So sánh người lái đò sông Đà và nhân vật Huấn Cao chữ người tử tù - Nguyễn Tuân

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Ngoc Dang, 7 Tháng chín 2024.

  1. Ngoc Dang

    Bài viết:
    4
    "Văn chương không cần những người thợ khéo tay làm theo một khuân mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi nhũng nguồn chưa ai khơi và sáng tạo cái gì chưa có. Quả thực, văn chương thật sự là kết tinh, là ngọc đọng, là phiến kỳ nam trong rừng trầm hương, là hạt minh châu trong biển ngọc trai, là tinh hoa trong vườn phương thảo. Quá trình sáng tạo của nhà văn là sự kết tinh hòa quyện giữa cảm xúc mãnh liệt và tư tưởng cao đẹp cất lên từ hiện thực cuộc đời. Và đó cũng chính là lí do vì sao hai áng văn" Chữ người tử tù "và" Người lái đò sông Đà "của Nguyễn Tuân đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.

    Nguyên Tuân là một tên tuổi lớn trong văn học Việt Nam hiện đại, một bậc thầy, một nhân cách văn hóa mẫu mực. Ông đã để lại một sự nghiệp văn học đồ sộ mà đỉnh cao nhất là tập tuỳ bút với phong cách riêng biệt không lẫn với cây bút nào. Xuất hiện trên đàn văn vào cuối thập niên 30- đầu thập niên 40 của thế kỉ XX, Nguyễn Tuân đã lập tức khẳng định ngay tên tuổi của mình ở một văn phẩm gần như là sự thâu tóm và kết tinh mọi tinh hoa làm nên sự hoàn thiện và hoàn mĩ của một phong cách viết" Vang bóng một thời ". Ông ưa lối viết liên tưởng mang tính chất tạo hình, ông viết không chỉ bằng ngòi bút của một nhà văn mà dường như còn viết bằng nhãn quan, bằng ngòi bút của một họa sĩ, của một nhà điêu khắc nên văn của ông rất sâu sắc, rất giàu hình khối, rất giàu tính điện ảnh.

    Sông Đà là tập tuỳ bút hay nhất của Nguyễn Tuân viết về cuộc sống đổi thay đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa ở vùng Tây Bắc, là kết quả của chuyến đi thực tế ở Tây Bắc năm 1958. Ở Tây Bắc ông sống với bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân làm đường và đồng bào các dân tộc ít người. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã mang lại nguồn cảm hứng dồi dào cho Nguyễn Tuân sáng tác. Dưới ngòi văn của Nguyễn Tuân phong cảnh Tây Bắc vừa hùng vĩ uy nghiêm, vừa thơ mộng, tuyệt vời. Trong bài Người lái đò sông Đà rút ra từ tập" Sông Đà ", nhà văn không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn hết lời ca ngợi vẻ đẹp của con người Tây Bắc, nhất là người lái đò tên con sông dữ dội mà thơ mộng ấy.

    Vẻ đẹp của nhân vật người lái đò trong bài tuỳ bút này được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau. Trong tuỳ bút, hình ảnh sông Đà hiện lên thật hung bạo biết bao:" Lúc này nước sông Đà reo lên như nước đun sôi lên một trăm độ muốn hất tung đi cái thuyền đang phải đóng vai một cái nắp ấm của một ấm nước đun sôi khổng lồ. Ngấn mạn thuyền thấp hơn ngấn nước đang.. thập tử nhất sinh như thường.. "

    Nhưng hình ảnh sông Đà hiện lên cũng không kém phần thơ mộng, trữ tình:" Tôi có bay tạt qua sông Đà mấy lần, và thấy đó cũng là thêm cho mình một góc độ nhìn một cách nhìn về con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình.. ";" con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói n úi Mèo đốt nương xuân.. rồi cứ thế mà phết vào bản đồ.. "

