Đọc hiểu văn bản Nói với con từ cơ sở ngôn ngữ học, lí luận văn học và trải nghiệm của cá nhân

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Ngân Ngân08, 7 Tháng năm 2023.

  1. Ngân Ngân08 Mỹ nữ sỉ lẻ phóng lợn :3

    Bài viết:
    160
    1. Mở đầu

    Trong đời sống hàng ngày nói chung và trong chương trình Ngữ văn nói riêng, đọc hiểu là một trong những kỹ năng cực kì quan trọng mà mỗi người cần học tập, trau dồi để nâng cao. Theo PISA, đọc hiểu là: "hiểu, sử dụng, phản ánh và liên kết các văn bản, nhằm đạt được mục đích của mỗi nội dung, nhằm phát triển kiến thức và tiềm năng và để tham gia vào xã hội." [2-tr. 11] . Đọc hiểu là một quá trình, trong đó việc vận dụng những tri thức về lí luận văn học, ngôn ngữ hay trải nghiệm của bản thân vào để hiểu những vấn đề mà tác giả đưa ra là một việc quan trọng. Những hiểu biết về ngôn ngữ giúp cho chúng ta hiểu ý nghĩa của tác phẩm, những hiểu biết về lí luận văn học giúp chúng ta lý giải được bản chất và đặc trưng. Và đặc biệt, những trải nghiệm cá nhân sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về tác giả, tác phẩm, cùng tác giả đưa ra ý kiến, bàn luận về vấn đề mà tác phẩm đưa ra.

    2. Nội dung

    2.1 Vận dụng tri thức đọc hiểu để thực hiện các bước đọc hiểu văn bản Nói với con

    2.1. 1 Đọc hiểu ngôn từ

    Ở đoạn thơ đầu tiên, Y Phương đã sử dụng phép liệt kê "chân trái, chân phải, một bước, hai bước, tiếng nói, tiếng cười" kết hợp với các động từ "bước, chạm, tới", tác giả đã gợi ra những năm tháng ấu thơ của đứa trẻ, gợi ra hình ảnh một em bé đang chập chững tập đi, đang bi bô tập nói, lúc sà vào lòng mẹ, lúc níu lấy tay cha. Các động từ "đan", "cài", "ken" vừa diễn tả được công việc khéo léo, cần cù của người đồng mình, vừa nói lên sự gắn bó quấn quýt của những con người nơi núi rừng chan chứa yêu thương.

    Tiếp theo là đoạn thơ thứ hai, từ "yêu" chuyển sang "thương" một cách chuyển ý nhẹ nhàng, phù hợp với lôgic của tứ thơ. Nếu "yêu" là xúc cảm về cái đẹp thì "thương" là xúc cảm về cái khổ. Bởi sau từ "thương" này, tác giả gợi ra cuộc sống vất vả, gian khó của người đồng mình. Dùng từ "thương" để nhấn mạnh sâu sắc hơn nỗi niềm cảm thông, chia sẻ, gắn bó. "Buồn" là tâm trạng của con người vốn rất trừu tượng, nhưng với cách tư duy giàu hình ảnh của người miền núi, tác giả đã đo được nó bằng chiều cao vời vợi của núi rừng. "Chí lớn" thuộc đời sống tinh thần của con người, giờ có thể ước tính được bằng tầm xa vời vợi của đất. Y Phương thật khéo léo khi sử dụng những hình ảnh ẩn dụ "đá gập ghềnh, thung nghèo đói" để gợi tả cuộc sống gian nan vất vả, cực nhọc. Phép điệp cấu trúc câu: "Sống.. không chê.." kết hợp với hình ảnh đối xứng mang ý nghĩa biểu tượng đã gợi ra một cuộc sống khắc nghiệt, thiếu thốn về vật chất nhưng không hề thiếu đi ý chí và lòng quyết tâm. Hình ảnh so sánh trong câu thơ "Sống như sông, như suối" được sử dụng làm ngời sáng lên tính cách khoáng đạt, mạnh mẽ, đầy tự tin và niềm lạc quan. Thành ngữ "lên thác xuống ghềnh" nhấn mạnh những thử thách gian nan, khó nhọc vất vả mà người đồng mình phải trải qua.

