ non mới mọc. Ông nhớ cả những phố phường đông đúc, người bán, kẻ mua, nhớ tiếng ồn ào, tiếng gọi, tiếng cãi nhau, nhớ cả những bận rượu say chếnh choáng từ Hoàng Mai lần về vương phủ.

    Những ngày trai trẻ ấy qua đi đã lâu nhưng vẫn in đậm trong tâm hồn ông khiến cho ông lưu luyến say mê cái kinh thành mà mỗi bước chân đi người ta lại tìm ra một điều chi mới lạ..

    Thuyền dồn cửa bến, sóng dềnh lên làm cho những con thuyền chao nhẹ. Trần Quốc Tuấn nhìn chung quanh. Các thuyền khác đang dẹp lối để nhường thuyền của ông cặp bến trước. Ông quát to:

    - Các thuyền quân hãy giạt ra để các bô lão lên bộ trước!

    Ông im lặng nhìn các con thuyền chở các bô lão đi qua trước mặt mình.

    Có tiếng xôn xao hỏi nhau:

    - Ai đấy? Ai đấy?

    - Quốc công Hưng Đạo vương chứ ai.

    Thế là tiếng chào ran lên:

    - Kính lạy đức ông.

    - Kính lạy Quốc công.

    Trần Quốc Tuấn tủm tỉm cười đáp lễ. Các bô lão vẫn lần lượt đi qua trước mặt ông. Cụ nào cũng mặc áo mới. Ông nhìn thấy cụ Uẩn xúng xính trong tấm áo the hoa chữ thọ nhuộm thâm. Tấm áo này do dân hương Vạn Kiếp cử người sành sỏi về tận làng La Khê kén the tốt may cho cụ Uẩn. Trần Quốc Tuấn gọi to sang thuyền ông cụ:

    - Cụ ơi! Nhớ lời ủy thác của dân hương nhá!

    Tất cả các bô lão bên con thuyền ấy cũng ồn lên:

    - Quốc công cứ yên trí. Chúng tôi cứ xin Quan gia gọn một chữ "Đánh!"

    Thuyền các bô lão lần lượt cặp bến Đông. Trần Quốc Tuấn nhìn thấy quan tướng điển nghi Chiêu Minh đại vương Trần Quang Khải chỉ huy các quan kinh thành ra đón các bô lão. Chiêu Minh đại vương đứng bên dưới cái nghi môn vóc đỏ, chắp tay chào các bô lão. Các quan chia nhau mời các bô lão lên võng. Mỗi cụ ngồi riêng một võng bên trên che hai chiếc lọng xanh. Phường Hoè Nhai đông kín người.

    Khi thuyền Trần Quốc Tuấn vào bến, đoàn bô lão đã đi gần xong. Ông ra lệnh cho tất cả số quân về hôm nay phải chỉnh bị hàng ngũ. Các chiến thuyền đỗ theo từng quân, mũi quay ra sông sẵn sàng rời bến. Thủy thủ không được rời thuyền và ai đứng vào chỗ nấy. Ông ra lệnh cho quân bộ và quân kị xếp thành từng khối vuông vức hai bên đường hoè. Đội nào đem phướn của đội ấy lên đầu hàng quân. Sau đó Trần Quốc Tuấn sai cắm ngọn cờ Tiết chế lên đài cờ.

    Lúc ấy, mặt trời lên. Nắng chiếu vào thế trận uy nghi, lập loè ánh binh khí. Quân sĩ đứng im phăng phắc, chỉ thỉnh thoảng có tiếng ngựa chiến nện vó hục hặc. Nhìn một lượt thật chậm, thật kĩ lưỡng, Trần Quốc Tuấn hài lòng. Quân sĩ các lộ khoẻ mạnh. Binh khí sắc bén, quần áo đủ ấm. Có những chiến sĩ như thế này một tướng giỏi có thể đánh thắng một kẻ địch hung hãn, thiện chiến tưởng như vô địch. Trần Quốc Tuấn ra lệnh đánh một hồi chiêng, cho quân sĩ nghỉ tại chỗ. Nguyễn Địa Lô dắt con ngựa tía mật đến cho ông nhưng Trần Quốc Tuấn không lên yên. Ông đưa cây gậy xương cá cho Dã Tượng và đi bộ về cửa Việt Thành, theo sau là Nguyễn Địa Lô và con tía mật.

    Với trọng trách quan tướng trấn phủ, Chiêu Văn vương cưỡi con Bão Đêm đem một đoàn tùy tùng đi đôn thúc việc tuần phòng. Phía trước Chiêu Văn vương có một kị sĩ giương một lá cờ đỏ đề dòng chữ Khâm sai Trấn phủ. Ngựa Chiêu Văn vương đến bến Đông. Ở cửa bến, bên dưới cái nghi môn vóc tía, Chiêu Minh đại vương Trần Quang Khải đã dẫn đầu một đoàn vương hầu trọng chức đứng chờ đón các bô lão. Dàn trống đồng của quân Thánh Dực đã bày sẵn ở cửa đường hoè. Bên cạnh đó một đài cờ đắp cao chờ làm lễ tế. Quan tướng thay cho các lộ đã chỉnh bị đội ngũ ở ba mặt đài cờ. Chiêu Văn vương nhìn thấy Hoàng Mãnh và Trịnh Mác dẫn đầu cánh quân áo chàm, vai đeo nỏ cánh én của lộ Đà Giang. Ông cũng nhìn thấy hầu tước Hoài Văn, năm nay nom đã chững chạc, dẫn đầu đội quân gia đồng rất trẻ, kéo một lá cờ đề sáu chữ: "Phá Cường Địch Báo Hoàng Ân". Nhìn thấy Chiêu Văn vương sắp phóng ngựa qua, Hoài Văn hầu sẽ rê cương cho con ngựa của mình nhún nhảy để gợi sự chú ý của Chiêu Văn vương. Quả nhiên Chiêu Văn vương chú ý, nhưng ông cũng đoán ra cái ranh mãnh của hầu tước Hoài Văn. Ông tế ngựa đến trước đội quân cất tiếng hỏi:

    - Quân của ai đây?

    Hoài Văn hớn hở đáp:

    - Bẩm của cháu!

    Nhưng Chiêu Văn vương nghiêm nghị:

    - Trong việc quân việc nước sao tướng quân lại xưng hô chú cháu?

    - Bẩm.. bẩm đức ông trấn phủ, đây là đội quân gia đồng của phủ Hoài Văn do tôi làm tướng.

    Chiêu Văn vương khẽ nheo mắt nhìn chàng thiếu niên mặt đỏ gay, nói năng ấp úng, ông hỏi dồn:

    - Vậy thì đội quân của tướng quân có bao nhiêu nghĩa sĩ?

    - Bẩm, khoảng sáu trăm.

    - Khoảng sáu trăm! Vậy là bao nhiêu? Sáu trăm ba mươi mốt, sáu trăm ba mươi hai hay là năm trăm chín mươi tám, là bao nhiêu nói cho chính xác.

    Trần Quốc Toản đứng đực mặt ra. Trần Nhật Duật chau mày:

    - Có bao nhiêu giáo?

    * * *

    - Bao nhiêu nỏ? Nỏ bảy yến bao nhiêu chiếc?

    Trần Quốc Toản không trả lời được. Trần Nhật Duật chau mày:

    - Có bao nhiêu ngày lương?

    Câu này thì Trần Quốc Toản sung sướng đáp lại ngay:

    - Bẩm đức ông trấn phủ, đội quân của tiểu tướng có thừa lương ăn cả năm cũng không hết.

    Trần Nhật Duật nhìn đăm đăm chàng thiếu niên hào kiệt. Ông vừa quý vừa buồn cười. Như thế này thì nếu cứ đóng ở Thăng Long đội quân của phủ Hoài Văn sẽ được vỗ béo, nhưng cứ rời kinh đô hành tiến ba ngày là họ đã đói rã họng ra bởi vì cứ thử đoán chơi cũng đủ biết họ chưa hề chuẩn bị một chút lương khô nào, xe tải, ngựa tải, thuyền tải.. cũng chưa sửa soạn chứ đừng nói chi đến hạt muối, con cá khô, đến cỏ khô cho ngựa, đến ít quả trứng, ít thịt khô bò cho lính ốm nữa. Ông bảo Trần Quốc Toản:

    - Tiểu tướng quân phải tự hào về đội quân kia! Thật là những người lính có cốt cách. Nhưng tiểu tướng quân phải học phép cầm quân mới được.. Đã có cuốn Binh thư yếu lược chưa? Cuốn sách của Quốc công Tiết chế đó mà.

    - Dạ.. đã có rồi ạ

    - Đã có rồi mà sao cầm quân lỏng lẻo thế này. Quân bao nhiêu cũng không nhớ, vũ khí bao nhiêu cũng không hay, lương ăn bao nhiêu ngày cũng không biết.

    Trần Quốc Toản đành ấp úng thú nhận rằng cậu đã nhận được cuốn Binh thư yếu lược nhưng bận tíu tít việc mua sắm võ khí, việc tập ngựa, tập cung, việc chiêu mộ hào kiệt, việc đến nói với cha anh nhà cậu này cậu nọ để xin cho cậu ta được nhập ngũ, việc mua thừng mua chão để trói tù binh.. nên chưa đọc kĩ cuốn sách đó.

    - Phải đọc và nghiền ngẫm cho kĩ. Đọc rồi làm theo chỉ dẫn trong cuốn sách ngay. Việc binh trước tiên là hiểu mình, rồi hiểu địch thì mới mong tranh thắng được. Tiểu tướng quân nên nhớ có tráng chí nhưng phải có thao lược nữa mới được.

    Trần Nhật Duật cười lớn, ông tế ngựa qua cánh quân lộ Thượng Quy Hóa của ông. Ông thấy Triệu Trung đứng bên trái hàng quân đầu tiên ngay bên dưới lá cờ lệnh nhỏ của đội quân cưỡi ngựa. Viên tướng đó hôm nay mặc quân phục Tống, đội chiếc mũ cỏ rộng vành, vai khoác chiếc cung đại. Triệu Trung không đeo kiếm mà cầm một cây trường thương cán hun đen bóng. Ông nghĩ thật quái lạ. Cái dân tộc của Triệu Trung, người trung thì trung với cả cái mũ, đôi giày của vua mặc dù gã vua đó ăn máu hút tủy của trăm họ, ngu trung đến mức giết cả bố giết cả vợ con để chiều theo ý thích của gã hôn quân vô đạo; còn phản nghịch thì phản nghịch cũng đến nơi đến chốn, mở cửa quan hiểm trở dẫn đường cho quân xâm lăng tiến vào, chỉ chỗ giấu bài vị hoàng tộc, chỉ ngôi mộ giấu một ông hoàng tử lên năm đã chết rồi, chỉ cho quân giặc một đường tiến quân bí mật, chỉ cho quân giặc một cách đánh sở trường của dân tộc. Cái trung, cái phản của dân tộc này đều ở đỉnh cao.

    Trần Nhật Duật không ngừng lại trước đoàn quân của mình nữa, ông trở lại đường hoè. Bấy giờ các bô lão đã lên bộ rồi. Những cụ lai kinh từ mấy hôm trước cũng được gia tướng các hầu phủ, vương phủ đưa ra bến Đông để cùng tiến cung luôn thể. Hôm nay trông cụ nào cũng xúng xính. Họ phần lớn đều là người cao tuổi nhất trong hương mà họ đi thay mặt. Như thế các cụ cũng là những người cao tuổi nhất nước.

    Khi Trần Nhật Duật trở lại bến Đông, các bô lão và các quan văn võ trọng chức đang vái nhau tứ tung hai bên cái nghi môn vóc đỏ. Trần Nhật Duật nhìn thấy Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc mặt lạnh tanh vái tả vái hữu vô tri vô tình như cái cần cối nước lộ Lạng Giang. Ông chắc chắn đức ông Chiêu Quốc nhìn thấy ông nhưng không biết tại sao lại cứ giả tảng là không trông thấy.

    Ít lâu nay, Chiêu Quốc vương tránh mặt ông, không đến thăm ông. Nếu hai người gặp nhau ở chỗ đông người hoặc vắng người thì thái độ của Chiêu Quốc vương cũng xa vắng, thờ ơ mặc dù có câu nào nói với nhau thì cũng là những lời nói ngọt ngào. Chiêu Văn vương cảm thấy áy náy trong lòng. Hình như việc ông được Quan gia sủng ái thêm lên, đồng thời dù muốn hay không cũng là giảm đi quyền uy của đức ông Chiêu Quốc. Cứ xem trọng trách quan tướng trấn phủ ông đang nắm giữ thì đủ rõ. Đúng ra, trọng trách này phải nằm trong tay Chiêu Quốc vương. Có khi với cách điệu nho nhã nổi tiếng sẵn có, Chiêu Quốc vương còn được Quan gia trao cho quyền quan tướng điển nghi buổi triều hội long trọng hôm nay nữa kia. Trần Nhật Duật hơi buồn. Ông có nhiều anh em nhưng xưa nay ông vẫn gần gũi với đức ông hoàng Năm hơn cả. Đó là người dạy dỗ ông nhiều điều, đã dẫn ông đi từng bước trở thành một ông hoàng quý phái, phong nhã và tài hoa.

    Nhưng thực ra, Chiêu Văn vương chưa tìm hiểu đến đáy sâu cùng của mối quan hệ đó. Chiêu Văn vương trưởng thành dần dần từ thiên lương đôn hậu và hồn nhiên. Chiêu Quốc vương cũng trưởng thành dần dần nhưng từ khát vọng riêng tư hết sức kiêu sa và mãnh liệt. Sự khác nhau đó chính là cơn cớ dẫn đến sự rã rời của mối quan hệ tưởng như khăng khít giữa hai người.

    Dân Thăng Long đốt pháo mừng làm cho con ngựa của Chiêu Văn vương bồn chồn. Con Bão Đêm không sợ tiếng động, tiếng nổ nhưng tiếng động tiếng nổ kích thích con tuấn mã máu hăng và hiếu động. Nó vươn cái cổ dài như cổ thiên nga hí một tiếng rậm rựt. Trần Nhật Duật vỗ vào cổ ngựa mấy cái. Ông rê cương chạy dọc đường hoè ra lệnh cho một tì tướng thông hiệu:

    - Báo lên quan tướng điển nghi là các bô lão đã lên võng hết cả. Thông báo luôn cả cho quan tướng Nguyên súy trấn điện Bảo Nghĩa hầu như thế nữa.

    Viên tì tướng tuân lệnh tế ngựa luôn về cửa hoàng thành. Đám rước các bô lão cũng vừa diễu qua đầu ngựa Chiêu Văn vương. Hôm nay Thượng hoàng muốn tỏ bụng kính lão đã dùng toàn võng che màn đại hồng để rước các cụ già thượng khách của triều đình. Mỗi chiếc võng lại được che một đôi lọng xanh rủ thao đen kết chỉ kim tuyến mặc dù hôm nay trời cuối đông nắng đã nhạt lại là nắng sớm. Trên một chiếc võng cụ Bành nhìn thấy đức ông hoàng Sáu. Cụ cố nhổm để ngồi thẳng vái chào Chiêu Văn vương nhưng ngồi thẳng trên võng làm sao được. Ông cụ cứ đành nằm co như thế, giơ hai tay vái. Chiêu Văn vương cũng vội chập cương ngựa, vái đáp lễ. Sau võng cụ Bành là võng cụ Uẩn, người lái đò già bến Bình Than, một trong những tay kiếm hộ thân xưa của đức ông Phụng Kiền, người là thầy của tất cả gia tướng gia nô hương Vạn Kiếp, người đã từng thết Chiêu Văn thân vương một bữa rượu gỏi cá kì lạ nhớ đời. Cụ Uẩn đi thay mặt cho dân hương Vạn Kiếp.

    Sau đoàn võng các bô lão là đoàn ngựa các vương thân, đại thần. Chiêu Văn vương nhìn thấy đức ông Thượng tướng Thái sư và đức ông Tĩnh Quốc. Quốc công Hưng Đạo vương thì lại đứng sang một bên nhường đường cho đoàn người dài dằng dặc kéo đi mãi mới hết. Chiêu Văn vương nhìn thấy Quốc công sai Dã Tượng cắm lá cờ nguyên soái lên đài cờ, ra lệnh cho binh sĩ nghỉ tại chỗ rồi đức ông đi bộ về hoàng thành, sau lưng là các tướng tùy thân hộ vệ. Chiêu Văn vương cũng quay về hoàng thành. Ông xuống ngựa, giao ngựa cho thị mã cận vệ rồi vào cung. Bấy giờ các bô lão trong điện Thiên An đang đi lại xem cung, xem điện. Các đức ông giữ trọng trách hai cung Thánh Từ và Quan Triều đã vào hậu cung để phò ngài ngự ra điện.

    Cụ Uẩn ngày xưa đã từng được ra vào cung điện nhiều lần nên dẫn các bạn già đi xem điện. Các cụ bàn về đức Nhân của Quốc công Hưng Đạo vương và cứ cãi nhau mãi về biết rõ và chưa biết rõ đức Nhân ấy. Cuối cùng các cụ rủ nhau đến bờ hồ Dưỡng Ngư xem cá. Vào mọi buổi sáng cữ này, nội giám vẫn rắc bỏng cho cá ăn. Cá quen lệ, chúng lên cả mặt nước đuôi phe phảy, đớp bọt ăn chậm chạp. Một cụ bảo:

    - Gớm cái giống cá đâu mà quý thế. Giếc đâu mà giếc dài đến hơn một gang tay.

    Cụ Uẩn bảo:

    - Ấy, cái giống giếc đuôi đỏ này đem từ lộ Đà Giang về đấy. Giống nó đẻ kìn kìn, mau ăn mau lớn lắm. Ngày xưa, tôi còn ở Hoàng thành, cứ mỗi năm lại đánh cá một lần dâng Quan gia. Lần nào Quan gia cũng chia cho quân tứ sương mỗi đô vài thúng.

    Một cụ thích thú:

    - Thế thì tốn rượu nhể? Giá quê mình cũng có nhể?

    Nhưng rồi một cụ khác lại hoài nghi:

    - Nhưng chẳng biết rõ nó có nhiều thịt không? Chứ như cái giống ngão ta bè ngang mà..

    Thế là mấy cụ rủ nhau xuống tận bậc lên xuống để xem cá cho rõ hơn. Bầy cá dạn người, thế mà chúng cũng không lặn xuống dưới nước. Chúng còn ve vẩy đuôi bơi sán lại quanh bậc thềm, miệng hớp hớp đám bọt nổi, con nào con nấy béo thừa môi ra. Những cái vây, những cái đuôi đỏ nom thật là đẹp.

    Mấy cụ đùn đẩy nhau để xem, thình lình một cụ trượt rêu trơn lạng người hẩy ngay cụ Uẩn ngã đánh tùm một cái xuống hồ. Các cụ xúm lại hè nhau kéo ông cụ ngã dưới nước lên bờ. Thôi thì quần áo, râu tóc ướt lướt thướt hết cả. Chòm râu thưa bết nước tóp lại, cái khăn tam giang tụt xuống cổ lòng thòng một đầu, nước rỏ tong tong..

    Đúng lúc ấy, chuông vàng đánh chín hồi báo hiệu nhà vua ra điện.

    Chuông vàng đã đánh tới hồi thứ chín. * triều hội này, Quan gia Nhân Tông với quyền uy là đương kim hoàng đế sẽ nói câu quyết định cuối cùng nhưng đứng ra triệu mời và tiếp đãi lại là Thượng hoàng Thánh Tông với cái lẽ là người già mời người cao tuổi để hỏi ý kiến khuyên bảo đàn con cháu.

    Cửa hậu cung mở toang ra sau tiếng chuông cuối cùng của hồi thứ chín. Đô Hổ Dực dàn quân từ cửa hậu cung ra tới điện Thiên An. Hai vua xuất cung giữa một đám lọng vàng lộng lẫy. Theo sau hai vua là các thân vương giữ những chức vụ quan trọng nhất trong triều, những thân vương có biển nhập nội, có thẻ bài "hộ giá tùy sai", hàng ngày vào chầu vua bàn việc lớn của nhà nước và binh gia trong hai cung Thánh Từ hoặc cung Quan Triều.

    Chiêu Minh đại vương Thượng tướng quân Thái sư Trần Quang Khải, người đang cầm đầu các quan văn võ trong triều với nhiệm vụ tể tướng, đi trước các thân vương. Sau đó đến Quốc công Tiết chế chư quân Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, đến Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang; trấn thủ các lộ phía nam, đến Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc, trấn thủ lộ Đà Giang đồng thời là quan tướng chỉ huy một cánh quân mạnh sẵn sàng đánh sâu vào sau lưng địch nếu chúng khởi quân lấn đất ta, đến Nhân Huệ vương Phó Đô tướng quân Trần Khánh Dư chỉ huy toàn bộ quân thủy, các đảo, các cửa sông, các bến trại và các xưởng chiến thuyền, đến Điện tiền Nguyên soái phò mã Bảo Nghĩa hầu Trần Bình Trọng chỉ huy tất cả cấm quân nhưng hiện đang cứ một hai từ chức Điện soái để xin ra chỉ huy quân trên biên ải, đến Tá Thiên vương Trần Đức Việp, tướng trẻ hăng hái lẫm liệt trong các vương hầu..

    Trần Nhật Duật vô cùng xúc động trước quang cảnh trên năm trăm cụ già râu tóc trắng phau đang làm lễ chúc thọ vua. Nhân Tông không ngồi trên điện Thiên An. Nhà vua xuống thềm đi thăm hỏi từng cụ và nhìn thấy cụ Uẩn quần áo ướt bèn sai nội giám vào hậu cung lấy quần áo khô mới cho cụ thay. Lát sau họ mang ra cho ông cụ Bình Than một chiếc áo vóc tía mới tinh khôi. Các bô lão vái chúc hai vua. Mỗi cụ tiêu biểu cho đạo đức, nhân tài, vật lực của một hương và tất cả các cụ tượng trưng cho chí khí anh hùng của nhân dân Đại Việt.

    Nam quốc sơn hà Nam đế cư

    Vần thơ đầy tráng chí của lão danh tướng tiền bối Lý Thường Kiệt bỗng vang lên trong tâm hồn Trần Nhật Duật. Đức ông hoàng Sáu đột nhiên thấy tầm vóc của nhân dân trăm họ vô cùng to lớn. Hôm nay, các bô lão cả nước sẽ nói lên tiếng nói của dân hương mình trước nạn xâm lăng rằng: "Đánh hay hàng?"

    Trần Nhật Duật hiểu và tin rằng các bô lão sẽ quyết đánh. Lịch sử dân tộc lại một lần chứng minh ý chí toàn dân kiên định giữ nước, gan góc chống giặc. Xưa kia, trước đây hàng ngàn năm, vua tổ Hùng Vương đã từng triệu các bô lão về núi Hy Cương để hỏi ý dân trước nạn xâm lược đe dọa. Các bô lão đã xin đánh. Vua Hùng đã nghe theo và nước Văn Lang đã chiến thắng quân Tần hung dữ. Bây giờ cũng vậy, các bô lão sẽ lên tiếng, tiếng nói lẫm liệt của cả nước: Đánh!