    Hình ảnh con sông Đà vừa" hung bạo và trữ tình "là cái nền để người lái đò xuất hiện. Ông lái đò là người anh hùng sông nước: Trong cuộc chiến đấu gay gỗ với con sông dữ, ông là người chỉ huy tài ba, trí dũng, can trường. Vượt qua hết các vực xoáy, luồng chết, cửa tử.. để đưa con đò đến nơi yên sông nước lặng. Về tư thế:" ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình ", về phong thái:" tỉnh táo, tự tin, cố nén đau thừng do sông nước gây ra ", về hành động:" hai chân vẫn kẹp chặt lấy cái cuống lái "," đánh đòn tỉa "," đánh đòn âm vào chỗ hiểm ". Sau khi" phá xong cái trùng i thạch trận, vòng thứ nhất ", ông không một phút" nghỉ tay nghỉ mắt ", phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn" chiến thuật. Khi nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông "ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà miết một đường chéo về phía cửa ấy". Thế là những luồng cửa tử đã "bỏ lại hết sau thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của sông thác lồng sinh." Sau đó, ông bước vào trận chiến với "một trùng vây thứ ba". Ông liền "phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa" có bọn đá hậu vệ của con thác. Rồi "vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được". Thế là hết thác. Sóng nước lại thanh bình.

    Hơn nữa, ông lái đò còn là nghệ sĩ tài hoa. Trong nghề chèo đò vượt thác, ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở. Ở vòng đầu lũ đá ấy đã mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngọn. Sông nhưng ông đã thuộc lòng các cửa này. Ở vòng thứ hai, cửa tử tăng lên để đúng lừa con thuyền của ông vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn nhưng ông vẫn cứ hiểu được điều nguy hiểm ấy. Ông khám phá ra cách chinh phục chúng: Cưỡi lên thác sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ. Khi bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử, nhờ nhớ mặt bọn này nên đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến, ở trùng vây cuối cùng, mặc dù ít cửa hơn nhưng ông nhận ra rằng ở bên phải bên trái. Đều là luồng chết cả, lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cho nên, ông dùng đòn "phóng thẳng". Thế là ông chiến thắng trọn trong cuộc đi qua cửa ải nước đủ tướng dữ, quân tợn vừa rồi. Đúng như nhà văn Nguyễn Tuân nhận xét, ông lái đò là một "tay lái tài hoa".

    Nhìn chung nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Tuân rất tài hoa. Nhà văn lược bỏ hầu hết các chi tiết về dời tư của ông lái đò để đi sâu khắc họa ngoại hình, hành động của nhân vật. Qua Người lái đò sông Đà và nhân vật người lái đò, ta thấy nổi lên một Nguyễn Tuân tài hoa độc đáo, uyên thâm, tâm huyết, có tấm lòng yêu thương, tự hào da diết về vẻ đẹp của thiên nhiên, con người miền Tây Bắc xa xôi của Tổ quốc. Ca ngợi sự gan góc, thông minh, dũng cảm, kiên cường, tài hoa nhân hậu của con người Việt Nam trong công cuộc lao động xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao. Người lái đò sông Đà thật sự là một bài ca lãng mạn, trong sáng, hào sảng về lao động và về vẻ đẹp của con người trong lao động.