    Đến đoạn thơ cuối, tiếng gọi "Con ơi" chan chứa yêu thương, trìu mến cùng với câu cầu khiến "lên đường.. nghe con" đã tạo nên một giọng điệu khuyên bảo nhẹ nhàng, chứa đầy sự thôi thúc mãnh liệt.

    2.1. 2 Đọc hiểu hình tượng nghệ thuật và tư tưởng, tình cảm của tác giả

    Trong tác phẩm có hai hình tượng nghệ thuật tiêu biểu mà chúng ta cần phải nhắc đến, đó chính là hình tượng người cha và hình tượng người đồng mình.

    Hình tượng người cha đã không còn quá xa lạ đối với độc giả qua những tác phẩm văn học. Nếu như Lão Hạc, người cha trong tác phẩm cùng tên luôn lo cho người con trai đến mức quên ăn quên ngủ, day dứt vì không phải với con, dằn vặt, lo lắng; nếu như ông Sáu trong tác phẩm "Chiếc lược ngà" yêu thương bé Thu sâu sắc, đôi khi có phần nghiêm túc và khắt khe thì trong "Nói với con", hình ảnh người cha hiện qua những lời dạy của cha. Người cha giản dị, chân chất, mộc mạc. Ông mong muốn con sống một cuộc đời xứng đáng, phát huy những truyền thống tốt đẹp của quê hương.

    Bên cạnh đó là hình ảnh người đồng mình xuất hiện gián tiếp qua những lời kể của người cha. Họ là những người giản dị, tài hoa và rất đáng yêu. Tuy sống trong hoàn cảnh vất vả nhưng lúc nào cũng nuôi trong mình chí lớn. Họ gắn bó mình với quê hương, đất nước, sống giàu nghị lực, vượt qua khó khăn và đặc biệt, họ mang trong mình ý thức tự tôn dân tộc.

    "Nói với con" thực sự "là một ô cửa" mà Y Phương đã "mở đến tình yêu". Thơ cũng giống như các loại hình nghệ thuật khác là tấm gương phản chiếu hiện thực đời sống của con người, qua đó thể hiện tư tưởng, tình cảm của tác giả. Các nhà thơ làm thơ khi tình cảm dâng trào mãnh liệt trong trái tim, họ có nhu cầu muốn được sẻ chia, tìm được sự đồng điệu từ phía người đọc. Mỗi bài thơ được tạo ra như một cánh cửa mở tâm hồn là bởi thế! "Nói với con" trước hết là "ô cửa" "tình yêu" mà người cha gửi gắm đến người con: Tình yêu gia đình, yêu quê hương đất nước và những truyền thống tốt đẹp. "Nói với con" còn là "ô cửa" "tình yêu" mà tác giả gửi gắm đến người đọc, là cầu nối tâm hồn đưa mọi người xích lại gần nhau.

    2.1. 3 Đọc hiểu và thưởng thức văn học

    Tình cảm của cha mẹ với con cái là tình cảm sâu kín, là mối dây ràng buộc, gắn kết gia đình bền chặt, được hình thành từ những giây phút bình dị đáng nhớ ấy. Ngay từ đầu, lời thơ đã gây được sự xúc động, chạm vào từ trong sâu thẳm của mỗi người, để lại những dư ba sâu lắng. Bốn câu thơ với âm điệu nhẹ nhàng, tha thiết, người cha đã khéo léo nhắc nhở con: Con khôn lớn trưởng thành như hôm nay, trước hết là nhờ vành nôi êm ấm của gia đình và tình yêu thương sâu nặng của cha mẹ. Đó cũng chính là nguồn mạch của tình yêu thương đang tha thiết chảy trong tâm hồn mỗi chúng ta. Quê hương chính là cái nôi để đưa con vào cuộc sống êm đềm, hạnh phúc, đúng như nhà thơ Nguyễn Duy đã từng đúc kết "Sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn".