    Trần Nhật Duật tin chắc các bô lão sẽ xin đánh nhưng ông vẫn muốn nhìn tận mắt, nghe tận tai tiếng thét đồng thanh và cảnh ấy. Chức quan tướng trấn phủ lại buộc ông phải đôn thúc việc trị an trong kinh thành. Vì vậy khi nhà vua mời các bô lão sang điện Diên Hồng để khoản đãi và hỏi ý thì Trần Nhật Duật phải đi làm công vụ ở bên ngoài kinh thành. Điều đó làm cho đức ông hoàng Sáu nổi giận. Thấy đô Long Dực đang chực hầu ở cửa hoàng thành, Trần Nhật Duật quát to ra lệnh:

    - Lên ngựa!

    Đô Long Dực lên ngay ngựa. Đô này gồm toàn dũng thủ túc vệ Thượng đô, võ nghệ cung kiếm giỏi tuyệt trần, trán được thích ba chữ chàm "Thiên tử binh". Những binh tướng đô này vốn có mối hận cũ với bọn giặc nhà Nguyên. Năm thằng Sài Thung sang sứ nước ta, nó hống hách qua cửa Đại Hưng không thèm xuống ngựa. Vào đến cửa Dương Minh nó cũng định cưỡi ngựa qua. Khi ấy lính đô Long Dực canh cửa Dương Minh đã ngáng giáo chắn đường thằng sứ thần nhà Nguyên hỗn xược. Thằng này lại còn dùng cả roi ngựa đánh mấy người lính Long Dực chảy cả máu đầu. Nếu không biết sợ phép nước mệnh vua thì hôm ấy họ đã bóp chết tươi cái thằng Sài Thung hung hãn hỗn hào rồi.

    Trần Nhật Duật dẫn đầu đô Long Dực phi ngựa qua các phố phường kinh thành về phía quán sứ Đạt Lỗ Hoa Xích. Ông muốn xét động tĩnh trong quán sứ và cũng muốn kiếm chuyện với nó cho hả giận. Đó cũng là một cách đe nẹt thằng Đạt Lỗ Hoa Xích đồng thời trêu cho nó tức giận "chơi".

    Lính Long Dực đoán được ý Trần Nhật Duật, họ giơ cao ngọn giáo sáng loáng, họ rướn mình trên bàn đạp, miệng hô tiếng hô chiến đấu: "Xông lên! Giết! Xông lên! Giết"

    Quán sứ Đạt Lỗ Hoa Xích đóng cổng kín mít. Những tên quân canh cũng rút cả vào trong. Đằng sau kẽ ván gỗ cánh cửa quán sứ chắc có những tên đứng trong nhìn ra. Trần Nhật Duật cho ngựa phi quanh quán sứ ba vòng thật nhanh rồi vòng thứ tư cho ngựa đi bước một. Đàn ngựa phi đang hăng, chưa phỉ chí bị ghìm cứ hậm hực hí. Chúng lần lượt cong đuôi ỉa tung toé ra đường. Lính Long Dực cười ồ cả lên. Quán sứ Đạt Lỗ Hoa Xích đâm ra hôi hám như chuồng thú.

    Trần Nhật Duật dẫn quân đi tra soát mấy đồn phong đoàn chính yếu của kinh thành. Những đồn phong đoàn là nơi đóng quân của lính tuyển phong chuyên việc dò giặc, bắt trộm, trị cướp, ngăn chặn các việc làm trái pháp luật của nhà nước. Tra soát xong, Trần Nhật Duật quay trở lại hoàng cung. Ông cho lính xuống ngựa nghỉ và ông vào nội cung bằng cửa Vân Hội. Ông bước lên thềm điện Diên Hồng lúc các bô lão ùa lên nói với Trần Quốc Tuấn:

    - Sao Quốc công lại quá khen cái lũ giặc ấy thế?

    Trần Quốc Tuấn phò hai vua đưa các bô lão sang điện Diên Hồng.

    Bữa nay điện này được trang trí rất khéo. Điện không có những hàng cột thếp vàng lộng lẫy và những bức tường ghép gỗ dạ hương chạm nổi như điện Thiên An. Điện cũng không có những bậc thềm rộng mà người lên hoặc xuống thềm cảm thấy thăm thẳm triền miên. Diên Hồng là một ngôi điện rộng làm từ triều trước, lúc nhà Trần vừa lên ngôi còn nguyên cái hồn hậu của dân dã, cái vũ dũng của những tráng sĩ đi mở nước. Diên Hồng có một vẻ đẹp trầm mặc, hùng vĩ với lớp mái vảy cá chót cong vừa phải và hàng cột chò chỉ trơn, màu đã xuống với thời gian. Nền điện trải toàn chiếu cạp điều sát vào nhau và nhà vua đã sai bày tiệc lên đó để thết đãi các bô lão.

    Trong lúc Nhân Tông và Trần Quang Khải mời các cụ vào điện Trần Quốc Tuấn chợt nhớ ra một điều, ông đi ra cửa Việt Thành. Ông thấy Trương Hán Siêu đang túc trực ở đấy. Vị tướng già ra lệnh bằng giọng gấp gáp:

    - Cháu cầm lấy cái này về ngay vương phủ họp thư nhi bên ta và bên phủ Chiêu Minh sao cho ta làm năm nghìn bản. Hẹn lúc mặt trời lặn chiều nay phải đem tới bến Đông.

    Trần Quốc Tuấn trao cho Trương Hán Siêu một cuộn giấy. Ông mở to mắt, bảo Trương Hán Siêu:

    - Bản hịch của ta đó. Đi cho mau.

    Khi Trần Quốc Tuấn quay trở về tới điện Diên Hồng thì tiếng hô "Đánh! Đánh!" đang vang ầm hoàng cung. Ông bước lên thềm điện, thấy Nhân Tông đứng giữa, các bô lão đang ngoảnh mặt về nhà vua. Một số cụ ngồi mé xa nhấp nhổm quỳ gối lên và những cụ ngồi tận cùng thì đứng cả dậy để nghe và nhìn cho rõ hơn.

    - Đây rồi, Quốc công Tiết chế đây rồi. Quốc công hãy nói cho bô lão rõ về sức ta và sức địch đi!

    Trần Quốc Tuấn từ từ bước vào, đường bệ trong bộ áo chiến đại trào và chòm râu lốm đốm bạc rủ dài xuống mảnh đồng thau hộ tâm hình chữ nhật chạm phù hiệu quân Thánh Dực. Một cụ hô lớn:

    - Xin Quốc công cho đánh.

    Toàn điện Diên Hồng lại rung lên. "Đánh! Đánh!". Vị tướng già mắt sáng lên, sung sướng trong không khí tin tưởng anh hùng. Ông nói:

    - Cần phải biết mình biết địch. Hốt Tất Liệt hiện nay không chỉ là vua của đám dân du mục chỉ biết phi ngựa bắn đốt. Hắn còn là vua của hàng trăm triệu người biết cắm rễ sâu xuống những cánh đồng phì nhiêu nằm trên lưu vực Hoàng Giang và Trường Giang. Hốt Tất Liệt không chỉ âm mưu diệt dân ta, hắn còn muốn chiếm giữ lâu dài, chia thành quận huyện, đặt ách đô hộ ngàn đời lên cổ dân ta. Kẻ địch của chúng ta có quân kị thiện chiến, quân bộ thiện chiến, lương thảo dồi dào, chiến cụ dồi dào..

    Có một cụ ngắt lời ông:

    - Sao Quốc công lại quá khen cái lũ giặc ấy thế?

    Chính vào lúc đó, Trần Nhật Duật trở về. Điện Diên Hồng đang trong lúc không khí căng thẳng. Trần Quốc Tuấn vẫn điềm tĩnh:

    - Xin các cụ nhớ cho kẻ địch của chúng ta đã thiện chiến lại thâm hiểm vô cùng..

    Nhưng cụ Uẩn lại ngắt lời ông một cách rất bất ngờ:

    - Chúng ta đã chọi giáo với lũ giặc ấy rồi.

    Trần Quốc Tuấn suýt bật cười khi thấy ông già thấp nhỏ trong chiếc áo vóc tía.

    - Đúng, chúng thiện chiến mà ta cũng thiện chiến. Nhưng chiến trường diễn ra trên đất ta sao tránh khỏi những tổn thất cho trăm họ..

    Thế là các bô lão ùa lên nói với Trần Quốc Tuấn:

    - Mất nước là mất hết. Xin Quốc công cho đánh!

    Rồi họ hướng về phía vua Nhân Tông hô to:

    - Xin Quan gia cho đánh!

    - Hương Quắc chúng tôi xin đánh!

    - Hương Tức Mạc chúng tôi cũng xin đánh!

    - Hương Hoằng chúng tôi xin đánh!

    * * *

    Trần Nhật Duật nhìn thấy cụ Bành. Ông cụ già vùng biển tuổi vào loại cao nhưng còn khoẻ lắm. Ông cụ đứng hẳn dậy giơ hai tay nắm chặt ra trước mắt:

    - Thưa Quan gia, thưa các đàn anh. Hương Hoằng chúng tôi cũng như cả nước xin quyết đánh và quyết thắng. Thưa các đàn anh, nước Việt chúng ta có bao giờ chịu nhục. Xin là đánh và quyết thắng.

    Tất cả các bô lão cùng gào lên:

    - Xin đánh! Đánh cho tan bọn kẻ cướp phương Bắc.

    Điện Diên Hồng lại rung lên hai tiếng Sát Thát. Các vương hầu và lính cấm vệ đứng canh cũng thét theo ầm ầm.

    - Sát Thát! Xin đánh! Sát Thát! Xin Quan gia cho đánh. Thà chết chứ không chịu mất nước!

    Trần Nhật Duật và Trần Bình Trọng cũng thét to xin đánh. Hai quan tướng trấn phủ và trấn điện cũng quên khuấy mất nhiệm vụ của mình mà cứ hét lên. Nhân Tông muốn cân nhắc kĩ nên nhà vua mời các bô lão uống một chén rượu. Nhưng các bô lão nhất định không chịu uống. Họ trả lời rằng Quan gia chưa hạ chỉ đánh thì không ai an tâm uống chén rượu ấy. Trần Nhật Duật nhìn thấy Nhân Tông đứng sừng sững, mặt xúc động, đôi mắt hừng hực từ từ khép lại. Thình lình nhà vua trẻ mở to mắt, cất tiếng sang sảng đầy vẻ quả quyết:

    - Vậy thì.. ta truyền chỉ. Các cụ hãy uống với ta chén rượu nguyền một lòng chống giặc. Ta truyền đánh!

    Các bô lão, vương hầu, tướng lĩnh, binh sĩ cùng gầm lên:

    - Đánh! Đánh! Đánh!

    Trần Nhật Duật thấy mắt mình nhòa đi. Ông nghe có tiếng cụ nào đó khóc rống lên sung sướng. "Quan gia cho đánh rồi! Quan gia cho đánh rồi!"

    Trăm họ là gốc của xã tắc! Chân lí ấy rạng rỡ, chốt chặt trong lòng Trần Nhật Duật. Đức ông quan tướng trấn phủ nguyền thầm sẽ giữ gìn ý chí sắt son để khỏi phụ lòng trăm họ. Ông chưa hề nghĩ tới trong mấy trăm con người đứng trong điện Diên Hồng lúc đó, những ai là người anh hùng?

    Nhanh quá. Xong xuôi nhanh quá. Trần Quốc Tuấn sai Nguyễn Địa Lô về ngay vương phủ Hưng Đạo hẹn chính ngọ đã phải có bản hịch của ông ở ngoài bến Đông.

    Gần trưa, Chiêu Minh đại vương hộ tống nhà vua tiễn Tiết chế ra bến Đông làm lễ xuất sư. Quân Long Dực, Hổ Dực mở đường. Lính hai quân Tả và Hữu Thánh Dực dưới quyền chỉ huy của Trần Bình Trọng hộ vệ hai bên kiệu vua. Sau kiệu là Trần Quốc Tuấn hiên ngang trên lưng con Tía Mật. Sau đó là Chiêu Minh đại vương cùng các quan văn võ và các bô lão kéo dăng dăng trên con đường hoè từ cửa Việt Thành đến bến Đông.

    Nắng hanh.

    Cờ rực rỡ. Trống đồng bến Đông đánh thì thùng. Nắng lập loè đầu ngọn giáo, nắng lập loè trên mảnh hộ tâm của các tướng. Nắng long lanh trong mắt binh sĩ.

    Đến bến Đông, Nhân Tông xuống kiệu. Nhà vua lại trước đầu ngựa của Trần Quốc Tuấn, giữ cương cho vị tướng già xuống yên. Nhân Tông cầm tay đưa Trần Quốc Tuấn lên trên đài cờ. Không khí trang trọng đến tức thở. Chỉ nghe tiếng cờ bay phần phật và tiếng sóng vỗ mạn thuyền ì ùm.

    Nhân Tông vái Trần Quốc Tuấn và phán:

    - Từ nay việc an nguy của nước nhà, trẫm xin giao cho Quốc công.

    Trần Quốc Tuấn nghiêm trang đáp lễ:

    - Lão thần thề không để nhục mệnh bệ hạ.

    Đối với Nhân Tông, Trần Quốc Tuấn là bác ruột, đồng thời là bố vợ, là thầy yêu. Tình cảm nhiều bề quyến luyến. Nhân Tông ban kiếm Thượng Phương trao quyền chém trước tâu sau cho Trần Quốc Tuấn và quyền ban tước tới vị hầu cho ông. Nhà vua chăm chú nhìn vị tướng già và thấy quả là một người quắc thước lạ lùng.

    Từ trên đài cờ, Trần Quốc Tuấn lặng nhìn các đội quân hàng ngũ chỉnh tề bên dưới. Này đây quân Thánh Dực túc vệ Thượng đô của Bảo Nghĩa hầu Trần Bình Trọng. Vừa qua vị Nguyên soái trấn điện này đã tha thiết xin vua cho ra trận. Nhà vua đã chuẩn y. Trần Bình Trọng sẽ dẫn quân Thánh Dực theo ông ra trận tiền lập công. Này đây đội quân cưỡi ngựa của Chiêu Văn vương ăn mặc áo chiến ngắn tay nhuộm chàm nom hùng vĩ và bí mật như rừng núi. Này đây đội quân thiếu niên của Trần Quốc Toản đứng dưới ngọn cờ mang sáu chữ kiêu hãnh "Phá giặc dữ, báo ơn vua". Này đây đội tượng binh của hương Vạn Kiếp xếp thành khối đen to và hục hặc. Này đây đội quân thủy của Phó đô tướng quân Trần Khánh Dư vác những cây câu liêm ba ngạnh kì dị. Này đây đội quân gia đồng của Chiêu Minh đại vương đứng nghiêm chỉnh sau lá mộc vẽ chòm sao Bắc Đẩu của đức ông hoàng Ba. Này đây đội quân tinh luyện người Thăng Long của Trung Thành vương, con người lịch sự nhất kinh kì. Này đây đội quân của Hưng Ninh vương, đội quân của Hưng Võ vương, của Hưng Nhượng vương..

    Trần Quốc Tuấn thấy tất cả sức mạnh của dân tộc từ nghìn xưa truyền lại nâng cao chí khí của ông lên khiến cho hai vai ông dư sức gánh sứ mạng nặng nề.

    Ông thét lớn:

    - Bớ ba quân!

    Quân lính dạ ran kinh thành sông nước. Trần Quốc Tuấn thét tiếp:

    - Quan gia đã hạ chỉ cho ta lĩnh cờ Tiết chế cùng các ngươi ra quân giết giặc. Kiếm Thượng Phương đây! - Ông giơ cao kiếm lên khỏi đầu - Ai trái lệnh phản dân hại nước ta sẽ nghiêm trị không tha.

    Quân sĩ lại dạ ran. Nhân Tông cầm cây gậy xương cá trong tay Dã Tượng lại gần trao cho Trần Quốc Tuấn:

    - Trọng phụ tuổi đã cao, xin vì trẫm, vì đất nước và trăm họ mà giữ gìn sức khoẻ.

    Sau đó Trần Quốc Tuấn ra lệnh cho đạo quân bộ lên đường. Khi các cánh quân bắt đầu chuyển, Trần Quốc Tuấn cũng xuống bến thuyền. Ngoài cửa bến, Trần Quốc Tuấn thấy đức ông Chiêu Minh đứng chờ sẵn ở đó. Sau lưng Chiêu Minh đại vương là thư nhi hai phủ. Trần Quang Khải tặng Trần Quốc Tuấn tập thơ Lạc Đạo gồm những bài ông làm gần đây do chính tay ông chép lại. Ông nói với Hưng Đạo vương:

    - Ba quân đã trảy, xin mời Quốc công lên thuyền.

    Trần Quốc Tuấn vái từ vua rồi quay sang Trần Quang Khải:

    - Hịch đã viết xong. Phiền Thượng tướng quân sai truyền đi các lộ ngay.

    Thuyền tướng từ từ kéo buồm. Ngọn cờ tiết chế uy nghi trên mũi thuyền. Nhân Tông để tay vào đuôi thuyền khẽ đẩy. Thuyền tướng rời bến. Mặt sông la liệt buồm và cờ. Dàn trống đồng đánh nhịp xuất quân. Tiếng trống rạo rực và thôi thúc.

    Quân chèo thuyền cất cao giọng:

    Dò hò này..

    Khoan ơi hò khoan

    Dò hò.. này

    Cùng nhau.. ý a

    Tiếng hò náo nức lòng người xiết bao. Trần Quốc Tuấn đứng trên mũi thuyền thấy sông bao la chan hòa ánh nắng. Thăng Long từ từ xa dần và trong lòng vị tướng già bỗng đinh ninh lời thề khải hoàn với kinh thành yêu dấu.

    Trần Quốc Tuấn trầm ngâm ngắm đêm sông Thiên Đức đầy sao. Đốm lửa cuối thuyền của cụ Uẩn chỉ còn le lói mé xa xa như lửa đóm. Các bô lão sau yến vua ban đã chia tay nhau trở về quê quán. Trần Quốc Tuấn còn nghe văng vẳng trong tai lời một bô lão cao tuổi nhất:

    - Bẩm Quan gia! Chúng tôi sẽ kể cho con cháu chúng tôi nghe. Tôi con cả nước sẽ vững lòng chống giặc.

    Cụ Uẩn về Bình Than, nửa đường cụ rẽ vào Mai Hiên chào Trần Quốc Tuấn. Mai Hiên là thái ấp ngày xưa của đức ông Phụng Kiền, về sau Quan gia ban cho Hưng Đạo vương làm ấp thang mộc, để cho đức ông Hưng Đạo có nơi tắm gội sạch sẽ gần kinh thành mỗi bận tiến cung chầu vua.

    Trần Quốc Tuấn giữ ông cụ Bình Than lại thái ấp và đãi ông cụ một bữa rượu say túy lúy trước lúc lên đường xuôi Bình Than. Ông cụ say đến nỗi không xách được cái thúng khảo sơn trong có nước và một đôi cá giếc đuôi đỏ ra bến thuyền. Đôi cá này là vật vua ban cho tất cả các cụ có mặt trong tiệc Diên Hồng. Khi các cụ bô lão chia tay nhau, gia nô hương Vạn Kiếp trông thấy cụ Uẩn mặc áo vóc tía, đều kinh ngạc sững sờ rồi kêu lên: "Úi chao ôi! Cụ được Quan gia phong tước hầu thượng vị cơ à?". Cụ Uẩn trả lời không phải, nhưng gia nô hương Vạn Kiếp không tin bởi vì chỉ tước Thượng vị hầu mới được mặc áo tía. Trần Quốc Tuấn cũng suy nghĩ và không hiểu rõ ý Nhân Tông. Có lẽ Quan gia phong tước này cho cụ Uẩn thật chăng? Ban phong cho để thưởng công cụ đã có kế hay ương cá các nơi làm lương ăn cho quân dân no nê đủ sức đánh lâu dài. Hay Quan gia cho ông cụ áo tía chỉ vì trong hoàng cung chỉ dùng có hai màu áo: Màu vàng của nhà vua và màu đỏ của thái giám trong cung? Nhưng có thể Quan gia phong tước cho người lính già này thật đấy, mà như thế cũng không có gì là quá với ông cụ.

    Trần Quốc Tuấn mỉm cười nhớ tới trí lự của Nhân Tông, học trò và con rể của mình. Trong khi tiệc Diên Hồng đang diễn ra sôi nổi, lính quân Thần Sách được lệnh đem lưới đến hồ Dưỡng Ngư đánh cá. Bộ Hộ cũng được lệnh của hỏa tốc biện bằng đủ năm trăm chiếc thúng sơn. Khi Quan gia tiễn bô lão ra cửa Việt Thành, các cụ được vua ban nhiều quà, nào là chày cối giã trầu, nào là hộp quả đào đựng trầu vỏ, nào là quế quý và mỗi cụ được một đôi cá giếc. Nhân Tông ân cần dặn:

    - Các cụ về nuôi cho khéo. Có khi đánh giặc cũng lâu. Các cụ nuôi làm sao cho cá đầy đầm đầy ao, dân có cá ăn, quân có cá ăn.

    Trần Quốc Tuấn thấy lòng lâng lâng. Ông đột nhiên nghĩ rằng giờ đây trên mọi nẻo đường, các bô lão đang nâng niu đôi cá giống mang về tới thôn xóm hẻo lánh nhất, truyền cho trăm họ ý chí quyết đánh quyết thắng của triều đình.

    Ông nghĩ tới bao người đang âm thầm làm công việc sửa soạn chống giặc. Đỗ Vỹ đã lên đường. Bây giờ anh ấy đang ở một nơi nào đó bên kia biên giới, âm thầm, gan góc làm công việc khó khăn ông đã giao cho. Ông nghĩ tới Trần Bình Trọng, con người luôn luôn nghĩ mình làm tướng cần ở chốn biên thùy. Bảo Nghĩa hầu đã xin vua thôi chức Nguyên súy trấn điện để lĩnh quân lên ải bắc. Bây giờ Bảo Nghĩa hầu đang cùng quân hành tiến ở triền sông nào đây?

    Bỗng Trần Quốc Tuấn mở to mắt nhìn về phía nguồn sông. Ông thấy những đốm sáng ông đang chờ đợi. Những đốm sáng to dần trở thành những ngọn lửa đuốc cắm trên mũi những con thuyền mang bản hịch của ông truyền đi các lộ. Trần Quốc Tuấn lắng nghe binh sĩ reo hò:

    - Bớ làng chạ hai bờ! Triều đình đã xuất quân. Làng trên chạ dưới lắng nghe tôi truyền chỉ vua. Triều đình đã xuất quân phá giặc. Bớ làng chạ hai bờ..

