Chuyên đề: Người lái đò Sông Đà Nguyễn Tuân Lời mở: Xin chào tất cả các em học sinh đặc biệt là các bạn học sinh 2k6 sắp thi THPTQG. Chị làm bài viết này với mong muốn chia sẻ các kiến thức về bài tùy bút "Người lái đò Sông Đà" của tác giả Nguyễn tuân cho các em. Các em cũng lưu ý giúp chị là những phần như mở bài, kết bài, tác giả, tác phẩm, khái quát là những phần cố định nên chị sẽ chỉ viết một lần ở phần tìm hiểu chung tác phẩm. Con ở phần luyện đề chị sẽ chỉ tập trung vào giải quyết yêu cầu đề bài thôi chứ không viết lại các phần kia nữa để tránh lặp lại quá nhiều. Chị cũng khuyên là các em nên học thuộc các phần này luôn bởi những phần này đề nào cũng cần và chiếm đến khoảng 0, 75 điểm. Chị mong rằng sẽ cung cấp được kiến thức hữu ích cho các em. Chúc cho tất cả các bạn học tập thật tốt và thi đạt điểm cao. A-Tìm hiểu chung tác phẩm 1. Mở bài Trong những năm sau ngày giải phóng miền Bắc, nhà nước ta phát động phong trào đi đến những miền đất mới để khai hóa kiến thiết phát triển đất nước. Hoạt động này đã nhận được sự tham gia sôi nổi của người dân. Trong đó, mảnh đất Tây Bắc thơ mộng, trữ tình đã thu hút bước chân của rất nhiều người đặc biệt là các văn nghệ sĩ. Nếu như "Mùa lạc" của Nguyễn Khải cho thấy sự hồi sinh của con người cũng như của đất nước sau chiến tranh thì tùy bút "Người lái đò Sông Đà" của Nguyễn Tuân lại khám phá tìm ra "chất vàng" qua vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc và "chất vàng mười" qua vẻ đẹp con người Tây Bắc. (Nêu vấn đề nghị luận) 2. Giới thiệu tác giả, tác phẩm Nguyễn Tuân (1910-1987) sinh ra trong một gia đình nhà nho khi hán học đã tàn. Ông quê ở Hà Nội. Nguyễn Tuân là nhà văn lớn, là người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp có đóng góp không nhỏ cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân độc đáo, tài hoa, uyên bác. Ông luôn muốn khai thác kho cảm giác và liên tưởng để tìm ra những từ ngữ xác đáng, có khả năng lay động người đọc nhất. Nguyễn Tuân có công trong việc thúc đẩy thể tùy bút, bút kí đạt đến trình độ nghệ thuật cao. Năm 1966, ông nhận giải thưởng về văn học nghệ thuật. "Người lái đò Sông Đà" trích trong tùy bút "Sông Đà" xuất bản năm 1960. Tác phẩm là thành quả lao động đẹp đẽ trong chuyến đi gian khổ mà cũng đầy hào hứng đến vùng núi Tây Bắc không chỉ để thỏa mãn khát khao "xê dịch" mà còn để tìm kiếm "chất vàng" của thiên nhiên Tây Bắc và "chất vàng mười" trong con người Tây Bắc 3. Khái quát Sông Đà bắt nguồn từ tỉnh Vân Nam Trung Quốc nhập tịch vào Việt Nam ở Lai Châu nhập vào sông hồng ở Phú Thọ. Sông đà có tổng chiều dài 900 km trong đó đoạn ở Việt Nam dài 500km. Đã từ lâu Sông Đà được đánh giá là nguồn tiềm năng thủy điện lớn của đất nước. Từ dòng sông vô tri trên bản đồ địa lý đã được thổi hồn trở thành một sinh thể có diện mạo, tính cách qua trang văn của Nguyễn Tuân. Lời đề từ câu đầu tiên: "Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông" Câu thơ nổi tiếng của nhà thơ Ba Lan. Câu thơ như một câu hát của con người khi chèo thuyền lái đò. Câu thơ cho thấy niềm lạc quan, yêu đời, yêu thiên nhiên, lao động, yêu con người cũng thể hiện tư thế hiên ngang của con người làm chủ thiên nhiên trước cuộc sống mới. Câu thơ thứ hai: "Chúng thủy giai Đông tẩu đà Giang độc Bắc lưu" Mượn câu thơ của nhà thơ Nguyễn Quang Bích Nguyễn Tuân hé mở cho người đọc vì sao lại gắn bó với sông đà mọi dòng sông đều chảy về hướng đông chỉ có Sông Đà chảy theo hướng bắc. Câu thơ nói lên sự độc đáo của Sông Đà cũng cho thấy cá tính nghệ thuật của Nguyễn tuân-nhà văn với những cảnh đẹp tuyệt mĩ cảm giác mãnh liệt. 4. Kết bài "Người lái đò Sông Đà" là một áng văn đẹp thể hiện những nét đặc sắc nhất trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân, một nhà văn tài hoa, uyên bác luôn gắn bó, sát cánh, khám phá, diễn tả thế giới ở phương diện văn hóa, thẩm mỹ miêu tả con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Tác phẩm không chỉ ca ngợi vẻ đẹp kỳ vĩ của thiên nhiên Tây Bắc mà còn ca ngợi vẻ đẹp bình dị, anh hùng mà tài hoa của con người dân lao động nơi đây. Qua đó, nhà văn bộc lộ tình yêu đất nước, niềm tin, tự hào, hứng khởi gắn bó tha thiết với non sông Việt.
