Mật Mã Da Vinci - Dan Brown

Thảo luận trong 'Văn Học' bắt đầu bởi Admin, 30 Tháng mười một 2015.

  1. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,093
    CHƯƠNG 77

    Xem
    Langdon thán phục. Teabing vừa viết ra xong toàn bộ 22 chữ cái của bảng chữ cái Hebrew - alef - bet - theo trí nhớ. Đành rằng ông đã dùng kí tự La Mã tương đương thay vì chính chữ cái Hebrew, tuy nhiên, giờ đây ông đọc qua chúng với cách phát âm không chút sai sót.

    A B G D H V Z Ch T Y K L M N S O P Tz Q R Sh Th

    Alef, Belt, Gimel, Dalet, Hei, Vav, Zayin, Chet, let, Yud, Kaf, Lamed, Mem, Nun, Samcch, Ayin, Pel, Tradik, Kuf, Reishs Shin va Tav


    Teabing lau trán và tiếp tục:

    - Trong chính tả Hebrew chính thức, nguyên âm không được viết ra. Do đó, khi chúng ta dùng chữ cái Hebrew để viết từ Bahome, nó sẽ mất đi ba nguyên âm và chúng ta còn lại..

    - Năm chữ cái.

    Sophie bật ra.

    Teabing gật đầu và bắt đầu viết lại:

    - Được, đây là Baphomet viết đúng chính tả bằng chữ cái Hebrew. Tôi sẽ phác luôn cả những nguyên âm khuyết diện để cho rõ ràng hơn.

    B a P V o M e Th.

    - Tất nhiên, hãy nhớ..

    Ông bổ sung thêm.

    - Rằng tiếng Hebrew thường được viết theo chiều hướng ngược, nhưng chúng ta có thể dễ dàng sứ dụng mật mã Atbash theo cách này. Bước tiếp theo, tất cả những gì chúng ta phải làm là tạo ra cách sắp xếp thay thế bằng cách viết lại toàn bộ bảng chữ cái theo trật tự đảo ngược với bảng chữ cái ban đầu.

    - Có một cách dễ hơn..

    Sophie nói, lấy bút từ tay Teabing.

    - Nó hiệu nghiệm đối với mọi mật mã thay thế phản chiếu, kể cả mật mã Atbash. Một mẹo nhỏ tôi học được ở Royal Holloway.

    Sophie viết nửa bảng chữ cái đầu từ trái qua phải, sau đó bên dưới, viết phần còn lại của bảng chữ cái từ phải qua trái.

    - Người giải mật mã gọi nó là fold-over. Giảm nửa phần phức tạp. Nhưng lại rõ ràng gấp đôi.


    A B G D H V Z Ch T Y K

    Th Sh R Q Tz P O S N M L


    Teabing nhìn bảng kẻ bằng tay của cô và cười khúc khích:

    - Cô đã đúng. Rất vui được thấy là các chàng trai ở Holloway làm tốt công việc của họ.

    Nhìn vào ma trận thay thế của Sophie, Langdon cảm thấy một nỗi rộn ràng mỗi lúc một tăng mà ông nghĩ có thể sánh với nỗi rộn ràng của các nhà học giả khi lần đầu tiên họ đùng mật mã Atbash để giải mã Bí mật Sheshach, một bí mật giờ đây đã trở nên nổi tiếng. Suốt nhiều năm, các học giả về tôn giáo đã bối rối khó hiểu những chỗ trong Kinh Thánh quy chiếu đến một thành phố mang tên Sheshach. Thành phố này không xuất hiện trên bất cứ bản đồ nào hay bất cứ tài liệu nào nhưng lại được đề cập đến trong Sách của Jememiah - vị vua của Sheshach, thành phố Sheshach, nhân dân Shesbach. Cuối cùng, một học giả đã áp dụng mật mã Atbash vào từ này, và kết quả công việc của ông làm mọi người ngớ ra. Mật mã tiết lộ rằng Sheshach trên thực tế là một từ mã hóa cho một thành phố rất nổi tiếng khác. Quá trình rất đơn giản.

    Sheshach, trong tiếng Hebrew được phát âm là: Sh - Sh - K Sh - Sh - K khi được thay thế trong ma trận trở thành B - B - L B - B - L, trong ngôn ngữ Hebrew, phát âm là Babel.

    Thành phố bí ẩn Sheshach được tiết lộ là thành phố Babel, và tiếp đó một phong trào rộ lên như điên: xem xét lại Kinh Thánh. Trong vòng nhiều tuần, nhiều từ mật mã Atbash đã được phát hiện trong Kinh Cựu ước, phơi bày vô số ý nghĩa ẩn giấu mà các học giả cũng không biết là có ở đó.

    - Chúng ta đang đến gần.

    Langdon thì thầm, không thể kiểm soát niềm phấn khích của mình.

    - Vài phân nữa, Robert ạ.

    Teabing nói. Ông ngước nhìn Sophie và cười.

    - Cô sẵn sàng chưa?

    Cô gật đầu.

    - Được rồi, Baphomet trong ngôn ngữ Hebrew không nguyên âm viết là: B - P - V - M - Th. Bây giờ chúng ta chỉ cần đối chiếu với ma trận thay thế Atbash để dịch những bí từ này sang mật khẩu năm chữ của chúng ta.

    Tim Langdon đập thình thịch: B - P - V - M - Th. Ánh mặt trời đang tràn qua cửa sổ. Ông nhìn vào bảng ma trận đối chiếu của Sophie và chậm rãi thay thế. B là Sh. P là V..

    Teabing cười toe toét như một cậu học sinh trong mùa Giáng sinh:

    - Và mật mã Atbash hé lộ..

    Ông dừng lại một lát.

    - Chúa ơi!

    Gương mặt ông trắng bệch đi.

    Langdon ngẩng phắt đầu lên.

    - Có chuyện gì không ổn?

    Sophie hỏi.

    - Cô không tin được đâu.

    Teabing đưa mắt nhìn Sophie.

    - Đặc biệt với cô.

    - Ông định nói gì?

    Cô nói.

    - Điều này.. thật là tài tình.

    Ông thì thầm:

    - Cực kỳ tài tình!

    Teabing viết lại trên giấy.

    - Nổi trống lên! Đây là mật khẩu của quý vị.

    Ông giơ cho họ thấy cái ông đã viết.

    Sh - V - P - Y - A

    Sophie cau mặt:

    - Nó là cái gì?

    Langdon cũng không nhận ra.

    Gịong Teabing như run lên vì kính sợ:

    - Bạn ạ, đây thực sự là một từ thông thái cổ xưa!

    Langdon đọc lại những chữ đó. Một từ thông thái cổ giải thoát cuộn giấy này. Lát sau, ông hiểu ra. Ông đã không thấy điều này tới. Một từ thông thái cổ!

    Teabing cười:

    - Theo nghĩa đen!

    Sophie nhìn từ này và sau đó nhìn đĩa chứ. Ngay lập tức, cô nhận ra là Langdon và Teabing đã không thấy một trục trặc nghiêm trọng:

    - Khoan! Đây không thể là mật khẩu.

    Cô cãi.

    - Hộp mật mã không có Sh trên đĩa chữ. Nó dùng bảng chữ cái La Mã truyền thống.

    - Đọc từ này lên.

    Langdon giục.

    - Hãy nhớ hai điều. Trong ngôn ngữ Hebrew, kí tự cho âm Sh cũng có thể được phát âm như S, phụ thuộc vào trọng âm. Cũng như chữ cái P có thể đọc là F.

    SVFYA?

    Cô nghĩ, bối rối.

    - Thiên tài!

    Teabing chêm vào.

    - Chữ cái V thường thay thế cho nguyên âm O!

    Sophie lại nhìn vào các chữ cái, cố đọc lên thành âm chuẩn.

    S.. O.. F.. Y.. A

    Cô nghe thấy chính tiếng mình, và không thể tin vào cái mình vừa thốt ra.

    - Sophia? Chữ này phát âm như Sophia?

    Langdon gật đầu:

    - Phải! Sophia nghĩa đen là thông thái trong tiếng Hy Lạp. Tên gốc của cô, Sophie, là một "từ thông thái"

    Sophie bỗng nhớ ông mình da diết. Ông đã mã hóa viên đá đỉnh vòm của Tu viện Sion bằng tên của mình. Cổ họng cô nghẹn lại. Tất cả dường như rất hoàn hảo. Nhưng khi cô quay lại nhìn vào năm đĩa chữ trong hộp mật mã, cô nhận thấy vẫn còn điều gì đó không ổn.

    - Nhưng khoan đã.. Sophia có sáu chữ cái.

    Nụ cười của Teabing dường như không bao giờ tắt:

    - Hãy xem lại bài thơ. Ông cô đã viết "Một từ thông thái cổ"

    - Nghĩa là?

    Teabing nháy mắt:

    - Trong tiếng Hy Lạp cổ, thông thái được viết là S-O-F-I-A.
     
    Chỉnh sửa cuối: 24 Tháng hai 2016
  2. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,093
    CHƯƠNG 78

    Xem
    Sophie cảm thấy một nỗi háo hức cuồng dại khi cô đặt hộp mật mã vào lòng và bắt đầu quay đĩa chữ cái. Một từ thông thái cổ giải thoát cuộn giấy này. Langdon và Teabing như ngừng thở khi họ đứng nhìn.

    S.. O.. F..

    - Cẩn thận.

    Teabing nài nỉ.

    - Thật cẩn thận vào!

    I.. A..

    Sophie xoay đĩa chữ cuối cùng vào thẳng hàng:

    - Được rồi!

    Cô thì thầm, ngước nhìn hai người kia.

    - Tôi sẽ kéo rời nó ra.

    - Chú ý, nhớ cái lọ dấm đấy.

    Langdon nói, phấn khởi pha lẫn sợ hãi.

    - Hãy cẩn thận.

    Sophie biết rằng nếu hộp mật mã này giống những hộp cô đã từng mở trong thời niên thiếu, tất cả những gì cô cần làm là nắm chặt hai đầu hình trụ, ngay mé ngoài chồng đĩa, và từ từ kéo đều tay về hai phía ngược nhau. Nếu chồng đĩa thẳng hàng đúng mật khẩu, thì một trong hai dầu sẽ trượt mở, giống như nắp một ống kính máy ảnh, và cô có thể với vào bên trong lấy cuộn tài liệu viết trên giấy papyrus, quấn quanh lọ dấm nhỏ. Tuy nhiên, nếu mật khẩu mà họ nhập không đúng, lực kéo ra của Sophie đối với hai đầu hình trụ sẽ truyền tới một đòn bẩy có lắp bản lề ở bên trong, đòn bẩy này sẽ xoay xuống lọt vào cái hốc và tạo áp lực trên chiếc lọ thủy tinh, cuối cùng làm nó vỡ tan nếu cô kéo quá mạnh.

    Kéo nhẹ nhàng, cô tự nhủ.

    Cả Teabing và Langdon đều cúi về phía Sophie khi cô nắm hai đầu chiếc ống hình trụ trong lòng bàn tay. trong niềm hứng khởi vì đã giải được từ mật mã, Sophie hầu như quên mất cái mà họ mong tìm thấy bên trong. Đó là viên đá đỉnh vòm của Tu viện Sion. Theo Teabing, nó chứa đựng một bản đồ chỉ dẫn tới Chén Thánh, tiết lộ ngôi mộ của Mary Maygdalene và kho báu Sangreal.. kho báu tối hậu của sự thật bí mật.

