NGƯỜI THĂNG LONG Tác giả: Hà Ân Thể loại: Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam. Số chương: 19 Người sưu tầm: Mạc Hồng Viên Link thảo luận: [Thảo Luận - Góp Ý] - Các Tác Phẩm Sáng Tác Của Mạc Hồng Viên Văn án: Các bạn trẻ đã quá quen thuộc với những câu chuyện lịch sử, tiểu thuyết, phim cổ trang.. của Trung Quốc hằng ngày chiếu trên tivi, youtube hay share trên mạng xã hội. Tuy vậy riêng mình vẫn thích những câu chuyện của Việt Nam hơn, đặc biệt là những trận chiến hào hùng chống giặc ngoại xâm. Vì thế hôm nay mình xin phép gửi đến cho các bạn bộ tiểu thuyết yêu thích nhất của mình. Bộ truyện được nhà văn Hà Ân dành suốt hai mươi năm tâm huyết chỉ để mang lại cho độc giả phần nào đó cảm giác sống lại một thời oanh liệt của cha ông chúng ta. Tiểu thuyết Người Thăng Long gồm 19 chương, khắc họa lại quá trình chuẩn bị cũng như diễn biến cuộc chiến chống quân Nguyên Mông của dân tộc ta dưới sự dẫn dắt của triều đình nhà Trần. Hãy cùng mình thưởng thức bộ truyện này nhé!
Chương 1 Bấm để xem Trời đã về chiều. Rặng Yên Tử xa xa đã sẫm màu, một màu tím mơ màng, bí mật. Một người cưỡi ngựa phi nước kiệu trên con đê thấp viền dòng sông Lục Đầu, hai bên trồng một giống nhãn gốc to, thân vặn cong xuống, tán thật thấp, lá cành lòa xòa cả ra giữa mặt đê. Những con chuồn chuồn "đi tu", bay đứng im lìm trên không trung, chỉ có đôi cánh khẽ run rẩy. - Trời lại sắp trở gió. Không biết ta có về kịp Côn Sơn đêm nay không? Kị sĩ ngước lên nhìn trời dày đặc mây đen xám. Gió xuân đông bắc vẫn dìu dặt thổi về chợt lạnh, chợt ấm đưa hương nhãn sực nức không gian. Đến cái điếm hộ đê vắng teo, kị sĩ ghìm ngựa lại. Con ngựa đang mải nước phi, bực dọc gục gặc cổ hầm hừ. Kị sĩ cả cười, vỗ yêu lên cổ ngựa. Nó thật là một con tuấn mã. Màu lông đen nhưng nhức, chỉ có một vệt trắng từ khấu đuôi đến lưng chừng bộ lông đuôi cong lên đúng kiểu tướng ngựa tranh tiên nhưng cũng không muốn có con ngựa nào khác chạy liền kế ngay sau mình. Cái đầu con ngựa nhỏ, gầy, gân guốc, hai lỗ mũi nở rộng hếch lên như hất lửa. Ức nó rộng, mông tròn, bốn vó dài, nhỏ như chân hươu rê những chiếc móng tròn xoe dày lên, xéo lên những nụ hoa nhãn rụng đầy mặt đất. - Đừng nổi giận, đừng nổi giận, con trai yêu của ta. Rồi con sẽ được phi cho thỏa bốn vó đuổi gió của con mà. Nào đứng cho yên đi con. Kị sĩ ngọt ngào dỗ con ngựa quý. Anh ta ăn mặc quá ư xuềnh xoàng, một bộ quần áo nâu đã bạc nhưng may chẽn. Đầu chít một chiếc khăn màu tam giang bằng là, chiếc khăn chít thật khéo, hai nếp đầu xếp chéo lên nhau thành một chữ nhân hơi lệch trên vầng trán rám phong sương nom thật duyên dáng giang hồ. Ngang lưng kị sĩ thắt một chiếc thắt lưng vải bình thường màu đen cài một thanh kiếm ngắn vỏ gỗ có ken những khuyên bằng mây chẻ nhỏ. Kị sĩ đi một đôi hia nhẹ bằng da dê núi, đế bằng nhưng mũi nhọn, chắc rằng dưới lần da dê phải có mũi bằng sắt. Kị sĩ buộc con ngựa vào gốc nhãn rồi đi sang mé đê bên kia. Từ đây có thể nhìn thấy dễ dàng phong cảnh chung quanh Kiếp Bạc. Một dãy núi đất năm ngọn không cao lắm chắn mặt sau thung lũng. Mé trước có hai mỏm núi chắn hai đầu, chân núi ăn liền ra tới bờ sông. Bên trong thung lũng, dựa lưng vào một quả đồi nhỏ, ẩn sau những vòm cây ăn quả, những mái nhà của trang trại Vạn Kiếp phô màu ngói đã cũ với thời gian. Từ đây về tới Côn Sơn, chỉ có nơi này tiện ngay bên đường có thể nghỉ chân một đêm được. Chủ nhân trang trại là đức ông Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn cũng nổi tiếng là người trọng hiền, hiếu khách.. - Nhưng.. - kị sĩ vụt cười lớn: - nhưng ta không bao giờ muốn để chân vào đất của các vương hầu, mặc dù trong thái ấp giàu sang kia ta có một người bạn tri kỉ. Lúc kị sĩ cười, người ta mới thấy tất cả vẻ đẹp phong trần của một chàng trai trẻ nhưng đã sớm phiêu lãng nhiều năm. Chính lúc cười kị sĩ mới tỏ ra mình chỉ mới hai mươi lăm tuổi là cùng. - Chẳng thà ta ngủ ngồi, dựa lưng vào một gốc cây. Kị sĩ lại cười lên ha hả. Bất chợt anh ta thôi cười. Anh ta vừa nhìn thấy một đám người đang làm lụng bên một dòng suối nhỏ. Nhìn họ làm, mặc dù công việc mới nửa chừng nhưng kị sĩ cũng hiểu rằng họ đang lắp một cái cọn nước để lấy nước tưới cho những thửa ruộng cao nằm sát chỏm núi ngoài cùng phía bắc. - Đáng ra phải làm cái cọn ở trên mấy chục trượng nữa thì mới dùng được cho cả những thửa ruộng kia.. Hay là họ.. họ còn định làm thêm cái cọn nữa. - Ô kìa! Một tiếng reo bên tai làm cho kị sĩ giật mình quay lại. Một người trẻ tuổi mặc áo lụa thâm lịch sự, vai đeo một chiếc hồ rượu, tay cầm một chiếc sáo trúc đang trịnh trọng và thân mật vái chào: - Trời ơi, đúng là hiền huynh rồi. Sáng nay tiểu đệ thấy cây lan tiêu nở bông hoa cực đẹp, tiểu đệ đoán ngay rằng sẽ có khách quý tới thăm. Nhưng tiểu đệ không ngờ rằng khách quý lại chính là hiền huynh. - Không đâu. Hiền đệ không lạ gì ta, chiếc thân phiêu bạt không quen nghi lễ phiền toái đài các ở các thái ấp. Ta định đi Côn Sơn rồi ta nhắn hiền đệ xuống đó cùng ta trèo núi Phượng Hoàng hái thuốc. Cữ này mưa xuân, nhiều giống thuốc đang nở hoa, chính là lúc phải hái để dùng dần. Rồi kị sĩ lùi lại mấy bước ngắm người bạn: - Trời ơi, ta thấy hiền đệ khác xa cái hôm hiền đệ cùng với ta xem chọi trâu ở Đồ Sơn. Bữa ấy, nom hiền đệ.. còn.. lãng tử hơn ta. Thế mà bây giờ thì.. - Thì sao hiền huynh? - Thì đúng là khách công hầu rồi. Hiền đệ bây giờ thật đúng là Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng, vương tử thứ ba của đức ông chúa thái ấp Vạn Kiếp kia kìa. Lại còn văn hài vóc thâm nữa chứ. Đã hài vóc lại còn thêu bướm lượn bướm bay. Chết nỗi, ta đâm sợ cho thân ta đã từng dám suồng sã với hiền đệ như hai kẻ du đãng coi trời bằng vung. Trần Quốc Tảng - chính là đức ông vương tử thứ ba của thái ấp Vạn Kiếp - cũng cả cười: - Qua sông phải lụy đò thôi. Hiền huynh ơi, mặc dù hiền huynh mắng mỏ thế nào tiểu đệ cũng phải chịu nhưng hôm nay thì hiền huynh phải lưu lại đây cho tiểu đệ được hầu rượu. - Rượu thì có bao giờ ta chê. Nhưng thôi, hiền đệ đừng bắt ta bỏ lời nguyền cũ. Ta rất hiểu hiền đệ cho nên ta mới kết bạn tri kỉ với hiền đệ. Hiền đệ có nhớ hôm gặp nhau lần đầu tiên không? - Tiểu đệ quên làm sao được.. Trần Quốc Tảng vốn là một chàng trai quý tộc nhưng tính rất phóng khoáng, ưa thích cuộc đời lãng du đầy những bất ngờ ở bốn phương trời. Là một người văn võ toàn tài, Trần Quốc Tảng cứ một ngựa, một kiếm ngắn ăn mặc xuềnh xoàng đi lang thang khắp nơi. Xem hội, xem phong cảnh, vào núi sâu đàm đạo với các bậc cao tăng, ẩn sĩ hoặc uống rượu trong một cái quán giữa đường cùng với những kị sĩ du khách quen thói không nhà không cửa. Cách đây ba năm, Trần Quốc Tảng ra chơi đảo Vân Đồn. Đúng vào cữ trăng sáng. Trần Quốc Tảng lên dải đá lô xô ven đảo tìm ra một mỏm ở tít ngoài xa. Anh định thưởng trăng một mình ở đó. Nào ngờ, đêm ấy bọn buôn lậu Lôi Châu cũng hẹn gặp nhau để bàn bạc về chuyến hàng sắp tới. Thấy có người lạ mặt, chúng định giết đi để khỏi lộ chuyện. Trần Quốc Tảng là tay kiếm tuyệt luân nhưng bọn buôn lậu đông hơn mười đứa, chúng cũng là bọn giỏi võ. Trận đánh diễn ra trên những tảng đá bám đầy hà sắc như dao. Tiếng kiếm chạm nhau chan chát, lửa toé ra rợn người. Sức đôi bên chênh lệch nên Trần Quốc Tảng phải vừa đánh vừa lùi và lựa thế sao cho mình chỉ phải đối phó với một, hai tên trước mặt. Anh đã chém ngã ba tên nhưng không vì thế mà bớt phần nguy hiểm. Ngược lại, sức anh giảm sút và bọn gian tỏa rộng ra vây tròn anh lại. Chính lúc nguy cấp ấy có tiếng thét vang động: "Quân đạo tặc, sao dám lộng hành!". Rồi một người từ ngoài vòng vây xông vào giúp cho Trần Quốc Tảng nhảy vọt khỏi vòng vây. Sau đó cả hai mau chóng chuyền nhảy trên những mỏm đá chạy vào bãi cát. Trần Quốc Tảng về ngay đồn binh của trấn quan Vân Đồn. Viên tướng trấn thủ lập tức đưa một số lính tuyển phong chia thành nhiều đường vây bắt quân gian. Tới mờ sáng bọn gian bị bắt giam hết. Trần Quốc Tảng tìm ân nhân để cảm tạ nhưng người ấy đã bỏ đi từ lâu. Anh hối hận mãi. May sao, chỉ ba hôm sau, trong phiên chợ ngọc trai bên Hòn Én, Trần Quốc Tảng nhận ra ân nhân của mình đang say mê nghe một người hát xẩm già chơi đàn bầu. Trần Quốc Tảng đã chân thành cảm tạ. Chính vì sự chân thành đó mà người kia bằng lòng kết bạn với Trần Quốc Tảng nhưng với một điều kiện: Không người nào được làm phiền người nào. Người ấy, xưng tên là Đỗ Vỹ, không nói một li về gốc tích quê quán. Hai người mau chóng trở thành bạn thân. Có lẽ đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng trong đời, Trần Quốc Tảng gặp một người mà đức ông trẻ tuổi kiêu hãnh ấy phải kính phục về tài năng, về tầm hiểu biết, về sự lịch lãm việc đời, về cả tâm hồn sâu xa mà không độc ác, ôn hòa chính đính mà không chấp nê. Hai người thân nhau tới mức mỗi khi có việc gì cần tới sự giúp đỡ của Đỗ Vỹ, Trần Quốc Tảng chỉ cần nhắn người báo tin là việc tất xong. Với con người hành tung kì bí như Đỗ Vỹ, việc gì anh cũng làm dễ như trở bàn tay. Hình như anh quen đủ mọi hạng người trong thiên hạ, kể cả những người ở bên kia biên giới nữa, mà mức độ thân quen đến không từ nan việc gì hết. - Sở dĩ ta xuống ngựa chỉ để ngắm xem thế đất nơi đây. Ta có nghe nhiều người tin ở phong thủy nói kiểu đất này đẹp lắm. - Thế hiền huynh cũng tin ở thuật phong thủy à? - Không đâu, ngay kiểu đất mộ tổ dòng họ nhà hiền đệ ta cũng đã ngó qua. Chẳng qua có những kẻ không vừa lòng với việc dòng họ Trần giữ ngôi nước này nên họ đặt điều bêu xấu chứ sự thật có như lời đồn đại đâu. Nhắc tới chuyện kiểu đất mộ tổ, chắc chắn rằng Đỗ Vỹ không có ý chế giễu, nhưng Trần Quốc Tảng dù là người khoáng đạt cũng phải ngượng ngùng. Ngôi mộ này nằm ở địa phận xã Thái Đường phủ Long Hưng. Mộ táng từ trước đây hàng bảy tám đời, từ cái thuở dòng họ Trần mới chỉ là một dòng họ chuyên làm nghề chài cá và buôn biển. Chắc chắn rằng khi đó táng ngôi mộ không ai nghĩ đến đất này phát đế vương. Nhưng khi họ Trần lên thay nhà Lý nắm giữ ngôi báu thì bỗng có tin đồn trong thiên hạ rằng sở dĩ như vậy là vì ngôi mộ này kết phát. Người ta truyền tụng nhau: "Phấn đại dương giao chiếu. Liên hoa đối diện sinh. Tha nhật dĩ sắc đắc thiên hạ", có nghĩa là: Phấn son chiếu về. Hoa sen nở trước mặt, ngày sau nhờ sắc đẹp đàn bà mà lấy được thiên hạ. Chao ôi chỉ có những cái gò lổn nhổn bày biện chung quanh ngôi mộ mà người này đoán là hoa sen, là phấn son còn người khác thì lại đoán là thanh kiếm, cái ấn. Nhưng đoán là son phấn và hoa sen thì quả là có ác ý. Chắc rằng họ ám chỉ đến sự việc cuối đời Lý có loạn, thái tử Sảm phải bỏ kinh thành chạy về Long Hưng. Nhà dân chài họ Trần đón thái tử về nuôi và che chở. Khi ấy họ Trần đã giàu có lắm rồi. Trong họ lại nhiều người đi buôn biển nên lịch lãm giang hồ, giỏi võ, giao thiệp rộng, nhìn cũng xa, mưu cũng lớn. Họ tính chuyện buôn vua. Họ đem Trần Thị Dung, cô gái xinh nhất họ, gả cho cái anh con vua đang chạy loạn thất cơ lỡ vận. Rồi họ Trần xuất của nhà ra mộ lính hưng binh phò thái tử Sảm về kinh lên ngôi vua. Sảm thành vua thì Trần Thị Dung dĩ nhiên phải trở thành hoàng hậu. Giả sử không có chuyện hôn nhân trên thì làm sao họ Trần rời được cái vạn chài Cửa Bố về được kinh nắm giữ hầu hết những chức vụ quan trọng trong triều rồi thừa thời cơ mà nắm lấy ngôi vua được. Vì triều Trần lập nên không từ một võ công dựng nước như các dòng họ khác nên vẫn có nhiều người còn nhớ đến các vua Lý. Từ chỗ bất phục dẫn đến đặt chuyện để giễu cợt chơi. Không để ý đến vẻ mặt Trần Quốc Tảng, Đỗ Vỹ ngắm nghía chăm chú thế đất Vạn Kiếp: - Này hiền đệ xem, có đúng là: "Đầu gối ngũ nhạc chân đạp phượng hoàng, tả có Bắc Đẩu, hữu có Nam Tào" không? Ta thì không tin rằng thế đất này là thế đất làm tướng nhưng ta thấy đây quả là đất dụng võ. - Ấy thế mà thân phụ của tiểu đệ coi trọng việc trồng trọt trong thung lũng này hơn đấy. - Không phải là trọng hơn mà là tùy thời cơ đó thôi. Cái cọn nước kia sở dĩ có vì bây giờ cần nhiều thóc lúa nuôi tráng đinh trong thái ấp. Mà nếu phải dụng võ cũng phải nuôi quân no. Kìa, họ đã nghỉ tay rồi sao? - Không, đã xong thế nào được. Cọn dựng rồi còn phải buộc các ống múc nữa cơ mà. Kìa, cái người mặc áo dài nâu kia chính là thân phụ tiểu đệ. Đỗ Vỹ nghển cổ nhìn. Anh cũng không ngờ một bậc vương gia lừng lẫy như Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn cũng coi trọng nghề nông tới mức đích thân coi sóc việc đặt một cái cọn nước. Đàng xa, Trần Quốc Tuấn đang giơ tay giơ chân làm hiệu - chắc rằng ông đang chỉ dẫn cho những gia nô đứng chung quanh. Họ đang nghỉ tay nhưng quần áo xắn gọn vẫn để y nguyên, như vậy là họ còn làm nữa. Trần Quốc Tảng còn đang chăm chú nhìn bố thì Đỗ Vỹ chợt cười: - Ta nói đúng mà. Ta đâu có phải là khách của thái ấp Vạn Kiếp, khách quý của thái ấp ngày hôm nay đang đến kia kìa. Trần Quốc Tảng nhìn theo tay chỉ của Đỗ Vỹ. Trên sông, ba chiếc thuyền buồm đang rẽ sóng vào bến. Rõ ràng đây là những chiếc quan thuyền. Chiếc thuyền nào cũng cắm cờ đỏ khé và thủy thủ mặc nhung phục của lính trạo nhi. Trên mũi thuyền đi đầu có một văn quan mặc áo màu đại hồng. - Tại sao hiền huynh biết chắc rằng những người này đến thái ấp Vạn Kiếp? - Có gì là khó đoán đâu. Hiền đệ thử xem, trên mũi quan thuyền thứ hai kia có cái biển gì sơn son, đúng là cái biển "Khâm sai truyền chỉ" không? Rồi hiền đệ cố đoán xem quan khâm sai kia là ai? - Ờ.. quan học sĩ Đinh Củng Viên. Thế thì quả là họ vào chỗ thân phụ của em rồi. - Chứ còn đi đâu nữa. Cả một dải đông bắc này có nhà ai mà hoàng thượng phải sai quan khâm sai đến truyền chỉ nào? Đoàn quan thuyền đã vào bến. Những người lính dẫn lộ biển "Khâm sai" đã lên bờ. Họ dàn những lá cờ đại đi trước rồi đến trống mở đường. Hai chiếc lọng vàng che chênh vênh bên trên cái biển sơn son chữ vàng. Quan khâm sai trịnh trọng đi ngay bên dưới biển, hai bên ngài có hai ngũ lính ngự lâm vác kiếm tuốt trần hộ vệ. - Kì này thì thân phụ của hiền đệ chắc chẳng còn thì giờ đâu mà lo những chiếc cọn nước nữa. - Tại sao vậy hiền huynh? - Tại vì có việc trọng yếu tới mức phải cần đến đức ông Hưng Đạo. Có thể một là phải tiếp sứ, hoặc hai là.. - Hai là sao cơ hiền huynh? - Hai là sắp phải dụng binh. Mà ta nghĩ có lẽ vì cả hai lí do. Tháng trước khi chơi bên bán đảo Lôi Châu, ta đã được chứng kiến họ bắt lính dân chài và trưng dụng thuyền vận tải đường biển. Đỗ Vỹ nhìn chăm chăm người bạn không phân biệt vị thế rồi tiếp: - Có thể cả hiền đệ cũng sẽ không còn dịp đi chơi hội xuân này ở vùng biển nữa đâu. Nếu đúng như phán đoán, nếu đến mức phải triệu đến đức ông Hưng Đạo lên kinh cũng có nghĩa là phải cần đến tất cả các đức ông chi Vạn Kiếp đó. Bên dưới ruộng, những người làm cọn nước cũng được biết tin có khách đến. Họ tất tả kéo nhau tắt cánh đồng chạy về trang trại nằm dựa lưng vào núi Ngũ Nhạc. Đỗ Vỹ cả cười: - Nếu mai hiền đệ rảnh thì xuống Côn Sơn, còn nếu bận thì thôi. Bây giờ thì ta đi đây. Đỗ Vỹ cởi cương ngựa nhảy phắt lên yên. Con tuấn mã hí dài trước khi sải vó phi nhanh. Đỗ Vỹ giơ cao roi ngựa chào từ biệt..
Chương 2 Bấm để xem Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật mới từ lộ Đà Giang về kinh đêm hôm qua nhưng phủ Chiêu Văn đã nhộn nhạo quay cuồng như một đàn ong động tổ. Gia tướng, thư nhi, thị nữ, gia nô, người nào cũng tất bật để làm cho xong được quá nhiều mệnh lệnh của đức ông hoàng Sáu. Hàng loạt rèm lụa màu cốm non bị tháo xuống, thay vào đó là những tấm mành trúc nan vót cầu kì, sản phẩm tuyệt tác của các cô gái sơn cước. Những người thị nữ chầu hầu hối hả trải lên mặt những án thư, văn kỉ những tấm gấm thổ dệt cách ô đen đỏ. Những lưỡi giáo Chiêm Thành gác trên vách cho đẹp cũng được gỡ xuống. Người ta dùng lụa màu kết hoa mẫu đơn treo những chiếc khèn lau, những lưỡi dao Lão Qua vỏ tre, một cái tù và sừng trâu rừng bịt đồng thau thô sơ.. Lính trạo nhi dùng xe trâu chở từ bến Đông về phủ đệ những chậu cây quý lấy giống từ rừng đại ngàn. Các thư nhi tất bật đo đạc ngoài vườn, trồng lại vườn theo ý của Trần Nhật Duật. Đức ông hoàng Sáu treo giải thưởng thật hậu cho những ai tìm được những tên đẹp, tên hay để đặt tên cho những giống cây lạ mới đem về hôm trước. Dưới bếp còn tíu tít hơn nữa. Ai cũng biết rằng khi Trần Nhật Duật có mặt ở phủ đệ kinh kì ngày nào là ngày ấy ông thết tiệc. Khách công hầu, khách văn chương, khách nước ngoài đang vì việc công hoặc việc riêng mà có mặt ở Thăng Long đều lui tới vương phủ Chiêu Văn. Trần Nhật Duật nổi tiếng hiếu khách. Ông tiếp họ rất niềm nở đậm đà, có khi hết sức chí tình nếu như người khách đó chỉ là một hàn sĩ. Sau những ngày vắng người chủ hào hoa, vương phủ Chiêu Văn bận rộn tíu tít.. Nhưng trong lúc đó, Trần Nhật Duật đang mải mê xem ngựa ở tàu ngựa mé sau phủ đệ. Đức ông có một tàu ngựa riêng mấy chục con tuấn mã. Con ngựa này bền sức để đi đường xa, con này gân guốc linh hoạt chuyên dùng để cưỡi đi săn đuổi, con này ngoan dùng để đi chơi phố phường đông người, con này để cưỡi khi đánh phết, con này dạn khói lửa để cưỡi ra trận. Mỗi con một nết, mỗi con một sở trường, mỗi con một sắc lông mà con nào cũng đẹp như ngựa vẽ trong tranh. Ngay ông Tô Nghĩa Đông nổi tiếng là tay xem tướng ngựa sành nhất hai nước Tống- Việt cũng khó mà kiếm được một tật để chê ngựa của đức ông hoàng Sáu, Ấy thế mà hôm nay Trần Nhật Duật và bọn thị mã gia tướng phải ngắm không rời mắt một con ngựa mới. Con ngựa này do một người buôn biển, dân châu Ô cực nam, biếu Trần Nhật Duật làm lễ ra mắt khi đoàn thuyền buôn của ông ta cập bến Đông và được Trần Nhật Duật chỉ bảo cho cách thức trình báo với ty Đại an phủ sứ coi quản mọi công việc ở kinh thành. Con ngựa mới hai tuổi, gầy, bộ lông đen xù lên và xơ xác nhưng nó rất cao, mình trường, bốn vó dài mảnh và bộ lông đuôi cong ngay từ khấu nom như đuôi gà trống. Có lẽ người Thăng Long chưa từng nhìn thấy con ngựa nào cao và trường mình đến thế. Ngay cái vệt vá trắng dọc từ trán xuống đến mũi nó cũng rất lạ. Con ngựa bây giờ xấu mã nhưng chắc chắn chăm vỗ vài tháng sẽ thành một con vật mà tất cả khách phong lưu mã thượng kinh thành phải thèm thuồng tuyệt vọng. Trần Nhật Duật bẻ một nắm thân cây mía non dứ con ngựa: - Ăn đi! Ăn đi! Này bọn bay, đã có lần ta gặp một con ngựa cũng màu lông ô như thế này. Đó thật là một con tuấn mã. Chỉ khác là nó có một vệt trắng từ khấu đến lưng chừng đuôi. Con ngựa ấy tuyệt hảo nhưng nó còn không cao và không trường mình bằng con này. Một thị mã thường được tùy tùng Trần Nhật Duật trong những lần đi xa kinh thành hỏi: - Thưa đức ông, có phải con ngựa mà đức ông trả giá hai trăm quan tiền và các luôn cả thanh kiếm quý Bạch Lộ không ạ? - Ừ, đúng đó. Mà ta chưa hề thấy thằng cha nào cao ngạo như cái thằng chủ con ngựa ấy. Mi có nhớ hắn hỏi ta câu gì để thay câu trả lời không? Hắn hỏi thế này chứ: "Nếu túc hạ có may mắn làm chủ một con ngựa như thế này thì túc hạ có đem bán nó đi không?" - Thế thì tôi nhớ ra rồi. Khi ấy đức ông hỏi vặn hắn rằng: "Thế thì tại sao túc hạ có nó được?". Hắn ta trả lời: "Tại vì người ta quý kẻ hèn này mà tặng thôi." - Ừ đúng rồi, ta tức lắm nhưng ta phải nhận hắn nói đúng. Tuấn mã nhường ấy chỉ có tặng nhau chứ đâu có đem bán. Nhưng này, - đức ông hỏi các thị mã, - đặt tên cho con ngựa này là gì nào? Thị mã cận vệ Hoàng Mãnh, viên gia tướng trẻ thân cận tranh nói ngay: - Bẩm đức ông, em muốn gọi tên nó là Hắc Long Câu. - Hừ. Ngựa đen đuôi rồng! Thường quá! Con ngựa đánh phết của đức ông Chiêu Quốc cũng đã được đặt tên là Hồng Long Câu rồi mà. Hoàng Mãnh vốn cùng tuổi với Trần Nhật Duật, anh đã được Nội cung chọn theo hầu đức ông hoàng Sáu từ khi đức ông mới lẫm chẫm biết đi. Thực ra Mãnh là bạn chơi đùa, cùng học, cùng tập côn quyền, cùng ăn, cùng ngủ với Trần Nhật Duật. Khi Trần Nhật Duật lớn lên được phong vương, vua cha đưa ông ra khỏi hoàng thành mở phủ Chiêu Văn cho hoàng tử ở, Hoàng Mãnh cũng được đi theo. Nhưng vị thế hai người bây giờ khác nhau như nước với lửa. Tuy cả hai người đều phải giữ lễ nhưng thực ra Trần Nhật Duật vẫn coi Hoàng Mãnh như một người em đồng nhũ đồng tuế, một người bạn tâm phúc tương tri. Những lúc vắng người hai anh em vẫn thường suồng sã với nhau. Bây giờ cũng vậy, Hoàng Mãnh buột miệng: - Thế thì mình gọi quách.. Bẩm đức ông, hay ta đặt cho nó một cái tên nôm. - Ừ, các ngươi cùng nghĩ thử xem. Các thị mã ồn lên tranh nhau nói. Người thì muốn ngựa mang tên là Ô Lĩnh, nhưng người khác thì chỉ muốn gọi là Ô không thôi. Người thì khen con ngựa có tầm cao như thế thì phải đặt tên nó là Nêu Tết. Có người thì bảo nó có cái vệt trắng ở mũi sao không đặt tên nó là con Vá làm cho tất cả cười ồ lên chế giễu anh ta lầm ngựa thành chó. Trần Nhật Duật vỗ lên ót ngựa và cảm thấy gân thịt nó rắn đanh. Ông hoàng trẻ thốt reo lên: - Phải rồi! Nó là con ngựa ta sẽ cưỡi đi trận. Ta sẽ gọi nó là con Bão Đêm. Mấy anh thị mã trong bụng có anh thích có anh không thích nhưng đều đồng thanh rú lên: - Bão Đêm! Hay quá, Bão Đêm, mạnh, dữ, ác liệt và bí mật như cơn Bão Đêm. Con mắt Hoàng Mãnh tinh nghịch loé sáng lên liếc ngang: - Bẩm đức ông! Ta thách đức ông Chiêu Quốc để trả nợ lần trước. Nghe đến thi ngựa, Trần Nhật Duật mặt sa sầm xuống. Ông hoàng trẻ nhớ lại lần thi ngựa mấy tháng trước đây ngoài bãi sông Cơ Xá với Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc. Trần Nhật Duật và Trần Ích Tắc là hai anh em cùng một mẹ sinh ra. Ích Tắc tuy chỉ hơn Nhật Duật một tuổi nhưng bao giờ cũng là người đầu têu các trò nghịch ngợm lúc nhỏ tuổi, khi lớn lên vẫn là người dẫn đầu việc học võ, học văn, việc chiêu nạp tân khách, thủ hạ, việc mở hội bình văn cho đến việc ăn mặc, việc bày biện trang trí trong phủ đệ. Có thể nói từ lễ nhạc, bắn cung, cưỡi ngựa, làm thơ, đến các món tạp kĩ như đánh cờ tướng, đá cầu, luyện ngựa, luyện chó săn, nuôi chim, vẽ tranh sơn thủy, nghề nào Ích Tắc cũng giỏi, cũng hay hoặc cũng có một chút gì dị biệt để chỉ dẫn cho Trần Nhật Duật, dù tí chút dị biệt ấy đôi khi chính Trần Ích Tắc cũng không cho là đúng. Ba tháng trước Trần Ích Tắc nhân một chuyến săn đuổi với Trần Nhật Duật ở rừng dâu da bờ trái con sông Thiên Đức có ngỏ ý khen các con ngựa của tàu ngựa phủ Chiêu Văn. Sau đó Trần Ích Tắc rủ Trần Nhật Duật thi ngựa ở bãi sông Cơ Xá. Cả ba lần thi (thi chạy nhanh, thi vượt rào, thi bền sức) con Hồng Long Câu đều thắng cuộc con ngựa nhất tàu ngựa phủ Chiêu Văn. Sau cuộc thi Trần Ích Tắc bảo Trần Nhật Duật: - Em luyện ngựa rất khá. Ngựa của tàu ngựa vương phủ Chiêu Văn vào loại nhất nước nhưng ngựa nước mình sánh thế nào được với con Hồng Long Câu. Đúng thế, con Hồng Long Câu là tặng vật của viên quan Đạt Lỗ Hoa Xích Buyan Têmua cho Trần Ích Tắc năm ngoái. Viên quan nhà Nguyên chịu trách nhiệm giám sát triều đình ta đã nói với Trần Ích Tắc buổi tặng ngựa: - Thế là Điện hạ có một con ngựa độc tôn ở nước này. Nó ra đời trên thảm cỏ thiêng bên bờ sông Ô Nôn nơi tiên đế Thiết Mộc Chân được chín tộc Mông Cổ suy tôn là Thành Cát Tư Hãn. Nó lại được chọn đưa về tàu ngựa ngự của Thánh Thiên Tử Hoàng đế nhà Đại Nguyên và của cả thiên hạ nữa. Đưa nó xuống nước Việt này mất biết bao công phu. Dọc đường đi, nó đã uống nước sông Hoài, sông Hán, sông Hoàng và sông Dương Tử. Nó đã ăn đậu Ngạc Châu, ăn kê Giang Lăng, ăn thóc Châu Ung, ăn cỏ Quế Châu. Thế cơ đấy! Ý của viên Đạt Lỗ Hoa Xích là muốn nhắc khéo cho Trần Ích Tắc biết rằng hoàng đế nhà Đại Nguyên có biệt nhỡn với hoàng thân Chiêu Quốc nhưng ban ngựa quý khôn khéo như một tặng vật thông thường của Đạt Lỗ Hoa Xích cho những người của triều đình Đại Việt phụng mệnh tiếp sứ. Con ngựa quả là một con vật quý giá. Tuy nó còn non, chỉ mới hơn hai tuổi nhưng nó đã có đầy đủ đức tính của một con ngựa đáng giá ngàn vàng: Chạy nhanh, bền sức, chân vững chãi, pháo nổ không giật mình. Chỉ phải mỗi cái tội là nó khảnh ăn và sợ voi. Vừa mới ngửi thấy hơi voi là nó đã rúm bốn vó lại, hai mắt trợn trừng trợn trạc. Còn cái tật khảnh ăn thì thật khó chịu: Cỏ dày thì chê, cỏ mần chầu thì gặm uể oải vài ngọn, và cứ phải cỏ mật thật sạch thật non mới chịu ăn cho tử tế. Ấy thế mà nó đã thắng hết sức dễ dàng con ngựa đầu tàu của Trần Nhật Duật. Đức ông hoàng Sáu mỗi lần nhớ tới cuộc đua đó thì không phải ấm ức vì thua mà là cái gì đấy vướng víu trong lòng. Đúng, nó không phải cái buồn của người thua cuộc. Hình như nó là một chút giận tủi thiên nhiên không ưu đãi đất nước này, thiên nhiên đã không cho đất Việt một giống danh mã cho nên hồn. Ở khắp nước chỉ thấy một giống ngựa thấp nhỏ lách chách, lành như đất, ăn cả rơm cả rạ và không một con nào có lấy một cái rung bờm cho duyên dáng. Cho mãi đến bây giờ mới thấy con ngựa đen châu Ô này.. - Hãy tập con Bão Đêm thêm ít tháng nữa xem sao. Ta muốn nó thắng con Hồng Long Câu nhưng phải biết chắc chắn sức nó thế nào đã rồi sẽ hay. Còn bây giờ.. ta cấm các ngươi không được tiết lộ tung tích con Bão Đêm với bất kì ai. Nhớ cho kĩ đấy. Đứa nào sổng miệng là ta xẻo lưỡi. Trần Nhật Duật quắc mắt nhìn các thị mã. Những người này hiểu rằng Trần Nhật Duật không dọa họ mà ông sẽ làm thật nếu ai làm trái điều ông vừa căn dặn. Vừa lúc ấy một gia nô bước vào sân tập ngựa thưa với Chiêu Văn vương: - Bẩm đức ông, Trịnh công tử xin vào ra mắt! Nghe nói có Trịnh Mác xin vào yết kiến, Trần Nhật Duật tươi nét mặt. Đức ông ra lệnh đưa Trịnh Mác vào liên đình. Trước khi đi thay bỏ quần áo tập ngựa, Trần Nhật Duật còn dặn bọn thị mã lần nữa: - Nhớ đấy! Đứa nào sổng miệng ta xẻo lưỡi. Trần Nhật Duật đã thay xong quần áo. Đức ông mặc một chiếc quần lụa đỏ, gấu quần chùm lên mũi văn hài thêu ong bướm bằng chỉ bạc; một cái áo hàng vân tơ tằm chuội chanh óng nuột, đôi cửa tay may rộng đột chỉ trứng rận nom thật nho nhã. Vì Trịnh Mác là hàng con cháu nên Trần Nhật Duật không đội khăn. Ông búi tóc cho gọn, cài một cái trâm đồi mồi giữ tóc. Cái trâm này là đồ trang sức duy nhất trên mình ông. Tính không ưa dùng đồ trang sức của đức ông hoàng Sáu vốn là điều trái nết nhất và rõ rệt nhất với Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc, anh ruột ông. Hai gia tướng và bốn cô thị nữ phò ông hoàng trẻ đến liên đình. Hoàng Mãnh dõng dạc xướng: - Đức ông đã đến. Thỉnh đức ông thượng đình. Những người hầu coi quản liên đình dẫn Trịnh Mác ra quỳ đón Chiêu Văn vương ở thềm đình. Trịnh Mác sụp lạy Chiêu Văn vương hai lạy, miệng nói to: - Chú đã về! Cháu chúc chú trường thọ. Trần Nhật Duật nhanh nhẹn bước lên chín bậc thềm đình, chìa hai tay đỡ người con trai đứng lên, giọng ông hồ hởi: - Ta miễn lễ cho cháu. - Trần Nhật Duật ngả người ngắm chàng trai - Chà, cháu cao lớn quá, cao lớn quá rồi. Cháu đã thành một trang nam tử mà tất cả các bậc quốc sắc thiên hương đều mong mỏi được đem nụ cười nghìn vàng ra nài tặng đấy. - Ông cười, mắt nheo lại, đuôi mắt rạn chân chim. Trịnh Mác cả thẹn, đỏ mặt lên, cúi đầu xuống giấu một nụ cười ngượng nghịu. Trịnh Mác quả thực đã trở thành một chàng trai khôi vĩ dị thường, cái mũi dọc dừa sống sắc như đá đẽo, đôi mắt tròn to, mi mắt dài cong rậm rạp nom thâm trầm và đa cảm đồng thời cũng huyền bí như rừng núi nhưng cái miệng cười rất tươi để lộ hàm răng đều đặn to khoẻ và bóng láng đem lại vẻ đẹp khoẻ mạnh, trong sáng, thiên thần của tuổi mười bảy. Vóc người Trịnh Mác cao lớn, cái cổ tròn mập mạp của một lực sĩ nhưng đôi bàn tay hết sức thon mảnh như tay một văn nhân. Anh ấp úng: - Chú cứ chòng cháu chứ cháu so thế nào được với các vương tôn công tử kinh kì. Trịnh Mác nói tiếng kinh kì đã sõi nhưng dù sao người ta dễ dàng nhận ra giọng sơn cước vùng sông Đà của anh. Trần Nhật Duật bật cười về cái e thẹn nhút nhát của Trịnh Mác. Ông cầm tay chàng trai trẻ dắt vào liên đình. Ngôi đình xinh nhỏ ba mặt bỏ trống chỉ có một mặt vách hậu ghép gỗ quý treo một bức tranh lụa cổ vẽ cảnh Lưu Linh say rượu ngủ lăn quay dưới một vòm đào thưa thớt. Đầu Lưu Linh gối trên cái bát, chân trái gác lên cái hồ rượu đổ nghiêng. Mà kì lạ làm sao đôi mắt bợm rượu Lưu Linh nhắm tít nhưng miệng ông vẫn nhoẻn cười nom vừa khoái chí vừa ngô nghê. Chính giữa liên đình kê một cái sập gỗ gụ chạm hoa lá cầu kì trên trải một chiếc chiếu cạp điều. Trần Nhật Duật dẫn Trịnh Mác đến bên sập, cho phép anh ngồi hầu chuyện. Đã quen lệ cũ, thị nữ dâng trà. Dâng trà xong, tất cả thị nữ, gia nô im lặng ra khỏi liên đình, trừ Hoàng Mãnh. Đây vốn là chỗ Chiêu Văn vương tiếp một vài khách thân tình nhất, thường là khách văn chương hoặc một tay đàn bậc thầy, một kì thủ cự phách. Liên đình nằm lọt giữa một cái hồ nhỏ thả một thứ sen trắng hương say sưa gọi là túy liên. Trời đã sang đầu tháng tư, mùa hoa nở, những bông túy liên, đóa hàm tiếu, đóa mãn khai tỏa mùi thơm du hồn khách liên đình lâng lâng thoát tục. Trần Nhật Duật trao tay cho Trịnh Mác một chén trà: - Cháu nhắp thử xem có nhận ra vị trà gì không? Trịnh Mác nhắp một ngụm nhỏ. Hương vị trà quen thuộc gợi man mác vị sầu xứ nhớ quê. Hương trà này sao mà quên được! - Thưa chú, trà cỗi vùng núi đá châu Mai. - Cháu ta sành lắm! Sành lắm! Bữa ta xuống thuyền xuôi sông Đà, bố cháu biếu ta một số quà quý trong đó có những cánh chè do các cô nàng quê cháu vừa hái và sao xong chiều hôm trước. - Trần Nhật Duật cười bảo Hoàng Mãnh: - Còn nhà ngươi chắc không thích cái hương vị quá tinh khiết này? - Bẩm đức ông, ở châu Mai tôi chỉ ưa có chất men nếp cẩm. - Nói xong Hoàng Mãnh liếm mép. Qua vài câu đưa đẩy, Trần Nhật Duật nghiêm nét mặt im lặng nhìn Trịnh Mác. Trịnh Mác hiểu ý ông hoàng trẻ, anh tuần tự kể lại những gì anh được mắt thấy tai nghe trong triều. - Thưa chú, bữa đón tiếp sứ bộ của thằng Sài Thung chú còn ở nhà, cháu không kể lại nữa. Trần Nhật Duật gật đầu. Trịnh Mác kể tiếp. Đoàn sứ giả nhà Nguyên sang ta lần ấy rất đông. Riêng quân hộ tống có mấy ngàn tên. Cùng đi với đoàn này có quốc thúc Trần Di Ái. Ông này năm trước cầm đầu một sứ bộ của triều đình Đại Việt sang chúc thọ vua nhà Nguyên và dâng lễ cống. Vua nhà Nguyên bèn dọa ông quốc thúc này và buộc ông ta phải nhận một tước phong giả dối là An Nam quốc vương. Vua nhà Nguyên đã nhiều lần đòi vua nước ta sang ở làm con tin. Vua ta vẫn từ chối khéo không chịu sang. Lần ấy vua Nguyên kiếm cớ gây sự phong quốc vương cho Trần Di Ái nhằm đưa cái ông quốc thúc hèn nhát ấy về nước, ép triều đình ta phải nhận vua mới. Nhưng khi phái bộ Sài Thung đưa ông quốc thúc ấy tới biên giới thì ông ta biết tội trót nhận tước phong của giặc làm nhục đến quốc thể, nên ông ta bỏ trốn về trước mong vua ta mở lòng thương xót người biết hối lỗi và thể tình thân thích cùng họ cùng một máu mủ họ Trần. Cuộc bỏ trốn vào thời điểm chót làm Sài Thung chưng hửng. Nhưng gã sứ giả này vẫn hi vọng dùng uy thanh của những đội quân chinh phục Thát Đát dọa nạt được triều đình ta nên y cứ dẫn đầu phái bộ xuống Thăng Long. Gã đòi cống người, cống của. Gã đòi quan gia ta phải sang lạy mừng Nguyên chúa Hốt Tất Liệt. Nói chung là những yêu sách mà chúng vẫn đòi ngót mười năm nay. Nhưng lần này, chúng có thêm một yêu sách mới: Chúng đòi cho mượn đường để chúng đem một đạo quân viễn chinh đi xuống phương nam đánh nước Chiêm Thành. Trong cuộc hành quân trên đất Đại Việt, việc cấp lương cho đạo quân viễn chinh này sẽ do nước Đại Việt cung đốn, kể cả việc cấp thịt cho lính, cấp cỏ ngựa, cung đốn rượu tăm Giao Chỉ cho tướng. Tất cả những yêu sách hỗn xược ấy đều bị khước từ một cách khéo léo. Một mặt quan gia ta cáo ốm, nói rằng sinh trưởng ở phương nam xứ nóng không quen chịu đựng cái rét xứ tuyết, rồi phân trần nước nghèo mấy năm liền mùa màng thất bát, trăm họ ăn bữa đói, bữa no, rồi than phiền đường sá hiểm trở chẳng tiện cho việc hành binh và cũng không thuận tiện cho việc tải lương. Nhưng mặt khác triều đình ta mở tiệc to tiệc nhỏ thết đãi từ tên chánh sứ ngông cuồng đến cả những tên lính Nguyên hung dữ. Cuối cùng đoàn sứ giả dọa không được, làm dữ thì không đủ sức, đành lên đường tiu nghỉu về nước. Buổi tiễn đưa sứ Nguyên, triều đình ta làm rất trọng thể. Đức ông hoàng Ba Chiêu Minh vương Trần Quang Khải đích thân coi sóc mọi việc. Hoàng tộc còn cho mời thêm vị vương thứ nhất chi Vạn Kiếp là Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn về làm nhiệm vụ bồi tiếp sứ Nguyên. Có tiệc trọng thể ở Thăng Long rồi mà còn mở tiệc biên đình, có chuốc vài chén quan hà tạ từ lưu luyến, làm thơ lưu giản tặng nhau. Chiêu Minh vương còn tiễn Sài Thung mấy vần thơ: "Biết đến bao giờ vui gặp mặt. Ân cần, tay nắm chuyện hàn huyên." Làm cho Sài Thung phải nghiến răng lại mà cười. Trong thời gian này, Trịnh Mác làm việc trong cung nên anh ta nắm được nhiều chuyện thật tỉ mỉ. Câu chuyện Mác kể vừa rõ ràng vừa nhiều tình tiết sống động. - Thưa chú nhưng sau chuyện tiếp sứ này việc bang giao giữa hai nước xem ra bế tắc. Thằng Đạt Lỗ Hoa Xích Buyan Têmua cả ngày dẫn tay chân lồng lộn khắp phố phường kinh thành kiếm cớ gây sự. Nó còn phái nanh vuốt trà trộn vào dân dò la xem ta giấu quốc thúc Trần Di Ái ở đâu. Trần Nhật Duật bật cười. Có tài thánh thằng Buyan Têmua cũng không tìm nổi tung tích Trần Di Ái. Ngay cái đêm sứ bộ của Sài Thung dự bữa tiệc triều đình ta tiếp đón thì cũng là lúc Thượng hoàng Trần Thánh Tông sai ông giải Ái lên lộ Đà Giang giao cho tù trưởng châu Mai Trịnh Giốc Mật giam giữ cẩn thận. Trịnh Giốc Mật là anh em kết nghĩa đã trích máu ăn thề với ông. Trịnh Giốc Mật là bố của Trịnh Mác, chàng trai khôi vĩ đang ngồi trước mặt ông. - Thưa chú, quân Nguyên đã xuất phát nhưng không phải chúng đánh ta. Tướng giặc Toa Đô đã dẫn quân đi bằng đường biển, chúng đã đổ bộ vào Chiêm Thành. Có lẽ chúng đã đặt chân lên đất liền gần một tháng nay. Trịnh Mác ngập ngừng. Trần Nhật Duật trầm ngâm. Ông hiểu cháu ông đang nghĩ gì. Quân giặc định gây hấn với nước nào? Với Đại Việt hoặc là với Chiêm Thành? Lũ giặc này cuồng ngông bạo ngược lắm. Chúng sai sứ giả sang ta mượn đường đánh Chiêm, nhưng trước đây bốn tháng chúng cũng đã sai một sứ bộ khác sang Chiêm thuyết phục vua Chiêm cùng đánh ta. Như vậy là chúng muốn chiếm cả hai nước này, lũ giặc kia có tham vọng quyền uy của thiên triều nhà Đại Nguyên vươn dài mãi xuống vùng biển phương nam nóng ấm, mỗi năm mấy mùa lúa bội thu, cây trái lúc nào cũng lúc lỉu quả ngọt, trên rừng thì sâm nam, nhung hươu sao, mật gấu, ngà voi.. dưới biển thì san hô, mã não, đồi mồi, ngọc trai.. Chỉ nói riêng thứ trầm hương ngào ngạt mà tất cả cái đám quan tướng hôi hám nhà Nguyên đều rất thèm thuồng đã là miếng mồi ngon mà chúng mong được độc chiếm. Sở dĩ nói độc chiếm vì từ trước đến nay, vua ta theo nghĩa "Lộc bất khả hưởng tận", có bao giờ quên món trầm hương trong số lễ vật cứ ba năm một lần đi cống "Thiên triều" Cho nên thông minh nhất là hai nước phải nhìn thấy kẻ thù chung. Việt - Chiêm phải dựa lưng vào nhau mà chống cái thằng giặc đã hung bạo lại thâm hiểm luôn luôn tìm cách "đục nước béo cò". - Này cháu! Thế còn cái đạo viện binh của ta ra sao? - Đến trước quân Toa Đô nửa tuần trăng ạ. - Khá lắm, như thế quân còn có thời giờ nghỉ ngơi khoẻ binh, lại có thời giờ dàn trận sẵn sàng. Chính chú cũng rất muốn làm tướng đạo quân ấy. - Thưa chú, cắt tiết gà đâu phải dùng đến dao mổ trâu. Cháu chắc Thượng hoàng và Quan gia đã có chủ định rồi. Trần Nhật Duật tủm tỉm cười. Ông không tiện nói cho Trịnh Mác biết triều đình hiện nay chưa hẳn đã nhất trí trong đối sách với Nguyên triều. Trước đây vài tháng đã cho triệu một số thân vương vào cung triều hội. Cuộc triều hội này rất ít người: Có Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang quen gọi là ông hoàng Cả hiện nay đang lĩnh chức trấn thủ châu Hoan, có ông hoàng Ba Chiêu Minh đại vương Trần Quang Khải hiện giữ chức Thượng tướng coi luôn việc Thái sư đứng đầu văn võ bá quan, có Chiêu Đạo vương Trần Quang Xưởng coi việc nghi lễ, tế tự, quen gọi là ông hoàng Tư, có Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc quen gọi là ông hoàng Năm hiện đang lĩnh chức trấn thủ lộ Tam Đái Giang, có ông, người ta thường gọi là ông hoàng út hay hoàng Sáu; ngoài ra ngành trưởng cũng được mời một vị, đó là đức ông Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn vừa là người có uy thế nhất của cả ngành trưởng vừa là trưởng tộc của cả họ Trần. Thượng hoàng cũng cho Quan gia Nhân Tông ngồi dự bàn với các bậc cha chú. Cuộc triều hội mở rất kín trong cung Thánh Từ, cung riêng của Thượng hoàng. Viên tướng giữ việc canh giữ cửa cung Thánh Từ hôm ấy là phò mã Bảo Nghĩa hầu Trần Bình Trọng, chồng của công chúa Thụy Bảo, tức là em rể của Trần Nhật Duật. Như vậy trừ đức ông Hưng Đạo là anh con nhà bác ra, Thượng hoàng chỉ cho gọi các anh và em ruột nhà mình và dùng luôn em rể làm tướng canh cửa. Thế mà toàn người thân cận nhất nhưng không phải ý kiến chung đã giống nhau, gần gũi nhau. Thượng hoàng hỏi: "Nguyên chúa xin mượn đường hành quân đánh Chiêm Thành. Vậy thâm tâm Hốt Tất Liệt muốn gì? Đối sách của ta nên thế nào?". Thế là lần lượt mọi người nói ý kiến của mình ra và các đối sách tỏ ra không giống nhau. Tĩnh Quốc đại vương bảo giặc chưa phạm bờ cõi ta, hơi đâu mà gây sự với chúng. Chiêu Đạo vương nói Chiêm chúa là phên dậu thân thiết của nước Việt ta nay bị giặc dữ đến cướp, nếu ta bỏ qua không cứu thì không nỡ lòng nhưng nếu ta xuất viện binh thì có khi chiến chinh lan cả tới nước ta, vạ lây đến cả nhân dân trăm họ nước ta. Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc lại chêm thêm rằng nếu Nguyên chúa chỉ muốn mượn đường ta đánh Chiêm thì sao. Vì nếu họ có mưu mô đánh ta thì họ cứ việc im lặng đem quân đánh thẳng vào biên ải, hà cớ phải sai sứ giả sang mượn đường. Như thế đất ta ta giữ an toàn là hơn, can chi làm kẻ giữ nhà cho người khác. Nghe em nói thế đức ông Chiêu Minh nghiêm sắc mặt nói: "Xưa nay mượn đường vẫn là kế mở cửa quan dễ dàng nhất. Bao nhiêu gương mất nước cũng chỉ vì cho mượn đường đã chép trong sử sách rồi. Nguyên chúa muốn đánh ta lắm nhưng ngặt vì nước Đại Việt ta không phải là miếng mồi ngon dễ nuốt. Trước đây hai mươi nhăm năm, tiên đế Thái Tông đã cho tên tướng giặc kiệt hiệt Ngột Lương Hợp Thai nếm một trận thất bại nhục nhã. Cho nên bây giờ Nguyên chúa mới phải ném đi ném lại những hòn đá thăm đường chứ". Đức ông Hưng Đạo hưởng ứng ngay lời Trần Quang Khải. Trần Quốc Tuấn xin Thượng hoàng phát quân giúp Chiêm Thành, mặt khác thêm quân thêm tướng canh giữ cẩn mật biên thùy phía bắc. Nhưng sửa soạn binh mã thì cứ sửa soạn còn nếu nhà Nguyên cho sứ giả sang nữa thì vẫn tiếp sứ hết sức nhún nhường, vẫn nộp cống thật đều đặn để yên lòng Nguyên triều trong trước mắt. Thượng hoàng đã tư lự trước khi hỏi lại hai đức ông Chiêu Minh và Hưng Đạo: - Như vậy hai khanh cho rằng việc binh đao sớm muộn sẽ xảy ra? Cả hai đức ông đồng thanh: - Giặc sẽ đánh ta. Mưu chúng tuy sâu kín nhưng cũng đã bộc lộ rõ ràng. Đánh Chiêm Thành chỉ là kế tạo một mũi nhọn xuyên vào lưng quân ta. Chừng nào đạo quân xâm lược Chiêm Thành đứng vững trên dải đất phía nam thì chừng ấy ta có thể tính ra ngày giờ nào giặc tấn công ta. Đức ông Chiêu Quốc vặn lại hai anh: - Biết chắc binh đao ắt sẽ xảy ra sao hai anh không hiến ngay kế "Tiên phát chế nhân" lọ là phải vừa đánh vừa bàn, kín kín hở hở làm cho lòng người trong nước đâm ra li tán? Hưng Đạo vương ôn tồn: - Làm chậm cuộc binh đao ngày nào là có lợi cho ta ngày ấy. Việc chỉnh đốn binh mã rèn luyện sĩ tốt, tích cỏ chứa lương bề bộn ra có phải một sớm một chiều làm xong được đâu. Riêng Chiêu Văn vương im lặng trong cuộc triều hội ấy vì ông là người ít tuổi nhất, phận đàn em, em út. Nhưng khi Thượng hoàng nhắc ông, bảo ông nói sở kiến riêng của mình ra cho mọi người nghe thì Trần Nhật Duật đã xin cho mình được làm tướng đạo viện binh sang giúp Chiêm Thành. Câu nói của Trần Nhật Duật đã làm Chiêu Quốc vương sửng sốt rồi trừng trừng nhìn ông. Bây giờ thì đạo viện binh xuống Chiêm Thành đã đến nơi rồi, tuy Thượng hoàng không chọn ông làm tướng chỉ huy đạo quân ấy..