    Những câu thơ của Y Phương đã gợi ta nhớ tới những câu tục ngữ sâu sắc "Có chí thì nên, có công mài sắt có ngày nên kim", hay những câu thơ giản dị mà thấm thía của Bác Hồ: "Sống ở trên đời người cũng vậy. Gian nan rèn luyện mới thành công" . Nói với con điều này, người cha mong con sống gắn bó với quê hương, biết gạt đi nỗi buồn trong cuộc sống, nuôi chí để thành người. Họ thấu hiểu một điều chính trong đói nghèo lam lũ, quê hương đã chắt chiu nuôi lớn tâm hồn họ. Có câu nói rằng "Ta không chọn được nơi mình sinh ra nhưng ta được lựa chọn cách mình sẽ sống". Dường như người đồng mình cũng có một triết lý sống hết sức cao đẹp như vậy. Hoàn cảnh cuộc sống nếu không ưu ái cho ta thì ta cũng đừng bao giờ nản chí. Hãy biết tự mình vươn lên để thay đổi hoàn cảnh. Hãy luôn tin vào chân lý: "Khéo làm thì no, khéo co thì ấm". Đời người giống như dòng chảy của một con sông, có đoạn ào ạt thác đổ, có đoạn sục sôi lũ rừng, có đoạn lại êm ả đồng bằng và cuối cùng dòng sông ấy chảy về với cái mênh mông, vĩnh hằng của biển cả. Đó là quy luật muôn đời của tự nhiên. Con người hãy cứ như con sông, phải biết chấp nhận tất cả thác ghềnh, biết vượt qua mọi khó khăn, trắc trở của cuộc sống để tìm đến niềm vui, hạnh phúc..

    Câu thơ đã mở ra những liên tưởng sâu xa, những suy ngẫm thật lớn lao, sâu sắc: Phong tục tập quán - những nét đẹp văn hóa truyền thống của quê hương, chính là cơ sở nền tảng nâng đỡ để mỗi con người vững bước trên đường đời. Câu thơ đã khơi dậy trong ta tinh thần tự tôn dân tộc, ý thức bảo vệ nguồn cội, giữ gìn và phát huy những truyền thống tốt đẹp của người đồng mình. Tâm sự với con về vẻ đẹp của người đồng mình, người cha mong con phải biết sống nghĩa tình thủy chung, biết vượt qua khó khăn để dựng xây quê hương tươi đẹp. Lời tâm sự của cha với con đã trở thành niềm trao gửi thiêng liêng của thế hệ đi trước cho thế hệ mai sau, nhắc nhở mỗi chúng ta hôm nay phải có ý thức trách nhiệm thực hiện những lời dặn dò ấy.

    2.2 Trình bày kết quả đọc hiểu

    Tình cảm gia đình, tình yêu quê hương, vốn là những tình cảm cao đẹp, thiêng liêng đã đi vào thơ ca và trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho các nhà thơ, nhà văn khai thác để viết nên những tác phẩm bất hủ. Bài thơ "Nói với con" của Y Phương cũng nằm trong mạch nguồn cảm hứng phổ biến ấy, nhưng tác giả lại có một cách nói xúc động của riêng mình. Mượn hình thức tâm tình dặn dò con, bài thơ đã đi từ tình cảm gia đình, mở rộng ra tình cảm quê hương; từ những kỉ niệm gần gũi tha thiết mà nâng lên thành lẽ sống, mang tầm khái quát thấm thía, đầy tin cậy.

    Ở đoạn thơ đầu tiên, mượn lời nói với con, tác giả gợi về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người, đó chính là tình cảm gia đình, tình yêu quê hương tha thiết. Đầu tiên, ta bắt gặp hình ảnh đứa con được lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ, sự nâng đỡ của gia đình:

    "Chân phải bước tới cha

    Chân trái bước tới mẹ

    Một bước chạm tiếng nói

    Hai bước tới tiếng cười" [1-tr. 72]