    Đoàn thuyền truyền hịch rất đông, kéo dài hàng mấy khúc sông, lốm đốm lửa đuốc như con rồng sáng. Từ thôn làng hai bờ sông Thiên Đức, tiếng lao xao to dần, dân làng cũng bật hồng kéo ra, ngắm cảnh nửa đêm truyền hịch.

    Trần Quốc Tuấn nhìn sang phải, sang trái. Đâu đâu cũng thấy hàng nghìn bó đuốc cháy bập bùng. Ông có cảm giác cả nước hôm nay không ngủ. Cả nước cùng thức với ông nghe bản hịch dậy lòng chống giặc.

    Ông nghiêng mái đầu lắng nghe. Mé bên kia sông, có tiếng ai sang sảng. Bên ấy bài hịch của ông đang vang lên từng tiếng rành rọt, đanh thép. Ông lẩm bẩm:

    - Đạo quân của Hoài Văn hầu và của Trung Thành vương đây.

    Ban chiều ông đã thấy hai đạo quân này cắm lều trận trên cái bãi sa bồi bên kia sông. Bây giờ quân sĩ xếp từng đô vuông vức, nổi đuốc lên nghe hịch..

    " Huống chi ta với các ngươi, sinh ra giữa buổi rối ren, lớn lên nhằm thời nguy cấp, mắt thấy sứ giặc đi lại đường sá nghênh ngang, uốn lưỡi cú diều sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó làm nhục tể phụ.."

    Trần Quốc Tuấn cười gằn nghĩ tới Sài Thung. Nó chưa phải là kẻ thù hung hãn nhất. Lần này ra quân, phân thắng bại ở chiến trường, chính là lúc ông sẽ diệt tan nguồn gốc bạo lực kiêu hãnh của giặc. Cả nước sẽ cùng xốc tới theo ngọn cờ của ông dìm giặc xuống đáy các dòng sông nước Việt.

    Bên kia sông, tiếng hịch càng to hơn:

    " Các ngươi ở dưới trướng ta đã lâu, nắm giữ binh quyền, không có áo thì ta cho mặc, không có cơm thì ta cho ăn, thăng chức, cấp lương, cấp thuyền, cấp ngựa.."

    Thốt nhiên hàng loạt hình ảnh thân thiết, vũ dũng, hiên ngang, nhân ái diễu nhanh qua trước mắt ông. Chiêu Minh đại vương với đôi mắt trầm tư sâu sắc. Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật dẫn đầu một cánh quân kị sơn chiến gọn ghẽ, sắc sảo nhưng vẫn lịch sự duyên dáng. Hoài Văn hầu với khí thế tuổi trẻ nuốt trâu dẫn đầu sáu trăm gã thiếu niên hào kiệt, tươi vui và nhộn nhạo. Ông nhớ tới Đỗ Vỹ, con người tài hoa, bản lĩnh, tới Dã Tượng, Yết Kiêu, những gia tướng trung trinh, cụ Uẩn, người lái đò già đã từng là tay kiếm hộ vệ của cha ông, tới thư nhi Trương Hán Siêu, tới ông già chép sử Lê Văn Hưu, bậc thầy và tham quân trí lự của Chiêu Minh vương.. tới tất cả những con người anh hùng của nước Việt anh hùng..

    " Bởi vì như vậy tức là các ngươi không hề nghĩ tới mối thù chung, điềm nhiên không lo rửa nhục, không nghĩ đến việc dẹp giặc, không siêng năng luyện rèn sĩ tốt. Như thế là trở giáo hàng giặc. Rồi đây khi đánh tan giặc, các ngươi sẽ phải để thẹn muôn đời, còn mặt mũi nào đứng giữa trời đất nữa?

    Vì vậy cho nên ta viết hịch này để cho các ngươi biết bụng ta.."

    Thốt nhiên có tiếng reo dậy đất. Bãi sông bên kia xôn xao ông cảm thấy có một sự việc trang trọng đang diễn ra bên đó. "Hãy khắc lên da thịt cho hai chữ ấy nhuyễn vào xương máu chúng ta. Giết giặc!"

    Sự việc gì thế nhỉ? Đột nhiên Trần Quốc Tuấn ao ước có phép thần để có mặt lúc này tại khắp nơi trên đất nước, hòa tình cảm riêng với hào khí của cả dân tộc Việt. Trần Quốc Tuấn chợt thấy dạ cứ nao lên và ông tự hứa thầm sẽ làm hết sức mình để tạ lại những tấm lòng trung trinh, nhân ái ấy.
     
  6. Mạc Hồng Viên

    Bài viết:
    184
    Chương 15

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Mùa xuân. Những hạt mưa nhỏ nhẹ, bay la đà đậu cả lên khăn chiến, lên vai áo chẽn của binh lính. Vạn hộ hầu Nạp Tốc Lạt Đinh giơ cao lá cờ lệnh. Từ chỗ đứng, viên tướng Nguyên có thể nhìn thấy các đội quân Hán, Ô Man, Thát Đát.. đang chiếm lĩnh các vị trí xuất quân trong trận đánh quyết định sắp tới. Cuộc Nam chinh thế là đã bắt đầu hơn một tháng rồi.

    Nạp Tốc Lạt Đinh chỉ huy một mũi phụ tiến từ nước Đại Lý cũ vào tây bắc nước Đại Việt. Mũi tiến công này dùng cốt lõi là một nghìn quân kị mã Thát Đát cưỡi những con ngựa Đại Lý thấp nhỏ nhưng bền sức và vó chắc quen thuộc đường rừng, nhưng lực lượng rộng rãi gồm hơn một vạn quân Hán và quân Ô Man đánh bộ ở vùng rừng núi rất giỏi.

    Nạp Tốc Lạt Đinh dẫn đội quân kị từ hành doanh của Đại nguyên soái Thoát Hoan về đây. Y đã được dự bàn kế tấn công vào nước Đại Việt với tư cách là một tướng chỉ huy một mũi. Nạp Tốc Lạt Đinh đang say sưa với niềm khát vọng cuồng nhiệt và y tin chắc sẽ được dự phần công lớn. Đại nguyên soái Thoát Hoan thật là một tướng giỏi tuy tuổi trẻ mà vẫn xứng đáng dòng dõi danh tướng. Đại nguyên soái đã vạch ra một kế hoạch tấn công kì diệu bằng bốn mũi:

    - Mũi tấn công mé tây bắc nước Việt, Nạp Tốc Lạt Đinh được vinh dự làm tướng. Mũi này nhằm buộc quân Việt phải chia ra thụ địch ở nhiều hướng.

    - Mũi tấn công từ mé Chiêm Thành đánh úp vào sau lưng nước Việt. Mũi này do Nguyên soái Toa Đô làm tướng.

    - Mũi tấn công bằng cả thủy lẫn bộ vào phía đông nước Đại Việt. Mũi này dùng nhiều quân Hán tuyển chọn ở Quảng Đông, Phúc Kiến, dùng cả bọn cướp biển mới quy hàng. Tướng mũi tấn công này là viên tướng Hán là Vạn hộ hầu Lý Bang Hiến.

    - Đại nguyên soái Trấn Nam vương Thoát Hoan và Binh chương A Lý Hải Nha chỉ huy đạo quân chính đánh vào phía bắc nước Việt. Thực ra, linh hồn của đạo quân này chính là Phó Nguyên soái A Lý Hải Nha. Mà thực ra gã này cũng chính là bộ não của cả đạo quân Nam chinh nhà Đại Nguyên.

    Năm mươi vạn cả lính lẫn phu là một đội quân cực mạnh. So với thời Đại Hãn đội quân này không nhanh bằng nhưng có sức bền tiến hàng năm xa đất gốc và có đủ chiến cụ để vượt qua các lũy, vượt qua những dòng sông phương nam mùa nào cũng mênh mông, đủ sức và đủ phương tiện để tiến hành đánh các thành trì đắp đất hoặc xây gạch. Một đội quân với trình độ tổ chức cao, có đủ binh phù ấn tín, có phương tiện thông tin bằng ngựa, bằng thuyền, bằng hiệu cờ, hiệu đèn, hiệu khói lửa. Lại thêm có cốt lõi là kị binh Thát Đát và thủy binh hải tặc cũ ven biển Quảng Đông, Phúc Kiến.

    Nạp Tốc Lạt Đinh đã nửa đời chinh chiến, ăn ngủ trên lưng ngựa nhưng chưa lần nào y thấy say sưa như lần này. Ôi cái nước Việt như trong truyện thần tiên, một năm ba mùa lúa chín, cá đầy sông hồ biển suối, ngọc trai, trầm hương, sừng tê, vàng vớt lên từ suối, ngọc lấy từ bờ khe mà con gái thì đẹp như tiên, dệt những tấm lụa mặc vào người rồi mà vẫn tưởng cởi trần..

    Phía trước mặt Nạp Tốc Lạt Đinh là một đạo quân Việt quen thuộc rừng núi do một tướng nghe đâu là một bậc thân vương thao lược của nước Việt chỉ huy: Trần Nhật Duật. Những tên do thám sừng sỏ lão luyện của triều Nguyên đã đánh giá về viên tướng Việt này như sau: Một tướng giỏi, thận trọng nhưng vô cùng gan dạ. Và rất thông minh, quả là rất thông minh. Nạp Tốc Lạt Đinh đã lập mẹo để bắt sống bằng được viên tướng đó. Trần Nhật Duật có tám nghìn quân sơn cước, một lực lượng xấp xỉ với đội quân của y nhưng viên tướng Việt đã phải chia một nửa số quân ấy sang tiếp sức cho mé đông bắc rồi. Quân Việt không mắc mẹo chia quân thụ địch nhiều hướng mà còn tập trung cho chiến trường chính. Nhưng như thế lại có lợi cho Nạp Tốc Lạt Đinh. Y đã sai thám mã giỏi đi dò xét quân Việt. Xem khói nấu cơm, xem bụi bốc ở chỗ đóng quân người Việt, bọn thám mã đoán chắc quân của Trần Nhật Duật không quá bốn nghìn người. Nạp Tốc Lạt Đinh liền cho quân kị chọc sâu vào sau lưng quân Việt để chẹn hậu. Trong khi đó y đánh cầm chừng ở mặt chính. Căn cứ vào tính nết của viên tướng Việt, Nạp Tốc Lạt Đinh phán đoán quân Việt sẽ ngoan cường giữ vững mặt trận và như vậy khi vòng vây khép hậu, Nạp Tốc Lạt Đinh sẽ bắt sống tướng đối phương, làm tròn tướng mệnh cho mũi tấn công tây bắc của y.

    Nạp Tốc Lạt Đinh nhớ tới lời giao hẹn của Đại nguyên soái Thoát Hoan: Tướng mũi nào làm tròn tướng mệnh cũng được tính công đầu! Nạp Tốc Lạt Đinh đinh ninh y sẽ lập công đầu lần này, tên ghi sách vàng, phong hầu một phiên trấn, trở thành ông vua con ở Vân Nam.

    Những đội quân Hán, Ô Man, Thát Đát dùng mọi thủ đoạn để tỏ ra ít và yếu. Chúng dùng một số quân rất nhỏ tiến ban ngày để mở đường còn quân chủ lực cứ xế chiều mới ra đi. Nạp Tốc Lạt Đinh còn sai người đốt lửa ở các mỏm núi cao để nghi binh làm như quân Nguyên vẫn đóng lại chưa dám tiến. Kì thực thế trận bao vây đã mau chóng hình thành.

    Theo mẹo của y, quân Nguyên sẽ mở cuộc tấn công lớn vào mờ sáng ngày mai, dồn quân Việt xuống đáy cái túi đã có quân kị mã thiện chiến chực sẵn đánh lối cất vó. Nạp Tốc Lạt Đinh lên ngựa. Đội hộ vệ của y cũng lên ngựa. Đoàn người ngựa xuống núi đi về phía nam.

    Xa xa, phía quân Việt, những làn khói nấu cơm vẫn bốc lên. Nạp Tốc Lạt Đinh cười nhạt. Bọn ấy đâu biết được diệu kế của y, Vạn hộ hầu, danh tướng nhà Đại Nguyên!

    Nạp Tốc Lạt Đinh vẫn tính vừa quá cao vừa quá thấp lực lượng của đối phương. Theo tính toán của Quốc công Tiết chế Trần Quốc Tuấn, mặt tây bắc rừng núi rậm rạp hiểm trở, đường lương thảo rất khó vận chuyển, giặc có kéo sang cũng chỉ là mũi nghi binh. Trần Quốc Tuấn đã tập trung binh lực nhằm đánh mòn địch ở mặt trận đông bắc. Ông nhận định: Mặt trận này mới là mặt trận chính. Nhưng Trần Quốc Tuấn đã đặt một cánh quân mạnh ở Đà Giang và Tam Đái Giang. Cánh quân này do Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc chỉ huy sẽ tiến qua mặt trận của Trần Nhật Duật chọc thẳng vào sau lưng địch, hình thành thế địch đánh ta vào sâu đất ta, ta lại tiến quân đánh vào sâu đất địch, phá mưu của Thoát Hoan. Phá cái mưu đem cuộc chiến vào đất ta bằng cách đem cuộc chiến vào giữa đất địch. Cánh quân của Trần Ích Tắc có viên phó tướng là Văn Chiêu hầu Trần Văn Lộng nguyên giữ chức trấn thủ lộ Tam Đái Giang. Toàn bộ cánh quân được lệnh ém kín trong rừng. Vì vậy ở lộ Quy Hóa, Trần Nhật Duật chỉ giữ có hai nghìn quân, dùng toàn binh khí nhẹ để tiện di chuyển chiến đấu ở vùng rừng núi. Ông đã được giao tướng mệnh: Đánh kiềm chế nếu giặc tiến quân cả mặt này. Nếu chúng không sang mũi này thì đem dân binh sang quấy rối vùng sau lưng địch ở mạn đông bắc làm bức tường dựa cho cánh quân của Trần Ích Tắc sẽ đánh sâu vào trong đất địch.

    Chính lúc này, trên một mỏm núi cao, Trần Nhật Duật cũng đang quan sát thế trận và nghiền ngẫm mẹo phá giặc. Ông cũng đang băn khoăn về cánh quân của Trần Ích Tắc không hiểu vì lí do gì mà chậm trễ chưa tiến quân qua. Trần Nhật Duật còn nhớ hôm xuất sư. Hôm ấy sau khi tiệc Diên Hồng kết thúc, hai vua và triều đình long trọng tiễn các bô lão ra bến Đông để trở về các lộ. Ngay lúc đó, Quốc công làm lễ tế cờ xuất sư. Chiêu Văn vương dẫn quân bản bộ lên đường đi Quy Hóa. Đêm đó ông đóng quân nghỉ trên một vùng bãi sa bồi bên bờ sông Nguyệt Đức. Đằng sau trại đêm của ông là trại đêm của Trung Thành vương và Hoài Văn hầu. Nửa đêm hôm đó, hịch của Quốc công Tiết chế được truyền đi. Trên sông Nguyệt Đức thăm thẳm hùng vĩ, đoàn thuyền truyền hịch từ sông Thiên Đức tiến sang đốt đuốc dăng hàng dọc như một con rồng lửa. Hai ven sông, quân lính và trăm họ trang trọng đứng im lặng nghe loa truyền hịch.

    " ngó thấy sứ ngụy đi lại đường sá nghênh ngang.."

    Hà! Trần Nhật Duật thừa hiểu thế nào là sứ giặc đi lại đường sá nghênh ngang.. Nhưng quân thù đâu phải chỉ là mấy tên sứ thần hỗn hào láo xược mặc dù chúng đã làm ông và các tướng triều đình lắm phen căm gan tím ruột. Quân thù thực sự, nguồn gốc bạo lực, kiêu hãnh và hung hãn của chúng là binh là tướng hiếu sát tàn ác, đến lúc này mới nhe nanh giương vuốt xuất đầu lộ diện. Hịch của Quốc công nhắc nhở mọi người ghi nhớ mối thù không đội trời chung và ghi nhớ cả nỗi nhục sâu xa.

    Trần Nhật Duật mường tượng vẻ mặt nhân hậu của Quốc công khi nghe tiếp lời hịch:

    " Ra trận cùng nhau sống chết, ở nhà cùng nhau nói cười."

    Đấy! Đấy chính là lẽ keo sơn trong đạo quân phụ tử của nước Việt, chính là sức mạnh tất thắng của đạo quân ấy. Khi hịch truyền xong, binh tướng trong đạo quân của ông và của các trại đêm bên cạnh cùng hăm hở xăm lên bắp tay lên bả vai những chữ: "Nghĩa dĩ quyên khu, hình vu báo quốc". Vì nghĩa quên thân là đền ơn nước. Ý nghĩa thật sâu xa.

    Mờ sáng hôm sau, Trần Nhật Duật dẫn quân lên đường. Ông gặp Quốc công Tiết chế xuôi thuyền về hành trung doanh Vạn Kiếp. Trần Quốc Tuấn cho thuyền nhỏ đón ông lên chơi trên thuyền tướng. Ông nói:

    - Anh trưởng cứ yên tâm, em quyết làm tròn tướng mệnh.

    Trần Quốc Tuấn cầm tay ông, trầm ngâm giờ lâu. Quốc công vốn yêu mến và tin tưởng tài đức của Trần Nhật Duật, nhưng lần này là một thử thách cực kì to lớn cho nên cẩn trọng bao nhiêu đi nữa cũng không phải là thừa. Trần Quốc Tuấn dặn ông:

    - Chúng ta chỉ có một con đường là quyết thắng. Lẽ ấy gắn bó đến sự tồn vong của đất nước ta. Con đường chiến thắng ấy không phải ít gian nan nguy hiểm. Chúng ta phải vượt qua những cửa quan cực kì khó khăn.

    - Anh trưởng thương em mà dặn dò, em xin gìn giữ lời căn dặn của anh trưởng. Cửa quan nào em cũng quyết vượt qua.

    - Ta tin là em sẽ làm được nên mới sai em giữ mặt tây bắc. Người ta thường nghĩ mặt trận này không quan trọng nhưng thực ra phải do một tướng có bản lĩnh trấn giữ. Bởi vì nó là một mặt trận riêng biệt, ai trấn mặt này sẽ phải quyết định một mình việc đánh, giữ, tiến, lùi. - Trần Quốc Tuấn ngừng lại một lát, trầm lặng nhìn Trần Nhật Duật trước khi nói tiếp: - Em còn nhớ không, đã có một lần anh em ta bàn chuyện ở Thăng Long về bản lĩnh của một người anh hùng. Điều chúng ta đã bàn hôm ấy chính là điều em sẽ gặp ở mặt trận Quy Hóa. Trong tất cả các cửa quan thì cửa quan khó đánh chiếm nhất chính lại là cửa quan do mình trấn giữ. Ta chỉ thấy có điều ấy cần phải nhắc với em. Thôi ta tạm biệt em. Chúc em đem cờ bách thắng cắm lên vọng lâu các cửa quan.

    Trần Nhật Duật đã từ biệt Quốc công để lên đường. Chiến tranh đã xảy ra ngót một tháng nay. Tết Nguyên Đán đầu tiên xa nhà trong cuộc đời đã gây cho ông nhiều cảm xúc. Binh đao đã xảy ra trên đất nước nhưng ở mặt trận này cũng chỉ có vài cuộc chạm giáo lớn giữa đôi bên. Giặc tiến rất chậm mặc dù quân giặc đông gấp đôi gấp ba. Chúng hành binh đờ đẫn như kẻ mất hồn lạc vía. Nhưng chúng không thể lừa dối được đôi mắt quan sát bình tĩnh của ông được. Chúng đang có một mẹo sâu hiểm độc, điều ấy đến nay đã rõ ràng. Lắm lúc ông muốn sai sứ sang hành doanh của Nạp Tốc Lạt Đinh để bảo cho viên Vạn hộ hầu này biết rằng hắn đừng hòng lừa ông và chính hắn đang bị ông lừa, đang bị ông giam chân ở mặt trận này ngót một tháng nay rồi. Nhưng cuối cùng sau khi suy xét kĩ, ông lại sực nhớ đến cửa quan bản thân cực kì khó chiếm và ông thôi ngay hành động xốc nổi này. Ngót một tháng trời hai bên vờn nhau như bướm vờn hoa. Có lúc giặc làm như sắp tấn công rồi chúng lại thôi. Có lúc ông cũng trương cờ, đốt khói nghi binh làm như sắp tiến hoặc sắp rút rồi cũng thôi. Nạp Tốc Lạt Đinh đã dùng đủ các mẹo nhưng không chọc tức được ông và cũng không dọa được ông. Trần Nhật Duật với cánh quân sơn cước ít hơn vẫn chập chờn trước phòng tuyến của giặc. Hơn thế nữa chỉ bằng vài di chuyển nhỏ những đội quân nhỏ ở hai chót cánh, Trần Nhật Duật đã buộc Nạp Tốc Lạt Đinh phải vội vã chuyển quân ứng phó, để lộ ra nhiều kẽ hở. Đó thật là những thời cơ thuận tiện để tiến như một mũi dùi vào sâu trong phòng tuyến giặc vào sâu trong đất giặc nữa. Giá mà đức ông Chiêu Quốc có mặt kịp như tướng mệnh giao nhỉ? Thế là thế giằng co đành chỉ vẫn là thế giằng co.

    Nhưng đến hôm nay, quân thám mã của Trần Nhật Duật đem về hành doanh mấy tin tức đáng lưu tâm. Trước hết đội kị binh của địch không thấy xuất hiện đã hai hôm nay. Chúng ở đâu bây giờ? Quân kị là lực lượng con cưng mà giặc thường dùng để đánh những mũi thọc sâu vào sau lưng đối phương. Không thấy tung tích đội quân Nguyên cưỡi ngựa thì phải đề phòng phía sau lưng chiến tuyến. Tin đáng lưu ý nữa là địch mới tăng thêm một vạn quân Tân Phụ nữa. Quân Tân Phụ là quân Nam Tống đầu hàng Hốt Tất Liệt mới đây. Chúng đều là người quê mé nam núi Ngũ Lĩnh. Chúng giỏi trèo núi và chịu được khí hậu nóng ẩm của đất Việt. Có nhiều đưa biết bơi biết lội dễ dàng chiến đấu hợp với miền đất sông ngòi chằng chịt.