Chương 3 Bấm để xem Hai chiếc lọng vàng che chon von trên chiếc biển "Nhập nội". Liền ngay sau chiếc biển là Chiêu Văn vương và toán dũng thủ hộ vệ cưỡi những con ngựa lực lưỡng. Một người lính cưỡi ngựa cầm loa đi trước đoàn người một quãng. Chốc chốc, anh ta lại hoa chiếc loa lên thét: - Bớ hàng xứ phố phường dẹp ra lấy đường để đức ông tiến cung. Bớ hàng xứ phố phường.. Vài người lính khác cưỡi ngựa cầm roi song sơn đỏ thật dài vụt veo veo để dọa những người dân phố phường chậm chân. Đường từ phủ Chiêu Văn tiến cung phải qua sông Tô Lịch. Đây chính là khu phố đông đúc sầm uất nhất kinh thành. Hoàng Mãnh rất thích những cuộc diễu ngựa qua những phố đông người như thế này. Anh chọn con đường qua sông Tô bằng cầu Ngoạn Thiềm. Những con ngựa đóng yên cương nạm vàng bạc cực kì lịch sự phi nước kiệu nhỏ. Tiếng vó ngựa gõ mặt đường đều đặn, băm ròn chen với tiếng hàm thiếc, tiếng những quả nhạc đồng, tiếng vỏ kiếm đập vào hia. Đàn ngựa bị gò đi kiệu nhỏ, hậm hực, thỉnh thoảng một con lại hục hặc hí gằn trong sống mũi. Đoàn người ngựa rước Chiêu Văn vương đi qua những phường phố đông đúc. Các cổng phường ban ngày được mở thông nhưng ở mỗi cổng đều có vài người phường binh tuyển phong cắp tay thước đứng xét hỏi những kẻ lạ mặt lai vãng. Các cửa hàng đang lúc đông đúc người mua bán. Tiếng chào mời khách hàng lanh lảnh nổi lên trên mớ âm thanh trầm náo của kinh thành. Thỉnh thoảng lại gặp một quán hàng ăn uống trước cửa treo một lá phướn nhỏ hoặc một cờ bài gỗ chạm mấy chữ tên cửa hiệu: Nào Thu Phong tửu quán, nào Bạch Vân tửu điếm, nào Tùng Trúc phạn điếm, những cái tên cửa hàng đặt rất hay, dịch nôm ra nghe thật quyến rũ khách qua đường. Ta thử nghe chơi: Quán rượu Gió Thu, hàng rượu Mây Trắng, hàng ăn Thông Trúc.. Kèm những lá phướn tên hiệu thường có những mảnh cót nhỏ dựng bên cạnh cửa ra vào, trên lá cót viết nguệch ngoạc bằng vôi trắng những món đặc biệt của cửa hàng, nào mắm rươi lộ Hồng, nào cá chiên sông Cơ Xá nướng chả, nào lươn Thiên Mạc om nghệ, nào gà thiến làng Hồ quay ròn bì, nào rượu cau, nào rượu đậu, nào rượu cốt kẻ Mơ, nào rượu cúc Tức Mạc. Nhưng thú vị nhất vẫn là một vài quán đơn sơ, biển đề tên hiệu bằng chữ nôm: Quán rượu vườn Tỏi, quán rượu cụ Hai Còm, quán cô Tư yếm thắm.. Có khi không có cả biển tên quán mà chỉ có một vài chữ nói các đặc sản của quán: Rượu cốt đậu phụ nướng, rượu cúc chả cá, rượu cau gà đồng và ở một quán lại chỉ có hai chữ: Thịt cầy. Hình như chủ ngôi quán này hiểu bụng dạ dân say là đã có thịt cầy thì phải có rượu, thứ rượu quê sủi tăm nổi tiếng đến nỗi các triều vua phương bắc cứ buộc trong lễ cống hàng năm phải có chục vò. Hoàng Mãnh rất thích những chuyến đi diễu như thế này qua những quán hàng quen thuộc. Không phải anh ta huênh hoang chuộng những vẻ bề ngoài mà chính vì khi có những đám rước diễu như thế, cảnh phố tự nhiên náo nhiệt hẳn lên, vẻ mặt những người đi xem thì vừa thích thú tò mò vừa vui vẻ sống động. Hàng quán hai bên tự dưng như náo nhiệt hơn lên. Nhưng hôm nay Hoàng Mãnh xốn xang nhất khi đoàn người ngựa qua cổng phường Cổ Vũ đến cái phố bán gương, mài gương. Những chiếc gương đồng xinh nhỏ, sáng đẹp, cái hình tròn, cái hình chữ nhật, có những chiếc gương lồng trong khung gỗ quý đánh bóng, có những đôi gương mang một tên thi vị: Gương uyên ương. Hoàng Mãnh muốn mua một đôi gương uyên ương để gửi lên châu Mai làm quà tặng của kinh thành.. Thình lình dòng suy tưởng của Hoàng Mãnh bị cắt ngang. Từ phía ngã ba đường, người lính thét loa đang tế ngựa về. Anh ta hấp tấp thưa với Chiêu Văn vương: - Bẩm đức ông đường nghẽn. - Nghẽn sao? - Bẩm đức ông, nghẽn vì đám rước ngài đại thần Đạt Lỗ Hoa Xích đi qua. Trần Nhật Duật tức giận nghiến răng không thốt một tiếng nào. Đàn ngựa đang cuồng chân nay bị kìm đứng hẳn, xoay sang hục hặc lẫn nhau. Con ngựa trắng của Chiêu Văn vương huých ức vào bả vai con ngựa của Hoàng Mãnh rồi nhe răng cắn luôn một miếng. Con ngựa của Hoàng Mãnh gầm lên xoay ngang rún mông chực đá. Những con ngựa khác hoảng sợ vội quay vòng tại chỗ. Một con ngựa rồi hai con quệt mình, quệt mông vào những chiếc cọc tre chống dại cửa che nắng của mấy ngôi cửa hàng mặt đường làm bật cọc đi, mấy tấm dại rơi lạch phạch xuống đất. Tiếng sành vỡ, tiếng bát vỡ, tiếng người phường phố kêu la, rủa sả náo loạn lên làm cho Chiêu Văn vương vừa ngượng vừa bực mình. Ông thúc ngựa phi về phía ngã ba đường. Con đường Chiêu Văn vương đang đi dẫn đến một con đường khác lớn hơn cắt ngang. Con đường lớn này từ cửa Nam Hoàng thành qua cầu Ngoạn Thiềm dọc theo phường Cổ Vũ dẫn thẳng tới quán sứ Đạt Lỗ Hoa Xích. Trên con đường ấy, một đám rước rất đông đang diễu dềnh dàng cả bề mặt con đường và kéo dài lê thê. Đi đầu đám rước là mười thằng dũng thủ Thát Đát mặc áo giáp da, đội mũ có tua đen viền lông cáo nâu. Những thằng dũng thủ Thát Đát cầm giáo sắt chín dóng chĩa chua chủa như lông nhím lù lù dàn hàng ngang đi dẹp đường. Hai bên đường, nhà phường phố đóng cửa rầm rập, tiếng đàn bà gọi con, gọi em í ới, tiếng trẻ con sợ khóc rú lên. Sau những thằng lính Thát Đát mở đường đến những dân phu người Việt cầm những lá cờ năm màu. Sau hàng cờ ngũ hành, một đám tàn vàng lọng tía xúm xít che cái biển "Phụng chỉ khâm sai". Ngay cạnh cái biển khâm sai, một thằng dũng thủ Thát Đát thật lực lưỡng giương cao cây cờ tiết cán bằng đồng đen, ngọn kết chín cái tua bằng lông đuôi ngựa. Hai bên ngọn cờ tiết lại có hai thằng dũng thủ khác cầm hai ngọn phủ, việt. Ngọn cờ tiết và hai lưỡi búa này tiêu biểu cho quyền uy và sức mạnh của triều đình nhà Nguyên chế áp nước Đại Việt bằng viên giám sát quan Đạt Lỗ Hoa Xích. Sau hàng cờ búa, một đội trăm thằng dũng thủ vác giáo ngắn, khoác khiên đồng vàng. Loại vũ khí bọc đồng nặng nề này ngày xưa quân Thát Đát không ưa dùng. Chúng chỉ được du nhập vào quân đội Thát Đát từ sau cuộc Tây chinh mấy chục vạn dặm của thần tướng Xu Bu Tai. Bách đội giáo khiên hộ tống gã Đạt Lỗ Hoa Xích ngồi trên kiệu bát cống không mui, mâm kiệu có tựa lưng và bành đỡ tay. Gã to béo, mặt tròn xoe, màu đỏ nom như cái lệnh đồng điếu. Gã ngồi xếp chân bằng tròn, tay phải vân vê chót râu thưa hung hung nâu. Đám rước vẫn dềnh dàng đi rất chậm. Buyan Têmua sáng nay vào cung diện kiến với vua ta. Bây giờ hắn từ hoàng cung về quán sứ. Đám rước gã thì đến ai ở đất nước này cũng phải nhường đường. Ngoài những tên lính Thát Đát hộ tống Buyan Têmua ra, triều đình ta còn phải phái một đô lính Củng Thần để dẹp đường và để ngăn cản binh dân ta xô xát với lính Thát Đát. Những người lính Củng Thần mặc võ phục gấm, cầm thương đi hai bên đám rước. Họ chia nhau chặn các đầu ngõ đâm ngang ra con đường lớn. Viên tì tướng chỉ huy đô Củng Thần chạm trán với Trần Nhật Duật ở ngã ba đường. Anh đỏ mặt vì thẹn nhưng vẫn cứ kiên quyết ngả ngang ngọn giáo chặn ngang trước ức con ngựa của Trần Nhật Duật. Nhưng chính đức ông Chiêu Văn còn vừa tức vừa ngượng ngùng hơn anh ta. Đi sau kiệu bát cống của Buyan Têmua có một dàn nhạc Hồi Hột hơn chục thằng nhạc công. Những thằng này phồng mang trợn mép thổi những chiếc kèn vòi loe theo nhịp của một đôi trống tay. Điệu quân hành của chúng tấu lên man rợ, đinh tai nhức óc. Khép hậu đám rước lại có một trăm dũng thủ người Hán nữa - bọn này không mang khiên, chỉ đeo kiếm ngắn và khoác cung đơn. Trái với lệ thường, đám rước diễu qua rồi nhưng không thấy trẻ con phường phố ùa theo xem. Phố xá lặng ngắt, con đường nom rộng và trống trải một cách hoang vắng. Người hàng phố chỉ thập thò sau những cánh cửa khép hờ. Trần Nhật Duật mặt mày tái đi. Ông vẫy đoàn tùy tùng ruổi mau ngựa qua con đường lớn còn cửa đóng người thưa. Ông muốn đi mau cho khuất mắt dân hàng phố dường như đang từ sau những khe cửa nhìn như xoáy vào lưng ông.. Theo lệ định trước, Trần Nhật Duật là thân vương được vào triều yết anh ruột Thượng hoàng Thánh Tông ở tận Nội cung Thánh Từ. Nhưng chỉ một người được theo hầu Chiêu Văn vương, đó là Hoàng Mãnh và anh ta cũng phải cởi kiếm để lại hành lang vũ khí của lính tứ sương. Thượng hoàng đang bàn việc với quan Hàn lâm phụng chỉ Nhập nội Hành khiển Đinh Củng Viên. Trần Nhật Duật sụp lạy. Thánh Tông đỡ em dậy, ôn tồn cho phép ngồi. Trần Nhật Duật nhận thấy vẻ mặt của anh ruột nhuốm màu tư lự. Ông đoán sắc mặt ấy có dính líu đến việc Buyan Têmua vào cung yết kiến. Quả như vậy, Thượng hoàng vỗ tay xuống long án nói một cách bực tức: - Thằng Đạt Lỗ Hoa Xích vừa đến đây xong. - Thưa hoàng huynh, em đã biết. Em bị nghẽn đường vì đám rước của nó cứ dềnh dàng trên đường lớn. Chắc nó vẫn đòi cái điều mà mấy năm nay chúng vẫn cố ép buộc ta phải làm theo chúng. Trần Nhật Duật muốn nói đến điều mà Nguyên chúa muốn vua nước Đại Việt phải theo: Đó là chính quốc vương Đại Việt phải sang chầu vua nhà Nguyên rồi sau đó vua nhà Nguyên sẽ giữ vua Đại Việt ở lại để làm con tin. Như vậy triều đình Đại Việt chỉ còn cách cung đốn bằng đủ mọi điều đòi hỏi của nhà Nguyên. Đòi cống vàng bạc châu báu thì có vàng bạc châu báu. Đòi cống trầm hương sừng tê thì có trầm hương sừng tê, đòi mĩ nữ có mĩ nữ, đòi quân lính dân phu có quân lính dân phu, đòi binh lương thuyền ngựa có binh lương thuyền ngựa.. - Không. Lần này nó lại mềm mỏng lắm. Nó khuyên bảo ta nên rút cánh quân đi tuần phương nam về, đấy là nó nói tránh không gọi đích cái cánh quân phương nam ấy là viện binh của ta cho Chiêm Thành. Nó còn ỡm ờ nói rằng nó cũng không tâu lên Nguyên chúa rằng có một cánh quân Đại Việt hiện đang tuần phòng xuống vùng biển phương nam. - Thưa hoàng huynh, thế là nó đã biết có cánh quân ấy. - Tất nhiên. Hai vạn quân chứ có phải cái kiến đâu mà giữ kín mãi được. Có điều nó biết sớm thế này cho nên ta lo lắng.. - Thưa, hoàng huynh lo lắng có gian tế? - Phải. Nhưng ta lo lắng vì kẻ gian có thể vào loại trọng thần vì thằng Buyan Têmua nói đúng cả ngày quân ta đến kinh đô Chiêm Thành. Nó còn nói rất khinh thường ta rằng không nên làm mệt quân vô ích. Nguyên chúa không đem quân tiễu phạt Chiêm Thành đâu mà lần này chỉ sai một đoàn sứ giả đến phủ dụ vua Chiêm mà thôi. - Thưa hoàng huynh, thế là thằng Buyan Têmua nói dối khéo đấy. - Không. Nó nói thật đấy. Đoàn hộ tống sứ giả nhà Nguyên chỉ gồm một nghìn quân và hơn hai trăm thủy thủ. Cánh quân của Toa Đô chưa lên đường. - Nhưng nó ngọng gì mà không đưa quân vào sau này. - Ấy thế. Cho nên ta đoán là chúng muốn ta rút quân tiếp viện về và khi quân ta vừa rút xong là chúng mở cuộc tấn công bất ngờ vào Chiêm Thành. Đến khi ta biết thì muốn cứu Chiêm Thành cũng không kịp nữa. - Mưu chúng tuy sâu hiểm nhưng giấu sao được ta. Thánh Tông bỗng dằn từng tiếng: - Chúng ta không nên quên rằng kẻ bày mưu này phải là đứa hiểu ta rất kĩ. Thượng hoàng phất tay làm hiệu. Đinh Củng Viên mở ra một bản tấu trải rộng trên long án. Thượng hoàng chỉ vào bản tấu: - Tấu của quan trấn thủ đạo Vân Đồn và chỉ huy thủy đạo biển Đông. Giặc đang luyện quân thủy ở đảo Quỳnh Châu và ở bán đảo Lôi Châu. Tập quân thủy để đánh ở chiến trường nào? Đánh Chiêm hay đánh ta. Lại thêm dạo này khách phương bắc, bọn lái buôn Hồi Hột, lái buôn Trảo Oa đến cảng Vân Đồn cũng nhiều. Đây chính là cửa ngõ cho quân gian tế thông tin cho nhau. Ông học sĩ nghĩ sao? Đinh Củng Viên kính cẩn: - Tâu bệ hạ, đề phòng gian tế thì tự bịt nguồn là thượng sách. Thánh Tông nghiêng mái đầu ngẫm nghĩ. Thượng hoàng hé môi định nói câu gì rồi lại thôi. Rõ ràng lời tâu của Đinh Củng Viên cuốn hút suy tư của Thượng hoàng. Thánh Tông giơ tay ra hiệu cho Đinh Củng Viên lui ra. Quan Học sĩ sụp lạy Thượng hoàng, quay sang vái dài Trần Nhật Duật rồi khom lưng đi giật lùi ra cửa cung. Trong hoàng cung rộng lớn rực rỡ vàng son chỉ còn lại hai anh em. Hoàng Mãnh cũng đã theo chân ông Học sĩ lui ra cung ngoài. Không khí gia đình thân thiết đầm ấm trở về. Hai anh em Thánh Tông chênh nhau mười lăm tuổi nhưng tiêu biểu cho hai thế hệ người họ Trần. Thánh Tông sinh ra và lớn lên khi triều Trần mới lập. Khắp nước cựu thần nhà Lý chui lủi trong chốn đồng nội, núi rừng, họ chưa chịu khuất phục triều đình mới. Nhất là những bậc sĩ nhân, sĩ đức lại càng chê người triều Trần thô lỗ, thất học, kém lịch thiệp, kém duyên dáng lịch sự. Ngay cả những người nông phu cũng không phải tuyệt đại đa số đã tin tưởng ở triều đình mới mặc dù chỉ tính công lao mang lại cho đất nước sự yên ổn làm ăn, nhà nào cũng no đủ đã là một triều đại xứng đáng với sự tin cậy của mọi người rồi. Ấy thế mà khi Thánh Tông mới sinh ra, cứ vài năm, đôi ba tháng lại có một vùng nổi dậy dựng cờ phục Lý. Năm Thượng hoàng còn chưa lên ngôi vua, vẫn còn là thái tử Hoảng, giặc Thát Đát từ hướng nước Đại Lý tiến quân sang nước ta. Lần đầu tiên, dân Việt biết thế nào là sức công phá hung dữ của kị binh Thát Đát. Giặc tràn đi như nước vỡ bờ, kinh thành Thăng Long thất thủ, thái tử Hoảng theo vua cha rút về phía nam. Tuổi trẻ của Thái tử được tôi luyện nước thép đầu tiên năm ấy. Ăn uống thất thường, hàng ngày di chuyển hàng trăm dặm bằng ngựa, bằng thuyền, bằng sức đôi chân của chính mình, đêm đến ngủ dưới một mái lều trận đơn sơ, có khi ngay cái mái lều đơn sơ ấy cũng không có nữa. Rồi tiếng thét chiến trường, lửa giặc đốt xóm làng, lửa ta đốt trại binh giặc, những cuộc truy đuổi mấy ngày không cần ăn và lễ hiến phù (1) sôi nổi, trang trọng ở nhà Thái miếu, nơi tôn nghiêm, thờ cúng tổ tông. Có thể nói Thánh Tông lớn lên khi họ Trần còn đang vất vả để gìn giữ ngai vàng, vừa phải lo phòng giặc ngoài vừa phải chống thù trong. Còn Chiêu Văn vương, ông hoàng trẻ lớn lên trong một đất nước đã yên ấm, trăm họ no đủ. Mà nói trăm họ no đủ là đúng như mong ước của cổ nhân: "Dân lấy ăn làm trọng, vua lấy dân làm trọng". Trăm họ đã no ấm nên hoàng tộc đã giữ vững được ngai vàng. Ngôi báu đã vững nghĩa là họ Trần đã đứng trên thế mạnh. Đang thế mạnh làm việc gì dù khó cũng xong. Chỉ nói một lời cả nước theo răm rắp nhưng giàu sang như một cái bả ma quái đã bắt đầu mê hoặc con người. Tiệc nhỏ, yến lớn, gấm vóc ngọc ngà đã quyến rũ ngay chính một số người xưa nay quen quấn một chiếc chăn ngựa ngủ dưới một vòm trời lạnh làm màn. Cho nên cần kiệm và làm việc nghiêm ngặt là đức tính của Thánh Tông. Trần Nhật Duật không có những đức tính đó, ông còn nông nổi, lịch sự và đài các hơn nhưng ông thông minh, làm việc quả đoán và tự tin, gặp khó khăn đến mấy cũng dày đạp lên mà vượt qua. Sự hiểu biết cuộc đời và tình người cũng như sở học và kiến văn của hai người cũng khác nhau và chênh lệch nhiều, ấy thế mà trong mấy anh em ruột, Thánh Tông quý mến và hợp tính nhất với Trần Nhật Duật. Hình như Thượng hoàng nhận thấy Chiêu Văn vương có những đức tính mà mình không có hoặc nếu có cũng chỉ ít thôi, cái ít ấy lại là cái cũ thời trai trẻ mà bây giờ quá ư mờ nhạt hay không còn nữa. Năm mười tám tuổi Thánh Tông được tiên đế Thái Tông truyền cho ngôi báu. Vừa ngồi trên ngai vàng, Thánh Tông đã phải giải quyết một việc tày đình: Đó là việc xét thưởng phạt các vương hầu và văn võ bá quan sau trận chiến thắng quân Thát Đát của Ngột Lương Hợp Thai. Có những lệnh khen, Thánh Tông biết rằng chưa thỏa đáng nhưng hãy chỉ nên ban thưởng như vậy. Có những lệnh xử phạt có thể nặng hoặc nhẹ nhưng vẫn cần thiết phải làm ở mức đó. Chỉ một việc thưởng phạt này đã đủ làm cho Thánh Tông già người đi nhưng đồng thời cũng làm cho tính tình trầm tĩnh và kín đáo. Có thể nói khác đi là nhà vua sớm già dặn trước tuổi. Sau đó là mười mấy năm trường lo lắng sắp xếp việc nước việc dân, lo cho mùa màng bội thu để trăm họ no đủ, quân lính có lương ăn phòng khi phải dụng binh, lo cho việc học việc thi đều đặn để tuyển lựa nhân tài, lo sửa sang việc vũ bị để sẵn sàng yên thù ngoài giặc trong lo cho anh em hòa mục để họ hàng đại thống.. trăm thứ việc to nhỏ đổ dồn vào một người mà mỗi lời phán truyền có thể làm cho lửa tắt đi hay đỏ vui trong bếp mỗi căn nhà. Cho nên Thánh Tông ưa nhất sự trẻ trung hồn nhiên của Trần Nhật Duật. Mà Chiêu Văn vương thì phục nhất sự sâu xa trầm tĩnh của Thượng hoàng. Có những việc quốc gia đại sự, sau khi nghiền ngẫm kĩ lưỡng rồi nhưng Thánh Tông vẫn hay hỏi lại Chiêu Văn vương. Thượng hoàng muốn kiểm tra lại xem có một cách nhìn nhận nào khác mình không, có một cách hành động nào khác cách mình dự định không? Đã nhiều lần Chiêu Văn vương xét đoán sự việc mà bàn những giải pháp kì lạ làm cho Thánh Tông phải sững sờ nhưng về sau cách xét đoán của Chiêu Văn vương tỏ ra nhanh nhạy vô cùng và cách hành động của ông hoàng trẻ mạnh gọn, mau mắn đưa đến những hiệu quả rõ rệt, đỡ tốn sức, đỡ tốn của. Cách suy xét và hành động của ông hoàng trẻ rõ ràng không bị những thiên kiến của quá vãng cản trở như Thượng hoàng. Thượng hoàng quý em nhất sau việc Chiêu Văn vương dẹp yên vùng sông Đà hai năm trước đây. Lộ Đà Giang vốn đất rộng sông hùng, núi non rừng rú cực kì hiểm trở. Các tù trưởng vùng sơn cước này có nhiều bậc hào kiệt chẳng chịu khuất phục ai, trai tráng sông Đà lại là những người vũ dũng, tinh thần thượng võ rất cao. Năm ấy, tù trưởng châu Mai là Trịnh Giốc Mật đã cùng một số tù trưởng khác họp quân sơn cước để chống lại triều đình. Họ kéo cờ "Thế thiên hành đạo", cử quan, đặt tướng, đem quân đóng giữ tất cả các chỗ hiểm yếu. Triều đình hết sức lo lắng vì cuộc nổi dậy này lại nhằm vào lúc triều Nguyên đang bành trướng thế lực, chúng đang âm mưu qua nước ta tiến xuống vùng biển phía nam. Chúng đang liên tiếp đòi quân lương, đồ cống, chúng đang đòi nộp sổ bạ tịch của quân dân, chúng đang đòi quân trưởng nước ta và một số nước phía nam phải sang làm con tin bên triều Nguyên. Như thế chính là lúc ta đang cần sự cả nước đấu sức lại. Khi cuộc nổi dậy của Trinh Giốc Mật bùng ra, Thượng hoàng phát quân, sai Chiêu Văn vương làm tướng đi tiễu phạt. Kế sách đã bàn kĩ ở Nội cung nhưng khi xuất quân, Thượng hoàng vẫn nhủ em: "Lúc này phải hết sức tránh dụng binh. Em lưu ý cho ta điều đó". Chiêu Văn vương dẫn quân lên đến vùng giáp giới thì hạ trại đóng lại. Ông viết một lá thư cho một tì tướng cầm vào quân doanh của Trịnh Giốc Mật. Lá thư ông viết rất tha thiết. Ông nói về nạn nước đang bị đe dọa xâm lăng nghiêm trọng, giặc đang tập trung quân ở ngoài biển, như vậy ở trong nước từ bậc hào kiệt đến kẻ thất phu đều phải nghĩ đến bổn phận của mình đối với giang sơn xã tắc. Giặc mạnh là quốc nạn, trăm họ phải đấu sức lại mới mong giữ gìn được đất nước tổ tông để lại, ai xưng hùng xưng bá một phương là mưu lợi riêng, làm yếu quân, làm yếu nước là có tội với tổ tông, với đất nước và trăm họ. Đất nước và trăm họ sẽ không cho họ làm thế. Nhưng đối với con em thân thuộc, ruột thịt thì trước là răn dạy bằng lời, cùng bất đắc dĩ mới phải dùng đến roi vọt, có nghĩa là động binh tiễu phạt. Ông khuyên Trinh Giốc Mật dẹp quân. Cách viết thư thẳng thắng ấy hẳn đã làm Trịnh Giốc Mật phải suy nghĩ. Trịnh cũng là một con người nghĩa khí. Khi đã nhận ra điều gì, Trịnh có gan làm theo. Trịnh sai sứ giả ra diện kiến Chiêu Văn vương mang theo một lá thư lời lẽ cũng tâm huyết. Trịnh nhận rằng mình chưa nghĩ hết lẽ, chưa xét đến mặt quốc nạn ngoài biên và bằng lòng dẹp quân nếu như đức ông cùng bày tỏ tâm thành bằng cách tay không vào quân doanh ăn thề với Trịnh trước sự chứng kiến của ba quân. Chiêu Văn vương bằng lòng, cho sứ giả của Trịnh về trước hẹn ngày ông sẽ vào ăn thề. Sứ giả của Trịnh Giốc Mật đi rồi, quân tướng tả hữu của Chiêu Văn vương mới ồn lên, nhiều người can ông đừng vào quân doanh của Trịnh hoặc chỉ nên cử một tướng thay mặt cho đức ông mà thôi. Họ lo lắng vì đi hội ăn thề như thế thì lành ít dữ nhiều. Nếu Trịnh giở mặt hoặc Trịnh không giữ nổi quân tướng của y giở mặt thì sao? Trần Nhật Duật ngẫm nghĩ rồi giảng giải cho các tướng: - Người sơn cước coi lễ ăn thề rất trọng. Mỗi lần thề họ đều đem nhau đến trước bàn thờ tổ tông cho nên họ Trịnh mới phải mời ta vào. Hơn nữa lần này thề chung cho cả vùng Đà Giang cần phải có sự chứng kiến của các bậc cao tuổi. Còn như ta đề phòng thì họ cũng đề phòng, đó là lẽ tự nhiên. Mà ta tính rằng chính chúng ta ở thế thuận chiều gió, chỉ chúng ta có giở mặt mới có lợi. Vậy thì muốn tỏ ra thực bụng, ta phải vào. Trịnh Giốc Mật là bậc hào kiệt lộ Đà Giang, quân sơn cước vùng sông Đà đều là những dũng thủ có khí phách. Họ có thể cũng muốn thề với những người tương xứng. Ấy thế mà Hoàng Mãnh vẫn hỏi gặng: - Nhưng nếu họ cứ giở mặt thì sao? - Nếu vậy chỉ là điều không may cho riêng ta, còn triều đình sẽ cử một vị vương khác lên làm tướng! * * * Trịnh Giốc Mật sai quân đón Chiêu Văn vương từ cổng trại ngoài. Chiêu Văn vương mặc áo xuyến hoa, tay cầm một cái quạt nan ngà phất lụa bạch. Theo hầu Chiêu Văn vương có bốn người đeo kiếm ngắn. Ngoài ra Hoàng Mãnh còn dẫn theo mười người lính đội những quả sơn đựng tặng phẩm như cau, rượu, lụa, chè. Quân Đà Giang vừa trông thấy đoàn người tiến về phía trại của họ là họ đã hò hét náo động. Một viên tướng rất trẻ dẫn một toán dũng thủ vác mác sáng loáng xông ra vây Chiêu Văn vương và đoàn tùy tùng. Chiêu Văn vương thản nhiên, đường bệ chỉ quạt bảo viên tướng trẻ sông Đà: - Đưa ta vào chỗ chúa trại! Câu nói đầy quyền uy và tự tin của Trần Nhật Duật làm cho viên tướng trẻ sững sờ. Hai mắt anh ta mở tròn xoe nhìn trừng trừng con người phong nhã, bình lặng và đường hoàng đi lại giữa đám quân sĩ giáo mác hung dữ. Chiêu Văn vương cũng nhìn viên tướng trẻ. Anh ta trẻ quá, hầu như vừa tới tuổi dậy thì nhưng vóc dáng thật là cao lớn vũ dũng. Đôi mắt trong to của anh ta mau chóng chuyển từ hung dữ sang kính phục. Anh ta hầu như mất tự chủ, ngọn mác vẫn chĩa nhăm nhăm bên sườn Trần Nhật Duật nhưng sau câu nói của ông, anh ta bất giác bước giật lùi, mở đường và cũng là dẫn đường cho Chiêu Văn vương; ông hoàng trẻ cứ bình thản tiến bước. Chỗ ở của chúa trại Trịnh Giốc Mật giống như ngôi nhà làng của bộ lạc Hươu trong lúc chiến tranh với bộ lạc Cò vào thời các vua Hùng dựng nước. Chỉ thấy chông chà, giáo mác, chỉ thấy người đông nghìn nghịt đi đi lại lại vướng cả vào nhau. Ngoài sân, ngoài vườn, bếp núc bắc khắp nơi, khói bốc lên nghi ngút, chỗ này thui trâu, chỗ kia làm lợn. Trịnh Giốc Mật ngồi xếp bằng tròn trên chiếc chiếu giải giữa căn nhà sàn rộng thênh thang như sân đánh phết. Bên phải tù trưởng là bàn thờ tổ tiên, sau lưng ông là các cụ già cao tuổi. Trần Nhật Duật bước lên nhà sàn bằng chiếc thang gỗ ngắn. Ông đứng giữa cửa nhìn chằm chằm vào Trịnh Giốc Mật. Sau lưng Trần Nhật Duật, những dũng thủ Đà Giang vẫn chĩa mác vào ông, Trần Nhật Duật cười nói bằng tiếng Man Lão: - Ta đã đến! Tù trưởng Trinh Giốc Mật phải đứng bật lên, dẫn các bô lão ra đón Chiêu Văn vương. Ngay hôm ấy một buổi lễ ăn thề trang nghiêm đã diễn ra. Một bên Trịnh Giốc Mật, một số tù trưởng khác, các bô lão và con trai Trịnh; một bên, Chiêu Văn vương và các tướng tùy tùng, tất cả cùng trích máu bắp tay cho nhỏ vào một bình rượu lớn. Hai bên cùng đọc lời thề đời đời hòa hiếu, coi nhau như anh em ruột thịt. Mỗi người uống một hớp rượu có giọt máu của mọi người trong đó. Trịnh Giốc Mật hơn Trần Nhật Duật ngót hai mươi tuổi, làm anh. Nhưng đôi anh em kết nghĩa ấy, ở một mặt nào đó lại là một đôi bạn quên tuổi, tin cậy nhau, kính phục nhau. Con trai Trịnh Giốc Mật quý ông chú nuôi vô cùng, coi ông chú nuôi như ông thần ông thánh, mặt trời mặt trăng của anh ta. Anh ta chính là viên tướng trẻ đã chĩa giáo vào Trần Nhật Duật khi ông vào chỗ đóng quân của Trịnh Giốc Mật, anh ta chính là Trịnh Mác, Thượng phẩm Phụng ngự chuyên coi các ao cá trong hoàng cung. Chuyện ăn thề năm xưa của Trịnh Giốc Mật và Trần Nhật Duật mấy hôm nay ám ảnh tâm trí của Thượng hoàng Thánh Tông. Bởi vì chỉ còn vài hôm nữa đã đến hội thề long trọng của toàn thể hoàng tộc và văn võ trăm quan ở đền Đồng Cổ. Thánh Tông sau một lúc tư lự, đột nhiên bảo: - Ta muốn hỏi em một điều này. Em nghe rồi có thể vài hôm nữa hãy trả lời ta. Thượng hoàng ngước nhìn ra ngoài hiên như lơ đãng hỏi tiếp: - Giả sử nếu ta phải động binh lớn thì quyền Tiết chế thống lĩnh tất cả quân đội trong cả nước nên giao vào tay ai? Đó là một câu hỏi mà muốn trả lời được phải tính đếm đến tất cả mọi lực lượng trong nước. Bởi vì người cầm quyền Tiết chế phải là người được cả người dân đồng bằng cũng như dân sơn cước tin phục và nhất là phải được tất cả các vương hầu của ba chi trong họ Trần tin phục. Ba chi đó là: Chi trưởng gồm các vương hầu vùng Đông Bắc đất nước quen gọi là chi Vạn Kiếp thuộc dòng dõi của đức ông Trần Liễu. Chi thứ là chi Tức Mạc, hiện đang nắm giữ quyền chính và ngai vàng, chính là chi có Trần Nhật Duật, thuộc dòng dõi của tiên đế Trần Cảnh, em ruột của đức ông Trần Liễu. Chi út là chi hiện nay vẫn còn ở lại phần lớn ở đất quê Long Hưng, Thiên Trường. Chi này thực sự cũng có nhiều người làm quan làm tướng trong triều, nói một cách khác cũng chỉ là phụ thuộc vào chi thứ mà thôi. Thượng hoàng giơ tay ngăn không cho Trần Nhật Duật trả lời ngay. - Em đừng trả lời vội. Em cứ nghĩ cho kĩ vài ngày nữa hãy trả lời ta. Nhưng điều ta vừa hỏi em thì em hãy giữ riêng cho em mà thôi. Thế nhé. Bây giờ là lúc càng phải nghĩ đến những mối dây liên hệ máu mủ ruột thịt, phải nhớ tới những tình nghĩa đá vàng. Cũng gần như do một sợi dây vô hình, kì diệu dẫn dắt, Trần Nhật Duật cũng đang băn khoăn đến một nghĩa anh em: - Tâu hoàng huynh, em cũng đang định tâu bày một việc có liên quan đến người anh em kết nghĩa của em ở Đà Giang. - Em cứ nói. Lại đến lượt Trần Nhật Duật tư lự: - Thưa anh, chiến chinh có thể xảy ra. Trên khắp nước phải có đủ những đội quân thiện chiến. Lộ Đà Giang là một nơi phên giậu phía Tây Bắc. Trên ấy, các nghĩa sĩ lộ Đà Giang sẽ là những người lính can đảm nhưng hiện nay họ không có tướng giỏi luyện tập cho họ. Xin hoàng huynh hạ chỉ cho Trịnh Mác trở về châu Mai để cầm đầu cánh quân ấy. Thánh Tông ngần ngừ. Thượng hoàng chú ý tới Mác và biết anh ta có tài cho nên rất quý anh ta. Thượng hoàng không muốn xa anh ta, nhưng còn một lẽ nữa tuy mơ hồ nhưng cũng có ma lực rất lớn: Trịnh Mác còn ở kinh kì ngày nào thì lộ Đà Giang chắc chắn yên tĩnh ngày ấy. Anh ta chính là con tin mà Trịnh Giốc Mật đã gửi triều đình để triều đình yên tâm. Xin cho Trịnh Mác về châu Mai phải chăng chỉ là một ý xốc nổi của tuổi trẻ? Hay đây là một cách dùng người bằng tâm phục. Quả thật không gì bằng những người đã thực bụng theo. Chuốc được những con người như thế phải bằng đức nhân rộng như trời biển. Cổ nhân có câu: "Ràng buộc người bằng đức còn chặt chẽ hơn bất kì thứ gông cùm, tù ngục nào". - Thưa anh, Trịnh Mác đã được đào luyện hai năm nay ở Giảng Vũ đường. Đó là một tướng trẻ tuy chưa thao lược nhưng hào khí lắm. - Nhưng mà ta muốn mối giao tình giữa hai miền Đà Giang và kinh sư thắm thiết hơn nữa. Có thể.. Trần Nhật Duật tươi nét mặt: - Em định tâu với hoàng huynh hai việc nữa nhưng còn đang phân vân. Muôn tâu, toàn là việc vui mừng ạ. - Em nói đi. - Hiện nay Thượng phẩm Phụng ngự Trịnh Mác là cháu nuôi của em. Nó đã đến tuổi lấy vợ. Em định tâu hoàng huynh đứng ra xin cô quận chúa út nhà Nhân Thành hầu cho nó. - A, quận thượng chúa Bích Vân. Còn việc nữa? - Thưa anh, việc nữa là việc vui mừng của người em đồng nhũ của em. - Của Hoàng Mãnh, dũng thủ vô địch kinh thành à? - Bẩm vâng, Mai Sơn hầu Trịnh Giốc Mật có hai người con gái. Nàng cả đã gả cho công tử con chúa trại Thu Vật. Còn nàng hai chưa có nơi nào ưng ý. Mối lái thì nhiều đám đấy. - Thật là hai đám đẹp đôi. Em còn hỏi gì ta nữa cơ chứ? - Thưa anh em e nhà Nhân Thành hầu chê Trịnh Mác chưa môn đăng hộ đối, còn đám kia thì Hoàng Mãnh chưa có danh vị gì cả. Thượng hoàng Thánh Tông ngẫm nghĩ. Về việc Hoàng Mãnh chưa có danh vị gì thì cũng dễ xử thôi. Bây giờ Hoàng Mãnh đang là đệ nhất dũng thủ kinh thành cũng xứng đáng với một chức Điện tiền tướng quân. Chỉ duy đám nhà Nhân Thành hầu cần làm cẩn thận hơn. Phó tướng quân Nhân Thành hầu thất lộc đã lâu rồi, để lại hai người con trai. Người cả là Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư. Thái Tông khi chưa nhường ngôi lui về làm Thượng hoàng đã nhận Nhân Huệ vương làm con nuôi. Do là Thiên tử nghĩa nam nên Nhân Huệ vương được phong chức Phiêu Kỵ Đại tướng quân. Nhưng về sau Nhân Huệ vương phạm lỗi đã bị Thánh Tông sai đánh trượng rồi cách tuột quan chức đuổi về làm dân. Người em của Trần Khánh Dư vì thế cũng bị thất sủng theo. Hoài Thượng hầu Trần Văn Lộng cũng là người có tài kiêm văn võ nhưng không được dùng cho xứng với tài đó. Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư thì về Chi Linh, ở trong đất phong cũ của Nhân Thành hầu. Nghe nói anh ta đóng cửa thái ấp, không giao du với giới vương hầu quý tộc, mà chỉ mở lò hầm than buôn bán với các lái buôn chuyến về vùng gốm Bát Tràng, Thổ Hà hoặc về vùng đảo nơi có nghề sấy hải sản quý như bào ngư, hải sâm. Hoài Thượng hầu ở lại kinh thành cũng tránh chỗ đông người, trừ những buổi triều hội lớn buộc ai nấy phải có mặt. - Thôi được. Bây giờ vương đệ cho Hoàng Mãnh tiến triều. Ta sẽ phong cho y chức Điện tiền tướng quân, cho y coi quản một vệ Cẩm y Thánh Dực. Khi hôn lễ cử hành, y thành con rể Trịnh hầu, ta sẽ cho Hoàng Mãnh được tiến tước Minh tự. Tốt nhất là sai y lấy chức Điện tiền tướng quân lên Đà Giang cùng với Trịnh Mác luyện quân Man Lão sơn cước. Tại sao ta cứ bắt họ để con tin mà chính ta lại không gửi con tin cho các chúa trại.. Tại sao.. tại sao trong việc cởi bỏ oan khiên, hờn giận ta cứ đòi cả đôi bên cùng làm một lúc? Mà bên nào ở thế ngọn thác phải động thủ trước có phải không em? Đột nhiên Thánh Tông cả cười nói tiếp: - Còn việc vui mừng nhà Nhân Thành hầu thì em nói thuận tiện hơn ta. Mồng bốn này hội thề đền Đồng Cổ. Thề xong, em mời Hoài Thượng hầu về vương phủ chơi, em ướm thử trước đi. Nếu hai việc này tốt đẹp cả thì lộ Đà Giang vững như bàn thạch. Hoài Thượng hầu nếu có ý ngần ngại chê Trịnh Mác là người sơn cước thì ta sẽ phong cho y tước bá trước khi y được tập tước hầu châu Mai. Hôn lễ Trịnh Mác sẽ do ta làm chủ hôn. - Được như vậy thì thật là vui mừng cho bọn trẻ. Quan học sĩ coi quản việc từ hàn cung Thánh Từ là Đinh Củng Viên được gọi vào giao cho thảo chế ban phong. Ông học sĩ thấy hai anh em Thượng hoàng vui mừng hớn hở. Ông cũng mừng thay cho Hoàng Mãnh và Trịnh Mác là hai chàng trai mà ông yêu về tính, trọng về tài. Trên đường về vương phủ, Chiêu Văn vương rẽ vào thăm Nhân Túc vương Trần Toàn, người đứng đầu phủ Tông Chính chuyên coi sóc mọi việc của hoàng tộc. Trần Toàn so về thế thứ là hàng chú của Trần Nhật Duật. Ông ta thuộc chi út, vẫn sinh sống bằng nghề làm ruộng và đánh cá ở phủ Long Hưng. Khi tiên đế Trần Cảnh tức Trần Thái Tông lập phủ Tông Chính, Trần Toàn được chọn làm Phán thủ Đại tông chính, và được tiến phong vương. Thiên hạ thường nghĩ ông ta được vua chọn vào chức vụ trọng yếu này vì đức độ và tuổi tác, thực ra không phải thế mà nó có những uẩn khúc không ai nói ra. Chi Vạn Kiếp chi trưởng họ Trần và chi thứ Tức Mạc hiện đang giữ ngôi vua vốn có hiềm khích với nhau kể từ đời hai anh em Trần Liễu, Trần Cảnh là hai người mở đầu hai chi đó. Phủ Tông Chính coi sóc việc hoàng tộc phải lo cho cả họ đại thống, anh em hòa mục, cho nên chọn người chi trưởng hay người của chi thứ làm Đại Tông chính đều không tiện bằng dùng người của chi út Long Hưng. Năm nay Nhân Túc vương Trần Toàn đã trên sáu mươi tuổi, được cả họ trọng vọng về sự hiền lành. Công việc phủ Tông Chính không bận rộn và phiền toái như việc cai trị dân nhưng lại rất long trọng. Phủ Tông Chính chăm lo ngày kị các bậc tiên đế tiên hậu, ngày sinh nhật của Thượng hoàng và đương kim hoàng đế, ngày sinh nhật của hoàng thái tử, việc dựng vợ gả chồng cho các vương hầu, công chúa, quận chúa, công tử, công tôn, việc chọn mĩ tự để phong tước cho các tôn thất đến tuổi được tập ấm.. Tất cả những công việc ấy đã có lề thói, khuôn phép đặt sẵn của họ mạc, phủ Tông Chính chỉ đứng ra đảm đương việc thi hành. Công việc nhàn nhã nhưng trọng thể xứng với một vị tản quan đã già và thích hội hè, đình đám, chè rượu như Trần Toàn. Nhưng công việc đó đòi hỏi mọi nghi thức phải thật đúng với tôn ti trật tự, thành thử lúc nào cũng thấy Nhân Túc vương đăm chiêu dường như ông ta đang đau khổ dằn vặt, lo lắng vì công việc. Kì thực vẻ mặt ấy quả là thích hợp với một ông Đại Tông chính chuyên việc hòa giải các chi trong họ và chia thưởng, tiến tước cho cả họ, thành thử Nhân Túc vương tình cờ luyện được bộ mặt đó là cứ khư khư giữ lấy nó. Nhưng lần này đến thăm Nhân Túc vương, Trần Nhật Duật thấy ông Đại Tông chính cuống thật sự. Vừa nghe thấy gia tướng xướng tính danh Chiêu Văn vương đến thăm, Trần Toàn đã mừng quớ lên. Ông ta không kịp xỏ dép cứ xéo lấm ra đón tận thềm chính đường. Nhân Túc vương xưa nay vẫn coi Chiêu Văn vương là người hết sức thông minh, hành động lại quả đoán, việc gì đến tay cũng làm băng băng mà Nhân Túc vương lại sẽ phải thi hành một lệnh vua nan giải. - Trời ơi! Vương điệt, ta đang ao ước gặp vương điệt thì may sao cháu lại tới. - Lạy chú! Cháu mới ở Đà Giang về hôm qua. Hôm nay cháu tiến cung mừng thọ Thượng hoàng xong là rẽ vào để vấn an chú. Vừa nói, Trần Nhật Duật vừa ngắm ông chú. Nhân Túc vương lên kinh đã ngót mười năm nay nhưng ông vẫn còn hầu như nguyên vẹn cốt cách mộc mạc thôn dã của một ông già phú ông thú quê. Ông mặc áo vóc tía đã chững chạc nhưng mấy nếp khăn là quấn không khéo và ngắm cho kĩ thì ông vẫn "người đi đằng người, áo đi đằng áo". Nhân Túc vương vồn vã: - Chú vẫn mạnh, vẫn rượu. Nhờ trời ăn ngon ngủ kĩ. Ông mời Trần Nhật Duật vào chính đường, quát gia nô pha trà, quát thị nữ bày bánh trái, quát người quạt mát, quát kẻ đốt trầm om sòm. Hình như ông nghĩ có quát tháo om sòm như thế mới ra phong cách nhà quyền quý. Trong khi đó các viên lệnh thư gia, xá nhân thuộc quan của phủ Tông Chính cũng hớn hở như Nhân Túc vương. Những người này phần lớn đều nhiều hơn Chiêu Văn vương gần hai chục tuổi, có người còn gấp đôi tuổi ông. Nhưng họ kì vọng ở ông một kiến giải hồn nhiên nhờ vậy mà trở thành đúng cách. Với dòng họ Trần, thuộc quan phủ Tông Chính đều là tôn thất thuộc những chi, những nhánh rất xa phần lớn rơi rớt từ những nàng hầu, thứ thiếp, con hoang, nhưng ở trong cái phủ Tông Chính này quan chức ít được kể đến, trái lại thế thứ, tuổi tác là những cái luôn luôn được nại ra để sắp xếp trên dưới và để chia phần lộc nước vua ban vào những dịp có việc vui mừng ân tứ. Họ nhớ kĩ những tiểu tiết đến một mức độ vô lí: - Bẩm đức ông, tước Minh Tự Trần Hữu Pháp thuộc chi út, thế thứ bảy, tính từ đức cố tổ. Đức cố tổ đến lập nghiệp ở hương Tức Mặc, lấy ba vợ. Bà thứ ba đẻ hai con trai. Người con trai thứ hai thiên sang lập nghiệp ở cái gò bãi nổi cuối làng Tức Mặc lập thành chi út. Bẩm chi này không phấn phát nhưng các ngày kị, ngày húy giữ rất đủ lễ, nói về nghề nghiệp nhà thì con cháu chi này vẫn giữ được nghề đánh cá. - Bẩm đức ông, Tước liệt hầu Trần Đức sở dĩ đầu hói là thừa hưởng vẻ người của ngoại tổ Tô Trung Tự. Cho nên dịp ân tứ này không nên ban trâm cài tóc mà nên ban mũ phốc đầu. - Bẩm đức ông, ngày mười sáu tháng ba này là kị nhật của bà nhũ mẫu đã có công bú mớm cho đức Thái Tổ. Họ của bà bị phạt tự, hết con trai. Thượng hoàng thương tình cho thờ phụ bà ở bên ngoài cửa tả của Chiêu lăng. Xin cho lập một cái miếu riêng cho bà để khỏi phải thờ chung trong miếu thờ thổ địa. - Bẩm đức ông, đức Thái Tổ ta khi còn hàn vi có đi lại với một bà ở thôn Bà Liệt, sinh được đức ông Hoài Đức vương. Theo lễ thì con đã được phong thì mẹ phải được tặng. Xin làm sớ tâu phong cho bà làm thứ phi, và lấy tên huyện quê quán của bà làm hiệu. Bẩm thế là Tây Chân thái phi. Bẩm bài vị để thờ xin lập dưới chân bài vị của Thái hoàng thái hậu Hiển Từ. Và cứ như thế, thuộc quan phủ Tông Chính cứ bẩm báo luôn mồm nhắc Nhân Túc về thế thứ, về chi ngành, về dòng dõi, sở đắc, sở trường, hình dáng, tính nết cho chí những chi tiết lắt léo nhất trong đời tư của tất cả tôn thất họ Trần để Trần Toàn khu xử sao cho ơn mưa móc đã mưa thì mưa cho khắp, cho hợp lễ, cho đủ tình. Ấy thế mà cái việc nan giải lần này của Nhân Túc vương thì bọn thuộc quan cũng bó tay không biết nên làm thế nào. Họ càng hiểu kĩ mọi tình tiết mắc mớ trong dòng giống bao nhiêu thì họ càng tắc tị bấy nhiêu. Mấy hôm trước đây, đương kim hoàng đế Nhân Tông cho gọi Nhân Túc vương vào cung và phán: - Lần này, lễ thề ở đền Đồng Cổ có cả các đức ông ở chi Vạn Kiếp cũng về dự. Hoàng thái thúc cử người làm chủ tế đọc thệ thư hôm đó. Chỉ có một lời phán truyền ngắn ngủi như vậy mà phủ Tông Chính mất ngay không khí nhung lụa êm đềm đài các và chỉ còn trơ trỏng một thứ quyền rơm vạ đá. Bởi vì cả họ Trần đều biết mối thù giữa chi trưởng và chi thứ. Mối thù này có từ thuở họ Trần mới khai lập vương nghiệp. Bấy giờ Thái Tổ Trần Thừa và Trung Vũ vương Trần Thủ Độ đang làm quan tể dưới triều vua Lý Huệ Tông. Lý Huệ Tông không có con trai, sau lấy thêm bà Trần Thị Dung cũng chỉ sinh được hai người con gái. Nàng công chúa cả là Thuận Thiên, nàng công chúa út là Chiêu Thánh. Trần Thủ Độ bày mưu cho hai con trai của Trần Thừa vào hầu trong cung. Người anh là Trần Liễu lấy nàng Thuận Thiên làm vợ. Người em là Trần Cảnh lấy nàng Chiêu Thánh mặc dù cả hai lúc đó mới lên tám tuổi. Sau đó Trần Thủ Độ ép vua Lý Huệ Tông nhường ngôi cho con gái thứ hai. Vua con gái xưng vương hiệu là Lý Chiêu Hoàng và lẽ tất nhiên vua vợ nhường ngôi cho chồng. Cướp ngọt ngôi vua về cho họ Trần rồi, Trần Thủ Độ lập mẹo chôn sống tất cả tôn thất nhà Lý, và bày trăm phương nghìn kế để giữ ngai vàng. Khi ấy lòng người tao loạn, trăm họ chán ghét nhà Lý không giữ được kỉ cương trật tự trong nước để ai nấy yên ổn làm ăn. Nay họ Trần lên làm cho nước an dân no nhưng không phải vì thế mà người ta nhận chân giá trị công lao của họ Trần ngay. Lúc đó kẻ sĩ đọc sách cố tình lảng tránh việc giúp triều đình mới. Tôn thất nhà Lý chốn quê Đông Ngàn thì bỏ lên rừng núi, ẩn thân cũng có, mộ quân trả thù cũng có. Lo lắng vì vua Trần Cảnh còn ít tuổi quá, Trần Thủ Độ tôn Trần Thừa làm Thượng hoàng nhiếp chính việc nước. Nhưng chẳng may Thượng hoàng Trần Thừa lâm bệnh băng hà. Việc nước ngổn ngang, vua Trần Thái Tông lại chưa có con trai, mà nói cho đúng thì bấy nhiêu tuổi sao mà có con được. Trần Thủ Độ cực chẳng đã phải thi hành một độc kế: Nhân biết bà Thuận Thiên, vợ của Trần Liễu đang có mang, Trần Thủ Độ bắt Trần Liễu phải nhường vợ cho Trần Cảnh để mong bà Thuận Thiên sinh lấy một hoàng tử phòng hờ trước một sự bất trắc xảy ra. Còn đứa con ấy vẫn chỉ là giọt máu của họ Trần, "lọt sàng xuống nia đi đâu mà thiệt." Việc bị ép nhường vợ làm cho Trần Liễu uất hận bèn đem thủ hạ nổi loạn. Về sau cô thế, Trần Liễu phải đầu hàng và Trần Thủ Độ cho cắt đất An Sinh, An Bang, An Phụ cho Trần Liễu lập làm thái ấp nhưng kì thực là giam lỏng Trần Liễu ở đó. Chẳng có thế mà hiệu của Trần Liễu từ Phụng Càn vương lại đổi là An Sinh vương. An Sinh vương là vị vương sống yên. An Sinh vương ở đất phong lập ra chi Vạn Kiếp mà nay người con cầm đầu chi Vạn Kiếp chính là Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Đứa con có mang sẵn của bà Thuận Thiên bây giờ chính là Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang. Thái Tông Trần Cảnh không truyền ngôi cho Quốc Khang vì biết rằng không phải con mình. Thái Tông chờ bà Thuận Thiên đẻ đứa con sau mới lập làm Thái tử và truyền ngôi cho. Vị vua nối ngôi ấy nay là Thượng hoàng Thánh Tông, anh em cùng mẹ khác cha với Trần Quốc Tuấn và cũng là anh em con chú con bác với nhau. Chi Vạn Kiếp ít khi về kinh, trừ khi có chỉ vua triệu. Những năm trước đây, hội thề đền Đồng Cổ là hội thề của triều thần, cung Quan Triều của đương kim hoàng đế cử chủ tế. Lễ thề của triều thần thì quan tướng quốc làm chủ tế là phải. Vì thế trong nhiều năm nay vẫn do Thượng tướng quân Thái sư Chiêu Minh đại vương Trần Quang Khải đọc thệ thư trong hội thề. Nhưng năm nay, đột nhiên Thượng hoàng Thánh Tông triệu cả các đức ông chi Vạn Kiếp về kinh bàn việc nước. Lần này hội thề không chỉ là hội thề của triều thần mà là hội thề của toàn bộ tôn thất, cung Quan Triều không đủ quyền cử chủ tế, đương kim hoàng đế Nhân Tông giao việc đó cho Đại Tông chính Nhân Túc vương Trần Toàn. Lệnh chỉ nay chẳng khác một tảng đá gieo vào đàn cá đang tung tăng nhởn nhơ kiếm ăn trong bể cảnh. Phủ Tông chính lo cuồng lên. Ai không biết tính kiên nghị sắt đá của đức ông Chiêu Minh? Đức ông Chiêu Minh xưa nay giữ quyền chính rất chặt chẽ không để lọt một mảy may vào tay chi trưởng. Mà ai không biết lời trăng trối của đức ông An Sinh cho con trai: "Ta kén người tài dạy con thành người văn võ song toàn là để con đòi cho được ngai vàng thì ta mới yên lòng nhắm mắt nơi chín suối". Đức ông Hưng Đạo là người thâm trầm, lúc nào cũng cười nói như không nhưng ở đáy lòng kia ai là người dò được mớ suy tư mấy chục năm dằn vặt nó ra thế nào? Thế mà cả hai đức ông Hưng Đạo, Chiêu Minh đều đủ quyền uy để giữa triều đình chỉ mặt bất kì ai, hặc tội, trị tội. * * * Nhân Túc vương Trần Toàn rất mừng vì sự có mặt của Chiêu Văn vương. Cả phủ Tông Chính cũng mừng như ông Đại Tông Chính. Phải nói là cả phủ Tông Chính kì vọng ở đức ông Chiêu Văn một ngõ thoát. Họ cũng ham nghe chuyện Trần Nhật Duật kể, chuyện săn bắn, chuyện văn chương, chuyện cầm quân tiễu phạt ở những nơi biên viễn.. Những chuyện ấy từ cửa miệng của Trần Nhật Duật kể ra thật thú vị và vô cùng cuốn hút con người. Ngay cả những chuyện tưởng như bình thường khó làm cho người nghe thích thú như chuyện chăn tằm trồng dâu, chuyện trồng thuốc, trồng ngô, trồng khoai, trồng sắn mà Trần Nhật Duật kể lại cũng làm cho người ta thấy cả cái mát của gió đồng nội, thấy cả cái ngọt thơm của bát chè nấu bằng bột ngô nếp non nấu với đường cát hoa mai. Bởi vậy trong lúc Nhân Túc vương muốn đem cái việc nan giải ra hỏi thì bọn thuộc quan cứ quen cái thói thân mật họ mạc ra, vừa thân thiết vừa kính cẩn mà gợi chuyện, hóng chuyện Trần Nhật Duật. Nhân Túc vương phát cáu. Ông ta cắt ngang: - Bây giờ các ngươi muốn đi đâu thì đi, để ta bàn chút việc riêng với đức ông Chiêu Văn. Trần Nhật Duật mỉm cười ngắm cái mũi giống như quả quýt hôi của ông chú họ thích và cần rượu hơn cần cơm tẻ. Ông không tin rằng ông già này có việc gì phải lưu tâm ngoài những lạc thú thông thường nhất ở ngoài đời. Nhân Túc vương gấp gay cặp mắt nghĩ cách gợi làm sao cho câu hỏi chính xác nhưng vẫn kín đáo. - Ờ!.. Vương điệt này, năm nay hội thề long trọng lắm đấy! - Thưa chú, mười mấy năm nay mới có một ngày họ ta về kinh đông đủ thế đấy. - Cũng chỉ thiếu đôi ba người đang có đại tang phải ở nhà cư tang và đôi ba người ốm nặng. Cả họ đi thề.. cháu có thấy lễ thề khác với mọi năm không? - Thưa chú mọi năm chỉ có văn võ bá quan, còn năm nay thêm các vị ở Vạn Kiếp về. Nhân Túc vương kéo dài giọng: - Đấ.. ấy. Quan gia giao cho chú cử đức ông chủ tế mà chú khó nghĩ quá. - Thưa chú làm sao mà chú khó nghĩ ạ? Trần Toàn lúng túng đâm liều: - Thế cháu bảo nên cử ai? Trần Nhật Duật trong lòng sửng sốt. Trong một ngày có hai người hỏi ông hai điều vừa giống nhau vừa khác nhau. Giống là việc cử người, khác là cử chức vụ. Nhưng rõ ràng cả hai câu hỏi chỉ nhằm vào việc cân nhắc giữa hai đức ông Chiêu Minh và Hưng Đạo. - Thưa chú chắc chú muốn cân nhắc xem nên chọn ai giữa đức ông hoàng Ba và đức ông trưởng họ? - Đúng đấy. Không biết ta nên cử đức ông Chiêu Minh hay đức ông Hưng Đạo? Cháu bảo thế nào? - Thưa chú việc này Quan gia đã giao cho phủ Tông Chính, cháu không dám dự bàn. Cháu vừa ít tuổi vừa là phận con cháu. - Nhưng chú nghĩ khác. Cháu là người đã tình đã thân lại thạo xử thế. Chú hỏi thật cháu nếu cháu chọn thì cháu chọn ai? - Mọi năm thì cháu cử anh hoàng Ba còn năm nay cháu cử đức ông Hưng Đạo. Nhân Túc vương hỏi gặng: - Như thế ổn chưa? Chú sợ chưa ổn! - Hay là.. Nhân Túc vương hỏi cướp lời: - Hay là sao cơ? - Hay là chú hỏi thẳng anh hoàng Ba hay đức ông Hưng Đạo xem sao. Trần Toàn thuỗn mặt ra. Quả thật lần này sự hồn nhiên của Trần Nhật Duật không giúp được gì cho Trần Toàn. Chỉ nghĩ đến tính kiêu hãnh của Chiêu Minh vương, Trần Toàn đã lạnh gáy. Còn nhớ việc tiếp thằng Sài Thung sang sứ lần thứ nhất, vua Nhân Tông và Chiêu Minh vương đang đem quân tuần thú phương nam, Thượng hoàng phải cho triệu Trần Quốc Tuấn về kinh đối phó với thằng Sài Thung. Thượng hoàng đã định phong chức Đại Tư đồ cho Hưng Đạo vương để danh chính ngôn thuận có vị thế chức tước tiếp sứ. Hưng Đạo vương biết tính Chiêu Minh vương, đã từ chối nói rằng ông xin nhận việc tiếp sứ còn phong chức thì hãy hoãn lại chờ Quan gia và Thái sư về sẽ hay. Việc tiếp sứ làm rất hoàn hảo, thế mà khi Quan gia và Chiêu Minh vương về kinh, việc phong tước bị dẹp đi không kèn không trống. Bây giờ đem việc cử chủ tế ra hỏi thẳng đức ông Chiêu Minh, có khi đức ông cho là hỏi móc hỏi máy hoặc là nịnh thối rồi đức ông hặc tội cho. Rồi thì nghĩ cho kĩ được hặc tội ngay còn là khá chứ đức ông cứ im ỉm trong bụng thì chửa biết mắc vạ tày đình vào thân lúc nào? Trần Toàn ngẩn mặt ra khi Chiêu Văn vương vái chào xin lui: - Việc tế tự, chú cứ phép công chú làm. Lễ thề của cả họ, ông trưởng họ làm chủ tế là đúng nhất. Nhân Túc vương giữ chặt hai tay cháu hỏi cố thêm: - Cháu chắc không bận gì chứ? Cháu không bận gì thì cháu tạt vào phủ Chiêu Minh hỏi hộ cháu hoàng Ba cho chú một câu thì hay quá? Trần Nhật Duật cười, hứa sẽ làm theo lời ông chú. Trên đường về, Chiêu Văn vương rẽ vào phủ đệ Chiêu Minh thật nhưng gia nô thưa với đức ông rằng Chiêu Minh vương đi săn bên rừng Sặt đã hai ngày nay chưa về. Chiêu Văn vương hỏi anh mình đi săn với ai thì người gia nô thưa một câu làm cho đức ông hoàng Sáu phải sửng sốt rồi mau chóng chuyển sang trầm tư: - Thưa đức ông, vương gia con đi săn với đức ông Hưng Đạo. * * * Chú thích (1) Lễ giải tù binh vào đền thờ các vua trước để tấu cáo chiến thắng.
Chương 4 Bấm để xem Mùa xuân đi săn! Không ai làm như vậy bởi vì mùa xuân là mùa thú sinh đẻ. Vì thế Trần Quang Khải tổ chức cuộc đi săn này chỉ bằng bẫy lưới nhằm bắt trọn từng bầy dê núi, kể cả các con mới đẻ để đem thả vào những cánh rừng trong châu Ái. Giống thú quý này vì sống trong cánh rừng gần kinh thành nhiều người săn bắt quá, nhất là săn bắn bằng lưới dồn lưới đuổi cho nên chúng đã ít đi rất nhiều. Trần Quang Khải muốn đem thả chúng vào vùng núi đá giáp giới giữa châu Ái, châu Hoan để lưu lại cho đất nước sau này một giống thú quý. Đi từ trên mỏm núi cao Chiêu Minh vương Trần Quang Khải nhìn sang phía bên kia con sông. Ông trông thấy đoàn thợ săn vùng sông Cà Lồ dắt theo những đàn chó săn nổi tiếng dữ tợn và can đảm. Cho đến lúc cuối cùng của cuộc săn, người ta mới nghĩ rằng mặc dù lần này chỉ nhằm bắt sơn dương nhưng những thú dữ khác vẫn cứ có. Muốn tránh nguy hiểm cho thợ săn tốt nhất là cho gọi phường đem thêm chó tới. Đằng sau mấy phường săn, Trần Quang Khải nhìn thấy một đoàn người ngựa di chuyển lên thượng lưu sông. Rõ ràng là những người này đang khép một mắt của vòng vây mà từ ba ngày nay đã bủa chung quanh khu rừng búng báng rất rộng ở mé sông Cà Lồ. Trần Quang Khải nhìn thấy người cưỡi con ngựa dẫn đầu đoàn người giơ tù và lên thổi một hồi dài. Đó là hiệu lệnh cho cả đoàn mau chóng vượt qua con sông mùa này cạn nước để chiếm lĩnh điểm hợp vây. Người thổi tù và đó là Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Trần Quang Khải gọi tả hữu đem ngựa đến. Ông ra lệnh cho một gia tướng: - Nhà ngươi thay ta chỉ huy cuộc săn. Ta lại chỗ đức ông Hưng Đạo. Ngươi không cho bất kì ai biết ta ở đâu. Trần Quang Khải lên ngựa, ông chỉ mang theo một vệ sĩ thân tín. Hai con ngựa phi dọc theo bờ sông tiến về phía trước nơi có một ngọn miếu cổ bỏ hoang. Khi ông tới nơi đã thấy Trần Quốc Tuấn ngồi nghỉ ở cái sập lễ xây bằng gạch phía trước bàn thờ. Chính Trần Quốc Tuấn đã giao việc chỉ huy toán thợ săn cho gia tướng của mình còn ông đến miếu này rõ ràng là có hẹn trước với đức ông hoàng Ba. Hai người vái chào nhau vừa kín vừa thân. Trần Quang Khải nói: - Đệ thấy anh trưởng phóng ngựa như bay xem ra phong độ vẫn như xưa. Trần Quốc Tuấn cười. Ông đã ngoài năm mươi tuổi nhưng thực ra với một người sống ở thôn quê không khí trong lành, ăn ngủ điều độ lại luyện tập võ nghệ đều đặn thì năm mươi tuổi chưa phải là tuổi già. Có chăng tuổi này là tuổi thực chín để làm những công việc lớn. Đó là ông già quắc thước, gân guốc, râu ba chòm dài rậm, đôi mắt sáng lấp lánh dưới đôi lông mày to dài hình nét mác. Ông mặc một chiếc áo dài thâm may chẽn chân xỏ đôi hia kị sĩ cùng màu thâm, ngang sườn thắt dải lưng màu vỏ dà bình thường. Nếu chỉ bằng vào quần áo thì không ai có thể ngờ được ông già này lại là Trần Quốc Tuấn, vị vương trưởng tộc họ Trần, vị vương quyền uy như một người chủ nợ chưa hé răng đòi chi thứ một chiếc ngai vàng. Trần Quang Khải còn trẻ. Ông mới bốn mươi tuổi, cái tuổi phương cường vừa có sức khoẻ để xông xáo, vừa có kinh nghiệm của một người trí lự. Ngược lại với Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải mặc áo vóc tía thêu rồng bốn móng may chẽn như kiểu áo chiến. Ông thắt thắt lưng xanh. Bên sườn trái một thanh bảo kiếm vỏ thau cẩn chỉ bạc, thanh kiếm có cái chuôi ngà nạm hai con thuồng luồng bằng vàng. So với anh, Trần Quang Khải không cao lớn bằng, nhưng ông có dáng người cực kì linh hoạt và sắc sảo. Hai người mời nhau ngồi xuống cái sập lễ xây bằng gạch. Trần Quốc Tuấn mở một cuộn giấy màu vàng ra: Đó là một tấm bản đồ vùng Đông Bắc. - Theo như thư trước chú viết về cho anh, anh đã cho thư nhi vẽ lại tấm bản đồ này. Chú hỏi về thế đất vùng này thì tốt nhất là vẽ ngay nó ra. Rõ ràng hai người đều muốn làm việc thật nhanh gọn, Trần Quang Khải cúi xem bản đồ. Ông nói: - Chỗ này vẫn là nơi chúng qua. Ông chỉ tay xuống một hẻm núi ở phía bắc lộ Lạng Giang. Từ hẻm này một đường son nâu tượng trưng cho con đường cái quan ngoằn ngoèo chỉ xuống kinh thành Thăng Long. - Trước đây quân Tống đã có một cánh quân xuyên cánh rừng phía tây nhưng vẫn chỉ là cánh quân phụ. Vả chăng hành quân đường này không sao biện nổi lương. Trần Quang Khải cuộn tấm bản đồ lại, ông bồi hồi nhìn Trần Quốc Tuấn. Trước đây ít hôm ông chỉ muốn nhờ Trần Quốc Tuấn chỉ dùm cho địa thế vùng đông bắc vì Hưng Đạo vương là người rất thông thạo vùng này. Mà thực ra, Chiêu Minh vương cũng chỉ mượn cớ để cho tình anh em giữa ông và Trần Quốc Tuấn thêm thân. Những gì cha ông để lại, cả những hiềm khích đều dai đều bền. Giữa hai người đó là tình anh em con chú con bác mà cũng là anh em cùng mẹ khác cha. Ấy thế mà trong nhiều năm hai người nhìn nhau ngượng ngùng. Thiên hạ đa sự thì cho là hai vị huynh trưởng trọng yếu nhất của chi trưởng và chi thứ bị mối hiềm truyền kiếp du vào thế đối nghịch. Thực ra không phải như thế. Mỗi thế hệ trưởng thành phải gánh trên đôi vai mình những trách nhiệm mà trăm họ và đất nước giao cho. Thời cuộc bây giờ đang đòi hỏi họ phải sát cánh với nhau. Đó là khía cạnh dịu đi của mối hiềm xưa. Nhưng cũng có những khía cạnh trầm trọng hơn xưa. Nếu như trước đây là mối oán thù giữa hai người Trần Liễu và Trần Cảnh thì bây giờ người ta đã có thời gian sàng lọc để nhận chân nguyên nhân gây ra không phải là Trần Cảnh mà là Trần Thủ Độ. Gia dĩ Trần Thủ Độ làm như vậy cũng vì lợi ích của toàn họ Trần. Công lao của Trung Vũ vương càng ngày càng rõ rệt có ích cho xã tắc. Có thể nói tình hình hỗn loạn cuối đời Lý đã chấm dứt. Một xã hội mới hình thành dần dần. Trăm họ no đủ, mùa màng trúng liên tiếp, đêm đêm cổng ngõ không phải đóng chốt, của rơi ngoài đường không ai nhặt. Chi Vạn Kiếp chẳng còn lí do gì để trách cứ Trần Cảnh, cũng chẳng còn lí do gì để trách cứ Trung Vũ vương Trần Thủ Độ. Nhưng ở trong lòng những người chi trưởng, người ta lại thấy nảy sinh một mối băn khoăn mới, nhất là những người có đọc sách: Đó là chính kiến "ngôi vua phải nằm trong tay ngành trưởng". Hiện nay chi thứ Tức Mặc giữ ngôi báu, Trần Quang Khải là người chủ chốt nắm giữ binh quyền, chính quyền. Còn người đại diện cho chi trưởng Vạn Kiếp là Đức ông Hưng Đạo. Cho nên hai người này thân mật hay lạnh nhạt với mức độ nào đó đều được triều thần, hoàng tộc và cả kẻ địch chú ý tới. Trần Quốc Tuấn ngắm đăm đăm Trần Quang Khải: - So với hồi tháng trước chú Ba nom gầy yếu hơn. Nhất là chỗ ấn đường có gân xanh nổi lên. Chú Ba nên bớt rượu đi. Ta nghe tả hữu nói chú Ba uống rượu nhiều lắm đó. Nam vô tửu như kì vô phong. Trai không rượu như cờ thiếu gió. Cổ nhân đã nói như thế. Trần Quang Khải cả cười. Ông không biết trả lời anh như thế nào cả. Thực ra ông vẫn có uống rượu nhưng uống cũng ít thôi, ông có sút người đi là vì ngót một năm nay ông làm việc quá sức. Nào việc triều chính, nào việc quân cơ mật, nào việc duyệt xét bạ tịch các lộ xa xôi ở ven biển và vùng rừng núi tây bắc, nào việc tế lễ của quốc gia và dòng họ.. có thể nói việc to việc nhỏ ông đều để mắt đến hết. Không phải Trần Quang Khải không hiểu rằng người làm việc giỏi là người biết xếp việc và chọn người giúp việc sao cho mình vẫn thư nhàn mà mọi việc đều chạy băng băng. Cũng không phải ông không chọn được người tin cẩn hoặc không biết chọn người. Lại càng không phải ông tham quyền cố vị. Việc của triều Trần, việc của quốc gia sơn hà xã tắc do hoàn cảnh lịch sử dun dủi đã rơi trọn vẹn vào tay ông. Lúc bình thì quyền thế danh lợi chen trộn vào nhau nhưng đến khi quốc gia có chuyện tày đình thì người ta mới thấy gánh nặng trĩu trên vai những người có trách nhiệm. Đúng, lúc ấy chỉ trách nhiệm mới nổi rõ lên trên mọi sự. Trần Quang Khải muốn thử xem mình làm việc được đến mức nào và khả năng của ông bao quát được đến đâu? Bây giờ thì ông khẳng định được rằng ông có sức làm việc rất lớn, ông có khả năng bao quát một khối lượng công việc phức tạp, có nhiều mặt, nhiều loại, có tỉ mỉ cụ thể, có việc đòi hỏi một sự tổng định đại cương hết sức trừu tượng mà kết quả của loại công việc này cũng không thể tính đếm cụ thể được nhưng đó cũng là những công việc vô cùng quan trọng mà lịch sử đã minh chứng bằng gương thành bại của biết bao bậc tiền bối. Tuy thế qua lần thử thách này một ý nghĩ đến với ông. Nếu ông có khả năng lớn như thế thì những người khác cũng có. Cần phải huy động được tiềm lực của tất cả mọi người vào sự nghiệp chiến đấu của đất nước. Chỉ cần người cầm quyền nhìn rõ và bạo dạn giao việc. Và thế là một mối lo lắng mơ hồ nảy ra trong ông: Người cầm quyền ấy là ông hay là ông và vài người khác? Trả lời được câu tự hỏi đó không phải là dễ dàng. Ông đã trằn trọc nhiều đêm. Ông đủ tài, đủ sức đảm đương trọng quyền. Ông cũng nhận rằng nhiều người trong anh em cùng họ cũng đủ tài đủ sức như ông hoặc hơn một chút, kém một chút. Ví như Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, như Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc, Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật, Hưng Ninh vương Trần Tung, Tĩnh Quốc vương Trần Quốc Khang.. Đem so sánh đến cùng, xứng đáng giữ trọng quyền có hai người là ông và đức ông Hưng Đạo. Tài sức ngang nhau, kiến văn quảng bác, đọc thông kim cổ bốn phương, hào khí hiên ngang, trí lực sâu sắc. Đó là hai người có tài nguyên thủ và có đức thu phục được trăm họ. Có thể ông, Chiêu Minh vương trẻ trung hơn, xông xáo sát phạt hơn một chút còn đức ông Hưng Đạo già dặn hơn, điềm đạm quyền biến hơn. Nhưng chỗ hơn kém ấy cũng chỉ chút xíu có thể nói hầu như không đáng kể. Chỉ mới so sánh thầm thôi ông đã băn khoăn, Chiêu Minh vương đã phải triệu phó quan của ông đến vấn kế. Đó là quan đại học sĩ Lê Văn Hưu. Ông này năm xưa đỗ bảng nhãn, đã từng làm việc trong Viện Hàn lâm trong nhiều năm sau đổi sang làm việc của quan chép sử trong Thái viện sử. Khi hoàng tử Quang Khải lớn lên, để trong hoàng cung không tiện, vua cha bèn phong tước vương Chiêu Minh và đưa ra ngoài hoàng cung, mở vương phủ cho ở, cử quan giỏi làm phó để giúp việc trong mạc phủ nhưng kì thực là làm hai việc: Một là dạy dỗ ông hoàng tử mới được phong vương thành người có tài đắc dụng với quốc gia và hoàng tộc, hai là giám sát vị vương ấy và chịu trách nhiệm với nhà vua về đức trung quân của người học trò vương giả. Có nghĩa là phải dạy và kèm chặt hoàng tử trẻ, dẫn ông ta đi đúng đường là giữ vững phận thần tử khi vua cha truyền ngôi cho thái tử. Hoàng tử trẻ phải biết trung thành với vị vua mới anh mình, người được vua cha đã chọn để nối ngôi. Nếu ông ta trung thành, ông phó quan sẽ được khen thưởng trọng hậu, nếu ông ta nổi loạn tranh ngôi thì triều đình sẽ phát quân trừng trị cả hai thầy trò. Lê Văn Hưu được cử làm phó quan của đức ông Chiêu Minh cũng với trọng trách như thế. Khi Thánh Tông lên ngôi, Trần Quang Khải được anh trọng vọng. Ông từ những chức trấn thủ nhiều lộ quan trọng như lộ Hồng, Khoái, Hoàng Giang, Thanh Hóa.. và mau chóng được giao quyền Tể tướng Thái sư, nắm trong tay cả chính quyền lẫn binh quyền. Trải qua các chức, Trần Quang Khải đi đến đâu cũng mang theo Lê Văn Hưu, ông bảng nhãn này trở thành người tả hữu không thể thiếu được của Chiêu Minh vương Trần Quang Khải. Mãi cho đến khi Trần Quang Khải về kinh nhận chức Tể tướng, Lê Văn Hưu mới thôi chức phó quan để nhận quan chức của triều đình. Ông chuyên tâm vào việc chép sử và soạn bộ sử của nước ta từ thời các vua Hùng lập quốc cho tới bây giờ. Tuy vậy, đôi khi gặp việc khó khăn, éo le, trọng đại, đức ông Chiêu Minh thường tìm đến bậc thầy mình để vấn kế. Việc chọn nguyên thủ lần này đúng là một việc trọng đại. Trần Quang Khải mời Lê Văn Hưu đến phủ Thái sư vào một buổi tối, đối ẩm song bôi, đánh với nhau một ván cờ tướng. Lê Văn Hưu không còn lạ gì tính người học trò trẻ của mình, ông cứ uống rượu, cứ đánh cờ thản nhiên và điềm đạm. Đầu canh hai, thình lình Chiêu Minh vương dẹp bàn cờ, giơ tay đuổi tả hữu ra hết và ngồi trân trân suy nghĩ. Lê Văn Hưu cũng không hỏi. Ông quan chép sử thu tay trong lòng và cũng im lặng nhìn người học trò của mình. Ông thừa hiểu người học trò của mình lúc chưa muốn nói thì có cậy răng cũng không nói mà lúc muốn nói rồi thì cũng không gì ngăn cản nổi. Lê Văn Hưu ngồi lặng thinh nhìn Trần Quang Khải. Ông già chép sử biết tỏng cơn phong ba trong lòng người học trò mình. Vốn là kẻ chép sử, quen với việc phải nghiền ngẫm biết bao chuyện cổ kim cân nhắc và đánh giá chúng để chép lấy đôi hàng chữ, Lê Văn Hưu như người sống ngoài thời gian. Việc một nghìn năm trước với ông cũng có khi như việc mới xảy ra và việc hôm nay tưởng như chỉ là việc quá ư xưa cũ. Mọi người, mọi việc trong tâm trí ông như đông cứng lại theo mẫu sử bút cổ: Viết sử là để khuyên can thiên tử, răn đe chư hầu, trấn áp các đại phu. Cho nên giới vương giả quyền quý đối với ông vốn cực kì quen thuộc, họ cũng chỉ là những con người có thể thành hay bại, có thể vinh hay nhục, có thể được sử sách nêu tên bằng chữ vàng chói lọi hay bôi nhọ bằng giấy trắng mực đen. Công việc của ông từ mười năm nay được hoàng đế sủng ái giao cho đã làm cho vô khối công hầu khanh tướng hoảng sợ ngầm. Mỗi bận gặp gỡ ông họ cứ lấm lét thăm dò bằng những lời ngọt ngào mong được ông lộ cho đôi điều về cái đức cái nhân cái trí cái dũng của họ dù chỉ tí chút để họ mừng còn ngược lại nếu ông nghiêm mặt không nói (vì tính Lê Văn Hưu lầm lì) hoặc ông đang bận nghĩ một chuyện gì khác mà không trả lời là họ băn khoăn lo lắng. Trần Quang Khải vốn là người có đức lớn, ông không ham danh vọng, không ham giàu sang mặc dầu ông sống trong khung cảnh giàu sang danh vọng từ tấm bé. Những điều Lê Văn Hưu đã rèn dạy ông từ thơ ấu có điều ông theo, có điều ông không chịu nhưng chỉ duy một chữ "Hành" là ông tâm đắc nhất. Ông không thể có một ngày một khắc ngồi không. Con người không làm việc đối với ông không khác gì thú vật. Lê Văn Hưu thừa hiểu tâm tính đó của Trần Quang Khải. Vậy thì học trò của ông có băn khoăn thì chỉ vì công việc mà là những việc quân quốc trọng sự. Chả phải suy nghĩ sâu xa ông cũng đoán ra đó là việc gì. Và ông cứ ngồi nhìn.. Trần Quang Khải đột nhiên hỏi: - Lão ân sư, nhà Nguyên có dị chí, ai là người đảm đương được trách nhiệm cự địch? Đúng rồi, ông đoán đúng rồi, học trò của ông băn khoăn về vị thế của nguyên thủ trọng thần. Lê Văn Hưu điềm đạm mỉm cười hỏi lại: - Hay lắm, vương gia hỏi câu ấy cho ai vậy đó? Câu hỏi của Lê Văn Hưu làm cho Trần Quang Khải sửng sốt. Chiêu Minh vương nhíu cặp mày lưỡi mác suy nghĩ trầm ngâm. Như thế là Lê Văn Hưu có thể có nhiều cách trả lời khác nhau tùy theo phía người cầu nghe. - Xin lão ân sư nói rõ thêm. - Được lắm, tôi là người được vương gia coi như sư phó, tình thân, tâm phúc, tri ngộ đã lâu dài. Đây này, vương điệt nhi, ta nói rõ ý ta. Việc chọn người có thể vì hoàng gia, có thể vì hoàng thượng, có thể vì ngành trưởng hay ngành thứ và cũng có thể vì giang sơn trăm họ. Vương điệt nhi chỉ cần nghĩ một tí thôi là cũng thấy câu trả lời nên như thế nào. Trần Quang Khải suy nghĩ rất lung. Câu nói của Lê Văn Hưu rõ ràng giúp cho ông xếp sắp lại bao mối lo âu lộn xộn trong đầu. Chợt Lê Văn Hưu lại tiếp: - Nên trả lời như thế nào ư? Đâu chỉ nên dừng lại ở đó mà nên vì ai để lựa chọn cách nên theo. Như thế lại càng rõ, mặc dù sự thật quả có tàn nhẫn, Trần Quang Khải hiểu rằng thầy mình đã khéo vạch ra chỗ khiếm khuyết trong cách suy nghĩ của ông. Lê Văn Hưu lại cười, ông già đã từng danh đứng tam khôi thừa hiểu ý nghĩ của Trần Quang Khải. Nhìn học trò, Lê Văn Hưu mừng thầm và thấy lúc này thiện lương đang đột khởi thì dấn luôn tí nữa cũng hay. - Vương gia nên nhớ cổ nhân đã có câu: "Tự tri giả anh, tự thắng giả hùng". Biết được mình là anh, thắng được mình là hùng. Bậc anh hùng chỉ có vậy đó thôi. Trong việc chọn nguyên thủ trọng thần lần này, người quyết là vương gia. Chẳng những cần người có tài mà cái chính là phải quy tụ được hoàng gia, chư tướng, anh hùng nghĩa sĩ và trăm họ. Lê Văn Hưu chỉ nói có vậy nhưng dư thừa sức thuyết phục với Trần Quang Khải và Chiêu Minh vương quả quyết vào cung bàn riêng với Thượng hoàng Thánh Tông một buổi tối. Sau đó người ta thấy có chiếu chỉ triệu đức ông Hưng Đạo tiến kinh bàn việc quân quốc trọng sự. Hưng Đạo vương không bao giờ ngờ tới việc tiến kinh của ông nảy ra từ bữa rượu giữa thầy trò ông già chép sử. Ông lên kinh và mơ hồ nhận thấy đức ông Chiêu Minh hết sức chăm chút ông một cách kín đáo. Trong sự chăm chút đó, đức ông Chiêu Minh còn tỏ ra kính trọng và tin cẩn Hưng Đạo vương bội phần. Từ việc to việc nhỏ, Chiêu Minh vương đều khéo léo hỏi ý ông, lắng nghe và thân mật bàn bạc. Ngay việc tìm hiểu địa thế vùng đông bắc này chả hạn, tuy nó là việc quan trọng đó nhưng đâu đã phải đến hai đức ông lo lắng nhiều. Nó chỉ là một trong những cái cớ để hai người mỗi lúc mỗi thân thiết gần gũi nhau thêm, và mỗi lúc mỗi quen có nhau. Trên bờ sông Cà Lồ hôm đó cuộc săn thật mĩ mãn. Người ta bắt được hơn mười đôi sơn dương trong đó có ba đôi mới được ba năm tuổi, đúng vào thời sinh sản thuận lợi. Trần Quang Khải sai đóng cũi bầy dê. Đàn dê được đưa qua Thăng Long một cách ồn ào và lộ liễu, chúng được thuyền quân chở thẳng xuống phía nam để thả vào những cánh rừng đại ngàn giáp ranh hai châu Hoan, Ái. Nhưng rất ít người lưu ý và cũng ít người được biết có cuộc gặp gỡ giữa hai đức ông.
Chương 5 Bấm để xem . Theo tập tục của dân ta, người ta coi anh em đồng nhũ như một đôi bạn chung thân gắn bó với nhau vì đã lớn lên và được nuôi nấng bằng cùng một dòng sữa mẹ. Trần Nhật Duật và Hoàng Mãnh lại còn là anh em đồng tuế: Anh em cùng tuổi là một cặp mà hình như thiên nhiên đã ràng buộc họ, khiến họ phải luôn luôn sống bên nhau, cùng sống cùng chết, cùng vinh cùng nhục, cùng sướng cùng khổ với nhau. Xưa kia, khi cả hai người còn niên thiếu, họ được nuôi chung với nhau trong một cung riêng. Họ cùng được ăn một mâm, nằm trên cùng một chiếc giường, chung một lá màn che muỗi. Tuy vậy thể chất hai người vẫn khác nhau rất nhiều. Trần Nhật Duật thuộc dòng giống một họ mà ngay khi chưa cướp được ngai vàng đã giàu có bề thế. Thế mà tính từ khi họ đã cướp được ngai vàng cho tới giờ cũng đã ba đời. Cho nên ông, hoàng tử Chiêu Văn, là một cậu bé quý tộc đã lọc giống, duyên dáng, thanh tú, lịch sự từ cách ăn mặc, cách nói năng, cách chơi bời cho chí thể chất hình hài. Cổ tay ông thon nhỏ, những ngón tay tháp bút, một mái tóc tơ đen láng. Trần Nhật Duật đẹp một vẻ thư sinh mặc dù theo lề thói tộc họ, người ta đã buộc hoàng tử Chiêu Văn luyện tập võ nghệ thật giỏi ngay từ khi còn nhỏ. Hoàng Mãnh cũng được nuôi trong gấm vóc cung đình từ năm lên một nhưng anh vẫn giữ cái thô mạnh hoang sơ của thôn dã, cái bình dị của suối sông, cái cao rậm của rừng núi. Hai con người khác nhau như nước với lửa ấy đã quấn quýt lấy nhau từ thuở nhỏ rất thắm thiết. Hình như thiên nhiên đã tạo ra hai thế đối lập đó để cho chúng hài hòa vẻ đẹp của trời đất. Hoàng Mãnh là một đứa trẻ hiếu động, nghịch ngợm. Trong lúc chơi đùa, nó được người ta dạy là phải nhường hoàng tử Chiêu Văn, nó cũng làm theo trừ khi có cái gì làm cho nó quá say mê đến quên cả thân phận. Trong những lúc hiếm hoi đó, nếu là một thứ đồ chơi thì Hoàng Mãnh cướp nghiến còn nếu là một chuyện cãi cọ thì Hoàng Mãnh cũng đoạt lời bằng được. Năm Trần Nhật Duật mười lăm tuổi, người ta xây phủ đệ Chiêu Văn bên ngoài hoàng thành. Người ta đưa cả hai cậu bé ra ở ngoài đó, triều đình cử hai quan Hàn lâm dạy Trần Nhật Duật và Hoàng Mãnh học kinh sử. Những lúc máu Đông A bốc lên, Trần Nhật Duật hay rủ người em khác mẹ là Bảo Uy vương Trần Duy đi chơi ngoài phố, hễ thấy đám vật, đám võ nào cũng sà vào thử chơi vài keo. Có bận đến nỗi xảy ra gây gổ đánh lộn với thiếu niên phường phố. Những bận ấy, chính Hoàng Mãnh là đứa đứng ra đánh mở đường cho hai tiểu vương tháo chạy. Có bận đã bị no đòn mà lúc về phủ Hoàng Mãnh còn bị quan Hàn lâm quở trách là con nhà bách tính kém lễ. Hoàng Mãnh phải cắn răng chịu nỗi bất công, nhục mạ đó để giấu tội cho Chiêu Văn vương rồi sau đó mới lựa lời khuyên nhủ người anh em học hành cho tử tế, tu thân trui rèn bản lĩnh sao cho sau này đủ vững vàng bước vào đời.. Thực ra Trần Nhật Duật tuy ham chơi nhưng việc luyện võ học văn vẫn tấn tới. Đúng là một con người thông minh bẩm sinh, chẳng những lầu thông kinh sử, đọc khắp bách gia chư tử, đọc rất kĩ những bộ sách của các tác gia triều Lý, tay ghi miệng đọc mà hễ còn hoài nghi điều gì thì dù canh đã khuya vẫn không chịu tắt đèn đi ngủ. Ông lại có biệt tài về học tiếng nước ngoài, tiếng Man Lão nữa. Thời gian trôi qua, Chiêu Văn vương đã hai lần được cử giữ chức trấn thủ những lộ đất rộng dân đông như Thanh Hóa, Đà Giang, ở nơi nào ông cũng làm tốt mọi việc quân dân. Ông đi đâu, Hoàng Mãnh cũng đi theo. Triều đình đã chọn anh chính là để anh chia sẻ mọi ngọt bùi với Chiêu Văn vương. Bữa nay, ngồi một mình trong thư phòng, Trần Nhật Duật nghĩ về người em đồng nhũ của mình. Xưa nay chưa hề xa nhau lâu, Trần Nhật Duật không có dịp để hiểu mức độ keo sơn trong tình anh em ấy. Đã sắp đến ngày hội thề, Trần Nhật Duật mong muốn đến ngày ấy, em mình đã có một chút công danh sự nghiệp trong triều đình. Ông cũng biết Hoàng Mãnh không quan tâm một chút nào nhưng từ đáy lòng, ông vẫn thấy mình phải thực hiện được điều tâm nguyện kể trên. Và phải nhận rằng mỗi khi nhớ đến chen vào đó vẫn có đôi chút bâng khuâng trước sự chia li cần thiết. Trần Nhật Duật đã ra lệnh may sắm quần áo tiến triều cho Hoàng Mãnh: Áo chiến vóc hồng, hia nỉ đen. Ông lại dành cho người em một thanh kiếm tốt trong bộ sưu tập binh khí rất quý của ông. Trần Nhật Duật đã đến Môn hạ sảnh để đốc viên lệnh thư gia thảo chiếu cho kịp ngày. Ông đã sai người đi đón mẹ Hoàng Mãnh về kinh để kịp dự tiệc mừng con bà nhậm chức vụ của triều đình. Trần Nhật Duật vốn là người sống với hiện tại và tương lai, chỉ những dịp ít ỏi này, ông mới trở về với những chuyện đã qua. Những chuyện ấy thường dính líu tới một trong ba người. Người thứ nhất là Hoàng Mãnh. Người thứ hai là mẹ Hoàng Mãnh. Bà họ Trương, vốn là người Thanh Hóa, lấy chồng họ Đỗ quê ở làng Xuân Lôi huyện Đông Ngàn. Ông Đỗ làm chức Bạ đầu, coi việc giấy tờ ở một vệ quân đi thú châu Ô. Khi Trần Nhật Duật được tiến tước vương, bà Trương cũng được triều đình ban cho tước tòng tứ phẩm nghi nhân. Ông Đỗ nhờ vợ cũng đâm ra sang, từ chức Bạ đầu, ông được phong chức Đại tư xã ở ngay quê nhà. Chính cũng vì bà nhũ mẫu quê Thanh Hóa mà Trần Nhật Duật đã hạnh ngộ một người.. Năm ông mười tám tuổi, Trần Nhật Duật được cử đi tuần thú châu Ái. Ông mang nhũ mẫu đi theo để đưa bà về quê thăm nơi chôn rau cắt rốn. Nơi ấy là một làng nhỏ xanh rờn bóng dừa nằm kề biển Đông mênh mông. Anh trai bà Trương làm chức câu đương trong hương coi việc sổ sách bạ tịch. Ông ta có một cô con gái út. Cô gái ấy không có vẻ e lệ của tiểu thư khuê các, không có vẻ đài đệ của loại con chúa con vua, không có cái dáng mảnh mai lả lướt yếu mềm của dòng quý tộc. Nước da cô hồng hào căng nhựa sống, đôi mắt của cô láng ướt tình tứ, một nốt ruồi ngộ nghĩnh ở khoé miệng và cách nói năng của cô rất mộc mạc giản dị và chân thành, người con gái ấy tràn trề vẻ đẹp trẻ trung khoẻ mạnh của đồng ruộng bình dị, bình dị ngay từ cái tên bình dị đi: Cô Mơ. Mơ hầu như ngược hẳn với con người Trần Nhật Duật và thật ra chính ông đang thiếu một cái gì ngược hẳn với ông như thế. Một duyên, hai nợ, ba tình.. Cuộc hạnh ngộ này có cả ba cách đó. Ai cho phép một thân vương lấy một người con gái bách tính lê dân làm vợ. Nhất là họ Trần đã có một lời nguyền độc địa: Trai họ Trần chỉ được lấy gái họ Trần. Đừng ngu xuẩn như họ Lý mà để cho ngai vàng lọt sang tay họ khác. Trần Ích Tắc biết mối tình éo le ấy đã xui em: Nạp Mơ làm thiếp! Không được! Đã vui duyên phận thì phải đứng ngôi chính phi chứ nạp thiếp thì chẳng những xúc phạm đến tâm hồn phong nhã của Trần Nhật Duật mà còn làm vẩn đục đến cái duyên nợ thiêng liêng của mối tình đầu. Cho nên cái việc ấy đành cứ treo lại và bây giờ Trần Nhật Duật chưa lập chính phi mà người con gái vùng biển kia cũng chưa thành gia thất. Không một người con trai làng nào dám dạm hỏi cô Mơ cả. Người ta sợ oai sợ vía một đức ông và người ta sợ cả cái phận trời huyền bí của một người đàn bà cao số. Cho đến bây giờ, Trần Nhật Duật vẫn còn gìn giữ một kỉ vật của Mơ. Kỉ vật ấy là một bộ xà tích bằng bạc chạm trổ rất thô. Trần Nhật Duật cầm bộ xà tích ấy trong tay, mắt mơ màng nhìn vào khoảng không vô định. Ông chợt thương chợt nhớ người con gái năm xưa. Ông còn bộ xà tích này làm kỉ vật chứ nàng Mơ chẳng có tí gì để mà ngắm mà tìm về với bến vắng người xưa.. Trần Nhật Duật đằm trong mớ hồi niệm miên man không biết bao nhiêu lâu nữa rồi bất chợt ông cảm thấy trong thư phòng có người lạ. Trần Nhật Duật nắm gọn bộ xà tích để giấu nó đi rồi trừng mắt nhìn: Hoàng Mãnh khoanh tay đứng bên cửa từ lúc nào không rõ nữa. Trần Nhật Duật gượng cười: - Nhà ngươi đến đã lâu chưa? - Thưa đức ông, tiểu tướng đến đã lâu rồi ạ. Hoàng Mãnh trả lời rất cung kính nhưng trả lời xong thì anh ta lại toét miệng ra cười. Trần Nhật Duật lườm Hoàng Mãnh một cái tưởng đổ đình rồi bảo: - Quần áo tiến triều của nhà ngươi đã may xong rồi đấy. Thật là cờ kiếm vào tay rồi lại "rượu cần ai uống cho say, cuối mắt đầu mày kiệu võng sánh đôi". Hoàng Mãnh cả cười, một vẻ ta đây thoáng hiện ra trong cái cười đó: - Thưa đức ông, việc nước vua giao thì phải nhận chứ còn việc vợ con thì.. - Thì sao? - Thưa đức ông điện hạ, đã làm trai thì phải bốn biển tung hoành, sông hồ rừng núi là nhà, hễ vợ con vào chỉ tổ vướng víu cuộc đời thanh gươm yên ngựa giang hồ đó thôi. Trần Nhật Duật cười chế giễu: - Nhà ngươi nói du dương như thơ mã thượng. Có thể đem miệng lưỡi so sánh với miệng lưỡi của ông Tô Nghĩa Đông khi ông ta lem lém bàn về thơ sơn thủy kia đấy. Nghe Trần Nhật Duật ví mình với phái thơ sơn thủy và phái thơ mã thượng mà Tô Nghĩa Đông vác tự bên Tàu sang huênh hoang, Hoàng Mãnh ức quá nhưng anh ta sợ Chiêu Văn vương nên không dám cãi lại. Tô Nghĩa Đông là một văn thần nhà Tống lúc mạt triều. Khi nhà Tống bị quân Mông Cổ tiến quân tiêu diệt, Tô Nghĩa Đông lúc ấy giữ chức thị lang đã ra hàng quân Mông Cổ để cầu sống cũng như nhiều văn thần võ tướng khác của nhà Tống. Nào ngờ tướng Mông Cổ A Ta Khai rất ghét những thằng hèn nhát, phản chủ nên định đem Tô Nghĩa Đông đóng cọc nêu bêu ở chợ Dương Châu. Hình phạt đóng cọc nêu thường chỉ áp dụng để trừng trị bọn đạo tặc ở các nước dưới quyền thống trị của Mông Cổ. Đao phủ dùng một cây gỗ bằng bắp đùi dài và thẳng, thường là làm bằng gỗ liễu, một đầu đẽo nhọn. Chúng vật ngửa người bị hình phạt ra đất, trói thẳng dăng ra, dùng bò kéo để tống cái đầu cọc nhọn vào hậu môn kẻ bị tội rồi dựng đứng lên thành cây nêu ở những chỗ đông người như chợ búa phố phường để ra oai. Có những cọc nêu cao lắm. Người ta đi xa mấy chục dặm còn nhìn thấy xác người bêu co quắp trên ngọn cột nom như con khỉ ngủ. Tô Nghĩa Đông biết mình sắp bị hành tội, y liều mạng bỏ trốn. May mắn làm sao y trốn thoát khỏi ngục, chui vào được đoàn thuyền buôn từ bán đảo Lôi Châu ra đảo Quỳnh Châu. Từ Quỳnh Châu, y theo thuyền đánh cá lọt vào được vào Vân Đồn, cửa khẩu rất lớn ở biển Đông nước ta. Y vào trình quan ta trấn thủ Vân Đồn, xưng là vong thần nhà Tống. Bấy giờ các quan ta trấn thủ các quan ải biên thùy đã được lệnh cứu giúp kín đáo các vong thần nhà Tống. Vì thế quan trấn thủ Vân Đồn tiếp đón Tô Nghĩa Đông rất trọng vọng, mở tiệc áp kinh thết đãi cho y bớt sợ, tặng vàng bạc, tặng quần áo cho y mặc xênh xang rồi cấp thuyền, cấp ngựa đưa Tô Nghĩa Đông về Thăng Long. Tô Nghĩa Đông là kẻ có ngòi bút rất hoạt. Thoạt đầu khoác cái vỏ vong thần nhà Tống, đi đến đâu Tô Nghĩa Đông cũng múa bút làm thơ. Những bài thơ mã thượng của y đọc lên nghe như chuông, hơi thơ hào sảng có tiếng sắt tiếng vàng chen nhau. Các vương hầu kinh thành đua nhau mời Tô Nghĩa Đông đến dự tiệc hoặc dự các buổi bàn luận văn chương, các buổi bình thơ. Y trở thành một nhân vật huyền thoại như trong các thiên anh hùng ca thời cổ. Thơ y được truyền tụng, người ta chép cho nhau nào tuyển tập nào toàn tập Tô thi. Người ta kể truyền miệng cho nhau những chiến công của văn tướng Tô Nghĩa Đông ở hồ Phiên Dương, ở cửa quan Hàm Cốc, ở Kinh Châu, ở Giang Lăng, ở Điền Đông, ở Dương Châu, ở Quế Bắc.. Những chiến công thần kì của Tô Nghĩa Đông mà, ôi kì lạ, chính y cũng chưa hề biết. Nhưng y cứ im lặng nhận tất. Mãi sau vong thần nhà Tống đào tẩu sang ta nhiều, nào Trần Trọng Vi, nào Tăng Uyên Tử, nào Mã Vượng, Tô Cảnh Do, nào Triệu Trung.. Đột nhiên người ta thấy biến mặt Tô Nghĩa Đông một thời gian khá dài ở các đám tiệc tùng kinh thành. Rồi lại thấy y xuất hiện, lần này với điệu thơ cao đạo thoát tục toàn vịnh mây gió, trăng sao, sương mù, lừa ngựa. Nhiều người không cắt nghĩa nổi sự thoắt biến thoắt hiện của Tô Nghĩa Đông. Chỉ biết Triệu Trung thì không bao giờ chịu dự một bữa tiệc hoặc một cuộc luận bàn văn chương hay binh pháp nào có Tô Nghĩa Đông. Triệu Trung chính là viên tướng đã quần nhau với dũng tướng Thát Đát Ô Mã Nhi suốt một mùa đông tuyết lạnh lùng chung quanh cái biển hồ Phiên Dương và hiện nay là chỗ đi lại thân thiết với Hoàng Mãnh. Triệu Trung là người ít nói, cả ngày có khi không thốt một câu nên cũng chưa lộ chuyện gì với Hoàng Mãnh nhưng anh chàng tinh quái này cũng đã đoán ra uẩn khúc trong các mối rối như tơ vò đó. Thành thử bị ví với cái nhà anh Tô Nghĩa Đông, Hoàng Mãnh ức lắm. Mặt Hoàng Mãnh lầm lầm, tái đi rồi lại đỏ bừng lên, rồi lại tái đi. Anh cố gắng thưa bằng một giọng kính cẩn lạnh lẽo: - Kính thưa đức ông điện hạ, kẻ hèn mọn này vốn dòng ti tiện, đâu dám sánh với quan thị lang họ Tô. Trần Nhật Duật đâm ra thương Hoàng Mãnh, ông làm lành: - Nói chơi thế thôi. Em với ta cùng uống chung một bầu sữa mẹ. Em nghĩ thế nào thì cứ nói thẳng ra để ta khỏi bận lòng. Ta muốn em yên bề gia thất cho mẹ được vui lúc tuổi già. Em biết đấy, đích mẫu của ta là đức thái hoàng Thái hậu Hiển Từ vốn là người khoảnh nết không hay gần gụi các con. Sinh mẫu của ta là đức Thái hoàng thái phi lại là người thể chất yếu đuối, ốm đau quanh năm có trông nom chăm sóc gì được cho ta đâu. Chính mẹ của em mới vừa là nhũ mẫu vừa là dưỡng mẫu của ta. Mẹ cho ta bú, mẹ ủ ấm cho ta, mẹ che chở ta lúc ta còn nhỏ nhoi, mẹ chăm ta lúc ta ươn người hờn quấy. Ơn cúc dục của mẹ dẫu ta đền đáp đến bao nhiêu chăng nữa cũng không xứng. Trần Nhật Duật ngừng nói. Không khí thư phòng trầm hẳn xuống. Biết bao kỉ niệm hồi thơ trẻ trở về trong tâm trí dũng sĩ Hoàng Mãnh. Cái thuở chưa biết phân biệt tôn ti trật tự, bé Hoàng Mãnh thường bắt nạt bé Duật, nào cướp bánh trái, cướp đồ chơi, cướp quần áo, nào có bận còn đấm đá anh. Bà Trương bênh Trần Nhật Duật, bà đét cho bé Mãnh những trận rất đau. Mẹ đánh rồi mẹ lại thương Mãnh. Mẹ tắm cho Mãnh, mẹ ru Mãnh ngủ, âu yếm rung rinh Mãnh trong đôi tay ấm áp làm cho trí óc thơ ngây của Mãnh không sao hiểu nổi tính nết thất thường kì lạ đó. Rồi đến những năm tháng trai trẻ trưởng thành ở các trấn, Hoàng Mãnh càng ngày càng tài giỏi, càng khôi ngô, đẹp hùng tráng như một thần tướng nhà trời, mắt long lanh sáng như mắt quỷ, gờ mũi, đường viền quai hàm như đá tạc, một vành râu rậm đen lánh chạy từ mang tai bên này sang mang tai bên kia. Hoàng Mãnh đã làm thổn thức biết bao tấc lòng của các công nương ở các lộ anh theo Chiêu Văn vương đến trấn nhậm. Nhưng Chiêu Văn vương chưa nạp chính phi nên Hoàng Mãnh cũng dẹp chuyện vợ con sang một bên. Việc nàng Hai đang dày vò lòng anh. Bây giờ bỏ đi hỏi vợ trên lộ Đà Giang, Hoàng Mãnh cảm thấy như mình làm điều chi bạc nghĩa với Chiêu Văn vương. Ngay việc anh tiến triều nhận chức tướng quân Trấn điện, Mãnh cũng cho là nó na ná như một việc bỏ đi mà thôi. Hoàng Mãnh tự hào rằng không một ai hiểu nổi những khúc mắc sâu kín nhất trong lòng Trần Nhật Duật, cũng như không một ai có thể hộ vệ Chiêu Văn vương chu đáo bằng anh. Cũng có lúc trong cuộc đời phải có chia li; thật là một điều dĩ nhiên nhưng phi lí biết bao. Bây giờ nữa, nếu Hoàng Mãnh rời Thăng Long, ai sẽ là người an ủi đức ông Chiêu Văn trong những giờ khắc cô đơn làm man mác thêm nỗi buồn sẵn có. - Mẹ đã lên! - Hoàng Mãnh cúi đầu nói nhỏ. Hoàng Mãnh mừng rỡ, Trần Nhật Duật càng mừng rỡ hơn, ông đứng bật dậy: - Sao bây giờ mới nói? Mẹ ở đâu? - Mẹ ở ngoài tiền sảnh chờ anh cho vào. - Ô hay, cả khu phủ đệ này mẹ muốn vào chỗ nào không được. Thôi, ta ra tiền sảnh đón mẹ vậy. Trần Nhật Duật đi mau ra khỏi thư phòng. Ra đến cửa, ông chợt nhớ ra cái vật còn cầm trong tay. Ông liếc vội Hoàng Mãnh và giấu vật đó vào trong bọc. Hoàng Mãnh thoáng mỉm cười rồi lờ đi làm như không trông thấy gì hết. Trần Nhật Duật thấy bà nhũ mẫu họ Trương đỏ da thắm thịt hơn hồi bà ở trong cung nhưng vẻ mặt hơi tư lự. Trần Nhật Duật đoán rằng bà Trương chê nàng Hai là người Man Lão. Ông định bụng sẽ nói khéo cho Hoàng Mãnh và nàng Hai bởi vì thực ra cũng chẳng có đám nào hơn thế. Ông mời bà nhũ mẫu vào hậu đường để cho cuộc gặp mặt thêm ấm cúng gia đình. Bà Trương đã trên sáu mươi tuổi nhưng vẫn còn tráng kiện lắm. Bà có một chiếc gậy lụi hun đen cầm trong tay nhưng chỉ là để cho đẹp lão, đó chính là làm dáng chứ không phải để chống cho gân cốt của tuổi già. Bà Trương đem theo một người đàn bà. Người này ôm khư khư trong lòng một chiếc đãy vải cứ như sợ mất cắp. Bà Trương thấy vậy bật cười bảo: - Bà đưa cho tôi cái đãy. Bà Trương cầm cái đãy, cởi cái lạt buộc miệng đãy ra, bà nói xởi lởi: - Thím Tư em dâu ông Đỗ đó. Cô ấy ao ước được lên kinh chơi một lần dối già nhưng tôi đưa cô ấy vào đây thì cô ấy lại sợ quá. Tôi đã bảo là đức ông rộng lượng lắm nhưng cô ấy vẫn chín vía còn ba. Trần Nhật Duật nhìn người đàn bà quê mùa mộc mạc mặc bộ quần áo may đã lâu, chắc chắn là thế nhưng chỉ mới xỏ tay đôi lần hiếm hoi trong đời người. Ông bảo bà ta: - Thôi cho phép bà lui. Người đàn bà vái lia vái lịa và theo người thị nữ đi về phía dãy nhà dành cho những người hầu gái. Bà Trương mỉm cười theo và khi người em dâu đi khuất mới ngoảnh lại lấy các vật trong chiếc đãy vải bày lên mặt sập: - Đây là quà quê, anh chị lòng thành mang ra. Bà Trương vẫn giữ lối xưng hô chị dưỡng - cậu hoàng với Trần Nhật Duật trong những lúc vắng vẻ thân tình như thế này. Chính Trần Nhật Duật cũng thích như vậy. - Sâu dâu để ngâm rượu này. Mật ong hoa trám này. Anh bảo thứ mật hoa trám này để người uống rượu nhiều dùng thì tốt lắm đấy. Trần Nhật Duật bật cười: - Vừa có thứ để ngâm rượu uống thích miệng vừa có thứ dùng cho giã rượu và hạ hỏa. Quà của chị dưỡng sao mà khéo thế. Bà Trương hờn mát: - Chị ở chốn quê mùa làm sao mà có được quà quý. Vì thế cho nên cứ bảo tại sao chị chả dám lên kinh. Biết tính bà Trương, khi nào bà còn mở miệng là bà vẫn vui, Trần Nhật Duật đùa: - Lần này chị dưỡng không muốn lên kinh cũng phải lên. Bà Trương nghiêm ngay nét mặt lại. Bà nói giọng bồi hồi: - Cậu hoàng cho gọi chị lên kinh chắc vì việc thằng cả phải không? Thế việc đã đến đâu rồi? - Việc cũng mới bày ra nhưng em chắc phải xong. Chị cho em thay mặt họ nhà giai lo liệu việc này nhé. Bà Trương lo lắng: - Thì nó là em cậu hoàng. Chị chỉ lo họ người ta là thế gia phiên trấn.. Trần Nhật Duật sửng sốt kiêu hãnh: - Em lại cứ tưởng chị lo chuyện gì kia chứ. Người nhà ta uy danh lừng lẫy ở bất kì đất nào trên nước Việt ta. Bà Trương ngắt lời. - Không phải chị so đo chuyện đó đâu. Ở cửa cậu hoàng, em nó là khách khanh đứng đầu hàng trăm tân khách, gia tướng, gia nô. Nó kém gì các bậc công hầu. Trần Nhật Duật bật cười vì ít khi ông nghe thấy bà Trương dùng lời lẽ kiểu cách chữ nghĩa hệt như một quan viên hàn lâm đến thế. Cái đó chứng tỏ bà Trương đã đem chuyện riêng hỏi ý những bậc túc nho rồi lời lẽ của họ nhập tâm bà. - Thế chị dưỡng ngại chuyện gì? - Ôi dào, nhà người ta tù trưởng cầm đầu một lộ. Lấy con cái nhà người ta thì phải ở rể trên ấy. Tôi sợ là tôi sợ chuyện ấy thôi. Trần Nhật Duật hỏi vặn bà Trương: - Thế thì mười mấy năm nay mỗi năm thằng Mãnh cũng chỉ về thăm chị được có mấy ngày thôi chứ gì. Có phải gửi rể châu Mai thì nó cũng mỗi năm về thăm cha mẹ đôi lần cơ mà. Có khác gì trước đâu nào? Bà Trương đột nhiên nói to lên, thật to: - Có khác, mà khác nhiều cơ. Khác là trước kia nó hầu hạ cậu hoàng quanh năm, bây giờ thì nó đi vui thú chỗ khác một mình nó. Trần Nhật Duật và bà Trương cùng im lặng. Trần Nhật Duật xúc động về tình nghĩa của mẹ con bà Trương đối với mình. Hoàng Mãnh đã chẳng gạt bỏ bao nhiêu mối lương duyên chỉ vì anh ta không muốn xa người anh em đồng nhũ đấy ư? Bây giờ bà Trương cũng vậy. Bà cũng không muốn Hoàng Mãnh xa Trần Nhật Duật. Vậy mà người mẹ nào chả mong mỏi con trai của mình sớm thành gia thất, để rồi sớm có cháu đích tôn nối dõi tông đường. Nhưng không phải bà Trương chỉ e ngại về mặt tình nghĩa mà thôi đâu. Có một mối lo lắng mơ hồ mà bà chưa từng suy nghĩ tìm hiểu nhưng sự mẫn cảm của một bà mẹ đã hướng bà về điều đó. Sức mạnh kín đáo và huyền bí của sự mẫn cảm ấy đã làm cho bà Trương lo lắng cho sự lẻ loi của Trần Nhật Duật. Xưa nay Chiêu Văn vương đã đảm nhiệm nhiều trọng trách của triều đình kể cả việc quân việc nước. Nào là chức trấn thủ những lộ quan trọng như lộ Thanh Hóa, lộ Đà Giang, nào là đem quân giữ yên bờ cõi, giữ yên từng vùng có kẻ phản loạn, nào là thay mặt triều đình làm giám sát các khoa thi Thái học sinh.. Việc nào ông cũng làm tròn một cách xuất sắc. Tất nhiên sau một công lao xuất sắc ông lại được Quan gia trao những chức vụ trọng yếu hơn để rồi lại khen thưởng khi ông làm tròn một cách xuất sắc hơn nữa. Nhưng bấy nhiêu công việc, Trần Nhật Duật đều làm trong trường hợp có tả hữu giúp đỡ, nói cho đúng hơn là có người tâm phúc ở bên mà người tâm phúc ấy chính là Hoàng Mãnh. Bà Trương cảm thấy hình như phải có sự cặp đôi ấy, của hai tâm hồn, hai khối óc ấy để chúng bù trì cho nhau. Bà Trương mơ hồ cảm thấy những người thuộc dòng hoàng tộc như Trần Nhật Duật quen sống trong điều kiện có tả hữu đông đúc vây quanh, không quen chen vai thích cánh để mở lấy một hướng đi, không quen hay nói cho đúng hơn chưa được tôi luyện để một mình quả quyết và xông xáo vượt băng mọi ách tắc chướng ngại gay cấn trên đường đời. Bà lo cho Trần Nhật Duật chứ bà không lo cho Hoàng Mãnh trong cuộc chia lẻ này. Bà nói nhỏ: - Giá cậu hoàng cũng lập vương phi mà thằng cả nó cũng lấy vợ quanh đây thì chị cũng yên lòng hơn. Trần Nhật Duật vốn bắt gặp rất nhạy những uẩn khúc sâu kín trong đáy lòng những người ông gần gũi quen thuộc. Ông an ủi bà Trương: - Trước hay sau thì cũng phải lấy vợ cả thôi mà em Mãnh thì khó mà kiếm được một đám nào hơn đám này. Chị dưỡng cứ ừ đi một tiếng để em vui vẻ mà lo việc cho nó. Bà Trương cười, thoạt đầu nụ cười còn hơi gượng gạo rồi dần dần cũng tự nhiên. Trần Nhật Duật kể để bà Trương nghe qua những lễ vật sẽ đưa nhà gái hôm vấn danh. Ngoài cau, rượu, chè, trâu, lợn; Trần Nhật Duật còn cho dẫn cưới mười tấm đoạn đại hồng, mười hai đôi xuyến vàng, một bộ trâm, lược đồi mồi, một đôi hài thêu vóc tía. Chắc chắn theo phong tục châu Mai, nhà gái sẽ thách dẫn thêm hai mươi bốn bộ chăn gối bằng thổ cẩm, một trăm quan tiền. Tiền để phân phát cho bọn trẻ con trong vùng còn hai mươi bộ chăn gối để chia cho những người con gái họ Trịnh đã đi lấy chồng họ ngoài. Trần Nhật Duật đã sai gia nô đặt thợ thêu ở phường Tàng Kiếm dùng chỉ bạc cải những ô chữ Song Hỉ lên mặt chăn mặt gối. Những lễ vật này đúng là đồ dẫn cưới của nhà quyền quý! Hoàng Mãnh chẳng muốn lễ vật sang trọng thế. Anh muốn hôn lễ cử hành vui vẻ, thắm thiết, tưng bừng nhưng không vượt khỏi vị thế của những người dân thường trong làng quê của anh. Trần Nhật Duật can em, ông bảo hôn lễ này không phải riêng của cô dâu chú rể và hai họ, hôn lễ này còn biểu hiện sự gắn bó của triều đình với phiên trấn miền núi nữa. Chẳng những thế, Trần Nhật Duật cũng dè chừng miệng tiếng người đời chê ông nhẹ tình, không rộng rãi với người em đồng nhũ. Cái gương anh em đồng nhũ giữa thái tử Sảm nhà Lý với Đoàn Thượng cho đến bây giờ vẫn được người ta nhắc đến, kể cả những người trong họ Trần là những kẻ tử thù với họ. Trần Nhật Duật kiên quyết làm hôn lễ cho em theo ý mình. Hoàng Mãnh đành nghe lời anh nhưng Hoàng Mãnh dứt khoát đòi bỏ tiền riêng chi hết các khoản hôn lễ của mình. Anh nói: - Thưa đức ông điện hạ, đức ông ban thứ gì em cũng quý nhưng những khoản này phải để em chi kẻo người ta lại bảo thế nọ thế kia. Chỉ xin đến lúc cướp dâu, đức ông đi cho có một tay kiếm sắc. Bà Trương nghe con nói khảng khái cũng ưng ý nhưng bà sửng sốt ngẩn người ra mà hỏi: - Cướp dâu à? Thế là thế nào? Trần Nhật Duật cười và giảng giải cho bà nhũ mẫu hiểu tục cướp dâu ở châu Mai làm cho bà tái mặt đi: - Thế thì còn giời đất nào nữa! Đã gọi là thuận đôi vừa lứa thì mới cho làm lễ cưới chứ. Bây giờ lại còn bày ra cái trò cướp bóc phá phách này nữa. Mũi tên ngọn giáo lỡ ra mất mạng như chơi. Thôi mày về quê nội quê ngoại kiếm một cô gái quê làm vợ. Thiếu gì người đẹp đảm đang ngay các bậc vương công cũng phải thèm nhớ.. Bà Trương vẫn há mồm mà không nói tiếp được nữa. Hoàng Mãnh liếc thấy Trần Nhật Duật bần thần cúi mặt xuống nên vội nói chữa: - Ôi dào ôi! Mẹ cứ lo phỗng lo loan. Đánh cướp một cô dâu thì nào có khó khăn gì. Con đưa đội dũng thủ của con lên thì hiểm trở như cửa ải Lê Hoa chúng con cũng chiếm phăng. Còn phong tục người ta trên ấy nó như vậy. Người ta giữ tiếng họ nhà người ta là họ to; người ta lại không muốn kén phải rể hèn. Mà việc này, đức Thượng hoàng đứng làm chủ hôn. Ai trái vương mệnh là mắc tội khi quân tru di ba họ. Mẹ cứ yên lòng. Việc khó nhưng đã có anh con đây. Bà Trương quát con: - Việc của mày mà mày cứ kéo anh mày vào. Cái trò đánh cướp ấy có khác gì đi trận đi mạc không nào. Mày muốn cướp gì thì mặc mày. Mày muốn cướp cả giời cũng được chứ tao là không bằng lòng để cậu hoàng cũng bôi mặt cầm tay thước đi cướp vợ cho mày. Trần Nhật Duật cười dàn hòa: - Cướp dâu mà chị dưỡng lại ví với bọn giặc cỏ bôi nhọ nồi lên mặt. Thôi.. từ nay đến tháng một còn hơn bảy tháng nữa cơ mà. Đến lúc đó sẽ liệu sau. Bà Trương cũng cười. Đến lúc này cả ba người mới thực sự cùng một lòng bàn về lễ cưới, trước mắt là lễ vấn danh sắp tới. Bố mẹ chú rể và Chiêu Văn vương không phải đi châu Mai. Hoàng Mãnh cũng vậy. Trần Nhật Duật sẽ nhờ một ông học sĩ viện Hàn lâm thay mặt nhà trai dẫn một đoàn người ngựa mang lễ vật lên nhà họ Trịnh. Đám cưới của một tướng quân Trấn điện, sủng thần của nhà vua ắt phải vui vẻ, náo động - nhất là viên tướng đó đã từng là khách khanh trong mạc phủ của Chiêu Văn vương. Trần Nhật Duật sẽ đích thân viết lên lá thiếp hồng tên, họ, ngày sinh tháng đẻ của Hoàng Mãnh để ông học sĩ mang đi châu Mai trao cho nhà gái để so đôi tuổi hai trẻ. Cả ba người đều thấy trước lễ sẽ trọng thể nhưng họ đều không ngờ việc này đã được Thượng hoàng, Trần Quốc Tuấn và Trần Quang Khải lưu tâm bàn bạc. Ngay khi được biết Hoàng Mãnh và nàng Hai nhà họ Trịnh có mối lương duyên, Thượng hoàng đã cho gọi hai đức ông vào cung Thánh Từ. Xét mối duyên này có khả năng thắt chặt thêm tình nghĩa giữa tù trưởng thượng du và triều đình, Thượng hoàng có ý sẽ giao cho ông Chính khanh Quang Lộc Tự mang biển Khâm sai đi dẫn lễ. Trần Quốc Tuấn tâu Thượng hoàng xin một ngũ lính hổ bôn hộ tống biển khâm sai. Trần Quang Khải nhấn mạnh hôn lễ này phải làm sao để các lộ thượng đạo thấy rõ triều đình rất quý các phiên trấn và cũng tôn trọng những dũng thủ có tài. Và cả ba người đều khen Trần Nhật Duật là người thông minh và tình nghĩa. Cung cách tiến hành lễ vấn danh tỏ rõ là họ Trần đã quyền quý ba đời, khác với cái thuở nửa dân chài nửa buôn biển, cướp biển vác đòng đi mở nước tìm một ngai vàng. Ngày xưa, họ Trần lênh đênh trên các triền sông Bạch Đằng, sông Luộc, sông Hoàng, sông Hóa, nghênh ngang biên hải; họ đặt tên con cái là những giống cá sông, cá biển. Ông tổ là Kình, chữ kình có bộ ngư là cá ở bên. Ông Kình sinh con đặt tên là Hấp chính là con trắm trong chữ nôm, thứ nữa là Lý, tên chữ của con cá chép, rồi đến thế hệ nữa: Khánh là con cá ngạch, Thừa là con cá dưa, Liễu là con cá nheo, Cảnh là con cá lành canh, tất cả đều có bộ ngư bên cạnh. Khi đã cướp được ngai vàng rồi, họ Trần sai bọn biết chữ soạn sách vàng dòng họ, bao nhiêu bộ ngư bỏ hết. Qua hai thế hệ bây giờ họ Trần đã là họ tôn quý, tên tuổi các con đều lấy điển trong kinh sách thật hay. Họ sang rồi thì lễ lạt cưới xin phải sang.
Chương 6 Bấm để xem Từ giữa giờ đầu, các vương hầu và các quan văn võ đã đốt đuốc đến tề tựu ở cửa hoàng thành. Hai đô Long Dực, Hổ Dực dàn rộng ra vừa để giữ trật tự vừa để tăng phần long trọng cho ngày lễ thề trong đền Đồng Cổ. Tất cả vương hầu và các quan văn võ đều mặc triều phục. Lính cận vệ cũng mặc áo chiến may bằng gấm thật đẹp. Những lá cờ đại đã được cắm sẵn trên mặt thành, những lá phướn mang quân hiệu từng đô bay phần phật trong bóng đêm. Bấy nhiêu con người đứng im lặng chăm chú. Họ đã tắm gội sạch sẽ bằng nước nấu với rễ hương bài và ăn chay ba ngày nay để tỏ lòng thành và ý niệm thanh khiết. Bây giờ họ chờ hai vua ngự ra ngoài cung để phò lên đền Đồng Cổ cử hành lễ thề. Đức ông Nhân Túc vương Trần Toàn đã dẫn đức ông Chiêu Minh vương Thái sư Trần Quang Khải và đức ông Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn vào cung để rước hai vua xuất cung. Lần thề năm nay sẽ do đức ông Hưng Đạo vương làm Điển nghi Kiểm chính tức là chức vụ chủ tế. Nhân Túc vương Trần Toàn không ngờ việc chọn chủ tế lại dễ dàng đến thế. Mấy hôm trước, Nhân Túc vương có việc phải vào cung Thánh Từ tâu việc. Khi vào đến nơi, Trần Toàn thấy cả hai đức ông Chiêu Minh và Hưng Đạo đang ngồi hầu vua. Trần Toàn tâu việc xong, Thượng hoàng phán: - Được, việc đó cứ thế mà làm. Còn văn thề thì chú đưa ngay cho chủ tế đi. Nhân Túc vương Trần Toàn cuống lên chỉ biết vâng dạ vì đức ông Nhân Túc không biết ai được chọn làm chủ tế cả. Bỗng thấy đức ông Chiêu Minh như hiểu chuyện và muốn gỡ bí cho Nhân Túc vương, cười bảo: - Đức ông chủ tế Hưng Đạo muốn xem trước văn thề để khi tuyên đọc cho dõng dạc đó chú Nhân Túc ạ. Trần Toàn sướng muốn múa tay trong bị. Ông không ngờ cách chọn của Chiêu Văn vương lại đúng cách như thế. Giá mình biết thế này thì mình tâu trước có khi Thượng hoàng và cả hai đức ông Chiêu Minh và Hưng Đạo cũng phải phục mình là công minh. Ánh đuốc và lửa của hàng trăm cây đèn lồng soi rõ cánh cửa hoàng thành cực kì trang nghiêm. Lính tứ sương chịu trách nhiệm giữ trật tự dọc con đường ven hồ Dâm Đàm đã chia từng ngũ cưỡi ngựa mở đường bởi vì nhân dân kinh thành đã tề tựu rất đông chờ xem đám rước vua. Họ chờ từ ngoài xa, mặc dầu lệnh cấm rất nghiêm ngặt nhưng họ vẫn bàn tán xôn xao. Mặc cho những ngọn roi đe nẹt, mặc cho những tiếng quát mắng cáu giận, mặc cho những giáp binh nai nịt gọn ghẽ khí giới sáng loè, đám dân đầu đen chỉ im được một tí rồi lại hỏi nhau, cãi nhau, bàn tán râm ran về lễ thề. Hình như họ biết rằng trong ngày lễ thề sẽ không bắt bớ trừng trị ai cả, nói tóm lại là không dám làm mất lòng dân trong ngày thiêng liêng đó. Rõ ràng thệ hội là một lễ long trọng của vương hầu và các quan văn võ. Bách tính lê dân nhìn vào đó có thể hiểu phần nào cái lễ nghĩa kỉ cương biểu hiện ở các đồ nghi trượng sơn son vẽ phượng hào nhoáng che giữa hai chi trưởng và chi thứ của họ Trần. Đám dân đen lo lắng hai chi đánh lộn nhau như cuối triều Lý gây thành họa loạn cho trăm họ bàn dân thiên hạ. Họ cố rình xem để đoán, qua nét mặt của các đức ông hai chi, mối đại thống họ Trần nó ra sao để còn liệu mà chôn giấu của nả, đem con cái đi ẩn náu ở chốn sơn thôn. Hai vua chưa ra khỏi cung, hai đức ông Chiêu Minh và Hưng Đạo cũng không có mặt trong đám vương hầu và văn võ bá quan nhưng bách tính lê dân vẫn nhận ra chưa có sự hể hả thực sự giữa hai chi Tức Mạc và Vạn Kiếp. Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn, con trai trưởng của Trần Quốc Tuấn, là người sẽ thay Trần Quốc Tuấn làm trưởng họ Trần sau này. Quốc Nghiễn là người giữ trách nhiệm Đông Xướng trong lễ thề hôm nay, đứng riêng ra một mé bên dưới một chiếc biển sơn son thếp vàng hai chữ Khâm sai viết chân phương. Vẻ mặt Quốc Nghiễn trang trọng nhưng đôi mắt Quốc Nghiễn luôn kín đáo liếc về cửa hoàng thành và liếc luôn cả viên Tây Xướng đứng đối diện. Viên Tây Xướng là Tả Thiên vương Trần Đức Việp, em ruột và kế cận ngay sau vua Nhân Tông. Đức Việp chính là người sẽ cầm đầu chi thứ tiếp theo Trần Quang Khải. Tả Thiên vương cũng không lơi con mắt tò mò ngắm lại Quốc Nghiễn. Nhưng cả hai người từ nhỏ chưa hề có va chạm gì với nhau, hơn thế nữa họ đã từng đôi lần dự những cuộc săn, những dạ hội cùng với nhau một cách thích thú. Hai con trai khác của Trần Quốc Tuấn là Hưng Trí vương Trần Quốc Hiệu và Hưng Hiếu vương Trần Quốc Uất cùng mấy gia tướng đứng phòng hờ phía sau lưng anh cả. Hình như mấy người này vẫn lo lắng một sự giở mặt có thể xảy ra phía chi thứ. Nhưng thực ra thì không phải thế, Quốc Hiếu, Quốc Uất đã lâu chưa lên kinh. Họ như những người thôn phu bình thường choáng mắt trước cảnh đông đúc lộng lẫy và kinh ngạc rằng tại sao người ta lại có thể ung dung chịu được cung cách sống phiền toái ấy. Chiêu Đạo vương Trần Quang Xưởng vốn là người ba phải. Đức ông Chiêu Đạo là em kế cận cùng mẹ của Thượng hoàng Thánh Tông và đức ông Chiêu Minh. Đức ông rõ là người cũng quyền uy của chi thứ nhưng Chiêu Đạo mặt mũi hể hả đứng chung với đám vương hầu thuộc chi út Long Hưng. Đám này chuyện trò vui vẻ thoải mái nhất. Rõ ràng thệ hội này ngoài tính chất trang nghiêm trọng thể còn là cuộc vui hội hè thực sự với họ. Và họ náo nức bàn tán về cuộc rượu đêm nay trong điện Tập Hiền. Hai tốp riêng rẽ nhất là tốp Chiêu Quốc - Chiêu Văn và tốp Hưng Nhượng - Chương Hiến. Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng, con trai út của Trần Quốc Tuấn và Chương Hiến hầu Trần Kiện, con trai của Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang vốn là hai người cùng tuổi, học cùng khóa trong Quốc Tử Giám, học vấn uyên bác nức tiếng cả trong kinh ngoài trấn. Tước hầu của Trần Kiện là hầu thượng vị, được mặc áo tía hệt như các vương. Người ta thường cho rằng hai người là bạn chi lan chi huệ với nhau. Họ đều là những bậc túc nho thâm thúy, gần đây nghe đâu lại cùng nhau nghiền ngẫm lẽ huyền diệu của Đạo Đức kinh và Đại Tạng kinh nữa. Ngay đến bậc lão học thông quán cổ kim là Hưng Ninh vương Trần Tung khi nhắc tới họ cũng không dám coi thường. Họ đứng cạnh nhau như một cặp bài trùng nhưng thực ra khi nhìn kĩ, họ vẫn khác nhau lắm. Hai vẻ mặt cùng bình lặng của triết gia nhưng đôi mắt Trần Quốc Tảng lim dim buông thả, còn Trần Kiện có một nụ cười mơ hồ giễu cợt. Đứng đối diện với tốp ấy là Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc và Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật, anh em cùng mẹ cùng cha. Chiêu Quốc vương có một dáng người và một vẻ mặt tuyệt đẹp. Mái đầu có một góc nghiêng kiêu sa khinh thị, một nụ cười nửa miệng dường như gạt bỏ tất cả các thứ lễ nghi đang bày ra và sẽ diễn ra hôm nay. Da mặt Chiêu Quốc vương trắng xanh càng làm cho đôi mắt có quầng thâm sâu thăm thẳm. Tay phải Chiêu Quốc vương cầm một lá quạt trầm xinh nhỏ, tay trái lơ đãng đếm những hạt ngọc nạm trên chuôi cây kiếm ngắn đeo bên sườn trái. Chiêu Quốc vương nói không động môi: - Kìa, nhìn mà xem đám khỉ tu tiên. Chiêu Văn vương ngơ ngác nhìn để tìm cái đám "khỉ tu tiên" mà anh mình nói tới. Thốt nhiên đức ông Chiêu Văn cảm thấy xưa nay mình vẫn chưa nghiền ngẫm đầy đủ về các mối quan hệ trong dòng họ cũng như chưa tìm hiểu đến nơi đến chốn về vị trí của mình trong mối quan hệ rối rắm ấy. Xưa nay đức ông quen sống hồn nhiên, quen đằm mình vào những hoạt động sôi nổi trước mắt theo một thiên hướng công bằng đầy thiện chí của tuổi trẻ. Trong cuộc đời sôi nổi ấy, đức ông Chiêu Văn thu nhận một cách vô tình những tác động tự nhiều nguồn ảnh hưởng khác nhau. Ông phục sự trí lự dày dạn của Hưng Đạo vương, ông chiêm ngưỡng sự uyên bác thâm trầm của Hưng Ninh vương, ông thích thú cái duyên dáng lịch sự của Chiêu Quốc vương, ông công nhận cách làm việc quả đoán sát phạt của Chiêu Minh vương, ông quý cái ham suy tư tìm hiểu lí lẽ huyền diệu đất trời của Hưng Nhượng vương.. Hầu như với tất cả những người ông gặp gỡ trong việc nước cũng như trong giao tiếp bình thường, Chiêu Văn vương đều lọc ra được những điều đáng lưu giữ. Trong số những người gần gụi ông, Chiêu Văn vương xưa nay vẫn thân thiết nhất với Chiêu Quốc vương. Đó cũng là lẽ tự nhiên vì cùng mẹ, tuổi tác cũng không chênh nhau bao nhiêu. Chiêu Quốc vương lại là người thật tài giỏi, kể từ sở học đến tạp kĩ đức ông Chiêu Quốc có một sức hấp dẫn hết sức kì lạ với những người chung quanh. Tuy thế câu nói khinh thị về cái "đám khỉ tu tiên" hôm nay không được Chiêu Văn vương tán thưởng. Đức ông Chiêu Văn chỉ gượng cười. Đức ông định nói với anh rằng Trần Quốc Tảng và Trần Kiện là hàng cháu, tranh chấp làm gì với bọn họ nhưng rồi lại thôi vì sợ mếch lòng Chiêu Quốc vương. Đầu canh năm, đài đồng hồ nước thỉnh ba hồi khánh. Thế rồi tiếng trống, tiếng chiêng nổi lên. Cửa hoàng thành mở toang. Quan Trấn điện Phạm Ngũ Lão dẫn quân Thánh Dực ra khỏi hoàng thành bằng hai cửa nách. Các đồ nghi trượng được dàn ra trên bãi rộng trước cửa hoàng thành. Một viên Nội giám Trung quan đứng trên vòm cổng hoa cái loa bầu thét: - Thánh giá xuất cung. Nghe hiệu xướng vua ra khỏi cung, vương hầu và các quan cùng lạy rạp xuống đất. Một đám tàn vàng tán tía xúm xít che hai cỗ kiệu nối nhau ra cửa thành. Kiệu đi trước rước đương kim hoàng đế Nhân Tông, kiệu thứ hai rước vua cha Thượng hoàng Thánh Tông. Kế sau hai cái kiệu, người ta thấy Nhân Túc vương Trần Toàn, cái mũi càng sần đỏ hơn bao giờ hết; rồi đến Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang, Chiêu Minh vương Trần Quang Khải, Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đi bộ ra từ hai cửa tả, hữu. Theo sau các đức ông phò giá là toán dũng thủ áo gấm kén chọn trong các vệ thân quân. Viên tướng chỉ huy toán dũng thủ này là Trung phẩm Phụng ngự Điện tiền tướng quân Hoàng Mãnh hiên ngang trong bộ áo chiến bằng vóc đại hồng mới tinh khôi. Thế rồi chiêng trống và đồ nghi trượng dàn bày lên trước. Những lá cờ thêu mặt trời, mặt trăng, thêu rồng mây, cờ năm màu, may bằng lụa và vải bay phần phật trong gió sớm. Cả một đô Hổ Dực cầm côn sơn đỏ đi đầu vút roi để mở đường. Tất cả vương hầu và các quan văn quan võ nối nhau thành hàng dài đi bộ theo hai cỗ kiệu vàng rước vua. Bây giờ trời đã rạng. Nhân dân kinh thành đã dậy và bày hương án ở hai bên vệ đường để tỏ lòng tôn kính nhà vua và cũng xem rõ mặt rồng bởi vì dù họ là dân kinh thành nhưng hai vua xuất cung vẫn là dịp hiếm hoi, có khi chỉ một đôi lần trong một năm. Sau đoàn vương hầu đến các phi tần và nữ quan hai cung. Chung quanh những người đàn bà yếm áo lượt là này là nội giám mặc áo tía trơn. Kế sau đoàn nữ quan là đoàn các đạo sĩ cung Cảnh Linh mặc áo chéo vạt bằng lụa huyền nền mờ hoa bóng tay cầm phất trần bằng lông đuôi ngựa trắng. Ông đạo thống đã già lắm, vẻ mặt bí hiểm, tay cầm sợi xích thau treo lủng lẳng một cái lư trầm tỏa khói mù mịt. Kề sau đoàn đạo sĩ là đoàn các tăng ni chùa Chân Phúc mặc áo cà sa lụa nâu, lụa vàng, tay cầm những chuỗi hạt bồ đề vừa đi vừa đếm hạt và niệm Phật hiệu. Vị tăng thống cầm cây thiền trượng, đầu trượng rủ xuống nhiều dải lụa màu rực rỡ. Sau đám tăng đạo mới đến các quan văn quan võ từ tòng tứ phẩm trở xuống. Dẫn đầu đoàn các quan là viên Đại An Phủ sứ kinh thành và quan Học sĩ Lê Văn Hưu hiện giữ việc phó quan trong phủ Tể tướng Thái sư của Chiêu Minh vương. Khi các quan đã đi qua, các gia tướng, thư nhi, gia nô và quân tùy thân của các vương hầu mới chụm lại thành cái đuôi dài lê thê của đám rước. Chủ xích mích với nhau một thì tớ gầm ghè với nhau mười. Gia nô của các vương phủ chi Tức Mạc mặc đẹp hơn, ăn nói hoạt bát hơn bọn ở Vạn Kiếp về. Những gia tướng Vạn Kiếp thì vũ dũng hơn, họ cao lớn, hơi cục mịch đôi chút, quần áo kém phần xát xóng và một đôi người có cái dáng giang hồ ngang ngửa. Họ nín nhịn trước những lời châm chọc khá nanh nọc: - Chắc cái áo này ông anh may phòng nhớn? - Tại sao chú em cứ ru rú mãi ở rừng Yên Tử? Chú em sợ lên kinh không có ăn à? Có lời khiêu khích rõ rệt hơn: - Này mấy chú em, có nhớ trận đòn năm Mão không? Trận đòn năm Mão cách đây đã trên mười năm. Lần ấy vua Thánh Tông chưa nhường ngôi cho con. Nhân một dịp mừng chiến thắng quân phiến loạn ở vùng núi phía tây, triều đình làm lễ hiến phù dâng tù binh ở nhà Thái Miếu. Buổi tối vua ban tiệc khao thưởng tướng sĩ tòng chinh. Tiệc đến khuya mới tan, các vương hầu về phủ đệ, chẳng biết nguyên cớ làm sao nhiều đám đánh lộn đã xảy ra ở nhiều nơi trong kinh thành. Quân tứ sương phải đánh trống ngũ liên, huy động mấy đô, mấy vệ ra phường phố giữ trật tự. Không bắt được một hung thủ nào, lính tứ sương chỉ thấy nằm ngả ngốn những gia nô, gia tướng tùy thân của các đức ông chi Vạn Kiếp. Người kinh thành đoán những kẻ hành hung là những dũng thủ của các đức ông chi Tức Mạc nhưng đoán thì đoán thế thôi chứ nào ai dám hé răng. Trận đòn năm Mão là một nghi án nhưng chẳng ai nghi cả. Ai cũng hiểu hung thủ là loại người gì cũng như ai cũng hiểu trận gọt gáy năm Ngọ (sau trận năm Mão đúng ba năm) là do ai gây ra vào dịp các đức ông chi Tức Mạc đi vãn cảnh chùa Yên Tử sau khi chùa chính ở núi này trùng tu xong. Trận gọt gáy năm Ngọ cũng không tìm ra hung thủ, chỉ mấy người bị đánh nằm ngổn ngang ở sườn núi bờ khe mà toàn là tướng, lính tùy thân của các đức ông chi Tức Mạc. Anh nào cũng bị đòn đau, tóc bị gọt một mảng nơi gáy và bôi vôi vào. Nghe nói gọt gáy bôi vôi là hình phạt thường chỉ dùng với loại đàn bà lẳng lơ quá mức lừa chồng đi ngoại tình, nó đã xót mà mấy tháng sau tóc mọc lại cũng lởm chởm khó coi. Trong cái đuôi lê thê của đám rước, người ta nhận ra vóc dáng cao lớn của hai gia tướng thân cận của Trần Quốc Tuấn là Yết Kiêu và Dã Tượng. Phía người của chi Tức Mạc cũng có một dũng thủ to lớn cầm đầu. Anh ta mang một cái biệt hiệu là Đô Trâu, nghe đâu xưa kia đã từng giải chiếu cạp điều xơi liền mười một giải cạn của hội vật hàng năm của vùng hai bờ sông Đà. Con người thô lỗ hung dữ ấy mà lại có cái lưỡi rất sắc. Những câu châm chọc đau nhất của anh ta và thường nhằm vào Yết Kiêu. Điều đó có một nguyên nhân xa xưa mà Đô Trâu không bao giờ thổ lộ. Đó là giải cạn lần cuối của Đô Trâu. Năm ấy theo phong tục vùng sông Đà, hội vật mùa xuân mở ngay sau ngày tết Nguyên đán. Khi ấy Chiêu Quốc vương đang làm trấn thủ lộ Đà Giang. Các bô lão trong vùng mời đức ông làm chúa hội vật. Bộ hạ của đức ông Chiêu Quốc có một đô vật tài nghệ rất cao mà tầm vóc cũng thật dềnh dàng. Hắn ta chính là Đô Trâu, cái biệt hiệu thực xứng đáng với vóc người nhưng thực ra không đúng với tính nết của y. Con trâu vốn là bạn nhà nông, đã hay làm lại chỉ ăn cỏ, hiền dịu và có nghĩa còn Đô Trâu tính độc ác, vô học và nham hiểm. Hắn lại được Chiêu Quốc vương hết sức nuông chiều nên thả sức lộng hành trong lộ, áp bức dân lành, ăn của đút, chiếm đoạt tài sản của những người thân cô thế cô, dân sự ta oán mà không ai dám nói. Bởi vì Đô Trâu là công cụ của Chiêu Quốc vương dùng để chế ngự hào kiệt trong vùng. Hễ ai không chịu theo Chiêu Quốc vương là Đô Trâu được lệnh dùng độc thủ hạ sát ngay trong các sới vật mở hai mùa xuân thu ở lộ Đà Giang hoặc bằng cách gây sự lúc thời bình. Các huyện quan không dám hé răng, thậm chí trong những lá sớ dâng về triều đình cũng không một dòng đả động đến những cuộc sát hại đê nhục ấy nữa. Hàng năm cứ đến mùa hội vật là Đô Trâu lại giải chiếu cạp điều trước sới, y vào vuốt lên giải nhất nói với các cụ bô lão: "Thưa, các cụ cho con xin cái giải nhất". Thế rồi y ngồi xếp chân chữ ngũ trên chiếc chiếu cạp điều chờ tan giải lĩnh cạn giải nhất. Lần ấy, Hưng Đạo vương đi tuần thú theo lệnh của triều đình vùng thượng lộ sông Đà. Chiêu Quốc vương mời ông cùng ngồi cầm trịch. Có một thiếu niên to lớn nằng nặc đòi được đấu với Đô Trâu. Sự kiện quái dị ấy làm cho các bô lão kinh ngạc phải xin ý kiến của hai đức ông. Hưng Đạo vương sau khi suy nghĩ thấy cậu bé tuy tuổi chưa phải đã lớn nhưng cốt cách người đã chẳng kém chi Đô Trâu. Ông thấy sự quả quyết của cậu bé thật đáng tin cậy nên đã bằng lòng cho cậu tranh giải nhất với gã đô vật hung ác. Trận đấu diễn ra rất quyết liệt. Cậu bé có lối vật rất riết róng làm cho Đô Trâu mất cả tự tin và bình tĩnh. Sau mười một nhịp, Đô Trâu bị cậu bé vật ngửa tênh hênh tấm lưng bằng một đòn cao, chính là đòn sở trường của Đô Trâu. Thế mới cay cho hắn. Cậu bé nẫng cái giải nhất năm ấy chính là Yết Kiêu. Sau trận thắng Đô Trâu, Yết Kiêu được đức ông Hưng Đạo vương thu nhận làm gia tướng trong đội quân gia đồng hương Vạn Kiếp. Bây giờ oan gia lại gặp nhau sau hơn mười năm cách biệt, Đô Trâu gây sự với Yết Kiêu cũng chẳng có gì là lạ. Gia nô hai chi cũng ùa vào khích bác nhau. Con người ta nhẫn nhục cũng có hạn. Đã thấy những cặp mắt vằn đỏ lên và những hơi thở dài rất mạnh. May thay chính vào lúc đó, hình như đấng chí tôn nhớ ra cái nết hết lòng vì chủ chính là cái hay và cũng là cái dở của quân gia nô tôi tớ nên đã sai một tướng trấn điện dẫn thân binh quay trở lại để coi sóc trật tự. Đám rước lên đến đền Đồng Cổ không xảy ra chuyện gì đáng tiếc. Ngôi đền này ở bờ tây bắc hồ Dâm Đàm có kiểu cách tuy nhỏ nhưng trang nghiêm. Đền Đồng Cổ làm đã trên hai kỉ. Mỗi kỉ là sáu mươi năm. Xưa kia ông vua khai sáng ra triều Lý đem quân đi tiễu phạt phương nam. Đến châu Ái, Lý Thái Tổ nghỉ quân tại núi Khả Lại. Khả Lại là một chòm núi ba ngọn châu vào nhau như ba vì sao. Dưới chân núi có một ngôi đền cổ xây dựng từ thời nào không rõ. Trên chính điện thờ một cỗ trống đồng rất to. Lý Thái Tổ dâng hương xem trống. Cỗ trống nặng chừng một trăm cân, rộng hai thước một tấc, cao một thước năm tấc. Chính giữa mặt trống là một cái rốn tròn chung quanh có chín vòng hoa văn dường như văn tự khoa đẩu cổ xưa. Đêm hôm ấy, Lý Thái Tổ ngủ lại trong đền. Không hiểu vì ban ngày quá chăm chú về việc quân hay vì một lẽ huyền bí gì mà người ta chưa hiểu thấu, hoặc giả vua biết bụng quân còn tin ở chuyện quỷ thần, mà sáng hôm sau nhà vua kể lại một giấc mộng trải qua trong đêm. Mộng rằng nhà vua thấy một ông tướng nhà trời giáp trụ uy nghi, râu tóc dài rậm. Viên tướng tự xưng là thần trống đã sinh thành từ thuở vua Hùng vương dựng nước Văn Lang. Nay nghe nói nhà vua đi mở nước ở phương nam, thần tướng xin theo để có một tay âm phù linh diệu. Khi tỉnh giấc, Lý Thái Tổ lại dâng hương một lần nữa, khấn to cho các tướng đứng chung quanh nghe thấy rằng lần này ra quân thắng lớn như lời thần giáng, thì khi ban sư, hồi triều nhà vua sẽ cho lập đền thờ ở kinh thành và cho rước trống về đó. Lần xuất quân ấy, Lý Thái Tổ lập nên công lớn. Nhà vua giữ lời, sai lập ngôi đền ở Thăng Long, rước trống về thờ ở đó. Đến đời Lý Thái Tông, thần lại báo mộng cho nhà vua biết có ba hoàng tử sắp làm loạn. Vì thế sau khi dẹp xong loạn, Lý Thái Tông đặt lệ hàng năm tôn thất và các quan văn võ phải lên đền Đồng Cổ uống máu ăn thề. Lời thề truyền mãi rằng: "Làm tôi phải trung, làm con phải hiếu, ai bất trung bất hiếu quỷ thần tru diệt". Năm nào cũng thề bồi, triều nào cũng có kẻ phản loạn nhất là nhằm những triều vua hoang dâm xa xỉ, rồi nhà Lý vẫn mất ngôi báu về tay họ Trần nhưng chính triều Trần lại đưa lễ thề thành một thệ hội cực kì long trọng. Thần linh chưa hề thấy hiển hiện cho ai trông thấy dung nhan nhưng có lẽ đã phân thân ra thành muôn ngàn mảnh nhỏ chui rúc ẩn náu tận đáy lòng sâu thẳm của mỗi con người làm cho những kẻ có mối khát vọng bất chính, dù chỉ một thoáng mơ hồ, cũng cảm thấy rợn lòng tưởng như sắp bị một sức mạnh huyền bí nào đó ở thế giới bên kia trừng trị. Thệ hội năm nay do đức ông Hưng Đạo đứng chức quan Điển nghi Kiểm chính. Hưng Đạo vương dẫn đầu các vương hầu đi sau kiệu hai vua. Ông thoáng nghĩ đến cái buổi hương Vạn Kiếp tiếp chiếu chỉ nhà vua triệu ông về kinh hồi đầu năm nay. Người tuyên chiếu là quan Học sĩ Đinh Củng Viên. Chiếu không chỉ rõ lí do vua triệu nhưng quan học sĩ sau khi mọi nghi lễ tiếp chiếu đã xong, trong lúc ngồi uống trà giải khát với ông đã chuyển giao cho ông một thư tay của Chiêu Minh vương Trần Quang Khải. Thư này thì rõ ràng minh bạch, Trần Quang Khải nói rằng việc nước đang lúc bộn bề, thậm chí chiến chinh có thể tính tới rồi. Họ Trần phải bồi đắp lập tức mối đại thống để đảm đương việc nước. Muốn làm được việc này thì Hưng Đạo vương, người cầm đầu chi trưởng và Chiêu Minh vương, người cầm đầu chi thứ phải gắn với nhau chặt chẽ. Chiêu Minh vương mời đức ông về kinh ngay. Thư không nói gì về việc bảo đảm an toàn cho các đức ông chi Vạn Kiếp khi họ về kinh, cũng không hề có một lời bảo đảm về cách đối xử của triều đình với chi Vạn Kiếp nhưng lại có một câu viết thêm ở cuối thư: "Khi vương huynh về kinh xin đến thẳng nhà đệ". Trần Quốc Tuấn đã trầm lặng nghĩ. Về kinh đến thẳng nhà Trần Quang Khải, an toàn của ông có thể là rất mỏng manh nếu như lá thư che giấu một mưu độc, ngược lại sẽ rất vững vàng khi việc bảo vệ cho ông sẽ rất chu đáo ngay từ đầu vì do đích thân Trần Quang Khải tự trông nom việc đó. Trần Quốc Tuấn nghĩ về Trần Quang Khải. Đó là một con người cương nghị, quả đoán, sát phạt, một tính cách anh hùng. Nếu là một người anh em thì thật ruột thịt, nếu là một người bạn thì là một tri kỉ, nếu là một kẻ thù cũng vinh dự cho người đối đầu. Trần Quốc Tuấn về Thăng Long, và đúng như lời dặn trong thư Trần Quang Khải, ông đến ngay phủ đệ Chiêu Minh. Ở đây, ông được tiếp đãi rất thân tình. Chiêu Minh vương và phó quan của ông là Học sĩ Lê Văn Hưu đã bàn bạc với Hưng Đạo vương tại một gian nhà kín đáo tận hậu thất. Việc xuất hiện của đức ông Hưng Đạo công khai trước nhân dân toàn kinh thành được ấn định vào ngày hội thề. Hưng Đạo vương có hỏi đức ông Chiêu Minh: "Còn ý của Thượng hoàng thế nào?" Chiêu Minh vương đã thẳng thắng trả lời: "Thượng hoàng đã cho em toàn quyền". Câu nói đó có nghĩa là Trần Quang Khải chủ động trong việc giao quyền hay không cho Trần Quốc Tuấn và ông đã trao. Hôm nay dẫn đầu trăm quan, Trần Quốc Tuấn lại nghĩ về Trần Quang Khải và thấy kính phục con người ấy. Trần Quang Khải đã suy nghĩ thế nào mà trao lại quyền cho ông. Đức ông Chiêu Minh so với ông không chút gì thua sút về tài năng, nếu ông thâm trầm hơn trí lự hơn thì Chiêu Minh vương cứng rắn, quả đoán và nhanh nhạy hơn. Nhưng nếu Chiêu Minh vương cầm quyền thì việc điều động các đức ông chi Vạn Kiếp khó khăn hơn ông. Còn nếu ông cầm quyền thì cả họ Trần dễ nghe theo ông tộc trưởng miễn là Chiêu Minh vương nêu gương trước. Trần Quang Khải đã nói thẳng với ông rằng: "Cái khó là mấy em tôi. Nếu họ trung chính biết theo hai anh em mình thì đó là đại phúc cho họ". Trần Quốc Tuấn công nhận điều đó và nói thêm: "Chúng ta đã có một sự gắn bó mới khác trước. Chúng ta biết nhưng những người khác chưa biết. Họ sẽ hiểu thế nào khi thấy anh em ta đi bên nhau trong các buổi triều hội và tế lễ? Phải cần bao lâu thì họ mới hiểu đúng ý của chúng ta?" Trần Quang Khải trầm ngâm rồi đáp: "Điều đáng lưu tâm là thái độ của các cháu ở Vạn Kiếp và các em tôi. Các người khác thì anh em ta cứ dùng phép nước mà ràng buộc. Nếu sai đâu cứ việc nắn cho thẳng. Em hi vọng rằng việc của chúng ta làm sẽ được tất cả những ai trung chính tuân theo." Trần Quang Khải mới bốn mươi tuổi. Người ta thường có câu: "Con người ta ba mươi tuổi mới kể là đứng, bốn mươi tuổi mới hiểu mọi việc ở đời, còn năm mươi tuổi sẽ biết được mọi diễn biến lắt léo của thế sự". Trần Quang Khải vẫn giữ được tính cương của một tướng trẻ nhưng ông đã có trí lự của bậc tướng già. Bàn chuyện với Chiêu Minh vương, Trần Quốc Tuấn cảm thấy nếu cầm quân, Chiêu Minh vương cũng không kém gì ông. Nhưng ông phục đức ông hoàng Ba ở đức hi sinh hỉ xả vì việc công và khi đã có ý định rồi thì không có cái gì trong thế gian này có thể làm con người ấy thay đổi ý định.. Hưng Đạo vương trang nghiêm dẫn các quan văn võ vào đền. Ngôi đền tuy rộng rãi nhưng không chứa nổi bấy nhiêu con người. Chỉ các vương hầu áo tía và các nữ quan được vào trong chính điện, còn tất cả nêm chặt ngoài sân ngoài vườn. Lính tứ sương được lệnh Hưng Đạo vương đóng chặt cửa lớn. Bên ngoài đền lính canh đang vất vả để dẹp đám dân kinh thành đang kéo đến mỗi lúc một đông thêm. Hưng Đạo vương đứng vào chiếu chủ tế trải trước án thờ. Ông xướng to: "Ban bài". Đó là hiệu lệnh cho tất cả mọi người đứng vào chỗ của mình chờ làm lễ. Không khí nặng nề trang trọng đến tức thở. Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật liếc Chiêu Quốc vương và thấy bộ mặt thường ngày xanh lạnh của anh mình bây giờ hồng au lên. Quả nhiên Chiêu Quốc vương đang xúc động mạnh. Khi viên Thông tán Đông xướng Trần Quốc Nghiễn hô to: "Quỵ". Thì Trần Ích Tắc như sụm xuống. Trước ban thờ thần trống đã bày một cái thống da lươn rất lớn. Những người hầu việc lễ bưng mấy vò rượu đổ đầy cái thống. Các quan chấp sự sai lính dắt vào ba con sinh: Một con nghé tơ, một con ngựa trắng còn non. Lính chọc tiết ba con sinh cho huyết chảy vào thống rượu. Dâng hương. Mùi trầm huyền bí ngào ngạt trong đền. Người ta nghe tiếng quan Điển Nghi dõng dạc đọc to lời thệ thư. Tiếng hô "xin thề" bay cả ra ngoài đền. Dân kinh thành đứng ở ngoài cũng đồng thanh thề góp. Hưng Đạo vương uống chén rượu thề trước hết mọi người. Chiêu Minh vương uống chén rượu thứ hai. Sau đó các vương hầu và các quan đại thần văn võ lần lượt nhận chén rượu từ tay viên quan chấp sự. Họ uống chậm, người thì mặt nhợt ra, người thì đỏ mặt lên. Thông tán Tây xướng Trần Đức Việp hô to: "Cúc cung bái". Tất cả cùng lạy xuống, thành kính và lòng tràn trề niềm tin. Thế là thệ hội đã xong. Trần Quốc Tuấn sai viên Đại An phủ sứ kinh thành kiểm tên các vương hầu và các quan xem có ai thiếu mặt không. Đến lúc này Chiêu Văn vương mới thấy nhẹ người đi. Trần Nhật Duật tò mò nhìn mọi người. Hoài Thượng hầu Trần Văn Lộng đang dán mắt vào mấy con sinh nằm ngổn ngang trên mặt đất. Hoàng Mãnh làm nhiệm vụ kiểm tên mọi người một cách gay gắt đứng như một viên tướng mới tiến tước. Ông thấy Chiêu Minh vương Trần Quang Khải đứng sừng sững như chưa quen vị thế thụ động chờ lệnh. Đại Tông Chính Nhân Túc vương Trần Toàn vẫn áy náy cao độ, cái mũi càng sần đỏ lên, đôi mắt hết nhìn đức ông Chiêu Minh lại chuyển sang đức ông Hưng Đạo. Trần Nhật Duật nuốt nước bọt một cách khó khăn. Thế là thệ hội đã xong, hai chi Tức Mạc và Vạn Kiếp đã gần thêm lại. Đến lúc này, Chiêu Văn vương mới hiểu, trong tiềm thức của ông, sự phân biệt giữa hai chi không phải là không có dù nó chỉ là một cỏn con mang sẵn trong huyết quản. Điện tiền Tướng quân Hoàng Mãnh là một trong mười viên quan được chọn để chăm nom cho việc rượu tối mùng bốn tháng tư diễn ra đúng thông lệ. Tiệc rượu này đặt ra từ thời Trung Vũ vương Trần Thủ Độ còn sống, Hiển hoàng Trần Liễu còn sống, Tiên hoàng đế Trần Cảnh còn sống, Thiên Cực công chúa Trần Thị Dung còn sống, Thiên Cực công chúa chính là vợ của ông vua cuối cùng của nhà Lý - Lý Huệ Tông, và bà đã lấy người chồng sau là Trần Thủ Độ. Tên cá của bà là Ngừ, cái thứ cá lẳn mình, xanh biếc. Có nghĩa là lúc đó còn sống những người có hai nửa cuộc đời, ở một nửa trước họ hãy còn hàn vi, sống bằng nghề chài cá và buôn bán hải sản bằng thuyền biển, họ chưa bị lễ giáo của vị thế chức tước nhà sang ràng buộc; sang nửa đời sau, họ trở thành những người đứng đầu triều đình, nhất cử nhất động đều bị trăm quan, trăm họ nhìn vào, một lời họ nói ra cũng làm hàng trăm người có vị thế cao trong xã hội tìm hiểu suy nghĩ đắn đo xem có những ẩn ý gì. Phú quý cực phẩm nhưng thế là nửa đời sau của họ bị hàng trăm mối ràng buộc. Lúc đó ngôi báu nhà Trần đã vững vàng, trăm họ no đủ, việc nước ung dung cho nên người ta nảy ra ý muốn bày đặt thú chơi. Đã có những người không biết nén dục vọng đâm ra phạm lỗi. Năm Bính Thân, nước lên to ngoài sông Cơ Xá. Nước lũ tràn vào hồ Dâm Đàm, nước tràn cả vào nội cung. Hiển hoàng Trần Liễu lúc đó coi quản công việc cung Thánh Từ, một buổi đi thuyền vào cung chầu vua cha. Thuyền bơi qua cung Lệ Thiên. Cung này dùng để giam giữ các phi tần cũ của triều Lý. Trần Liễu nhìn thấy một bà cung phi còn xinh đẹp liền tạt ngay thuyền vào. Thế là việc lăng nhăng chẳng ra làm sao xảy ra làm cho hoàng tộc cũng đâm ngượng với trăm quan trăm họ. Hiển hoàng là anh ruột vua Trần Thái Tông, người tôn quý đến tội gì cũng còn tha huống nữa một tật trai gái cỏn con. Vì thế Trần Liễu chỉ bị sửa một chữ trong tước vị từ Hiển hoàng xuống còn Hiển vương. Cung Lệ Thiên thì bị đổi tên thành cung Thưởng Xuân để ghi nhớ một việc thông thường của đạo trời đất về mùa sinh nở của muôn loài. Như cái bong bóng rượu cứ bị ép mãi thế tất phải phì ra. Thái sư Trần Thủ Độ phải tìm kiếm nhiều phương thuốc cứu chữa. Một trong các phương thuốc ấy là bày tiệc rượu đeo mặt nạ mo nang. Về tiệc rượu này, triều đình cho phép các vương hầu đều được dự không phân biệt thế thứ chi ngành, không phân biệt văn võ chức tước. Quần áo ai muốn dùng màu gì thì dùng trừ màu vàng tôn quý dành riêng xưa nay cho vua. Để không còn ai nhận ra ai, tất cả mọi người đều phải đeo một cái mặt nạ vẽ trên một cái mo nang. Các công chúa, quận chúa, tiểu thư, công nương có chồng rồi hoặc đã có đính hôn cũng được phép dự tiệc. Tiệc có một ông cầm trịch. Thường thường người ta chọn người hiền nhất, hiền đến mức ngu vào chức đó. Cho đến bây giờ, các vương hầu còn cười cợt nhắc đến ông cầm trịch đêm tiệc đầu tiên mở năm Tân Hợi (1251). Đó là quan Trạng nguyên Ngự sử Trần Chu Phổ. Bậc túc nho này đang muốn đem lề thói lễ nghĩa đạo Nho vào trong sinh hoạt của triều đình, ông ta vốn là người chăm chắm bắt chước các bậc tiên sư, tiên thánh của đạo Nho cho nên ông ta đi không dám đi nhanh, ăn không dám ăn nhiều, miếng thịt thái có vuông mới dám đụng đũa, thấy vàng thấy con gái đẹp thì ông ta nhắm mắt lại.. thành thử triều đình vừa bực mình vừa nghịch ngợm chọn luôn ông ta làm việc cầm trịch. Người ta giao cho Trần Chu Phổ một cái dùi đục để gõ ra lệnh trong tiệc rượu. Người ta biến luôn chức cầm trịch thành một chú Tễu giống như một chú Tễu ngô nghê ỡm ờ trong trò múa rối nước thường diễn ngày xuân ở phủ Long Hưng. Tiệc rượu mặt nạ mo nang thường diễn ra thâu đêm. Người ta chỉ ăn uống đến đầu giờ Tuất còn từ giờ Hợi trở đi thì hết chỗ nói: Hát hổng, cợt ghẹo, châm chọc, lả lơi, ngả ngốn. Nhưng tiệc rượu mặt nạ mo nang cũng không chỉ để nô đùa phỉ chí, người ta còn hát những điệu dân ca tình tứ nhất, duyên dáng nhất, đưa người ta từ cung đình về với làng quê đẹp hiền hòa bình dị, người ta còn ngâm những bài thơ tài tử nhất có những thần cú làm vào những lúc nửa tỉnh nửa say, người ta còn múa những điệu vũ đẹp nhất của dân tộc Việt và các dân tộc láng giềng. Cũng chính nhờ những lời ca, vần thơ, điệu vũ mà người dự tiệc đoán ra sau cái mặt nạ quỷ sứ kia là người nào: Một vị múa điệu Hời, múa giỏi lắm, vậy thì chỉ có Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang mới có thân thủ điêu luyện như thế được. Một bà giọng tuy già dặn nhưng hát một làn điệu dân ca vùng biển lời rất đanh đá chua ngoa và lẳng lơ mà lại như tiếc như thương gió muối trăng sông bềnh bồng sóng nước, thế là cả tiệc nhận ngay ra bà chúa Ngừ tức công chúa Thiên Cực Trần Thị Dung. Một ông ngồi lọt thỏm giữa một đám các bà bị họ đẩy ra ngâm thơ, ông ta ngâm một bài thơ thiên nhiên bằng một giọng ề à như sư ông đọc kệ. Cả tiệc bụm miệng lại không ai dám cười vì nhà thơ ề à như sư này chính là Trần Thái Tông, đạo hiệu Phổ Minh thiền sư. Một ông khác lúc bị đẩy ra thì nổi cáu không chịu ra mà lại cáu kiểu hách dịch, thôi đúng là Thái sư Trần Thủ Độ, người đặt lệ cho tiệc rượu mo nang rồi lại quên lệ ngay tại tiệc. Trong bữa tiệc đầu tiên, khi không khí đã ra chiều lơi lả người ta hát nhiều khúc huê tình và người ta đẩy bậc túc nho - chú Tễu - Trần Chu Phổ ra bắt phải hát một bài. Trần Chu Phổ phải cầm dùi đục ra giữa tiệc. Vốn là người chăm chắm luân lí lễ nghĩa, một câu hát cũng không hề có ý định học, Trần Chu Phổ đành giang tay ra, ê a: "Ngự sử hát thế thôi! Ngự sử hát thế thôi!" Ông sử gia Lê Văn Hưu chộp ngay chi tiết ấy chép luôn vào chính sử. Thái sư Trần Thủ Độ nghĩ đến thể chế vội cấm Lê Văn Hưu chép thêm những tình tiết khác. Thế nhưng nhờ có những biện pháp triều đình chọn bấy giờ như tiệc rượu mo nang, cái chất ngang tàng của những người phóng khoáng ngang dọc sông hồ mới tràn trề trong hoàng cung vàng lụa và người ta mới còn giữ được cái thèm thuồng biển cả non cao, thèm thuồng cái thú một gươm một ngựa ra đi chỉ một nụ cười tạ từ những người ở lại. Buổi chiều Hoàng Mãnh được lệnh đem cái dùi đục để trong cái hộp gỗ sơn son thếp vàng đến cho Nhân Túc vương Trần Toàn là ông cầm trịch năm nay. Hoàng Mãnh yên trí rằng Trần Toàn sẽ đờ người ra khi nhìn thấy cái dùi đục. Ông ta giữ một chức vụ xưa nay lấy sự long trọng làm lẽ tồn tại. Thế mà bây giờ lại bắt ông ta cầm cái dùi đục thì còn ra thể thống nào nữa! Thế nhưng, thật không ngờ, Trần Toàn lại hết sức khoái chí khi biết mình sẽ là người cầm trịch giương ra cái dùi đục hiệu lệnh đêm nay. Ông ta mừng muốn rú lên: - Thế mới là vận đỏ như son! Thế mới là ơn vua tri ngộ! Thế mới thật là trên dưới hiểu lòng nhau. Thế cơ chứ lại! Trần Toàn sướng quá. Trưa hôm nay, trên đường rước hai vua từ đền Đồng Cổ về nội cung, Trần Quang Khải đã đến gần ông và kính cẩn nói với ông: - Thưa chú, thệ hội được thế này thật là nhờ tay chú. Trần Toàn lúc ấy sướng không nói được ra tiếng, cái mũi đỏ bóng lên. Ông ta cảm thấy rõ ràng quyền uy của mình to lên, giá trị con người của Đại Tông Chính nâng lên. Lời khen của Thái sư Thượng tướng Chiêu Minh vương chắc chắn sẽ dẫn đến cho ông tước lộc mới. Bây giờ thì sự ấy diễn ra nhỡn tiền ở cái dùi đục kia! Mối đại thống họ Đông A đã đem ra thề bồi trước thánh thần sáng hôm nay, đêm nay họ Đông A lại hội họp vui chơi một bữa thỏa thuê, bãi hết mọi ranh giới, rũ hết mọi hận thù giận hờn trong một bữa tiệc mà cái tiệc rượu dạ đài ấy lại cũng chính tay ông giương ra cái dùi đục của đức ông cầm trịch. Hà, thế thì quyền uy của chi trưởng, quyền uy của chi thứ từ đây cũng phải cậy đến tay ta, ta, Đại Tông Chính họ Đông A. Té ra Nhân Túc vương Trần Toàn không chỉ là người xuề xòa ham ăn thích uống. Ông ta cũng là bậc trí lự biết giấu tâm tư sau một bộ mặt chè rượu, tự mãn, tầm thường. - Này đây, vừa là thưởng vừa là để mừng tướng quân tiến tước. Trần Toàn cầm luôn một gói trên án đưa cho Hoàng Mãnh. Đó là một cái mật gấu người ta vừa biếu Trần Toàn hôm qua. Đối với Nhân Túc vương, cái mật gấu chẳng hữu ích bao lăm nhưng với Hoàng Mãnh, dũng thủ vô địch kinh thành thì nó lại vô giá. Anh ta chẳng có tháng nào là không trẹo khớp, bong gân, sưng tay, toác chân. - Xin đa tạ đức ông. Trần Toàn cười hề hề. Ông giơ lên trước mặt Hoàng Mãnh một cái mặt nạ mo nang. - Tướng quân ngắm xem. Có phải là Bụt cũng không nín cười được phải không? Trên cái mặt nạ mo nang vẽ một cái mặt Phỗng chột bằng những nét vôi trắng rất tài hoa, rất nghịch ngợm. Hoàng Mãnh phì cười. Anh hỏi Trần Toàn: - Bẩm đức ông sao mặt nạ lại chỉ được vẽ trên mo nang? - Lệ mà! Đó là lệ mà! Lệnh bà Thiên Cực công chúa đã đặt ra cái lệ này từ ngày xưa. Đã là lệ thì nó phải thế chứ sao. Hoàng Mãnh cáo từ xin lui. - Bẩm đức ông, đây là tín bài để vào dự tiệc của đức ông. Xin đức ông nhận cho để tiểu tướng còn đi làm nốt việc vua. Hoàng Mãnh đưa cho Trần Toàn một cái tín bài bằng gỗ son méo như một cái vỏ trai. Rời phủ Tông Chính, Hoàng Mãnh lên ngựa đến phủ Chiêu Quốc. Anh gặp ở đấy một cuộc tụ hội của những vì sao: Chiêu Quốc vương, tác giả của tập thơ Củng cực lạc ngâm mà lời lời đẹp như gấm thêu, ca ngợi lòng sùng kính ngưỡng mộ của bề dưới hướng đầu lên đấng cửu trùng; đức ông Văn Nghĩa thượng vị hầu Trần Tú Hoãn, đức ông Văn Nghĩa là con của vua Thái Tông () nhưng vì mẹ chỉ là một cung nữ tầm thường nên con không được phong vương. Văn Nghĩa hầu chỉ là hàng cháu của Chiêu Quốc vương nhưng hai người thân thiết gắn bó với nhau một cách quái lạ lắm, nhất là về mặt văn thơ. Nếu thơ Chiêu Quốc là âm thanh dịu ngọt thì thơ Văn Nghĩa là tiếng vang của âm thanh ấy. Rồi Chương Hiến hầu áo tía Trần Kiện nổi tiếng cả nước về học thức uyên bác, văn chương đanh thép, đọc lên âm hưởng như cồng. Rồi mạc khách của Trần Kiện là Lê Trắc tên tự là Cảnh Cao. Ông này hồi nhỏ nổi tiếng là một thần đồng đã từng được vua Trần Thái Tông đem vào nuôi ở trong cung cho ăn học theo những bậc túc nho kén chọn từ Quốc Học viện. Người Thăng Long truyền tụng đến là lắm giai thoại về Lê Trắc nhưng giai thoại nào cũng không bì được chuyện dòng dõi nhà ông ta do chính miệng ông ta hễ có dịp là kể ra: "Lê Trắc này tên chữ là Cảnh Cao, người ngoại quốc thường gọi là An Nam Lê Trắc. Tài Trắc thì tuy mọn nhưng mắt đã liếc qua bách gia chư tử ấy là vì Trắc vốn dòng dõi Nguyễn Phu tiên sinh, quan Thứ sử Giao Châu thời cái nước An Nam này còn" được "thuộc về nhà Đông Tấn bên Tàu. Trắc thường nghĩ lập thân tối hạ thị văn chương cho nên chỉ làm thơ chơi vài bài vào cái lúc cơm no rượu ngà ngà. Còn thì Trắc chỉ mong được đi đây đi đó, nay làm một vần tức cảnh xứ trúc, mai lại thay một vần khác về đất thông. Thơ văn hào mại phải dành cho phong hoa tuyết nguyệt nói làm chi đến chuyện đời. Cái nhà ông Đỗ Phủ thì thật gàn, thơ châu ngọc đâu có nên dành cho quân nghèo đói lính tráng, có phải không chư hiền hữu?" Đó là lời của một kẻ tự nhận là cao đạo! Ngay cách Lê Trắc chọn chủ cũng cao đạo! Chủ của Lê Trắc chính là Chương Hiến hầu Trần Kiện, nhân vật mà cả nước có nói đến dòng dõi ông ta cũng chỉ dám rỉ tai nhau. Trần Kiện là con Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang. Ông này như ta đã biết, bề ngoài là con Trần Thái Tông nhưng thực ra là con của An Sinh vương Trần Liễu. Thế là, về dòng giống, Trần Kiện hệt như con nòng nọc đối với con cóc và con cá trê vậy. Ấy thế mà đức ông Trần Kiện còn là chồng của công chúa Quỳnh Huy, cô gái yêu của Thái sư Chiêu Minh vương nữa. Làm mạc khách của Trần Kiện có nghĩa là người của cả chi trưởng lẫn chi thứ họ Trần, kể cả máu chính hiệu lẫn máu pha. Rồi đến Tô Nghĩa Đông, con người lục thao tam lược đã từng tung hoành ngang dọc trong chiếu rượu bàn trà, tinh thông nho, y, lí, số, tướng pháp, phong thủy để mồ để mả, thơ mã thượng cũng hay, thơ thiên nhiên thì được phái thơ sơn thủy nhà Tống bên Tàu coi là khuôn vàng thước ngọc. Lúc Hoàng Mãnh được đưa vào chính đường phủ Chiêu Quốc, Tô Nghĩa Đông đang xem số tử vi cho Trần Ích Tắc. Ông ta tán: - Bẩm đức ông, lá số này kì cách. Xuất nhập Tướng mà các hung tinh đắc địa cả, chúng hội với Lưỡng Tướng càng phù trợ đắc lực thêm. Bẩm hung tinh đắc địa số phát như lôi, có nghĩa là như sấm nổi ạ. Bẩm đức ông, như thế là anh hùng cái thế danh trấn biên cương ạ. Ngay lá số của Tống triều Thái Tổ cũng chỉ đến vậy mà thôi. Trần Ích Tắc là người cũng ham cũng tin tử vi, nhâm độn và cũng học các môn này nhiều năm. Ông không lạ gì điều Tô Nghĩa Đông vừa nói nhưng nghe lời khen thì bao giờ chẳng thích, nhất là người khen thuộc loại tiếng tăm cả hai nước ta, Tàu như Tô Nghĩa Đông mà câu khen lại thốt lên trong quầng sáng lấp lánh của một vì sao nhan sắc nghiêng nước đổ thành, tài hoa diệu ảo: Công chúa An Tư. An Tư là em ruột Văn Nghĩa hầu Trần Tú Hoãn. Đó là một cô gái vừa mười sáu tuổi, vẫn còn cái ngây thơ của con trẻ nhưng đôi mắt đã lúng liếng dõi tìm vui thú và hạnh phúc. Thượng hoàng Thánh Tông yêu thương Vũ Đạo hầu nên đã nhận An Tư làm con nuôi từ năm quận thượng chúa mới lên năm tuổi. Công chúa An Tư trở thành cô gái được cưng chiều nhất hoàng cung. Kinh kì nức tiếng ngón đàn bầu của nàng công chúa út. Người ta kể là ngón đàn ấy đã từng làm cho mặt sắt của sứ Tàu Sài Thung phải ngây ra chỉ bằng một bản dạ khúc Canh Lậu Trường. Kinh kì còn nức tiếng nước pháo song tiên của kì thủ An Tư, nước pháo đã từng buộc kì hầu hai nước là Tăng Uyên Tử phải chật vật mới giữ được hòa.. Trần Ích Tắc nghi ngờ bảo Tô Nghĩa Đông: - Tiên sinh nói chơi đấy chứ? Xưa nay nhân định thắng thiên là lẽ thường. Phải trau dồi phúc cho đầy nhờ ở đức. Có phải tiên sinh muốn khuyên ta thế không? Trần Ích Tắc nhìn sang Hoàng Mãnh: - Chào quan Điện tiền! Chà, thế là từ nay tướng quân lại là người xét biển Nhập nội của ta mỗi bận ta tiến cung đấy nhé. - Bẩm đức ông, tiểu tướng phải tuân theo phép nước luật vua đó thôi. Trần Ích Tắc hỏi Hoàng Mãnh: - Lại thẻ tín bài hả? Chiêu Quốc vương cười nhận thẻ tín bài. Hoàng Mãnh tiện thể cũng đưa thẻ cho Trần Kiện và Trần Tú Hoãn. Hoàng Mãnh cũng đưa cả thẻ của vương phi Chiêu Quốc và các bà phu nhân của hai hầu tước Chương Hiến, Văn Nghĩa. Tô Nghĩa Đông và Lê Trắc tò mò nhìn Hoàng Mãnh. Cặp mắt của họ soi mói, khinh thị và chen cả ánh lửa thoáng loé lên của khát vọng. Tô Nghĩa Đông hỏi: - Có phải tướng quân sắp đi ở rể nhà Mai Sơn hầu? - Đúng đó! Nhưng thưa quan nhân chưa đúng tất cả. Chúng tôi đã làm lễ vấn danh. Đến mùng chín, sau lễ Vu Lan Bồn tắm Phật một ngày thì tôi ngược châu Mai nhưng không phải là đi ở rể. Lê Trắc mỉm cười: - Vậy là tướng quân lên núi tìm các bậc cao sĩ ở ẩn? Biết Lê Trắc nói xỏ trên núi chỉ có khỉ ở chứ làm gì có cao sĩ, Hoàng Mãnh cũng mỉm cười, mắt quỷ lại sáng lên: - Thưa không ạ! Bậc đại ẩn thường ở thành thị. Quan gia sai tôi lên châu Mai để giúp họ luyện một đội quân sơn cước. Vả chăng - Hoàng Mãnh liếc xéo Lê Trắc - cao sĩ xưa nay còn hiếm hơn lá mùa thu. Ta có tìm thì cũng chỉ thấy nhan nhản bọn đạo nho và lũ thư si la liếm tìm chủ mà thôi. Thư si là những kẻ mê mẩn sách chỉ tầm chương trích cú, tách biệt với cuộc đời, còn đạo nho là lũ nhà nho ăn cắp văn! Hoàng Mãnh vốn là người xông xáo quen đốp chát và còn trẻ nên rất hiếu thắng. Câu ví kín đáo của anh về Lê Trắc và Tô Nghĩa Đông với bọn đạo nho và thư si làm cho hai gã căm ra mặt. Nhưng căm thì căm chứ với dũng thủ vô địch kinh thành thì cũng chẳng dám nổi hung, hai gã đang tím ruột tìm câu đối đáp thì công chúa An Tư xen vào: - Này ông Điện tiền, còn thẻ của tôi đâu? Hoàng Mãnh lại mỉm cười kính cẩn: - Bẩm lệnh bà, phủ Tông Chính lập danh sách không có tên lệnh bà. Tiểu tướng chỉ theo lệnh trên đưa thẻ đến tận tay những người có tên. An Tư mắt cháy lên nhưng không có cớ để vặc Hoàng Mãnh. Cô gái đang tuổi bước vào đời, thèm khát những nơi đông đúc hội hè chen vai thích cánh, nhất là tiệc rượu này đã được người ta nhắc nhở đến hàng mấy tháng nay. An Tư còn được nghe kể lại bà chúa Ngừ đã chẳng thèm đếm xỉa đến miệng tiếng thế gian, cứ mỗi mùa hội xuân, lệnh bà thường nại cớ lễ Phật dâng hương để đi lộ Bắc Giang xem các hội làng: Hội vật, hội thả chim, hội bơi chải, hội hát xướng.. Còn lần bà mặc giả gái quê cùng mấy người tùy tùng dự hội làng Xuân Dương rước nõ nường vẫn là giai thoại đầu trò về người đàn bà đã từng làm hoàng hậu của vua Lý Huệ Tông rồi sau làm vợ của Trung Vũ đại vương Trần Thủ Độ. Hàng năm cứ mùa xuân đến, Xuân Dương mở hội. Các cụ trong dân làm một cái nõ bằng lõi dứa dại để nguyên cả xơ úa xồm xoàm và một cái nường bằng mo nang cài cỏ rối lờm xờm. Người ta để nõ, nường lên kiệu chõng tám rồi cả làng rước linh đình qua xóm này, thôn khác. Trong khi đó gái làng kéo từng đám đi xô bè đám trai tứ chiếng về xem hội kì cho những người đó ngã xuống ao. Sau đó thì những cô gái Xuân Dương lại vớt trai tứ chiếng lên đưa về nhà ném một mớ quần áo khô cho thay, đãi cơm rượu tử tế, trải chiếu buông mùng cho ngủ tốt. Thiên Cực công chúa đã dự cả những hội dân dã như thế đó. Và cũng vì thế bà đặt lệ mặt nạ nhất thiết phải vẽ lên mo nang. An Tư thích thú nghĩ đến một câu nói của người đàn bà tài đảm, nghịch ngợm và đanh đá ấy. Câu ấy thế này: - Xét cho cùng, thế gian này còn mãi muôn đời cũng là nhờ có mấy cái đó, mà hễ có là phải có đủ đôi. Nghe đâu ngay chính Trung Vũ đại vương cũng phải chẹp miệng rồi im. An Tư thường nghĩ Trung Vũ đại vương sợ vợ nhưng thật ra không phải thế. Khi Trần Thị Dung còn là con gái mà nhà họ Trần chỉ là hào trưởng một phương thì kinh thành có loạn, thái tử Sảm nhà Lý tránh loạn về vùng biển, nương náu ở nhà họ Trần. Họ Trần lập mưu buôn vua, đem cô gái xinh đẹp nhất họ gả cho thái tử