


Đây là tác phẩm đầu tiên trong tập truyện ngắn mang hơi hướm tâm linh "Mèo đi đêm" của Miêu, nội dung dựa trên một câu chuyện cũ có thật Miêu được mẹ kể cho nghe khi còn nhỏ và hư cấu thêm. Văn phong viết theo lối ăn nói "rặt Nam Bộ", không phải chính văn, truyện dài hai chương, mong nhận được sự góp ý nhiệt tình của mọi người.
Đêm thứ nhất: Người gặp ven đường (1)
Cái xe lam lạch cà lạch cạch chạy từ tỉnh về, cậu hai Kỳ một tay ôm cái cặp da, một tay vịn thành xe cho đỡ sốc. Xe chạy xuyên rừng cao su trên con đường đất đỏ, đi tới đâu là khói bụi mịt mù tới đó, cậu ba che miệng ho sặc sụa, nước mắt nước mũi chảy tèm nhèm.
Chiều vừa tắt nắng, mấy cây cao su cứ ào ào lắc qua lắc lại, gió lùa qua mấy kẻ lá cứ ù ù như tiếng "ma kêu quỷ hờn", tự dưng cậu hai nghe tóc gáy nó dựng đứng hết. Cậu xích tới trước, ngồi sát sau lưng chú bảy lái xe.
- Chú bảy!
- Gì đó mậy?
- Đây có ma hông chú?
- Mày khùng hảy mậy? Ma cỏ gì.
- Sao con nghe ghê quá chú bảy.
- Thôi mày im dùm tao. Mày nói điên nói khùng nữa tao cho mày xuống xe đi bộ à.
- Hổng có thiệt hả chú bảy? Vậy chú cho con xuống xe "giải quyết" cái, con sợ quá nhịn nãy giờ.
- Thiệt cái thằng, tao chán mày quá.
Xe đỗ ịch lại một lô cao su ven đường, cậu Kỳ một mình đi sâu vô trong, cậu học trường Tây, nên là cậu không có thích người dòm ngó. Đi loằng ngòa loằng ngoằn một hồi thì cậu trở ra, ra gần tới đường thì thấy một cô gái, mặc bộ bà ba màu nâu nâu, tay ôm túi đồ ngồi bên đường phẩy phẩy cái nón quạt liên hồi. Cậu hai lịch sự đi lên hỏi thăm:
- Cô ba đi đâu đây? Nếu cùng đường thì tui cho quá giang.
Cô gái ngẩng đầu nhìn cậu hai Kỳ, mắt cổ đỏ hoe:
- Tui không có về đâu hết, cậu về đâu thì cho tui quá giang tới đó.
Hai người vừa đi vừa qua loa hỏi nhau mấy câu, cổ nói cổ nhà nghèo, ba má gả cho một ông nhà giàu năm chục tuổi làm vợ nhỏ, mà cổ bị đánh quá nên trốn đi, giờ không có nhà để mà về. Cậu hai nghe vậy mủi lòng, dắt cổ lên xe rồi hai người ngồi xe về huyện.
Nhà cậu hai trên huyện làm nghề bán vàng, của ăn của để không biết đâu cho hết mà có mỗi mụn con trai, mẹ cậu suốt ngày hối lấy vợ nhưng cậu nói cậu còn chưa có bằng tú tài thì không vợ con gì hết. Nhưng bà đã nhắm cho cậu cô hai Hương con bà cả đội, chỉ cần cậu gật đầu là hai bên cưới cái rụp liền.
Cậu hai biết mẹ khó lòng, nên cũng không dắt cô gái về nhà mà cho ở trong cái chòi canh trong vườn thơm, để mẹ khỏi nói ra nói vô thì ngày nào cũng lấy cớ ra canh vườn mà bưng bát đũa cơm nước ra đó ngồi.
Lâu dần mẹ cậu cũng để ý, bà nói với chồng cậu Kỳ sanh tật, ăn uống gì cũng lủi thủi một mình, trường Tây trên tỉnh người ta gửi giấy báo nhập học, hối lên hối xuống cậu cũng không thèm liếc nửa mắt. Chuyện vợ con thì né tây né đông.
- Ông coi sao liệu mà làm, chớ tui đẻ có mỗi một thằng.
Bà thở dài, mặt mày bí xị, bỏ miếng trầu vô miệng nhai lẻm bẻm, mắt ngó ra sân. Ông thấy vợ không vui, biết bả lại chuẩn bị lằng nhằng nên kéo vội mấy hơi thuốc lào rồi xỏ chân vô đôi guốc mộc, lật đật đi ra vườn thơm. Ngó thấy thằng quý tử của mình ngồi trên cái sập tre trước cái chòi, mâm cơm bát đũa ăn xong để đó. Điều ông thấy ngộ là cậu Kỳ ngồi có một mình mà chén đũa có tới hai bộ, còn cậu thì cứ ngồi cười cười nói nói, ông nhìn quài có thấy ai đâu?