    Lúc này, tay nắm chặt ống trụ đá, Sophie kiểm tra lại để đảm bảo tất cả các chữ cái đều đã thẳng hàng với con trỏ. Sau đó, chậm rãi, cô kéo. Không có gì xảy ra. Cô kéo mạnh hơn. Đột nhiên, hòn đá trượt ra giống như một ống kính viễn vọng tinh xảo.

    Miếng ghép ở đầu tách rời ra trong tay cô. Langdon và Teabing gần như nhảy lên. Nhịp tim của Sophie đập đồn dập khi cô đặt cái nắp lên trên bàn và nghiêng ống trụ để nhòm vào bên trong.

    Một cuộn giấy!

    Nhòm vào trong cuộn giấy, Sophie thấy nó được quấn quanh vật hình trụ - cái lọ dấm, cô đoán. Tuy nhiên, lạ thay, tờ giấy bọc xung quanh lọ dấm không phải là thứ giấy mỏng thông thường - papyus mà là giấy da. Thật kì lạ, cô nghĩ, dấm không thể hòa tan giấy bằng da cừu. Cô nhìn lại vào lòng cuộn giấy và nhận ra vật ở giữa cuộn giấy không phải là lọ dấm. Nó là một vật hoàn toàn khác.

    - Có gì không ổn sao?

    Teabing hỏi.

    - Kéo cuộn giấy ra đi.

    Cau mày, Sophie nắm lấy cuộn giấy da và vật được gói bên trong, kéo cả hai ra khỏi ống đựng.

    - Không phải giấy papyrus.

    Teabing nói.

    - Nó quá nặng.

    - Tôi biết. Nó là thứ để đệm lót.

    - Cho cái gì? Cho lọ dấm à?

    - Không!

    Sophie mờ cuộn giấy ra, để lộ cái gì được gói bên trong.

    - Cho cái này.

    Khi Langdon nhìn thấy vật bên trong cuộn giấy da, tim ông trĩu xuống.

    - Chúa hãy giúp chúng ta?

    Teabing nói.

    - Ông cô quả là một kiến trúc sư tàn nhẫn.

    Langdon ngỡ ngàng nhìn trăn trối. Mình thấy Saunière không có ý định làm cho điều này dễ dàng.

    Một cái ống trụ thứ hai được đặt trên bàn. Nhỏ hơn. Làm bằng mã não đen. Được đặt nằm gọn trong ống thứ nhất. Đam mê của Saunière đối với thuyết nhị nguyên. Hai ống trụ. Mọi thứ đều thành đôi. Nghĩa là nước đôi. Đực - cái. Đen nằm bên trong trắng.

    Langdon cảm thấy mạng biểu tượng đang triển khai. Trắng sinh ra đen.

    Tất cả đàn ông đều sinh ra từ đàn bà.

    Trắng - đàn bà.

    Đen - đàn ông.

    Với lấy cái hộp mật mã nhỏ hơn, Langdon nâng nó lên. Nó trông giống hệt cái hộp thứ nhất, ngoại trừ nó chỉ bằng một nửa về kích cỡ, có màu đen. Ông nghe thấy tiếng ùng ục quen thuộc. Có vẻ như cái lọ dấm mà họ đã nghe trước đây nằm bên trong cái ống trụ nhỏ này.

    - Tốt, Robert.

    Teabing nói, đẩy trang giấy da về phía Langdon.

    - Các bạn sẽ hài lòng khi nghe thấy rằng chí ít chúng ta cũng đang bay đúng hướng.

    Langdon xem xét miếng giấy da dày. Đó là bốn câu thơ khác được viết bằng một kiểu chữ hoa mĩ. Lại là thể thơ ngũ bộ iambic. Bài thơ thật bí hiểm, nhưng Langdon chỉ cần đọc câu đầu tiên cũng thấy được rằng kế hoạch của Teabing bay tới Anh là đắc sách.

    Ở LONDON YÊN NGHỈ MỘT HIỆP SĨ ĐƯỢC GIÁO HOÀNG MAI TÁNG

    Phần còn lại của bài thơ hàm ý rằng mật khẩu để mở cái ống trụ thứ hai có thể được tìm thấy bằng cách đến thăm ngôi mộ của hiệp sĩ này, ở đâu đó trong thành phố.

    Langdon náo nức quay về phía Teabing:

    - Ngài có biết bài thơ này nhắc đến hiệp sĩ nào không?

    Teabing cười:

    - Tuyệt đối không. Nhưng tôi biết đích xác chúng ta nên tìm ở hầm mộ nào.

    Vào lúc đó cách mười lăm dặm, sáu chiếc xe cảnh sát ở Kent phóng rất nhanh trên những con phố ẩm ướt mưa, hướng về phía sân bay Biggin Hill Executive.
     
    Chỉnh sửa cuối: 25 Tháng hai 2016
  3. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,093
    CHƯƠNG 79

    Xem
    Trung úy Collet tự rót cho mình một ly Perrier từ tủ lạnh của Teabing và sải bước qua phòng khách trở ra ngoài. Thay vì theo Fache tới London là hiện trường hành động, giờ đây anh phải làm "vú em" trông coi đội PTS đang rải ra khắp Château Villette.

    Cho tới giờ, các bằng chứng họ phát hiện được không giúp ích gì cho lắm: một viên đạn găm trên sàn nhà, một tờ giấy với các biểu tượng được vẽ nguệch ngoạc kèm theo những từ lưỡi dao và thắt lưng hành xác và một dây lưng có ngạnh đẫm máu mà PTS nói với Collet rằng nó gắn liền với giáo đoàn Thiên Chúa giáo bảo thủ Opus Dei, nhóm này gần đây đã gây chấn động khi một chương trình tin tức vạch trần việc họ tuyển mộ người rất hung hãn ở Paris.

    Collet thở dài. Chúc may mắn để hiểu ra được cái mớ hỗn tạp này.

    Đi theo hành lang sang trọng, Collet bước vào phòng khiêu vũ rất rộng, nơi người kiểm tra chính của PTS đang bận rộn thu thập dấu vân tay. Anh ta là một người to béo mặc quần có dây đeo.

    - Có gì không?

    Collet bước vào hỏi.

    Người kiểm tra lắc đầu:

    - Không có gì mới. Nhiều bộ dấu tay khớp với những dấu tìm được khắp ở phần còn lại của ngôi nhà.

    - Dấu tay trên chiếc đai hành xác thì sao?

    - Interpol vẫn đang làm việc. Tôi đã nạp vào máy vi tính tất cả những thứ chúng ta tìm thấy.


    Collet chỉ vào hai cái túi đựng bằng chứng đã niêm phong ở trên bàn:

    - Còn những thứ này thì sao?

    Người kia nhún vai:

    - Sức mạnh của thói quen. Tôi bỏ vào túi tất cả những gì có vẻ đặc biệt.

    Collet bước lại. Đặc biệt.

    - Thật là một người Anh kỳ lạ.

    Người kiểm tra nói.

    - Hãy nhìn cái này mà xem.

    Anh ta lục trong các túi đựng vật chứng và chọn ra một thứ, đưa cho Collet.

    Bức ảnh thể hiện cổng chính của một thánh đường theo kiến trúc Gothic - một cổng tò vò truyền thống với những chỗ hõm, hẹp dần lại qua nhiều lớp có gờ nối tới một khung cửa nhỏ.

    Collet nghiên cứu bức ảnh và hỏi lại:

    - Đây là thứ đặc biệt. Hãy lật lại.

    Ở mặt sau tấm ảnh, Collet thấy những ghi chú nguệch ngoạc bằng tiếng Anh, mô tả gian giữa trống và dài của một nhà thờ lớn như là một sự bí mật bày tỏ lòng tôn kính đối với tử cung người đàn bà. Điều này thật lạ lùng. Tuy nhiên, lời ghi chú mô tả cửa vào của một thánh đường, mới là cái làm anh giật mình.

    - Này! Ông ta nghĩ cửa vào thánh đường biểu hiện cái.. của đàn bà.

    Người nhân viên kiểm tra gật đầu:

    - Đầy đủ cả mép âm hộ lẹm vào và một cái âm vật nhỏ xinh bên trên khung cửa.

    Anh thở dài:

    - Kiểu như khêu gợi ta muốn quay trở về nhà thờ.

    Collet cầm chiếc túi đựng vật chứng thứ hai lên. Qua lớp nhựa, anh có thể nhìn thấy một tấm ảnh lớn có vẻ như là tài liệu cổ. Trên đầu bức ảnh ghi:

    Les Dossiers Secrets - Number 4° lm 2491

    - Cái gì đây?

    Collet hỏi.

    - Tôi không biết. Ông ta có những bản sao như vậy ở khắp nhà nên tôi cho nó vào trong túi.

    Collet nghiên cứu tài liệu này.

    RIEURE DE SIOIU - LES NAUTONIERS/ GRAND MASTERS JEAN DE GISORS 1188-1220

    MARLE DE SAINT-CLAIR 1220-1266

    GUILLAUME DE GISORS 1266-1307 EDOUARD DE BAR 1307-1336 JEAN DE BAR 1336-1351

    JEAN DE SAINT-CLAIR 1351-1366 BLANCE D "EVREUX 1366-1398 NICOLAS FLAMEL 1398-1418 RENE D" ANJOU 1418-1480 IOLANDE DE BAR 1480-1483 SANDRO BOTTICELLI 1483-1510 LEONARDO DA VINCI 1510-1519

    CONNETABLE DE BOURBON 1519-1527

    FERDINAND DE GONZAQUE 1527-1575 LOUIS DE NEVERS 1575-1595

    - 320 -

    ROBERT FLUID 1595-1637

    J. VALENTIN ANDREA 1637-1654 ROBERT BOYLE 1654-1691 ISAAC NEWTON 1691-1727 CHARLES RADCLYFFE 1727-1746

    CHARLES DE LORRAINE 1746-1780 MAXIMILIAN DE LORRAINE 1780-1801 CHARLES NODIER 1801-1844

    VICTOR HUGO 1844-1885 CLAUDE DEBUSSY 1885-1914 JEAN COCTEAU 1918-1963

    Prieuré de Sion?

    Collet phân vân.

    - Trung úy?

    Một nhân viên thò đầu vào.

    - Tổng đài có một cú điện khẩn cho đại úy Fache, nhưng họ không liên lạc được với đại úy, ông có nhận điện không?

    Collet quay trở lại nhà bếp và nhận cuộc gọi. Đó là André Vernet.

    Âm sắc tao nhã của ông chủ nhà băng không đủ để che đậy sự căng thẳng trong giọng nói của ông:

    - Tôi nghĩ Đại úy Fache nói là sẽ gọi điện cho tôi, nhưng tôi vẫn chưa nhận được tin tức gì từ ông ta.

    - Đại úy đang bận.


    Collet trả lời.

    - Tôi có thể gỉúp gì cho ngài?

    - Người ta cam đoan với tôi rằng tôi sẽ được cập nhật về diễn tiến công việc của các ông đêm nay.

    Trong khoảnh khắc, Collet nghĩ anh đã nghe thấy giọng nói của người đàn ông này ở đâu đó, nhưng không xác định được cụ thể.

    - Ngài Vernet, tôi đang chịu trách nhiệm điều tra ở Paris. Tôi là trung úy Collet.