    Trần Nhật Duật nhận định là giặc sắp mở cuộc tấn công lớn ở đây để tiếp tay cho cuộc tấn công của tướng giặc Thoát Hoan ở chiến trường đông bắc. Tin tức từ chiến trường đông bắc đưa về rất đáng lo ngại. Thế mạnh nghiêng về phía địch. Quân của chúng đông hơn và đã quen chiến đấu. Tướng địch có nhiều kinh nghiệm chỉ huy những đạo quân đông được trang bị nhiều loại binh khí và chiến cụ nặng. Trong nhiều trận đánh đã xảy ra, quân ta rất anh dũng nhưng cuối cùng vẫn tổn thất nặng hơn và phải lùi. Ở cực bắc, Trần Bình Trọng đem hai quân Thánh Dực cùng với dân binh lộ Lạng Giang chặn địch rất tài cốt để chờ cơ hội khi cánh quân của Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc chọc sâu ra sau lưng địch thì sẽ tung quân ra đập tan mũi chính diện này. Nhưng chờ mãi không thấy Trần Ích Tắc tấn công, giặc có thời gian hình thành thế bao vây. Điểm gay cấn nhất là ải Khả Ly. Hai quân Thánh Dực bị hãm trong vòng vây dày tưởng như không thoát nổi một mống. Trần Bình Trọng ráng chờ đến lúc biết không còn hi vọng mũi tấn công của Chiêu Quốc vương nữa mới tổ chức phá vây. Một đêm, vào lúc canh ba, quân ta dưới sự chỉ huy của Bảo Nghĩa hầu mở đường máu: Trận đánh dữ dội nhưng nhờ đêm tối, nhờ ý chí quyết tử, Trần Bình Trọng đem được hai quân Thánh Dực ra khỏi vòng vây với đầy đủ binh khí, cờ hiệu và cả dàn trống đồng nữa.

    Hiện nay chiến tuyến đã lùi về tới sông Lục Đầu. Mỗi bên dàn mấy chục vạn quân trên một vùng sông núi hiểm trở chen lẫn những cánh đồng nhỏ và những bãi cỏ hoang. Trần Quốc Tuấn đặt một vọng khói lửa trên đỉnh Côn Sơn để chỉ huy chung cho toàn chiến trường và để báo tin tức về hai vua ở Thăng Long. Vọng khói lửa đặt ngay trên Bàn Cờ Tiên, điểm cao nhất của dãy Côn Sơn. Nhưng Trần Nhật Duật hiểu rằng ở thế đất ấy, quân thủy của ta xoay xở dễ dàng nhưng quân cưỡi ngựa của địch sẽ tung hoành như vào chỗ trống. Không lẽ một bậc trí lự như Quốc công Tiết chế lại tiếp nhận chiến đấu ở một thế đất như vậy? Trần Nhật Duật đã băn khoăn suy nghĩ mấy hôm liền. Thế chiến trường Lục Đầu và Quy Hóa cũng tương tự như nhau. Thật đáng tiếc là cánh quân ém ở lộ Tam Đái cứ im lìm không động tĩnh. Đột nhiên Trần Nhật Duật hiểu rằng Trần Quốc Tuấn cũng đang ở một hoàn cảnh tâm lí tương tự như hoàn cảnh tâm lí của ông.

    Giặc đông hơn, quen chiến đấu hơn. Tướng giặc đã trải nhiều năm chinh chiến, có kinh nghiệm chỉ huy những đạo quân lớn đánh phối hợp với nhau. Quân tướng bên ta có trí, có dũng nhưng binh lửa mới xảy ra, những sơ xuất do thiếu kinh nghiệm có ở tất cả các cấp. Những sơ xuất ấy đã dẫn đến mấy trận thua vì ngờ nghệch. Tính đến bây giờ, hai bên đều có trận thắng trận thua nhưng quân ta thường thắng những trận mà quân tham chiến của mỗi bên chừng vài ba ngàn, còn những trận lớn một vài vạn quân phần thắng thường về phía địch.

    Thế chiến trường như vậy, điều tốt nhất là quân ta phải cậy đến một ông tướng đặc biệt: Ông tướng thời gian! Phải tránh việc dốc túi đánh một nước bạc quyết liệt. Phải nhờ thời gian đem những kinh nghiệm thao lược cần thiết đến cho các tướng. Ai là người dám hạ một mệnh lệnh như thế bây giờ? Người ấy phải là một ông tướng dũng cảm trí lự. Phải hiểu mình, hiểu địch và dũng cảm rút ra những điều cần thiết phải làm để giành lấy thắng lợi cuối cùng.

    Trần Nhật Duật đến lúc này mới hiểu thấu đáo cái vinh dự của ông đã được Quốc công tin cậy giao cho quyền làm tướng cầm quân độc lập ở mặt trận riêng biệt. Quốc công đã chọn ông, đã dặn dò ông về cái cửa quan bản thân cực kì khó đánh chiếm ấy.

    Khi Trần Nhật Duật đang suy nghĩ sâu xa về mình, về địch như thế là lúc ông đang đứng trên một đài quan sát chiến trường đặt trên một mỏm núi đá rất cao. Hành doanh của ông đã thu gọn dần trong một tháng chiến đấu di động vừa qua để bây giờ chỉ còn là một số tướng tá rất ít, có võ khí cốt để lúc cần thiết cũng chiến đấu được như một người lính chiến bình thường. Ai nấy mang lấy quần áo thay đổi và mười ngày lương khô chứa trong những bao ruột tượng vắt ngay cổ ngựa chiến. Bây giờ đã xế trưa, núi rừng sau mấy đợt mưa xuân đang nhuận sắc. Màu xanh cây lá màu mây trắng bạc đều đẹp và mọng ướt. Núi rừng yên ả.

    Núi rừng yên ả báo hiệu giông tố sắp đến.

    Thế rồi, trong một khắc tin tức đưa về hành doanh hết sức liên tiếp và đáng lo ngại. Giặc đánh một lúc ở mười mấy chỗ. Ở đâu chúng cũng tập trung được quân đông hơn và giành phần thắng tuy không rõ rệt cho lắm. Quân ta phải bỏ trận lùi về mặc dù đã giao chiến rất gan dạ và dũng mãnh. Trần Nhật Duật phán đoán địch chỉ mới dứ ở các điểm đó còn thì đại bộ phận quân tinh nhuệ của giặc sẽ tập trung đánh chiếm con đường huyết mạch từ Quy Hóa về xuôi. Giặc sẽ dồn quân ta lùi dần theo con đường ấy đến cái đáy túi mà chúng đã bày sẵn: Đội kị binh giặc vu hồi mai phục sau lưng quân ta. Trần Nhật Duật tin rằng đội quân kị binh ấy bây giờ đang ở đâu đó phía kia. Ông nhìn về hậu tuyến. Nhưng ông chỉ thấy màu rừng cây mùa xuân xanh rợn. Không thấy một vẩn khói nấu cơm bốc lên, không thấy bụi do chuyển quân bốc lên. Nhưng không thể vì thế mà quên rằng kẻ địch thiện chiến và thâm hiểm.

    Trần Nhật Duật đã quyết định xong một mệnh lệnh. Ông rất buồn vì phải hạ mệnh lệnh đó: Rút lui.

    Trần Nhật Duật thấy mình không may mắn phải chọi giáo với một tướng giặc không danh tiếng. Ông cũng không được chỉ huy cánh quân sẵn sàng chọc ra sau lưng giặc. Ấy thế mà bây giờ ông lại phải hạ mệnh lệnh rút lui vì tên tướng vô danh tiểu tốt kia có một đạo quân đông hơn và xét cho thấu đáo, nó thật là một tướng giỏi và thao lược

    Trần Nhật Duật nhìn các tướng để chọn người đi truyền lệnh cho các đội quân. Tướng quân Hà Đặc theo ông đã lâu, đã hiểu tâm tính ông. Thấy Trần Nhật Duật đưa mắt nhìn các tướng, Hà Đặc liền xốc kiếm bước lên một bước đứng chờ nhận lệnh nhưng Trần Nhật Duật mỉm cười. Ông không chọn Hà Đặc vì Đặc là một tướng cường. Hà Đặc nhận lệnh xung trận thì làm được nhưng không thể là người truyền đạt một mệnh lệnh rút lui. Cuộc chiến còn dài. Ông sẽ còn dịp dạy viên tướng cường này biết lùi để biết thắng và trước hết phải thắng được chính mình. Tự tri giả anh, tự thắng giả hùng. Hà Đặc sẽ hiểu điều đó sau..

    Trần Nhật Duật chọn một tướng xưa nay rất có kỉ luật. Ông thảo lệnh rút lui và trao một cờ lệnh nhỏ cho viên tướng đó, ông cũng ra lệnh cho hành doanh và đội hộ vệ tùy tùng thu xếp lên đường.

    Sẩm tối, các đơn vị quân Việt bí mật bỏ mặt trận về xuôi. Các tướng Hà Đặc, Hà Chương và Triệu Trung đem một nghìn quân sơn cước rẽ tạt vào rừng sâu với một mệnh lệnh rất gọn: Để quân giặc tiến qua rồi bám đường cái đánh úp lương thảo và bắt bọn địch đi lẻ.

    Mờ sáng hôm sau, quân Nguyên tấn công, Nạp Tốc Lạt Đinh sai cắm lều trận dạ đen lót đỏ trên một bãi rộng. Y sai giáp sĩ canh phòng thật oai vệ hùng dũng. Trong lều trận, Nạp Tốc Lạt Đinh sai bày sẵn hai cái ghế. Một cái lót da báo: Đó là cái ghế Vạn Hộ hầu của hắn. Chiếc kia phủ nệm gấm, chiếc ghế dành cho viên tướng Việt sẽ bị bắt và dẫn đến để hắn đích thân dụ dỗ.

    Mặt trời lên, quân tế tác đem tin về rất nhanh đến hành doanh quân Nguyên: Các mặt tiến quân đều không đụng độ quân Việt. Đến giữa trưa có tin quân Ô Man đã hội sư với đám quân Hán và quân Tân Phụ, rồi sau đó với đội kị binh Thát Đát. Các đội kị binh này chính là cái đội bọc hậu, hoặc nói khác đi là cái đáy túi bao vây. Thế mà vẫn không đụng độ với quân Việt. Quả đấm sắt mà Nạp Tốc Lạt Đinh rình đánh bấy lâu đã giáng rất vô duyên vào không khí. Ngót một tháng trời vờn, nhử vất vả đã trở thành vô ích.

    Nạp Tốc Lạt Đinh là một tướng giỏi. Y hiểu rằng viên tướng đối phương đã kìm chân được hắn một tháng trời và đánh thắng trận kiềm chế đó. Y cũng hiểu rằng nếu tướng đối phương thắng thì mặc nhiên y là người thua. Mà nếu đối phương dùng một đạo kì binh thọc sâu ra sau lưng y thì y còn thua to hơn. Nhưng y không hiểu rằng y thua vì cửa quan đầu tiên y đã không đánh chiếm được, thậm chí y cũng không biết rằng có cái loại cửa quan ấy nữa.
     
  7. Mạc Hồng Viên

    Bài viết:
    184
    Chương 16

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Hai tháng sau, quân mệnh đã đưa Trần Nhật Duật đến chống giữ ở một chiến trường khác hẳn và ở xa chiến trường Quy Hóa hàng ngàn dặm: Hành doanh của ông đặt ở một khu bán sơn địa nằm trên địa giới hai châu phía nam, châu Ái và châu Diễn. Lần này số quân dưới trướng ông rất lớn và được luyện tập kĩ lưỡng. Nếu kể cả năm ngàn quân gia đồng của phủ Chiêu Văn, đạo quân của Trần Nhật Duật lên tới bốn vạn quân mã, bộ, thủy, tượng. Các tướng dưới trướng cũng rất đông và có nhiều tướng giỏi. Trước hết phải kể Tá Thiên vương Trần Đức Việp, Văn Túc vương Trần Đạo Tái, con trai của Chiêu Minh đại vương Trần Quang Khải, Hoài Văn vị thượng hầu áo tía Trần Quốc Toản.. Có thể nói các tướng ở đạo quân này đều rất trẻ, chưa có tướng nào tới ba mươi tuổi, và tướng ít tuổi nhất mới mười bảy tuổi. Nhưng không hẳn tuổi trẻ chỉ là hiếu động, sôi nổi và tuổi già là trầm mặc, ưa tĩnh. Bây giờ bất kì ai gặp Chiêu Văn vương cũng đều nhận thấy đức ông hoàng Sáu khác xưa rất nhiều. Chinh chiến đã khắc sâu trên trán Trần Nhật Duật những nếp nhăn trí lự: Đôi mắt to đen thêm thâm trầm sẫm màu. Nhưng người nào tinh ý lắm mới nhận ra khoé miệng Trần Nhật Duật kéo hơi trễ xuống rất trải đời, vừa độ lượng, vừa khinh mạn.

    Mấy chục ngày trận mạc vừa qua đã giúp Trần Nhật Duật gồm góp thêm biết bao kinh nghiệm quý báu. Lần này, đối thủ của ông không phải là một tướng vô danh tiểu tốt mà là một nguyên soái dày dạn kinh nghiệm đã từng lăn lộn trên bãi sa trường ở nhiều nước. Đó là nguyên soái Toa Đô, viên tướng già kinh nghiệm chiến đấu ở nơi xa, là thân vương Tích Lệ Cơ, là lão tướng Đường Cổ Đải.. Toa Đô cầm một đạo quân đông trên dưới một chục vạn mã, bộ, thủy thiện chiến đã vào đất Chiêm Thành từ hai năm nay nhưng quân Chiêm được quân ta tiếp tay đã giam chân Toa Đô ở giải đất nhiều dừa và gió bể đó, đánh cho chúng bị hao mòn, đánh cho chúng mất ý chí chiếm đoạt, xâm lăng. Từ đầu năm nay, Toa Đô đành bỏ đất Chiêm Thành tiến quân lên phía bắc đánh tập hậu quân ta. Quân Toa Đô đã quen chịu mưa nắng châu Ô, châu Lý, đã quen đánh ở rừng, ở núi và đã hiểu một phần nào tài năng, tâm tình người Việt. Trần Nhật Duật nhận tướng mệnh đánh kìm chân Toa Đô, đánh mòn đạo quân ấy. Ông đã dùng mẹo nghi binh từ đốt khói, thả lá gói cơm ở suối cho trôi đến trước mặt trại giặc cho đến những cuộc diễu quân chập chờn trên đường phân thủy các dãy núi phía tây.. Cho nên Trần Nhật Duật đã giam chân Toa Đô ở miền đất này hơn một tháng trời. Tình thực mà nói, đó là một cuộc vừa đánh vừa chuyển quân hết sức mệt nhọc đòi hỏi biết bao tâm huyết sức lực của cả quân lẫn tướng trong đạo quân của Chiêu Văn vương.

    Sau mấy tháng chinh chiến quyết liệt, Trần Nhật Duật bây giờ chỉ dùng một bộ quần áo chiến sơ sài may bằng vải dày nhấn chàm. Xưa kia ông không thích dùng đồ trang sức bằng vàng bằng ngọc, bây giờ ông cũng chỉ đeo trên ngực một tấm hộ tâm hình chữ nhật bằng đồng thau, loại hộ tâm của quân Thần Sách thường dùng.

    Lều trận của Trần Nhật Duật cũng là một lều trận thường dùng trong việc quân: Một bộ khung bằng tre đực phủ vải gai nhuộm vỏ dà. Trong lều không có một vật trang trí nào đắt tiền cả. Chỉ thấy trên cây cột cái có treo một thanh kiếm Hồi Hột chiến lợi phẩm thu được trong một trận đánh úp giặc trên lộ Quy Hóa. Chân cột, Trần Nhật Duật dựng chiếc mộc vẽ tướng huy của ông là chòm sao Thiên Đồng. Nền lều trải hai lần chiếu cói và vứt rải rác những chiếc nệm thổ cẩm để ngồi.

    Quãng trưa, các tướng chỉ huy các quân, đạo đã về hành doanh đông đủ. Họ cùng đứng với nhau trên cái bãi trống trước cửa lều trận của Trần Nhật Duật chờ ông cho vào hầu. Một tì tướng trong hành doanh hô to lệnh triệu đòi. Các tướng theo chức vụ cao thấp lần lượt vào lều trận. Họ đều là hàng cháu của Trần Nhật Duật mặc dù ông chỉ hơn họ trên dưới mười tuổi.

    Hoài Văn hầu chắp tay chào ông:

    - Kính lạy đức ông, "mạt tướng" mãi sáng nay mới nhận được lệnh đức ông cho đòi nên đến muộn nhất. "Mạt tướng" xin đem đầu đến nhận lỗi.

    Trần Nhật Duật cười. Hoài Văn hầu là một tướng trẻ đáng quý. Từ bữa bị ông vặn hỏi ở Thăng Long cho đến nay, Trần Quốc Toản mau chóng trở thành người đĩnh đạc, nắm quân rất vững kể từ sở trường, sở đoản của mỗi dũng sĩ. Nhưng hầu tước trẻ tuổi này làm cái gì cũng quá mức cần thiết. Không biết anh ta "nhặt" được ở đâu mấy cái tiếng "mạt tướng" với "đem đầu" thế không biết? Trần Nhật Duật cho phép các tướng ngồi xuống nệm. Ông hỏi Hoài Văn hầu:

    - Này ông "mạt tướng". Ông có chuyện gì mà mặt mũi trang trọng làm vậy?

    Trần Quốc Toản chắp hai tay, mắt mở tròn xoe:

    - Kính bẩm đức ông, "mạt tướng" đóng quân sát biển..

    - Ta biết, đó là nơi ta chỉ cho ngươi đóng. Sao nữa?

    - Bẩm đức ông, mờ sáng hôm nay, hơn hai trăm thuyền giặc đi qua chỗ mạt tướng..

    - Hả?

    - Bẩm hơn hai trăm thuyền giặc đi qua, bẩm thuyền lớn..

    - Lên bắc hay xuống nam?

    - Bẩm lên bắc.

    - Lên bắc?

    - Bẩm vâng.

    Trần Nhật Duật nghiêm mặt. Đôi mày của ông chau lại, vầng trán tối sầm. Các tướng cũng hiểu ngay tin này là tin rất quan trọng. Trần Quốc Toản nói thêm là thuyền giặc không cắm cờ nhưng kiểu thuyền ấy chỉ bọn chúng mới dùng và những lá buồm của chúng nhuộm đen nhìn lúc mờ sáng rất rõ. Trần Nhật Duật sai quân hầu pha trà nam sâm đãi các tướng còn ông thì dựa gối xếp suy nghĩ rất lung. Các tướng dưới trướng Chiêu Văn vương sau mấy tháng cùng chiến đấu gian lao đã biết tính chủ tướng của họ. Mỗi lần Chiêu Văn vương suy nghĩ căng thẳng như thế này sẽ dẫn đến những quyết định hết sức cứng rắn. Chiêu Văn vương tính toán về thế cục giữa đôi bên. Hiện nay giặc đang có hai đạo quân lớn hoành hành trên đất nước ta. Đạo thứ nhất gồm cánh quân chính của Đại Nguyên soái giặc Thoát Hoan và cánh quân Ô Man của Vạn hộ hầu Nạp Tốc Lạt Đinh. Đạo thứ hai của Toa Đô từ Chiêm Thành đáp tập hậu nước Đại Việt. Nhiệm vụ tập hậu của đạo quân này đã bị ông phá rồi.

    Thoát Hoan đã dẫn quân tràn xuống đồng bằng nước ta. Quân cưỡi ngựa Thát Đát đánh xuyên ngang, đánh tạt dọc. Sức nhanh phi thường của giặc trong những mũi tấn công đã gây nhiều khó khăn tổn thất cho quân Việt. Các tướng ta ở cả hai mặt trận đông bắc và tây bắc đều đã quyết định rút lui để tránh tổn thất. Thế là giặc thừa cơ tràn xuống vùng trung du và đồng bằng. Hai vua rút khỏi kinh thành. Thăng Long tạm thời trong tay Thoát Hoan.

    Chiêu Văn vương rên thầm một tiếng dài. Thành Thăng Long, kinh thành chôn rau cắt rốn của ông, nơi ông đã sống những ngày kì diệu. Ông nhớ những phố phường đông đúc náo nhiệt kẻ bán người mua. Đã có lần ông la cà suốt cả ngày xem những người thợ khắc ván in đục chêm những chữ bé tí như hạt gạo trên một tấm gỗ mít mịn và nhẵn bóng. Bữa ấy thợ in chạm một trang trong cuốn Khóa hư lục của tiên đế Trần Thái Tông. Chữ mẫu của ông Thái học sinh bút thiếp nào đó khá bay bướm, hợp với ý thơ:

    " Trôi giạt còn dài đời gió bụi

    Quê hương muôn dặm bóng xa khơi".

    Thơ ấy chữ ấy có phải có những ngón tay ấy mới có được trang sách thơm quý. La cà ở phường in chán rồi, ông lại lần sang phường thợ thêu, phường thợ vẽ ở Tàng Kiếm. Ở Thăng Long có chợ cầu Đông bán hàng trăm ngàn sản vật, nhưng Trần Nhật Duật lại chỉ thích đi chơi ở cái búa nhỏ bên sông Cơ Xá. Cái búa này ở ngay cạnh bến đò ngang. Các cô thôn nữ mấy xóm rừng bên kia sông mang tới quả trám, vải gai, rượu mít, mật ong.. và thủy sản vùng chằm lầy như ba ba, lươn, ếch, da rái cá.. Ở cái búa này người ta mua bán không mặc cả. Người bán chỉ nói một giá mà người mua có cần hàng nào mới hỏi người bán. Cũng ở đây, Trần Nhật Duật hay gặp người quen ở những nơi ông hay đến ngủ đêm đi săn. Ông lại nhớ cả những đêm buông thuyền trên sông Tô Lịch chơi trăng. Ngoài cửa Giang Khẩu rộng mênh mang, trăng dường như sáng hơn, lồng lộng mặt người đi thuyền. Tiếng người kĩ nữ thuyền bên lảnh lót cất lên, câu nghe được rõ, câu chỉ đoán ra của một bài hành nổi tiếng.. Rồi những ngày học trong Quốc Học viện, những ngày luyện bắn cung, luyện cưỡi ngựa trong trường bắn kinh thành, những đêm nghe giảng võ kinh, những buổi triều hội linh đình.. Thăng Long lịch sự và tình tứ biết bao nhiêu!

    Thăng Long! Thăng Long, kinh thành yêu dấu của ông!..

    Khi ở Quy Hóa rút quân về, Trần Nhật Duật không được dừng lại ở đây quá một ngày. Ở phủ Chiêu Văn, viên quản gia thân tín đã cho thu xếp những đồ vật quý đưa xuống thuyền chở về lộ Đà Giang. Kinh thành Thăng Long khác trước rất nhiều. Người thưa vắng đi nhưng không khí chuẩn bị chiến đấu hừng hực khắp các phố phường. Chiêu Văn vương ra lệnh cho viên phó quan coi sóc việc đồn trú cho đội quân, còn ông sửa soạn mũ áo tiến triều.

