Ngữ văn: Người lái đò sông Đà - Nguyễn Tuân

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Ngọc Hạc Phong, 16 Tháng ba 2022.

  1. Ngọc Hạc Phong

    Bài viết:
    250
    I. Tìm hiểu chung

    1. Tác giả:

    - Nguyễn Tuân là nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam.

    - Ông là nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp.

    - Phong cách Nguyễn Tuân: Tài hoa, uyên bác, độc đáo..

    2. Hoàn cảnh sáng tác:

    - "Người lái đò Sông Đà" trích trong tập tùy bút "Sông Đà" in 1960 của Nguyễn Tuân. Tập tùy bút có 15 bài là kết quả của chuyến đi thực tế gian khổ và hào hứng lên Tây Bắc.

    2. Tóm tắt:

    Trong tùy bút "Người lái đò Sông Đà", Nguyễn Tuân miêu tả con sông Đà vừa hung bạo vừa trữ tình, hung bạo với những thác nước, ghềnh thác nguy hiểm với sóng, gió cuồn cuộn.. Đá và thác sông Đà mai phục, hung dữ bày thạch trận. Nước cũng cùng với đá đánh những đòn hiểm độc nhất để tiêu diệt bất cứ con thuyền nào dám vượt thác. Trữ tình thơ mộng, đẹp đẽ với hình dáng uốn lượn, với cảnh sóng nước, bãi bờ vui tươi. Nguyễn Tuân còn phát hiện ra nét độc đáo là mọi con sông đều chảy về phía đông, riêng sông Đà chảy về phía bắc. Với những kiến thức địa lí, lịch sử, văn chương, hội họa, quân sự, điện ảnh.. Tác giả đã miêu tả Sông Đà như một sinh thể có hồn.

    Người lái đò Sông Đà, tuy 70 tuổi nhưng vẫn gân guốc, tráng kiện. Ông gắn bó máu thịt với con sông này. Ông là người giàu kinh nghiệm, tinh tường, gan dạ, dũng cảm, khéo léo. Khi vượt sông, ông vừa giống như một viên tướng tài ba vừa như một nghệ sĩ tài hoa trên sông nước. Ông luôn bình tĩnh, ung dung đối đầu với khó khăn nguy hiểm, khôn ngoan vượt cạm bẫy của thác ghềnh, đưa thuyền về bến an toàn.

    3. Chủ đề:

    " Người lái đò sông Đà" thể hiện tình yêu, niềm tự hào về Sông Đà, về người lao động tài trí, có tâm hồn nghệ sĩ đã chiến thắng thiên nhiên.

    II. Đọc – hiểu văn bản

    1. Hình ảnh con sông Đà

    A) Tính hung bạo, dữ dội của dòng sông

    Thác trên sông Đà rất cao

    - Thác nước sông Đà thật man dại, nó kết hợp với sóng, gió, ghềnh đá "nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt". Câu văn có cấu trúc trùng điệp, mở ra thế nước dữ dội.

    - Âm thanh dữ dằn "nghe như là oán trách gì, rồi lại như van xin, rồi lại như khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa". Tác giả sử dụng hàng loạt các động từ và so sánh giàu tính tạo hình cho thấy vẻ hung bạo và dữ dội của thác nước trên sông Đà.

    Dòng chảy sông Đà rất hẹp

    - "Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu": Mọi dòng sông đều chảy về hướng đông, một mình sông Đà chảy theo hướng bắc.

    - Sóng sông Đà rất dữ dội "Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng vào hông thuyền". Hình ảnh so sánh và nhân hóa rất sống động. Sóng nước bám lấy thuyền như một đồ vật háo thắng, hết túm thắt lưng lại đòi lật ngửa ông lão ra giữa trận nước vang trời.

    Sông Đà có nhiều mặt ghềnh

    - "Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loong, dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió".

    - Câu văn như vẽ ra khung cảnh sông Đà dữ dội, hung bạo với những mặt ghềnh dài hàng cây số.

    Hút nước trên sông rất nguy hiểm

    - Sông Đà có những hút nước ngầm sâu, nguy hiểm rợn người "Nước ở đấy thở và kêu như cửa cống cái bị sặc", "nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi". Nhà văn đã dùng ngôn ngữ của ống kính điện ảnh, khắc họa được không gian ba chiều: Sâu, cao, xa của những hút nước như khối pha lê xanh vừa đẹp vừa đáng sợ ghê người.

    Đá trên sông cũng biết lập trận địa để đón đánh thuyền vượt sông

    - Cùng với thác là đá "dựng vách thành", vách đá cao "chẹt" lấy dòng sông hẹp. Những chỗ hẹp nguy hiểm này được Nguyễn Tuân tả bằng nhiều cách với câu chữ phong phú, so sánh liên tưởng bất ngờ, thú vị.

    - Đá sông Đà "từ ngàn năm đã mai phục hết trong lòng sông", khi có con thuyền nào lọt vào "bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền" . Có hòn trông nghiêng thì y như là đang "hất hàm" hỏi con thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao tranh.