    Có một quãng ngưng dài trên đường dây:

    - Trung úy, xin lỗi, tôi có một cuộc điện thoại khác đang chờ. Tôi sẽ gọi cho ông sau.

    Ông ta gác máy.

    Trong vài giây, Collet vẫn giữ ống nghe. Sau đó mọi thứ trở nên rõ ràng trong đầu anh.

    Mình biết mình đã nhận ra giọng nói này! Phát hiện này làm anh há hốc miệng vì kinh ngạc.

    Người lái chiếc xe bọc thép Với chiếc Rolex giả.

    Bây giờ thì Collet mới hiểu tại sao ông chủ nhà băng lại vội vã cúp máy như vậy. Vernet đã nhớ ra cái tên trung úy Collet - người sĩ quan mà ông ta đã nói dối trắng trợn hồi đầu tối nay.

    Collet ngẫm nghĩ về mối liên quan của diễn biến kì lạ này.

    Vernet có dính líu. Theo bản năng, anh biết mình nên gọi cho Fache. Theo cảm tính, anh biết sự khám phá may mắn này sẽ là thời điểm để anh tỏa sáng.

    Ngay lập tức anh gọi cho Interpol và yêu cầu tất cả những thông tin mà họ có thể tìm thấy về Nhà băng Ký thác Zurich và chủ tịch của nó, André Vernet.
     
    Chỉnh sửa cuối: 22 Tháng ba 2016
  4. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,093
    CHƯƠNG 80
    Xem
    - Thắt dây an toàn.

    Phi công của Teabing thông báo khi chiếc Hawker 731 hạ độ cao đi vào một đám mưa bụi ảm đạm buổi sáng.

    - Chúng ta sẽ hạ cánh sau năm phút nữa.

    Teabing cảm thấy niềm vui của người trở về cố hương khi ông nhìn thấy những ngọn đồi mù sương của Kent trải rộng dưới chiếc máy bay đang thấp dần. Từ Anh đến Paris chưa đầy một giờ bay, vậy mà như cách nhau cả một thế giới. Sáng nay, màu xanh đẫm mưa sương của mùa xuân quê hương như đặc biệt chào đón ông. Thời gian của ta ở Pháp đã hết. Ta đang trở về nước Anh trong tư thế chiến thắng. Viên đá đỉnh vòm đã được tìm ra. Tất nhiên, vẫn còn câu hỏi là viên đá đỉnh vòm đó cuối cùng sẽ dẫn đến đâu. Một nơi nào đó trên Vương quốc Anh. Chính xác là đâu, Teabing chưa biết nhưng ông đang nếm hương vị chiến thắng rồi.

    Trong khi Langdon và Sophie nhìn theo, Teabing đứng dậy, đi sang mé bên kia cabin, rồi kéo một tấm ván tường sang bên để lộ một chiếc két được giấu kín sau tường. Ông quay số và mở két an toàn, lấy ra hai tấm hộ chiếu.

    - Giấy tờ cho Rémy và cho tôi.

    Sau đó, ông rút ra một tập dầy toàn tiền năm mươi bảng.

    - Và giấy tờ cho hai bạn.

    Sophie có vẻ cảnh giác:

    - Một khoản hối lộ?

    - Ngoại giao sáng tạo mà. Các sân bay hành chính thường có chút chiếu cố. Một nhân viên hải quan Anh sẽ đón chúng ta tại nhà chứa máy bay của tôi cũng được lên máy bay kiểm tra. Thay vì cho phép anh ta lên, tôi sẽ bảo anh ta là tôi đi cùng một nữ danh nhân Pháp, cô ấy không muốn ai biết mình có mặt ở Anh - báo chí hay làm rùm beng, bạn biết đấy - và tôi sẽ tặng nhân viên đó món tiền boa hậu hĩnh này để cảm ơn về sự kín đáo của anh ta.


    Langdon có vẻ ngạc nhiên:

    - Và người nhân viên hải quan sẽ nhận?

    - Không phải với bất kỳ ai, bình thường thì họ sẽ không nhận, nhưng tất cả những người này đều biết tôi. Tôi không phải là một người buôn vũ khí, lạy Chúa! Tôi được phong hiệp sĩ cơ mà.


    Teabing mỉm cười.

    - Tư cách thành viên Hoàng gia có đặc quyền của nó.

    Lúc này, Rémy theo lối đi giữa các hàng ghế tiến lại gần, khẩu Heckler & Koch trong tay:

    - Thưa ngài, nhiệm vụ của tôi là gì?

    Teabing liếc nhìn người thân bộc:

    - Tôi cần anh ở lại trên máy bay với vị khách của chúng ta cho đến khi chúng tôi quay lại. Chúng tôi không thể kéo lê hắn đi theo khắp London được.

    Sophie có vẻ cảnh giác:

    - Leigh. Tôi thực sự lo rằng cảnh sát Pháp sẽ tìm thấy chiếc máy bay của ngài trước khi chúng ta trở lại.


    Teabing cười:

    - Phải, hãy tưởng tượng sự ngạc nhiên của họ nếu họ lên máy bay và thấy Rémy.

    Sophie có vẻ ngạc nhiên về thái độ xàm xỡ của ông:

    - Leigh, ngài đã vận chuyển một con tin bị trói qua biên giới quốc tế.

    - Điều này là nghiêm trọng đấy.

    - Các luật sư của tôi cũng nghiêm túc.


    Ông đưa mắt nhìn về hướng gã thầy tu ở sau máy bay.

    - Đồ súc vật này đột nhập vào nhà tôi và suýt giết tôi. Đó là sự thật và Rémy sẽ làm chứng.

    - Nhưng ông đã trói anh ta và chở anh ta bằng máy bay tới London?


    Langdon nói.

    Teabing giơ bàn tay phải lên và phác một cử chỉ như khi thề ở tòa án:

    - Thưa quý tòa, xin hãy tha thứ cho một hiệp sĩ già lập dị về định kiến ngu ngốc của ông ta đối với hệ thống tòa án của Anh. Tôi nhận ra là tôi nên gọi đến các nhà chức trách Pháp, nhưng tôi là một kẻ hợm mình và không tin những người Pháp laise-farei đó. Có thể xử một cách đúng đắn. Người đàn ông này đã suýt giết tôi. Và tôi đã có một quyết định liều lĩnh là bắt người hầu của tôi phải giúp tôi đưa hắn ta về Anh, nhưng tại lúc đó tôi đang chịu áp lực quá lớn. Mea culpa. Mea culpai.

    Langdon có vẻ hoài nghi:

    - Leigh, từ miệng ngài nói ra, điều ấy có thể cho qua.

    - Thưa ngài?

    Viên phi công gọi.

    - Đài không lưu vừa mới gọi. Họ có vấn đề gì đó về việc duy tu bảo dưỡng ở gần nhà chứa máy bay của chúng ta và yêu cầu tôi đưa máy bay thẳng tới chỗ ga hành khách của sân bay thay vì đến thẳng nhà chứa máy bay.

    Teabing thường xuyên đã bay tới Biggin Hill trong hơn một thập kỷ nay và đây là lần đầu tiên có chuyện như thế này.

    - Họ có nói vấn đề đó là gì không?

    - Người kiểm soát không lưu rất mơ hồ. Điều gì đó về việc khí ga rò rỉ ở trạm bơm xăng thì phải? Họ yêu cầu tôi đỗ phía trước ga hành khách và giữ mọi nguời ở trên máy bay cho đến khi có lệnh khác. Đề phòng về an toàn đấy ạ. Chúng ta không đuợc ra khỏi máy bay cho đến khi chúng ta được những người có thẩm quyền ở sân bay cho phép.


    Teabing nghi ngờ. Chắc phải là một vụ rò rỉ khí ga kinh thiên động địa. Trạm bơm xăng cách nhà chứa máy bay của ông những nửa dặm cơ mà.

    Rémy cũng có vẻ lo lắng:

    - Thưa ngài, chuyện này nghe rất trái lẽ thường.

    Teabing quay sang Sophie và Langdon:

    - Các bạn của tôi, tôi có mối nghi ngờ chẳng thú vị gì là chúng ta sắp được cả một ủy ban đón tiếp.

    Langdon khẽ thở dài:

    - Tôi đoán Fache vẫn nghĩ tôi là đối tượng của ông ta.


    - Hoặc là như vậy.

    Sophie nói.

    - Hoặc là ông ấy dấn sâu quá mức vào vụ này để có thể thú nhận sai lầm của mình.


    Teabing không lắng nghe. Bất kể sự cố chấp của Fache thì vẫn cần phải hành động gấp. Không được rời mắt khỏi mục tiêu cuối cùng. Chén Thánh. Chúng ta đã ở rất gần. Bên dưới họ, càng máy bay đã hạ xuống với một tiếng cạch.

    - Leigh.

    Langdon nói, giọng nghe đầy hối hận.

    - Tôi nên tự nộp mình và tìm cách giải quyết việc này theo pháp luật. Để ông đứng ngoài toàn bộ chuyện này.

    - Ôi trời, Robert!


    Teabing khoát tay.

    - Anh thực sự nghĩ là họ sẽ thả những người còn lại trong chúng ta sao? Tôi vừa mới vận chuyển các bạn trái phép. Cô Neveu giúp anh trốn thoát từ Louvre, và chúng ta có một gã bị trói ở đằng sau máy bay. Quả thật, tất cả chúng ta cùng hội cùng thuyền mà.

    - Có thể có một phi cảng khác?


    Sophie nói.

    Teabing lắc đầu:

    - Nếu bây giờ chúng ta đổi hướng thì vào lúc chúng ta được phép hạ cánh xuống bất cứ nơi nào khác, đoàn chào mừng chúng ta sẽ bao gồm cả xe tăng quân sự!


    Sophie ngồi phịch xuống.

    Teabing cảm thấy rằng nếu họ có cơ may trì hoãn việc đối mặt với các nhà chức trách Anh đủ lâu để tìm Chén Thánh thì phải hành động táo bạo hơn.

    - Chờ tôi một phút.

    Ông nói và đi khập khiễng về phía buồng lái.

    - Ông đang làm gì vậy?

    Langdon hỏi.

    - Họp bàn chuyện mua bán.

    Teabing nói, tự hỏi không biết phải chi bao nhiêu để thuyết phục phi công của mình thực hiện một chiêu thức hết sức bất thường.
     
    Chỉnh sửa cuối: 23 Tháng ba 2016
  5. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,093
    CHƯƠNG 81

    Xem
    Chiếc Hawker đang trong giai đoạn tiếp đất cuối cùng.