    Lần này vào cung chầu hầu, ấn tượng không bao giờ mờ nhạt trong lòng ông. Bấy giờ các đức ông Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang, Chiêu Minh đại vương Trần Quang Khải đều không có mặt ở kinh thành, người thì đang chỉ huy chiến đấu ở mặt trận đông bắc, người đang chẹn đạo quân Toa Đô ở châu Hoan, người đang đi phủ dụ các lộ đồng bằng. Hai vua cần có người thân tín phò tá bên mình bèn cho triệu đức ông Chiêu Quốc ở lộ Đà Giang về triều.. Khi Trần Nhật Duật tiến cung chầu hai vua, ông vừa hành lễ vừa cảm thấy lạ lùng xa xôi. Thoạt tiên, ông nghĩ rằng đó là cảm giác của một viên tướng phải lui quân bỏ đất cho giặc chiếm giữ.. Thánh Tông vẫn vồn vã cho phép ông miễn lễ. Ông nhìn thấy trong đôi mắt thâm trầm của anh mình ánh lên một chút gì thương thương giận giận. Trong lúc đó vua Nhân Tông cũng ngắm ông. Vị vua trẻ, mặt gầy xanh, lo lắng và ngượng ngùng. Còn Chiêu Quốc vương ngồi im lặng trên chiếc đôn, vẻ mặt lạnh lùng và bí mật.

    Trần Nhật Duật nhớ lại hình như lúc đó ông vẫn hồn nhiên thi lễ với đức ông Chiêu Quốc. Rồi ông vẫn an Thượng hoàng và trách yêu Nhân Tông không giữ gìn sức khoẻ để cho gương mặt gầy xanh đi. Hình như tư thế hào hùng của những người từ chiến trường về đã lấy lại không khí thanh thoát thân thiết trong phần lớn những người có mặt. Nhân Tông là một vị vua trẻ, thượng võ nên hỏi nhiều về việc quân và chuyện đánh nhau trên mặt trận tây bắc. Nhà vua tỏ vẻ náo nức muốn được tham chiến ở một chiến trường. Trần Thánh Tông thì điềm đạm hỏi những câu rất ngắn về từng khía cạnh cụ thể. Địch bao nhiêu quân? Bao nhiêu tướng? Cách hành binh của chúng thế nào? Tinh thần binh tướng bên ta ra sao? Trăm họ giúp quân ta thế nào? Tài sản của trăm họ được cất giấu thế nào?

    Trần Nhật Duật trả lời tường tận các câu hỏi đó. Trần Thánh Tông im lặng suy nghĩ giờ lâu nhưng vẻ thương thương giận giận trong đôi mắt của Thánh Tông mất dần đi thay vào đấy là một ánh sắc lạnh quyết liệt. Cách đây hai mươi bảy năm, Thượng hoàng mới là một thanh niên mười bảy tuổi, một thái tử rất trẻ rất vũ dũng, cả kinh thành ai cũng biết thái tử Hoảng rất thượng võ. Giặc Thát Đát dưới quyền tướng nổi tiếng Ngột Lương Hợp Thai tràn vào mưu chiếm nước ta. Thái tử Hoảng đã theo vua cha đi chiến đấu giữ nước. Thế giặc mạnh, quân ta tạm bỏ Thăng Long nhưng sau khi xếp sắp lại bộ ngũ, ta đem quân thủy bộ phản công. Quân ta đánh cực mạnh, giặc tan vỡ chạy quàng chân lên cổ. Trận thắng quyết liệt ấy sử sách chép là Chiến thắng Nguyên Phong.

    Đã trải qua những thăng trầm vị ngộ, Trần Thánh Tông hiểu được lòng người và hiểu được tình thế chiến trường Quy Hóa. Nhất là sau đó, Trần Nhật Duật tâu vua về cánh quân của Hà Đặc, Hà Chương và Triệu Trung đã được lệnh luồn ra sau lưng địch đánh chẹn đường thì vẻ mặt Thượng hoàng chăm chú và dần dần tươi tỉnh nhưng tươi tỉnh mà có chút gì ngỡ ngàng. Thượng hoàng nhìn qua đức ông Chiêu Quốc còn Chiêu Quốc vương vẫn ủ hai bàn tay trong ống tay áo rộng, im lặng, xét nét. Sau cùng Thánh Tông nói:

    - Ta mới ở Lục Đầu Giang về kinh. Ở mặt trận ấy, binh lực hai bên không chênh lệch nhau lắm nhưng không hiểu vì sao ta chưa muốn quyết chiến trên triền sông ấy. Vừa rồi em kể lại chuyện chiến trường Quy Hóa, ta mới hiểu ra tại làm sao ta băn khoăn về chiến trường kia. Thì ra binh lực hai bên không chênh nhau, bên ta trí dũng có thừa nhưng.. nhưng chưa từng thao lược. Đúng thế, các tướng của ta chưa thao lược.

    Không hiểu sao đúng lúc ấy Trần Nhật Duật liếc nhìn Chiêu Quốc vương và ông thấy mặt đức ông Chiêu Quốc vương tái đi, cặp môi mỏng mím chặt lại. Ngay lúc đó, Thượng hoàng cho gọi quan Học sĩ vào chầu hầu và Đinh Củng Viên thảo ngay lệnh chỉ của Thượng hoàng cho đức ông Hưng Đạo phải tránh việc đưa tất cả binh lực ra quyết chiến ngay lúc này.

    Sau buổi triều hội, Trần Nhật Duật được lệnh đem quân vào Hoan, Ái để cùng đức ông Chiêu Minh, Tĩnh Quốc chặn đường tiến của Toa Đô, phá tan mưu đánh tập hậu nước ta, đồng thời làm dậy lên của cải giàu có, sức người đông mạnh của Hoan, Ái đem dùng trong cuộc chiến tranh giữ nước.

    Một số tướng cũng được đem quân đến dưới trướng ông, trong đó có hoàng tử Tá Thiên vương Đức Việp. Khi gặp Đức Việp ông mới được biết uẩn khúc lần triều hội Thăng Long. Thì ra lúc đó ở mặt đông bắc, tình thế diễn ra giống hệt tây bắc. Đức ông Chiêu Quốc đã tâu Thượng hoàng trị tội thật nặng các tướng trấn giữ hai mặt trận đó. Tá Thiên vương đã nhận xét một câu rất có lí:

    - Đòi trừng trị hai tướng nhưng chỉ nhằm riêng đức ông Hưng Đạo thôi.

    Ngay lúc ấy, Chiêu Văn vương cho rằng nhận xét của cháu là đúng nhưng về sau một mối hoài nghi cứ dần dà nảy nở trong lòng ông: "Thảng hoặc nhằm triệt cả hai thì sao?" Mỗi lần nghĩ đến đó thiên lương của Trần Nhật Duật lại giục ông xua đuổi vội vã ý nghĩ đó đi.. Nhưng ông đuổi được ý nghĩ đó đi thì về lí trí một suy tính mới xuất hiện ngay: Tại sao Chiêu Quốc vương không tấn công ra mặt sau của giặc? Và ông tìm chưa ra lí do thỏa đáng.

    Trần Nhật Duật đến Ái châu hai ngày thì được tin quân ta rút khỏi sông Lục Đầu. Giặc tràn về đồng bằng, tràn về vùng phụ cận kinh thành và nhanh chóng hội sư với Nạp Tốc Lạt Đinh. Thoát Hoan vào Thăng Long, sau đó chiến thuyền của chúng chiếm thủy trại Chương Dương, các đường thủy đường bộ huyết mạch cũng bị chúng thả quân tuần tiễu. Từ đó đến nay đã ngót hai tháng trời giặc đem tinh binh lùng theo tung tích hai vua ta nhưng đạo thân binh tinh nhuệ phò hai vua tránh tất cả các đòn hiểm ác của giặc và đã về đóng ngự doanh trong vùng rừng núi của lộ Thanh Hóa Ngoại. Trong lúc đó, quân ta chặn đánh bằng nhiều trận cảm tử làm cho địch bị tổn thất lớn về người và nhất là về lương thảo.

    Nhưng chiến trường ngoài ấy đã xoay chuyển thế nào mà bây giờ Toa Đô bỏ ý định đánh chiếm Hoan Ái, tiến quân bằng đường biển lên phía bắc?

    Trần Nhật Duật hỏi lại Trần Quốc Toản:

    - Mấy trăm thuyền giặc?

    Trần Quốc Toản giở sổ quân kí mang theo ra tra đọc rồi trịnh trọng trả lời chắc nịch:

    - Bẩm đức ông, hai trăm sáu mươi chín thuyền, trong đó có một trăm năm mươi hai thuyền vận tải biển chở nặng.

    Trần Nhật Duật cười hỏi:

    - Tại sao cháu biết thuyền chở nặng?

    Trần Quốc Toản giật thót người suýt bật cười rồi ghìm được và hớn hở đáp:

    - Bẩm.. bẩm đức ông, trong đội quân của "mạt tướng" có bốn mươi ba người tráng dũng trước đây làm nghề biển ở hương Hoằng. Toàn là những người chỉ nhìn dây lèo buồm cũng biết thuyền đang chở bao nhiêu thạch.

    Trần Nhật Duật thôi cười. Ông nghiêm mặt hỏi cháu:

    - Có người ở hương Hoằng à? - Ông đứng phắt dậy bảo Trần Quốc Toản: - Đưa ta đến chỗ họ!

    Trần Nhật Duật nhẹ nhàng thót lên yên. Con Bão Đêm vươn cổ hí một hồi dài vui vẻ. Đoàn người ngựa rầm rập lên đường về phía ven biển nơi Trần Quốc Toản đóng quân. Trên đường đi, Trần Nhật Duật vẫn mải mê suy nghĩ về việc địch giong thuyền về bắc. Càng nghĩ ông càng khấp khởi mừng thầm. Chắc rằng sau khi quân ta không dàn thành thế trận chặn giặc, các tướng đã bày quân theo chiều sâu sang hai bên đường, ém quân trong rừng, trong rú, trong làng, trong chạ, trong núi, trong chằm.. Đường lương cỏ của địch ắt bị đánh úp luôn luôn. Quân giặc đi lẻ càng dễ bị diệt gọn. Thoát Hoan cũng giống như Toa Đô ở mặt châu Hoan, đã bị sa lầy. Kế sách đánh nhanh diệt sạch của giặc thế là không làm được. Tuy kế của ta là chọc sâu ra sau lưng địch cũng không thực hiện được do sự do dự của đạo quân ém ở Tam Đái nhưng phải nhận rằng thế chiến trường ngày một nghiêng về phía ta. Bây giờ tại sao Toa Đô lên phía bắc? Phải chăng nó bị sa lầy tới mức nguy cấp? Hay là nó được lệnh của Thoát Hoan về hội sư ở Thăng Long. Nếu có cái lệnh ấy thì Thoát Hoan đang bị sa lầy rất nặng. Thời cơ tiến đánh tiêu diệt của quân ta đã đến rồi. Tá Thiên vương Đức Việp và Văn Túc vương Đạo Tái cũng đoán rằng Thoát Hoan đang bị dồn vào bước bí. Có thể đức ông Hưng Đạo đang đe dọa cắt đường về của y ở triền sông Lục Đầu. Thế đứng chông chênh của tên hoàng tử nhãi ranh ấy rất nguy cấp trong một vùng sông ngòi chằng chịt mà thủy quân Việt thì như rồng thiêng mặc sức tung hoành trên sông dữ. Trần Đức Việp giục ngựa lên đi sóng đôi với Trần Nhật Duật. Chiêu Văn vương hỏi cháu:

    - Ngày ấy đức ông Chiêu Quốc có đem đạo quân sơn cước sông Đà về Thăng Long không cháu?

    - Bẩm có - Trần Đức Việp ngừng lại một chút rồi mới tiếp - Đức ông Chiêu Quốc bảo rằng đạo quân này vô kỉ luật mà không tinh luyện. Nhưng cháu xem ra thì đó là một đạo quân tinh binh nhưng khó dùng lắm chú ạ. Trên dưới chẳng ăn nhập gì với nhau cả.

    Trần Nhật Duật sửng sốt nhìn cháu nhưng Trần Đức Việp tiếp luôn, lần này quả quyết hơn:

    - Thưa chú, cháu là bề dưới đâu dám hỗn hào xem xét người bề trên nhưng chú Năm và thằng Kiện giống nhau như đúc.

    Trần Nhật Duật phì cười:

    - Chú cháu mà không giống nhau thì giống ai nữa?

    Nhưng ông bỗng thôi cười và chau mày. Nhận xét của Trần Đức Việp đúng quá. Về Trần Kiện, ông đã nhận ra cái tính kiêu ngạo, khát vọng hết sức điên cuồng rồi nhưng ông chưa từng suy nghĩ sâu xa về Trần Ích Tắc. Bởi vì mỗi lần ý nghĩ ấy của ông sắp sa đà tới mặt không tốt trong tâm địa Trần Ích Tắc là ông đã vội xua đuổi ngay đi. Trần Ích Tắc đã tâu vua trị tội Trần Nhật Duật! Bây giờ thì ông mới dám nghi rằng lời tâu ấy không phải vì công tâm, không phải vì việc quân việc nước. Trần Ích Tắc thì không thèm lí gì đến chức tước quyền hành của Trần Nhật Duật bởi vì chúng còn kém chức tước quyền hành của Chiêu Quốc vương. Thế thì vì cái gì đây? Trần Nhật Duật lo lắng nghĩ một cách rụt rè về bản tính kiêu sa đầy khát vọng của Chiêu Quốc vương.

    Đội quân thiếu niên hào kiệt nhộn nhạo của Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản cắm lều trận trong một rừng cây thưa ngoài ven biển. Bên ngoài chỗ trú quân, Trần Quốc Toản đã đặt những trạm viễn tiêu trên một vài quả núi nhỏ cắm chân xuống biển Đông. Mùa này biển lặng, nước xanh tím lại thật trầm mặc. Những tráng sĩ trong đội quân của Trần Quốc Toản nhanh chóng xếp thành đội ngũ. Họ giơ cao mác hô lớn:

    - Đức ông hoàng Sáu mạnh khoẻ! Đức ông hoàng Sáu mạnh khoẻ!

    Trần Nhật Duật ghìm ngựa, ông thét rất to:

    - Chào các ngươi! Ta chào các ngươi! Hỡi các dũng thủ trẻ tuổi!

    Tất cả đồng thanh dạ lên rất to, vẻ mặt hớn hở.

    * * * Ta chào các ngươi. Chào các chàng trai Thăng Long!

    - Chúng tôi kính chào đức ông hoàng Sáu.

    Trần Nhật Duật xuống ngựa bước lại hàng quân. Ông nắm đai lưng một người lính trẻ và giựt thật mạnh nhưng cái đai lưng không xổ. Ông xem cung một người lính khác, xem độ sắc lưỡi mác của một chàng trai khác nữa.. Tất cả đều không có gì đáng chê trách. Những người lính gia đồng của Hoài Văn hầu toét mồm cười ra cái đều.. Chiêu Văn vương cũng cười lớn:

    - Ta hẹn các ngươi đến ngày về Thăng Long sẽ thưởng lớn.

    Một người lính đứng gần nhất hỏi ngay Chiêu Văn vương:

    - Thưa đức ông, chúng tôi đông thế này làm sao thưởng cho khắp được ạ?

    Những người lính khác lườm anh bạn táo tợn nhưng Trần Nhật Duật gạt đi và nói:

    - Bây giờ khó nhọc gian nan thế thì sau này phải thưởng chứ. Các ngươi cứ yên tâm ta sẽ có cách. Các ngươi cứ nhớ lời ta.

    Lều trận của Hoài Văn hầu nom rất oai. Đó là vì Hoài Văn hầu thích như thế. Chiêu Văn vương ngồi xuống ghế da báo, ông sai gọi những người lính trạo nhi quê ở hương Hoằng đến hỏi. Trần Nhật Duật đang phán đoán hai hướng đổ bộ của quân Toa Đô. Có thể chúng theo sông Cái về Thăng Long, có thể chúng vào lộ Thanh Hóa Ngoại bằng cửa Trường hoặc cửa Trào mà tên chữ là cửa Hội Triều. Nhưng dù chúng vào hướng nào chúng cũng có một mũi nghi binh đổ bộ thẳng lên lộ Thanh Hóa. Điểm chúng chọn có thể là hương Yên Duyên theo con đường thủy của con kênh Cổ Khê để đánh vào bến đò Cổ Bút. Bến đò này nằm trên con đường quan lộ huyết mạch chạy dọc theo đất nước.

    Những người lính hương Hoằng tả lại cho ông nghe địa thế của hai cửa biển này. Họ cũng nói về sức chiến đấu của dân binh hương Hoằng và các hương bạn chung quanh.

    Đó là một vùng ruộng lầy ven biển nước mặn, cỏ lác và cói, năn mọc bạt ngàn. Trần Nhật Duật cũng đã từng đi thuyền thúng rong chơi quanh vùng này và ông hằng mơ ước sẽ đến một lúc nào đó đem gia nô về khai phá một điền trang, lập nên một tổ ấm nơi đây. Ngót mười năm trước, ông đã có dịp nhìn tận mắt mảnh đất phì nhiêu này, một vùng hoang vu chờ bàn tay người làm lụng cần cù để trở thành trù phú.

    Trần Nhật Duật hỏi han về bà con trong hương, về những người ông quen biết. Họ cũng biết chuyện xưa của ông với hương Hoằng, họ kể cho ông nghe nhiều chuyện, kể cả những chuyện bình thường về nghề nông, nghề chài lưới, nghề trồng cói dệt chiếu.. Cụ Bành đã về hương sau cuộc triều hội Diên Hồng. Viên đại tư xã đã cho gọi đinh tráng các làng đến nghe cụ Bành thuật lại chuyện triều hội và truyền cho mọi người hào khí cùng ý chí quyết đánh quyết thắng của triều đình và các bô lão. Các bô lão trong hương hỏi trai đinh về ý định của họ. Trai đinh trăm lời cùng thưa: "Quyết thắng giặc, thà chết không chịu để giặc xâm lăng đất nước". Các đội dân binh lập tức được lập ra, thóc công, quỹ công làng chạ được bỏ ra nuôi quân, sửa sang binh khí. Các đội dân binh cử những người hăng hái, giỏi võ làm người chỉ huy. Hàng ngày, họ cắt cử người canh phòng trong hương, di chuyển lương cỏ cho quân doanh lộ Thanh Hóa Ngoại. Trong các hương lộ Thanh Hóa Ngoại, hương Hoằng là một hương hăng hái, góp nhiều công sức vào việc chung.

    Lẽ tất nhiên là họ cũng kể đến chuyện nhà bà Trương. Ông anh của bà nhũ mẫu bây giờ kiêm cả việc sổ sách của dân binh. Ông làm việc chu đáo hăng hái nhưng nàng Mơ, con gái của ông bị nghẽn lại ở Thăng Long trong khi mặt trận nhanh chóng lan đến.

    Trần Nhật Duật ngồi lặng đi. Ông dùng ý chí của mình kìm không để cảm xúc hiện ra mặt. Ông cảm ơn anh em hương Hoằng. Ông ra lệnh cho Hoài Văn hầu phát rượu và gạo nếp cho cả đội quân. Ông nói:

    - Bây giờ việc đánh giặc đang mải. Các ngươi cố gắng lên. Ngày ban sư sẽ có rượu thịt linh đình khao thưởng.

    Ông trở về hành doanh với đoàn tùy tùng. Các đội quân dưới cờ được lệnh chuẩn bị hành trang, binh khí để lúc có lệnh sẽ lên đường được ngay. Trần Nhật Duật thảo ngay một bản sớ để dâng vua và một bảo cáo để trình Quốc công Tiết chế Trần Quốc Tuấn về cuộc chuyển quân lên phía bắc của đạo quân Toa Đô. Ông dự đoán một là giặc sẽ theo sông Cái lên hội sư với Thoát Hoan, điểm hội sư sẽ nằm vào khoảng khúc sông Thiên Mạc; hai là chúng sẽ đổ bộ lên lộ Thanh Hóa Ngoại rồi tiến về Thăng Long bằng đường bộ theo lối cuốn chiếu qua phủ Thiên Trường và hương Tức Mạc có thể cuốn chiếu cả thủy cả bộ, có thể chỉ cuốn chiếu bằng bộ còn quân thủy sẽ ra bể dùng cho vùng các cửa sông. Ông xin Quan gia cho ông đem quân bản bộ ra chẹn giặc ở lộ Thanh Hóa Ngoại.

    Sớ và cáo vừa gửi đi thì một đội kị sĩ rầm rập phi ngựa về cửa lều của Trần Nhật Duật. Đến nơi, họ xuống ngựa, người nào người nấy mặt mũi phủ đầy bụi đường trường. Một người trong bọn họ xồng xộc tiến đến cửa lều trận của Chiêu Văn vương. Người này cao lớn, dáng điệu hiên ngang, thanh gươm vỏ ken mây đập vào đùi lách cách. Viên tì tướng trấn cửa chặn người mới đến:

    - Đứng lại. Đây là trướng cấm của đức ông thống lĩnh!

    Nhưng người mới đến phá lên cười, điệu cười thật ngang tàng:

    - Ngươi không nhận ra ta là ai sao?

    Viên tì tướng trố mắt nhìn một hồi rồi thốt reo lên:

    - Trời ơi! Tướng quân Hoàng Mãnh!

    Người mới đến chính là Hoàng Mãnh nhưng mà là một Hoàng Mãnh gầy guộc hơn nhưng gân guốc hơn, khí vũ hiên ngang hơn, bụi đường trường phủ trắng cả mi mắt. Đặc biệt là cái cười của Hoàng Mãnh vẫn là cái cười của hải tặc, của một hải tặc có đôi mắt nghịch ngợm, quỷ sứ.

    Hoàng Mãnh vén cửa lều trận, bước vào. Trần Nhật Duật đứng phắt dậy kinh ngạc mừng rỡ. Hoàng Mãnh cúi đầu thi lễ.

    - Kính lạy đức ông! Tiểu tướng ở ngự doanh về. Kính chúc đức ông sức khoẻ.

    Trần Nhật Duật bước ào tới. Hai anh em ôm choàng lấy nhau. Hai tấm hộ tâm phiến bằng đồng thau đính trên ngực áo chiến của hai người va vào nhau thành tiếng kim sắc, rợn.

    Hoàng Mãnh đem về cả tin mừng và tin buồn. Hoàng Mãnh mang về lệnh chỉ triệu Trần Nhật Duật ra ngay mặt trận phía bắc. Mờ sáng hôm sau, Trần Nhật Duật lên đường, dẫn theo cả đạo quân tinh nhuệ đầy hào khí Đông A trẻ trung của ông.

    Đội quân của Hoài Văn hầu đi tiên phong. Sáu trăm gã hào kiệt nhộn nhạo giương lá cờ sáu chữ hiên ngang, dùng ngựa tốt làm thông hiệu giữa các đô các vệ. Quân đi trong không khí hừng hực chiến chinh..