- Hổng lẽ.. nó bị ma nhập ma ám hả trời?
Ông lầm thầm nói có một câu, mà không biết gió ở đâu thổi qua cái ào, nguyên cái tổ ong vò vẽ trên cây bưởi nó rớt vô đầu, ông bị ong chích sưng húp mặt mày mình mẩy, cả mấy tháng không mở miệng ra nói chuyện được. Bà thấy chồng như vậy thì thương lắm, cũng quên mất sự lạ của thằng con.
Đến khi ông mở miệng ra nhắc việc cậu hai Kỳ, bà mới hoảng hồn hoảng vía, tới bữa cơm len lén đi ra vườn ngó coi. Trước mặt ông bà cậu Kỳ lúc nào mặt mày cũng rầu rầu không vui như có bệnh, lúc này lại vừa ăn vừa cười phớ lớ, lâu lâu gắp vào miếng đồ ăn bỏ vô cái chén đối diện. Mà bà cũng có thấy ai đâu?
Nhớ tới thời điểm chồng mình gặp nạn ong, bà mới sợ, càng chắc rằng con mình đi tỉnh về bị thứ không sạch bám theo, nhưng có cái gương của ông chồng trước mắt, bà cũng không dám nói gì, chỉ âm thầm sai người đi tìm thầy về trấn yểm.
Ba ngày sao, người nhà thỉnh được thầy Năm Cô Hồn ở tỉnh kế bên, thầy hơn sáu chục tuổi, râu tóc bạc hết, nổi tiếng xưa nay là một tay trừ quỷ yêu nứt danh, không có quỷ có yêu nào thoát được tay thầy. Bà Hai nghĩ thầm cũng phải, chớ thầy bừa thầy ngãi mà làm không lại thì quỷ nó vật trào hèm, chớ có đâu thọ vậy, bởi vậy ông bà Hai tiếp thầy chu đáo hơn cả tiếp quan Tây ở tỉnh về.
Thầy cũng kiệm lời, chào hỏi mấy câu xong liền cầm cây kiếm được ghép lại từ mớ tiền xu đi vòng vòng nhà. Thầy đi đến đâu mặt mày khó coi tới đó, mỗi lần thầy lắc đầu thì tim gan của ông bà Hai cũng muốn treo ngược lên cây, đưa mắt nhìn nhau, lồng bồn chồn như kiến bò chảo nóng.
Thầy Năm Cô Hồn dừng lại trước phòng cậu Kỳ, cây kiếm trong tay rung lên bần bật, trời đứng gió mà râu tóc thầy như có người quạt, bay tứ tung. Cái nón đạo đang đội trên đầu cũng vèo một phát bay ra giữa ao rồi chìm nghỉm.
Ông bà Hai thấy cảnh li kì, cũng không màng người quen kẻ lạ hàng hàng lớp lớp đứng nhìn, quỳ xuống lạy thầy Năm như tế sao. Thầy nghe xong chỉ nhìn, không nói. Nhưng người đứng gần thính tai nghe được tiếng thở dài, trong bụng thầm hiểu phen này cậu Kỳ khó cứu.
Cánh cửa gỗ chạm cảnh liễu nguyệt bị đẩy ra, căn phòng mọi khi vẫn thường có người lui kẻ tới, không ai thấy sự lạ kì gì lúc này lại như bị người đặt thêm bên trong một tảng nước đá, hàn khí âm u phả ra khiến người ta không rét mà run. Mấy thằng làm công cho nhà ông bà Hai lúc nãy còn hiếu kì đứng trên, lúc này không ai nói ai câu nào đều lui hết về sau, cách xa cửa phòng mấy thước.
Thầy Năm sắc mặt nghiêm trọng, cầm kiếm đi vào bên trong, kiếm thất tinh trong tay thầy rung bần bật, ông bà Hai nín thở theo sát phía sau. Càng đi về hướng giường ngủ rung động trên thân kiếm càng mãnh liệt, đến nỗi hai tay thầy Năm đều tấy đỏ, nổi gân xanh. Còn cách giường ba thước thì chỉ đỏ đứt tung, tiền xu rơi xuống đất loảng xoảng, thầy Năm loạng choạng bước thêm mấy bước thì phun ra một họng máu, nằm lăn ra đất co giật như tôm nhảy.