    Simon Edwards - quan chức Điều hành Dịch vụ tại sân bay Biggin Hill Executive - đi tới đi lui trong đài quan sát, nheo mắt nhìn lo âu về đường băng ướt mưa. Ông chẳng bao giờ ưa bị đánh thức sớm vào sáng thứ bẩy, nhưng đặc biệt khó chịu khi bị gọi đến để giám sát việc bắt giữ một trong những khách hàng xộp nhất của mình. Ngài Leigh Teabing không chỉ trả cho sân bay Biggin Hill tiền thuê cái hăng-ga riêng, mà còn cả một khoản "phí hạ cánh" cho mỗi lần đến và đi đều đặn của ông. Thông thường, 8ân bay này được báo trước lịch hành trình của Teabing và có thể tuân theo một thủ tục nghiêm ngặt đối với những lần đến của ông. Teabing thích mọi sự phải được thực hiện đúng như thế. Chiếc limousine có thể kéo dài mang nhãn hiệu Jaguar làm theo đơn đặt hàng của khách mà ông giữ trong hăng-ga phải luôn đầy xăng, lau rửa bóng lộn, và một tờ Thời báo Lonlon trong ngày để sẵn ở ghế sau. Một nhân viên hải quan đợi sẵn chiếc máy bay tại hăng-ga để xúc tiến việc kiểm tra hành lý và tài liệu bắt buộc. Thi thoảng, những nhân viên hải quan đã nhận những khoản tiền boa lớn từ Teabing để lờ đi việc vận chuyển một số đồ hữu cơ vô hại - hầu hết là thức ăn xa xỉ - ốc sên Pháp, một loại phomat Requefort đặc biệt không chế biến, một vài loại hoa quả nào đó. Vả chăng nhiều luật của hải quan cũng vô lý, và nếu sân bay Biggin Hill không chiều ý khách của mình thì chắc chắn các sân bay cạnh tranh sẽ hứng ngay. Teabing được đáp ứng những gì ông ta muốn ở đây, tại sân bay Biggin Hill và những nhân viên thì thu được lợi lộc.

    Lúc này, Edward cảm thấy thần kinh căng thẳng khi nhìn chiếc phản lực tiến vào. Ông tự hỏi phải chăng khuynh hướng hào phóng của Teabing, cách nào đó, đã làm cho ông ta gặp rắc rối, nhà chức trách Pháp dường như quyết tâm ngăn chặn ông. Edward còn chưa được cho bỉết là ông bị kết những tội gì nhưng rõ ràng chúng rất nghiêm trọng. Theo yêu cầu của nhà chức trách Pháp, cảnh sát Kent ra lệnh cho nhân viên kiểm soát không lưu đánh điện bằng rađiô cho phi công của chiếc máy bay Hawker và yêu cầu anh ta đến thẳng ga hành khách thay vì nhà chứa máy bay riêng của Teabing. Viên phi công đã đổng ý rõ ràng anh ta tin câu chuyện khó tin về vụ rò rỉ khí ga.

    Cho dù cảnh sát Anh không thường mang vũ khí, nhưng do tính nghiêm trọng của tình hình nên vẫn xuất hiện một đội được trang bị vũ khí. Tám cảnh sát với súng ngắn đứng ở bên trong ga hành khách, chờ lúc động cơ máy bay dừng hẳn. Đến lúc đó người phục vụ đường băng sẽ đặt những cái nêm an toàn dưới lốp xe để - máy bay không còn dịch chuyển được nữa.

    Sau đó cảnh sát xuất hiện và khống chế những người trên máy bay cho đến khi cảnh sát Pháp đến xử lý tình hình.

    Chiếc Hawker đã xuống thấp, đang bay là là trên ngọn cây phía tay phải họ. Simon Edwards đi xuống cầu thang để quan sát việc hạ cánh ngang tầm đường băng. Toán cảnh sát Kent đã ở tư thế sẵn sàng, vừa vặn khuất lầm nhìn, và người nhân viên bảo dưỡng đứng chờ đợi cùng với những cái nêm. Bên ngoài đường băng mũi của chiếc Hawker nghếch lên và bánh xe khẽ chạm đất trong thời gian một hơi thuốc. Chiếc máy bay giảm tốc độ lượn thành vệt từ phải sang trái trước ga hành khách, thân màu trắng của nó sáng lấp lánh trong thời tiết ẩm ướt.

    Nhưng thay vì phanh lại và quay đầu vào ga hành khách, thì chiếc phản lực bình thản băng qua làn đường vào ga và tiếp tục đi về phía hăng-ga của Teabing ở đằng xa.

    Tất cả cảnh sát quay lại và nhìn chằm chằm vào Edwards:

    - Tôi tưởng anh nói người phi công đã đồng ý đến thẳng ga hành khách.

    Edwards ngớ ra:

    - Đúng thế mà!

    Lát sau, Edwards thấy mình ngồi kẹp trong chiếc xe cảnh sát phóng qua đường băng về phía hăng-ga ở đằng xa. Tốp cảnh sát còn cách cả năm trăm thước thì chiếc Hawker của Teabing đã thản nhiên tiến vào hăng-ga riêng và bìến mất. Cuối cùng, khi tốp xe con tới và dừng kít lại bên ngoài hăng-ga, cảnh sát ào ra, súng lăm lăm.

    Edwards cũng nhảy ra. Tiếng ồn ào đinh tải.

    Động cơ của chiếc Hawker vẫn gầm lên khi chiếc phản lực chấm dứt vòng quay thông thường bên trong hăng-ga, vào vị trí quay mũi ra, sẵn sàng cho chuyến xuất phát sau. Khi chiếc máy bay hoàn thành động tác quay vòng 180o và chạy về phía trước hăng-ga, Edwards có thể nhìn thấy mặt viên phi công, có thể hiểu được anh ta kinh ngạc và sợ hãi như thế nào khi thấy cả một hàng rào xe cảnh sát.

    Phi công dừng hắn máy bay và tắt động cơ. Cảnh sát tràn vào, chiếm lĩnh vị trí xung quanh chiếc phản lực. Edwards cùng với viên chánh thanh tra cảnh sát quận Kent di chuyển một cách thận trọng về phía cửa máy bay. Sau một vài giây, cửa máy bay mở ra.

    Leigh Teabing xuất hiện ở khung cửa khi chiếc thang điện nhẹ nhàng hạ xuống. Nhìn thấy cả một biển vũ khí nhằm vào mình, ông chống đôi nạng và gãi đầu:

    - Simon, có phải là tôi trúng xổ số của cảnh sát trong khi vắng nhà không?

    Giọng ông có vẻ ngơ ngác hơn là lo lắng.

    Simon Edwards bước lên, ráng nuốt cái cục chẹn ngang cổ họng:

    - Chào ngài, tôi xin lỗi về sự nhầm lẫn. Chúng tôi có khí rò rỉ và phi công của ngài nói anh ta đến thẳng ga hành khách.

    - Vâng, vâng, phải, nhưng thay vì như thế, tôi bảo anh ta đến đây. Tôi đang muộn một cuộc hẹn. Tôi trả tiền cho hăng-ga này, và cái chuyện vẽ vời né tránh chỗ khí ga rò rỉ nghe có vẻ quá ư thận trọng.

    - Tôi e rằng việc ngài đến đã làm chúng tôi hơi bất ngờ, thưa ngài.

    - Tôi biết Tôi về không đúng lịch chữa bệnh mà. Nói riêng với nhau, phương pháp điều trị mới làm tôi bí tiểu tiện. Tôi nghĩ mình phải về để điều chỉnh lại thuốc.

    Đám cảnh sát đưa mắt nhìn nhau. Edwards nhăn nhó:

    - Rất tốt, thưa ngài.

    - Thưa ngài.

    Chánh thanh tra cảnh sát quận Kent bước lên phía trước.

    - Tôi yêu cầu ngài ở lại trên máy bay khoảng nửa tiếng nữa.

    Teabing có vẻ không vui khi ông tập tễnh bước xuống cầu thang:

    - Tôi e là không thể được. Tôi có một cuộc hẹn khám sức khoẻ.

    Ông xuống tới đường băng.

    - Tôi không thể lỡ hẹn.

    Chánh thanh tra tiến đến chặn không để cho Teabing rời khỏi máy bay:

    - Tôi tới đây theo lệnh của Cảnh sát tư pháp Pháp. Họ quả quyết ngài đang chở những kẻ lẩn trốn pháp luật trên chiếc máy bay này.

    Teabing nhìn chằm chằm vào viên chánh thanh tra hồi lâu rồi cười phá lên:

    - Đây là một trong những chương trình quay phim được giấu kín phải không? Hay đấy!

    Chánh thanh tra không nao núng:

    - Điều này là nghiêm trọng, thưa ngài. Cảnh sát Pháp khẳng định ngài còn có một con tin trên máy bay.

    Người hầu của Teabing là Rémy xuất hiện ở ô cửa đầu cầu thang:

    - Tôi cảm thấy như mình là một con tin làm việc cho ngài Leigh, nhưng ngài cam đoan với tôi rằng tôi được tự do đi khỏi.

    Rémy nhìn đồng hồ.

    - Ông chủ, quả là chúng ta đang bị trễ đấy.

    Ông ta gật đầu về hướng chiếc limousine có thể kéo dài mang nhãn hiệu Jaguar ở góc đằng kia hăng-ga. Chiếc ô tô đồ sộ màu gỗ mun với kính mờ và lốp màu tường trắng.

    - Tôi sẽ đưa xe lại.

    Rémy bắt đầu xuống cầu thang.

    - Tôi e rằng chúng tôi không thể để các ông đi được.

    Chánh thanh tra nói.

    - Xin hãy trở lại máy bay. Cả hai ông. Đại diện của cảnh sát Pháp sẽ hạ cánh trong chốc lát.

    Lúc này, Teabing nhìn Simon Edwards:

    - Lạy Chúa, Simon, chuyện này thật lố bịch! Chúng tôi không có bất cứ ai khác trên máy bay. Chỉ như mọi khi - Rémy, viên phi công của chúng tôi và bản thân tôi. Có lẽ ông có thể làm trung gian chứ? Hãy lên kiểm tra máy bay và chứng thực là không có ai cả.

    Edwards biết mình bị mắc kẹt:

    - Vâng, thưa ngài. Tôi có thể xem xét.

    - Đừng hòng!

    Chánh thanh tra quận Kent tuyên bố, rõ ràng nắm khá vững về những sân bay hành chính đủ để ngờ rằng Simon Edwards rất có thể nói dối về những người trên máy bay nhằm duy trì được quan hệ làm ăn với Teabing tại sân bay Biggin Hill.

    - Tự tôi sẽ xem xét.

    Teabing lắc đầu:

    - Không, ông không được làm thế, thanh tra.

    - Đây là tài sản cá nhân và cho tới khi ông có lệnh khám xét, ông vẫn phải ở ngoài máy bay của tôi. Tôi đang đề xuất với ông một phương án hợp lý đấy. Ông Edwards có thể thực hiện việc kiểm tra này.

    - Không thương lượng gì hết.

    Thái độ của Teabing trở nên lạnh lùng:

    - Thanh tra, tôi e mình không có thời gian để chiều theo trò chơi của ông. Tôi đã muộn, và tôi phải đi. Nếu điều quan trọng đối với ông là ngăn chặn tôi thì ông sẽ phải bắn tôi.

    Nói rồi, Teabing và Rémy đi quành qua viên chánh thanh tra và ngang qua hăng-ga tới chỗ chiếc limousine đang đậu.

    Chánh thanh tra quận Kent chỉ cảm thấy ghê tởm đối với Leigh Teabing khi ông này tập tễnh đi quành qua ông, đầy vẻ thách thức. Những người có đặc quyền đặc lợi luôn luôn cảm thấy như là họ đứng trên luật pháp.

    Họ không thể. Chánh thanh tra quay lại và nhằm súng vào lưng Teabing:

    - Đứng lại! Tôi sẽ bắn!

    - Bắn đi.

    Teabing nói mà không thèm dừng bước hoặc ngoái lại.

    - Luật sư của ta sẽ nấu xốt tinh hoàn của anh làm bữa điểm tâm. Và nếu anh dám lên máy bay của ta mà không có lệnh khám xét, thì lá lách của anh sẽ là món tiếp theo đấy.

    Không lạ gì những ngón giương vây quyền lực, viên chánh thanh tra chẳng hề run sợ. Về mặt thủ tục pháp lý, Teabing đã đúng và cảnh sát cần có lệnh khám xét để lên chiếc phản lực của ông ta, nhưng vì chuyến bay này xuất phát từ Pháp, và vì tay Bezu Fache đầy quyền lực đã trao quyền, nên chánh thanh tra quận Kent cảm thấy chắc chắn sự nghiệp của mình sẽ tốt đẹp hơn bằng việc khám phá ra những gì mà Teabing dường như cố gắng giấu kín trên chiếc máy bay này.

    - Chặn họ lại.

    Chánh thanh tra ra lệnh.

    - Tôi sẽ lục soát máy bay.

    Người của ông ta lao tới, súng chĩa ra, chặn đường hai thày trò Teabing, không cho tới chiếc limousine.

    Bấy giờ Teabing mới quay lại:

    - Thanh tra, đây là lời cảnh cáo cuối cùng dành cho anh. Đừng có nghĩ đến chuyện lên chiếc máy bay này. Anh sẽ phải hối tiếc đấy.

    Phớt lờ lời hăm dọa, chánh thanh tra nắm chặt vũ khí và bước lên cầu thang rút của máy bay. Tới cửa sập, ông ngó vào bên trong. Lát sau, ông bước vào cabin. Quái quỷ gì thế này?

    Ngoại trừ viên phi công vẻ như thất đảm trong khoang lái, máy bay trống không. Hoàn toàn không có sự sống của con người. Nhanh chóng kiểm tra phòng vệ sinh, ghế và nơi để hành lý, chánh thanh tra không tìm thấy dấu vết của bất cứ một người lẩn trốn nào.. chưa nói gì đến nhiều cá nhân.


    Bezu Fache đã nghĩ ra chuyện quái quỉ gì vậy? Dường như Teabing đã nói thật.

    Chánh thanh tra đứng một mình trong cabin vắng teo và nuốt nghẹn. Cứt. Mặt ông ta bừng đỏ, ông quay lại cầu thang rút, nhìn qua hăng-ga về phía hai thầy trò Leigh Teabing đang đứng gần chiếc limousine trước những họng súng.

    - Để họ đi.

    Thanh tra ra lệnh.

    - Chúng ta nhận được thông tin sai rồi.

    Mắt Teabing đầy vẻ đe dọa, ngay cả qua chiều rộng của hăng-ga cũng thấy rõ:

    - Anh hãy chờ một cuộc gọi từ các luật sư của ta. Và để tham khảo sau này, nên nhớ rằng cảnh sát Pháp không thể tin cậy được.

    Với lời đe da đó, người giúp việc của Teabing mở cửa sau chiếc limousine và đỡ ông chủ tàn tật ngồi vào ghế sau. Rồi, đi theo chiều dài của xe, ngồi vào sau vô lăng và khởi động. Cảnh sát tản ra khi chiếc Jaguar bứt khỏi hăng-ga.


    * * *

    - Chơi tốt lắm, anh bạn.

    Teabing reo lên từ ghế sau khi chiếc limousine tăng tốc ra khỏi sân bay. Ông quay mắt nhìn vào góc phía trước lờ mờ sáng của khoang trong rộng rãi:

    - Mọi người đầy thoải mái chứ?

    Langdon gật đầu yếu ớt. Ông và Sophie vẫn nằm khom khom trên sàn xe, bên cạnh gã bạch tạng bị bịt miệng và trói chặt.

    Nhiều phút trước, lúc chiếc Hawker lăn bánh vào hăng-ga trống vắng, Rémy đã bật mở cửa sập dưới bụng của máy bay trong khi nó khấp khểnh dừng lại giữa chừng vòng của. Trong khi cảnh sát cấp tốc áp sát hăng-ga, Langdon và Sophie kéo gã thầy tu xuống cầu thang rút đến ngang mặt đất và khuất tầm mắt sau chiếc limousine. Sau đó, động cơ máy bay lại gầm lên, hoàn tất vòng của của nó khi đoàn xe cảnh sát tràn vào hăng-ga.

    Giờ đây, khi chiếc limousine phóng nhanh về phía Kent, Langdon và Sophie lồm cồm đứng dậy đi về phía cuối khoang trong dài rộng của chiếc xe thượng đẳng, để lại gã thầy tu bị trói trên sàn. Họ ngồi trên chiếc ghế dài đối diện với Teabing. Ông già người Anh tặng cho cả hai một nụ cười tinh quái và mở tủ rượu của quầy bar trong xe.

    - Tôi có thể mời các bạn một ly được không? Một chút đồ nhắm nhé? Khoai tây rán? Hạt dẻ?

    Cả Sophie và Langdon đều lắc đầu.

    Teabing cười tươi và đóng quầy rượu:

    - Vậy thì ta bàn về nấm mộ của người hiệp sĩ..
     
    Chỉnh sửa cuối: 25 Tháng hai 2016
  6. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,093
    Mật Mã Davinci - Chương 82

    Bấm để xem
    Đóng lại
    - Phố Fleet?

    Langdon hỏi, nhìn Teabing ở phía sau xe. Có một hầm mộ ở phố Fleet ư? Cho đến giờ, Leigh vẫn chơi trò kín kín hở hở về nơi mà ông nghĩ là họ có thể tìm thấy "mộ của người hiệp sĩ", mà theo bài thơ, sẽ cung cấp mật khẩu cho việc mở cái hộp mật mã nhỏ hơn.

    Teabing cười và quay sang Sophie:

    - Cô Neveu, hãy đưa cho chàng trai Harvard xem qua bài thơ một lần nữa, được không?

    Sophie lục tìm trong túi và rút ra chiếc hộp mật mã màu đen, bọc trong giấy da. Mọi người đã quyết định để lại chiếc hộp gỗ hồng mộc và hộp mật mã lớn hơn trong két sắt của máy bay, chỉ mang theo cái họ cần là chiếc hộp mật mã màu đen kín đáo và gọn nhẹ hơn nhiều. Sophie mở tấm giấy bọc và đưa cho Langdon.

    Mặc dù Langdon đã đọc bài thơ đó vài lần trên máy bay rồi nhưng ông cũng không thể suy ra được một địa điểm cụ thể nào. Giờ đây, khi đọc lại những từ trong bài thơ, ông từ từ nghiền ngẫm thật cẩn thận, hy vọng giờ đây, ở trên mặt đất, tiết tấu ngũ bộ sẽ hé lộ ý nghĩa rõ ràng hơn.

    Ở London yên nghỉ một hiệp sĩ được Giáo hoàng mai táng. Kết quả công sức chàng chuốc lấy cơn thịnh nộ Thần Thánh. Ngươi kiếm tìm trái cầu lẽ ra phải ở trên mộ chàng.

    Nó nói về da thịt Hồng và tử cung mang hạt giống.

    Ngôn từ dường như khá đơn giản. Có một hiệp sĩ được chôn ở London. Một hiệp sĩ đã khổ công làm một điều gì đó khiến Giáo hội tức giận. Một hiệp sĩ mà mộ của chàng thiếu mất một quả cầu lẽ ra phải có ở đó. Hình tượng cuối cùng được nhắc tới trong bài thơ - da thịt Hồng và tử cung mang hạt giống - là một ám chỉ rõ ràng đến Mary Magdalene, đóa Hồng mang hạt giống của Jesus.

    Mặc dù bài thơ có vẻ dễ hiểu, Langdon vẫn không sao biết được hiệp sĩ đó là ai hoặc được chôn ở đâu. Hơn nữa, một khi đã xác định được vị trí ngôi mộ, xem ra còn phải tìm một cái gì đó bị thiếu. Trái cầu lẽ ra phải ở trên mộ chàng?

    - Không nghĩ ra à?

    Teabing tặc lưỡi ra vẻ thất vọng, mặc dù Langdon cảm thấy nhà sử học Hoàng gia đang khoái vì đã nắm được một nguồn tin.

    - Còn cô Neveu?

    Cô lắc đầu.

    - Hai bạn sẽ làm gì nếu không có tôi?

    Teabing nói.

    - Được, tôi sẽ dẫn các bạn đi qua bài thơ này. Nó thực sự rất đơn giản. Câu thứ nhất chính là chìa khóa. Xin đọc lên nào.

    Langdon đọc to:

    - Ở London yên nghỉ một hiệp sĩ được Giáo hoàng mai táng.

    - Chính xác. Một hiệp sĩ được pope - Giáo hoàng mai táng.

    Ông nhìn Langdon.

    - Theo anh, điều đó có nghĩa là gì?

    Langdon nhún vai:

    - Một hiệp sĩ đã được một Giáo hoàng chôn cất. Một hiệp sĩ được một Giáo hoàng chủ trì tang lễ.

    Teabing cười to:

    - Ồ, thật. Bao giờ cũng lạc quan, Robert. Hãy xem câu thứ hai. Hiển nhiên là hiệp sĩ này đã làm điều gì đó để chuốc lấy cơn thịnh nộ Thần Thánh của Giáo hội. Hãy nghĩ lại. Hãy xét năng động giữa Giáo hội và các Hiệp sĩ Templar. Một hiệp sĩ đã được một Giáo hoàng mai táng phải không?

    - Một hiệp sĩ bị một Giáo hoàng giết phải không?

    Sophie hỏi.

    Teabing mỉm cười và vỗ vỗ vào đầu gối cô:

    - Suy luận tốt lắm, cô bạn thân mến. Một hiệp sĩ bị một Giáo hoàng chôn. Tức bị giết.

    Langdon nghĩ đến chiến dịch khét tiếng truy quét các Hiệp sĩ Templar vào năm 1307 - ngày thứ sáu 13 bất hạnh - khi Giáo hoàng Clement đã giết và chôn hàng trăm Hiệp sĩ Templar.

    - Nhưng hẳn phải có vô số mộ của những hiệp sĩ bị Giáo hoàng giết?

    - Aha, không phải như vậy!

    Teabing nói.

    - Nhiều người trong số họ bị thiêu trên giàn thiêu và bị ném thẳng xuống sông Tiber. Nhưng bài thơ này nhắc đến một ngôi mộ. Một ngôi mộ ở London. Và có một số hiệp sĩ được chôn ở London.

    Ông dừng lại nhìn Langdon như thể đang đợi ánh sáng hé rạng trong đầu ông ta. Cuối cùng ông sốt ruột:

    - Robert, vì Chúa! Ngôi nhà thờ do đội quân của Tu viện Sion xây dựng ở London - chính các Hiệp sĩ Templar!

    - Nhà thờ Temple?

    Langdon hít vào, kinh ngạc.

    - Ở đó có hầm mộ?

    - Mười trong số những ngôi mộ ghê sợ nhất anh có thể thấy.

    Langdon chưa từng đến Nhà thờ Temple, mặc dù ông đã đọc rất nhiều giới thlệu chiếu về nó trong quá trình nghiên cứu về Tu viện Sion. Đã từng một thời là trung tâm cho mọi hoạt động của các Hiệp sĩ Templar và Tu viện Sion ở nước Anh, Nhà thờ Temple được đặt tên như thế để tôn vinh Solomon's Temple - Đền thờ Solomon mà từ đó các Hiệp sĩ Templar rút ra danh hiệu của mình cũng như những tài liệu Sangreal đã mang lại cho họ ảnh hưởng to lớn ở Roma. Có rất nhiều truyện về các hiệp sĩ tiến hành những nghi thức kỳ lạ, bí mật bên trong hậu cung khác thường của Nhà thờ Temple.

    - Nhà thờ Temple ở phố Fleet?

    - Thực tế, nó ở ngõ Inner Temple ngay sát phố Fleet.

    Nom Teabing thật ranh mãnh.

    - Tôi muốn thấy anh đổ mồ hôi thêm tí nữa trước khi tôi nói ra.

    - Cảm ơn.

    - Cả hai đều chưa đến đó phải không?

    Sophie và Langdon gật đầu.

    - Tôi không ngạc nhiên.

    Teabing nói.

    - Giờ đây Nhà thờ Temple đã bị che khuất sau những tòa nhà lớn hơn. Thậm chí rất ít người biết có nó ở đó. Nơi cổ kính bí hiểm. Kiến trúc ngoại giáo đến tận cốt lõi.

    Sophie có vẻ ngạc nhiên:

    - Ngoại giáo?

    - Ngoại giáo mang tính chất đa thần!

    Teabing thốt lên.

    - Nhà thờ hình tròn. Các Hiệp sĩ Templar đã bỏ qua thiết kế quy hoạch hình chữ thập theo truyền thống của người Cơ đốc và xây dựng một nhà thờ hình tròn hoàn hảo để tôn vinh mặt trời.

    Lông mày ông biểu diễn một vũ điệu quỷ quái.

    - Một lời chào không mấy tế nhị gửi tới những chàng trai ở Roma. Khác nào họ khôi phục lại Stonehenge. Ở trung tâm London vậy.

    Sophie nhìn Teabing:

    - Thế còn những câu sau của bài thơ?

    Vẻ vui thích của nhà sử gia nhạt dần:

    - Tôi không chắc. Thật khó mà lần cho ra. Chúng ta cần cẩn thận xem xét từng chiếc trong mười ngôi mộ. Nếu may mắn, ta sẽ thấy một trong số đó rõ ràng là thiếu một quả cầu.

    Langdon nhận thấy họ đã gần mục tiêu đến mức nào. Nếu quả cầu thiếu vắng cho biết mật khẩu thì họ có thể mở cái hộp mật mã thứ hai. Ông thấy khó tưởng tượng ra những gì họ có thể tìm thấy bên trong.

    Langdon xem lại bài thơ. Nó giống như một loại trò chơi ô chữ thuở xưa. Một từ có năm chữ cái nói về Chén Thánh? Trên máy bay, họ đã thử tất cả những mật khẩu có vẻ là hiển nhiên: GRAIL, GRAAL, GREAL, VENUS, MARI JESUS, SARAH - nhưng hình trụ không nhúc nhích. Quá hiển nhiên. Vẻ như có một từ năm chữ cái nào khác liên quan đến tử cung mang thai của Rose. Việc một chuyên gia như Leigh Teabing cũng không nắm bất được cái từ này cho Langdon thấy rằng đây không phải là một từ quy chiếu đến Chén Thánh một cách thông thường.

    - Ngài Leigh?

    Rémy gọi qua vai. Ông ta đang nhìn họ trong gương chiếu hậu qua tấm ngăn để ngỏ.

    - Ngài nói phố Fleet ở gần cầu Blackriars phải không?

    - Đúng, đi theo đường Victoria Embankment.

    - Tôi xin lỗi. Tôi không biết chắc nó ở quãng nào. Mọi khi chúng ta chỉ đi đến bệnh viện.

    Teabing nhìn Langdon và Sophie, mắt long sòng sọc và lầu bầu.

    - Tôi thề, đôi khi thật cứ như làm bảo mẫu giữ trẻ vậy. Xin đợi cho một lát. Các bạn cứ tự nhiên dùng đồ uống và nhấm nháp.

    Ông rời bọn họ, hì hụi lết đến nói chuyện với Rémy qua tấm ngăn để ngỏ.

    Lúc này Sophie quay sang Langdon, giọng của cô êm ả:

    - Robert, không ai biết anh và tôi đang ở Anh.

    Langdon thấy cô nói đúng. Cảnh sát quận Kent hẳn đã nói với Fache là chiếc máy bay trống không, và Fache ắt phải cho là họ vẫn ở Pháp. Chúng ta là vô hình. Cái mẹo nhỏ của Leigh đã kiếm được cho họ vô khối thời gian.

    - Fache sẽ không bỏ qua dễ dàng.

    Sophie nói.

    - Ông ta đã sa đà quá nhiều vào trò truy bắt này.

    Langdon cố không nghĩ về Fache. Sophie đã hứa sẽ làm mọi thứ trong khả năng của mình để miễn trách nhiệm cho Langdon khi vụ việc này kết thúc, nhưng Langdon đã bắt đầu sợ là điều đó có thể không quan trọng. Fache dễ có thể nằm trong âm mưu này. Mặc dù Langdon không thể tưởng tượng được là Cảnh sát tư pháp lại dây dưa vào chuyện Chén Thánh, ông vẫn cảm thấy đêm nay có quá nhiều trùng hợp ngẫu nhiên đến nỗi không thể bỏ qua khả năng Fache có thể là một tòng phạm. Fache là người có đạo, và ông ta kiên quyêt đổ tội giết người cho ta. Lại nữa, Sophie thì cứ biện luận rằng Fache đơn giản chỉ quá sốt sắng thực hiện việc bắt giữ. Xét cho cùng, bằng chứng chống lại Langdon là đáng kể. Ngoài việc tên của Langdon được viết nguệch ngoạc trên sàn bảo tàng Louvre và trong sổ ghi các cuộc hẹn của Saunière, giờ đây đã rõ ra là Langdon đã nói dối về bản thảo của mình rồi sau đó bỏ chạy. Theo gợi ý của Sophie.

    - Robert, tôi lấy làm tiếc anh đã dính líu quá sâu.

    Sophie nói, đặt tay lên đầu gối Langdon.

    - Nhưng tôi cũng rất vui mừng là anh ở đây.

    Lời bình luận nghe có vẻ thực dụng hơn là lãng mạn, tuy nhiên, Langdon vẫn cảm thấy lóe lên bất ngờ một tương quan hấp dẫn giữa hai người. Ông mỉm cười một cách mệt mỏi với cô:

    - Tôi sẽ vui hơn nhiều khi tôi được ngủ một giấc.

    Sophie im lặng khoảng vài giây:

    - Ông tôi yêu cầu tôi tin anh. Tôi lấy làm vui mừng là đã nghe lời ông tôi lần này.

    - Ông của cô thậm chí không hề biết tôi.

    - Dù vậy, tôi vẫn không thể không nghĩ là anh đã làm mọi thứ ông tôi muốn. Anh đã giúp tôi tìm ra viên đá đỉnh vòm, giải thích về Sangreal, kể với tôi về nghi lễ trong tầng hầm.

    Cô ngừng lại.

    - Không hiểu sao đêm nay tôi cảm thấy gần gũi với ông tôi hơn nhiều năm trước đây. Tôi biết ông tôi sẽ rất vui sướng về điều đó.

    Đằng xa, đường chân trời của London đã bắt đầu hiện ra qua làn mưa bụi lúc rạng đông. Trước kia, thống ngự ở London là đồng hồ Big Bellvà cây cầu Tower Bridge, giờ đây, chân trời cúi chào Millennium Eye - Con mắt Thiên niên kỷ - chiếc bánh xe quay Ferris khổng lồ cực kỳ hiện đại leo tớỉ độ cao một trăm năm mươi mét, từ đó ngắm quang cảnh thành phố thật ngây ngất. Langdon đã thử lên đó một lần, nhưng những "khoang ngắm cảnh" khiến ông nhớ đến những quan tài đá kín bưng, và ông quyết định đứng vững trên mặt đất mà thưởng thức quang cảnh từ đôi bờ lộng gió của sông Thames.


    Langdon cảm thấy ai đó bóp mạnh vào đầu gối, kéo ông quay lại và thấy đôi mắt xanh của Sophie dán vào mình. Ông nhận ra là cô đang nói với mình:

    - Anh nghĩ chúng ta nên làm gì với những tài liệu Sangreal nếu chúng ta tìm thấy chúng?

    Cô thì thầm.

    - Những gì tôi nghĩ không thành vấn đề.

    Langdon nói.

    - Ông cô đã trao hộp mật mã cho cô, và cô nên làm theo những gì mà linh tính mách bảo rằng ông cụ muốn cô làm như vậy.

    - Tôi muốn biết quan điểm của anh. Rõ ràng anh đã viết điều gì trong bản thảo đó làm ông tôi tin vào nhận định của anh. Ông tôi đã lên lịch một cuộc gặp riêng với anh. Điều đó là hi hữu.

    - Có thể ông cụ muốn bảo tôi rằng tôi đã hiểu sai hoàn toàn.

    - Tại sao ông tôi lại bảo tôi tìm anh trừ phi ông tôi thích ý tưởng của anh? Trong bản thảo của mình, anh ủng hộ ý kiến cho rằng tài liệu Sangreal nên được công bố hay cứ để bị chôn vùi?

    - Cả hai ý đều không. Tôi không đưa ra nhận định theo một trong hai cách đó. Bản thảo đó bàn về hệ biểu tượng của tính nữ thiêng liêng - truy tìm những minh họa cho tính nữ thiêng liêng trong toàn bộ lịch sử. Chắc chắn tôi không mạo nhận là mình biết chỗ Chén Thánh được cất giấu hoặc cho rằng nó có nên được tiết lộ hay không.

    - Tuy nhiên, anh đang viết một cuốn sách về nó, vậy rõ ràng là anh cảm thấy thông tin nên được chia sẻ.

    - Có một sự khác nhau rất lớn giữa việc tranh luận trên cơ sở giả thuyết về một lịch sử khác của Christ và..

    Ông ngừng lại.

    - Và gì?

    - Và việc trình ra trước thế giới hàng nghìn tài liệu cổ như là bằng chứng khoa học rằng Tân ước là thư chứng sai.

    - Nhưng anh đã nói với tôi rằng Tân ước được dựa trên những điều bịa đặt.

    Langdon mỉm cười:

    - Sophie, mọi niềm tin vào thế giới đều được dựa trên những điều bịa đặt. Đó là định nghĩa về niềm tin - chấp nhận điều mà chúng ta tưởng tượng là đúng, điều mà chúng ta không thể chứng minh. Mọi tôn giáo đều miêu tả Thượng Đế qua ẩn dụ, ngụ ngôn và cường điệu, từ những người Ai Cập cổ cho đến các trường đạo ngày Chủ nhật hiện nay. Ẩn dụ là một cách để giúp trí óc chúng ta xử lý những gì không thể xử lý được. Vấn đề chỉ phát sinh khi chúng ta bắt đầu tin những ẩn dụ của chính chúng ta theo nghĩa đen.

    - Vậy là anh tán thành để những tài liệu Sangreal bị chôn vùi mãi mãi?

    - Tôi là một sử gia. Tôi chống lại sự hủy hoại tài liệu, và tôi muốn thấy những học giả tôn giáo có được thông tin nhiều hơn để suy ngẫm về cuộc đời khác thường của Jesus Christ.

    - Anh đang lập luận cho cả hai phía trong vấn đề của tôi.

    - Tôi á? Kinh Thánh là kim chỉ nam cơ bản cho hàng triệu người trên hành tinh này, và bằng cách tương tự các kinh Koran, Torah và Pali Canon dẫn dắt những người của các tôn giáo khác. Nếu cô và tôi có thể khai quật được tài liệu nói ngược lại những câu chuyện thần thánh của tín ngưỡng Hồi giáo, tín ngưỡng Do Thái, tín ngưỡng Phật giáo, tín ngưỡng của kẻ ngoại đạo, thì liệu chúng ta có nên làm điều đó chăng? Chúng ta có nên phất lên một ngọn cờ và nói với các Phật tử rằng chúng ta có bằng chứng là Phật tổ không sinh ra từ hoa sen? Hoặc giả là Jesus không được sinh ra từ sự thụ thai trinh khiết theo nghĩa đen? Những ai thực sự hiểu tín ngưỡng của mình đều hiểu những câu chuyện đó là ẩn dụ.

    Sophie có vẻ hoài nghi:

    - Bạn của tôi, một người sùng đạo Cơ Đốc dứt khoát tin rằng Christ đi trên mặt nước theo nghĩa đen, biến nước thành rượu vang theo nghĩa đen, và sinh ra từ sự thụ thai trinh khiết theo nghĩa đen.

    - Quan điểm của tôi chính xác là..

    Langdon nói.

    - Ngụ ngôn tôn giáo đã trở thành một phần kết cấu của hiện thực. Và việc sống trong hiện thực đó giúp hàng triệu người xử thế và trở thành người tốt hơn.

    - Nhưng có vẻ như hiện thực của họ là giả dối.

    Langdon tủm tỉm cười:

    - Cũng chẳng giả hơn hiện thực của một người giải mã toán học lại tin vào số tưởng tượng "i" bởi vì nó giúp cô ta giải những mật mã.

    Sophie cau mày:

    - Cái đó không hợp lý.

    Một khoảnh khắc trôi qua.

    - Vừa nãy cô hỏi gì nhỉ?

    Langdon hỏi.

    - Tôi không nhớ được.

    Langdon mỉm cười: Lần nào cũng hiệu quả.
     
    Chỉnh sửa cuối: 29 Tháng năm 2018
  7. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,093
    Mật Mã Davinci - Chương 83

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Chiếc đồng hồ đeo tay Chuột Mickey của Langdon chỉ gần 7 giờ 30 khi ông từ chiếc limousine nhãn hiệu Jaguar bước xuống con hẻm Inner Temple với Sophie và Teabing. Bộ ba đi ngoằn ngoèo qua một khu bàn cờ chen chúc nhà cửa để tới cái sân nhỏ bên ngoài Nhà thờ Temple. Tường đá đẽo thô ánh lên mờ mờ trong mưa, và chim câu gù trong các chi tiết kiến trúc trên đầu.

    Nhà thờ cổ kính này của London được xây dựng hoàn toàn bằng đá Caen. Gồm một tòa nhà tròn gây ấn tượng với mặt tiền dữ dằn, một thấp nhỏ ở trung tâm và gian giữa giáo đường nhô ra về một bên, nhà thờ nhìn giống một pháo đài quân sự hơn là một nơi thờ cúng. Được Heraclius, giáo trưởng của Jerusalem, làm phép vào ngày 10 tháng 2 năm 1185, nhà thờ đã tồn tại qua tám thế kỷ hỗn loạn về chính trị, cuộc đại hỏa hoạn ở London, chiến tranh thế giới lần thứ nhất, và chỉ bị hư hỏng nặng nề nhất trong lần bị không quân Đức ném bom cháy vào năm 1940.

    Sau chiến tranh, nó đã được phục chế trở về dáng vẻ hùng vĩ hoang dại ban đầu.

    Nét giản dị của hình tròn. Langdon nghĩ thầm, lần đầu tiên được dịp chiêm ngưỡng tòa nhà. Kiến trúc thô nháp và đơn sơ, khiến người ta nhớ đến Castel Sant Angelo xù xì ở Rôma hơn là Điện Pantheon tao nhã. Dãy nhà phụ hình hộp nhô ra ở bên phải thật chướng mắt, mặc dù nó chẳng làm mấy tí để che khuất hình thù ngoại giáo ban đầu của cấu trúc nguyên thủy.

    - Ngày thứ bảy, giờ này vẫn là sớm.

    Teabing nói, tập tễnh đi về phía lối vào.

    - Cho nên tôi nghĩ chúng ta sẽ không vướng phải lễ chầu nào đâu.

    Cổng nhà thờ là một hốc đá, bên trong nó là một cánh cửa gỗ lớn. Ở bên trái cửa, nom hoàn toàn lạc chỗ, treo một bảng thông tin dán đầy những chương trình hòa nhạc và thông báo các buổi lễ chầu.

    Teabing cau mày khi đọc bảng tin:

    - Hai giờ nữa họ mới mở cửa cho khách tham quan.

    Ông đi tới cánh cửa và đẩy thử.

    Cánh cửa không nhúc nhích. Teabing áp tai vào gỗ và lắng nghe. Sau một lát, ông lùi lại, vẻ mưu mô hiện trên nét mặt khi ông chỉ lên bảng thông báo.

    - Robert, kiểm tra lại lịch lễ chầu xem! Ai chủ trì tuần này?


    * * *

    Bên trong nhà thờ, một lễ sinh đang sắp hoàn thành việc hút bụi những gối quỳ làm lễ Thánh thể thì nghe thấy tiếng gõ cửa thánh đường. Cậu ta lờ đi. Cha Harvey Knowles có chìa khóa riêng và hai tiếng nữa mới phải có mặt. Tiếng gõ cửa có lẽ là của một khách du lịch tò mò hay một kẻ ăn xin. Cậu ta cứ hút bụi tiếp, nhưng tiếng gõ vẫn tiếp tục. Không biết đọc à? Tấm bảng treo ở cửa đã nói rõ là nhà thờ sẽ không mở cửa cho đến 9 giờ 30 ngày thứ bảy. Cậu bé quay lại với công việc của mình.

    Đột nhiên, tiếng gõ chuyển thành những cú đập rất mạnh như thể ai đó đang nện vào cửa bằng một thanh kim loại vậy.

    Cậu nhỏ tắt máy hút bụi và cáu kỉnh đi ra phía cửa. Mở khóa cửa từ phía trong, cậu giật tung cánh cửa. Ba người đứng ngay ở lối vào. Khách du lịch, cậu càu nhàu:

    - Chúng tôi mở cửa vào lúc 9 giờ 30.

    Người đàn ông phục phịch, có vẻ là người dẫn đầu, chống đôi nạng bằng kim loại bước lên phía trước:

    - Ta là Ngài Leigh Teabing.

    Ông ta nói, giọng Anh Saxon rõ ra là người trí thức:

    - Chắc hẳn cháu biết, ta đang tháp tùng ông bà Christopher Wren đệ tứ.

    Ông bước sang bên, điệu đàng vung tay về phía cặp uyên ương hấp dẫn phía sau. Người phụ nữ nét mặt dịu dàng, mái tóc rậm màu vang đỏ. Người đàn ông cao, tóc sẫm màu và trông quen quen.

    Cậu lễ sinh không biết phản ứng ra sao. Ngài Christopher Wren là vị mạnh thường quân nổi tiếng nhất góp công đức vào Nhà thờ Temple. Ông đã cho trùng tu lại mọi hư hại của nhà thờ do cuộc Đại Hỏa Hoạn gây ra. Ông đã mất từ đầu thế kỉ 18.

    - Ưm.. rất hân hạnh được gặp ngài.

    Người đàn ông chống nạng cau mày:

    - Thật may là cháu không phải là chân bán hàng, cháu chẳng đon đả gì cho lắm. Cha Knowles đâu?

    - Hôm nay là thứ bảy. Chưa tới giờ Cha đến.

    Vẻ cau có của người đàn ông chân què càng tăng thêm:

    - Thế mà gọi là biết ơn đấy! Ông ta cam đoan với chúng ta rằng ông ta sẽ ở đây, nhưng xem ra chúng ta phải tiến hành công việc mà không có ông ta. Sẽ không mất nhiều thời gian đâu.

    Cậu bé lễ sinh vẫn đứng chắn lối vào:

    - Xin lỗi, việc gì không mất nhiều thời gian?

    Đôi mắt của vị khách quắc lên, và ông ta cúi người về phía trước thì thầm như để tránh cho mọi người khỏi bối rối:

    - Này chú nhỏ, hình như cháu là người mới ở đây thì phải. Hàng năm, hậu duệ của ngài Christopher Wren đều mang một nhúm tro của ngài để rải trong điện thờ linh thiêng này. Đây là một phần di chúc mà ngài để lại. Không ai thật sự sung sướng khi thực hiện chuyến đi này, nhưng chúng ta biết làm thế nào?

    Cậu bé lễ sinh đã ở đây được hai năm nhưng chưa bao giờ nghe nói về tục lệ này:

    - Tốt nhất là ngài đợi đến 9 giờ 30. Nhà thờ vẫn chưa mở cửa, và cháu thì vẫn chưa hút bụi xong.

    Người đàn ông chống nạng nhìn trừng trừng, giận dữ:

    - Này chú nhỏ, lý do duy nhất khiến tòa nhà này còn lại được bất cứ cái gì để cho cậu hút bụi là nhờ quí ngài trong túi áo của bà kia đấy.

    - Cháu không hiểu?

    - Bà Wren.

    Người đàn ông chống nạng nói.

    - Bà vui lòng cho cậu bé xấc xược này xem lọ tro trong túi bà chứ?

    Người phụ nữ do dự trong giây lát rồi, như tỉnh sau cơn nhập đồng, thò tay vào túi áo len, lấy ra một vật hình trụ bọc trong một miếng vải.

    - Kia, cậu thấy chứ?

    Người đàn ông chống nạng gắt:

    - Bây giờ cậu có thể hoặc là tôn trọng ý nguyện của người đã khuất và để chúng tôi rắc tro của ông ấy vào trong điện thờ, hoặc tôi sẽ thưa với cha Knowles là chúng tôi vừa bị đối xử thế nào.

    Cậu lễ sinh lưỡng lự vì đã quá quen với sự tuân thủ nghiêm ngặt của cha Knowles với truyền thống nhà thờ.. và, quan trọng hơn, với sự cáu giận của cha khi bất cứ thứ gì tỏa lên nơi thờ cúng lâu đời này ngoại trừ ánh sáng thích hợp. Có thể cha Knowles đã quên bẵng là những thành viên của gia đình này sẽ tới. Nếu vậy, để họ ra đi còn nguy hại hơn là cứ để họ vào. Xét cho cùng, họ nói chỉ mất một phút thôi mà. Có hại gì đâu?

    Hai cậu lễ sinh đứng sang một bên để cho ba người đi qua, cậu dám thề rằng ông bà Wren trông cũng có vẻ hoang mang về chuyện này như cậu. Vẫn ngờ vực, nhưng cậu quay lại với mấy việc vặt của mình, theo dõi họ qua khoé mắt.

    Langdon không khỏi mỉm cười khi ba người đi sâu hơn vào trong nhà thờ:

    - Leigh.

    Ông thì thầm:

    - Ngài nói dối quá giỏi.

    Mắt Teabing lấp lánh:

    - Câu lạc bộ sân khấu Oxford mà. Họ vẫn còn nói về vai Julius Caesar của tôi. Tôi chắc không ai khác đã từng diễn màn đầu Hồi Ba với nhiều tâm huyết hơn.