    Có thể nói, tùy bút Nguyễn Tuân thấm đượm thứ văn hóa Đông Tây đã được ông tiếp nhận – không chỉ hiểu triết lý mà còn thấm cả đạo lý, dù hấp thụ sâu sắc chủ nghĩa tự do cá nhân vẫn thấy mình nặng nợ với đất nước, với làng xóm, phố phường, thấy mình có gốc rễ từ lịch sử. Đến với nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù được biết đến với thú vui chơi chữ. Nhân vật Huấn Cao trong truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là một con người tài hoa, khí phách hiên ngang bất khuất, "thiên lương" trong sáng. Huấn Cao viết chữ rất đẹp: "Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm (). Có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời". Trong thị hiếu thẩm mỹ của cố nhân, từ Trung Hoa đến Việt Nam, viết chữ đẹp là một thủ pháp nghệ thuật và chơi chữ đẹp là một thú chơi cao khiết, tao nhã. Bởi vậy, qua những băn khoăn, tính toán, mưu mẹo, biệt đãi, nhẫn nhục, đau khổ, hốt hoảng, hi vọng, tuyệt vọng, hồi hộp, lo sợ, thành kính của viên quản ngục thì cái tài hoa quý hiếm của nhân vật Huấn Cao càng được tôn lên đỉnh cao chói lọi. Về khí phách, Huấn Cao không chịu vào luồn ra cúi, không chịu sống cảnh "cá chậu chim lồng", ông đi làm giặc triều đình. Đến khi bị bắt đưa vào ngục tử tù, ông không tỏ ra mảy may sợ hãi hay hối tiếc. Cổ mang gông, chân vướng xiềng, bước vào ngục tử tù chờ ngày ra pháp trường, ông vẫn hiên ngang, đường hoàng như bước đi trên đường cái. Chính cái khí phách khác thường của ông đã làm cho ngục quan – một người đầy uy quyền đối với ông – phải tỏ ra "khép nép" khi vào gặp ông tại. Nhà lao. "Thiên lương" của ông vô cùng trong sáng: Cái tài của Huấn Cao chính là nơi phát lộ cái tâm của ông. Tiền bạc, uy quyền không hề lung lạc được ông: "Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ". Ông đúng là một nhân cách lí tưởng: "Bần tiện bất năng di, phú quý bất năng dâm, uy vũ bất năng khuất".

    Vì vậy, khi chưa hiểu được các phẩm chất tốt đẹp của ngục quan (biết trân trọng, thật lòng yêu cái đẹp dù phải sống trong hoàn cảnh xấu xa) thì Huấn Cao có thái độ cứng rắn với ông. Đến lúc cảm được "cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài" của ngục quan, Huấn Cao mềm lòng thốt lên: "Nào ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ". Và Huấn Cao sẵn sàng cho ngục quan những dòng chữ cuối cùng của một đáng tài hoa, một bậc anh hùng nghĩa sĩ trong một cảnh tượng "xưa nay chưa từng có ở chốn lao tù" : "Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián. Trong một không khí tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ. Khói bốc tỏa cay mắt, làm họ dụi mắt lia lịa. Một người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang đậm tô nét chữ trên một tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực. Thay bút con, đề xong lạc khoản, ông Huấn Cao thở dài, buồn bã đỡ viên quản ngục đứng thẳng người dậy và đĩnh đạc bảo: Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo bức lụa trắng với những nét vuông tươi tắn nó nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người. Thoi mực, thầy mua ở đâu mà tốt và thơm quá vậy. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không? Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi".

    Đoạn văn miêu tả cảnh Huấn Cao cho chữ trên đây bộc lộ trọn vẹn nhất vẻ đẹp sáng ngời của nhân cách Huấn Cao. Trong không khí trang trọng, thiêng liêng trong cảm hứng sáng tạo mãnh liệt, say mê, ông Huấn Cao đã quên hẳn xiềng xích, nhà ngục chật hẹp chỉ bốn bức tường, tối tăm, ẩm ướt, quên cả cái chết đang chờ đợi mình. Tâm hồn ông hoàn toàn hướng tới sư bất tử của cái đẹp, cái "thiên lương" trong sáng. Lời khuyên nhủ của ông đối với quản ngục đã thể hiện quan niệm biện chứng của ông giữa cái tâm và cái tài, giữa cái đẹp và cái thiện. Trong nhân sinh quan cao vời của ông, người nghệ sĩ say mê cái đẹp trước hết phải là người phải biết đặt "thiên lương" lên vị trí tột cùng. Lời di huấn thiêng liêng ấy của Huấn Cao về nghệ thuật, về đạo lí làm người đã được quan ngục bái lĩnh bằng tất cả tấm lòng chân thực của mình và người đời trân trọng lắng nghe.