    - Vòng một "trùng vi thạch trận", "mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ ở phía tả ngạn sông" .

    - Vòng hai "tăng thêm nhiều cửa tử.. cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn", với "dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh".

    - Vòng ba"ít cửa hơn, bên phải bên trái toàn là luồng chết cả. Cái cửa sinh lại nằm giữa bọn đá hậu vệ".

    Với sự quan sát tinh tường, trí tưởng tượng phong phú, liên tưởng so sánh bất ngờ, ngôn từ độc đáo giàu có sắc sảo như thi tài với tạo hóa, Nguyễn Tuân đã truyền đến người đọc cảm giác dữ dội về dòng sông Đà hung bạo.

    B) Sông Đà – Dòng sông thơ mộng, trữ tình

    Nhìn từ trên cao, sông Đà có hình dáng rất mềm mại

    - "Con sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân".

    - Câu văn giàu chất tạo hình và chất thơ. Vẻ đẹp của dòng sông được liên tưởng như áng tóc mây thiếu nữ. Áng tóc sông Đà vừa có màu trời xanh, màu hoa gạo đỏ, màu hoa ban trắng và quyện vào khói núi huyền ảo, đẹp đến ngỡ ngàng.

    Sông Đà có màu nước thay đổi theo mùa

    - "Mùa xuân dòng xanh ngọc bích.. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa.. Chưa bao giờ tôi thấy dòng Sông Đà là đen".

    - Nguyễn Tuân đã khắc họa sông Đà lúc này thật hiền hòa, đẹp lãng mạn và nên thơ. Sông Đà như một người con gái luôn biết điệu đà và diện lên mình những trang phục rực rỡ khi đất trời đổi mùa. Mỗi mùa mỗi vẻ khác nhau.

    Sông Đà có màu nắng nên thơ

    - "Tôi nhìn cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi:" Yên hoa tam nguyệt há Dương châu ".. Chao ôi, trông con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm".

    - Cuối xuân sang hè sông Đà lấp lánh nắng, đẹp như những dòng sông trong Đường thi. Sự biến đổi ấy khiến sông Đà không chỉ thơ mộng mà còn gợi cảm, như tâm tính một cổ nhân. Cách liên tưởng của Nguyễn Tuân thật lãng mạn, dòng sông vô tri đã mang tình yêu mến, hờn giận gắn bó muôn đời với con người.

    Cảnh vật ven sông rất gợi cảm

    - Bãi bờ sông Đà êm ả, thơ mộng "lững lờ như nhớ thương", chuồn chuồn bươm bướm rập rờn, những lá ngô non đầu mùa mới nhú, những đồi cỏ gianh ra nõn búp, "một đàn hươu nai cúi đầu ngốn những búp cỏ gianh đẫm sương đêm" .

    - Đàn cá dầm xanh trông như những thỏi bạc trắng rơi rơi. "Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa". Lấy ý niệm thời gian để khắc họa không gian, so sánh vừa mở ra một khung cảnh đẹp thơ mộng, mơ màng.

    - Câu mở đầu "Thuyền tôi trôi trên sông Đà", toàn thanh bằng, đẹp như một lời thơ, không chỉ mở ra vẻ đẹp thơ mộng của sông Đà, mà còn gửi gắm một tâm hồn yêu thiên nhiên, giàu trí tưởng tượng của nhà văn.

    2. Hình ảnh người lái đò sông Đà

    A) Ngoại hình

    - "Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng. Giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù."

    - Tác giả sử dụng hàng loạt từ láy gợi hình và biện pháp so sánh khắc họa người lái đò sông Đà có ngoại hình độc đáo. Dường như ông đã gắn bó máu thịt với dòng sông Đà nên mới có ngoại hình độc đáo như vậy.

    B) Tính cách

    Ông lái đò rất lão luyện trong nghề chèo đò

    - "Trí nhớ ông được rèn luyện cao độ bằng cách lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như là đóng đanh vào lòng tất cả những con thác hiểm trở. Sông Đà đối với ông lái đò như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những cái chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng".

    - Hai hình ảnh so sánh của Nguyễn Tuân không chỉ khẳng định người lái đò đã rất lão luyện tinh thông trong nghề chèo đò mà còn gợi cho người đọc cảm nhận được vẻ dữ dội, hung bạo của sông Đà.

    Ông lái đò rất kiên cường, dũng cảm, tỉnh táo vượt qua trùng vi một

    + Sông Đà lúc này thật dữ dội, hung bạo:

    - "Nó bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất. Nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn".

    - Tác giả dùng một loạt hình ảnh so sánh, nhân hóa, trùng điệp, ẩn dụ kết hợp với những từ ngữ thường dùng trong thể thao, quân sự, võ thuật của Đông Tây kim cổ để khắc họa hình ảnh so sánh sông Đà hung bạo.