Đề 1: Phân tích đoạn văn sau "Hùng vĩ của Sông Đà.. bung thuyền ra" Bấm để xem I-Mở bài II-Thân bài A. Khái quát B. Tác giả, tác phẩm C. Phân tích Sự hung bạo của Sông Đà ở đoạn đá dựng vách thành. Hình ảnh mặt sông lúc ấy "chỉ đúng lúc ngọ mới có mặt trời" đã gợi lại độ cao của hai bên bờ sông và gợi tả sự lạnh lẽo, âm u của khúc sông. Hình ảnh so sánh có "vách đá chẹt Sông Đà như một cái yết hầu" càng gợi ra sự nhỏ hẹp của dòng sông với lưu tốc rất lớn nhất là vào mùa lũ. Hai hình ảnh liên tưởng "đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách", "có quãng con nai con hổ đã có lần bò từ bờ này sang bờ kia" cho thấy những nguy hiểm, tiềm ẩn của Sông Đà. Bằng liên tưởng độc đáo Nguyễn Tuân tiếp tục khắc sâu thêm về độ cao, cái âm u, lạnh lẽo của Sông Đà "ngồi trong khoang đò.. phụt đèn điện". Tác giả tạo ra ấn tượng về thị giác khi lấy hè phố tạo mặt sông lấy nhà cao gợi ra vách đá. Đoạn đi từ ngoài sông vào đoạn "đá dựng vách thành" được miêu tả như đứng giữa ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng thứ mấy vừa tắt phụt đèn điện gợi độ cao thăm thẳm, chiều sâu hun hút, choáng ngợp cảm giác rợn người. Câu văn cho thấy sự độc đáo trong nghệ thuật của Nguyễn Tuân dùng khoảng khắc thị thành để miêu tả cảm giác khi đứng giữa thiên nhiên hoang sơ. Từ "chẹt", liên tưởng phong phú sử dụng liên tiếp các chi tiết đã tạo ấn tượng sâu sắc về độ hẹp của lòng sông. Sự hung bạo của Sông Đà ở ghềnh đá quãng "mặt ghềnh hát Lóong" chỉ với hai câu văn nhưng kết hợp nhiều biện pháp nghệ thuật. Nhân hóa Sông Đà như một kẻ đòi nợ thuê dữ dằn, gắt gao "ghùn ghè" suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt. Vô lý khi đòi nợ bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy. Tàn bạo đời trả bằng tính mạng. Nghệ thuật điệp "nước xô đá", "đá xô sóng", "sóng xô gió" thanh trắc liên tiếp tạo lên âm hưởng dữ dội, nhịp điệu dồn dập. Sự kết hợp sức xô đẩy của cả sóng, gió, đá khiến cả dòng sông như sôi trào, cuồng lộ mang sức mạnh khủng khiếp đe dọa, uy hiếp con người. Sự phối hợp nhịp ngắn nhịp dài theo lối tăng tiến. Sự chuyển động của sóng, gió, đá ngày càng lớn trở thành mối đe dọa thực sự nhỡ khinh xuất tay lái dễ lật ngửa bụng thuyền ra. Với sự vận dụng các biện pháp nghệ thuật so sánh, liên tưởng, điệp, nhân hóa kết hợp tài năng trong sử dụng ngôn từ xây dựng hình ảnh biến con Sông Đà thành sinh thể sống có tâm hồn, tính cách, con sông hiếu chiến, ngang ngược, hung hãn, nham hiểm. Vận dụng nhiều giác quan và vốn tri thức giàu có. Từ việc đem đến cho người đọc bộ mặt hung hãn phản ứng dữ dội của Sông Đà đoạn trích đã bộc lộ tài năng trong việc sử dụng ngôn từ của Nguyễn Tuân. Viết về sông đà, Nguyễn Tuân có dịp được khua tay múa chân tạo nên những nét vẽ gân guốc khắc họa sự khắc khoải, ồ ạt, mãnh liệt. Cũng có lúc tác giả được dịp thả hồn mình vào dòng sông để tâm hồn được tự do bay bổng trôi dạt giữa thiên nhiên hoang sơ. Hai trạng thái cảm xúc của Nguyễn Tuân chính là hai cá tính trái ngược của Sông Đà. Một đà Giang vừa hùng vĩ, tráng lệ mà cũng lại là thơ mộng, trữ tình. Đặc biệt trong đoạn trích đã làm nổi bật với vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội nhưng "trong xâu có đẹp" Nguyễn Tuân gợi nhắc đến khả năng thủy điện lớn lao của dòng sông. Tôn vinh ca ngợi con người trên phông nền thiên nhiên. Công cuộc chinh phục thiên nhiên của con người lao động khiến thiên nhiên trở thành công cụ hữu ích mang lại lợi ích cho cuộc sống con người. Đó chính là vai trò quan trọng của Sông Đà trong việc xây dựng nhà máy thủy điện ở nước ta. Tác phẩm đã thành công đạt được mong muốn của Nguyễn Tuân tìm ra, khám phá được "chất vàng" qua vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc. III-Kết bài
Đề 2: Phân tích đoạn văn "Lại như quãng Tà Mường Vát.. đánh phèn" để thấy được vẻ hung bạo, dữ tợn của dòng Sông Đà ở quãng Tà Mường Vát Bấm để xem I-Mở bài II-Thân bài A. Tác giả, tác phẩm B. Khái quát C. Phân tích Nguyễn Tuân tập trung vào miêu tả cái hút nước và vẻ đẹp độc đáo của dòng sông. Tác giả miêu tả sự hung hãn, nhan hiểm, độc ác của Sông Đà thông qua sử dụng những tri thức thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau giao thông vận tải, xây dựng kiến trúc, điện ảnh.. Được tái hiện từ các góc nhìn khác nhau trước hết từ trên cao nhìn xuống giống như cái giếng bê tông chuẩn bị làm móng cầu-khổng lồ. Từ dưới Sông Đà nhìn ngược lên giống thành được xây toàn bằng nước sông Xanh ve như khối thủy tinh đúc dày hay khối pha lê xanh. Tác giả cảm nhận các vị thế trải nghiệm khác nhau người quay phim khi được ngồi vào thuyền thúng tròn vành xuống đáy cái hố nước sâu đầy dũng cảm, táo tợn. Người xem phim đầy gân ngồi giữ chặt ghế như đang lên gân tì lấy mép chiếc lá rừng vứt vào một xoáy nước trong một chiếc cốc pha lê khổng lồ. Mỗi vai trò được cảm nhận các giác quan khác nhau thị giác được nhìn thấy những khối thủy tinh dày, pha lê xanh. Thính giác nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào, "nước thở và kêu như cửa cổng cái bị sặc" với cường lực ghê gớm. Để vượt qua những khúc sông có xoáy nước không thuyền nào dám men gần phải trèo nhanh để lướt qua quãng sông như ô tô sang số nhấn ga để vượt qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Hậu quả khủng