    Bốn câu thơ đầu như một bộ tứ bình xinh xắn về một gia đình hạnh phúc. Hiện lên trên bức tranh ấy là hình ảnh đứa trẻ thật đáng yêu và không khí gia đình đầm ấm, thân thương. Với nhịp thơ 2/3, cấu trúc đối xứng, nhiều từ được láy lại, tạo ra một âm điệu vui tươi, quấn quýt. Phép liệt kê "chân trái, chân phải, một bước, hai bước, tiếng nói, tiếng cười" kết hợp với các động từ "bước, chạm, tới", tác giả đã gợi ra những năm tháng ấu thơ của đứa trẻ, gợi ra hình ảnh một em bé đang chập chững tập đi, đang bi bô tập nói, lúc sà vào lòng mẹ, lúc níu lấy tay cha. Những hình ảnh "Một bước chạm tiếng nói. Hai bước tới tiếng cười" là những hình ảnh gợi ra niềm vui, niềm hạnh phúc của gia đình khi dìu dắt những bước đi đầu tiên của con. Mỗi tiếng nói, tiếng cười của con đều là niềm vui, niềm hạnh phúc lớn nhất của cha mẹ. Ta có thể hình dung khuôn mặt tràn ngập tình yêu thương, ánh mắt long lanh rạng rỡ cùng vòng tay dang rộng của cha mẹ đang đón đứa con vào lòng. Từng câu, từng chữ đều toát lên niềm tự hào dâng trào. Cả ngôi nhà tràn ngập tiếng nói, tiếng cười, tràn ngập tình thương của cha mẹ. Và từ đó con lớn khôn từng ngày trong tình yêu thương vô bờ của cha mẹ. Tình cảm của cha mẹ với con cái là tình cảm sâu kín, là mối dây ràng buộc, gắn kết gia đình bền chặt, được hình thành từ những giây phút bình dị đáng nhớ ấy. Ngay từ đầu, lời thơ đã gây được sự xúc động, chạm vào từ trong sâu thẳm của mỗi người, để lại những dư ba sâu lắng.

    Đến những câu thơ tiếp theo, ta thấy cùng với cha mẹ, gia đình, con còn trưởng thành trong cuộc sống lao động tươi vui, giữa thiên nhiên thơ mộng, quê hương nghĩa tình:

    "Người đồng mình yêu lắm con ơi

    Đan lờ cài nan hoa

    Vách nan ken câu hát

    Rừng cho hoa

    Con đường cho những tấm lòng" [1-tr. 72]

    Câu thơ "Người đồng mình yêu lắm con ơi!" mang ngữ điệu cảm thán thân thương. "Người đồng mình" là cách nói giản dị và ấm áp, dùng để chỉ người miền mình, người vùng mình, những người cùng sống trên một mảnh đất, cùng quê hương, cùng bản làng dân tộc. Cách nói độc đáo này còn gợi lên sự thân thương, gần gũi, gắn bó máu thịt giữa những con người cùng sống chung một bản làng. Đặc biệt cụm từ "người đồng mình" kết hợp với bốn tiếng "yêu lắm con ơi" đã khiến cho lời thơ rung ngân dào dạt, vừa nhấn mạnh được ý vấn vương trong tâm hồn về nơi chôn nhau cắt rốn, vừa giống như một câu chuyện tâm tình mà người cha muốn nói với con về cái đáng yêu của người đồng mình. Cuộc sống lao động của người đồng mình được gợi lên qua những hình ảnh cụ thể, giàu sức gợi cảm: Đan lờ đánh bắt cá, dựng nhà dựng cửa đầy khó nhọc nhưng cuộc sống ấy vẫn luôn tràn đầy niềm vui cùng tiếng cười câu hát. Với bàn tay lao động của người đồng mình, những nan nứa, nan tre đã trở thành nan hoa. Vách nhà không chỉ ken bằng gỗ, bằng tre mà còn đo, ken bằng câu hát, bằng niềm lạc quan, bằng vẻ đẹp tâm hồn. Chính con người nơi đây đã tạo dựng cuộc sống của mình bằng chiều sâu văn hóa và lối sống. Các động từ "đan", "cài", "ken" vừa diễn tả được công việc khéo léo, cần cù của người đồng mình, vừa nói lên sự gắn bó quấn quýt của những con người nơi đó. Những con người yêu lao động, yêu cái đẹp, biết làm đẹp cho cuộc sống nên cuộc sống của họ cũng hiện lên thật đáng yêu. Con thật hạnh phúc khi được sống giữa những con người như vậy. Chính nét đẹp từ cuộc sống lao động và tâm hồn ấy đã trở thành dòng sữa ngọt ngào để nuôi con khôn lớn.