Sảm. Trần Thị Dung và Trần Thủ Độ lúc đó đã thầm yêu trộm thương nhau rồi cho nên việc Trần Thị Dung bị các cụ cha chú tộc họ ép gả cho Thái tử Sảm là một sự kiện to lớn gây trong lòng người đàn bà xinh đẹp tài năng ấy một vết thương mãi mãi không lành. Thái tử Sảm lên ngôi vua thành Lý Huệ Tông, ông vua cuối cùng triều Lý. Đất nước lúc bấy giờ tao loạn, giặc giã nổi lên tứ tung mà tôn thất nhà Lý chỉ mải ăn chơi dâm dật xa xỉ. Trần Thị Dung trở thành bà hoàng hậu, quốc mẫu của cả nước. Chính bà là một tay quan trọng trong việc chuyển ngôi vua từ họ Lý sang tay họ Trần. Đến khi họ Trần lấy xong ngai vàng rồi, Lý Huệ Tông bị an trí rồi tự tử ở chùa Chân Phúc thì Trần Thị Dung bị giáng xuống làm Thiên Cực công chúa và về làm vợ Trần Thủ Độ. Việc giáng chức này thực sự là một giải thoát cho người đàn bà ấy. Hiểu hết mọi ngóc ngách sâu kín nhất của kỉ cương, lễ giáo, người đàn bà ấy cười cợt tất cả mọi thứ kể từ danh vọng, tài năng, cương thường, đạo lí thậm chí đến cả tình nghĩa nữa và bà chỉ coi trọng có một nết, đó là sự thành thật với chính mình.. Bà chúa Ngừ mà còn dự cả hội nõ nường thì ta, công chúa An Tư sẽ bằng mọi cách lọt được vào cái tiệc rượu mặt nạ kì quái này. Mắt An Tư tối sầm lại và nàng công chúa trẻ trung mới chỉ hiểu cuộc đời là một trò chơi, là vui thú đã nhìn Hoàng Mãnh chằm chằm mà hỏi: - Không có tín bài thì ta cũng dự, nhà anh có tin lời ta không? Hoàng Mãnh chỉ mỉm cười, một nụ cười làm cho đối phương ngang ngửa và tức bực: - Bẩm lệnh bà, tiểu tướng sẽ là người chỉ huy việc xét tín bài ở cửa cung. Hoàng Mãnh kính cẩn vái chào mọi người và xin lui. Chiêu Văn vương lên ngựa. Đoàn lính tùy thân do Triệu Trung chỉ huy cũng lên ngựa. Đoàn người ngựa đi nước kiệu nhỏ giữa các phố phường đã lên đèn sau một ngày hội náo động. Đoàn người ngựa nhằm hướng vương phủ Hưng Đạo mà đi. Trần Nhật Duật đến rủ Trần Quốc Tuấn cùng đi dự tiệc. Hưng Đạo vương đón Trần Nhật Duật ở chính đường vương phủ nhưng ông nói: - Bây giờ mới đầu canh một, còn sớm quá, anh em ta vào trong này uống chút trà thơm đã. Trần Quốc Tuấn đưa em qua hậu đường đến một khu vườn rậm rạp um tùm. Trong vườn này, Hưng Đạo vương đã cho xây cất gác Ngoạn Hoa. Tên này do con trai thứ ba của ông là Trần Quốc Tảng đặt mà thực ra ông không thích một cái tên cầu kì lịch sự đến thế. Ông chỉ muốn một chỗ ngồi tĩnh mịch, cô đơn một chút, có vài cây hoa thơm của đồng quê đất Việt như lan tiêu, móng rồng, ngâu, sói.. Gác này xinh nhỏ, trang trí bằng vài bức tranh cổ vẽ lối thủy mặc và một bức trướng lụa mỡ gà. Trên một cái kỉ gỗ trắc có bày một chậu tùng cỗi, thế cành rất xương kính. Trần Nhật Duật ngắm bức trướng và nhẩm đọc. Té ra là bài Trà ca của Lư Đồng chép theo kiểu chữ thảo. Trần Quốc Tuấn tủm tỉm cười: - Chữ của ông Thám hoa Đặng Ma La đấy. Ta thích chữ của ông ta. Cách viết không bay bướm cầu kì, kiểu cách, nó đường bệ mà vẫn bình dị. Em xem, bài thơ có nhiều chữ trà mà không chữ nào ông ta viết giống chữ nào. Nghe nói Đặng Ma La chép bài thơ này vào một lúc rượu ngà ngà say. Về sau ông ta đã thử chép lại vài lần khác nhưng không lần nào đạt được vẻ đẹp của bức trướng này. Trần Nhật Duật cũng thích bức trướng này lắm nhưng ông đang ở tuổi sôi động của con người, ông chưa hợp với những gì trầm lắng và sâu đọng. Ông thích những cuộc phi ngựa cuồng loạn, thích leo lên những đỉnh núi chon von, thích đi thuyền trên biển buổi gió cả để ngắm trăng, thích gió ngàn thổi như bão, thích những trận đánh phết dậy lên tiếng hò tiếng hét dữ dội.. Không hợp với ông nhưng những gì trầm lắng và sâu đọng thường buộc ông phải chiêm ngưỡng. Tỉ như lần ông đi chơi Yên Tử rẽ vào thăm Hưng Đạo vương ở Vạn Kiếp. Hưng Đạo vương đã dẫn ông đi xem những cái cọn nước để lấy nước tưới ruộng mà Trần Quốc Tuấn đã cho làm và dạy dân cùng làm ở hết cả vùng ruộng trong thái ấp và trong hương. Đó cũng chính là mối quan hệ giữa Hưng Đạo vương và Trần Nhật Duật. Hai người cách xa nhau cả thế hệ, khác nhau về những biến cố trong cuộc đời. Chiêu Văn vương thường nghĩ đến Trần Quốc Tuấn với một thái độ kính trọng và một chút xa xôi. Về những chiếc cọn nước, ông rất thích, rất muốn làm nhưng ông không kiếm ra thời giờ để thực hiện chúng trong thái ấp của ông. Thực ra thì giờ thì ông không thiếu nhưng những thú vui và những công việc thích hợp với ông đã choán hết mất rồi. Chiêu Văn vương rất kính trọng Trần Quốc Tuấn, ông cho rằng đó là một con người mà cảnh gia biến đã hun đúc nên một bản lĩnh tuyệt vời. Trần Nhật Duật đã được nghe kể lại năm Hiển hoàng Trần Liễu nổi quân chống lại Trần Thủ Độ khi bị ép nhường vợ cho em là Trần Cảnh thì Trần Quốc Tuấn còn để chỏm. Một người nhũ mẫu đã bế Trần Quốc Tuấn về trốn ở quê mình. Mối đe dọa bị bắt, bị hành hạ đã tạo cho Trần Quốc Tuấn một đức tính cứng cỏi, bướng bỉnh, ít nói. Về sau hai anh em hòa nhau nhưng Trần Liễu không nguôi căm hận. Trần Liễu đã dụng công kén thầy văn thầy võ thật giỏi để dạy con trai, những mong mượn tay con trả mối nhục cho mình. Trần Quốc Tuấn dần dần lớn lên, nổi tiếng là một bậc nam tử văn võ toàn tài. Được nuôi dạy trong không khí thù hận nhưng mỗi bước trưởng thành lại nảy nở ở Trần Quốc Tuấn những đòi hỏi mới ở thế hệ trẻ. Ông thuộc thế hệ họ Trần đã thôi mang tên một loài cá, thế hệ đầu của họ Trần nắm đại quyền. Ông mơ ước được xông ra đời, góp sức với đời chứ không thích ru rú ở ẩn trong một xó trang trại với nỗi dày vò của một mối thù từ đời trước. Ông mơ ước đem tài năng mình ra làm việc nước, muốn đảm đương những chức vụ khó, muốn đem hoài bão của mình thi thố cho sự yên vui của trăm họ. Tuy thế mối hận xưa vẫn tác động trong lòng người trai trẻ ấy. Lúc còn trẻ, Trần Quốc Tuấn đã mấy lần va vấp với người của chi thứ. Sự biến to lớn nhất chính là cuộc hôn nhân của ông. Vào một ngày đi dâng hương, vãn cảnh chùa Phật Tích năm xưa, Trần Quốc Tuấn có dịp gần gụi công chúa Thiên Thành. Như một lằn sét, cuộc hạnh ngộ đó dẫn đến mối tình thầm kín giữa đôi trai tài gái đẹp ấy. Nhưng khốn thay vua Thái Tông lại muốn gả công chúa Thiên Thành cho Trung Thành vương. Hôn lễ đã định rồi. Cô dâu đã bị rước đến vương phủ Trung Thành. Trần Quốc Tuấn hận lắm, đã tìm cách vào vương phủ Trung Thành để gặp người yêu dấu mà than vãn. Mẹ nuôi của Trần Quốc Tuấn là công chúa Thụy Bà biết nhưng giả vờ hoảng sợ đã nửa đêm đến đập cửa cung tâu với vua Thái Tông và xin vua Thái Tông ra tay cứu Trần Quốc Tuấn, kẻo người nhà Trung Thành vương mà bắt quả tang thì họ cứ phép nước giết luôn. Đã liên can đến việc bôi một vết xấu vào cuộc đời của anh, Trần Thái Tông không muốn mang thêm tiếng xấu khác về việc của cháu. Nhà vua vội vã dẫn lính ngự lâm đến vương phủ Trung Thành. Bấy giờ đã khuya lắm nhưng yến tiệc vẫn diễn ra linh đình trong vương phủ. Thấy vua đến, cha con Trung Thành vương vội ra đón. Nhưng nhà vua không nói không rằng, cứ dẫn lính ngự lâm xộc thẳng vào khu nhà hậu, tìm đến buồng cô dâu và thấy Trần Quốc Tuấn ngồi trong đó. Trần Thái Tông vội hộ tống Trần Quốc Tuấn ra khỏi vương phủ Trung Thành. Vua cũng đem luôn công chúa Thiên Thành về cung. Sự phán xử của nhà vua ngày hôm sau làm cho hoàng tộc và triều thần phải sửng sốt, Trần Quốc Tuấn chẳng những vô can mà còn được lấy công chúa Thiên Thành làm vợ. Để bù cho chuyện vợ hụt của Trung Thành vương, vua đền cho ông ta hai nghìn khoảnh ruộng. Chính cuộc hôn nhân này làm cho Trần Quốc Tuấn càng trưởng thành, càng băn khoăn. Trong cuộc tình địch xưa, Trần Thái Tông chỉ là người tình cờ thành tòng phạm còn trong cuộc tình địch này, Trần Quốc Tuấn là nạn nhân nhưng cũng là chính phạm rõ ràng. Sự so sánh đó làm cho Trần Quốc Tuấn phải nghĩ rằng oán cừu nên cởi không nên buộc. Trần Nhật Duật lúc này lại không nghĩ về cuộc tình duyên trên khía cạnh đó. Trần Nhật Duật kính phục cách xử sự quyết liệt của Trần Quốc Tuấn. Giá như Trần Nhật Duật biết quyết liệt như Trần Quốc Tuấn, cứ thẳng thắng xử sự như lòng mình muốn thì chắc chắn cô gái làng biển kia đã về với ông, đem theo hạnh phúc và sự bình lặng đến với ông. Ngược lại Trần Quốc Tuấn cũng rất mến Trần Nhật Duật. Nếu như có người vô tư nhất trong cả hai chi trưởng, chi thứ của họ Trần thì người ấy phải là Trần Nhật Duật. Cái đó thật đáng quý. Trần Quốc Tuấn nhìn nhận ở sự vô tư của Trần Nhật Duật một nết hay mà ông đã thiếu khi còn trẻ. Ngoài ra hai người còn yêu quý nhau về tài năng nữa. Mỗi bận lên kinh, Trần Quốc Tuấn thường đến phủ đệ Chiêu Văn thăm em. Khi chén rượu, khi cuộc cờ, khi săn bắn, khi bình văn, Trần Quốc Tuấn thầm mong truyền cho Trần Nhật Duật mọi sở đắc sở trường của ông. Năm trước Trần Nhật Duật có dịp đi với Trần Quốc Tuấn tuần thú lộ Lạng Giang, Trần Quốc Tuấn khéo léo giả như hỏi các bô lão địa phương về việc mùa màng, về đời sống của trăm họ trong vùng, cốt để cho em nghe những cái mà theo ông Trần Nhật Duật hiểu biết còn nông cạn và hời hợt. Trần Quốc Tuấn còn dắt cả Trần Nhật Duật đi thăm đồng, tự ông còn lội cả xuống ruộng vạch gié lúa tìm sâu, sục tay xuống bùn làm cỏ để cho Trần Nhật Duật xem. Ông còn đố Trần Nhật Duật phân biệt các giống lúa, nói về từng cái hay cái dở của chúng. Rồi ông bảo em: "Làm tướng phải biết thật rộng, cầm quyền nước càng phải biết rộng nữa. Biết đến mức nào thật không chừng. Có thế trăm họ mới được nhờ. Có thế mới thật là tay anh hùng đem lại miếng cơm manh áo cho dân nước." Trần Nhật Duật ngu gì mà không nhận ra tấm lòng của Trần Quốc Tuấn với việc công và với chính ông nữa. Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật ngắm mấy bức tranh rồi ngắm chậu tùng. Trần Quốc Tuấn sai gia nô pha trà mời Trần Nhật Duật. Ông cười bảo em: - Hôm nay ta đến thăm Triệu Trung. Sáng hôm nay ông và viên gia tướng Nguyễn Địa Lô mặc thường phục lên cửa ô Yên Hoa thăm Triệu Trung. Căn nhà khách Triệu Trung tiếp đón ông trang trí rất sơ sài. Vách hậu có bày ban thờ Văn Thiên Tường, viên tể tướng Tống trào đã tuẫn tiết khi nhà Tống mất. Bên mảng tường mé tả còn treo một bức trướng có chép bài Chính khí ca của con người trung nghĩa đó. Trần Quốc Tuấn vốn có lòng nhớ tiếc Văn Thiên Tường và rất thích mấy vần thơ nghĩa liệt của Văn: Người ta tự cổ ai không chết. Lưu lại lòng son trong sử xanh. Nước Việt đang ở lúc mà tôi con cũng đành phải tính đếm đến lúc cần thì biết chết sao cho ra con người trung nghĩa nên câu thơ đó tác động rất mạnh đến Trần Quốc Tuấn. Ông đã hỏi Triệu Trung về phép đánh những thành trì có phòng thủ kĩ với hệ thống hầm hào, bẫy đá, lũy dày thả chông. Ông muốn Triệu Trung đến Giảng Võ đường nói cho các tướng cùng tường. Sau đó ông hỏi ý Triệu Trung rằng ông muốn thu nhận Triệu Trung làm môn khách trong mạc phủ của ông. Triệu Trung rất cảm động vì được coi trọng nhưng từ chối với lí do đã được Trần Nhật Duật thu nhận trước rồi. Triệu Trung cho gọi các con ra lạy chào Trần Quốc Tuấn và sau đó xin ông một bài châm chép quạt. Trần Quốc Tuấn ngẫm nghĩ rồi chép hai câu thơ của Văn Thiên Tường vào lá quạt cho Triệu Trung.. - Hôm nay ta đến thăm Triệu Trung. Viên hổ tướng này đã về làm môn khách của em. Tinh mắt và trọng hiền đó em. Lời khen đó của Trần Quốc Tuấn làm cho Trần Nhật Duật sung sướng. - Thưa anh, Triệu Trung về làm giáo luyện thay cho Hoàng Mãnh mới tiến triều. - Ta biết. Hoàng Mãnh hợp với em hơn nhưng Triệu Trung là một tướng thao lược, đã từng phải đánh những trận lớn quân đông. Nếu chiến tranh xảy ra quân Thát Đát kéo sang, chúng sẽ có cả quân có kĩ thuật đánh thành của người Hán, lại có cả quân kị tiến lui cực nhanh, lúc đó kinh nghiệm của Triệu Trung rất đáng quý. Em có con mắt xét người rất tinh. Ta không lấy làm lạ khi Triệu Trung đã thành người của phủ Chiêu Văn. Rồi ông trầm ngâm giờ lâu trước khi tiếp: - Từ bao đời nay, phương Bắc luôn luôn là mối đe dọa xâm lăng với nước Việt ta. Bọn vua chúa cầm quyền đã nếm bao trận thua đau rồi mà chúng vẫn giữ nguyên mộng xâm lược. Chả là đất nước ta sản vật nhiều như chất núi, trâu, lợn, gạo, cá cho đến ngọc trai, sừng tê, trầm hương, chí đến cỏ hoa làm thuốc quý.. cái gì cũng sẵn. Kẻ tham thì giữa chợ chỉ nhìn thấy vàng chứ có thấy ai đâu. Hễ là người Việt không được một giây khắc quên điều đó. Chúng ta là người cầm quyền chính coi sóc sự an nguy của tôi con nước Việt, sự tồn nguy của nước nhà, lại càng phải đinh ninh khắc cốt ghi xương rằng bọn vua chúa "thiên triều" lúc nào cũng thèm rỏ rãi cái nước Việt bốn mùa cây cối xanh um, một năm ba mùa lúa chín này. Ai hễ chỉ quên lơi một chút là đã có tội với đất nước chứ không kể đến những kẻ ngu dại tin theo chúng nữa. Thế đó. Trần Nhật Duật im lặng nghe lời dạy bảo đó. Thốt nhiên ông chợt nhớ đến gã Đạt Lỗ Hoa Xích đã là người thân thiết và tặng ngựa quý cho Chiêu Quốc vương. Một ý nghĩ chợt đến chưa thành hình hẳn đã bị ông đuổi bay ra khỏi tâm trí: "Nếu như anh ông, Chiêu Quốc vương phạm phải.." Trần Quốc Tuấn không hay kéo dài những giây khắc quá nặng nề, ông chợt đổi nét mặt, cười hỏi Chiêu Văn vương: - Đêm nay em đeo mặt nạ gì? Chiêu Văn vương giở cái mặt nạ sẽ mang theo ra cho Trần Quốc Tuấn xem. Trên cái mo nang ấy vẽ một cái mặt trai trẻ rất đẹp. Trần Quốc Tuấn bật cười: - Thế này thì người ta biết ngay chủ nhân của nó là ai. Trần Nhật Duật ngẩn mặt ra. Trần Quốc Tuấn nhìn chằm chằm vào em nói tiếp: - Em đeo mặt nạ để giấu mặt mà lại vẽ mặt chính mình lên nó. Phải làm thế này này. Trần Quốc Tuấn cầm ngọn bút trên án và bằng mấy nét chính xác vẽ lên mặt nạ mấy nếp nhăn trên trán và hai vết má hóp. - Phải như thế! - Trần Quốc Tuấn nhìn đăm đăm Trần Nhật Duật và hỏi nhỏ: - Em có điều chi mà mấy hôm nay vẻ mặt thảng thốt lắm? Chiêu Văn vương gượng cười. Trần Quốc Tuấn cầm lấy tay em: - Chắc vẫn cái chuyện năm nọ! Trần Nhật Duật mặt đanh lại, cúi đầu xuống. Trần Quốc Tuấn muốn khuyên em một lời nhưng ông biết nói gì bây giờ. Khuyên em làm như mình hồi trẻ thì ngày nay tuổi tác ông phản đối cách đó, còn khuyên em cam chịu thì điều đó ngược hẳn với bản tính của ông. Trần Quốc Tuấn chép miệng than: - Chả trách người đời vừa muốn lánh vào cửa thiền cho thoát nợ lại vừa báng bổ nguyền rủa mệnh trời. Trần Nhật Duật ngửng mặt lên, một vẻ quả quyết đầy phẫn nộ thoáng loé lên trong đôi mắt rất đẹp của ông hoàng trẻ. - Tất cả sẽ êm đẹp hết. Bây giờ anh em ta đi thôi. Cây gì thế này anh trưởng? Lá tùng nhưng cành cội không hẳn là tùng. - Nó là loại tùng rừng Yên Tử. Không hiếm ở vùng núi phía đông nhưng thế nhân chỉ quen chuộng những cái gì từ phương xa tới. Sau một lát lưỡng lự, Trần Quốc Tuấn tiếp: - Chậu tùng này là quà tặng của Trung Thành vương. Trần Nhật Duật vội ngửng nhìn Trần Quốc Tuấn. Chỉ thấy trên gương mặt lão tướng quắc thước ấy một vẻ bình dị lặng lẽ trong sáng như đồng quê lúc hoàng hôn thu. Trước khi lên ngựa, Trần Quốc Tuấn chợt níu cương ngựa của Chiêu Văn vương. Vị tướng già nheo mắt lại trước khi nói: - Người đời thường hay luận về anh hùng nhưng đã mấy ai nghĩ đến tới chỗ tinh túy của đức tính ấy. "Tự tri giả anh, tự thắng giả hùng". Ta đã quá nửa đời người mới biết lưu ý đến lẽ đó. Hiểu được mình là Đẹp, thắng được mình là Hùng. Châm ngôn cổ đơn giản mà thâm thúy thật. Châm ngôn ấy, Trần Nhật Duật đã được nghe giảng từ nhỏ, nhưng quả thật phải đến đêm nay, thốt ra từ cửa miệng một người chìm nổi như Trần Quốc Tuấn, ý nghĩa của nó mới đột nhiên lấp lánh. Trần Nhật Duật không biết rằng Trần Quốc Tuấn khi nói ra câu châm ngôn này là vị tướng già đang nghĩ tới Trần Quang Khải với tất cả niềm ưu ái và biết ơn, biết ơn vì ông, biết ơn vì trăm họ và đất nước. Thăng Long đã vào đêm. Các lâu đài soi bóng xuống những mặt nước hồ đen lạnh. Tiếng mõ vào canh từ các điếm phường binh gọi đáp lại nhau. Xa xa, mấy ánh đèn lồng, ánh đuốc chon von trên vòm cổng cung thành. Có ai đang ru con đâu đó dưới một mái nhà kín đáo: Ạ ời! Ngủ đi con.. Một đời được mấy anh hùng? Một nước được mấy đức ông trị vì? Ạ ơi! Hãy ngủ đi con. Sinh thành gặp buổi loạn li. Vàng thau thử lửa sá chi bại thành. Một là kim sách đề danh. Hai là bia miệng, sử xanh lưu truyền. Ạ ơi! Ạ ời! Tiếng ru êm dịu, ấm áp thấm vào lòng người, thấm vào cả những ngóc ngách sâu nhất cùng nhất của lòng người. An Tư bỏ cơm chiều. Đây là lần đầu tiên trong cuộc đời nàng công chúa út này ước muốn mà không toại nguyện. An Tư ước muốn được dự đêm tiệc mặt nạ nhưng công chúa đã lần lượt bị những người thân nhất từ chối không nhường thẻ cho. Trần Tú Hoãn bảo em gái: - Em đến chỗ ấy sao tiện. Trần Ích Tắc thì chỉ cười: - Đấy là nơi dành cho những người đã trải việc đời. Thượng hoàng Thánh Tông nghiêm khắc với cô con gái: - Phép nước đã đặt rồi. Con là con gái chưa chồng, ta cấm con bén mảng đến chỗ đó. An Tư về cung riêng, hậm hực, bỏ cơm, gắt gỏng thị nữ. Công chúa thấy tất cả những thú vui, những đồ quý giá.. vẫn ham thích xưa nay trở nên vô nghĩa, vô giá trị: Những bộ xiêm bằng vóc bằng lụa dệt cầu kì, may cầu kì, những đôi hài xinh xắn, những chiếc quạt trầm, quạt đồi mồi chạm trổ tinh xảo, những chiếc quạt Hới ghép mỗi nan hai mặt cật chuốt láng bóng, lá vẽ hoa điểu, lá đề một bài thơ và chữ của danh sĩ hai nước ta và Tàu, những hộp đựng chất thơm quý giá, những hộp đựng các loại phấn thoa mặt, những chiếc gương đồng thau hình tròn hình bầu dục, những chiếc hộp gỗ trắc lót nỉ đựng đồ trang sức, bức tranh mực nước vẽ cuộc gặp gỡ giữa chàng họ Chử với nàng Tiên Dung, cho chí cây đàn độc huyền chế bằng gỗ hoàng đàn đã từng thức đêm với An Tư nhiều phen.. Tất cả những cái đó, chỉ mới hôm qua thôi, còn được nàng công chúa út coi là rất quý báu, rất thân thiết. An Tư ngồi đứng không yên. Trời đã tối rồi. Các loại đình liệu, các loại đèn cầy, đèn lồng, đèn đĩa, các cây hoàng lạp, bạch lạp trong cung đã thắp sáng. Những viên nội giám và cung nữ cầm đèn lồng đi tuần sát vườn ngự, ao ngự. Những tay đàn trong ban nhã nhạc nội cung đã kéo nhau đi qua vườn nhài để đến điện Đại Minh. Những nội giám làm việc ở bếp ngự cũng đã đội những cái mâm gỗ sơn son trên bày những đĩa bát đồ nấu sơn hào hải vị, tấp nập theo gót các nhạc công. Nhìn cảnh ấy lòng An Tư càng bồn chồn nghĩ mãi, An Tư thấy chỉ một cách có thể toại ý.. An Tư gọi một thị nữ theo hầu rồi cả hai người ra khỏi cung riêng. An Tư đến cung Quan Triều. Nàng công chúa út nghĩ rằng Thánh Tông vốn nghiêm khắc và quả quyết, một khi người đã nói là người không đổi ý. Còn Trần Ích Tắc và Trần Tú Hoãn thì chính họ cũng chỉ có một thẻ tín bài là phần của họ. Cho nên nếu có ai đưa An Tư vào tiệc thì người đó chỉ có thể là Nhân Tông hoàng đế. Vua Nhân Tông vốn chiều cô em út mà nếu nhà vua có cho em cái thẻ đi nữa thì Nhân Tông vẫn đến dự tiệc được. Chiếc thẻ ấy nó nằm kia, trên án sách của nhà vua trong cung Quan Triều. Chẳng may, An Tư đến cung Quan Triều nhưng không được gặp nhà vua. Hoàng đế Nhân Tông chiều nào cũng giữ lệ quần ngựa tập bắn cung ở trường bắn của lính tứ sương. Chiều nay, nhà vua cũng không bỏ lệ và bây giờ nhà vua vẫn chưa về cung. Thư phòng cung Quan Triều im lặng như tờ tuy đám thị nữ đội đèn vẫn đứng thị lập ở các chân cột. An Tư bồn chồn ngồi đợi anh. Nhưng nàng ngồi không yên, lại đứng lên.. Thế rồi thình lình, trong quầng sáng của cây đèn long trúc An Tư nhìn thấy bộ mặt ngạo mạn đang cười chế giễu mình. Bộ mặt ấy có một quai râu đen lánh, đẹp một cách đáng ghét, mắt sáng như mắt quỷ, hàm răng to bóng trắng bong như răng một gã lục lâm chọc trời hoặc một gã hải tặc quấy biển. "Thưa lệnh bà, tiểu tướng là người chỉ huy việc xét thẻ tín bài ở cửa cung!". Chiếc tín bài sơn son méo theo hình cái vỏ trai nằm kia, trên án sách nhà vua! An Tư mắt long lanh, mặt đỏ bừng lên, đôi chân nhũn ra nhưng bàn tay thì quả quyết. An Tư chộp lấy cái tín bài, hai tay ôm nó khư khư trước ngực. Nàng công chúa út nhìn trước nhìn sau. Nàng công chúa út không thấy ai cả. Những thị nữ đội đèn vẫn đứng như tượng đá. Xưa nay những thị nữ đội đèn có ai kể đến sự hiện diện của họ đâu. Cả những đốm sáng trên đĩa đèn hình như cũng không lay động. An Tư muốn bỏ chiếc tín bài xuống án. Đôi tay An Tư đột nhiên run bần bật nhưng một giọng nói mơ hồ thoảng đâu bên tai: "Tiểu tướng chỉ theo lệnh trên đưa thẻ tận tay những người có tên." Cái cười ngạo mạn phô hàm răng của hải tặc. Cái cười, phải rồi, chính cái cười đó xúi giục An Tư như một sức mạnh thần linh run rủi. Nàng công chúa út ôm luôn cái thẻ tín bài ra khỏi cung Quan Triều, mặc kệ nét mặt hoảng hốt của những thị nữ đội đèn. An Tư đi được một lát thì các nội giám phò đương kim hoàng đế từ nhà Dục Đường về đến cung Quan Triều. Đức vua đã tắm gội ở Dục Đường sau buổi quần ngựa bắn cung. Bây giờ chỉ còn việc thay áo đi dự tiệc. Đã sang giữa canh một. Tiếng nhạc nhã từ điện Đại Minh, nơi sẽ diễn ra đêm tiệc, văng vẳng đưa lại cung bực lả lơi của bản Đạp Thanh. Chắc khách khứa đến đã khá đông rồi. Nhân Tông ra lệnh cho các nội giám ra khỏi cung Quan Triều, trừ Thượng phẩm Phụng ngự Trịnh Mác. Đó là viên tướng sẽ phò đương kim hoàng đế đến dự tiệc. Đó cũng là người duy nhất được biết hoàng đế đến vui đêm hội này đằng sau chiếc mặt nạ nào? Nhân Tông lấy chiếc mặt nạ ra, nó đây. Chính tay nhà vua tài hoa đã vẽ lên một chiếc mo nang bình thường cái mặt nghịch ngợm của Liêu Thủ Tâm, thằng hề liến thoắng, sủng thần của vua Lê Ngọa Triều. Cái mũi hếch lên, đôi mắt nheo lại trong một cái cười châm chọc, và hai cái ria lệch lạc, hai cái ria đã từng mua vui cho cả một triều đình và cũng làm cho lắm bậc quan to hống hách phải bầm gan tím ruột. Nhân Tông đeo chiếc mặt nạ lên. Không khí chúa tôi giữa nhà vua và Trịnh Mác lập tức bay biến ngay. Trịnh Mác phì cười và nhà vua cũng phì cười. Nhân Tông bắt Trịnh Mác cầm hai cái gương giơ chéo cho mình xem. Soi chán rồi, nhà vua lột mặt nạ ra bắt Trịnh Mác phải đeo lên cho nhà vua coi.. Ơ hay, sự vui đùa làm cho con người ta trẻ trung sung sướng thế này mà làm sao người đời cứ đặt ra rồi bám khư khư lấy mọi thứ lễ nghi phiền toái bó buộc người ta, làm cho người ta già đi, xấu đi? Lúc ra đi, Trần Nhân Tông tìm không thấy thẻ bài của mình. Nhà vua tìm rồi Trịnh Mác cũng tìm đều không thấy. Thư phòng riêng trong cung Quan Triều đâu phải là nơi dễ vào? Thượng phẩm Phụng ngự Trịnh Mác chợt nhìn thấy ánh mắt sợ hãi của một thị nữ đội đèn. Trịnh Mác bước lại gần trợn mắt giật giọng: - Bỏ đèn xuống.. ta hỏi. Người thị nữ sợ hãi líu lưỡi lại nhưng những lời đứt nối mau chóng làm cho Trịnh Mác và Nhân Tông hiểu ai là người đã vào thư phòng cung Quan Triều và lấy đi cái thẻ hình vỏ trai sơn son. Lúc ấy đang là lúc Nhân Tông vui vẻ nên nhà vua trẻ muốn cười to lên. Nhân Tông bảo Trịnh Mác: - Thôi! Tha cho nó! Nó có dính dáng gì đến đâu. Nhân Tông đeo cái mặt nạ mo nang và ra khỏi cung Quan Triều. Trịnh Mác theo sau.. Đêm nay, Điện tiền tướng quân Nguyên soái Bảo Nghĩa hầu Trần Bình Trọng chỉ huy việc canh phòng và tuần sát. Các chức Điện tiền Tướng quân chia nhau mỗi người trấn một cửa cung. Hoàng Mãnh coi cửa nách bên phải quen gọi là cửa Vân Hội. Viên tướng trẻ đeo kiếm quý, mặc áo chiến màu đại hồng. Dưới ánh sáng của những chiếc đèn lồng lợp lụa trong suốt, Hoàng Mãnh đẹp lắm, một vẻ đẹp vũ dũng và nghịch ngợm. Hoàng Mãnh xét thẻ bài của những người dự tiệc. Anh tò mò cố nhìn để đoán xem những người đưa thẻ cho anh là ai nhưng rồi cũng chịu. Những chiếc mặt nạ mo nang vẽ đủ kiểu mặt, kiểu người làm Hoàng Mãnh hoa cả mắt. Này đây, một ông già hom hem, này đây mặt của một cô thôn nữ vùng đồi Lim, này đây một vẻ mặt của người đẹp Chiêm Thành, này đây bộ mặt đen của một nhà sư Tây Vực.. Rồi có cả mặt của những người nổi tiếng đã qua đời, mặt ma, mặt quỷ, mặt thánh, mặt thần.. Hoàng Mãnh chỉ nhận ra Nhân Túc vương Trần Toàn với bộ mặt của một ông Phỗng chột. Vả chăng, Trần Toàn cầm lăm lăm trong tay cái dùi đục nổi tiếng thì ai mà chẳng nhận ra được. Các đức ông, các lệnh bà đeo mặt nạ mo nang lũ lượt đến cửa Vân Hội.. Họ cười nói, họ trao tín bài cho quan Điện tiền trấn cửa. Trong điện Đại Minh và các dãy hành lang, giải vũ vây quanh đã đông lắm rồi. Mấy cái sân rộng lát gạch son có cắm sẵn những chiếc lọng để nếu đông người quá thì chơi bời cả ngoài sân.. Một người mặc áo lụa xanh, dáng dong dỏng cao đeo một cái mặt nạ mo nang đi tới cửa Vân Hội. Hoàng Mãnh đã quen cái mặt hề này rồi. Các phường trò ở kinh kì thường diễn tích cổ về cái bác Liêu Thủ Tâm đã từng mua vui cho cả một triều đình. Mãnh cười và chìa tay đòi thẻ nhưng người áo xanh lại ghé đầu sát vào Mãnh và thầm thào: - Ta đây! Ta đây! Đừng có mà làm mọi người để ý. Mãnh sửng sốt. Sau lưng người áo xanh là Thượng phẩm Phụng ngự Trịnh Mác cũng nhăn răng nhìn Mãnh mà cười. Người áo xanh ghé đầu hé cái mo nang cho Mãnh nhìn thoáng được một phần ba mặt và lại nói khẽ: - Ta vào nhé. Hoàng Mãnh lưỡng lự định thi lễ nhưng người áo xanh ngăn lại và đi qua cửa. Hoàng Mãnh nhìn theo mãi cái người mang bộ mặt Liêu Thủ Tâm. Anh tò mò muốn xem bậc đế vương đùa nghịch như thế nào nhưng chỉ được một lát, bóng người áo xanh kia đã trà trộn vào đám đông và trong đám đông cũng có nhiều người mặc áo xanh, cái màu xanh lẫn lộn của các viên quan cấp thấp. Cuối canh hai đã có người đánh rơi chén, bát xuống nền gạch. Tiếng gốm vỡ, tiếng nhạc tấu huyên thuyên và tiếng cười nói trong tiệc ồn ào náo nhiệt như chợ cầu Đông vào lúc đầy người. Có tiếng Nhân Túc vương Trần Toàn lè nhè cầm trịch cho tất cả phải uống ba bát rượu thông luôn: - Một! - Có tiếng dùi đục nện đánh chát một tiếng. - Hai! - Lại một tiếng dùi đục nữa. - Ba này! - Tiếng dùi đục thứ ba. Đó là hiệu lệnh từ lúc này ăn uống là phụ, vả chăng sau ba bát rượu thì cái cột trong điện Đại Minh cũng say rồi, mọi người tùy ý nghĩ trò giở ra mà vui chung. Mấy người lính đô Củng Thần theo lệnh đã có từ trước, vào tắt bớt đèn đóm cho nó tranh tối tranh sáng. Ánh sáng giảm đi nhưng tiếng nói cười ồn ào hơn và thỉnh thoảng có giọng nữ cười rú lên như người bị cù nách. Từ cửa Vân Hội đến điện Đại Minh chỉ cách một cái sân không rộng lắm. Hoàng Mãnh thấy hội đêm diễn ra lúc huyên náo, lúc lặng đi. Chính cái lúc lặng đi ấy kích thích trí tò mò của viên tướng trẻ. Mãi đến gần nửa đêm mới thấy Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng đến dự tiệc. Hưng Nhượng vương cầm trong tay cái mo nang vẽ bộ mặt "dở khóc dở cười". Ông hoàng trẻ cũng đã say khướt rồi. Tối nay ở phủ đệ Hưng Đạo, Hưng Nhượng vương uống rượu với một người bạn quen trong chốn giang hồ. Người này suốt năm đi lang thang khắp nơi, hành tung bí mật. Có thể là dòng dõi cựu thần nhà Lý. Nhưng không hề bao giờ anh ta tỏ ý oán ghét nhà Trần mà cũng không bao giờ tỏ ý luyến tiếc nhà Lý. Nhưng anh ta không chịu ra làm việc công. Anh ta khi thì ở đỗ lại một ngôi chùa vắng vẻ, vẽ cho xong một bộ tranh phong cảnh cho người tri kỉ, khi thì theo đám dân chài ra khơi đánh cá. Người ta không hề biết quê quán tung tích của anh ta mà chỉ biết tên anh ta xưng ra là Đỗ Vỹ. Trần Quốc Tảng đã kết bạn với Đỗ Vỹ ở bãi biển Vân Đồn. Vốn cũng là người quen rong chơi lang bạt kì hồ, Trần Quốc Tảng rất quý Đỗ Vỹ. Qua vài năm tình bạn càng thắt chặt thêm. Mỗi lần gặp bạn, Trần Quốc Tảng lại nhận ra ở người bạn tri kỉ những khả năng tiềm tàng vô cùng to lớn. Đỗ Vỹ là một người uyên bác thấu hiểu tình đời. Đỗ Vỹ yêu thiên nhiên say sưa, yêu từ màu sắc, âm thanh, yêu từ vẻ đường bệ đến thói thất thường của thiên nhiên. Đỗ Vỹ chơi đàn rất hay, vẽ tranh rất giỏi mà võ nghệ cũng xuất chúng. Điều đó cũng dễ hiểu bởi vì một du khách quanh năm nơi đất khách quê người thì phải đủ tài giữ mình bằng một thứ vũ khí có khi chỉ là một cái quạt. Anh cũng có một cái tính kì quái là không bao giờ chịu lân la đến những nhà công hầu, không chịu đẩy mức giao tiếp với những người quyền quý khỏi mức quen biết thông thường. Trần Quốc Tảng là một người bạn trong công hầu biệt lệ của Đỗ Vỹ. Hôm nay Đỗ Vỹ về kinh xem hội thề. Trần Quốc Tảng bắt gặp bạn ở ven hồ Lục Thủy bèn chèo kéo Đỗ Vỹ đến vương phủ chơi. Buổi chiều, Trần Quốc Tảng mở tiệc tay đôi uống với bạn. Đến đầu canh ba, Đỗ Vỹ nhắc Trần Quốc Tảng và giục bạn đi dự hội. Trần Quốc Tảng không muốn đi, cứ ở nhà tiếp bạn nhưng Đỗ Vỹ tạ từ nói rằng mình phải lên đường ngay để sáng mai còn kịp dự cuộc săn đuổi với phường săn bên rừng dâu da kề bên con sông Thiên Đức. Vốn hiểu tính nhau, Trần Quốc Tảng không nài ép. Nhưng trước khi từ giã, Trần Quốc Tảng trao cho Đỗ Vỹ một vật - đó là một nửa mảnh phù Hưng Đạo: - Cha em cần tìm được một người để trao một việc lớn. Cha em giao cho em toàn quyền chọn và em thấy chỉ có anh là đáp ứng đủ mọi điều kiện cha em yêu cầu. Đỗ Vỹ cười: - Ta cần đến lúc nào? Và ở đâu? - Khoảng tháng sau ở Vạn Kiếp, vì cha em không muốn cho ai biết việc này. Tiễn Đỗ Vỹ xong thì Trần Quốc Tảng cũng đi dự tiệc để trốn tránh cái lẻ loi sau chén rượu biệt li. Đưa thẻ bài cho Hoàng Mãnh rồi Trần Quốc Tảng mới đeo cái mo nang lên mặt chuệnh choạng bước vào điện Đại Minh. Trần Quốc Tảng không thích không khí những bữa tiệc như thế này. Ông hoàng trẻ thường tìm thấy thú vui trong những cuộc gặp gỡ giữa đôi ba người tri kỉ tri âm. Chàng không thích sự ồn ào, càng không thích sự ồn ào diễn ra rồ dại trong một đêm để rồi cả năm sau đó bị ràng buộc bởi trăm điều rối rắm của triều nghi, lễ giáo, đạo lí, của phép vua, lệ làng. Tiệc rượu mo nang lúc ấy đang lắng xuống, chắc là vừa qua một đợt quá đỗi náo nhiệt. Những người dự tiệc cười hét mệt quá đang phải ngồi dựa vào cột mà hổn hển. Loáng thoáng đã thấy những người kéo chệch cái mặt nạ ra cho dễ thở đôi chút. Tuy vậy, vừa thấy một người đến muộn đeo mặt nạ "dở khóc dở cười" bước vào chân cao chân thấp, mọi người lại ồn lên. Một bà dáng trẻ trung, cổ tay tròn vo, da tay ngăm ngăm đen sấn đến, kéo anh "dở khóc dở cười" ra trước đám đông, ép anh ta khai ra xem vừa vui thú ở đâu mà bây giờ mới đến. "Dở khóc dở cười" cũng biết tôn trọng lề thói của tiệc. Anh ta nói rằng mình vừa phải tiếp ông Phật say ở chợ cầu Đông. Bà kia cất tiếng cười giòn tan. Bà ta đeo mặt nạ vẽ một cô gái đẹp kiêu kì, đuôi mắt có chấm một cái nốt ruồi "thương phu trích lệ". Bà "thương phu trích lệ" cười ré lên, hỏi rằng Phật say và anh "dở khóc dở cười" đã nói chuyện gì thì kể ra cho mọi người nghe. - Chúng tôi bàn đến cái sự huyền bí của thuật nhập định phái Phật Tây Vực. "Dở khóc dở cười" thuật lại luôn một chuyện nhập định của phái Thiền Tông Tây Vực. Ai luyện được thuật này thì có thể ngủ như người đã chết trong một tháng trời và cũng có thể nhịn ăn trong hàng chục hôm. Thế là người ta dồn "dở khóc dở cười" xem anh ta đã nhập định được chưa? Anh ta đáp là được rồi. Cả tiệc đua nhau ép "dở khóc dở cười" thi thố tài năng cho mọi người được xem. "Dở khóc dở cười" đáp: - Nếu muốn xem tôi trổ tài thì cũng được thôi nhưng phải có hai người ra phụ cho tôi. Tất cả mọi người bằng lòng điều kiện của anh ta. "Dở khóc dở cười" len ngay vào đám đông để chọn người. Đôi mắt anh ta, từ hai cái lỗ nhỏ khoét trên cái mo nang chợt loé lên một ánh nghịch ngợm. "Dở khóc dở cười" đi đến đâu, người ta thôi nói cười đến đấy. Người ta vẫn ghê ghê sợ sợ những thuật huyễn hoặc của các thiền sư Tây Vực. Những lời đồn đại về họ kể từ thiền sư Tì Ni Đa Lưu Chi đều dần dần đi quá sự thực chính là nguyên nhân dẫn đến sự sợ hãi ấy. "Dở khóc dở cười" chộp lấy cái cổ tay nần nẫn của "thương phu trích lệ" giơ lên: - Bà này là một nhé. "Thương phu trích lệ" rú lên một tiếng, muốn giật tay ra để chạy nhưng giật sao cho nổi. Gân sức của "dở khóc dở cười" vốn đã có công phu luyện tập nhiều năm rồi. - Đứng yên nào! Có gì mà phải giãy giụa thế? - "Dở khóc dở cười" chộp cổ tay một người mặc áo xanh đeo mặt nạ Liêu Thủ Tâm: - Hai nhé! Đám đông reo hò khoan khoái vì thoát nợ. "Dở khóc dở cười" dắt hai người phụ trò ra trước tiệc và giảng giải trò vui của mình. Anh ta nói là sẽ hóa phép cho rượu trong cái nậm sẽ biến hết rồi rượu sẽ hiện ra trong cái bát không mà bà "thương phu trích lệ" sẽ cầm trong tay giơ cao lên khỏi đầu để cho ai cũng nhìn thấy. Anh ta sẽ làm cho thịt lợn quay hiện ra trong một cái phễu giắt ở cạp quần "Liêu Thủ Tâm". Sau đó "dở khóc dở cười" giắt vòi phễu vào cạp quần Liêu Thủ Tâm. Còn "thương phu trích lệ" thì được anh ta giao cho một cái bát không và bắt bà ta giơ cái bát lên cao. "Dở khóc dở cười" bảo bà "thương phu trích lệ" : - Nghiêng cái bát xem trong đó có cái gì không nào? "Thương phu trích lệ" nghiêng cái bát, cái bát không đựng cái gì hết. - Lật úp hẳn cái bát xuống chứ! Cái bát được lật úp hẳn xuống. Đúng là cái bát không. - Giơ cao cái bát lên!.. Nghe xem có tiếng rượu chảy vào bát không? Có nghe tiếng róc rách chưa? Những người chung quanh cũng lắng nghe.. Hình như có tiếng róc rách thật. Đúng thật, có tiếng róc rách nhỏ thôi nhưng đúng là tiếng của chất lỏng đang chảy thật.. Thình lình có người kêu oái lên làm cho ai nấy giật mình. Người ta ngơ ngác tìm xem ai kêu? Và người ta thấy "Liêu Thủ Tâm" đang nhảy cẫng lên rũ quần phành phạch. Té ra lúc mọi người đang mải nhìn cái bát trong tay "thương phu trích lệ" thì "dở khóc dở cười" nghiêng cái nậm lên lén rót rượu vào cái phễu giắt ở cạp quần của "Liêu Thủ Tâm" làm cho con người đã từng lừng tiếng hơn ba kỉ trước phải nhảy cẫng lên vì buồn nhột ướt dính nhem nhép.. Cả tiệc rũ ra mà cười nghiêng ngả.. Chính vào lúc đó người ta thấy Bảo Nghĩa hầu Trần Bình Trọng đứng ở đầu giải vũ nhìn vào. Đằng sau lưng Bảo Nghĩa hầu là một tì tướng thông hiệu mặc bộ áo chiến lấm láp bụi đường trường. Trần Bình Trọng bước lên một bước nhìn nghiêng nhìn nghé vào đám đông trong điện Đại Minh như muốn tìm người nào đó. Có bốn người từ trong tiệc rẽ đám đông đi về phía Bảo Nghĩa hầu. Một người mang mặt nạ vẽ bộ mặt trầm ngâm của một nhà sư thuộc phái Phật Tâm Tông, một người nữa thì mo nang vẽ mặt Lang Liêu, ông thần bánh chưng bánh dầy; mặt nạ của người thứ ba là bộ mặt thái sư hóa hổ Lê Văn Thịnh, quan to triều Lý; người thứ tư là Liêu Thủ Tâm, Chắc rằng Bảo Nghĩa hầu biết bốn người này là ai. Chỉ thấy ông kính cẩn tránh đường để họ mau chóng ra khỏi điện Đại Minh bằng cửa Vân Hội, người đeo mặt nạ thiền sư Phật Tâm Tông sực nhớ điều gì đó bèn gọi Bảo Nghĩa hầu lại gần ghé tai nói nhỏ một câu. Bảo Nghĩa hầu lập tức quay trở lại điện Đại Minh, tìm ông "Phỗng" chột và cũng ghé tai ra lệnh. Chỉ thấy Phỗng chột ngẩn người ra, rồi thình lình như người tỉnh ngủ và tỉnh rượu, ông ta nhanh nhẹn giơ cao dùi đục ra lệnh cho tất cả mọi người: - Ba bát rượu liền! Rồi các đức ông, các lệnh bà còn cái trò gì thì xin cứ giở ra cho mãn canh mãn võ. Nào.. Một này! Bốn người kia ra khỏi điện Đại Minh thì cũng lột mặt nạ mo nang ra. Chính là Thượng hoàng Thánh Tông. Thượng tướng quân Thái sư Chiêu Minh vương Trần Quang Khải, Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn trưởng họ Trần và đương kim hoàng đế Nhân Tông. Viên tì tướng thông hiệu sụp lạy xuống ngay thềm cửa Vân Hội và tâu: - Tâu bệ hạ, thần ở Vân Đồn về mang tin cấp báo. Tướng giặc Toa Đô đã từ đảo Quỳnh Châu đem binh thuyền ra biển. Quân thuyền mộ trong đám dân binh ven biển lưỡng Quảng. Chúng lên đường tính đến lúc này đã được năm ngày rưỡi. Thế là giặc đã xuất quân! Chúng tiến đánh đâu? Chúng mượn gió đông thuận đường đánh vào lộ Hải Đông chăng? Hay chúng đánh chiếm Chiêm Thành? Thượng hoàng Thánh Tông đăm chiêu: - Về cung Thánh Từ rồi ta sẽ bàn! Bây giờ hai vua và các đức ông đã bỏ mo nang rồi, lính túc vệ cẩm y vội hùng dũng theo hầu, phò hai vua về cung Thánh Từ. Viên tướng Điện tiền Hoàng Mãnh nhìn theo họ, lòng bồn chồn. Không khí chiến chinh đột nhiên xâm chiếm tâm trí người đeo kiếm.