    + Ông lái đò tỉnh táo, dũng cảm:

    - Ông lái đò phải đối diện với những khó khăn thách thức lớn lao, trận chiến trở nên ác liệt hơn. Dường như sông Đà, thiên nhiên Tây Bắc đang ở thế chủ động, tấn công con người. Kết quả sông Đà làm cho ông lái đò bị thương nhưng vẫn bình tĩnh, đầy bản lĩnh, cố gắng chịu đau.

    - "Cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái".

    - Nguyễn Tuân đã rất sáng tạo khi so sánh khuôn mặt méo bệch đi vì đau đớn của ông khi đối diện với hình ảnh cái luồng sóng. Chắc chắn phải đau đớn tột cùng, ông lái đò mới có khuôn mặt như vậy. Ở vòng một, ông lái đò dùng chiến thuật chịu đau để vượt qua vòng một an toàn. Quả thật ông lái đò là một người dũng cảm, kiên cường khi đối diện với khắc nghiệt của thiên nhiên.

    Ông lái đò rất linh hoạt, khéo léo, bình tĩnh vượt qua trùng vi hai

    + Sông Đà không chỉ hung tợn, dữ tợn mà còn trở nên nham hiểm hơn khi cũng biết sử dụng mưu kế để đón đánh con thuyền

    "Tăng thêm nhiều cửa tử.. cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá".

    - Nếu như ở vòng một, số câu chữ viết về sông Đà nhiều hơn ông lái đò thì ở vòng hai, số câu chữ viết về sông Đà bằng nhau. Như vậy, cuộc chiến diễn ra ngang tài ngang sức.

    + Ông lái đò:

    - "Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến"

    - Thiên nhiên càng khắc nghiệt thì con người càng bản lĩnh, gan dạ, dũng cảm và phải khéo léo linh hoạt hơn. Lúc này, ông không còn sử dụng chiến thuật chịu đau, mà dùng chiến thuật cưỡi đến cùng như cưỡi lên lưng hổ. Qua lời văn tài hoa uyên bác của Nguyễn Tuân, ta hình dung được cuộc chiến giữa sông Đà và người lái đò diễn ra rất ác liệt.

    Ông lái đò là người nghệ sĩ tài hoa trên sông nước khi vượt qua trùng vi ba

    + Sông Đà có cách bố trí cửa rất bất ngờ:

    - "Ít cửa hơn, bên trái, bên phải đều là đường chết.. Luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác"

    - Cách bố trí cửa sinh tử của sông Đà khó ai có thể đoán trước được, chỗ nhìn bên ngoài chỉ thác và đá tưởng đâu cửa tử. Người lái đò bình tĩnh tự tin lao về hướng có cửa sinh.

    + Ông lái đò:

    - "Phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở, cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái lượn được."

    - Nhịp văn nhanh mạnh, dồn dập kết hợp với hình ảnh so sánh ghi lại được tốc độ lao nhanh như tên bắn của con thuyền. Chỉ có những ai từng sống gắn bó máu thịt với sông Đà mới hiểu được từ luồng lạch, cách bố trí cửa trên sông mới có thể điều khiển con thuyền tự tin như vậy. Không những thế, ông lái đò còn giống như người nghệ sĩ đang biểu diễn trên sông nước. Quả thực Nguyễn Tuân là một nhà văn rất tài hoa uyên bác luôn quan sát miêu tả đối tượng, sự vật trên phương diện thẩm mĩ.

    Sau cuộc chiến đấu, ông lái đò khiêm nhường, ung dung tự tại

    - "Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh.. Cuộc sống của họ là ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp đáng nhớ."

    - Sau ba lần vượt trùng vi thạch trận, ông chỉ bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh mà không bàn về chiến công xảy ra. Phải chăng ông lái đò và những người trên thuyền đã quá quen thuộc với những trận chiến trên sông Đà như vậy nên cảm thấy bình thường. Điều đó càng khắc họa hơn vẻ đẹp của con người Việt Nam trong lao động. Trước cách mạng tháng Tám, nhân vật trong văn Nguyễn Tuân thường là người nghệ sĩ tài hoa, uyên bác nhưng sau cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân tìm thấy chất tài hoa nghệ sĩ ngay trong những người dân lao động bình thường nhất.

    III. Tổng kết

    1. Nghệ thuật

    - Bài tùy bút này rất tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.

    - Tác phẩm được viết bằng thể tùy bút, sở trường của Nguyễn Tuân.

    - Đây là tùy bút nhưng đậm đà chất trữ tình, mang dấu ấn riêng của cái tôi Nguyễn Tuân: Lãng mạn, tài hoa, uyên bác.

    - Nguyễn Tuân đã vận dụng tri thức của nhiều ngành văn hóa (lịch sử, địa lí), võ thuật, quân sự, đặc biệt là các ngành nghệ thuật (hội họa, điện ảnh.).

    - Ngôn từ phong phú, hình ảnh so sánh liên tưởng, nhân hóa độc đáo, giàu chất tạo hình.

    2. Nội dung

    Người lái đò sông Đà là một áng văn đẹp được viết nên từ tình yêu đất nước say đắm, thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên và nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc.
     
  2. Đăng ký Binance
Trả lời qua Facebook
Đang tải...