    Quê hương có núi rừng đầy hoa thơ mộng, có cả những con đường cho những tấm lòng. Phép nhân hóa trong hai câu thơ trên đã làm cho thiên nhiên, núi rừng nơi đây trở nên thơ mộng nghĩa tình mà gần gũi gắn bó. Rừng không chỉ cho gỗ, cho măng mà còn cho hoa làm đẹp cho đời, bồi đắp cho tâm hồn con. Con đường đi ngược về xuôi, cũng được mở ra từ muôn triệu tấm lòng của người đồng mình. Nó sẽ nuôi dưỡng con về lối sống nhân hậu, bao dung; nâng đỡ bước chân con trên mọi nẻo đường dù là thung sâu hay núi đá gập ghềnh.

    Sau những lời tâm sự chân thành tha thiết với con, khép lại đoạn thơ người cha đã nhắc nhở con về cội nguồn của tình yêu thương mà cha dành cho con, đó những kỉ niệm đẹp đẽ trong ngày cưới:

    "Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới

    Ngày đầu tiên đẹp nhất trong đời" [1-tr. 72]

    Ngày cưới, đó là ngày đẹp nhất trong cuộc sống hạnh phúc của mỗi người, là ngày khởi nguồn của hạnh phúc, là ngày đánh dấu cha mẹ nên vợ nên chồng, và đó cũng là ngày khởi đầu cho sự xuất hiện đứa con trong cuộc đời. Câu thơ chính là lời nhắc nhở thấm thía của người cha với con, cha mong con luôn biết nhớ về nguồn cội.

    Tới đoạn tiếp theo, mượn lời nói với con, người cha tâm sự về những phẩm chất cao đẹp của người đồng mình và ước mong dặn dò con khi bước vào đời.

    Sau những lời tâm sự về cội nguồn sinh dưỡng, những đức tính cao đẹp của người đồng mình cứ hiện dần qua lời tâm tình của cha. Mở đầu khổ thơ là cụm từ "Người đồng mình" được lặp lại cùng ngữ điệu cảm thán "thương lắm con ơi", tựa như một điệp khúc vang lên đầy yêu thương, tự hào, vang lên như một lời nhắn nhủ đầy tha thiết: "Người đồng mình thương lắm con ơi!". Nếu ở khổ thơ đầu của bài thơ, nhà thơ đã sử dụng cụm từ "yêu lắm con ơi!", nghĩa là yêu cuộc sống lao động tươi vui, yêu những tấm lòng nghĩa tình chân thật, "Yêu" là xúc cảm tuyệt vời về cái đẹp, thì đến khổ thơ này, tác giả viết "thương lắm con ơi". Từ "yêu" chuyển sang "thương" – một cách chuyển ý nhẹ nhàng, phù hợp với lôgic của tứ thơ. Nếu "yêu" là xúc cảm về cái đẹp thì "thương" là xúc cảm về cái khổ. Bởi sau từ "thương" này, tác giả gợi ra cuộc sống vất vả, gian khó của người đồng mình. Dùng từ "thương" để nhấn mạnh sâu sắc hơn nỗi niềm cảm thông, chia sẻ, gắn bó.

    Trước hết, người cha tự hào về người đồng mình, gian khổ mà can đảm, giàu ý chí, nghị lực và niềm tin:

    "Cao đo nỗi buồn

    Xa nuôi chí lớn" [1-tr. 72]

    "Buồn" là tâm trạng của con người vốn rất trừu tượng, nhưng với cách tư duy giàu hình ảnh của người miền núi, tác giả đã đo được nó bằng chiều cao vời vợi của núi rừng. "Chí" lớn thuộc đời sống tinh thần của con người, giờ có thể ước tính được bằng tầm xa vời vợi của đất. Tác giả đã lấy khoảng cách là độ cao của núi để đo nỗi buồn, lấy tầm xa của mặt đất để khẳng định ý chí. Đây là những hình ảnh mang đậm cách tư duy của người miền núi. Cuộc sống của người đồng mình với bao nỗi buồn, bao gian truân thử thách đã chất cao thành núi nhưng càng khó khăn, gian khổ, người dân quê mình càng mạnh mẽ vượt qua, bởi họ có ý chí nghị lực, họ luôn tin tưởng vào tương lai tốt đẹp "xa nuôi chí lớn". Câu thơ đã thể hiện một tâm thế, một phong cách sống đẹp của người đồng mình. Họ không chỉ cần cù, chịu khó mà còn có sức sống mạnh mẽ, mãnh liệt. Chính ý chí bền bỉ đã giúp con người luôn nỗ lực phấn đấu đi lên.

    Không chỉ giàu ý chí, nghị lực, người đồng mình còn là những con người biết chấp nhận những khó khăn gian khổ để vượt qua, sống bền bỉ, gắn bó thủy chung với quê hương, nguồn cội:

    "Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn

    Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

    Sống trong thung không chê thung nghèo đói" [1-tr72]

    Lời thơ đọc lên ta có cảm giác như đang đi trên những cung đường đầy gập ghềnh, khúc khuỷu ở miền núi. Câu thơ "Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn" nặng trĩu tâm tư, tình cảm của người cha. Sau câu thơ, tác giả triển khai bằng những câu thơ khi ngắn khi dài, khi bằng khi trắc, gợi ra một cuộc sống đầy khó khăn, gian khổ, lam lũ của người đồng mình. Y Phương thật khéo léo khi sử dụng những hình ảnh ẩn dụ "đá gập ghềnh, thung nghèo đói" để gợi tả cuộc sống gian nan vất vả, cực nhọc. Phép điệp cấu trúc câu: "Sống.. không chê.." kết hợp với hình ảnh đối xứng mang ý nghĩa biểu tượng đã gợi ra một cuộc sống khắc nghiệt, thiếu thốn về vật chất nhưng không hề thiếu đi ý chí và lòng quyết tâm. Những đứa con của đá sống đối mặt với bao khó khăn trắc trở của cuộc đời nhưng vẫn bền gan vững chí, chấp nhận để vượt qua; sống gắn bó thủy chung với quê hương.

    Từ ý chí vươn lên, ta còn bắt gặp ở người đồng mình một lối sống phóng khoáng, hồn nhiên, mạnh mẽ và lạc quan vượt mọi thác ghềnh:

    "Sống như sông như suối

    Lên thác xuống ghềnh

    Không lo cực nhọc." [1-tr. 72]

    Hình ảnh so sánh trong câu thơ "Sống như sông, như suối" được sử dụng rất đỗi mộc mạc, giản dị theo cách của người miền núi, làm ngời sáng lên tính cách khoáng đạt, mạnh mẽ, đầy tự tin và niềm lạc quan. Thành ngữ "lên thác xuống ghềnh" được viết thành một câu thơ, nhằm nhấn mạnh những thử thách gian nan, khó nhọc vất vả mà người đồng mình phải trải qua. Dù cuộc sống có khó khăn đến đâu nhưng vẫn "không lo cực nhọc". Người đồng mình tin vào tương lai tươi sáng, đói nghèo rồi sẽ dần xua tan. Đây là một niềm tin chứa đầy tinh thần nhân văn trong cách sống của người miền núi.

    Cuối cùng, người đồng mình tuy bề ngoài mộc mạc thô sơ nhưng ẩn chứa một ý chí tự lập tự cường cùng một tinh thần tự tôn dân tộc thật đáng khâm phục:

    "Người đồng mình thô sơ da thịt

    Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

    Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

    Còn quê hương thì làm phong tục" [1-tr72]