Chương 7 Bấm để xem Vào cuối tháng quý thu, Trần Nhật Duật lên châu Mai để lo lễ cưới của Hoàng Mãnh. Theo như dự định cũ, lễ cưới đáng lẽ làm vào mùa đông nhưng tình hình đất nước buộc triều đình muốn cố kết sớm lòng dân miền tây bắc và hai họ cũng muốn lo sớm cho đôi trẻ. Sau khi được tin Toa Đô lên đường, triều đình khẩn cấp phái các tướng giỏi ra biên giới để sẵn sàng đối phó. Không khí chuẩn bị chiến tranh sôi động trong các vương phủ, trong các trại quân. Nhưng nửa tháng sau, được tin đoàn chiến thuyền của Toa Đô đã đâm xổ vào Chiêm Thành, mọi hoạt động dường như chững lại. Người ta lại từ các làng quê trở về kinh thành. Các phường thủ công lại tiếp tục việc làm, các cửa hàng cửa hiệu lại tấp nập kẻ mua người bán. Thuyền bè các nơi lại châu mũi về bến Đông hoặc đổ hàng lên phố, hoặc cất hàng để đem về các lộ xa. Mọi hoạt động ngoài dân gần như đã trở lại bình thường của một thời thái bình nếu như không có những cuộc diễu rước thị oai của gã Đạt Lỗ Hoa Xích qua các phố phường kinh thành. Tuy vậy ở trong triều, trong tầng lớp các vương hầu giữ các chức vụ trọng yếu, mọi hoạt động đều ráo riết hướng về chuẩn bị chiến tranh chống giặc. Những buổi luyện quân và nghe giảng về binh pháp ở Giảng Vũ đường diễn ra căng thẳng hơn trước. Việc điểm mặt, điểm tên trong những buổi đó tiến hành kĩ lưỡng hơn. Đã có những viên tướng bị giáng chức vì lơ đãng phạm điều lệ học hành, luyện tập. Đã có những vụ nã bắt kín đáo những kẻ thì thụt ra vào sứ quán của gã Đạt Lỗ Hoa Xích.. Trần Nhật Duật lên đến châu Mai vào một ngày cuối thu. Trời châu Mai vào lúc này bềnh bồng mây trắng xám. Rừng châu Mai xanh thẫm lại và loáng thoáng đã có những khoảng cây lá chuyển sang sắc đỏ lửa. Núi đá châu Mai đã từng lúc phủ sương lam nhàn nhạt và khí núi đã gây gây mỗi buổi chiều sớm về. Nhà họ Trịnh ở bản Mai Hạ nên Trần Nhật Duật đóng lại ở bản Mai Thượng. Mai Thượng trở thành một trại quân của đoàn tùy tùng hộ tống Chiêu Văn vương vừa là nơi ở của họ nhà trai. Đám cưới của Minh tự Điện tiền tướng quân Hoàng Mãnh lấy con gái yêu của Mai Sơn hầu Trịnh Giốc Mật là một sự việc hiếm có trên miền sơn cước. Cả hai bản Mai Thượng và Mai Hạ hàng ngày phải tiếp hàng trăm khách từ các nơi về mừng hai họ và cô dâu chú rể. Theo phong tục châu Mai, trước lễ rước dâu, chú rể phải đứng mời quan khách ở nơi nhà gái thết đãi, cô dâu ngược lại phải có mặt ở nơi họ nhà trai mời khách đến uống rượu mừng. Ai cũng tấm tắc khen chú rể thật là một trang nam tử văn vũ song toàn, diện mạo khôi ngô kì vĩ. Và ai cũng khen cô dâu, nàng Hai, quả là một cô gái đẹp duyên dáng, đảm đang, có một chút sắc rợn huyền bí của núi rừng. Tiệc mở liên tiếp mấy ngày liền nhưng nàng Hai lúc nào cũng tươi tỉnh mời rượu mọi người. Rõ ràng là cô dâu chú rể vừa lòng nhau. Đám này thật là một mối hảo lương duyên. Hôm nay là ngày rước dâu. Chú rể đã về Mai Thượng từ chiều hôm qua. Ngược lại cô dâu cũng xuống Mai Hạ từ sáng hôm trước nữa. Hai họ ráo riết sửa soạn cho cuộc đón dâu suốt hai ngày đêm. Hoàng Mãnh đã thuật lại cho Chiêu Văn vương nghe binh tình bên nhà gái. Họ cương quyết đem trai đinh trong họ ra giữ dâu. Thượng phẩm Phụng ngự Trịnh Mác lúc tiễn Hoàng Mãnh về Mai Hạ đã bảo thẳng rằng họ Trịnh vũ dũng thượng võ muốn có một chàng rể xứng đáng. Chiêu Văn vương cũng cho là phải bởi vì ông hiểu tinh thần thượng võ của con người sơn cước châu Mai. Ông bảo em nuôi: - Qua sông thì phải lụy đò. Vào nhà ai thì phải theo nếp nhà nấy. Được, rồi ta sẽ cho họ biết thế nào là trai Thăng Long. Nhưng bà Trương thì lo lắm và mấy người trong họ nhà trai cũng lo lắm, chỉ trừ cô chị họ Hoàng Mãnh lại rất hứng thú. Đó là cô Mơ, cô gái của một làng biển Thanh Hóa. Trần Nhật Duật cũng có cảm xúc giống như cô ta. Hoàng Mãnh thuật lại cách bố phòng bên họ nhà gái. Trịnh Mác đã cho gọi tất cả trai đinh trong họ và toàn thể gia nhân của nhà họ Trịnh. Họ đều sắm sẵn mỗi người một cái gậy gỗ vông cao một đầu một với. Côn gỗ vông tuy không thể đánh ai chết hoặc mang thương tật nhưng chắc ai bị đánh trúng một đòn thì cũng đau lắm. Tổng số quân của Trịnh Mác lên tới ngót năm trăm. Đội quân đó dàn thành ba tuyến phòng ngự quanh bản Mai Hạ xinh đẹp. Họ đóng thành từng điểm nhỏ mươi người một. Việc cắt canh làm đúng như luật quân, có mõ gọi, có mõ trả lời, có chia phiên, có đội đi tuần sát và ở nhà Mai Sơn hầu Trịnh Mác giữ lại một đội hai mươi người khoẻ mạnh, giỏi võ do chính Trịnh Mác chỉ huy. Càng nghe bà Trương càng hoảng sợ. Bà nguyền rủa những tập tục ác chết người. Bà bảo: "Có định làm dâu nhà người ta mãn đời hay không? Hay chỉ định ở chơi một vụ chiêm". Trần Nhật Duật bật cười. Ông phải giảng giải thêm cho bà Trương: - Không đến nỗi thế đâu. Họ có năm trăm tay côn nhưng đám trai tráng châu Mai hiếu động, được dịp tụ bạ thì nô nức thế thôi. Chứ họ coi đám cưới này là một mối duyên lành. Họ cũng nhân dịp này có các cô gái châu Mai đến làm giúp nhà Mai Sơn hầu thì cũng tìm cho mình một người hiền hậu mà kết ngãi đá vàng đó thôi. Chị dưỡng đừng lo. Nhưng bảo bà Trương không lo thế nào được. Sự thật thì Trần Nhật Duật nói rất đúng. Đám trai tráng châu Mai chỉ cầm gậy vông làm phép mà thôi. Tục cướp dâu ở đây được các nhà dân thường ưa chuộng. Những lễ cưới vùng sơn cước tuy không phiền toái như lễ cưới vùng đồng bằng nhưng lại rất tốn kém, đồ dẫn cưới rất nhiều, nào trâu bò gà lợn, nào rượu ngon gạo tốt, nào bạc trắng lụa hoa, nào gối áo cưới.. Vì vậy trai gái nhà nghèo dựa luôn vào tục cướp dâu mà phá lệ. Con gái hẹn con trai đem bạn đến "rước" dâu. Qua một ngày, thế là đã thành vợ thành chồng. Bạn bè cô dâu chú rể kéo đến mỗi người một tay, đốn gỗ, cắt cỏ tranh làm một nếp nhà cho đôi vợ chồng trẻ. Mỗi lần đi giúp bạn làm tổ ấm, trai gái lại gặp nhau và những vụ cướp dâu khác lại diễn ra suốt một mùa cưới. Cho nên họ Trịnh cho gọi trai tráng đến đông như thế nhưng thật ra Trịnh Mác biết rằng họ đến như những người đi dự hội hè, còn muốn giữ dâu, nhà họ Trịnh chỉ trông cậy ở vài anh em thân trong họ. Đó chính là đội quân nhỏ hai chục người ở liền trong ngôi nhà sàn to rộng có hàng rào tre gai vây quanh của Mai Sơn hầu. Đồng thời, Trịnh Mác có nói cứng cũng chỉ vì theo tục lệ cổ truyền, còn anh ta với Minh tự Hoàng Mãnh vốn thân thiết còn hơn cả anh em ruột. Bà Trương nghe nói vậy cũng yên tâm. Tuy vậy, Chiêu Văn vương vẫn hào hứng cười, đuôi mắt rạn chân chim nheo tít lên nom rất đa tình: - Nhưng đã đúc trống rồi thì cũng phải gióng lên. Rượu đã rót rồi thì cũng phải uống cho cạn chén. Ông trình bày cho mọi người nghe kế cướp dâu của ông. Đôi mắt to đen của Chiêu Văn vương thoáng loé lên ánh sáng của xuân tình. Ông bảo cô Mơ: - Sáng hôm nay sẽ phải nhờ đến cô em một tay. Xong việc này thì thằng Mãnh nó phải nhớ ơn cô suốt đời. Chỉ thấy Mơ chúm chím cười. Người con gái e thẹn chính là vì họ có điều chi vương vấn trong lòng. Mơ đi sắm sửa để lên đường. Các dũng thủ Thăng Long, bạn của Hoàng Mãnh cũng bắt tay vào việc nai nịt cho gọn ghẽ. Một lát sau, Mơ từ trong phòng bước ra, cô mặc chiếc áo đổi vai màu nâu non, thắt chiếc thắt lưng hoa lí làm tôn tấm thân cường tráng; một cái khăn vuông chít trên đầu, màu thâm của khăn, màu đen của món tóc mai tương phản với làn da trắng hồng của cô gái vùng biển. Nhưng đẹp nhất là đôi mắt bồ câu ngơ ngác của Mơ và tươi nhất là màu môi của cô gái. Sững sờ nhìn Mơ, Trần Nhật Duật tưởng đâu đám cưới này là đám cưới của ông, một đám cưới không xa hoa kiểu cách mà bình dị và hạnh phúc vô vàn, đám cưới của hai con người bách tính lê dân không có một giọt máu quý của kim chi ngọc điệp chảy trong huyết quản. Theo phong tục của châu Mai không có lễ đưa trầu xin dâu, nhưng Trần Nhật Duật cứ làm vì ông hiểu rằng nếu nhà trai tôn trọng tập tục châu Mai thì họ nhà gái cũng sẽ chịu tất cả nghi thức của tập tục Thăng Long. Đoàn nhà trai đi xin dâu đưa trầu chỉ có mười bốn người. Người dẫn đầu chính là một người chị của bà Trương, một bà lão trên sáu mươi tuổi, phúc hậu, nhiều con. Người thứ hai là Trần Nhật Duật, người thứ ba là Mơ bưng một cơi trầu têm cánh phượng với những trái cau tròn trĩnh vỏ xanh non đã được người con gái khéo tay ấy dùng dao nhọn trổ lên những hình chim đậu cành mai, hoặc hai con bướm vờn nhau.. Triệu Trung là người thứ tư. Viên tướng vong Tống mặc một bộ áo lụa màu gan gà nho nhã để giấu bớt vẻ lực lưỡng gân guốc của tấm thân trải nhiều chinh chiến. Triệu Trung chỉ huy năm người con trai và năm người con gái đội đồ lễ. Năm người con trai đều kén trong đội dũng thủ của Hoàng Mãnh. Năm cô con gái đều là các chị em họ của chú rể. Họ đều mang thắt lưng màu lộng lẫy. Cả đoàn thung dung theo gót Trần Nhật Duật tiến về bản Mai Hạ. Chỉ có Chiêu Văn vương và Triệu Trung cưỡi ngựa. Con Bão Đêm bây giờ, quả như dự đoán, đã thành một con ngựa tuyệt đẹp, trường mình, cổ cao, mảnh, thanh tú, bốn vó thẳng, dài, gân guốc. Trần Nhật Duật hôm nay nom lịch sự lạ thường. Ông mặc áo vóc tía thắt lưng xanh đi văn hài thêu chỉ bạc. Trần Nhật Duật chít một chiếc khăn lụa màu tam giang, chiếc khăn chít khéo đã tôn thêm vẻ quý phái lịch sự vốn sẵn có của ông. Trần Nhật Duật cầm trong tay một chiếc quạt. Đôi mắt ông long lanh, nghịch ngợm và trẻ trung. Trang trại nhà họ Trịnh nằm trong một cái lũng nhỏ, ba mặt là vách núi không cao lắm. Khi mới đến cửa lũng, đoàn đưa trầu nhà trai đã nghe thấy tiếng cười nói ồn ào vẳng lại. Đoàn đến điếm canh đầu tiên, Trần Nhật Duật làm chủ ngay cuộc chạm trán ấy. Ông tiến thẳng đến điếm, cười ha hả bảo những chàng trai áo chàm cầm côn vông: - Đã chén rượu no say chưa các tráng sĩ? Nếu chưa thì đây, hãy uống mừng cho ngày vui của em ta. Ông bảo đoàn tùy tùng đưa ra một vò rượu ngon và một vai lợn quay. Những chàng trai sơn cước dựa ngay côn gỗ vông vào vách điếm. Họ cung kính chắp tay vái Chiêu Văn vương. - Kính lạy đức ông. Họ rót rượu ra bát và uống mừng Chiêu Văn vương, mừng hai họ, mừng cô dâu chú rể, mừng tuổi trẻ và mùa hôn phối. Trần Nhật Duật mỉm cười khi thấy trong điếm canh có cả các cô nàng sơn cước. Ở hai điếm canh sau, mọi sự cũng diễn ra tương tự như thế. Đúng như Chiêu Văn vương đoán trước, trai gái châu Mai coi dịp này như một hội hè linh đình, ở các điếm đều có các cô gái sơn cước đến hát vui với các chàng trai côn gỗ vông. Uống thêm tí rượu cho long lanh mắt, cho hồng má rồi họ dựa côn vông vào vách điếm, vác kèn lau ra thổi những điệu xuân tình. Những chiếc váy nhiều nếp thêu màu lộng lẫy xoay đi xoay lại, các cô gái khe khẽ hát, mắt đong đưa. Tình yêu đã gạt tập tục sang một bên và thực ra, khi cần thì nó xếp luôn tập tục đó sang hủ tục. Trang trại nhà họ Trịnh tưng bừng náo nhiệt. Trịnh Giốc Mật bày hương án giữa nhà, rước biển Ân Tứ trang trọng đặt lên án. Mai Sơn hầu và các bô lão của các bản châu Mai ra đón Trần Nhật Duật từ bên ngoài cổng lớn. Bá tước Trịnh Mác cũng dàn đội quân dũng thủ để nửa khoe nửa dọa họ nhà trai. Trịnh Mác vái lạy Chiêu Văn vương: - Lạy chú, cháu nghe tin chú lên nhưng việc nhà bộn quá chưa đem đầu đến lạy chú được. Cũng muốn đe Trịnh Mác, Chiêu Văn vương cười bảo: - Này ông bá tước, ở đất Thăng Long người ta giữ dâu bằng cái cười còn lợi hại hơn côn vông đó. Trịnh Mác cười thẹn. Anh ta đã từng biết sức mạnh chứa đựng trong các câu nói ỡm ờ của gái kinh kì rồi. Trần Nhật Duật nhìn quanh. Khác hẳn lần ông đến trang trại ngót ba năm về trước, nhà họ Trịnh vẫn đông người nhưng sắp xếp ngăn nắp hơn, gia đinh dũng thủ có kỉ luật đội ngũ hơn nhiều. Điều đó chứng tỏ những năm tháng học hành ở kinh kì của Trịnh Mác có hiệu lực và nửa năm luyện tập dưới quyền chỉ huy của Minh tự Hoàng Mãnh, đội quân sơn cước thu được nhiều kết quả. Ông bà Trịnh Giốc Mật mời nhà trai lên nhà sàn uống nước ăn trầu. Cô Mơ bưng cơi trầu cánh phượng tới. Chiêu Văn vương cười nói: - Tạ ơn Thượng hoàng ân tứ cho hai trẻ, hôm nay ngày lành tháng tốt, tôi có cơi trầu đến trình các cụ, xin được đón em dâu tôi về nhà riêng. Họ nhà gái hỉ hả đón cơi trầu từ tay Mơ bưng đặt lên ban thờ gia tiên. Ông bà Trịnh Giốc Mật tươi cười, trong khi đó chị bà Trương cứ lấm lét nhìn Trịnh Mác cao lớn dềnh dàng đứng sau lưng cha mẹ. Hôm nay là lễ cưới của chị gái Mác nhưng anh ta mặc quần áo chiến ngắn tay, hẹp ống, cổ áo không cài hai khuy bên trên để hở một chút lồng ngực vuông nở. Mác đeo một chiếc hoa tai bạc bên tai phải, chiếc khăn chàm quấn thật to. Nom Mác dữ tợn tuy cái miệng rất tươi cũng không kéo lại được. Đôi bên mời lẫn nhau một vài tuần trà nước trầu thuốc. Đã sắp đến lúc đoàn xin dâu ra về. Bỗng đâu có tiếng tù và văng vẳng đưa lại. Trịnh Mác bước ra sân ngoài nhưng thình lình Triệu Trung cầm chiếc áo khoác vẫn vắt vai, trùm lên đầu Trịnh Mác. Chiêu Văn vương và các dũng thủ Thăng Long nhảy phắt ra cửa. Họ tháo luôn thắt lưng, dùng mấy sải lụa màu làm thành một thứ binh khí lợi hại. Chỉ một thoáng, họ đã cướp được mấy chiếc côn gỗ vông và chia nhau người trấn cửa lớn, người chẹn cửa sổ. Triệu Trung dùng sức giật chiếc thang gỗ ra ném luôn cái thang xuống vườn dưới. Từ mé vách núi sau nhà, có mấy người bám chão tụt xuống. Đó là Hoàng Mãnh và mấy anh phù rể nữa. Họ xông qua cửa trang trại vào sân trong. Họ la tưởng như đến mấy chục người. Trịnh Mác đã gỡ được cái áo trùm đầu. Ông bá tước trẻ tuổi mặt đỏ phừng phừng nhảy từ sân nhà cao xuống sàn để giúp các đinh tráng bên họ nhà gái. Chỉ thấy giải lụa xanh trong tay Chiêu Văn vương múa phần phật, Trịnh Mác bị lụa quấn chân giật ngã chổng kềnh ra đất. Đánh lúc đối phương không phòng bị. Lẽ thường của binh pháp đã giúp cho họ nhà trai chiếm ưu thế hoàn toàn trong trang trại Trịnh Giốc Mật. Từ lối cổng chính, những ngũ dũng thủ Thăng Long khác cũng đã mở thông đường xông vào tiếp tay. Chiêu Văn vương quát giật giọng bảo Hoàng Mãnh: - Đi cho mau! Kìa! Hoàng Mãnh xông về phía bếp. Nàng Hai đang coi sóc gia nhân làm tiệc trong đó! Đám đàn bà chạy re lên sàn trên vừa chạy vừa cười hoảng sợ. Mãnh gọi nàng Hai: - Nàng ơi! Ra sân mau! Nhưng kì lạ thật, nàng Hai quắc mắt cầm luôn cái cặp tre cời bếp giáng cho Mãnh một cái vào đầu. Mãnh ngẩn người nhìn cô vợ chưa cưới xong. Nàng Hai nổi cáu nói dỗi: - Cướp đi chứ nhìn gì? Này nhìn này! Và cô nàng lại giáng cho Mãnh một cặp cời lửa nữa. Nhưng lần này thì cô nàng không đánh trúng. Mãnh bắt cái cặp cời lửa giật phắt lấy quẳng đi. Anh sấn đến bốc nàng Hai vác lên chạy ra sân trong khi cô nàng vừa kêu cứu vừa đấm thùm thụp hai tay vào lưng Mãnh. Trần Nhật Duật vừa đỡ cây côn gỗ vông của Trịnh Mác vừa liếc mắt theo dõi em nuôi. Chiêu Văn vương hô: - Con Bão Đêm! Hoàng Mãnh hiểu ý chạy ra cổng lớn. Mơ đã tháo cương con Bão Đêm đứng chờ sẵn ở đấy. Nàng Hai giãy giụa. Mãnh phát cho nàng Hai một cái thật lực vào lưng làm cho cô nàng phải kêu lên vì đau và sung sướng. Anh đang sắm nắm nhảy lên lưng con Bão Đêm thì chợt cô nàng kêu toáng lên: - Có người kìa! Có người kìa! Mãnh ngoảnh nhìn. Trịnh Mác đang vung cái côn gỗ vông xông đến đánh một đòn bổ thượng. Mãnh không đỡ và cũng không đánh lại. Anh rê cương, cả con ngựa và Mãnh lướt sang một bên. Cây côn gỗ vông giáng hụt xuống đất gãy làm đôi.. Một nhún chân, một gót chân thúc mạnh, Hoàng Mãnh nghe gió reo vui bên tai. Con Bão Đêm hí một tiếng vang lên mừng rỡ. Nó cất vó nhảy vọt qua đám trai sơn cước của điếm canh thứ nhất. Con ngựa tung bờm giang rộng vó phi nhanh. Hoàng Mãnh tưởng như con ngựa có cánh. Anh không nghe tiếng vó ngựa, chỉ nghe thấy tim đập nhanh và tiếng đập của một trái tim nữa kề sát trái tim anh. Ngay hôm nhị hỉ của vợ chồng Hoàng Mãnh, Chiêu Văn vương phải lên đường về kinh vì có chỉ vua triệu rất gấp. Chiêu Văn vương cười bảo hai em: - Ta cũng muốn đưa hai em về nhị hỉ bên nhà gái. Ta với hai em là chỗ thân tình, cho nên chẳng sợ ai cười là tham ăn đến nỗi dự cả cỗ giáp mông đâu. Ngặt vì có chỉ vua triệu gấp. Trước khi ngược sông Đà, Thượng hoàng đã hẹn sẽ giao cho ta một việc quan trọng. Ta cũng tưởng ít nhất cũng phải dăm bữa nữa, nào ngờ có chỉ triệu gấp thế nên ta phải xuôi ngay hôm nay. Đám cưới của Hoàng Mãnh thế là xong xuôi êm đẹp cả. Sau khi Hoàng Mãnh cướp được nàng Hai đem về Mai Thượng thì họ nhà trai mới dềnh dàng kéo xuống Mai Hạ. Nhà gái hỉ hả mời khách dự một bữa tiệc gồm toàn món sơn hào quý. Hoàng Mãnh và các dũng thủ phù rể đến Mai Hạ thấy Chiêu Văn vương ngồi nói chuyện thân mật với ông bà Trịnh Giốc Mật. Bá tước Trịnh Mác cũng thay bỏ áo chiến, mặc áo dài gấm xanh tay thụng. Anh ta đón anh rể từ cổng. Họ tay bắt mặt mừng đưa nhau lên nhà sàn lạy chào ông bà Mai Sơn hầu và Chiêu Văn vương. Trẻ con thôn bản đốt những chiếc pháo lệnh nổ như sấm. Các chàng trai và cô gái kéo nhau đến xem mặt chú rể làm cho Hoàng Mãnh vốn táo tợn cũng phải thẹn rúm người lại. Thế rồi rượu cần kèn lau, ông già bà già thì ăn uống với nhau trên nhà sàn. Đám trẻ chẳng thiết ăn uống, tiệc chuyển thành hội, người ta kéo nhau ra sân, ra vườn, dìu nhau xuống suối lên rừng. Tiếng kèn lá, đàn môi nỉ non đó đây. Tiếng kim chen tiếng thổ, trai gái hát đối đáp nhau những lời ướm hỏi hẹn hò, nhờ rừng núi chứng giám cho lời thề yêu nhau chung thủy suốt đời. Chập tối, Chiêu Văn vương về Mai Thượng. Ông bàn với bà Trương là sẽ đưa bà và dâu con về Thanh Hóa lễ tổ bên ngoại chú rể và ăn tết cơm mới tháng mười ở đó luôn thể. Nhưng nửa đêm quan khâm sai mang chỉ vua lên đến nơi. Thế là ngày nhị hỉ chỉ còn bà Trương và cô Mơ đưa cô dâu chú rể về nhà gái. Hoàng Mãnh đã trả vợ cái vòng vía. Cô dâu đền chồng một chiếc xuyến bạc đeo tay "cho nhớ". Khi từ biệt bà nhũ mẫu, Chiêu Văn vương nói: - Việc châu Ái, em vẫn lưu tâm, chị dưỡng đừng lo. Bà Trương cười gượng. Số là ở quê bà có một người con gái tiến cung làm cung nữ triều tiên đế Trần Thái Tông. Tiên đế ban cho bà ta một cái bãi dâu ven con sông chảy qua làng để ăn lộc. Thiếp ban cho bà ta ghi rõ cái bãi rộng ba mươi mẫu. Nhưng trải qua mấy chục năm ròng, cái bãi được con sông bồi phù sa rộng ra gấp mấy lần. Dân làng tiếp tục khai phá phần đất mới. Chủ bãi đợi đất khai phá trồng trọt đã thuần thục mới ỷ quyền thế đòi đất. Dân làng cử ông câu đương họ Trương viết đơn trình quan trấn thủ để xin quan khu xử cho dân được trồng tỉa phần đất trời cho. Nhưng quan trấn thủ cũng sợ uy thế bà cung phi đành khuyên dân làng chẳng nên đương đầu với bà ta. Dân làng ấm ức lắm. Ông câu đương cũng vậy. Nhân lễ cưới Hoàng Mãnh, người làng đi châu Mai theo bà Trương. Ông câu đương dặn con gái nói với bà Trương để bà nhờ Chiêu Văn vương can thiệp giúp. Chiêu Văn vương trong một lần về thái ấp Vạn Kiếp với Hưng Đạo vương, được ông dẫn đi xem những đồng ruộng, đất bãi trong thái ấp và giảng giải cho em nghe về tình cảnh người dân trong đồng quê và sự cần thiết ruộng đất đối với họ, Trần Quốc Tuấn đã dặn em: - Vua lấy dân làm trời. Còn dân lấy ăn làm trời. Em chớ nên coi thường bí quyết cầm quyền chính đó. Vì thế, khi nghe bà Trương nói việc, Chiêu Văn vương bằng lòng ngay. Ông biết bà cung phi này rất quý ông, lại còn rất nể ông nữa. Ông nói chắc bà dễ xuôi tai. Nhưng nếu bà không nghe thì Chiêu Văn vương sẽ đem phần đất bãi dâu của chính ông ở bãi sông Cơ Xá ngay cạnh kinh thành để đổi cho bà ta. Thế là xong thôi. Việc đi châu Ái lần này với lí do thu xếp đất bãi và ăn tết cơm mới thực ra che giấu ước muốn của Chiêu Văn vương được trở về một nơi lưu giữ khoảnh sâu sắc thắm thiết trong lòng ông. Ông nhớ những rặng dừa lao xao trưa hè, nhớ tiếng hò vời vợi của những người lái bè trên dòng sông Mã mênh mang, nhớ những con đường làng quanh co, vệ đường lấm tấm những bông hoa cỏ trắng tinh khiết, tầm thường nhưng ý nhị và kín đáo, nhớ tiếng nói tiếng cười quen thuộc ở một nếp nhà quen thuộc. Ấy thế rồi lại không về được châu Ái. Trần Nhật Duật hấp tấp từ giã bà Trương và Mơ. Ông muốn hẹn một ngày về thăm cái làng nghèo ven biển Đông nhưng đã mấy lần hẹn và cả mấy lần thất hứa rồi. Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo. Nói ra câu ấy bây giờ chẳng xuôi. Trần Nhật Duật ngậm ngùi lên ngựa. Con Bão Đêm như hiểu lòng chủ, nó gằm cổ quẩn mấy vòng thương nhớ trên trảng đất đầu làng Mai Thượng trước khi cất vó phi về hướng nam.
Chương 8 Bấm để xem Hai ngày sau, Trần Nhật Duật và đoàn tùy tùng về đến Thăng Long. Trần Nhật Duật lập tức tiến triều. Trước cung Thánh Từ là thư phòng của Đinh Củng Viên, ông quan giữ chức Hành khiển nội cung của Thượng hoàng Thánh Tông. Trần Nhật Duật được Đinh Củng Viên cho biết Thượng hoàng đang bàn việc với đức ông Chiêu Minh và chỉ bàn tay đôi. Ông tính ngồi chờ ở thư phòng của Đinh Củng Viên nhưng một viên nội giám đã từ trong cung Thánh Từ ra thưa với Chiêu Văn vương: - Thượng hoàng truyền triệu đức ông vào chầu hầu. Chiêu Văn vương vào lạy chầu hai anh. Ông thấy cả hai người đều mặc áo lụa mát và chắc rằng họ đã làm việc lâu rồi vì bên cạnh, trên một cái bàn tròn thấy bày đầy bánh trái và chè ngọt mà một số đĩa đã bị khuyết. Chiêu Minh vương cười: - Thế nào, ông mối đã bị ăn cái đấm cái đạp nào chưa? Trần Nhật Duật cũng cười: - Thưa anh, chỉ bị uống cả rượu phạt lẫn rượu thưởng thôi ạ. - Thế nào là rượu thưởng mà thế nào là rượu phạt? - Dạ, thưởng công ông mối lương duyên còn rượu phạt của các cô gái châu Mai.. - Hẳn là phạt những người đi đất khác chứ gì? - Dạ đúng thế. Thượng hoàng bảo: - Tốt lắm, em về đây vừa hay. Ta đang mong. Này chú Ba, thế thì việc tuần sát vùng biển ta giao cho Quốc Tảng. - Chọn người ấy là đúng nhưng ta không nên vượt quyền đức ông Hưng Đạo. Tuần sát là việc quân. Đã là việc quân thì phải do nguyên soái chọn tướng. Trần Nhật Duật ngẩng nhìn hai anh chăm chú. Trần Quang Khải hiểu ý em nói ngay: - Chúng ta đã quyết định giao quyền Tiết chế các quân cho đức ông Hưng Đạo. Việc chọn tướng sẽ do anh trưởng quyết định lấy. Thốt nhiên Trần Nhật Duật nghĩ tới câu luận bàn về anh hùng của đức ông Hưng Đạo. Phải chăng Chiêu Minh vương là một người anh hùng, một người hiểu mình, hiểu người và biết thắng mình? Thượng hoàng giao cho Chiêu Văn vương một công việc quan trọng. Đó là việc thu xếp mọi mặt cho một cuộc họp quan trọng đông người. Thượng hoàng dặn em: - Họp đông nhưng bàn việc lớn. Phải giữ cho thật kín đáo. Ăn uống chè rượu phải biện tại chỗ mà phải đề phòng quân gian tế bỏ độc. Em nên nhớ bọn vua chúa phương bắc thời nào cũng ỷ mình là thiên triều, chúng không thể nào bỏ được mộng xâm lăng nước ta đâu. Chỉ duy cái sự có mặt của nước Đại Việt ta ở phương nam cũng đã làm cho chúng tức tối ghen thù rồi đó. Trần Nhật Duật hỏi Thượng hoàng về đất họp ở đâu? Thượng hoàng trầm ngâm suy nghĩ giờ lâu rồi mới đáp: - Ở vùng Lục Đầu Giang! Trần Nhật Duật nhìn anh đăm đăm. Ông đã hiểu rằng một khi đã định giao quyền nguyên soái cho một người chi Vạn Kiếp thì hai anh mình đã tính đến mọi lẽ hơn thiệt, nhưng chọn Lục Đầu Giang làm nơi hội họp là một quyết định can đảm của Thánh Tông sau khi đã nghiền ngẫm thấu đáo lòng người. Sông Lục Đầu nằm trong miền đất phân phong của chi trưởng. Ngày xưa Hiển hoàng Trần Liễu được phong thái ấp ở vùng này. Về sau các đức ông của ngành Trưởng đều được ban phong thái ấp quanh sông Lục Đầu từ địa giới lộ Lạng Giang cho tới vùng quần đảo Vân Đồn, Ngọc Sơn, Bạch Long Vĩ.. Từ đó chi trưởng thành tên là chi Vạn Kiếp. Đi phó hội ở vùng sông Lục Đầu chính là đến họp trong đầm rồng ổ cọp của chi trưởng. Ông hỏi Thánh Tông: - Thưa anh, ta lấy bao nhiêu quân túc vệ? Thánh Tông mỉm cười: - Lấy quân túc vệ lần này thì nhiều đến đâu cũng không đủ. Mà đã an toàn thì không đem quân tùy thân cũng vẫn an toàn. Em hãy lấy một quân là cùng. Cũng là để giữ cho tai mắt giặc ở Thăng Long không nhận ra. Còn thì lấy quân gia đồng bản thổ. Họ vừa hầu hạ trong cuộc họp vừa canh phòng. Dùng quân gia đồng bản thổ có nghĩa là dùng quân của các vương hầu chi trưởng! Hai anh của Trần Nhật Duật thật đã biết đánh tan mối hiềm nghi nếu có trong lòng các đức ông chi Vạn Kiếp. Trần Nhật Duật thấy mình không một chút e ngại. Ông tin ở sự xét đoán người của mình, ông tin ở sự sâu sắc của anh ruột. Tình nghĩa máu mủ tông tộc trong vài năm lại đây cũng đã mỗi lúc mỗi tốt đẹp hơn. Đó là cái cớ để mà vững tin. Ở hoàng cung ra về, Chiêu Văn vương sắp sửa ngay việc lên đường đến vùng Lục Đầu Giang vào sáng hôm sau. Buổi chiều, Chiêu Quốc vương đột ngột đến vương phủ Chiêu Văn. Tùy tùng cận vệ chỉ có một gã đô vật đã từng nổi tiếng lừng lẫy một thời bây giờ giải nghệ và giữ việc dạy võ nghệ cho đội quân gia nô của vương phủ Chiêu Quốc. Gã ta cũng có tên húy tên hèm nhưng bằng ở khổ người và tật tính, người ta chỉ gọi gã là Đô Trâu. Chiêu Quốc vương nói là nghe tin Trần Nhật Duật ở sông Đà về nên đến chơi thăm em. Nhưng cách nói năng của Chiêu Quốc vương khác mọi khi mặc dù cái khác đó rất kín đáo và nhỏ bé. Mọi việc thu xếp để lên đường đã ổn thỏa rồi, Trần Nhật Duật hồ hởi tiếp anh. Ông đưa Chiêu Quốc vương vào đình sen. Mùa này sen đã hết hoa, lá úa và xơ xác rách nát, cảnh đình sen đẹp một vẻ tiêu sơ. Trần Nhật Duật sai pha trà cỗi châu Mai đãi anh. Thị nữ hầu trà bưng lên hai chén trà men nâu có nắp đậy, đặt trên một cái khay chạm. Chiêu Quốc vương mở nắp một chén trà, khói thơm bốc lên thoảng qua. - Trà cỗi tháng thu! - Đôi mắt Chiêu Quốc vương sáng lên. Thật là một đôi mắt đẹp, đuôi mắt dài, màu đen thăm thẳm. Những lúc Chiêu Quốc vương lim dim mắt, người ta có cảm giác như màn đêm phủ xuống không gian bí mật.. Chiêu Quốc vương nhắp một ngụm trà. Thứ trà có pha thêm gỗ cây mai già mọc trên núi đá châu Mai quả có hương vị đặc biệt. Chiêu Quốc vương chợt mỉm cười, mắt sáng lên nhìn em, ngâm khẽ: Bạch vân nhất phiến khứ du du Thanh phong phổ thượng bất thăng sầu Thủy gia kim dạ thiên chu tử Hà xứ tương tư minh nguyệt lâu (1) Chiêu Văn vương cười gượng. Trần Ích Tắc vốn có một ma lực hấp dẫn rất mạnh. Ở chỗ vắng hay ở chỗ đông người, mặc dù Ích Tắc ít nói nhưng vẫn là cái xoáy mà nước chung quanh cứ cuồn cuộn xoay tròn. Ít lâu nay, Trần Ích Tắc và Tô Nghĩa Đông thường tụ họp với vài danh sĩ áo gấm để thưởng thức những thi phẩm cùa phái thơ Hoa gian. Những thi phẩm này lời lẽ bóng bẩy, tứ thơ lẳng lơ đã một thời được thi nhân tài tử triều Ngụy Tống ngâm ngợi. Người ta gọi các thi sĩ phái thơ này là thi sĩ phái Hoa gian hay phái Hoa nguyệt, phái thơ của những kẻ miệt mài trong những đêm trai gái truy hoan. Câu thơ Trần Ích Tắc vừa ngâm, gợi đúng cái nút thắt trong lòng Trần Nhật Duật nhưng Chiêu Quốc vương nói về việc này mà thực ra đang nghĩ về việc khác. Con người ấy biết tạo cho mình một bộ mặt đẹp, một dáng điệu ung dung tưởng như một con người thoát tục, không một chút bụi trần vương tới, không một thú vui trần tục nào quyến rũ được, nhưng tất cả chỉ để che giấu những khát vọng luôn luôn thay đổi và càng ngày càng mạnh hơn, càng ngày càng đen tối hơn. Bây giờ thì Chiêu Quốc vương lại cụp mi mắt xuống - Em sắp đi đông bắc à? * * * - Thượng hoàng đã giao cho ta việc đó nhưng ta từ chối không nhận. Ta chẳng muốn làm việc gì mà trong lòng không muốn. Mặc dù đã nhiều năm trước đây, Chiêu Quốc vương là thần tượng của Trần Nhật Duật nhưng lần này Chiêu Văn vương vẫn im lặng nhìn anh. Một làn heo may nhẹ thổi. Bức tranh lụa cổ vẽ cảnh Lưu Linh say ngủ bay lên, đầu trục gỗ gõ lộp cộp vào ván vách. Chiêu Văn vương cũng không hề có ý định giấu anh việc đi đông bắc. Ông biết đây là một việc trọng yếu mà Thượng hoàng và Thái sư Chiêu Minh vương đã đắn đo kĩ trong việc chọn người để giao việc. Ông chỉ nghĩ rằng Chiêu Quốc vương đáng được giao việc ấy và ông cũng ngạc nhiên tại sao anh mình lại từ chối không nhận nó. Chiêu Quốc vương trầm ngâm nhưng không phải vì nghĩ về công việc mà là thử trầm ngâm để tìm lời thích hợp với ý nghĩ. - Con đường đông bắc mạo hiểm quá! - Không! Đó là con đường tất phải đi! Chiêu Văn vương không kìm được phải thốt lên. Trần Ích Tắc nhìn em. Ích Tắc không muốn tranh cãi với em. Xưa nay Ích Tắc chưa hề làm như vậy mỗi khi có ý kiến khác ý kiến của mình về một việc gì đó. Ông ta quen để cho mọi việc tự nó nó đến sau khi ma lực hấp dẫn của mình đã hoành hành. Chiến thắng tự nhiên sẽ đến như một trái chín bình thản rụng về gốc. - Thế tất phải như vậy! - Chiêu Văn vương tiếp: - Giặc đang lăm le ngoài bờ cõi, triều đình và tông thất phải thành một khối bền vững, mối đại thống phải như rễ sâu gốc chắc mới mong chống trả với giặc được. Chiêu Quốc vương chỉ cười và gọi Đô Trâu vào, sai gã về vương phủ lấy một bọc quà tặng. Đô Trâu đi rồi, Chiêu Quốc vương mới thủng thẳng nói: - Giặc ngoài chỉ mới lăm le nhưng thù trong đã có sẵn từ mấy đời rồi. Chiêu Quốc vương bằng một cách nói hết sức bình thản, nhắc lại cho em nhớ đến cuộc nổi loạn của Vũ Thành vương Trần Quốc Doãn hai mươi nhăm năm về trước. Bấy giờ vào thời Nguyên Phong, niên hiệu của tiên đế Trần Thái Tông, nhà Nam Tống đang bị quân Thát Đát tung hoành cả một đất nước mênh mông. Phương bắc lại bị triều đình nhà Kim của người Khiết Đan bức bách. Tướng Thát Đát cho một cánh quân từ phía tây đánh vòng xuống phía nam quân Tống. Mũi tiến quân của chúng rõ ràng sẽ phải tràn qua đất Việt ta. Triều đình họp bàn cách chống giặc. Tình thế đất nước lúc đó không khác gì bây giờ cả. Lẽ tất nhiên, tiên đế Trần Thái Tông và Thái sư Trần Thủ Độ cũng đặt ra việc giữ cho bền vững mối đại thống những mong nhờ cậy ở đó để trường sức chống giặc. - Thế mà em thử nhớ lại coi, trước khi giặc tràn tới. Vũ Thành vương dẫn cả gia quyến và quân bản bộ bỏ trốn ra khỏi biên thùy theo quân Tàu của nhà Tống. Trần Ích Tắc trầm ngâm, hai mi mắt cụp xuống nhìn đăm đăm gương mặt băn khoăn của em. Vũ Thành vương Trần Quốc Doãn là anh ruột của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Năm ấy Vũ Thành vương định vượt biên thùy phía bắc nhưng chỉ ít lâu sau, triều đình bắt được Doãn và cả gia quyến. Triều đình nghị tội khép vào đại nghịch và trừng trị thật nặng. Thế rồi giặc tràn đến và cuộc kháng chiến chống giặc Thát lần thứ nhất xảy ra. Tướng giặc Ngột Lương Hợp Thai, vốn dòng Khiết Đan, dẫn một đạo quân thiện chiến bao gồm những tên lính Thát Đát cưỡi ngựa, những tên Ô Man chuyên đánh rừng và quân Hán miệt Xuyên Thục. Giặc tràn vào lộ Quy Hóa. Quân ta cũng dàn trận ngăn giặc từng bước một. Thế giặc mạnh quá, chúng tiến quân qua bãi bằng Binh Lệ, chúng đánh chiếm bến đò Phù Lỗ và tràn xuống Thăng Long. Thế mà quan dân cả nước không nao núng vẫn bình tĩnh chống đánh. Những trận mai phục đánh giập đầu, đánh chẹn hậu, cướp lương, bắt ngựa diễn ra khắp nơi làm cho giặc càng ngày càng khốn quẫn. Giáp tết năm Nguyên Phong thứ bảy vua ta đưa binh thuyền ngược sông Thiên Mạc đánh giải phóng kinh thành. Và sau chiến thắng lẫy lừng ấy, thừa thế quân ta đuổi tràn đi, đuổi luôn thẳng cổ lũ giặc ra khỏi đất nước. Một viên tướng lúc ấy còn trẻ đã lập công to, tiết chế mọi việc quân mạn đông bắc một cách xuất sắc và dũng cảm. Người đó là Trần Quốc Tuấn. Sử sách chép cuộc chiến tranh ấy là chiến thắng thời Nguyên Phong. Nhắc đến chuyện xưa, Chiêu Văn vương băn khoăn. Ông thấy kiến giải của Chiêu Quốc vương nghiệt ngã và không công bằng với người chi trưởng. Vũ Thành vương làm phản, đó là một sự thực nhưng Hưng Đạo vương lập công lớn cũng là một sự thực nữa. Đã bắc cân thì phải cân cho đầy đủ và trọn vẹn mọi bề. Trong lúc giao việc cho Chiêu Văn vương, Thượng hoàng Thánh Tông đã nói tỉ mỉ tâm sự của mình cho ông nghe. Chiêu Văn vương cho rằng cách nghĩ của Thượng hoàng là đúng. Cách nghĩ của Chiêu Minh vương cũng đáng phục nữa. Đó chính là những người hiểu mình và biết dẹp đi những riêng tư của mình. Muốn thắng giặc thì tông tộc phải đại thống, muốn đại thống thì chi thứ phải làm trước tất cả mọi điều cần thiết để dẫn đến sự tin cẩn giữa hai chi. Hình như Chiêu Quốc vương đọc được những suy nghĩ của em. Ông ta bình thản nói tiếp: - Ai chẳng mong tông tộc đại thống, thiên hạ đại thống. Nhưng em nên nhớ mối bất hòa trong họ nhà ta đã truyền từ đời ông qua đời cha. Này nhớ tiên đế và Hiển hoàng, anh hoàng Ba và Hưng Đạo vương, Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư và Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn, Tá Thiên vương Trần Đức Việp và Chương Hiến hầu Trần Kiện.. Thế là cứ từng đôi một, đôi một giữ nhau từng miếng kể đã bốn đời. - Chương Hiến hầu là người của chi thứ, đâu phải là người của chi trưởng. Trước câu thốt lên của Trần Nhật Duật, Trần Ích Tắc chỉ cười nhạt nhìn em. Mãi sau, Chiêu Quốc vương mới nói: - Chắc vương đệ phải hiểu tại sao tiên đế lại nhường ngôi cho anh hoàng Hai mà không nhường ngôi cho đức ông Tĩnh Quốc? Là vì phụ hoàng biết chắc người ấy không phải là con của mình rồi. Đó là một vết nhơ trong gia đình mà Chiêu Văn vương xưa nay vẫn xua đuổi không muốn nghĩ tới. Nó không hợp với tâm hồn bình dị, trong lành của ông. Chiêu Quốc vương nói: - Không nói tới thì thôi mà đả động đến nó thì phải bàn cho đến cùng kì lí. Vậy thì Nhân Huệ vương phạm tội gì mà bị trừng phạt nghiêm ngặt thế? Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư vốn là cháu nội của Thái sư Trần Thủ Độ. Thời Nguyên Phong, Trần Khánh Dư đánh giặc có công lớn được Trần Thái Tông yêu quý nhận làm con nuôi. Vì là thiên tử nghĩa nam nên Nhân Huệ vương được giao chức Phiêu kị Thượng tướng quân, tên gọi khác của Điện tiền Nguyên soái. Đó là một chức trọng yếu, cần người thật tin cẩn thân thiết, xưa nay chỉ có các thân vương hoàng tử mới được trao. Nhân một tiệc rượu mo nang, Nhân Huệ vương gặp công chúa Thiên Thụy, vợ của Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn, là nàng dâu trưởng của Trần Hưng Đạo. Hai bên bằng lòng nhau rồi phải lòng nhau. Việc vỡ lở ra và Trần Thái Tông sai nọc con nuôi trên bờ hồ Dâm Đàm để đánh cho kì chết, nhưng lại dặn dũng thủ đánh nương tay. Dũng thủ bèn đánh chúc mũi côn cho chạm đất cho nên đánh tới một trăm hèo mà Trần Khánh Dư vẫn còn sống. Thế là theo bộ luật Hình Thư, đánh tới một trăm hèo mà chưa chết coi như trời tha, Trần Khánh Dư bị tịch biên gia sản đuổi về làm dân. Bây giờ ông đang làm một nghề lam lũ gì đó ở vùng Chí Linh để sinh sống. Bởi vì ở vùng Chí Linh cha của Trần Khánh Dư là Nhân Thành hầu Trần Phó Duyệt còn để lại một trang trại nhỏ ở đó. Chiêu Văn vương cưỡng lại nho nhỏ: - Nhưng mà tại Nhân Huệ vương đã bôi xấu cho gia đình đức ông Hưng Đạo. Chiêu Quốc vương mỉa mai: - Thế còn đức ông Hưng Đạo thì tô vẽ đẹp đẽ cho nhà Trung Thành vương chắc? Chiêu Văn vương im lặng nhưng không cho lời Chiêu Quốc vương là đúng cả. Giữa Hưng Đạo vương và công chúa Thiên Thành vốn đã có một lời hẹn ước, vả chăng Hưng Đạo vương không có dã tâm gây chuyện với Trung Thành vương. - Em còn nhỏ tuổi mới lớn lên nên chưa hiểu hết mọi uẩn khúc đó thôi. Cha sai đánh anh Trần Khánh Dư nhưng lại sai dũng thủ đánh chúc mũi côn xuống cho nên anh ấy mới thoát chết. Chẳng qua chi thứ chúng ta nhường chi trưởng mọi điều chỉ trừ có một.. - Sao cơ? - Chỉ trừ một khi chi trưởng đòi ngai vàng. Nếu có, trị ngay, trị đến nơi đến chốn. Ví như cả nhà Vũ Thành vương vậy. Còn lần này chính là cơ hội để họ đòi cái đó. Mà như thế là không được. Vừa lúc đó, Đô Trâu bước vào đình sen đưa trình Chiêu Quốc vương một cái bọc. Trần Ích Tắc đón lấy bọc trao cho Trần Nhật Duật: - Thôi, đã nhận mệnh vua thì hãy làm cho tròn đạo thần tử. Ta có cái này cho em, may ra giúp em được chút gì nữa cũng hay. Trần Nhật Duật giở cái bọc ra xem. Đó là một cái áo giáp ngắn không tay kết bằng những vảy đồng thau rất khéo. Chiêu Quốc vương từ biệt ra về. Đứng ở cổng chính vương phủ, Chiêu Văn vương nhìn lơ đãng theo cái kiệu sơn then đang đi xa dần. Ông suy nghĩ miên man.. Không! Oan cừu nên cởi không nên buộc, oan cừu tuy còn nhưng đâu đến nỗi nặng nề như anh ta đã nói. Ta đã gặp trên gác Ngoạn Hoa một bằng chứng rõ ràng. Đó là chậu tùng Yên Tử, tiêu biểu cho đức độ quân tử. Ta lại chẳng kết nghĩa đá vàng với một người thù nghịch cũ là Mai Sơn hầu đó sao? Điều cốt yếu là phải có một mục đích cao cả làm cốt lõi cho tình người. Nhưng vì cớ gì mà lòng ta xốn xang thế này? Có ai đó làm ơn chỉ cho ta khúc nhôi ấy? Thốt nhiên Trần Nhật Duật nhớ đến nỗi lo lắng của bà nhũ mẫu về ông. Chao ôi những bà mẹ, những bà mẹ hiền có sự mẫn cảm cực kì linh diệu! Mẹ đã nhiều năm bú mớm cho con, nâng giấc con những lúc con ươn, chăm bẵm con những lúc con chơi nhởi, hồi hộp chờ những thành tựu của con và lo lắng trước cho những thất bại của con. Mẹ, chỉ những bà mẹ mới nhìn thấy những gì chưa xảy ra trong đời một đứa con.. Trần Nhật Duật trở lại đình sen. Ông nghĩ về mình và bây giờ ông hiểu rằng có những cái tưởng như chẳng có gì bí hiểm nhưng định hình chúng cho được cũng không phải là dễ dàng. Lòng dạ con người thật là một cõi bao la vô định. Lại một cơn heo may nhẹ, bức tranh Lưu Linh gõ trục vào ván vách. Còn ở trên sập là cái bọc áo giáp ngắn, loại giáp mặc sát người, kín đáo mà nhẹ nhõm. Hai ngày sau, Trần Nhật Duật đã xuôi thuyền đến Vạn Kiếp, ấp phong của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Các con của Hưng Đạo vương cũng đều ở thái ấp này cả mặc dù họ đều được phong vương và phong ấp ở nơi khác. Trần Nhật Duật đến Vạn Kiếp để tuyên chiếu mật của Thượng hoàng giao trọng trách cho đức ông Hưng Đạo phải giúp Chiêu Văn vương sắp xếp việc canh phòng tuần sát, làm nhà cửa và biện lương cho một cuộc triều hội bí mật sẽ diễn ra trên miền đất phong của mình. Mật chiếu cũng tuyên giao cho Trần Quốc Tuấn việc truyền báo cho các đức ông chi Vạn Kiếp biết mà giúp sức và về dự cuộc triều hội. Trần Nhật Duật khi tuyên chiếu, nhận thấy vầng trán dạn dày của Trần Quốc Tuấn nhuốm bâng khuâng. Những ý nghĩ gì đang chuyển vần trong khối óc trí lự kia? Trần Nhật Duật được Trần Quốc Tuấn đưa đi xem cảnh thái ấp. Phong cảnh Vạn Kiếp đẹp một vẻ hùng tráng. Ba bề núi, một mặt sông. Thái ấp nằm lọt giữa vùng sông núi ấy. Trần Quốc Tuấn đã lập một khu nhà dựa lưng vào núi Phượng Hoàng. Vài chục năm trước đạo sĩ Huyền Vân đã đến đây lập cái quán tre trúc lợp cỏ đặt tên là quán Lệ Kỳ. Phong cảnh đất này quả xứng đáng với người muốn lánh đời để tu tiên. Đứng ngay trên thềm chính đường của thái ấp, người ta có thể nhìn thấy hai ngọn núi nhỏ nằm sát bờ sông như hai đồn binh thiên nhiên canh giữ cho thái ấp. Tô Nghĩa Đông có lần đến chơi thái ấp, nhìn thấy hai quả núi đó, khen thế núi đẹp, đặt tên chúng là núi Nam Tào, Bắc Đẩu nhưng người Vạn Kiếp không thích những cái tên nhuốm màu sắc phong thủy đó. Họ vẫn cứ gọi núi đó là núi Thuốc. - Trên ấy, đám trẻ ấp này có trồng được vài giống thuốc quý. Trần Quốc Tuấn cắt nghĩa cái tên núi Thuốc cho em nghe. Ông chỉ ra xa: - Cái bãi mờ mờ xa kia là hòn Châu. Sáu đầu sông như sáu con rồng quay đầu lại vờn hòn Châu ấy. Trần Nhật Duật nhìn cái doi bãi xa tít tắp một màu xanh non. Sông Lục Đầu mênh mông. Vòm trời Lục Đầu đầy mây mùa thu trôi giạt bềnh bồng. Trên cánh đồng nhỏ trước cửa thái ấp, những chấm cò trắng đỗ la liệt, những gia nô đang gặt gấp vụ mùa. Đã lâu lắm, Trần Nhật Duật mới được đằm mình vào cảnh sống một thái ấp đồng quê vụ mùa. Trần Quốc Tuấn rủ em: - Ta xuống đồng xem đi. Ý ông muốn cho Trần Nhật Duật hiểu cảnh một nắng hai sương của nhà nông. Điều đó thật có lợi cho một người quyền quý quen sống thị thành như Chiêu Văn vương. Hai đức ông đi qua khu nào trong thái ấp cũng thấy gia nô tíu tít làm việc. Hương lúa phơi được nắng bốc lên phảng phất như mùi cốm. Những đàn gà lăn xả vào mổ lấy mổ để những hạt thóc mẩy. Tiếng lúa rót vào cót, tiếng cối xay, tiếng chày giã chân thậm thịch, tiếng những suy thất phụ (2) chuyện trò với nhau vui vẻ trong nhà bếp.. gợi lên cảm giác phong túc của một trang trại trù phú. Lần nào được sống trong không khí này, Trần Nhật Duật cũng tự hứa sẽ về làm như vậy trong thái ấp của ông nhưng sau thì không lần nào thực hiện được lời hứa. Quả thật việc nông trang khó quá đối với ông. Từ cánh đồng, Trần Quốc Tuấn lại đưa Trần Nhật Duật về hậu đường. Ở đây ông có một căn phòng biệt lập, sáng, mát, và yên ắng. Cửa sổ căn phòng trổ ra một cái sân nhỏ chung quanh bày những chậu cây cảnh chăm chút kĩ lưỡng. Kể ra với một người quen sống với núi sông hùng vĩ thiên nhiên mà chơi cây cảnh thì cũng thật kì lạ. Nhưng thực ra Trần Quốc Tuấn muốn dùng những lúc xén cây, tỉa cây trải qua nhiều năm liền để rèn luyện đức tính kiên nhẫn của mình. Kế cái sân nhỏ là một thửa vườn trồng cúc. Rất nhiều giống cúc khác nhau. Một kiến thức chợt thoáng qua trong trí Trần Nhật Duật: Cúc là giống hoa cần được chăm sóc tưới tắm, bắt sâu, diệt muỗi hàng ngày. Người ta thường dặn nhau hễ ai còn phải xa nhà vài ngày thì đừng có mà trồng cúc. Đó là thứ hoa dành riêng cho những người già ít đi xa và những cao sĩ ở ẩn. Vườn cúc là vườn của ẩn sĩ.. Vườn cúc của Trần Quốc Tuấn đã trồng tỉa để đón vụ hoa tết Nguyên Đán. Những luống cúc non lên mơn mởn, chồi nào cũng mập mạp. Tuy chưa tới tuổi trồng cúc nhưng Trần Nhật Duật cũng là người sành hoa. Ông nhận ra các loại cúc gấm, cúc giấu hương, cúc móng ưng, cúc đeo ngọc, cúc lù, cúc vàng bông to, cúc tơ trời.. Những khóm cúc này hứa hẹn một yến tiệc hương sắc vài tháng tới. Bên kia vườn cúc là một dãy nhà trúc vàng lợp lá thông non nhã thú. Đó là nhà sách của Trần Quốc Tuấn. Nửa đời người xa lánh kinh đô, xa lánh công danh phú quý, Trần Quốc Tuấn đã bỏ bao công sức, bao tiền của để chuốc lấy những pho sách quý báu các loại chứa vào đó. Tuy Trần Quốc Tuấn không nói ra nhưng Trần Nhật Duật cũng hiểu rằng nơi ấy, Trần Quốc Tuấn đã bao phen ngồi trầm tư nghiền ngẫm việc đời, việc người. Ở đấy biết bao tư tưởng đến với Trần Quốc Tuấn, biết bao kiến thức được lật phải lật trái để rồi được xếp thứ tự sau vầng trán ưu tư kia. Trần Nhật Duật bước xuống vườn cúc. Trần Quốc Tuấn im lặng dẫn em đến nhà sách. Ở chái đầu nhà, Trần Quốc Tuấn dành làm chỗ ngủ và chỗ làm việc cho một cậu bé mười lăm tuổi. Người thư nhi này tên là Trương Hán Siêu giữ việc coi sóc nhà sách và ghi chép những điều kín nhẹm riêng tư của Trần Quốc Tuấn. Chái nhà sách đầu kia là chỗ nghỉ đêm và học tập của người con trai thứ ba của Hưng Đạo vương. Lúc này trong chái nhà, Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng đang đọc bộ sách Nam Bắc phiên giới địa đồ, một bộ trước tác đã ngót hai trăm năm, từ thời vua Lý Anh Tông. Đây là bộ sách chép về hình thế sông, núi và kể ra phong tục cùng sản vật các vùng trong đất nước. Thấy cha dẫn chú đi tới, Trần Quốc Tảng vội buông sách, sửa lại khăn áo ra lạy chào. Là hàng cháu nhưng Trần Quốc Tảng còn hơn Trần Nhật Duật hai tuổi. Hai người đã nhiều năm theo học ở Quốc Tử viện và Giảng Võ đường. Về mặt kiến văn, Trần Nhật Duật rất phục Trần Quốc Tảng. Chiêu Văn vương còn coi Hưng Nhượng vương là người khác thường vì con người này hầu như không đếm xỉa tới mọi thú vui quen thuộc của thế nhân. Cũng chỉ một người có nết lạ đáng chú ý như thế là Hưng Ninh vương Trần Tung. Hàng năm Trần Quốc Tảng hay bỏ đi chơi lang thang khắp nơi ít nhất vài ba tháng. Mỗi lần đi đều ăn mặc như người dân thường, ăn uống trong những quán bên đường, chen vai thích cánh với dân chúng xem hội, nghe hát xẩm, trò chuyện với mọi người trên một chuyến đò. Những chuyến đi như thế mở rộng kiến văn của chàng và cũng làm cho Trần Quốc Tảng thấu rõ tình người. Cha chàng coi chàng là một người hiểu biết người, biết cách xử thế quyền biến và có những người bạn tri kỉ trong đủ mọi hạng người. Nhưng những lần lang thang sông hồ cũng làm cho dung mạo của chàng thêm phong trần và có khi làm cho con người tiều tụy đi nhiều. Đến nỗi có lần một người lính gia đồng vương phủ Hưng Đạo đã ngáng giáo không cho Hưng Nhượng vương vào, thậm chí còn quát tháo nạt nộ chỉ vì sau những ngày lang thang trong bộ quần áo dân thường, ăn uống thất thường Trần Quốc Tảng chẳng còn mấy tí phong độ của một bậc vương giả. Những cuộc gặp gỡ chuyện trò với Trần Quốc Tảng bao giờ cũng đem lại cho Trần Nhật Duật những bất ngờ hết sức thú vị. Có khi là chuyện hèm của một làng, có khi là tính nết của một giống hoa, có khi là một suy nghĩ thoạt mới nghe tưởng như kì quặc nhưng lúc nghĩ kĩ mới thấy nó mới lạ và sâu sắc, có khi là một vần thơ thoát tục nhuốm mùi thiền, có khi là một phương thuốc gia truyền chữa bệnh hiểm nghèo.. Những bất ngờ ấy đến với Trần Nhật Duật qua cách kể bình thường và dung dị của Trần Quốc Tảng. Mấy năm gần đây, những cuộc nói chuyện giữa hai người đã sang một bước mới. Trần Quốc Tảng hay dẫn dắt Trần Nhật Duật đến những địa hạt hết sức rối rắm của lí học, tâm học. Đó là cuộc bàn luận không kết thúc và sau đó cả hai người chia tay ra đi thường vẫn mang theo những vấn đề chưa có kiến giải. Tuy vậy, Trần Nhật Duật biết rằng Trần Quốc Tảng rất ghét các đạo sĩ cung Cảnh Linh và các sư phái Mật Tông ở chùa Chân Phúc. Các đạo sĩ và thiền sư này rất có thế lực trong triều và mặc dù vậy, họ vẫn kiêng sợ Hưng Nhượng vương. Nghe đâu trong đôi ba cuộc khẩu chiến, Hưng Nhượng vương bằng cách nói lạnh lẽo mỉa mai và rất thông minh, đã đẩy các đạo sĩ và thiền sư ấy lâm vào cảnh tự mình lại cãi nhau với mình một cách hăng hái và hung hãn.. Trần Quốc Tuấn nói với Chiêu Văn vương: - Em sẽ đi thăm thú thế đất quanh vùng và chọn nơi họp. Cháu Ba sẽ đưa chú đi. Ông bảo Trần Quốc Tảng: - Con sẽ theo hầu chú! Chú chịu mệnh vua về đó. Trần Quốc Tảng chắp tay nghiêm chỉnh vâng lời cha. Tối hôm ấy, Trần Quốc Tuấn thết Chiêu Văn vương một bữa tiệc bằng toàn các sản vật đồng quê trong vùng. Đó là một bữa ăn hết sức thân mật giữa hai người nhưng cả bốn con trai của Hưng Đạo vương đều ngồi hầu rượu cha và chú. Chiêu Văn vương nắc nỏm khen món nhệch om béo và ngọt thịt hơn lươn đồng nước ngọt. Ông khen cả món sò huyết nướng và món chả rươi bùi béo. Trần Quốc Tảng nói: - Bẩm chú, rươi cuối mùa không thật ngậy cho lắm nhưng lại thơm hơn. Trần Nhật Duật cười: - Đó là lẽ bù trừ của thiên nhiên đó thôi. Ông ít khi uống một bữa rượu thoải mái thế này, kể cả những lúc uống tay đôi với một người tri kỉ ở phủ đệ kinh thành. Hình như những bữa đó ở Thăng Long đã bị cái ồn ào của kẻ chợ chen vào, chúng bị thêm vào một chút gì phù phiếm của nghi lễ và giàu sang.. Đêm khuya, Trần Nhật Duật ngắm trăng muộn chiếu qua cửa sổ căn phòng Trần Quốc Tuấn dành cho ông. Trần Nhật Duật không sao ngủ được, lòng bâng khuâng thậm chí không tập trung tâm trí để nghĩ về một vấn đề gì. Khối núi Phượng Hoàng đen lạnh, tiếng nước Lục Đầu thầm thào, hương phấn thông và hơi đá núi tạo thành một khung cảnh vừa xa lạ vừa thân thiết khiến cho ông suy nghĩ miên man.. Liền trong mấy ngày Trần Quốc Tảng đưa Trần Nhật Duật đi quanh vùng sáu đầu sông. Hai đức ông chỉ đem theo mươi người hộ vệ. Tất cả đều cưỡi ngựa, những con ngựa béo mượt trong tàu ngựa của Thái ấp Vạn Kiếp. Từ ngòi Chiêu đến sông Phượng Hoàng qua những cánh rừng tre, rừng trúc đầy vắt, từ núi Phao, núi Lừng xuống bãi lầy Đan Hội, từ Khê Cầu qua Phong Cốc, Cổ Đô, Trần Nhật Duật phóng ngựa về bến đò Đại Than. Trần Quốc Tảng đã hứa với chú là về đây sẽ sửa một bữa chén thật lạ để chú thưởng thức gỏi cá đầy phong vị sông nước mênh mang vùng sông Lục Đầu. Họ về đến Đại Than vào một buổi chiều vàng, nắng hanh còn le lói nhưng không gian đã sớm lạnh lẽo. Từ ngôi chùa Phả Lại tít mù xa, tiếng chuông thu không thong thả buông lẩn vào gió thu. Giữ đúng lệ của con nhà tướng, Trần Nhật Duật vẫn dẫn đầu đoàn người ngựa xuống bãi sông. Ai nấy đều tắm và tắm chải luôn thể cho ngựa. Sau đó họ cùng thay quần áo sạch. Trần Quốc Tảng đưa chú đến một cái bè vó cắm ở mé trên bến Đại Than. Chủ cái bè vó là một ông già thấp nhỏ, vẻ rụt rè, có một đôi mắt gấp gay đã kém tinh tường. Đó là cụ Uẩn, người làm nghề kiếm cá và chở đò ngang qua bến Đại Than. Theo lời Trần Quốc Tảng thì ông cụ giỏi võ lắm, những người lính trong đội quân gia đồng thái ấp Vạn Kiếp rất quý ông cụ. Họ thường đến xin ông cụ chỉ giáo cho những đường kiếm hiểm hóc và nghe cụ kể chuyện chinh chiến thời trai trẻ. Họ coi ông cụ là thầy. Đối với cụ Uẩn, Trần Quốc Tảng là người chịu ơn. Nghe đâu, trong một lần đi săn, Trần Quốc Tảng ngã ngựa sái xương hông. Lính gia đồng mời cụ Uẩn đến thái ấp Vạn Kiếp chữa cho đức ông Hưng Nhượng. Bằng thủ thuật bí truyền trong chốn giang hồ, ông cụ đã nắn cho Trần Quốc Tảng khỏi sái. Sau đó Hưng Nhượng vương thưởng gì ông cụ cũng không nhận, ngoài ba chén rượu uống suông. Từ đó, Hưng Nhượng vương mỗi lần có dịp thường ghé thăm ông cụ và lần nào cũng được ông cụ thết món gỏi cá. Cụ Uẩn đăm đăm ngắm Chiêu Văn vương. Đức ông hoàng Sáu hồ hởi bảo ông cụ: - Kính chào ông lão, tôi ở kinh thành về Hải Đông qua đây ghé thăm ông lão. - Kính lạy đức ông, kẻ dân hèn này được hai đức ông đến thăm thật quá đỗi lo lắng và mừng rỡ. Ông cụ mời hai đức ông xuống bè vó. Chiếc bè có một khoang nhỏ mui lá rất sạch sẽ. Hai chiếc chiếu cói đan lấy rất khéo trải gần kín khoang. Một lưỡi đòng, một thanh quất chuôi đồng thau giắt trên mui mái. Mặc dầu đã được Trần Quốc Tảng kể qua lai lịch ông già độc thân này, Trần Nhật Duật vẫn tò mò ngắm ông cụ và có cảm tưởng như được gặp một bậc du hiệp kì tài. Cụ Uẩn pha trà Yên Tử mời hai đức ông uống. - Bẩm trà núi đá hái tiết sương giáng! Đã cuối tháng mười trăng mọc muộn. Đêm ấy Trần Nhật Duật được ăn một bữa gỏi cá kì lạ nhớ đời. Mỗi người một cái vó con nhỏ xíu. Họ tự bắt lấy những con cá chép thả trong chiếc chậu da lươn để giữa mâm, những con cá chép bằng ngón tay út đã được cụ Uẩn nuôi bằng nước vo gạo nếp. Rượu là thứ rượu cất bằng quả kim anh Yên Tử hâm nóng trên hỏa lò than đặt ngay cạnh mâm. Rượu say, họ ngủ ngay trong khoang bè vó. Gió sông ào ạt thổi bên ngoài mui mái, nước vỗ lóc bóc đầu bè. Càng về khuya, thiên nhiên càng thuộc về côn trùng và muông thú, chim chóc. Tiếng chim vỗ cánh lưng trời, tiếng dế nỉ non, tiếng phì của rái cá ở vụng nhỏ cuối bè.. Trước khi ngủ thiếp đi, Trần Nhật Duật thoáng nhớ một lần Trần Quốc Tảng nói về cái dung dị thoát phàm của những đêm đất lạ. Trong thiên nhiên trong lành, người ta chợt thấy cũng có những điều nhân loại bày đặt ra thành vô nghĩa và một câu hỏi tự nảy ra: Thế nào là có nghĩa đối với một con người? Sáng hôm sau cụ Uẩn hạ chiếc thuyền con vẫn úp trên mui mái bè xuống nước để đưa hai đức ông đi thăm thú trên sông. Cụ chống thuyền dọc theo soi Tiểu Than xuống soi Đại Than. Đây chính là cái bãi giữa Lục Đầu giang mà Trần Quốc Tuấn gọi là hòn Châu có sáu rồng vờn. Cái bãi rất rộng, bốn bề là nước. Trên bãi lau sậy um tùm, mùa này chim mùa từ phương bắc tránh rét bay xuống phương nam đậu lại nghỉ cánh, nào ngỗng trắng xám, nào sâm cầm, sít chân đỏ mỏ đỏ, vịt trời.. hàng vạn con. Cụ Uẩn kéo thuyền ghếch mũi lên bãi soi. Hai đức ông nhanh nhẹn nhảy lên cạn đi vào trong soi. Đây thật là nơi tốt nhất để làm chỗ họp sắp tới: Bãi Bình Than. Trần Nhật Duật tính toán rất nhanh những việc cần làm để có một nhà rạp thật lớn chứa đủ vài trăm người. Ông lập tức cùng Trần Quốc Tảng về Vạn Kiếp. Những mệnh lệnh liên tiếp ban ra. Hàng loạt bến thuyền dành cho quân thủy của vương hầu được dọn dẹp chờ thuyền chiến vào đậu. Những người lính hỏa đầu vận chuyển gạo, cá khô đến lập kho ở hai ven sông. Những đội tuần sát được phái đi các làng ven sông Lục Đầu để xét hỏi những người lạ mặt khả nghi. Một đô lính trạo nhi gia đồng của Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn được lệnh đi dắt mấy bè gỗ và tre luồng từ phủ Lạng Giang về Đại Than. Những người lính khác được lệnh phát quang bãi Bình Than. Họ làm một nhà rạp rất lớn mái lá gồi ở giữa bãi. Họ làm thêm những dãy nhà thay quần áo, nhà mộc dục để tắm rửa, ở cuối bãi là nhà bếp. Những suy thất phụ khiêng đến Bình Than những chiếc nồi đồng ba mươi, những chiếc chảo cực lớn và những chiếc chum đựng mỡ. Họ lấy đất thó nặn đầu rau bắc bếp rồi dùng thuyền nhỏ chuyên chở đến kho thực phẩm các loại hạt khô như đậu, ngô, vừng, lạc.. Theo lệnh Trần Nhật Duật, quan trấn thủ lộ Lạng Giang ra lệnh ngừng tạm thời việc khai thác lâm sản. Những người lái bè, những người buôn củ nâu, trầu vỏ, lá gồi.. phải hàng ngày đến trình diện ở dinh trấn thủ. Cũng theo lệnh Trần Nhật Duật, viên tướng chỉ huy quân thủy ở cửa Vân Đồn rải thuyền chiến tuần sát đường biển từ Vân Đồn về các cửa Nam Triệu, cửa Lục.. Viên tướng ấy cũng ra lệnh nghiêm cấm lái buôn nước ngoài vào quá cửa Vân Đồn. Trần Nhật Duật còn cho triệu các viên chỉ huy lính tuyển phong xưa nay chuyên đảm nhận việc giữ gìn trật tự, pháp luật ở mấy phủ huyện chung quanh đến và đặt ra cho họ nhiệm vụ là phải lưu tâm tới những kẻ lưu manh du đãng, buộc chúng phải ở nhà ban đêm, còn những kẻ chuyên đi buôn sang Trung Quốc thì phải lên sung vào các đội tu tạo sửa chữa các dinh thự. Tất cả các công việc chuẩn bị cho cuộc triều hội đã được đốc thúc làm rất nhanh chóng. Trần Nhật Duật như muốn thử sức mình, đã tỏ ra linh hoạt và quả quyết vô cùng. Lần này là lần đầu tiên Trần Nhật Duật không có Hoàng Mãnh bên cạnh. Nhưng cũng là lần đầu tiên ông làm việc công có một người chỉ giáo rất ít lời nhưng cực kì thâm thúy: Trần Quốc Tuấn. Đức ông Hưng Đạo thẳng thắng bảo em: "Tất cả những gì anh nói với chú thì chú cứ xem xét, nếu thấy phải làm thì làm còn nếu có cách nào hay hơn thì tùy chú. Con người ta phải quả đoán. Anh mong rằng chú cũng được cái tính ấy như em hoàng Ba." Trần Nhật Duật làm hết mình. Người ta thấy đức ông hoàng Sáu có mặt khắp nơi, thông minh, tháo vát, tự tin. Đức ông quên bẵng chiếc áo giáp ngắn mang từ Thăng Long về. Chỉ đến hôm các việc lớn đã xong xuôi, duy còn việc cho lính giăng màn lụa và thảo sớ dâng vua công việc hoàn tất, Trần Nhật Duật mới chợt trông thấy cái bọc áo giáp. Bấy giờ trời đã tối và ông đang cùng với Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng bàn soạn về ý tứ sẽ viết trong mật sớ tại căn phòng cuối thái ấp Vạn Kiếp. Trần Nhật Duật cầm cái áo giáp lên đưa cho Trần Quốc Tảng xem. Trần Quốc Tảng vốn có kiến văn rộng rãi và đi giang hồ cũng nhiều. Hưng Nhượng vương cầm xem cái áo và nói về nơi ra đời của nó: - Loại áo của bọn Tuốc! Bọn này học được thuật đúc áo giáp của những thương nhân Nhã Điển. Trần Quốc Tảng khen cái áo tốt, Trần Nhật Duật nói: - Cháu hay đi chơi lang thang một mình thì cầm lấy nó mà dùng. Trần Quốc Tảng ngẩng nhìn chú và kín đáo nhìn rất lâu. * * * Chú thích (1) Trích thơ Trương Nhược Hư. Bài Xuân giang hoa nguyệt dạ. Dịch: Mảnh mây trắng bông lông bay mãi Rừng phong xanh trên bãi gợi sầu Thuyền ai lơ lửng canh thâu Trên lầu trăng dõi đất nào nhớ nhau (2) Suy thất phụ là những đàn bà nô tì làm việc trong bếp.
Chương 9 Bấm để xem Chiêu Minh Vương Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải vào nội cung phò hai vua ra điện Thiên An. Các vương hầu và các quan văn võ tung hô vạn tuế. Sau một mùa thu xét án tích lưu tồn trong một năm, Thượng hoàng Thánh Tông sai thiết triều một buổi cuối mùa để mừng đất nước phong tục thuần hậu. Mùa thu vốn mát mẻ. Các án tích trong một năm đã xử xong, những án nào nặng thường lưu đến mùa thu để phúc lại với lẽ trời mát, người xử án trong người thư thái hơn, họ sẽ xem xét kĩ lưỡng có lí có tình hơn. Vụ thu thẩm năm nay đã được đương kim hoàng đế Nhân Tông giao cho Thái sư Trần Quang Khải chỉ huy các quan Học sĩ cung Quan Triều và các Ngự sử của Thẩm Hình viện phúc lại các án. Án tích nặng không nhiều, việc phúc lại làm cũng chu đáo. Trần Quang Khải đã tâu vua giảm đẳng phần lớn và nhà vua đã chuẩn cho. Vì thế có buổi triều hội hôm nay để mừng đất nước bằng yên, hòa vui. Sau khi tuyên chiếu giảm đẳng xong, các quan mừng rỡ tung hô chúc hai vua sống lâu một lần nữa. Thánh Tông sai ban cho Trần Quang Khải và các quan Học sĩ, quan Ngự sử phúc án mỗi người ba chén rượu ngon. Trần Quang Khải còn được ban thưởng thẻ phù chạm mây, các ông Học sĩ thì được mỗi vị một đồng tiền bằng bạc. Vua tôi cùng mừng rỡ. Thánh Tông phán: - Triều đình không phải dùng hình phạt là một điều đáng vui. Sau đó đương kim hoàng đế Nhân Tông sai bày cuộc đánh phết trên thềm điện Thiên An và sai quan Điện tiền Nguyên soái Trần Bình Trọng mở cửa hoàng thành cho trăm họ vào xem luôn thể. Đây cũng là cách để tuyên xa đức trạch của triều thịnh trị, cho nghĩa vua tôi thuần phác thêm. Hất quả phết vốn là một trò chơi thượng võ đã có trên một nghìn năm nay và được trăm họ ham thích. Các vua chúa triều trước - triều Lý - cũng ưa chuộng, các vua nhà Lý và các hoàng tử hay cho các quan đánh phết làm vui và cũng nhiều lần đánh phết với các quan. Từ thời Trần Thái Tông, Hiển hoàng Trần Liễu lại càng thích trò vui này vì tính chất thượng võ rất hợp với họ Đông A. Triều đình hay mở cuộc đánh phết, các vương hầu đua nhau, thay nhau vào chơi. Ông giám cuộc hất phết lần này chính là Thượng tướng Trần Quang Khải. Dưới sự điều khiển của ông, lính túc vệ đô Củng Thần nhanh chóng dựng hai cầu môn ở hai đầu sân thềm điện Thiên An. Sân thềm này vốn rất rộng, xưa nay các buổi triều đông đảo hàng nghìn người mà vẫn rộng rãi. Những bộ cửa cầu môn bằng gỗ sơn son đã dựng xong, mỗi cửa sừng sững cao hơn một trượng. Lính Củng Thần bày hai cái giá trước thềm. Giá này là giá cờ. Mỗi quả phết lọt vào cầu môn sẽ được cắm một lá cờ vào giá của bên thắng quả đó. Trần Quang Khải bưng một cái khay trên để một quả phết tròn bằng da nhồi lông, sơn đỏ đến quỳ tâu Nhân Tông: - Tâu bệ hạ, sâu cầu đã bày xong, thần thỉnh mệnh bệ hạ chọn hai tướng của hai đội phết. Trần Nhân Tông vốn là vị vua trẻ, thượng võ. Làm chủ những cuộc vui chơi vũ dũng thế này rất hợp với lòng ham muốn của nhà vua. Trần Nhân Tông không thích những trận cầu, trận phết chơi uể oải hoặc mềm yếu, vì vậy nhà vua chọn tướng đội phết áo xanh là Tá Thiên vương Đức Việp, em ruột mình. Để đội phết áo đỏ đủ sức chọi được với đội phết áo xanh, Nhân Tông chọn tướng cho đội này là Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc. Đức ông Chiêu Quốc xưa nay nổi tiếng là người vô địch hai môn phết và cầu ở kinh thành. Để trận phết thêm phần hào hứng, Nhân Tông ra lệnh cuộc chơi này là cưỡi ngựa hất phết. Nhà vua cho phép hai bên được chọn ngựa trong tàu ngự hoặc dùng ngựa riêng của mình tùy ý. Một lát sau, hai đội phết đã sửa soạn xong chờ cuộc đấu. Mỗi đội phết gồm mười hai người cả tướng. Mỗi đội mặc một màu áo và thắt một màu thắt lưng. Đội áo xanh thắt lưng hỏa hoàng, đội áo đỏ thắt lưng thâm. Hai đội dàn hai hàng trước điện Thiên An. Họ cưỡi những con ngựa cực kì lực lưỡng. Những vó trước các con ngựa đều buộc những miếng đệm bông dày nong gân tre bên trong để che giữ xương ống. Trần Ích Tắc, trên lưng con Hồng Long Câu, nghiêng đầu kiêu hãnh ngắm đội đối thủ. Một chút khinh thị loé lên trong đôi mắt đẹp của Chiêu Quốc vương. Theo lệnh của Trần Quang Khải, người ta đưa những chiếc gậy tre đực đầu quằm đến cho các đấu thủ. Hai đội quay ngựa về dàn trước cửa cầu môn của đội mình. Đội trống đồng và nhạc quân cũng đã chỉnh đốn xong ở mé trái điện Thiên An. Trần Quang Khải tâu vua xin cho cuộc hất phết bắt đầu. Trần Nhân Tông hai tay nâng quả phết sơn đỏ lên khỏi đầu, đi ra tận đầu thềm điện Thiên An miệng hô lớn: - Bớ tráng sĩ hai đội! Hai đội phết đồng thanh náo nức dạ ran lên. - Trước là để tỏ tráng chí Đông A, sau để vui chung bốn bể, này bắt đầu này! Nhân Tông ném quả phết son xuống giữa sân. Nhạc quân nổi lên hùng tráng. Những kị sĩ cho ngựa phi nước đại. Những chiếc gậy quắm dựng cao lên trong tư thế sẵn sàng vụt quả phết. Trận phết bắt đầu. Không khí sân đấu phết náo nức. Những người dân kinh thành đứng bên kia hồ Dưỡng Ngư cất tiếng hò dậy đất. Danh tiếng vô địch của Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc quả không ngoa. Con Hồng Long Câu cũng đáng là một con ngựa quý. Một mình Trần Ích Tắc chơi giỏi bằng mấy người. Chiếc gậy quằm trong tay Ích Tắc khéo léo dắt quả phết như lẩn vào giữa bốn vó ngựa. Nhiều lần Ích Tắc và đội áo đỏ lừa quả phết tới sát cầu môn đội áo xanh nhưng Tá Thiên vương Đức Việp và đội áo xanh ra sức xông xáo cản phá. Họ bày ngựa thành hàng dày đặc trước cầu môn. Ngựa đôi bên va ức, va hông vào nhau, tiếng hò hét của tráng sĩ hai đội, của người xem cùng dậy lên. Đội áo xanh chống trả rất dũng cảm nhưng Trần Ích Tắc đã dùng một mẹo rất khéo. Chiêu Quốc vương từ xa lừa quả phết đến bằng tay phải. Đội áo xanh dẫn ngựa cản mé phải của Trần Ích Tắc nhưng khi gần đến nơi, Ích Tắc gạt quả phết qua bụng ngựa sang mé trái và chuyển gậy sang tay trái quật quả phết bay vút qua cầu môn của đội áo xanh. Một thắng! Trống đồng và nhạc quân nổi bài mừng. Người ta cắm một lá cờ vào giá cờ của đội áo đỏ. Tráng sĩ của hai đội lại trở về cầu môn của mình bắt đầu chơi tiếp. Chừng một khắc, đội áo xanh thua liền ba quả. Loáng thoáng đã có kị sĩ phải thay những con ngựa mệt quá. Sau quả thua thứ ba, bên áo xanh đã đen lại đen rấp: Trong một cuộc va ngựa rất mạnh giữa Tá Thiên vương Đức Việp và Chiêu Quốc vương, con Hồng Long Câu xô con ngựa của Tá Thiên vương xiêu đi làm cho Trần Đức Việp ngã xuống sân. Theo lệ đấu, người ngã ngựa không được chơi tiếp nhưng đội có quyền cử người thay cho đủ mười hai người. Nếu là một cầu thủ thường thì tướng chọn người thay. Nếu người ngã là tướng thì người giám cuộc sẽ chọn tướng mới. Thế là Trần Quang Khải tiến đến tâu Nhân Tông xin cử tướng mới cho đội áo xanh. Chỉ thấy Nhân Tông im lặng nhưng đôi mắt nhà vua rực sáng lên. Nhân Tông truyền nội giám: - Lấy cho ta chiếc áo xanh và sai đóng yên ngự mã. Thế là nhà vua thân làm tướng đội áo xanh một phần vì máu Đông A thượng võ, một phần vì muốn giữ thể diện cho thế hệ mình. Đội áo đỏ cũng thay một người. Trần Ích Tắc biết Nhân Tông là tay đánh phết rất giỏi nên không dám khinh thường. Ích Tắc cũng phải chọn một cầu thủ trẻ: Chương Hiến hầu Trần Kiện. Trận phết lại tiếp tục. Đội áo xanh từ lúc được nhà vua thân làm tướng đã tỏ ra dũng mãnh hơn trước. Họ cho người chạy chéo qua chéo lại làm rối loạn thế trận của đội áo đỏ. Quả phết bay vun vút từ sân đội này sang sân đội kia. Nhân Tông có cách dẫn phết ngay trước đầu ngựa của mình. Cách dẫn phết này làm các kị sĩ áo đỏ bối rối không đoán được ý nhà vua sẽ đánh quả phết đi bằng tay trái hay bằng tay phải. Sức nhanh của con ngựa làm Nhân Tông say sưa. Con ngựa trắng của nhà vua vốn là con ngựa nhất tàu ngựa ngự. Nó ngửa mặt hất bờm xông thẳng vào con Hồng Long Câu. Mặc dù thấp hơn Hồng Long Câu đến nửa gang, con ngựa của Nhân Tông cứ hung hăng xông vào, nó vừa hí gằn vừa nhăn răng ra dọa. Khi hai con ngựa díu vào nhau, con ngựa trắng cạp luôn vào cổ con Hồng Long Câu. Nhân Tông nhanh như cắt thúc gót, con ngựa trắng chồm lên mở một đường phi. Nhân Tông vung gậy phết dứ, con Hồng Long Câu giật mình giạt sang một bên. Thế là chiếc gậy phết vụt mạnh một cái, trái phết bay như một vệt lửa mờ qua cửa cầu môn. Đây là quả phết thắng cuộc của hoàng đế nên trống đồng và nhạc quân nổi bài đại hạ tưng bừng. Cuộc đấu tạm ngừng. Thượng hoàng Thánh Tông sai ban rượu cho cả hai đội. Thượng tướng quân Trần Quang Khải tâu vua: - Tâu bệ hạ, trái cầu vừa rồi thật bất ngờ. Ngay Chiêu Quốc mà cũng không lường trước được. - Chỉ là đúng thời thôi. Chú Ba thường nói đúng thời còn hơn kì tài là gì. - Tâu bệ hạ, bậc kì tài mới hành động đúng thời được. Chúa tôi cùng mừng rỡ uống rượu với nhau. Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc cũng dâng chén rượu mừng thay mặt cho cả hai đội cầu. Nhân Tông uống cạn chén rượu rồi ném chén ra lệnh: - Lên ngựa! Đánh tiếp! Liếc nhìn quanh, Trần Quang Khải tâu khẽ: - Bệ hạ đừng để cho cuộc đấu kéo dài. Nhân Tông khẽ gật đầu. Nhà vua xắn cao hai ống tay áo. Thị mã dâng cương con ngựa ngự. Nhân Tông lên ngựa, giơ cái gậy phết lên cao, cười nói với Trần Quang Khải: - Chú Chiêu Minh sai giục trống đi. Đánh xong trận phết này ta cho miễn triều bảy ngày. Hai đội phết lại lăn xả vào nhau tiếp tục cuộc đấu. Tiếng hò la của kị sĩ của các vương hầu và trăm quan của binh lính tứ sương, của trăm họ đứng bên kia hồ Dưỡng Ngư cùng nổi lên vang dậy. Không khí náo động tưởng như tất cả mọi người có mặt đều bị cuốn hút vào trận đấu. Nhưng Bảo Nghĩa hầu Trần Bình Trọng đến gần Trần Quang Khải khẽ trình: "Bẩm đức ông, bọn tay chân của thằng Đạt Lỗ Hoa Xích đã lẻn vào trà trộn trong đám đông. Có nên đuổi cổ chúng ra không?" Trần Quang Khải mỉm cười: "Không cần. Tướng quân hãy sắp sẵn tiền thưởng để tung hê cho dân mừng Quan gia sức khoẻ đi!" Trận phết tới xế chiều thì xong. Đội áo đỏ thắng chật vật đội áo xanh, bên chín cờ bên tám. Nhân Tông mặt đẫm mồ hôi, mắt sáng như bốc lửa bảo Trần Quang Khải: - Quan Thái sư cho ban phát gạo rượu để binh lính uống vui, cho ban tiền để dân dự phần mừng rỡ nhé. Nhân Tông sai mở tiệc ở điện Thiên An cho các vương hầu dự. Trần Bình Trọng sai lính tung tiền thưởng cho dân. Ai nấy reo mừng ran cả khu hoàng cung. Đầu canh một tiệc bắt đầu. Cuối canh hai tiệc triệt. Ai nấy chuếnh choáng. Nhân Tông sai quây màn dài ở ngay đình lan, đem chăn gối vào đấy để vua tôi ngủ chung. Thượng hoàng hài lòng nói với các vương hầu bằng vai với mình về thế thứ: - Thiên hạ là của chung cả họ. Thằng nhỏ ở ngôi đứng ra gánh vác việc công. Các chú các bác hãy giúp cháu. Thánh Tông, Nhân Tông và các vương hầu dan tay đưa nhau vào đình lan đi ngủ. Hoàng thành và kinh sư im lặng dần trong giấc ngủ say. Nhưng đầu canh ba, Trần Bình Trọng vào đình lan đánh thức mọi người dậy. Thượng hoàng nói một câu ngắn: - Có việc lớn phải bàn. Việc lại phải bàn kín ở nơi xa. Các khanh ra bến Đông ngay, ta đã sai sắp thuyền ở đó rồi. Nửa trống canh sau, những chiếc thuyền không thắp đèn thắp đuốc im lặng và âm thầm rời bến. Bảo Nghĩa hầu Trần Bình Trọng sai treo một cái biển "miễn triều" lên trên vọng lâu cửa Đại Hưng. Binh lính tứ sương được lệnh: Nội bất xuất ngoại bất nhập. Trong không được ra, ngoài không được vào. Hoàng cung sẽ im lìm một nửa tuần trăng nữa. Trần Ích Tắc trằn trọc, ruột gan bồn chồn. Việc rời Thăng Long bất chợt này rõ ràng được bàn trước và được sắp xếp có lớp lang hẳn hoi. Ấy thế mà Trần Ích Tắc không được hay biết chi hết, ngay việc tạt qua về vương phủ lấy một vài vật tùy thân cũng không được phép. Đây là lần đầu tiên trong đời Trần Ích Tắc không được hỏi han về việc nước, trong khi đó Bảo Nghĩa hầu Trần Bình Trọng không phải là thân vương mà vẫn được trao mệnh. Con thuyền xuôi nước, được gió, trôi bềnh bồng như lướt trong mơ. Nước sông Thiên Đức mùa này cạn, lắng nghe thấy tiếng đất lở hai ven sông. Đoàn thuyền đã qua ngã ba Cơ Xá lâu rồi. Đèn đuốc trên các thuyền đã được lệnh thắp lên. Những đốm sáng trong đêm cuối thu giăng giăng trông như lửa chài mùa cá ở vụng biển Tức Mạc. Trần Ích Tắc suy nghĩ miên man. Nhớ lại năm xưa khi được phong vương, mở phủ ở kinh thành, Trần Ích Tắc là người trọng yếu của chi thứ họ Đông A. Những lần Chiêu Minh vương phò vua ngự giá thân chinh phía nam đất nước, Chiêu Quốc vương thường được cử làm hoàng tử lưu thủ kinh thành. Uy quyền, tài năng của Chiêu Quốc vương gắn liền với ngôi báu của chi thứ, Trần Ích Tắc không bằng lòng trước sự phục hồi quyền thế của chi Vạn Kiếp, mặc dù cho đến nay các chức vụ trọng yếu vẫn nằm trong tay những người của chi thứ. Nhưng dù sao cũng đã đến lúc Trần Ích Tắc phải nghĩ về mình và về nhân tài của chi trưởng. Cuối canh tư, có lệnh của Thượng hoàng Thánh Tông triệu Trần Ích Tắc đến chầu hầu. Một chiếc thuyền con đưa Trần Ích Tắc từ chiếc thuyền lầu đến chiếc thuyền Long Phụng của Thượng hoàng. Khi lên thuyền vua, Trần Ích Tắc thấy Chiêu Minh vương Trần Quang Khải đã có mặt rồi, ông đang chuyện trò với Thánh Tông và Nhân Tông. Tá Thiên vương Trần Đức Việp và Chương Hiến thượng vị hầu Trần Kiện cắp kiếm đứng ở hai đầu thuyền. Thánh Tông bảo Ích Tắc: - Em Năm ngồi xuống đây. Ta có việc muốn bàn với em. Thánh Tông sai ban bánh trái cho Trần Quang Khải và Trần Ích Tắc. Sau vài tuần trà nước, Thánh Tông trầm ngâm giờ lâu mới nói: - Theo ta đoán định, giặc sẽ cất quân đánh nước ta vào một ngày gần đây. Chúng là lũ tàn bạo chưa từng thấy ở thế gian này. Đã thế chúng lại sẵn ý nghĩ chúng là "thiên triều", giời cho chúng quyền đè nén các nước chung quanh. Ở nước ta, vận nước phải trao vào tay người xứng đáng mới mong xã tắc được vẹn toàn. Cha con ta đức mỏng, lạm giữ ngôi báu đã vài chục năm nay, may nhờ tổ tông để phúc nên một tấc đất cũng chưa suy suyển. Nhưng đến bây giờ, ta có ý định muốn trả lại ngôi báu cho chi trưởng để hợp với vương đạo. Các em nghĩ thế nào? Câu hỏi của Thánh Tông thật minh bạch buộc Chiêu Minh vương và Chiêu Quốc vương cùng phải suy nghĩ. Những điều gì vụt loé lên rồi tắt đi trong hai tâm hồn này? Đôi mắt Chiêu Quốc vương vụt rực sáng. Đôi mắt đầy dục vọng ấy cụp mi xuống. Ngôi vua phải về ngành trưởng, xưa nay lẽ ấy thường tình. Nhưng nếu ngai vàng về tay chi trưởng, Trần Ích Tắc sẽ không còn là bậc thân vương tôn quý nữa. Nghĩ đến cái nước mỗi khi triều hội, phải quỳ sau bao nhiêu người, Chiêu Quốc vương đã thấy khó chịu rồi. Người trả lời trước lại là Chiêu Minh vương: - Thưa anh, việc nước không phải là việc riêng của họ ta. Bây giờ xã tắc gặp lúc nguy nan, đặt việc nhường ngôi ra, em e ngại lòng dân li tán. Sau này lúc đất nước vững bền rồi, anh muốn làm cho hợp với vương đạo thì lúc đó sẽ hay. Chiêu Quốc vương bật cười: - Thế nước nguy nan, hoàng huynh mới phải đặt ra việc nhường ngôi chứ thế nước bền thì còn nói chuyện gì nữa. Chiêu Minh vương nghiêm sắc mặt: - Không phải đến lúc này hoàng huynh mới nghĩ đến việc đó. Ta đã được hoàng huynh hỏi một lần rồi và ta cũng đã trả lời như vậy. Chiêu Quốc vương mỉm cười lạnh lẽo. Đức ông hoàng Năm tin chắc rằng mình hiểu bụng hai anh mình. Họ lo chống trả với giặc và mong ước được sự ra tay phò giúp của chi trưởng. Nhưng nếu thực chỉ muốn thế thì hà tất phải đặt việc trả lại ngôi cho thêm rắc rối. Hay là lòng họ vẫn lo chi trưởng đặt ra việc trao nhường ngôi báu vào dịp này. Xưa nay, sử sách đã từng chép lại những chuyện giống như thế rồi. Nào là "lên ngôi cửu ngũ cho yên bụng dân trăm họ", nào là "trước hết phải chính danh sau mới xuất quân". - Tôi e rằng nếu ta không đặt việc này ra thì các bác chi Vạn Kiếp cũng đặt ra thôi. - Trần Ích Tắc liếc nhìn Thánh Tông rất nhanh. Trần Quang Khải lưỡng lự: - Cũng có thể có người.. có người nghĩ thế nhưng chắc đức ông Hưng Đạo.. Chiêu Quốc vương cướp lời: - Nếu chi Vạn Kiếp muốn được trao ngôi thì người mong muốn nhất phải là đức ông Hưng Đạo. Thưa anh, ta nên đem việc ấy ra hỏi mọi người. - Chiêu Quốc vương thoáng mỉm cười: - Ai nấy sẽ can rằng không nên làm việc đó bây giờ. Thế là ta sẽ cử các đức ông chi Vạn Kiếp giữ các chức vụ quan trọng.. trừ.. quyền Thượng tướng và quyền Tiết chế ba quân. Chiêu Minh vương gạt đi: - Không được! Cách đó chẳng che được mắt ai cả. Nói một đằng làm một nẻo chỉ tổ làm tăng thêm mối nghi kị mà thôi. Bây giờ mối đại thống cũng khá vững rồi. Việc nhường ngôi chẳng cần phải đặt ra. Em xin anh cứ đem việc nước ra hỏi cả họ, cứ nói cho mọi người thấy rõ cái lẽ đất nước lâm nguy kẻ thất phu cũng có trách nhiệm. Sau đó việc cử tướng thì chiểu đúng phép tiến hiền. Chiêu Quốc vương tò mò nhìn anh, hỏi gặng: - Kể cả chức Thượng tướng và chức Tiết chế hay sao? Trần Quang Khải sửng sốt nhìn lại Trần Ích Tắc: - Đã nói tiến hiền thì sao lại còn phân biệt nữa? Trần Ích Tắc im lặng. Đức ông hoàng Năm không tin những sự việc ấy sẽ diễn ra xuôi sẻ như vậy. Chi thứ trả quyền cho chi trưởng, đức ông hoàng Ba nhượng chức Thượng tướng cho một đức ông chi Vạn Kiếp, rồi chức Tiết chế chư quân cũng về tay một người chi trưởng hoặc chi út. Việc nước đang lúc ngổn ngang, quân quyền nắm trong tay hà tất phải đòi ngôi báu mà ngôi báu rớt vào tay cứ như lá thu rụng xuống gốc. Từ một ngách sâu nào đó trong lòng Trần Ích Tắc, một thèm muốn bùng lên rất nhanh thành một khát vọng. Là một trong hai người cột trụ của chi thứ, Trần Ích Tắc phải được trao một trong hai chức Thượng tướng quân và Tiết chế. Trần Ích Tắc khẽ rùng mình. Chinh chiến.. chinh chiến.. trong lúc đất nước nghiêng ngửa ấy, mũi tên ngọn giáo chưa biết sống chết thế nào, nhưng có khi chỉ một mẹo nhỏ mà ngôi báu cũng rơi vào tay hà huống chức Thượng tướng hoặc chức Tiết chế. Trần Ích Tắc chợt thấy mồ hôi chảy buồn buồn dọc lưng. Y vội xua đuổi những ý nghĩ đó đi. Bản tính vốn kiêu sa, tự phụ, Trần Ích Tắc như một vì sao đã sáng nhưng vẫn khát vọng cả cái sáng của những vì sao khác. Và cái nhầm lẫn của y là y có cái sáng của một vì sao nhưng y cứ ngỡ đó là cái sáng và cái đức của vầng mặt trời. - Như vậy, không cần và cũng chẳng nên đặt việc nhượng ngôi ra nữa nhé? Thánh Tông gặng hỏi hai em. Trần Ích Tắc lạnh lùng: - Đấy là nói về chi thứ chúng ta. Nếu đức ông Hưng Đạo, đức ông Tĩnh Quốc cáo ốm không đến Bình Than triều hội thì chính lại do người Vạn Kiếp muốn có việc ấy. Chiêu Minh vương chau mày: - Nếu họ đặt ra, hoặc ta đặt ra cũng đều là cái không hay cho đất nước. Họ Đông A chưa hết phúc, đâu đã đến nỗi ấy. Chiêu Quốc vương biết mình đã quá lời bèn nói lấp liếm cho qua chuyện: - Đó là nói phòng xa thế thôi. Vậy chứ anh hoàng Ba đã nghĩ xong kế đánh giữ rồi chứ? - Không, đó là việc lớn quốc gia, còn phải chờ tất cả vương hầu cùng bàn bạc. Bấy giờ trời đã sáng. Đoàn thuyền đang đi men vùng bãi dâu Tiêu Xá rộng mênh mông. Những vườn dâu cuối mùa loáng thoáng lá già xanh thẫm. Những người con gái đất lề quan họ len lỏi giữa các luống, cố hái cho đủ lá nuôi lứa tằm muộn cuối năm. Hai cánh đồng, người gặt, người gánh lúa về các thôn làng thấp thoáng sau những lũy tre xanh. Trần Thánh Tông cùng hai em và con ra mũi thuyền ngắm cảnh. Vốn là người có hồn thơ phong phú, Thượng hoàng khuây dần nỗi ưu tư. Vẻ mặt người dần tươi tỉnh. Gần trưa, quang cảnh ven sông nhộn nhịp hơn. Đã gần tới Bình Than. Từ trên mũi thuyền Long Phụng vua tôi nhìn thấy những người lính thông hiệu phi ngựa như bay. Những trạm nêu kéo cờ hiệu "Vua đến" để truyền tin về Vạn Kiếp. Hai bên sông nhân dân trăm họ kéo nhau lên đê cao xem hai vua ngự giá sang đông. Tiếng reo hò chúc tụng vang dội. Trăm họ vừa được loa truyền báo cho biết tin hai vua qua thăm phủ An Bang để lễ tổ ở Vạn Kiếp và vãn cảnh chùa Yên Tử mới trùng tu xong. Cách Bình Than năm dặm sông, đoàn thuyền vua gặp đoàn thuyền của chi Vạn Kiếp đi đón giá. Tiếng pháo mừng nổ liên hồi, tiếng trống đồng trầm hùng, tiếng quân tướng hò reo làm náo động cảnh sông. Người ta thấy đứng trên mũi thuyền đi đầu có đức ông Hưng Đạo mặc áo tía chống một cây gậy nom như một ông tiên. Sau Hưng Đạo vương là Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật vóc dáng thanh mảnh như một văn nhân tài tử. Trên các mũi thuyền đi sau thấy đủ mặt các đức ông chi Vạn Kiếp. Hai đoàn thuyền nhập làm một cùng thuận nước xuôi về Bình Than. Đó là vùng sáu đầu sông vờn hòn châu mà sử sách ngàn đời đã và sẽ chép bằng những chữ vàng về hào khí Việt Nam thời Đông A.