    Hoàng Mãnh đã kể lại cho Trần Nhật Duật nghe những tin tức chiến thắng mới nhất ở chiến trường Thăng Long. Quân địch sau những ngày hung hãn buổi đầu chinh thảo bây giờ phải dàn mỏng ra để che chở đường lương cỏ. Chung quanh hành trung doanh của Thoát Hoan ở ngoài Thăng Long, giặc phải lập một số đồn trại để phòng giữ. Nhưng quân ta ở khắp nơi đã dùng những đội quân không cần đông lắm mà đánh những trận hạ đồn nhanh chóng và đánh những trận mai phục kì diệu đến nỗi không một tên nào chạy thoát. Nhìn toàn cục mà nói, giặc mất hẳn cái linh hoạt vốn là điều mạnh nhất của giặc, còn ta tăng thêm thao lược chỗ thiếu nhanh chóng được thêm vào. Từ những trận đánh một vệ lên một quân vài ngàn người, các tướng đã mau chóng gom binh lực thành những đạo quân lớn, đánh dồn đánh ép tuyến đường huyết mạch của chúng từ Thăng Long về biên giới Việt - Nguyên. Tóm lại giặc mất quyền tấn công và bây giờ là quân ta ra tay, muốn đánh ở đâu, vào đâu, vào lúc nào, bằng bao nhiêu binh lực là do ta định.

    Nhưng Hoàng Mãnh cũng đem về những tin buồn. Trước hết phải kể đến gương hi sinh oanh liệt của Bảo Nghĩa hầu Trần Bình Trọng. Bằng một số quân ít chưa đầy năm trăm người, Trần Bình Trọng đã cầm chân đội quân giặc truy đuổi vua ta tới hơn một ngày. Thế quân chênh lệch quá, Trần Bình Trọng bị giặc bắt được và con người ấy đã ghi tên mình vào sử vàng của dân tộc bằng tấm gương tử tiết chứa chan hào khí Đông A. Nhà vua đã tặng tước vương cho tướng quân Bảo Nghĩa trước khi xuất trận. Tấm gương sáng của Bảo Nghĩa vương sẽ đời đời cho trai gái nước Việt soi chung. Bảo Nghĩa vương có một đứa em nuôi. Chú bé này vốn là một nô tì chăn ngựa của ông. Nhờ có chiến công và tính dũng cảm, chú bé được đức ông Bảo Nghĩa phóng thích khỏi kiếp nô tì và nhận làm em nuôi. Chính chú bé này đã đem lọt một mệnh lệnh cực kì quan trọng của Hành trung doanh vào Diễn Châu cho Thượng tướng quân Chiêu Minh Đại vương. Gương sáng ấy cũng cực kì chói lọi.

    Rồi đến tin Trần Ích Tắc, Trần Văn Lộng, Trần Tú Hoãn và vợ con đem nhau ra hàng tướng giặc Thoát Hoan. Theo sau lũ này còn có Tăng Uyên Tử, Tô Nghĩa Đông.. những kẻ đầu hàng tới hai lần trong một đời người. Thật là một tin sét đánh ngang tai Trần Nhật Duật. Ông buộc Hoàng Mãnh phải kể lại một lần nữa tên những kẻ phản bội. Lần kể thứ nhất ông có cảm giác kinh hoàng và giận dữ, lần nghe thứ hai ông chỉ có khinh bỉ và ghê tởm. Cảm giác này lấn át cả những tin buồn khác. Trần Nhật Duật hỏi Hoàng Mãnh: "Quân thế đôi bên cũng có chênh lệch nhưng đã đến nỗi nào? Sao nhà ngươi không khuyên?"

    Trần Nhật Duật ngập ngừng ông cũng không biết nên gọi Trần Ích Tắc bằng gì bây giờ. Hoàng Mãnh đăm chiêu:

    - Không! Đạo quân Đà Giang và Tam Đái Giang chưa có một tổn thất nào đáng kể. Trái lại nó đóng trong một vùng rừng núi kín đáo, giữ trận địa không khó cho lắm mà tiến sâu ra sau lưng địch như tướng mệnh không phải là không lập được công lớn. Rồi có thể từ chỗ đóng quân này dễ dàng đánh những trận xuyên hông quân giặc. Chỉ dùng một binh lực nhỏ nhưng vẫn thắng lớn được.

    - Thế thì..

    Hoàng Mãnh nhìn Trần Nhật Duật một lúc rồi tiếp

    - Chuyện đầu hàng xảy ra sau khi Thượng hoàng chẳng những không trị tội đức ông Hưng Đạo và anh mà còn giao thêm trọng trách. Thượng hoàng đã sai Minh tự Nguyễn Khoái đem hai quân túc vệ Thượng đô Tả và Hữu Thần Sách đến để đức ông sai phái. Từ lúc được tin ấy, em thấy ông ta mất hẳn vẻ thâm trầm, đâm ra vừa thảng thốt vừa bẳn gắt suốt ngày. Đến nửa đêm thì chuyện ấy xảy ra.

    Trần Nhật Duật gườm gườm nhìn Hoàng Mãnh. Ông không tiện hỏi dồn, cũng không tiện trách Hoàng Mãnh bởi vì Hoàng Mãnh chẳng có gì trách cứ được. Nhưng Hoàng Mãnh hiểu, vì Hoàng Mãnh còn lạ gì anh mình nữa. Hoàng Mãnh tiếp:

    - Chiều hôm ấy, ông ta ra lệnh gom các kho lương lập trong rừng đem xuống thuyền. Em đã trình ông ta là làm như thế lương sẽ dễ lọt vào tay giặc. Ông ta đã mắng em: "Mày là con nhà tôi tớ sao dám hỗn với ta?" (Trần Nhật Duật nhợt mặt ra). Em đáp: "Hiện nay tôi là phó quan lộ Đà Giang. Quan gia đã chẻ phù hình mây trao cho tướng mệnh này". Em chìa nửa mảnh phù cho ông ta xem. Nhưng ông ta thét bọn tả hữu nanh vuốt của ông ta trói em lại. Cái thằng Đô Trâu, dũng thủ giáo luyện của ông ta trói em bằng dây cung tước nhỏ.

    Hoàng Mãnh im lặng. Trần Nhật Duật bồn chồn.

    - Cũng may, lúc chập tối, cái thằng ông mãnh Trịnh Mác thế mà tài, nó đem dũng thủ sơn cước sông Đà lọt vào hành doanh cướp được em ra. Nửa đêm ông ta đi. Đấy, việc như thế đấy.

    Như vậy bên cạnh sự hèn nhát phản bội của Trần Ích Tắc còn có một khát vọng cuồng nhiệt thầm kín mà xưa nay ông là em ruột cũng không biết. Hoàng Mãnh nói thêm:

    - Chẳng những thế, ông ta đã hiến một kế khốn nạn, vào cái lúc giặc vừa chiếm được Thăng Long. Khốn nạn đến thế nào ư? Ông ta tâu vua chọn mĩ nữ dâng Thoát Hoan để xin thằng này ngừng chiến. Đem cống mĩ nữ thì còn trời đất nào nữa?

    - Thế tả hữu không ai can anh ta à?

    - Anh lúc ấy đã lên đường đi châu Ái. Đức ông hoàng Ba thì đã ở Diễn Châu. Các tướng trí dũng phần lớn đang ở mặt trận cả. Quanh mình Thượng hoàng lúc đó chỉ có ông ta với bọn tham sống sợ chết. Cả cái thằng Tô Nghĩa Đông cũng hùn vào. Nó đem cái khí chất Nam Tống ra, lời nói thì như chuốt ngọc, yêu nước thương nòi mà kì thực thì chỉ xui người ta hèn nhát. Thành thử..

    - Sao?

    * * *Thành thử Thượng hoàng nghe lời ông ta, Thượng hoàng sai cận thị Đào Kiên đem công chúa An Tư đi cống thằng Thoát Hoan..

    - Công chúa An Tư à?

    Trần Nhật Duật nhớ lại cô gái tài hoa xinh đẹp ấy, nhớ đến nước pháo song tiên, ngón đàn độc huyền, nhớ những vần thơ tình tứ ngang ngược của cô gái giả trai ra Phi Liêm hầu.

    Hoàng Mãnh chờ một lúc lâu. Anh ta hiểu tâm tính người anh đồng nhũ. Đã nói phải nói hết và sau đó có vì thế mà lòng dạ đau thương thì chí khí sẽ làm cho nó lành vết!

    - Theo hầu lệnh bà An Tư có sáu cô gái Thăng Long làm thể nữ. Một trong sáu người ấy là em Mơ.

    Trái với sự lo ngại của Hoàng Mãnh, Trần Nhật Duật chỉ hơi nhợt mặt đi, cặp mắt đẹp của đức ông hoàng Sáu thoáng cháy lên và ông ngồi im. Giờ lâu Trần Nhật Duật mới hỏi thêm:

    - Còn gì nữa?

    - Bẩm đức ông, hết rồi đó.

    - Hết rồi đó!.. Hết rồi đó! - Trần Nhật Duật lẩm bẩm mãi mấy câu ấy..

    Đạo quân của Trần Nhật Duật đi mười hai ngày mới tới địa giới lộ Thanh Hóa Ngoại. Đội quân tiên phong cho thông hiệu về báo luôn một tin dữ nữa: Chương Hiến thượng vị hầu áo tía Trần Kiện và thằng phó quan Lê Trắc đã hàng Toa Đô rồi. Tên tướng giặc này đã đổ bộ vào lộ Thanh Hóa Ngoại và có một mũi nghi binh ở con kênh Cổ Khê. Nếu ở đây quan trấn thủ cũng đoán ra mưu giặc và không phải là Trần Kiện thì thằng Toa Đô phải tổn thất nhiều mới đặt chân lên nổi Thanh Hóa Ngoại.

    Chiêu Văn vương nổi giận, ông ra lệnh xốc cả đạo quân tiến lên Thanh Hóa Ngoại. Trời lúc đó đã sang đầu mùa hạ. Đợt gió tây đầu tiên trong năm đang thổi khô cây khô cỏ. Nóng như thiêu như đốt. Quân ta phải hành quân ban đêm, ăn ngủ ban ngày.
     
  8. Mạc Hồng Viên

    Bài viết:
    184
    Chương 17

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Uộc họp trong Hành trung doanh của đạo quân xâm lược rất ít người và chỉ gồm các tướng lĩnh cao cấp nhất: Đại nguyên soái Trấn Nam vương Thoát Hoan, Phó nguyên soái Nam Bình hầu A Lý Hải Nha, Tham trí chính sự Vạn hộ hầu Dũng sĩ Lý Hằng và các Vạn hộ hầu Nạp Tốc Lạt Đinh, Lưu Thế Anh..

    Thoát Hoan mở cuộc họp này trong hành trung doanh đóng ở ngoài chân thành Thăng Long. Gã tướng giặc trẻ không chịu nổi không khí lặng ngắt nặng nề trong khu hoàng cung. Tuy nhiên kinh thành cũng chẳng còn bóng dáng một người dân nào. Các ngõ, các phố, các phường đều trống trơn, cửa ngõ mở tông tốc. Cỏ đã mọc um tùm ở cổng lớn các phủ đệ, các dinh thự, cỏ mọc cả trong lòng đường cái. Cây cối đang mùa chín trái rụng đầy mặt đất các vườn, chim chóc líu tíu tranh ăn và trái chín nẫu lên men ngửi say như hương rượu.

    Lều trận của Đại nguyên soái Thoát Hoan chính là cái lều trận mái dạ đen lót lụa đỏ mà trên hai năm trước đây, hai cha con Hốt Tất Liệt đã ngủ đêm trong hoàng thành Đại Đô trên thảm cỏ thiêng Ô Nôn. Chỉ khác một chút về đồ đạc bày trong lều: Thoát Hoan đã sai trải những chiếc chiếu cói trên nền lều và cho vứt rải rác những chiếc gối mây đan tựa tay. Như thế mới đỡ cái nóng ngút ngát tỏa ra từ thảm da dê, từ tựa ghế bọc da hổ. Ngay cả áo chiến của Thoát Hoan cũng phải thay thứ khác. Những bộ áo miền cao nguyên phương bắc may bằng nhung bằng dạ viền và lót lông gấu lông cáo quý không thể dùng được ở xứ này. Ôi cái xứ có cái nắng quái ác, nắng như chàm lửa, nóng như từ trong ruột nóng ra. Thoát Hoan phải mặc một bộ áo chiến bằng lụa màu huyết dụ rất mỏng, chân xỏ một đôi dép cỏ của đám lính Ô Man. Gã đã phải dội một chút nước lã lên đầu lên tóc thay vì một lần tắm vì theo phong tục và điều luật Yassa cấm tắm, ai tắm phải xử chém. Đại Hãn đã đặt ra luật thì ai còn dám phạm? Các thứ hộ tâm phiến, lá giáp che ngực, lá giáp chắn tay, lá giáp che đùi đều bị bỏ tất. Thay vào đấy là một ngũ dũng thủ cầm những lá mộc to để sẵn sàng che cho viên tướng non.

    Các tướng khác thì vẫn phải giữ luật quân, mặc giáp trụ đầy đủ chỉ trừ dũng sĩ Lý Hằng béo quá rực mỡ cứ phải xoay trần trùng trục.

    Ngay từ lúc còn thơ ấu, Thoát Hoan đã được cha bó gọn vào cái túi treo trên cổ ngựa đem theo trong các cuộc chinh thảo xa xôi. Thay vào tiếng ru dịu ngọt của một người đàn bà, là tiếng cười man rợ của chiến binh trong tiệc mừng đánh thắng vào lúc sắp tàn. Mùi rượu và mùi máu thay mùi thơm sữa ngọt, ánh lửa đốt cả một kinh thành thay ánh lửa bếp hiền hòa..

    Lớn lên một chút, Thoát Hoan được nghe kể lại chiến tích của cha ông mình, đặc biệt là kì tích lẫy lừng của ông tổ lẫm liệt, vị Đại Hãn đầu tiên của tất cả những người Thát Đát và những nước phụ dung. Ông tổ của Thoát Hoan ghét dùng vàng ngọc, Thoát Hoan bắt chước cũng ghét dùng vàng ngọc. Thế là thanh kiếm Thoát Hoan chọn là một thanh kiếm chuôi đồng thau, vỏ cũng đồng thau để trơn nhưng lại đeo bằng một cái đai gấm. Trên cái vỏ kiếm Thoát Hoan cho khắc một câu trích trong bộ luật Yassa: "Không thể sống yên ổn với những kẻ bị ép hàng". Ý của Thoát Hoan là cứ chém hết, tàn sát hết, chứ có ai là không bị ép hàng. Viên Đại nguyên soái nhà Nguyên chỉ mới qua mấy tháng chinh chiến ở xứ này mà đã thay đổi nhiều. Làn da sau mấy lần rộp lần bong nay đã mang màu dầu dãi, cặp mắt ngơ ngác và đôi khoé môi trễ xuống tàn ác, chán ngán, hoài nghi..

    Ngồi bên trái Thoát Hoan viên phó Nguyên soái A Lý Hải Nha lúc nào cũng lim dim mắt như người nhập định. Y là bộ não và là linh hồn của cuộc chinh thảo này. Là một viên tướng thao lược đã quá nửa đời người sống trên lưng ngựa viễn chinh, A Lý Hải Nha biết giấu ý nghĩ và cảm xúc của mình sau một bộ mặt lặng lẽ.

    Các tướng đã tề tựu đông đủ nhưng Thoát Hoan vẫn còn chờ một tin tức sẽ mang về bằng đường thủy. Hiệu nêu đèn nêu cờ đã báo từ phủ Thiên Trường về Hành Trung doanh là cánh quân Toa Đô đã đến phủ Thiên Trường và Nguyên soái Toa Đô đã sai tì tướng mang tờ cáo về trình Thoát Hoan. Đáng lẽ chiếc khinh thuyền hai buồm mang tin đã phải về đến Hành trung doanh từ đêm qua rồi.

    Mãi sau không thấy cáo đưa về, Thoát Hoan đành bắt đầu cuộc họp. A Lý Hải Nha nói lược qua về thế chiến trường để các tướng cùng hiểu:

    - Trước hết, Vạn hộ hầu Lý Hằng và Dũng sĩ Ô Mã Nhi chỉ huy việc đuổi bắt cha con vua nước Việt đã chẳng thu được kết quả gì cả. Đuổi ra biển, đuổi vào sông, đuổi lên rừng rồi lại đuổi ra biển.. cuối cùng mất hút tông tích cha con vua Việt. Dũng sĩ Ô Mã Nhi đã phải bỏ cuộc truy lùng, bây giờ Ô Mã Nhi đã dẫn một cánh quân nhỏ đi đón Nguyên soái Toa Đô. Bản cáo lần trước của hành doanh Toa Đô trình rằng Dũng sĩ Ô Mã Nhi đã hội sư với Toa Đô rồi. Cả hai cánh quân nhập làm một và đã đổ bộ lên lộ Thanh Hóa Ngoại. Từ Thanh Hóa Ngoại, quân Toa Đô đã tiến ra đến phủ Thiên Trường.

    - Đạo quân chính ở quanh quốc đô nước Việt vẫn còn nguyên sức mạnh và bây giờ chưa biết họ mở cuộc tấn công vào lúc nào.

    - Quân của Đại nguyên soái Thoát Hoan đang thiếu lương thực, thiếu cỏ khô cho ngựa ăn, mặc dù đã phải lấy trên ba vạn chiến binh giao cho Vạn hộ hầu Lưu Thế Anh đem đi lập trên hai trăm đồn trại dọc con đường lương từ Thăng Long về tới biên giới Việt Nguyên mà lương thảo vẫn bị đánh úp. Quân Việt chẳng biết từ đâu cớ thình lình xuất hiện đánh úp những đội tải lương cỏ. Cướp được bao nhiêu thì cướp còn nếu không mang đi được thì họ đốt tại chỗ. Bây giờ ở Hành trung doanh, đứng trên vọng tiêu cao, người ta trông thấy khói lửa của nhiều đám cháy ở các hướng chung quanh nhưng không hiểu quân Việt đốt đồn, đốt lương hay đốt cỏ. Mà ở đây vừa là chiến trường vừa là ruộng lầy, ruộng nước, quân Nguyên không thể thả ngựa đi chăn được. Dạo này những con ngựa chiến thiếu cỏ phải ăn thóc nhiều cho nên gầy đi, lông xơ xác không bóng mượt mà con nào cũng đau mắt vì dặm mày thóc.

    - Ông tướng "nóng" đã xuất hiện, lại thêm cả ông tướng "mưa" nữa. Lính Ô Man quen cái lạnh núi cao hiện nay cứ mệt nhoài ra; lính Thát Đát không có quần áo mỏng cứ xoay trần trùng trục; lính Hán kể cả Hán ở bắc và nam sông Trường Giang khá hơn tí chút nhưng xem ra thứ quân này cũng không quen nổi cái mưa nắng bất thường của phương nam.

    Nói tóm lại quân tướng ngựa nghẽo đều mệt mỏi thiếu lương thiếu cỏ và muốn nổi khùng lên tìm quân Việt để giao chiến cũng không được. Chỉ còn cách thêm quân, thêm thật nhiều quân rồi dàn lại thế trận, dốc sức đánh thử một lần nữa xem sao. Cái đạo quân tiếp viện chính là đạo quân Toa Đô mà cả Hành trung doanh bây giờ đang đợi chờ tin tức.

    Viên tướng chỉ huy việc bảo vệ đường lương Lưu Thế Anh nói:

    - Bẩm Nguyên soái, việc vận tải bằng thuyền thì nhanh và được nhiều hơn nhưng quân ta ít người thông thạo nghề sông nước.

    - Ta đã kén tất cả chiến binh thạo nghề này giao cho ngươi rồi. Lính thủy thiện chiến đi vãn đến nỗi thuyền chiến bây giờ phải xếp xó trong thủy trại Chương Dương kia kìa.

    A Lý Hải Nha chăm chú nhìn Thoát Hoan. Vốn là thầy dạy gã hoàng tử trẻ ngông cuồng kia, nên A Lý Hải Nha thuộc tính thuộc tật của Thoát Hoan. Gã hoàng tử trẻ này không hiểu chiến tranh là thế nào cả. Gã sinh ra trong một dòng họ mà mỗi cuộc chinh chiến nơi xa lại đem lại một ngai vàng mới, kèm theo đó là một loạt chức tước khai quốc công thần với đất phong, với phủ đệ, với thẻ phù miễn tội cho tới ba đời, với mĩ nữ và vàng bạc châu báu, với tiệc tùng truy hoan tưởng lệ công thần.. Gã khát vọng một chiến tích lẫy lừng như cha ông gã. Bước chân lên đường chinh chiến, gã nhận chức đầu tiên là Nguyên soái, gã chưa hề hiểu thế nào là những chiến trường có thắng có thua, có sống có chết, có đói ăn, có khát uống, có bệnh tật hiểm nghèo, có quốc gia dương danh, có đất nước vong diệt, chí ít cũng là thăng và giáng chức.. Quả thật gã cũng là một nguyên soái thông minh trí tuệ được đào luyện bởi những ông thầy kén chọn kĩ trong số những kẻ sĩ trung nguyên, gã lại có cái máu nòi thiện chiến thảo nguyên nhưng gã thiếu thao lược và nhược điểm lớn nhất của gã là "chức vụ bất xứng kì đức", gã không đủ điều kiện để làm một nguyên soái, gã là một hoàng tử, gã mang trong máu gã cái bệnh "hoàng tộc".

    Ba bốn tháng vừa qua chưa đem lại cho Thoát Hoan những kinh nghiệm rõ rệt. Gã mơ ước lễ ban sư về Đại Đô sẽ được dàn kèn vòi tu tu thổi đón mừng. Gã sẽ vào hoàng cung. Gã sẽ được vua cha cho triều kiến trong khu bãi chính giữa hoàng cung trồng thứ cỏ thiêng Ô Nôn. Gã sẽ ném xuống dưới chân vua cha chiếc mũ thiên triều và quả quốc ấn của vua nước Việt theo đúng phong tục của dòng tướng Thát Đát. Vua cha cũng sẽ ban cho gã một vò sữa dê cũng theo đúng phong tục tiếp tướng Thát Đát thắng trận trở về nhưng rồi lễ ban phong sẽ diễn ra với Thoát Hoan theo nghi lễ Trung Quốc, cái ngai vàng phiên trấn cộng một triều đình đô hộ nhỏ có đủ luật lệ, điển nghi, phiền toái và thâm hiểm..

    A Lý Hải Nha lim dim mắt nhưng viên tướng Thát Đát già này đọc rõ ràng từng chỗ lắt léo trong ý nghĩ của gã học trò yêu quý của mình. A Lý Hải Nha biết Thoát Hoan mơ đến lễ ban sư nhưng không hiểu sao bây giờ A Lý Hải Nha cứ như nghe thấy bài tang ca mà các dũng sĩ Thát Đát đã hát khi đưa xác Thành Cát Tư Hãn từ mặt trận trở về thảm cỏ thiêng bên bờ sông Ô Nôn:

    Hôm qua mi lượn trên trời như con chim ưng.

    Hôm nay mi nằm trên xe chiến, trục lăn rền rĩ.

    Ôi Đại Hãn của chúng ta.

    Mi để vợ con lại.

    Mi bỏ người Thát Đát.

    Ôi Đại Hãn của chúng ta.

    Trước kia mi là con chim phượng hoàng kiêu hãnh trên trời cao.

    Bây giờ mi bị hạ như một con ngựa non ngờ nghệch.

    Ôi Đại Hãn của chúng ta.

    Mi đã hứa ở với chúng ta sáu mươi năm vui vẻ thịnh vượng.

    Thế mà mi vẫn cứ bỏ lại cả chín tộc Thát Đát của mi.

    Ôi Đại Hãn của chúng ta.

    Bây giờ thì cái vị Đại Hãn ấy đã yên nghỉ ở đất tổ, bên dưới thảm cỏ bốn mùa thay đổi sắc, mùa đông tuyết trắng phau phau, mùa xuân cỏ non xanh mịn, mùa hạ rực rỡ muôn hoa, mùa thu cỏ áy vàng. Làm tướng được chết trên chiến trường là một cái chết đẹp, cái chết da ngựa bọc thây thế nhưng nó phải là một cái chết trong một trận chiến lẫm liệt. Đằng này quân Việt không chịu tiếp chiến. Cuộc chinh thảo diễn ra trên bốn tháng rồi mà quân Việt chỉ cho xảy ra một số trận đánh nhỏ. Sức nhanh của quân kị Thát Đát, tài phá lũy công thành của quân Hán, trí dũng thao lược của các tướng đều không thi thố được. Rút cục, trời nóng trời mưa cứ giáng lên đầu quân, lương thiếu cỏ hết cả ngày chỉ lo ăn..

    A Lý Hải Nha ngẫm nghĩ. Viên tướng xâm lược già chợt thấy lo lắng. Trong những cuộc chinh thảo khác, quân Thát Đát muốn đánh lúc nào thì đánh, còn trong cuộc chinh thảo này lúc họ muốn đánh thì không được đánh. Như vậy.. như vậy bây giờ đến lượt quân Việt muốn đánh lúc nào thì đánh! A Lý Hải Nha bỗng lo thót ruột. Gánh nặng cuộc chinh thảo này đè lên vai y. Nguyên chúa đã dặn phải thắng. Nguyên chúa đã giao cả giáo vàng truyền quốc. Nguyên chúa đã giao cả tính mệnh và ngai vàng của hoàng tử Thoát Hoan cho y. Phải thắng, phải lập được một nước để Trấn Nam vương trị vì và y thì phụ chính.

    Nhưng đêm hôm nay, A Lý Hải Nha đã hiểu rằng thắng quân Việt là một điều ảo tưởng, còn thua, thậm chí thua to thì chưa biết thế nào. Chỉ còn một chút kì vọng le lói như ngọn đèn trước gió. Đó là đạo quân Toa Đô đến hội sư ở Thăng Long, đem đến một nguồn sinh lực mới. A Lý Hải Nha sẽ dùng cánh quân sinh lực này mở một cuộc truy lùng mới: Truy lùng vua Việt, cả hai cha con vua Việt, truy lùng tiêu diệt Hành trung doanh quân Việt.

    Hà, Toa Đô cũng là trò yêu của ta, gã không may mắn có máu hoàng tộc, gã không phải là hoàng tử thân vương, nhưng gã là một viên tướng, một chiến tướng bách chiến đã giành lấy ấn kiếm nguyên soái bằng những gian lao, bằng xông pha tên giáo, bằng những chiến tích và kinh nghiệm thu được, bằng nửa đời người mang gươm phò Nguyên chúa. Gã thao lược và thiện chiến hơn Thoát Hoan. Có thể bàn việc với gã như bàn luận giữa các tướng thực thụ, như giữa những chiến binh thực thụ. Gã không có chút máu Đại Hãn nào trong huyết quản nhưng gã sẽ là người đuổi bắt cha con vua Việt, Toa Đô cũng sẽ là người tìm ra tung tích Hành trung doanh của quân Việt. Được rồi, đến lúc đó, A Lý Hải Nha sẽ đem hết tài nguyên soái bách chiến ra, chỉ huy một cuộc chiến thắng lớn, thắng lừng lẫy.

    Chỉ cần Toa Đô đem quân về đúng hẹn, quân đủ, khí giới đủ, quân thế còn sắc sảo. Mà sao cái thằng này đến muộn vậy? Hay quân của nó cũng ốm dở?

    A Lý Hải Nha chợt sững người. Câu hỏi của gã choảng đúng vào huyệt. Tất cả kinh nghiệm một đời chinh chiến đã chỉ cho viên tướng già này biết rằng đội quân Toa Đô chắc chắn bây giờ đang xơ xác. Đây là đạo quân đã phải đánh nhau hai năm trường ở một nơi xa, chiến trường lại nhiều rừng núi, nhiều muỗi, lắm vắt và nóng nực ẩm thấp hơn ở đây.

    Đặt hi vọng chuyển thế chiến trường vào đạo quân Toa Đô té ra là một ảo tưởng vô duyên. A Lý Hải Nha định nói điều ấy với Thoát Hoan nhưng nghĩ đi nghĩ lại viên tướng già lại ngậm miệng bởi vì nếu nói thì lại phải nói cho cùng kì lí: Chẳng những không trông mong gì được ở đạo quân Toa Đô mà còn phải lo cứu cho đạo quân ấy khỏi bị tiêu diệt trên đường di chuyển. Tốt hơn hết là cứ để Toa Đô đến đây, Thoát Hoan sẽ nhìn tận mắt lực lượng này và quyết định lấy việc phải làm.

    Chờ đến gần trưa vẫn không thấy thuyền mang cáo của Toa Đô đến Hành trung doanh. Các nêu cờ báo tin loạn xạ. Không hiểu ở những nơi ấy quân Việt có hành binh không mà nêu nào cũng báo tin đồn trại bị tiến công. Một số ụ lửa chuyên dùng để báo tin nguy cấp cũng thấy khói hiệu bốc lên. A Lý Hải Nha muốn Thoát Hoan khỏi sốt ruột nên ra lệnh cho các tướng đi xét quân tình ở quanh Thăng Long.

    Bọn thị mã dắt ngựa đến cửa lều trận. Các tướng Thát Đát lên ngựa trước, các tướng Hán giữ phận hèn lên ngựa sau. Chúng theo nhau phi ngựa qua các phố phường Thăng Long vắng teo. Ở các nơi đồn trú của quân Nguyên, Thoát Hoan nhận thấy rất rõ tình trạng quân lính chẳng những đói mệt mà kỉ luật lơi lỏng. Đó là điều tất nhiên sẽ xảy đến với một đội quân đóng lâu tại chỗ và mất quyền làm chủ trên toàn chiến trường. Thoát Hoan còn nhận thấy những con ngựa Vân Nam cũng xuống sức nhiều. Xứ này lắm ruồi vàng quá. Ngựa Vân Nam bị ruồi vàng đốt, rùng mình phát sốt, bốn gối rung như cẳng cò gặp rét. Thoát Hoan vốn là tay sành ngựa. Chỉ nhìn những con ngựa chảy nước mũi, Thoát Hoan đã hiểu rằng đàn ngựa thế là ốm hết rồi. Bây giờ mà muốn dẫn quân cưỡi chúng đi đánh những trận lấy nhanh, lấy thần tốc thì cũng không ra khỏi cửa doanh được lấy chục dặm đường. Rồi đỗ lại nghỉ ngựa thì chỉ có chờ quân Việt đến cất vó là xong.

    Tình thế này mà lọt đến tai mắt quân Việt thì "lôi thôi" to.

    Thoát Hoan bày tỏ sự lo ngại của mình với A Lý Hải Nha. Viên tướng già này nghiêm khắc nhắc Thoát Hoan:

    - Nhận ra tình trạng này phải có tầm mắt của tướng bên ta. Tôi chỉ lo có ai nói điều đó với bọn con gái Việt.

    Thoát Hoan sầm mặt xuống. Viên tướng trẻ biết rằng thầy gã đe gã về cái tội đã tiếp nhận những mĩ nữ nước Việt. Đó là điều cấm trong bộ luật Yassa. Điều luật ấy nó thế này: "Cái sướng nhất của người chiến binh Thát Đát là đánh thắng quân địch, cướp của cải của chúng, đuổi bọn tôi tớ của chúng phải tế ngựa bỏ chạy, là dùng bụng vợ và con gái chúng làm ổ ngủ". Thế mà Thoát Hoan đã nhận mĩ nữ Việt như một cống phẩm lúc bình thường của phiên trấn nội phụ. Đành rằng hôm ấy Thoát Hoan đã tỏ ra tôn trọng lời can của A Lý Hải Nha nhưng viên Đại Nguyên soái trẻ biện bạch rất khéo rằng cứ nhận mĩ nhân để ru ngủ vua tôi nước Việt rồi quân Nguyên không giữ lời hứa mà cứ tấn công. Quả thật sau đó quân Nguyên vẫn tấn công nhưng Thoát Hoan đâm say mê nàng công chúa phương nam nom rất yểu điệu mà dữ như chó sói. Hàng ngày, Thoát Hoan vẫn đến căn lều nhốt mĩ nữ Việt. Hàng ngày, Thoát Hoan phải nhìn mặt nàng con gái Việt, dần dần thói quen đó thành thói nghiện. Thoát Hoan chuyện trò với các cô gái đó mặc dù họ không đáp lời gã. Thế mà Thoát Hoan vẫn ra lệnh nới bớt các điều cấm đối với nàng công chúa Việt và những người theo hầu. Những mệnh lệnh ấy được ban ra mà không hỏi qua A Lý Hải Nha làm cho viên tướng già này đã mấy lần nghiêm sắc mặt nhắc học trò yêu về bổn phận của một viên tướng đi viễn chinh.

    Thoát Hoan cười dàn hòa:

    - Bọn chúng ở đây như chim trong lồng, làm sao mà mang nhau đi đâu được.

    A Lý Hải Nha giữ ý không tranh biện với Thoát Hoan. Vả chăng viên tướng già đã sai tì tướng tâm phúc canh phòng căn lều nhốt mĩ nữ người Việt rất chặt chẽ. Y cũng đã sai bọn tâm phúc sắp sẵn thuốc độc để khi cần thì bắt mĩ nữ nước Việt uống chết.

    Thoát Hoan lại lảng sang chuyện khác:

    - Còn bọn hàng tướng Việt thì phải giải về Đại Đô để đề phòng chuyện bất trắc.

    A Lý Hải Nha đáp rằng cái bọn đầu hàng thì chẳng dùng làm gì được, tuy nhiên y đã sai tướng giải bọn Trần Ích Tắc và Trần Kiện.. về Trung Quốc rồi. Gã cười nhạt:

    - Cái bọn mà không trung thành cả với bố chúng nó thì hỏi chúng còn có thể trung thành được với ai?

    Đúng lúc ấy, một viên tì tướng của thủy trại Chương Dương phi ngựa tới. Con ngựa chạy quá sức, bốn vó loạng choạng suýt sụm xuống. Viên tì tướng báo tin dữ: "Chiếc thuyền mang cáo của Nguyên soái Toa Đô đã bị quân Việt chẹn bắt cách Chương Dương có sáu dặm sông. Quân tuần tiễu của thủy trại Chương Dương đã cố sức đánh để cứu chiếc thuyền này nhưng đội quân Việt thông thạo sông nước quá. Họ cho người lặn hẳn xuống nước đem dùi đục thuyền. Chiến thuyền của ta bị đắm mất mấy chiếc. Thế là quân thủy bị bọn người Việt bắt sống ngay dưới nước."

    Thoát Hoan giật nảy mình, muốn tuốt gươm chém ngay viên tướng thông hiệu nhưng sau thấy vô lí, hắn tra gươm vào vỏ. Viên Đại Nguyên soái trẻ rất thông minh. Y rất lo người Việt bắt được tờ cáo bí mật sẽ hiểu rõ ngay vì sao y cho gọi cánh quân Toa Đô về hội sư ở Thăng Long. Như vậy, quân Việt sẽ vây đánh rát hơn. Thoát Hoan vội dẫn các tướng về lều trận của y. Một loạt mệnh lệnh được ban ra:

    - Lệnh cho các đồn trại quanh Thăng Long phải tăng vọng tiêu phòng. Đặc biệt là đồn A Lỗ, nơi Vạn hộ hầu Lưu Thế Anh đặt hành doanh chỉ huy tải lương cỏ.

    - Lệnh cho đội quân kị phải chăm vỗ ngựa tốt hơn và lúc nào cũng phải sẵn sàng lên yên.

    - Lệnh cho thủy trại Chương Dương phải canh giữ cẩn mật hơn nữa. Nơi này đóng phần lớn chiến thuyền của đạo quân xâm lược. Đó là phương tiện để tấn công tiến đánh ở xứ này và để ù té chạy khi cần thiết.

    - Lệnh cho Thiên hộ Mã Vinh lập đồn chắn cửa sông Tô Lịch, đồn đặt ngay cửa Giang Khẩu. Trong sông Tô Lịch, Thoát Hoan sai đem một đội thuyền nhẹ vào đóng ở bến cửa thành. Đấy là phương tiện để các tướng trong Hành trung doanh đi khỏi Thăng Long khi cần thiết.

    - Giao cho quân thủy công việc tìm gặp và dẫn đường cho đạo quân Toa Đô.

    Bấy nhiêu mệnh lệnh ban ra nhưng những ngày sau đó, quân Việt đột nhiên hoạt động dữ dội. Họ đánh đồn lẻ, họ đốt trại, đốt kho lương kho cỏ bằng tên lửa. Họ đánh úp các ụ nêu cờ, nêu đèn làm cho các tuyến thông báo tin tức luôn luôn bị rối loạn và gián đoạn. A Lý Hải Nha cũng mất hẳn bình tĩnh. Viên tướng già đích thân xuống thủy trại Chương Dương để chỉ huy việc tìm gặp đạo quân Toa Đô. Bây giờ thì không còn chờ dựa vào cánh quân này mà lại là lo cứu cho nó khỏi bị tiêu diệt.. A Lý Hải Nha hiểu rằng quân thế đôi bên đang có sự thay đổi lớn.

    Đến nửa đêm, tin dữ từ biên giới đưa về: "Quân Việt mai phục bắn chết cả nhà tên Việt gian Trần Kiện và cả đội quân hộ tống cũng mất đứt luôn".

    Đúng là quân thế đôi bên đang có sự thay đổi lớn rồi.
     
  9. Mạc Hồng Viên

    Bài viết:
    184
    Chương 18

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Hành trung doanh của đức ông Hưng Đạo đóng trong một bản người Man Đại Hoàng vùng thượng đạo phủ Thiên Trường. Hành cung của hai vua đặt ở bản bên chỉ cách Hành trung doanh chưa đầy bốn dặm đường. Chung quanh nơi hai vua và đức ông Hưng Đạo đóng, người ta gặp gần đủ mặt những vương hầu giữ các chức vị trọng yếu trong triều: Binh tướng tùy tùng của Hành cung và Hành trung doanh cũng rất đông, người đi kẻ lại tấp nập hối hả, voi gầm, ngựa hí, khói bếp bốc lên mù mịt.

    Trần Nhật Duật đến Hành trung doanh vào lúc giữa trưa, nắng như chàm lửa. Ông đến bằng đường thủy trên một chiếc thuyền nhẹ mười sáu cặp mái chèo. Chiếc thuyền nhẹ lướt như bay trên mặt con sông Bôi mùa này nước chảy lững lờ, màu nước xanh như màu lá rừng hai bên bờ. Ông gặp chiếc thuyền của đức ông Nhân Túc, quan lệnh phủ Tông Chính. Chiếc thuyền của đức ông Nhân Túc chở đầy bài vị thần chủ của các bậc tiên đế, tiên hậu, tiên vương, tiên phi.. để đưa đi cất giấu. Nhân Túc vương nhìn thấy Trần Nhật Duật ở thuyền bên kia thì mừng quớ lên:

    - Ôi! Cháu Sáu! Cháu ta lẫm liệt quá!

    Trần Nhật Duật vái chào ông chú và nhận thấy cái mũi của đức ông Nhân Túc bớt đỏ đi. Chắc rằng đức ông Nhân Túc thiếu rượu. Trần Nhật Duật sai quân trạo nhi ghé sát thuyền vào thuyền của đức ông Nhân Túc và biếu ông chú một vò rượu mít với một bó cá mực khô, đặc sản của hương Hoằng. Trần Toàn cố chèo kéo cháu lên thuyền với mình để chú cháu vừa hàn huyên vừa nếm thử "tí hương rượu mít" nhưng Chiêu Văn vương thác việc quân bận lắm xin đi ngay.

    Hành trung doanh đang lúc đông người. Viên tướng coi quản quân tùy tùng của Hành trung doanh là Dã Tượng reo mừng khi thấy Chiêu Văn vương bước lên bờ:

    - Kính lạy đức ông! Chúc đức ông mạnh khoẻ!

    - Chào tướng quân, ta chào tướng quân! Quốc công ta đang ở đâu?

    - Thưa đức ông, Quốc công đang bàn việc cơ mật với đức ông Chiêu Minh trong lều trận treo màn cửa bằng vóc đỏ kia ạ.

    Dã Tượng đưa Chiêu Văn vương đến lều trận của Hưng Đạo vương. Viên tì tướng giám quân hô to:

    - Đức ông Phó đô tướng đã đến!

    Lính hầu vén màn vóc đỏ. Chiêu Văn vương bước vào lều trận, thấy hai đức ông Hưng Đạo, Chiêu Minh cùng các phó quan và một số tướng đang làm việc. Chiêu Văn vương chắp tay vái, miệng chào lớn, vui vẻ:

    - Kính lạy hai anh! Em đã đến!

    Trần Quốc Tuấn mừng rỡ đứng dậy, reo lên đáp lễ và bước ra tận chỗ Chiêu Văn vương đứng, cầm tay ông dắt lại bên văn án:

    - Nom em Sáu mạnh lắm phải không chú Ba?

    So ba đức ông, Chiêu Văn vương còn trẻ lắm. Ba người cách nhau mỗi người hơn mười tuổi. Trần Quang Khải cười nói:

    - Thưa anh trưởng, em Chiêu Văn có gầy hơn hồi ở Thăng Long.

    - Gầy một chút nhưng gân guốc cứng cáp hơn nhiều chứ. - Trần Quốc Tuấn ngả người ra đằng sau ngắm Trần Nhật Duật thêm một lát: - Nom khí phách lắm.. Anh hùng lắm!

    Trần Quốc Tuấn như nhìn thấy chính mình ba mươi năm về trước. Ông tiếp:

    - Ta cứ tưởng em nhanh lắm cũng phải sớm mai mới tới đây được. Thế này càng hay. Chúng ta lập kế quyết chiến với giặc đây.

    Tả hữu dâng trà để các tướng giải khát. Rừng cây hầm hập gió tây thổi về. Ngoài rừng xa, tiếng con tu hú đầu mùa đã gọi hè về..

    Trần Quốc Tuấn mời mọi người uống trà. Trần Quang Khải hóm hỉnh nhìn Trần Nhật Duật:

    - Nom trán em sáng bóng thế kia, chắc sắp có tin mừng.

    Trần Nhật Duật gượng cười im lặng. Trần Quang Khải cũng thôi không nói nữa. Trần Quốc Tuấn thì hồn nhiên mời trà và ông nhắc qua lại thế quân đôi bên cho Trần Nhật Duật nghe. Theo lời ông thì đạo quân của Thoát Hoan đã mất sức nhanh hung hãn. Chúng bị thiếu lương, thiếu cỏ, quân tướng mỏi mệt, bệnh dịch phát sinh, hành hạ khổ sở, mỗi ngày người chết bó chiếu chôn không kịp, đứa ngắc ngoải nằm la liệt chốn quân doanh. Đường lương của chúng bị nghẽn hẳn. Ở mặt đông bắc, Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng kiểm soát tất cả các đường bộ, còn trên mặt sông mặt biển, Phó đô tướng quân Trần Khánh Dư chẹn giữ nghiêm mặt các cửa sông trọng yếu. Cả hai tướng đã gửi cáo về Hành trung doanh đem đầu mình ra đặt, cam đoan không để một xe, một thuyền vận tải nào của giặc đi lọt. Tính ra bây giờ giặc chỉ còn hơn tám nghìn thạch gạo chứa ở đồn A Lỗ. Số lương này không dùng được quá hai mươi ngày. Từ năm hôm nay, đức ông lưu thủ kinh thành là Trung Thành vương đã được lệnh xuất quân đánh liên tiếp các đồn lẻ của giặc chung quanh Thăng Long, đánh các ụ lửa, đánh các nêu cờ nêu đèn và đốt các kho lương kho cỏ của giặc. Dân binh Thăng Long đánh giỏi quá. Chỉ ba hôm sau, giặc đã rối loạn, các nêu cờ, nêu đèn báo tin loạn xị. Đến nỗi Thoát Hoan phải đem hai tu man kị sĩ Thát Đát ra đóng ở mé ngoài nam Thăng Long để ứng cứu cho những nơi bị quân ta đánh. Tu man quân cưỡi ngựa này đã từng đem lửa đi đốt tuyết châu Âu, bây giờ đến nông nỗi đi chữa lửa cho các đồn binh quân bộ.

    - Mà chữa cháy cũng không xong. Ngay chúng nó cũng dính mấy trận mai phục của em Trung Thành vương. Có một trận, voi bên ta đuổi chúng qua kẻ Mơ đến tận phường Hồng Mai làm cho binh tướng chúng nó phải cho nổ pháo hiệu gọi quân bên rừng đa sang cứu viện.

    Tóm lại, đạo quân Thoát Hoan tuy chưa bị tổn thất nặng nhưng đói ốm, tê liệt và rối loạn thế trận.

    Đạo quân của Toa Đô còn khốn khổ hơn thế nữa, Toa Đô đánh hai năm liền không đặt vững nổi chân lên đất Chiêm Thành mà còn bị liên quân Việt - Chiêm đánh cho tổn thất rất nhiều quân mã. Cuối cùng âm mưu chiếm Chiêm Thành dùng làm đất xuất quân đánh tập hậu vào nước Đại Việt không thực hiện được.

    Chiêu Văn vương toan từ biệt hai anh lên đường thì Trần Quang Khải hỏi ông:

    - Em đến đây bằng ngựa hay bằng thuyền?

    - Thưa anh, em đến bằng thuyền.

    Trần Quang Khải đưa em ra khỏi lều trận. Hai anh em im lặng đi bên nhau. Trần Nhật Duật tự nhiên thấy điều chi ngượng ngùng trong dáng điệu của anh.

    - Có một người hầu của An Tư trốn thoát từ chỗ thằng Thoát Hoan trở về. Phải nói người này rất can đảm và tài giỏi mới trốn thoát như thế. Nhưng cũng cần nói thêm rằng tất cả những người kia, kể cả An Tư cũng phải hi sinh tất cả thì người này mới trốn được. Cô ta mang theo những tin tức rất quý..

    Đột nhiên Trần Nhật Duật thấy bồn chồn trong lòng. Ông đứng hẳn lại nhìn sang anh.