    Vẫn cách nói quen thuộc của người miền núi, cách nói cụ thể mà giàu hình ảnh, Y Phương đã giúp chúng ta cảm nhận sâu sắc hơn về người đồng mình. "Người đồng mình thô sơ da thịt" nghĩa là người đồng mình mộc mạc, chất phác, chân thành nhưng không hề nhỏ bé, không tầm thường mà giàu lòng tự trọng, giàu ý chí, nghị lực, niềm tin, tâm hồn luôn khát khao xây dựng quê hương. Chính những con người như thế đã tự đục đá kê cao quê hương "Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương". Câu thơ vừa mang nghĩa tả thực chỉ truyền thống làm nhà, kê đá cho cao của người miền núi, vừa mang nghĩa ẩn dụ sâu sắc, chỉ cuộc sống lao động bền bỉ, nhẫn nại của người đồng mình. Bằng bàn tay và khối óc, họ đã tự mình xây đắp nên những nét đẹp văn hóa riêng của quê hương và coi đó là lẽ sống. Họ luôn đề cao phong tục, tập quán của quê hương, lấy quê hương làm phong tục, rồi dựa vào phong tục để sống và ứng xử với nhau.

    Bốn câu thơ cuối là lời dặn dò đầy tâm tình, tha thiết của người cha với con khi vào đời:

    "Con ơi tuy thô da thịt

    Lên đường

    Không bao giờ nhỏ bé được

    Nghe con" [1-tr. 73]

    Bốn câu thơ hầu như chỉ nhắc lại ý trên nhưng cách nói đã trở nên mạnh mẽ, nhịp thơ róng riết hơn. Người cha nhắc con phải sống xứng đáng với người đồng mình, tự tin vững bước trên đường đời; biết giữ vững bản lĩnh, ngẩng cao đầu, sống xứng đáng với quê hương, nguồn cội, tuy mộc mạc thô sơ nhưng không nhỏ bé về trí tuệ tâm hồn. Con phải biết phát huy những phẩm chất của người đồng mình và làm vẻ vang quê hương. Lời dặn của người cha thật mộc mạc dễ hiểu và thấm thía, ẩn chứa bên trong bao khát vọng lớn lao.

    Bài thơ được viết theo thể thơ tự do với giọng điệu thiết tha, trìu mến; hình ảnh thơ cụ thể mà giàu sức gợi cảm khái quát; cách nói mộc mạc, giàu hình ảnh; sử dụng thành công điệp từ như một điểm nhấn, gây ấn tượng. Nếu ở truyện ngắn "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng, tình cha con sâu nặng của Ông Sáu được đặt trong hoàn cảnh éo le của cuộc chiến tranh thì tình cha con trong bài thơ "Nói với con" của Y Phương lại được thể hiện thấm thía sâu sắc qua lời tâm tình của cha với con. Nó tựa như một khúc ca nhẹ nhàng mà âm vang còn mãi. Lời tâm tình của người cha sẽ là hành trang theo con suốt cuộc đời, là bài học bổ ích cho các thế hệ mai sau. Đó cũng là nét riêng độc đáo mà Y Phương gửi đến cho bạn đọc chúng ta.

    3. Kết luận

    Thông qua việc đọc hiểu văn bản "Nói với con" bằng đọc hiểu ngôn từ, các hình tượng và trải nghiệm cá nhân, chúng ta có thể thấy bài thơ được viết theo thể thơ tự do với giọng điệu thiết tha, trìu mến; hình ảnh thơ cụ thể mà giàu sức gợi cảm khái quát; cách nói mộc mạc, giàu hình ảnh; sử dụng thành công điệp từ như một điểm nhấn, gây ấn tượng. Tác phẩm đã khơi dậy trong lòng mỗi chúng ta những xúc cảm đẹp về tình cảm gia đình ấm cúng, tình quê hương ân nghĩa đậm đà. Mỗi người hãy biết sống có trách nhiệm với cội nguồn; gắn bó, chia sẻ với gia đình, đất nước những lúc khó khăn, gian khổ theo đạo lí "uống nước nhớ nguồn".

    4. Tài liệu tham khảo

    1. Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 9, tập 2, Nxb Giáo dục Việt Nam.

    2. Theo PISA và các dạng câu hỏi (2012), Nxb Giáo dục Việt Nam.
     
    LieuDuong thích bài này.
  2. Đăng ký Binance
Trả lời qua Facebook
Đang tải...