    Có thể nói, cảnh ông Huấn Cao cho chữ là sự chiến thắng kiêu hùng của ánh sáng đối với bóng tối, của "thiên lương" đối với tội ác, của cái chân – thiện – mỹ đốì với cái xấu xa, thô bỉ. Hơn nữa, đó còn là biểu tượng của việc tài hoa lên ngôi trong cảnh lao tù. Người tử tù đang tiến dần đến cõi chết, nhưng còn tài hoa của họ đang hăng hái, ung dung bước vào cõi bất tử, vĩnh hằng.

    Từ việc tìm hiểu vài nét về vẻ đẹp hình tượng của nhân vật Huấn Cao chúng ta dễ thấy được chỗ thống nhất và khác biệt trong cách tiếp cận con người của Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng tháng Tám. Về nét chung: Nguyễn Tuân vẫn tiếp cận con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Ông vẫn là ngòi bút tài hoa, uyên bác, lịch lãm, vận dụng tri thức tổng hợp của nhiều ngành văn hóa, nghệ thuật khác nhau trong miêu tả và biểu hiện: Điện ảnh, hội họa, điêu khắc.. Ông vẫn sử dụng vốn ngôn từ hết sức tinh lọc, phong phú, độc đáo, giàu có. Khả năng tổ chức câu văn xuôi đầy giá trị tạo hình, có nhạc điệu trầm bổng, biết co duỗi nhịp nhàng. Mặt khác, các phép ví von, so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa, tượng trưng, đối ngữ, liệt kê.. được nhà văn phối hợp vô cùng điêu luyện, về nét riêng: Trước Cách mạng tháng Tám, con người Nguyễn Tuân hướng tới và ca ngợi là những "con người đặc tuyển, những tính cách phi thường". Các nhân vật ông Nghè, ông Cử, ông Huấn Cao (Vang bóng một thời), ông Thông phu, cô đào Tám là những minh chứng sinh động. Sau Cách mạng tháng Tám, nhân vật tài hoa nghệ sĩ của Nguyễn Tuân có thể tìm thấy ngay trong cuộc chiến đấu, lao động hàng ngày của nhân dân. Đó là anh bộ đội Tây Bắc ngụy trang bằng hoa đào, đuổi giặc giữa rừng đào. Đó là người chiến sĩ cộng sản Tô Hiệu trồng đào trong xà lim hay cô nhân quán Quảng Bình ngồi gác máy bay dưới gốc hoàng mai. Đó là những cô gái lái đò sông Đà trên những chiếc thuyền đuôi én cao vút.. Đặc biệt là ông lái đò sông Đà vượt thác sông Đà "tay lái ra hoa". Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân là một người tài tử, thích chơi "ngông", mắc cái bệnh ham mê thanh sắc, thích chiêm ngưỡng, chắt chiu cái đẹp và nhấm nháp những cảm giác mới lạ. Khi ấy, ở Nguyễn Tuân, hầu như cái gì cùng trở thành "chủ nghĩa" : Chủ nghĩa hình thức, chủ nghĩa duy mĩ, chủ nghĩa xê dịch, chủ nghĩa hưởng lạc, chủ nghĩa cảm giác, chủ nghĩa tài tử, chủ nghĩa ẩm thực, và bao trùm lên tất cả là chủ nghĩa độc đáo. Sau Cách mạng tháng Tám, nhà văn nhạy cảm với con người mới, cuộc sống mới từ góc độ thẩm mĩ của nó. Nhưng không còn là một Nguyễn Tuân "nghệ thuật vị nghệ thuật" nữa. Cụ thể là cái đẹp gắn với nhân dân lao động, với cuộc sống đang nảy nở sinh sôi; đồng thời lên án, tố cáo chế độ cũ, khẳng định bản chất nhân văn hóa của chế độ mới.
     
    Thùy Minh thích bài này.
    Last edited by a moderator: 7 Tháng chín 2024
Trả lời qua Facebook
Đang tải...