    - Người ấy đến hành doanh trình diện. Ta kiếm một cớ sai người ấy xuôi hương Hoằng. Chẳng may..

    Trần Nhật Duật bủn rủn cả chân tay. Ông hỏi giọng lạc hẳn đi:

    - Người hương Hoằng? Anh ơi! Sao cơ?

    - Không, không, không. Không sao cả! Chỉ là vì cùng lúc đó, đức ông Hưng Đạo lại đòi em phải về đây gấp.

    Trần Nhật Duật thở ra một hơi dài nhẹ nhõm.

    Trần Nhật Duật chợt thấy chua chát, có những việc đáng ra phải làm xong rồi mà ông đã để quá muộn chỉ vì e ngại một chút máu khác nòi hoàng tộc. Nửa năm chinh chiến đã cho ông thấy cách nghĩ ấy thật lầm lạc, thậm chí còn đáng ghét nữa. Có đem thử lửa đi nữa vàng vẫn là vàng, thau vẫn là thau.

    - Đã đi hương Hoằng rồi à?
     
    NKT91 thích bài này.
  10. Mạc Hồng Viên

    Bài viết:
    184
    Chương 19

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ẫn đường cho Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật đến Hàm Tử và dự trận đánh xong, cậu bé Hoàng Đỗ lại được lệnh triệu về Hành trung doanh ngay. Nửa đường Hoàng Đỗ đã gặp Hành trung doanh đang di chuyển. Quốc công Tiết chế Trần Quốc Tuấn sai cậu dẫn đường tắt trở lại bãi Màn Trò. Đây chính là cái bãi đã chứng kiến cả hai trận Hàm Tử và Chương Dương và là cửa ngõ về Thăng Long.

    Điều đó làm cho Hoàng Đỗ hồi hộp. Đúng là Quốc công có ý định giải phóng Thăng Long rồi!

    Hoàng Đỗ dẫn Quốc công về làng Xuân Đình, một ngôi làng nhỏ có một lũy tre xơ xác nhưng êm đềm biết bao. Cảnh quê gợi nhớ bao kỉ niệm thời thơ ấu. Nơi này chính là nơi chôn rau cắt rốn của cậu, là nơi cậu sống những ngày ấu thơ trong tủi nhục của kiếp nô tì, là nơi cậu đã lập công và được Bảo Nghĩa vương phóng thích và nhận làm em nuôi.

    Hành trung doanh bận tíu tít, Trương Hán Siêu thảo lệnh triệu hai đức ông Chiêu Minh và Trung Thành sang sông để bàn việc quân với Quốc công Hưng Đạo vương. Chắc việc quân cơ mật có nhiều điều khiến đức ông phải đắn đo suy tính nên căn lều trận của đức ông được lệnh cấm cửa. Chính Dã Tượng, viên tướng chỉ huy quân tùy tùng đứng canh.

    Đến lúc trời tối mịt, quân canh cửa dẫn đến cho Dã Tượng một người dân binh thông hiệu của hành doanh Kiêu Kỵ. Anh ta bị thương rất nặng nhưng mang về một tin rất quý. Đó là tin của Đỗ Vỹ, do thám nổi tiếng của quân ta mà Trần Quốc Tuấn đã phái đi từ trước khi có chiến sự bên kia biên giới. Đỗ Vỹ báo tin rằng mối quan hệ giữa A Lý Hải Nha và Thoát Hoan không chỉ là mối quan hệ trên dưới. Mà A Lý Hải Nha còn được Hốt Tất Liệt giao Thoát Hoan cho và bắt Thoát Hoan nhận làm thầy.

    Dã Tượng vội vào báo cho Quốc công tin đó. Chỉ thấy Quốc công trợn mắt nhìn sững. Chắc phải có điều gì trọng yếu nên đức ông mới nghĩ ngợi lung như thế chứ?

    Đêm hôm ấy Trung Thành vương và Chiêu Minh đại vương từ bên kia sông Cái sang tới Hành trung doanh. Hai đức ông trình Quốc công tình hình giặc ở vùng ven kinh thành.

    Trước hết, tin đáng lưu ý là giặc mở kho phát gạo cho binh lính. Giặc lùng sục các nhà dân trong kinh thành, cướp ruột tượng của đàn bà, cướp khăn, cướp khố của đàn ông. Chắc là để đựng gạo.

    Thứ hai là hệ thống truyền tin của giặc bằng ụ lửa hiệu cờ, đèn lồng đang hỗn loạn.

    Thứ ba là giặc giết bò kéo xe quân dụng. Thịt chia cho quân ăn ngay, và phần lớn đem sấy khô.

    Thứ tư là đồn Giang Khẩu mới dựng một cọc nêu để làm hiệu cấp cứu nếu bị tấn công. Lúc nào ở dưới chân nêu cũng có một tì tướng giặc chực sẵn.

    Đêm nay đức ông hoàng Bảy Trung Thành vương mặc áo chiến vải thâm bình thường nhưng chinh chiến chỉ làm sâu thêm cặp mắt đẹp có quầng thâm, cái mũi thêm thanh tú, vầng trán phẳng thông minh thêm ưu tư.

    Đức ông Chiêu Minh thì sâu sắc hơn, đôi mắt vốn dĩ trầm tư càng thêm cứng rắn sắc sảo.

    Căn lều trận của Trần Quốc Tuấn vốn không rộng, ông sai dẹp hết văn án và ghế, nền lều trải chiếu cói và vài tấm thảm da dê. Gần nửa đêm, Trần Quốc Tuấn sai gọi Trương Hán Siêu, Dã Tượng, Yết Kiêu đến lều trận. Đức ông Chiêu Minh cũng cho mời ông già chép sử Lê Văn Hưu, cho phép ông cùng được ngồi nghe các tướng bàn việc quân. Ông già này đã từng làm phó quan của Chiêu Minh đại vương. Năm xưa ông đỗ Bảng nhãn, đã từng làm việc trong viện Hàn lâm và viện Thái sử. Trần Quốc Tuấn vốn trạc tuổi ông già chép sử lại rất mến ông nên đã kết bạn với ông. Trần Quốc Tuấn sau mỗi lần đàm đạo với Lê Văn Hưu thường thấy lòng trầm lắng xuống. Lê Văn Hưu bàn chuyện thời xưa mà tưởng đâu như chuyện quanh mình vậy. Người ta có cảm giác mọi việc của các bậc đế vương, của công hầu, của sĩ dân đều đã được khối óc kia nghiền ngẫm kĩ lưỡng rồi thận trọng chép vào sách sử một dòng nào đó kể lại một việc có dính líu đến sự hưng phế của xã tắc, đến sự còn mất của một triều vua, đến sự thịnh suy của một dòng họ, đến danh thơm tiếng xấu nghìn đời của một con người. Sau mỗi lần đàm đạo với Lê Văn Hưu, Trần Quốc Tuấn thường tự hỏi mình xem đã thực hiểu chưa về phép tắc xét đoán trời, xét đoán người của ông già chép sử. Trần Quốc Tuấn vẫn liệt Lê Văn Hưu vào loại người ít ỏi của mỗi thời, thậm chí của nhiều thời nữa. Ông cho rằng ông già chép sử này là một bậc quốc sĩ mà những người hiểu biết hễ gặp phải kính phải nể. Vốn đã từng làm nhiều chức quan to, Lê Văn Hưu đã từng được dự hầu nghe nhiều cuộc họp bàn của các vương hầu còn đông và long trọng hơn thế này nhiều, nhưng ông già chép sử hiểu rằng cuộc họp này tuy chỉ tính có đôi nước cờ nhưng là mấy nước khá tinh tế và hiểm hóc.

    Quả có thế. Trần Quốc Tuấn vừa mới nói vài điều mà cuộc họp căng thẳng ngay.

    Ý kiến của Quốc công Tiết chế cực kì giản dị. Hiện nay, các cánh quân giặc không liên lạc được với nhau, lương thiếu, cỏ thiếu, trời nóng nực, bệnh dịch hoành hành. Tình thế này địch cần rút lui nhưng tại sao địch tỏ ra nửa muốn bỏ chạy, nửa muốn bám lấy đất này? Chính là vì cuồng vọng của địch lớn quá, bây giờ thua to đứa nào cũng lo về nước bị Hốt Tất Liệt trừng trị.

    Trần Quốc Tuấn dằn mạnh từng tiếng:

    - Binh pháp có câu: "Có thể đoạt được lòng tướng địch". Nay hai thằng giặc tâm thần bất định. Chúng muốn chạy lắm mà chưa dám chạy. Chúng chưa dám chạy thì ta xua cho chúng chạy cho nhanh.

    Hai đức ông hoàng Ba và hoàng Bảy cùng vỗ đùi khen kế diệu.

    - Thế thì phải nổ sét ngang tai thằng nhãi Thoát Hoan. Còn thì phải xuyên cho thằng giặc già A Lý Hải Nha một mũi dao găm thấu gan thấu ruột thì mới thúc thằng này phải vắt chân lên cổ mà chạy.

    Trung Thành vương chầm chậm nói:

    - Cứ như lời Quốc công ta nói thì tôi thấy đuổi thằng nhãi Thoát Hoan không gì bằng lúc này ta đốt đồn Giang Khẩu và đốt luôn đội thuyền nhẹ của nó đậu ở sông Tô Lịch.

    Các tướng cân nhắc thấy Giang Khẩu là một đồn nằm giữa vùng có nhiều đồn địch. Nếu từ đây vào Giang Khẩu sẽ phải qua mấy chục dặm rải rác nhiều đồn địch, có trại quân, có thám mã của giặc đi lại. Nếu đi bên bờ phải con sông Cái thì vướng một vùng đầm lầy và phải vượt con sông rộng mênh mông ấy nữa. Như vậy muốn diệt gọn nó thì phải tướng giỏi, quân tinh nhuệ. Trung Thành vương nghiêng đầu, đôi mắt ông thật đẹp sắc sảo đang đăm đăm nhìn một vết gì đó trên tấm thảm da dê. Cuối cùng ông nói:

    - Giang Khẩu là một đồn thấp vài trăm quân, bến thuyền cũng chỉ có vài ngũ lính canh. Ta chỉ cần một đô tinh nhuệ, nửa đêm phóng hỏa đốt đồn, đốt thuyền, chọn cung thủ giỏi rình bắn chết tướng giặc. Trận đánh ắt xong. Chỉ cần một tướng lĩnh mệnh vào Kiêu Kỵ, lấy quân của Nguyễn Chế Nghĩa đi xuyên qua rừng đa chờ chập tối sang sông. Đầu canh hai đốt đồn rồi sang sông hạ thuyền nhỏ xuôi dòng mà về đây, quân kị của giặc có nhanh tài giời cũng không đuổi nổi thuyền xuôi dòng.

    Kế này hẳn giống dự kiến của Quốc công nên thấy ông tươi mặt. Lê Văn Hưu vốn là ông già sâu sắc. Ông tò mò nhìn đức ông hoàng Bảy. Người đánh trận này phải là đức ông hoàng Bảy, vừa thuộc đường, vừa thuộc trận địa, lại chính là người bày ra kế hạ đồn này kì diệu thế. Nhưng giữa Trung Thành vương và Quốc công còn có một mối thù riêng từ thuở còn trai trẻ. Chuyện xảy ra vì một mối tình không thể chia sẻ được của lệnh bà Thiên Thành. Bây giờ lệnh bà Thiên Thành đã là vợ của Quốc công còn Trung Thành vương đã lập vương phi với một người khác rồi nhưng chuyện xưa nay còn ngang trái tới đâu?

    Đột nhiên Trần Quốc Tuấn bàn sang chuyện khác:

    - Phần thằng giặc già A Lý Hải Nha. Thằng này thao lược. Phải cho nó một đòn nặng mới được.

    Trần Quang Khải mỉm cười:

    - Đánh A Lỗ!

    A Lỗ không phải là một trại quân khó đánh. Nó là nơi tướng giặc Lưu Thế Anh đặt hành doanh chỉ huy việc tải lương và trữ lương. Quân không tinh nhuệ lại phần lớn là lính tải, lính coi ngựa, lính chèo thuyền và bọn câu kê làm sổ sách tính toán lương tiền. Đó là một trại quân ô hợp, của cải để ngổn ngang. Nếu A Lỗ bị diệt, ngựa giặc sẽ đói. Trần Quốc Tuấn tin rằng A Lỗ bị diệt ngày nào, A Lý Hải Nha chạy ngày đó. Vậy quân tinh nhuệ của ta sẽ giãn ra chọn đất mai phục. Giặc sẽ bị đánh tả tơi ở các triền sông Thiên Đức, Lục Đầu.. Giặc sẽ bị đánh tả tơi ở cửa Đầu Quỷ, ở cửa quan Anh Nhi..

    Trần Quốc Tuấn tỏ ý chí quyết chiến. Ông bảo Trương Hán Siêu:

    - Nhà ngươi về tụ tập thư nhi thảo lệnh cho các hành doanh tiến quân về các trận địa mai phục đã giao trước.

    Các đức ông ra khỏi lều trận chuẩn bị cho hai trận Giang Khẩu và A Lỗ. Theo lệnh Quốc công, dân Xuân Đình thu xếp rất nhanh hai chục chiếc thúng cóc. Ông chọn một tay cung thủ giỏi tên là Hoa Xuân Hùng cho đi theo đội quân vào Kiêu Kỵ.

    Lê Văn Hưu vẫn tò mò kín đáo nhìn Quốc công. Bỗng thấy Trần Quốc Tuấn ngoảnh nhìn Trung Thành vương và cầm lấy bàn tay nuột của ông hoàng nổi tiếng lịch sự kinh thành. Trần Quốc Tuấn trang trọng nói:

    - Ta xem chiều trời đêm mai còn chuyển gió mùa đông bắc. Có thể trời trở lạnh đôi chút. Em đem cái này đi phòng sẵn.

    Quốc công trao cho Trung Thành vương một chiếc áo ấm.

    Đêm sang đầu canh tư, không gian chuyển sang màu chì lỏng. Lê Văn Hưu cúi đầu ngẫm nghĩ. Một điều thật là đẹp đẽ đã xảy ra nhưng ông biết chép thế nào vào trong sử nhỉ?

    * * *

    Suốt một ngày hôm sau người ta thấy các cánh quân ta lên ngược về xuôi, tíu tít. Hành trung doanh làm việc hết mình để sửa soạn những trận đánh sẽ xảy ra trên đường rút chạy của giặc. Nào chuyện lương khô cho những người lính phải nằm lâu ở nơi mai phục, nào số thuyền cần thiết cho các bến đò ngang chở đỡ chân lính thông hiệu, nào đôn thúc các lộ Tam Đái, Quy Hóa nộp nứa để làm cầu phao cho các triền sông Thiên Đức, Lục Đầu, nào lấy dân phu làm gấp hai triệu mũi tên cho hành doanh Lục Đầu và làm kho cỏ vùng sông Sách dành sẵn cho đội voi trận.

    Đến chiều, Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản dẫn quân sang sông để tiến về sông Như Nguyệt. Sau đó thì tướng quân Phạm Ngũ Lão dẫn hai quân Thượng đô trảy qua để sang lộ Hồng. Phạm Ngũ Lão mang theo cả dàn trống đồng. Lính thông hiệu phi ngược xuôi hò hét:

    - Tránh ra, tránh ra cho ngựa quan trảy.

    Dân binh lộ Khoái và lộ Quốc Oai thì lại tiến về vùng giáp kinh thành để rút quân tinh nhuệ mặt trận này đem lên mai phục ở các triền sông đông bắc.

    Sẩm tối Chiêu Minh vương qua sông. Chu sư của đức ông hoàng Ba cũng đã sẵn sàng nhổ neo. Trần Quốc Tuấn đón Chiêu Minh đại vương và cùng tế ngựa ra ven sông Cái. Tiếng quân reo, tiếng tù và, pháo hiệu làm huyên náo cảnh sông vốn êm tĩnh. Chiêu Minh đại vương nói với Trần Quốc Tuấn:

    - Bên chỗ em tưởng đánh dứ mà hóa đánh thật.

    Tiếng nói bị bạt gió nên Trần Quốc Tuấn nghe không rõ phải hỏi lại:

    - Chú Ba bảo cái gì thật?

    - A.. Có nhiều trận đánh dứ để quấy rối giặc nhưng chúng nó chống cự yếu quá thành ra quân ta ùa vào đồn diệt luôn. Chúng nó hết kiếp rồi.

    Hai đức ông phá lên cười. Bên kia sông, lửa đuốc kéo giăng giăng thành nhiều đường trên cánh đồng rộng mênh mông. Đó là dân mé nam kinh thành trở về làng gặt lúa chiêm sớm. Thật là hay. Công giữ nước là của dân, bây giờ dân được hưởng.

    Đêm hè, gió lộng nên mát lạnh, hơi lạnh quá. Hiệu lửa từ hành doanh Kiêu Kỵ báo về: Đức ông Trung Thành đã đem quân lén qua sông từ lúc chạng vạng tối. Bây giờ là canh hai. Trần Quốc Tuấn bảo Trần Quang Khải:

    - Ta chờ hiệu lửa rồi lên đường là vừa. Chắc khoảng canh một trận đánh bắt đầu. Nếu đánh nhanh thì bây giờ xong rồi.

    Hai đức ông nhìn về phía Thăng Long. Có nhiều đám cháy quá. Làm sao phân biệt được là cháy gì và cháy ở đâu.

    Giữa canh ba hiệu nêu Kiêu Kỵ báo tin chiến thắng Giang Khẩu nhưng cũng vào lúc đó đoàn thúng cóc từ Thăng Long thuận dòng xuôi về Thiên Mạc cặp bến. Trung Thành vương chạy như bay lên ra mắt hai đức ông:

    - Kính lạy hai đức ông. Nhờ phúc ấm của tổ tông đồn Giang Khẩu đã ra tro, đoàn thuyền giặc đậu trên sông Tô Lịch đã ra tro, tướng giặc Mã Vinh đã bị bắn chết.

    Binh lính chung quanh reo lên:

    - Đức ông hoàng Bảy muôn tuổi. Đức ông lưu thủ kinh thành muôn tuổi.

    Trần Quốc Tuấn gỡ chiếc bài vàng chạm rồng đeo ở cổ mình choàng lên ngực Trung Thành vương.

    - Chiến chinh mới biết anh hùng. Em ta thật là hòn ngọc của họ Đông A.

    Trần Quốc Tuấn ngoảnh sang Trần Quang Khải:

    - Còn em sẽ xuôi về Thiên Trường đón ngự giá tiến quân diệt Toa Đô. Mặt Thăng Long này sẽ giao cho em lưu thủ.

    - Như vậy anh trưởng không phò giá đem quân chiến thắng về kinh thành chăng?

    - Đúng đó. Thăng Long sẽ giải phóng sớm. Bây giờ ta tiến quân đánh A Lỗ rồi sang ngay sông Lục Đầu đánh mai phục lớn. Giặc có thể còn sang phục thù cho nên ngay lần này phải đánh cho tan niềm tin vô địch của chúng.

    Trần Quốc Tuấn dặn ông già Lê Văn Hưu:

    - Tiên sinh đi theo đức ông Chiêu Minh. Lễ ban sư hội triều sẽ cực kì long trọng, cần đến sử bút của tiên sinh.. Rồi có thể lúc đó đức ông Chiêu Minh nổi hứng sẽ làm được một vần thơ tuyệt diệu. Tiên sinh sẽ chép bài thơ tráng khí võ công ấy vào chính sử cho muôn đời sau.

    Trần Quốc Tuấn ra lệnh cho Hành trung doanh lên đường. Hành trung doanh tiến về phía A Lỗ.

    Lệnh lên đường đến hành doanh của Chiêu Văn vương lúc trưa. Đầu tiên là các đạo quân sơn cước phải hỏa tốc về ngay đất cũ. Thế là Hoàng Mãnh và Hà Chương ra đi. Hoàng Mãnh đến từ biệt Chiêu Văn vương. Viên hổ tướng dũng thủ vô địch kinh thành đã bị thương trong trận Hàm Tử. Một nhát kiếm chém trúng bả vai, nhát kiếm ấy lẽ ra giáng trúng cổ Trần Nhật Duật. Vết thương ở vùng thịt mềm, không nặng lắm và đã được dịt thuốc dấu. Nó cũng chẳng làm cho tính của Hoàng Mãnh đổi đi tí nào. Anh chàng Minh tự ngang ngược tinh ma cười nói với ông anh lúc chia li:

    - Thế là anh lại xuôi nam, em lên bắc. Sao mà khéo thế!

    Như vậy có hai khu vực quyết chiến. Một ở đông bắc, một ở vùng hạ lưu sông Cái. Ở khu vực này quân ta sẽ đánh tiêu diệt tàn quân của Toa Đô.

    Trần Nhật Duật được tin hai vua sẽ ngự giá thân chinh đánh thắng Toa Đô và ông được cử làm quan tướng hộ giá, có nghĩa là bộ não của đạo ngự binh tinh nhuệ.

    Trần Nhật Duật ra ngay những mệnh lệnh khẩn cấp. Phát lương khô cho tất cả quân tướng trong đạo quân riêng. Sửa soạn buồm lái cho tất cả thuyền bè. Đưa các binh tướng bị thương vào các làng xa nhờ dân làng chăm sóc giùm.

    Binh lính reo mừng nhận lệnh. Ai nấy lăn xả vào công việc sửa soạn đi chiến trường mới.

    Mờ sáng hôm sau, Trần Nhật Duật ra lệnh cho đạo quân của ông lên đường. Một cánh quân bộ thì đi đường thượng đạo. Còn cánh quân chính hành binh bằng đường thủy theo sông Cái. Thuyền tướng treo hiệu phướn của Chiêu Văn vương. Đoàn thuyền của đức ông hộ giá lên đường. Những lá buồm nâu dữ dội căng gió. Thuyền bồng bềnh dàn rộng ra trên mặt sông mênh mang. Trống đồng đánh điệu xuất quân hùng tráng. Binh lính đứng trên sạp thuyền, mui thuyền cất tiếng hò một điệu sông xa:

    Hò.. ơ.. ơ

    Làng tôi có bãi dâu xanh.

    Có nàng dệt lụa nghĩa tình sắt son

    Ơ.. ơ

    Nàng ơi nuôi mẹ, dạy con

    Anh đi đánh giặc, giặc tan anh sẽ về..

    Hò.. ơ.. ơ

    Đoàn thuyền thuận dòng xuôi băng băng. Trần Nhật Duật lên đứng trên mui thuyền tướng nhìn về hướng trước mặt. Đó là vùng hạ lưu sông Cái nơi ông làm tròn một tướng mệnh mới. Xa hơn nữa một chút là lộ Thanh Hóa Ngoại. Lộ Thanh Hóa Ngoại có hương Hoằng và một người con gái làng biển hiền hậu, dũng cảm, sắt son..

    -☆-The End-☆-​
     
Từ Khóa:
Trả lời qua Facebook
Đang tải...