khiếp khi không may rơi vào những cái xoáy nước bé gỗ rừng nghênh ngang vô ý bị lôi tụt xuống. Có những cái thuyền bị hút xuống thuyền trồng cây chuối ngược vụt biến đi bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông khoảng mươi phút tan xác ở khuỷa sông dưới. Những liên tưởng, tưởng tượng thú vị, độc đáo. Nguyễn Tuân đã đem đến cho người đọc những thước phim cận cảnh, chi tiết, từ hình dáng, màu sắc từ bộ mặt nham hiểm, hung hãn khiến người đọc hình dung sự ghê gớm, nhan hiểm của những hút nước trên Sông Đà. Chúng giống như những con thuồng luồng thủy quái lúc thì như cái vòi rồng trong trận cuồng phong khi thì như cái cối xay thịt khổng lồ giữa núi rừng Tây Bắc. Qua cái nhìn của Nguyễn Tuân Sông Đà không còn là con sông vô tri, vô giác mà trở thành con sông có linh hồn, có cá tính vừa là một công trình kiến trúc tuyệt vời mà tạo hóa dành riêng cho mảnh đất Tây Bắc vừa là một sinh thể sống gần gũi, gắn bó với mảnh đất và con người nơi đây. Băng thể tùy bút phóng túng, vốn kiến thức phong phú, đa dạng. Tác giả đã khám phá vẻ đẹp của dòng sông ở góc độ địa lý nhưng đậm chất văn chương. Quan sát tỉ mỉ, liên tưởng, tưởng tượng phong phú, ngôn ngữ tài hoa giàu chất tạo hình. Câu văn đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu khi gân guốc khi lại chậm rãi. Đó chính là sự kết hợp phong cách nghệ thuật đặc trưng của Nguyễn Tuân tài hoa, uyên bác. Viết về Sông Đà, Nguyễn Tuân có dịp được khua tay múa chân tạo nên những nét vẽ gân guốc khắc họa sự khắc khoải, ồ ạt, mãnh liệt. Cũng có lúc tác giả được dịp thả hồn mình vào dòng sông để tâm hồn được tự do bay bổng trôi dạt giữa thiên nhiên hoang sơ. Hai trạng thái cảm xúc của Nguyễn Tuân chính là hai cá tính trái ngược của Sông Đà. Một đà Giang vừa hùng vĩ, tráng lệ mà cũng lại là thơ mộng, trữ tình. Đặc biệt trong đoạn trích đã làm nổi bật với vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội nhưng "trong xâu có đẹp" Nguyễn Tuân gợi nhắc đến khả năng thủy điện lớn lao của dòng sông. Tôn vinh ca ngợi con người trên phông nền thiên nhiên. Công cuộc chinh phục thiên nhiên của con người lao động khiến thiên nhiên trở thành công cụ hữu ích mang lại lợi ích cho cuộc sống con người. Đó chính là vai trò quan trọng của Sông Đà trong việc xây dựng nhà máy thủy điện ở nước ta. Tác phẩm đã thành công đạt được mong muốn của Nguyễn Tuân tìm ra, khám phá được "chất vàng" qua vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc. III-Kết bài
Đề 3: Phân tích đoạn văn sau "Còn xa lắm mới đến cái thác dưới.. phá xong trùng vi thạch trận vòng thứ nhất" Bấm để xem I-Mở bài II-Thân bài A. Tác giả, tác phẩm B. Khái quát C. Phân tích Nguyễn Tuân tập trung miêu tả cuộc chiến của ông lái đò với sóng thác nguy nga, thạch trận nguy hiểm trên Sông Đà. Qua đó, người đọc thấy rõ bộ mặt nham hiểum của dòng Sông Đà. Đồng thời cũng thấy được vẻ đẹp của sức mạnh lao động của con người Tây Bắc. Từ đoạn sông đầu tiên tiềm ẩn nguy hiểm mối đe dọa cho con người mang lại những hậu quả khủng khiếp. Đặc biệt thể hiện ở trận địa thác đá. Dấu hiệu đầu tiên là âm thanh tiếng nước thác. Âm thanh phóng phú lúc thì như oán trách, lúc thì như van xin, lúc thì như khiêu khích giọng gằn là chế nhạo. Đặc biệt, thanh âm "rống lên" là sự cộng hưởng của tiếng gầm thét của một đàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng lửa để thoát thân cùng với tiếng nổ lửa của rừng vầu, rừng tre nứa đang phá tuông rừng lửa. Từ chỉ số nhiều "một nghìn", "rừng" gây ấn tượng mạnh về sự cộng hưởng của âm thanh. Cách miêu tả khiến ta nhớ đến câu thơ "Chiều chiều oai linh thác gầm thét" trong bài thơ "Tây Tiến" của nhà văn Quang Dũng. Tiếng thác nước đã trở thành nỗi ám ảnh gây ra những khó khăn cho người lính Tây Tiến. Câu văn dài vế câu liên tiếp lấn lướt dàn đuổi. Trận địa thác đá mở ra với ba trùng vi thạch trận. Trong đó trùng vi thạch trận thứ nhất "cả một chân trời đá" mai phục từ nghìn năm, tạo thành bày thạch tinh nhan hiểm. Trong trùng vi thạch trận thứ nhất đá phủ trắng xóa cả bốn chân trời. Từ ngàn năm đã mai phục hết trong lòng sâu "Hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu nảy, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy chúng". Nhân hóa lính thủy mặt "ngỗ ngược", "nhăn nhúm", "méo mó" được Sông Đà giao việc bày binh, bố trận theo binh pháp Tôn Tử chia thành năm cửa trận, bốn cửa tử và một cửa sinh. Cửa sinh chia làm 3 vệ, hàng tiền vệ "có 2 hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở nhưng chính hai đứa giữ vai trò rủ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa". Hàng trung vệ, nước sóng luồng mới đánh khuýp quật vu hồi lại. Hậu vệ, boong ke chìm và pháo đài đá lội phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên. Trong trùng vi thạch trận thứ nhất đá có nhiệm vụ tiêu diệt tất cả thuyền trưởng, thủy thủ ở dưới chân thác. Còn hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên trước khi giao chiến, rồi lại lùi lại một chút thách thức cái thuyền có giỏi thì vào đây. Nước thác cũng là kẻ thù đáng gờm phối hợp reo hò làm thanh viện cho đá, uy hiếp tinh thần những người lái đò. Ùa vào để bẻ gãy cán chèo võ khí trong tay ông đò như thể quân liều mạng và áp sát nách mà đá trái mà thuốc gối vào bụng và hông thuyền có lúc đội cả thuyền