Ông bà Hai sợ quá, chạy vội ra ngoài sân kêu mấy đệ tử của thầy vô trong cứu người. Ba người nhìn nhau, lấy ra một tờ giấy bùa màu vàng vẽ ngoằn ngoèo dán lên trán mình rồi chạy vội vào trong, một lát sau thầy Năm được khiên ra ngoài, lúc này đã xụi lơ như chết rồi. Cánh cửa phòng cậu Kỳ cũng tự dưng đóng sầm một cái làm ai nấy xanh lét mặt mày.
Ba người đệ tử của thầy Năm lấy ra một lọ nước mà họ gọi là nước phép để cho thầy uống, nửa giờ sau thầy tỉnh, ngồi bật dậy, trong mắt chỉ còn thấy con ngươi, vô thần nhìn chằm chằm vợ chồng ông Hai. Hồi lâu mới mở miệng nói chuyện, vậy mà lại là giọng cô gái trẻ.
- Ông này không có làm lại tui đâu, ông bà tốt nhất đừng có tìm việc, đừng để chết cả nhà.
- Cô.. cô là ai? Có thù oán gì với nhà tui?
Bà Hai khóc không ra nước mắt, sợ hãi nắm chặt vạt áo chồng.
- Là ai? Là ai mà bà không nhớ? Cái người năm xưa bị ông Hai chiếm đoạt đem về làm bé, sau này bị bà siết cổ chết rồi chôn trong vườn cao su đó.
"Thầy Năm" ngửa cổ lên trời ha ha cười lớn, ông bà Hai tái mặt nhìn nhau, chuyện năm xưa rõ ràng chỉ có hai người rành rẽ, lúc này lại như khô mắm bị đem ra phơi cho bàn dân thiên hạ bàn ra tán vào. Việc này mà điều tra ra thì cả cái gia tài đều phải dốc vào tay quan Pháp.
- Cô Ba.. hồi xưa chắc cô hiểu lầm tụi tui, mà dù có thù oán gì đi nữa thì trả thù tui, chứ đừng làm hại thằng Kỳ, nó có biết gì đâu.. cô Ba, tui xin cô, cô muốn lấy thì lấy mạng tui đi cô Ba..
Bà Hai khóc ròng, quỳ xuống trước mặt "thầy Năm" vái như bửa củi.
"Thầy Năm" thấy bà Hai quỳ lạy thì che miệng cười, những người làm lâu năm ngó thấy, thầm nói với nhau là "cái điệu cười vừa e thẹn vừa ngại ngùng hệt như cái cách cô Ba cười hồi mới về ở cho nhà ông Hai" – vậy chuyện mà "cô" nói, xem ra cũng là thiệt rồi.
- Bà nhớ hồi xưa trước khi tui chết tui nói cái gì không? Nhất định khiến ông bà đoạn tử tuyệt tôn.
Cô Ba nói dứt câu thì lại phun ra búng máu, mềm oặt người ngã xuống. Mấy phút sau lại tỉnh dậy, ngồi dựa lưng vào gốc cây thở hồng hộc như chó chạy giữ đồng, một hồi bắt đầu lấy hơi lên như sắp chết tới nơi. Đám đệ tử xúm lại, lấy ra kiếm gỗ của mình bắt đầu xoay xoay múa múa xung quanh gốc cây, lại chờ thêm nửa tiếng, thầy Năm Cô Hồn mới lôi được hồn vía trở về. Thầy đưa cái ống tay áo màu vàng đen quẹt quẹt mấy cái trên miệng, lau vội mấy vết máu, ánh mắt nhìn vợ chồng ông bà Hai vừa như tức giận vừa như thương cảm.
- Cổ nói, cổ chết oan. Cha làm thì con chịu.
- Bậy bạ! Tui xưa nay cái phẩm hạnh làm sao vùng này ai cũng biết, làm gì..
- Thầy ơi, thầy kệ ổng, thầy cứu con của con đi thầy, tội lỗi của con, của con hết, cứu được thằng Kỳ, cái gì con cũng chịu.
Bà Hai khóc lóc tới thương tâm, nước mắt nước mũi tèm lem quỳ bò trên đất. Thầy Năm thấy cảnh này cũng mủi lòng hết sức, nhưng cũng đành lực bất tòng tâm.
- Cổ nói.. cổ có bầu rồi. Trễ rồi. Giờ không bắt đi cũng không được. Nhưng nể tình.. cậu Kỳ, nên chỉ cần sau này hai người cho cải táng mộ cổ chung với cậu Kỳ, khói nhang thờ phụng thì cổ cũng không trả oán trả thù gì ông bà. Chuyện này như vậy là coi như xong.
Thầy Năm Cô Hồn nói xong đứng dậy lết thết rời đi, tóc tai rũ rượi, quần áo lấm bẩn còn đâu vẻ tiên phong đạo cốt lúc ban đầu.
(Còn tiếp)
Chỉnh sửa cuối: