I. Tìm hiểu chung 1. Tác giả a) Cuộc đời - Tố Hữu (1920-2002) tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, quê ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. - Tố Hữu đến với cách mạng từ phong trào Mặt trận Dân chủ. - Năm 1938, ông được kết nạp Đảng. - Từ đó đến 1986, ông giữ nhiều cương vị trọng trách trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. b) Sự nghiệp sáng tác - Con đường thơ gắn liền với sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam. - Đặc điểm nổi bật trong phong cách thơ là chất trữ tình chính trị về nội dung và đậm đà tính dân tộc trong hình thức biểu hiện. - Các tập thơ: Từ ấy (1937 - 1946), Việt Bắc (1947 - 1954), Gió lộng (1955 - 1961), Ra trận (1962 - 1971), Máu và hoa (1972 - 1977).. - Ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật 1996. 2. Tác phẩm a) Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác - "Từ ấy" đã thể hiện khá rõ phong cách thơ của Tố Hữu. Ghi nhớ kỉ niệm về ngày được đứng vào hàng ngũ những người cùng phấn đấu vì lí tưởng cao đẹp, Tố Hữu đã viết "Từ ấy". - Bài thơ nằm trong phần "Máu lửa" của tập "Từ ấy". b) Chủ đề - Bài thơ thể hiện trạng thái hưng phấn, sung sướng khi tiếp thu ánh sáng mặt trời chân lí, là lời tự nguyện của một thanh niên yêu nước giác ngộ lí tưởng Cách mạng gắn bó với quần chúng, đấu tranh cho những người lao khổ. c) Nhan đề "Từ ấy" - Ngắn gọn, giản dị, ghi dấu một thời điểm đặc biệt quan trọng trong cuộc đời và sự nghiệp của người thanh niên trí thức được giác ngộ lí tưởng cách mạng và được kết nạp Đảng. II. Đọc – hiểu văn bản 1. Khổ thơ đầu: Niềm vui sướng, say mê mãnh liệt trong buổi đầu gặp gỡ lí tưởng cộng sản A) Hai câu thơ mở đầu bài thơ bộc lộ niềm vui, sự phấn chấn của nhà thơ khi đến với lí tưởng Cộng sản: "Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lí chói qua tim" - "Từ ấy" là cái mốc thời gian có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đáng ghi đáng nhớ của người thanh niên giác ngộ lí tưởng; là sự đánh dấu một cuộc đổi đời, cao hơn là sự hồi sinh của một con người khi nhận ra ánh sáng của lí tưởng cộng sản. - Hình ảnh thơ giàu tình hình tượng "bừng nắng hạ" à thứ ánh nắng sáng tươi, rực rỡ chiếu soi khắp nơi đặc biệt là soi sáng cả những ngõ ngách kín nhất của tâm hồn, trí tuệ, nhận thức của con người. - Hình ảnh ẩn dụ "mặt trời chân lí" chính là lí tưởng Đảng, nó có sức mạnh cảm hóa, lay động và thức tỉnh nhà thơ. Một sự liên kết sáng tạo giữa hình ảnh và ngữ nghĩa: Nếu mặt trời của đời thường tỏa ánh sáng, hơi ấm thì Đảng là nguồn sáng kì diệu tỏa ra tư tưởng đúng đắn, báo hiệu những điều tốt lành. À Lí tưởng cách mạng đã làm thức tỉnh, bừng sáng tâm hồn người thanh niên trí thức. b) Hai câu tiếp theo là tiếng reo vui, niềm phấn khởi khi tác giả cảm nhận lí tưởng Cách mạng: "Hồn tôi là một vườn hoa lá Rất đậm hương và rộn tiếng chim" - Hình ảnh so sánh "hồn tôi – một vườn hoa lá" – "rất đậm hương và rộn tiếng chim" cho thấy cuộc sống trong sáng, hồn nhiên, một sức sống sinh sôi dào dạt. Cuộc sống mới tươi vui, rộn rã tràn đầy màu sắc, âm thanh và mùi vị được cất lên như một tiếng ca vui, một lời reo mừng phấn khởi trước nguồn sáng vĩ đại của Cách mạng. - Những tính từ chỉ mức độ cao "bừng, chói, rất đậm, rộn" gợi vẻ đẹp sức sống mới của tâm hồn cũng là của hồn thơ Tố Hữu. Câu thơ nối dòng, cách so sánh giản dị, biện pháp ẩn dụ, giọng thơ sôi nổi rộn ràng và bút pháp tự sự được Tố Hữu sử dụng khá tinh tế. Tâm trạng lạc quan, tin tưởng trước quyết định đúng đắn của đời mình đã được nhà thơ khắc họa một cách vui tươi và sống động. 2. Khổ thơ thứ hai: Tác giả bày tỏ nhận thức về lẽ sống lớn trong cuộc đời mình "Tôi buộc lòng tôi với mọi người Để tình trang trải với trăm nơi Để hồn tôi với bao hồn khổ Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời" - Từ "buộc" : Thái độ chủ động, tự nguyện dấn thân, đòi hỏi sự cố gắng nhất định. Sự gắn bó hài hòa giữa "cái tôi" cá nhân và "cái ta" chung của mọi người. - Liên từ "với" gặp nhiều lần và những cặp từ liên tiếp "lòng tôi – mọi người", "tình trang trải – trăm nơi", "hồn tôi – hồn khổ" : Mối dây ràng buộc với mọi người, thiết lập tình yêu thương gắn kết giữa người với người, là sự cảm thông chia sẻ trước nỗi đau, vui buồn của bao kiếp người, đặc biệt là quần chúng lao khổ. - Điệp từ "để" và những từ láy "trang trải", "gần gũi" : Từ nhận thức giác ngộ lí tưởng à niềm vui, từ tình cảm yêu thương à sức mạnh. Đó là thái độ của người thanh niên đầy nhiệt huyết quyết tâm hành động vì lí tưởng. Ý thức tự nguyện và quyết tâm vượt qua "cái tôi" cá nhân để sống chan hòa với mọi người, với "cái ta" chung để thực hiện lí tưởng giải phóng giai cấp, dân tộc. Từ đó khẳng định mối liên hệ sâu sắc với quần chúng nhân dân. 3. Khổ thơ cuối: Tác dụng kì diệu của lí tưởng với cuộc đời nhà thơ "Tôi đã là con của vạn nhà Là em của vạn kiếp phôi pha Là anh của vạn đầu em nhỏ Không áo cơm, cù bất cù bơ" - Cụm từ "Tôi đã" : Sự thật hiển nhiên. - Điệp từ "là" như lời khẳng định chắc nịch, rắn rỏi, dứt khoát cho sự hòa nhập tuyệt đối để nhấn mạnh tình cảm thân thiết như người trong cùng một gia đình. - Số từ ước lệ "vạn" lặp lại và nhịp thơ hăm hở, náo nức dồn dập diễn tả tài tình sự tăng tiến về tình cảm à Tư tưởng nhân đạo (đồng cảm xót thương xúc động chân thành, căm phẫn trước bao cảnh bất công ngang trái của cuộc đời cũ. Tin tưởng tuyệt đối vào con đường mình đã chọn, thái độ quyết tâm dứt khoát. Từ những nhận thức sâu sắc về lẽ sống mới tự xác định mình là thành viên của đại gia đình quần chúng lao khổ. III. Tổng kết 1. Nghệ thuật - Thể thơ thất ngôn trang trọng, cách so sánh giản dị, hình ảnh ẩn dụ độc đáo, giọng thơ say sưa, sôi nổi, kết hợp với bút pháp tự sự.. 2. Nội dung - Khổ thơ là tiếng hát say mê của người thanh niên yêu nước giác ngộ lý tưởng Cách mạng.