nên, túm lấy thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra như đô vật, hò la vang dậy "thanh la não bạt". Cả luồng nước vô sở bất chí lao vào bóp chặt hạ bộ người lái đò để mau chóng kết thúc cuộc chiến. Từ sự hung bạo của Sông Đà trong trùng vi thạch trận thứ nhất đã bộc lộ tài năng của con người lao động Tây Bắc-người lái đò Sông Đà. Nhân vật được Nguyễn Tuân gọi là người lái đò Sông Đà hay người lái đò Lai Châu. Cái tên đã cho thấy địa danh sinh sống, nơi làm việc, nghề nghiệp cụ thể. Ông lái đò làm nghề chèo đò suốt dọc Sông Đà 10 năm liền không có tên riêng ngụ ý khẳng định không chỉ có duy nhất một ông lái đò phi phàm xuất chúng mà đây là một đại diện tiêu biểu cho vô số "chất vàng mười" đang chiếu sáng lấp lánh ở vùng đất Tây Bắc. Chân dung ông lái đò in đậm dấu ấn nghề nghiệp. Tay lêu nghêu như cái sào. Chân khuỳnh khuỳnh gò lại như đang kẹp lấy một cái cuống lái trong tưởng tượng. Giọng nói "ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sóng". Nhỡn giới vời vợi như lúc nào cũng mong tìm một cái bến xa nào đó trong sương mù. Cái đầu bạc quắc thước đặt trên thân hình gọn quánh là chất sừng, chất mùn. Ngực vú, bả vai bầm lên một khoanh củi nâu vết thương nghề nghiệp do đầu sào gửi lại thứ huân chương lao động siêu hạng. Ông lái đò sở hữu ngoại hình trẻ tráng dù đã ngoài 70. Thứ ngoại hình sinh ra từ thứ sông nước dữ dội, hiểm trở. Bức chân dung cho thấy sự gắn bó với nghề chèo đò xuôi ngược trên sông đà hơn 100 lần, chính tay ông cầm lái khoảng hơn 60 lần, gắn bó hơn 10 năm trời. Người lái đò toát nên vẻ đẹp trí dũng qua cuộc chiến đấu với Sông Đà hung bạo. Tương quan lực lượng giữa Sông Đà-thiên nhiên hoang sơ đá nước sức mạnh vô song, hung dữ, bạo liệt là người lái đò Sông Đà; con người nhỏ bé chiếc thuyền con ém đơn độc vũ khí chỉ là những chiếc cán chèo. Nguyễn Tuân tạo lên một cuộc chiến không cân sức để tôn vinh vẻ đẹp hào hùng của con người trong công cuộc chinh phục tự nhiên. Trong cuộc vượt thác lần một "khi thạch trận dàn bày vừa xong người lái đò vừa tới". Với tư thế hiên ngang chủ động. Ông lái đò hai tay giữ mái chèo để khỏi bị hất lên bởi sóng trận địa phóng thẳng vào mình vững vàng để đối chọi, chống cự với luồng nước dữ. Khi trúng thương mặt méo xệch đi vì đau đớn vẫn cầm lái chỉ huy ngắn gọn, tỉnh táo, cô nén vết thương. Nhờ vậy mà đã phá xong trùng vi thạch trận thứ nhất nổi bật sự dũng cảm, kiên cường. Nghệ thuật xây dựng hình tượng Sông Đà, tài hoa, uyên bác khi đã vận dụng tri thức của nhiều lĩnh vực của nhiều ngành khoa học: Lịch sử, địa lý, quân sự, võ thuật.. Sông Đà hiện lên sống động, gây ấn tượng mạnh với người lái đò. Thể hiện tài năng điều khiển của bậc thầy ngôn từ, vị tướng tài ba chỉ huy đội quân Việt ngữ phát huy tối đa tài năng ngôn từ của Nguyễn Tuân. Tập trung tô đậm chất tài hoa nghệ sĩ ở nhân vật phù hợp với quan niệm mới rộng mở của nhà văn về phẩm chất tài hoa nghệ sĩ. Tạo nên tình huống đầy thử thách để nhân vật có cơ hội bộc lộ, phát huy hết vẻ đẹp của mình. Ngôn ngữ miêu tả cá tính, giàu chất tạo hình tái hiện kì tích của con người. Xây dựng hình tượng nhân vật độc đáo, người phu chữ tài ba Nguyễn Tuân như được buông xả hết thấy vẻ đẹp ngôn từ khi đặc tả hình tượng người lái đò Sông Đà vô cùng táo bạo. Ông đò hiện lên vừa mang hình tượng giản dị vừa kì vĩ. Hai vẻ đẹp tưởng chừng như đối lập nhưng lại thống nhất bổ sung cho nhau. Người lái đò vốn là dân lao động trên Sông Đà vừa kiếm sống mưu sinh, vừa chinh phục đam mê và khát khao mạo hiểm và cũng vừa là tay cầm mái chèo lao động vừa là "tay lái ra hoa". Những vẻ đẹp ấy bổ sung cho nhau càng làm lấp lánh vẻ đẹp ông lái đò. III-Kết bài
Đề 4: Phân tích đoạn văn sau: "Không một phút nghỉ tay, nghỉ mắt.. trúng vào cửa sinh nó trấn lấy" Bấm để xem I-Mở bài II-Thân bài A. Tác giả, tác phẩm B. Khái quát C. Phân tích Qua đến trùng vi thạch trận thứ hai đá đã gia tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền và cũng chỉ có một cửa sinh. Có thằng đá tướng đứng chiến ở giữa. Nước thác như "Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên Sông Đà". Bốn năm bọn thủy quân của ải nước bên bờ trái lao ra níu con thuyền bơi vào tập đoàn cửa tử. Từ sự hung bạo của Sông Đà trong trùng vi thạch trận thứ nhất đã bộc lộ tài năng của con người lao động Tây Bắc-người lái đò Sông Đà. Nhân vật được Nguyễn Tuân gọi là người lái đò Sông Đà hay người lái đò Lai Châu. Cái tên đã cho thấy địa danh sinh sống, nơi làm việc, nghề nghiệp cụ thể. Ông lái đò làm nghề chèo đò suốt dọc Sông Đà 10 năm liền không có tên riêng ngụ ý khẳng định không chỉ có duy nhất một ông lái đò phi phàm xuất chúng mà đây là một đại diện tiêu biểu cho vô số "chất vàng mười" đang chiếu sáng lấp lánh ở vùng đất Tây Bắc. Chân dung ông lái đò in đậm dấu ấn nghề nghiệp. Tay lêu nghêu như cái sào. Chân khuỳnh khuỳnh gò lại như đang kẹp lấy một cái cuống lái trong tưởng tượng. Giọng nói "ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sóng". Nhỡn giới vời vợi như lúc nào cũng mong tìm một cái bến xa nào đó trong sương mù. Cái đầu bạc quắc thước đặt trên thân hình gọn quánh là chất sừng, chất mùn. Ngực vú, bả vai bầm lên một khoanh củi nâu vết thương nghề nghiệp do đầu sào gửi lại thứ huân chương lao động siêu hạng. Ông lái đò sở hữu ngoại hình trai tráng dù đã ngoài 70. Thứ ngoại hình sinh ra từ thứ sông nước dữ dội, hiểm trở. Bức chân dung cho thấy sự gắn bó với nghề chèo đò xuôi ngược trên sông đà hơn 100 lần, chính tay ông cầm lái khoảng hơn 60 lần, gắn bó hơn 10 năm trời. Sau khi phá xong chúng vi thạch trận thứ nhất, "không một phút nghỉ tay nghỉ mắt phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật" ông lái đò linh hoạt ứng phó. Trước dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên Sông Đà, ông đò cưỡi lên thác như cưỡi trên lưng hổ ghì cương, lái miết về phía cửa sinh. Sau khi bám chắc luồng nước đúng với động tác chính xác, nhanh, mạnh. Khi bọn thủy quân của cửa ải nước bên bờ trái lao ra, người đòi nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá vẫn nhớ mặt bọn này, linh hoạt ứng phó "đứa thì ông tránh rảo bơi chèo", "đứa thì ông đèo sấn lên, chặt đôi ra mở đường tiến". Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền khiến thằng đá tướng phải tiu nghỉu cái mặt xanh lè vì thất vọng. Trùng vi thạch trận thứ hai kết thúc ông lái đò nổi bật với vẻ trí tuệ, dũng cảm. Nghệ thuật xây dựng hình tượng Sông Đà, tài hoa, uyên bác khi đã vận dụng tri thức của nhiều lĩnh vực của nhiều ngành khoa học: Lịch sử, địa lý, quân sự, võ thuật.. Sông Đà hiện lên sống động, gây ấn tượng mạnh với người lái đò. Thể hiện tài năng điều khiển của bậc thầy ngôn từ, vị tướng tài ba chỉ huy đội quân Việt ngữ phát huy tối đa tài năng ngôn từ của Nguyễn Tuân. Tập trung tô đậm chất tài hoa nghệ sĩ ở nhân vật phù hợp với quan niệm mới rộng mở của nhà văn về phẩm chất tài hoa nghệ sĩ. Tạo nên tình huống đầy thử thách để nhân vật có cơ hội bộc lộ, phát huy hết vẻ đẹp của mình. Ngôn ngữ miêu tả cá tính, giàu chất tạo hình tái hiện kì tích của con người. Xây dựng hình tượng nhân vật độc đáo, người phu chữ tài ba Nguyễn Tuân như được bung xõa hết thảy vẻ đẹp ngôn từ khi đặc tả hình tượng người lái đò Sông Đà vô cùng táo bạo. Ông đò hiện lên vừa mang hình tượng giản dị vừa kỳ vĩ. Hai vẻ đẹp tưởng chừng như đối lập nhưng lại thống nhất bổ sung cho nhau. Người lái đò vừa là dân lao động trên Sông Đà vừa kiếm sống mưu sinh, vừa chinh phục đam mê và khát khao mạo hiểm và cũng vừa là tay cầm lái chèo lao động vừa là "tay lái ra hoa". Những vẻ đẹp ấy bổ sung cho nhau càng làm lấp lánh vẻ đẹp ông lái đò. Ngoài ra, cái tôi tài hoa yên bác cho phép ngòi bút Nguyễn Tuân khắc tạo hình tượng trên một cách đầy thành công để rồi góp phần khẳng định nghệ thuật xây dựng nhân vật sắc sảo của nhà văn. Từ những tư tưởng và tài năng ấy góp phần ngợi ca vẻ đẹp trí dũng, tài hoa của người lái đò. Phải chăng, cái tài hoa của người lái đò và cái tài hoa của Nguyễn Tuân đã gặp nhau tạo lên chất nghệ sĩ trên trang văn để rồi chất vàng trong vẻ đẹp thơ mộng, hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc cúng "chất vàng mười" quý giá trong tâm hồn con người bình dị nơi đây hòa chung như một phép cộng hưởng cùng ngọn lửa truyền thống và tình yêu quê hương, đất nước bùng cháy mãnh liệt vào tương lai. Tác phẩm cũng cho ta thấy được một diện mạo mới mẻ của nhà văn Nguyễn Tuân, khát khao được hòa nhịp với đất nước và con người này, không giống với Nguyễn Tuân trước cách mạng tháng tám con người chỉ muốn "xê dịch" cho khuây cảm giác nhớ quê hương. III-Kết bài
Đề 5: Phân tích đoạn văn "Còn một trùng vây thứ ba nữa.. Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo" Bấm để xem I-Mở bài II-Thân bài A. Tác giả, tác phẩm B. Khái quát C. Phân tích Đến trùng vi thạch trận thứ ba, dòng thác càng trở lên điên cuồng, dữ dội bên phải bên trái đều là cửa tử ít cửa ra vào hơn. Luồng sinh nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ to lớn, chắc khỏe, vững chãi. Sông Đà hiện lên như một con thủy quái hung tợn, mang sức mạnh vô song sự tích tụ hàng nghìn năm sức mạnh hoang sơ bản năng của thiên nhiên cùng nỗi đau của tình yêu chưa bao giờ nguôi ngoai của nhân vật thủy sinh trong thần thoại "Núi cao sông hãy còn dài-Năm năm báo oán đời đời đánh ghen". Tác giả đã ẩn ý về tiềm năng thủy điện của Sông Đà. Từ sự hung bạo của Sông Đà trong trùng vi thạch trận thứ nhất đã bộc lộ tài năng của con người lao động Tây Bắc-người lái đò Sông Đà. Nhân vật được Nguyễn Tuân gọi là người lái đò Sông Đà hay người lái đò Lai Châu. Cái tên đã cho thấy địa danh sinh sống, nơi làm việc, nghề nghiệp cụ thể. Ông lái đò làm nghề chèo đò suốt dọc Sông Đà 10 năm liền không có tên riêng ngụ ý khẳng định không chỉ có duy nhất một ông lái đò phi phàm xuất chúng mà đây là một đại diện tiêu biểu cho vô số "chất vàng mười" đang chiếu sáng lấp lánh ở vùng đất Tây Bắc. Chân dung ông lái đò in đậm dấu ấn nghề nghiệp. Tay lêu nghêu như cái sào. Chân khuỳnh khuỳnh gò lại như đang kẹp lấy một cái cuống lái trong tưởng tượng. Giọng nói "ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sóng". Nhỡn giới vời vợi như lúc nào cũng mong tìm một cái bến xa nào đó trong sương mù. Cái đầu bạc quắc thước đặt trên thân hình gọn quánh là chất sừng, chất mùn. Ngực vú, bả vai bầm lên một khoanh củi nâu vết thương nghề nghiệp do đầu sào gửi lại thứ huân chương lao động siêu hạng. Ông lái đò sở hữu ngoại hình trai tráng dù đã ngoài 70. Thứ ngoại hình sinh ra từ thứ sông nước dữ dội, hiểm trở. Bức chân dung cho thấy sự gắn bó với nghề chèo đò xuôi ngược trên sông đà hơn 100 lần, chính tay ông cầm lái khoảng hơn 60 lần, gắn bó hơn 10 năm trời Người lái đò sông đà chứng tỏ tài nghệ chèo đò tuyệt vời. Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được. "Thế là hết thác" câu văn như một tiếng thở phào nhẹ nhõm khi ông lái đó đã bỏ được hết ghềnh thác lại sau lưng. Trùng vi thạch trận thứ ba ông lái đò toát lên chất tài hoa nghệ sĩ. Tài hoa khi đã đến sự thuần thục, điêu luyện trong công việc. Người lái đò Sông Đà có thể vượt thác dữ, vượt qua hết lớp đá này đến lớp đá khác do đã làm công việc này được mười năm nắm rõ binh pháp trận địa của thần sông, thần đá. Sông Đà như một bạn trường thiên anh hùng ca mà ông lái đò đã thuộc từng dấu chấm than, dấu chấm câu, đoạn xuống dòng. Chất nghệ sĩ biểu diễn màn đưa con thuyền vượt thác trong ba trùng vi thạch trận. Đặc biệt ở lớp thứ ba con thuyền phóng thẳng như một mũi tên tre như một màn trình diễn hoàn hảo, cảm xúc, đẹp mắt trong từng chi tiết. Phong thái nghệ sĩ ở cách người lái đò Sông Đà nhìn nhận về công việc của mình một cách bình thản "đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán thề cá anh vũ cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cả túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải ñược đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi". Tô đậm vẻ đẹp ung dung của người nghệ sĩ nhìn những khó khăn đã qua bằng cái nhìn đơn giản không hề có sự phô trương, tán dương về những thành quả đã đạt được. Nghệ thuật xây dựng hình tượng tài hoa, uyên bác vận dụng tri thức của nhiều lĩnh vực của nhiều ngành khoa học lịch sử, địa lý, quân sự, võ thuật, điện ảnh.. Sông Đà hiện lên sống động, gây ấn tượng mạnh với người đọc. Thể hiện tài năng điêu luyện của một bậc thầy ngôn từ, vị tướng tài ba chỉ huy đội quân Việt ngữ phát huy tối đa khả năng ngôn từ của Nguyễn Tuân. Tập trung tô đậm chất tài hoa nghệ sĩ ở nhân vật phù hợp với quan niệm, với cách nhìn rộng mở của nhà văn về phẩm chất tài hoa nghệ sĩ. Tạo nên tình huống đầy thử thách để nhân vật có cơ hội bộc lộ phát huy hết vẻ đẹp của mình các trùng vi thạch trận huy động tri thức của rất nhiều lĩnh vực. Ngôn ngữ miêu tả cá tính, giàu chất tạo hình tái hiện kỳ tích của con người. Trong bút kí "Ai đã đặt tên cho dòng sông" của Hoàng Phủ Ngọc Tường, tác giả đã thấu hiểu hết những nét tính cách của sông Hương trên các chặng đường di chuyển cùng với sự am hiểu dòng sông trên các lĩnh vực. Đó là kết tinh từ sự kỳ công trong khám phá, tinh tế trong cảm nhận xuất phát từ tình yêu sông hương yêu mảnh đất xứ Huế tha thiết nồng đượm của nhà văn. Còn trong tùy bút "Người lái đò Sông Đà", Nguyễn Tuân đã khắc họa hình tượng ông lái đò vừa là một người lao động bình dị vừa là một người nghệ sĩ tài hoa. Sở dĩ ông lái đò tài hoa, mưu trí đến vậy không đơn giản chỉ là do tính yêu Đà giang mãnh liệt mà còn bởi vì ông đã gắn bó với Sông Đà được hơn mười năm xuôi ngược trên sông khoảng trăm lần. Ông đã nắm rõ hết binh pháp của thần sông nên linh hoạt ứng phó. Sự thuần phục dòng sông của ông lái đò hay chính nhà văn đến từ kinh nghiệm, trải nghiệm sâu sắc nhiều lần xuôi ngược trên sông từ đó kết tinh nên một tình yêu mãnh liệt dành cho dòng sông xứ sở, cũng là tình yêu niềm tự hào về quê hương đất nước. Vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ của ông lái đò khiến ta liên tưởng tới vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm "Chữ người tử tù". Thế nhưng, nếu như trong các tác phẩm trước Cách mạng Nguyễn Tuân mải mê đi tìm cái đẹp, tìm những con người tài hoa, xuất chúng trong quá khứ "Vang bóng một thời" thì giờ đây ông đã tìm thấy được vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ ở ngay trong những con người lao động bình dị, trong chính cuộc sống thường ngày của họ. III-Kết bài
Đề 6: Phân tích đoạn văn sau: "Tôi có bay tạt ngang.. bản đồ lai chữ" để thấy được vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của dòng Sông Đà Bấm để xem I-Mở bài II-Thân bài A. Tác giả, tác phẩm B. Khái quát C. Phân tích Vẻ đẹp trữ tình của Sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả từ trên cao với cái nhìn khái quát nhà văn đã phát hiện ra hình dáng độc đáo của dòng sông. Nguyễn Tuân phát hiện con Sông Đà giống như sợi dây thừng ngoằn ngoèo đó là phần đời của Sông Đà khi chảy giữa điệp trùng núi rừng Tây Bắc. Nguyễn Tuân đã dành rất nhiều công phu lao động nghệ thuật để khám phá vẻ đẹp của Đà giang. Thế nhưng mỗi một góc nhìn tác giả không khỏi ngạc nhiên, thú vị về vẻ đẹp độc đáo, kì lạ, bí mật của dòng sông. Không chỉ khám phá Sông Đà từ góc nhìn địa lý với tài năng với trái tim của một người nghệ sĩ say sưa trước vẻ đẹp của đất nước, tổ quốc bao la. Sông Đà còn được khám phá trong cảm hứng lịch sử, văn hóa, dân tộc. Con sông đi vào câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh, Thủy Tinh "Núi cao sông hãy còn dài- Trăm năm báo oán đời đời đánh ghen". Sông Đà còn trải dài mênh mang qua câu văn "Con Sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân". Câu văn trải dài chỉ một dấu ngắt duy nhất kết hợp với phần lớn những thanh bằng làm Sông Đà như một bài thơ trữ tình, như một khúc hát ngân vang vào núi rừng Tây Bắc, điệp từ "tuôn dài tuôn dài" với những mỏ ra trước mắt người đọc chiều dài bất tận của sông đà vừa gợi hình ảnh dòng sông uốn lượn, miên man, chạy từ vùng biên giới Tây Bắc xuống đồng bằng lặng lẽ hòa vào sông Hồng và tha thiết đổ ra biển. Khi so sánh dòng sông như "một áng tóc trữ tình của người thiếu nữ Tây Bắc" trẻ trung, xinh đẹp. Nguyễn Tuân đã đem đến cho Đà giang nét mềm mại, đằm thắm, cái duyên dáng đầy nữ tính cũng như sức sống ngôn ngữ văn chương của Nguyễn Tuân thật độc đáo. Người ta thường dùng áng văn, áng thơ nay Nguyễn Tuân lại dùng đến áng tóc Sông Đà vì thế vừa thực vừa mộng, trữ tình diễm lệ. Vẻ đẹp ấy lại ẩn hiện giữa mây trời Tây Bắc. Giữa sự tươi tắn, rực rở trong sắc trắng của hoa ban, sắc đỏ của hoa gạo càng làm tăng thêm vẻ đẹp huyền ảo mà đất trời Tây Bắc đã ban tặng cho dòng sông cho con người nơi đây. "Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của sông Gâm, sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chin đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì đó mỗi độ thu về". Nguyễn Tuân đã nhìn ngắm sông đá vào 2 thời điểm có thể coi là đẹp nhất trong năm. Đó là mùa xuân và mùa thu, nhà văn say sưa, ngắm nghía, đắm mình vào vẻ đẹp trong những làn mây mùa xuân, mùa thu trên Sông Đà. Tây Bắc vào mùa xuân cái rực rỡ của thiên nhiên đất trời khiến màu nước cũng xanh kì lạ. Đó là màu xanh ngọc bích, màu xanh của sự tươi trẻ, sáng trong, long lanh, lấp lánh như huyền thoại không hề có sự pha tạp hay gợn đục nào. Đặc biệt, sự ưu ái thiên vị của Nguyễn Tuân khi so sánh sắc xanh của Sông Đà đa dạng với màu xanh canh hến của sông Lô, sông Gâm. Không còn là thích khoe tài hoa, uyên bác mà còn là sự thiên vị của một niềm yêu mến, tự hào. Vẻ trầm mặc của thiên nhiên mùa thu làm màu nước sông đà lừ lừ chín đỏ, cái màu đỏ chở nặng phù sa, màu đỏ của sự điềm đạm, chậm rãi, nước Sông Đà được so sánh trong một hình ảnh thật lạ như da mặt một người bầm đi vì giận dữ. Sông Đà mang tâm trạng giận dỗi, hờn trách như ẩn chứa điều gì đó khó lắm bắt, thật bí ẩn, nhà văn thật khéo khi so sánh dòng sông với con người không chỉ làm hiện lên màu sắc đặc trưng của nước Sông Đà mà thể hiện sức mạnh tiềm ẩn chứa nhiều đe dọa. Đặc biệt, Nguyễn Tuân còn khẳng định "chưa hề bao giờ tôi thấy dòng Sông Đà là đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ". Bằng lối khẳng định này nhà phân không chỉ tôn vinh vẻ đẹp của dòng sông mà trực tiếp bày tỏ tình cảm yêu mến, thiết tha với Đà giang, tự hào, trân trọng vẻ đẹp con sông Tây Bắc con sông quê hương, xứ sở. Viết về Sông Đà, Nguyễn Tuân có dịp được "khua tay múa chân" tạo nên những nét vẽ gân guốc khắc khoải, ồ ạt, mãnh liệt. Cũng có lúc tác giả được dịp thả hồn mình vào dòng sông để tâm hồn được tự do, bay bổng, trôi dạt giữa thiên nhiên hoang sơ. Hai trạng thái cảm xúc của Nguyễn Tuân cũng chính là hai cá tính trái ngược của dòng sông. Một Đà giang vừa hùng vĩ tráng lệ mà cũng lại thật thơ mộng, trữ tình. Ca ngợi vẻ đẹp dòng sông xứ sở của quê hương đất nước, Nguyễn Tuân cho thấy tình yêu và lòng tự hào về thiên nhiên quê hương, đất nước. Dòng sông ở chốn hạ lưu mang vẻ êm đềm, thanh bình, yên ả được đượm vẻ mộng mơ huyền ảo của chốn thần tiên cổ tích vô cùng yêu kiều, diễm lệ. Đó là vẻ đẹp mà phải sau những lần vượt sông hiểm thác dữ con người mới được chứng kiến, bởi lẽ con người phải biết rèn luyện thân thể để đối đầu chống chọi với gian lan, thử thách khó nhọc mới gặt hái được thành quả đẹp đẽ, phải khổ luyện thành tài. Bằng thẻ tùy bút phóng túng, vốn kiến thức phong phú, đa dạng, tác giả đã khám phá vẻ đẹp của dòng sông ở góc độ địa lý nhưng đậm chất văn chương. Quan sát tỉ mỉ, liên tưởng, tưởng tượng phong phú, ngôn ngữ tài hoa, giàu chất tạo hình. Câu văn đa dạng giàu nhịp điệu khi gân guốc khi lại chậm rãi. Miêu tả vẻ đẹp trữ tình của dòng Sông Đà ở hạ lưu. Ngòi bút Nguyễn Tuân như thi tài với tạo hóa, nhà văn đã dụng công đặc tả vẻ đẹp ấy bằng một câu văn rất dài phập phòng thi vị "con sông đã tuôn dài như một áng tóc trữ tình.. mèo đốt nương xuân" vẻ đẹp mềm mại của Đà giang làm độc giả liên tưởng đến vẻ đẹp uốn lượn, nữ tình của dòng sông ở ngoại vi thành phố Huế trong bút ký "Ai đã đặt tên cho dòng sông" của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sông Hương chuyển dòng một cách liên tục.. vòng qua những khúc quanh đột ngột.. uốn mình theo những đường cong thật mềm.. dòng sông mềm như tấm lụa.. "nhà văn đã sử dụng câu văn rất dài với so sánh dòng sông mềm như tấm lụa kết hợp điện từ" mềm "tạo nên sự xuýt xoa trước vẻ diễm tuyệt của dòng sông. Cả hai đều là những dòng sông uốn lượn, quanh co bất tận êm đềm nơi hạ nguồn để rồi khơi dậy trong tâm hồn bạn đọc một tình cảm đặc biệt như được chưng cất từ tình cảm yêu thiên nhiên phong phú ở Việt Nam-đất nước của những dòng sông" trăm năm "và" trăm dáng "ở hai nhà văn. Phải chăng, đó chính là sự thăng hoa trong cảm xúc người nghệ sĩ, cả Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường như đã" để thơ vào sông nước "khiến hai dòng sông hiện lên thật sinh động bung thõa hết vẻ đẹp tuyệt mỹ của mình. Có lẽ, cả hai nhà văn đều là người yêu thiên nhiên thì mới có thể lưu giữ trong lòng những hình ảnh sinh động, tuyệt vời như thế đúng như những gì Pauxtopki tâm niệm" Niềm vui của nhà văn chính là được làm người dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp". III-Kết bài
Đề 7: Phân tích đoạn văn sau "Con Sông Đà gợi cảm.. những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên" Bấm để xem I-Mở bài II-Thân bài A. Tác giả, tác phẩm B. Khái quát C. Phân tích Sông Đà mang vẻ đẹp gợi cảm. Sau những chuyến đi dài ngày từ trong rừng ra người nghệ sĩ bắt gặp một con sông gợi cảm, dòng sông không chỉ đẹp bởi yếu tố tự nhiên mà còn ở cả góc độ văn hóa, lịch sử, không chỉ là những gì nhìn thấy mà còn là những gì cảm nhận bằng trái tim, bằng tâm hồn, bằng tình yêu. Với Nguyễn Tuân Sông Đà như một cố nhân, một người tri âm, tri kỷ, gắn bó, thân thiết, thấu hiểu trong quá khứ nhớ thương trong hiện tại và cũng sẽ chung thủy trong tương lai. Cũng vì thế, ta hiểu tại sao Nguyễn Tuân dành tận hơn 10 bài kí cho Đà giang. Sông Đà đã mang cho Nguyễn Tuân nguồn cảm hứng vô hạn cũng vì thế Nguyễn Tuân có cảm giác của nỗi nhớ, niềm yêu bồn chồn, mong ngóng lên đi rừng lâu ngày thèm chỗ thoáng. "Trước mắt thầy loáng nhoáng như trẻ con chiếu gương vào mắt rồi bỏ chạy", câu văn đã bộc lộ cảm xúc của con người khi xa và sắp gặp lại dòng sông đã háo hức, bồn chồn mà liên tưởng đến mặt sông loáng nhoáng như tấm gương trong cảm hứng về Sông Đà khi liên tưởng đến những câu đường thi "Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu". Sông Đà mang vẻ lãng mạn, hoa nguyệt của tam khói, trong sáng, rực rở của sắc xuân. Bâng khuâng, vời vợi của nhớ nhung. Sông Đà không chỉ chảy trong không gian mà còn trôi trong dòng thời gian xa xăm của thế giới đường thi, nỗi xao xuyến, mơ hồ lan tỏa trên dòng sông. Cảnh bờ sông Đà, bãi sông Đà "Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà" nối tiếp các chủ ngữ. Chữ "Sông Đà" được điệp lại như tạo niềm say mê, phấn khích tạo khoảng không gian phóng khoáng của bến bãi Sông Đà. Nhà văn say đắm hòa mình vào không gian ấy, không kịp bình tĩnh để miêu tả bằng những vị ngữ cụ thể. Từ đó gợi ra những cảm xúc dồn dập, gấp gáp mở ra một thế giới của sự liên tưởng về vẻ đẹp, sự bình yên của dòng sông. Biện pháp so sánh kết hợp với ẩn dụ chuyển đổi cảm giác "Chao ôi, trông con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm vui như nối lại chiêm bao đứt quãng" khiến con Sông Đà thật gợi cảm trong cái nắng thật sáng, thật mỏng, thật nhẹ vừa mong manh lại vừa quý giá tương phản hoàn toàn với cái u ám, trĩu nặng của bầu trời trong ngày mưa dầm. Câu văn gợi cảm giác trìu mến, nâng niu, niềm vui sảng khoái của nhà văn khi gặp lại bờ sông. Niềm vui tái ngộ với dòng sông cố nhân, niềm vui khi nối lại chiêm bao đứt quãng một việc gần như không thể có trong đời người việc hi hữu quý hiếm càng đem lại cảm giác sung sướng, thú vị nhưng cảm giác mỗi khi gặp lại dòng sông với Nguyễn Tuân lần nào cũng tươi mới, kỳ diệu, tận hưởng niềm vui chưa từng có trong đời để lần gặp lại nào cũng như là lần đầu tiên. Câu văn toàn thanh bằng "Thuyền tôi trôi trên Sông Đà" đưa con thuyền nhà văn và người đọc vào một thế giới, cảnh vật êm đềm, yên ả, hoang sơ, lắng lặng như chưa từng có dấu chân người. Tính từ "lặng tờ" lặp lại hai lần càng tô đậm sự êm đềm, tĩnh lặng của dòng sông, vừa gợi ra cái xa xăm của thời gian lịch sự. Cảnh vật tươi mới, tràn trẻ sự sống, bờ sông được miêu tả trong hình ảnh so sánh độc đáo "Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa" việc so sánh không hề làm rõ hình ảnh bờ sông mà lại đẩy dòng sông trôi xa thêm vào mộng ảo, vào cõi hồng hoang xa xôi trong thế giới cổ tích của tuổi thơ, lúc người đọc cảm nhận rõ hơn sự lặng tờ, hồng hoang, trong trẻo, êm đềm của dòng sông. Đặc biệt nhất là hình ảnh "Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương. Chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi xương?". Cất tiếng hỏi nhà văn bằng tiếng nói riêng của con vật lành giúp người đọc cảm nhận như chính mình cũng đang bước vào một cõi trong trẻo, an lành, không có thực của các thế giới cổ tích. Sự yên nặng đến mức nhà văn bỗng thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của chuyến xe lửa. Đây cũng là niềm khao khát, ước mơ hiện đại hóa miền Tây Bắc. Đó cũng là niềm khao khát của Chế Lan Viên trong bài "Tiếng hát con tàu" nhà văn không một từ miêu tả trực tiếp nào lại khiến sự lặng tờ, hoang dại của dòng sông hiện lên rõ nét đến thế. Với nghệ thuật lấy động tả tĩnh âm thanh của những đàn cá dầm xanh quẫy vọt trên mặt sông biển cá đập nước đuổi những đàn hươu vụt biến càng tô đậm thêm sự tĩnh lặng yên ả của dòng sông. Khi miêu tả dòng sông trữ tình, cái tôi trữ tình của nhà văn đã xuất hiện để người đọc thấy bên cạnh một Nguyễn Tuân tài hoa, uyên bác còn là một Nguyễn Tuân đam mê, dạt dào cảm xúc, xao xuyến, nhớ nhung như một tình nhân, một cố nhân thuyền tôi trôi trên "Dải sông Đà bọt nước lênh bênh- Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình của một người chính nhân chưa quen biết" (Tản Đà). "Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc", thưởng ngoạn vẻ đẹp của sông Đà trong lòng nhà văn dậy lên cảm giác những liên tưởng về lịch sử, những trải nghiệm, những trải lòng hóa thân vào dòng sông, đắm mình vào trong tình non sông đất nước nhớ thương những hòn đá thác, lắng nghe giọng nói trôi những con đò nhỏ mình nở chạy buồm vải. III-Kết bài