    Langdon liếc sang:

    - Tôi tưởng Ceasar đã chết ở màn này rồi kia mà.

    Teabing cười tự mãn:

    - Phải, nhưng cái áo choàng La Mã của tôi mở toang ra khi tôi ngã, và tôi đã phải nằm trên sàn diễn suốt nửa tiếng đồng hồ với thằng bé thòi lòi ra lủng lẳng. Thậm chí, tôi không dám động đậy một cơ bắp nào. Rất chi là xuất sắc, xin thưa với anh thế.

    Langdon co rúm người.

    - Rất tiếc là tôi đã bỏ lỡ cảnh đó.

    Khi cả nhóm đi xuyên qua gian nhà phụ hình chữ nhật về phía cổng tò vò dẫn vào nhà thờ chính, Langdon rất ngạc nhiên về sự khắc khổ ở đây. Mặc dù thiết kế của bàn thờ cũng giống như ở nhà thờ Cơ đốc, nhưng các đồ bày biện thật ảm đạm và lạnh lẽo, không chút trang trí truyền thống.

    - Thật tiêu điều.

    Langdon thì thầm.

    Teabing tặc lưỡi:

    - Nhà thờ của nước Anh mà. Những tín đồ Giáo phái Anh uống ực tôn giáo của mình một cách trực tiếp. Không có gì để làm sao lãng đi nỗi khổ cực của họ.

    Sophie chỉ tay qua khoảng trống rộng nhường chỗ cho phần hình tròn của nhà thờ.

    - Chỗ này trông như một pháo đài.

    Cô nói nhỏ.

    Langdon đồng ý. Thậm chí từ đây, những bức tường trông hùng dũng lạ thường.

    - Các Hiệp sĩ Templar là những chiến binh mà!

    Teabing nhắc nhở tiếng nạng nhôm của ông vang trong khoảng không.

    - Một xã hội tôn giáo - quân sự. Nhà thờ là pháo đài và ngân hàng của họ.

    - Ngân hàng?

    Sophie hỏi, liếc nhìn Leigh.

    - Chúa ơi, đúng vậy. Chính các Hiệp sĩ Templar đã phát minh ra khái niệm ngân hàng hiện đại. Đối với giới quý tộc châu Âu, mang vàng theo trong những chuyến đi là rất nguy hiểm, do đó các Hiệp sĩ Templar đã cho phép giới quý tộc gửi vàng vào Nhà thờ Temple gần nhất và sau đó rút vàng ra từ bất kỳ một nhà thờ nào khác của họ ở khắp châu Âu. Tất cả những gì họ cần là giấy tờ hợp lệ.

    Ông nháy mắt.

    - Và một ít tiền hoa hồng. Họ là những cái máy ATM nguyên thủy.

    Teabing chỉ về phía một cửa sổ kính mờ, nơi ánh mặt trời mới ló khúc xạ qua một chiến binh áo trắng cưỡi một con ngựa hồng:

    - Alanus Marcel.

    Teabing nói.

    - Ông Trùm của các Hiệp sĩ Templar vào đầu những năm 1200. Ông và những người kế vị ông ta thực tế nắm giữ chức Nghị viên vùng Primus Baro Angiae.

    Langdon ngạc nhiên:

    - Nam tước đầu tiên của vùng này?

    Teabing gật đầu:

    - Ông Trùm của các Hiệp sĩ Templar, một số người khắng định, nắm giữ nhiều quyền lực hơn cả nhà vua.

    Khi họ đến bên ngoài điện thờ hình tròn, Teabing liếc nhanh nhìn cậu lễ sinh đang hút bụi cách đó một quãng.

    - Cô biết không.

    Teabing nói nhỏ với Sophie.

    - Người ta kể là có lần Chén Thánh đã từng được giữ qua đêm trong nhà thờ này khi các Hiệp sĩ Templar chuyển chỗ cất giấu nó. Cô có thể tưởng tượng được bốn cái rương tài liệu Sangreal đã được đặt ở ngay đây cùng với chiếc quan tài bằng đá của Mary Magdalene không? Nó làm tôi nổi da gà.

    Langdon cũng cảm thấy sởn da gà khi họ bước vào trong căn phòng hình tròn này. Cặp mắt ông lướt theo đường lượn vòng của tường đá trắng, ngắm nhìn những phù điêu trên máng xối - ma quỷ, quái vật, những mặt người đau đớn - tất cả đều nhìn vào phía trong. Dưới những phù điêu là một hàng ghế đá cuộn quanh chu vi căn phòng.

    - Rạp hát hình tròn.

    Langdon nói khẽ.

    Teabing nhấc một chiếc nạng, chỉ về góc xa bên trái của căn phòng rồi lại sang góc xa bên phải. Langdon đã nhìn thấy.

    Mười hiệp sĩ đá.

    Năm ở bên trái. Năm ở bên phải.

    Nằm ngửa trên sàn nhà, những hình người được tạc theo kích thước bằng người thật nghỉ ngơi trong những tư thế rất thanh thản. Những hiệp sĩ được thể hiện với đầy đủ áo giáp, khiên và kiếm, cùng những ngôi mộ khiến Langdon có cái cảm giác bất an như thể có ai đó đã lẻn vào trong khi những hiệp sĩ này đang ngủ và đổ một lớp thạch cao lên người họ vậy. Tất cả những hình người ở đây đã dầu dãi phong sương và mặc dù vậy mỗi hình đều rất riêng, độc đáo - các bộ phận áo giáp, tư thế tay chân rõ rành, nét mặt và dấu hiệu trên khiên, tất cả đều khác nhau.

    Ở London yên nghỉ một hiệp sĩ được Giáo hoàng mai táng.

    Langdon cảm thấy run khi bước từng bước sâu hơn vào căn phòng hình tròn. Đây tất phải là nơi họ kiếm tìm.
     
    Chỉnh sửa cuối: 29 Tháng năm 2018
  8. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,093
    Mật Mã Davinci - Chương 84

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Trong một con hẻm đầy rác rưới rất gần Nhà thờ Temple, Rémy Legaludec lái chiếc limousine hiệu Jaguar tới đậu sau một dãy thùng đựng rác thải công nghiệp. Tắt máy, ông ta kiểm tra xung quanh. Vắng tanh. Ông ta ra khỏi xe, bước về phía sau, và lại trèo vào khoang chính của chiếc limousine nơi đặt gã tu sĩ.

    Cảm thấy sự có mặt của Rémy, gã thầy tu ở phía sau dứt ra khỏi trạng thái nửa như cầu nguyện nửa như mê, đôi mắt đỏ của hắn trông có vẻ tò mò hơn là sợ hãi. Suốt buổi tối, Rémy đã rất phục khả năng giữ bình tĩnh của con người đang bị trói gô này. Sau đôi chút kháng cự ban đầu trong chiếc xe Range Rover, gã tu sĩ có vẻ như chấp nhận cảnh ngộ và phó mặc sốphận cho quyền lực tối cao.

    Nới lỏng nơ đeo cổ, Rémy mở khuy chiếc áo cổ cao, hồ bột xòe sang hai bên của mình và cảm thấy như lần đầu tiên được thở sau nhiều năm. Đi tới quầy rượu của chiếc limousine, ông ta tự rót cho mình một ly vodka Smirnoff, ông ta tợp luôn một hơi, và rót tiếp ly thứ hai.

    Chẳng bao lâu nữa ta sẽ thành người thư nhàn.

    Lục trong quầy rượu, Rémy tìm thấy một cái mở rượu tiêu chuẩn và bật mở lưỡi dao sắc nhọn. Con dao thường dùng để cắt lớp thiếc bọc trên đầu nút những chai rượu vang loại tốt, nhưng sáng nay, nó sẽ phục vụ một mục đích ly kỳ hơn nhiều. Rémy quay lại và đối mặt với Silas, giơ lưỡi dao sáng loáng lên.

    Bây giờ đôi mắt đỏ ánh lên sự sợ hãi.

    Rémy mỉm cười và đi về phía sau chiếc limousine. Gã tu sĩ lùi lại vật lộn với dây trói.

    "Nằm im", Rémy thì thầm, giơ con dao lên.

    Silas không thể tin là Chúa đã bỏ hắn. Thậm chí nỗi đau thể xác do bị trói cũng được Silas chuyển thành một bài tập tâm linh, biến cái giật thon thót của những cơ bắp khát máu thành sự nhắc nhớ tới nỗi đau mà Chúa Kirixitô đã phải chịu đựng. Mình đã cầu nguyện cả đêm cho sự giải thoát. Giờ đây, khi con dao hạ xuống, Silas nhắm chặt mắt lại.

    Một cơn đau xé xuyên qua bả vai. Hắn gào lên, không thể tin được là hắn sắp chết ở đây, phía sau chiếc limousine này, không thể tự bảo vệ. Mình đang làm công việc của Chúa. Thầy Giáo đã nói thầy sẽ bảo vệ mình.

    Silas cảm thấy cái gì âm ấm nhoi nhói lan ra khắp lưng và vai, hắn có thể hình

    - 342 -

    dung máu của chính mình đang trào ra trên da thịt. Bây giờ cơn đau nhức nhối xuyên qua đùi gã, và hắn cảm thấy ập tới con sóng ngẫm dội ngược lại của sự mất phương hướng - cơ chế đề kháng của cơ thể chống lại nỗi đau.

    Khi cơn đau rát xé dọc các cơ bắp, hắn nhắm mắt chặt hơn, quyết định rằng hình ảnh cuối cùng của cuộc đời hắn sẽ không phải kẻ giết mình. Thay vào đó, hắn tưởng tượng ra một giám mục Aringarosa trẻ hơn, đứng trước nhà thờ nhỏ ở Tây Ban Nha.. nhà thờ mà ông và Silas đã xây bằng chính đôi bàn tay họ. Sự khởi đầu của cuộc đời mình.

    Silas cảm thấy như thể thân xác đang bị thiêu trên lửa.

    "Uống một ly đi", người đàn ông mặc xmôckinh thì thào giọng Pháp."nó sẽ giúp cho khí huyết lưu thông"

    Silas mở choàng mắt, ngạc nhiên. Một hình ảnh nhạt nhòa cúi vế phía hắn, đưa cho hắn một ly chất lỏng. Một đống băng dính bị xé vụn nằm trên sàn bên cạnh con dao vấy máu.

    "Uống đi", ông ta lặp lại."cơn đau mà anh cảm thấy là do máu dồn vào các cơ bắp"

    Silas cảm thấy cơn dập dồn nóng rát giờ chuyển thành giậm giựt nhoi nhói. Vị vodka thật kinh khủng, nhưng hắn vẫn uống, cảm thấy biết ơn vì mặc dù số phận đã giáng cho hắn một phần lớn của cái rủi đêm nay, nhưng Chúa đã giải quyết tất cả bằng một xoay chuyển diệu kì.

    Chúa đã không bỏ rơi mình.

    Silas biết giám mục Aringarosa ắt gọi diễn biến này là sự canthiệp của Chúa.

    "Tôi đã muốn giải thoát cho anh sớm hơn", người hầu biện minh, nhưng không thể. Với sự xuất hiện của cảnh sát ở Château Villette, và sau đó ở sân bay Biggin Hill, đây là thời điểm khả thi đầu tiên. Anh có hiểu không, Silas?"

    Silas giật mình lùi lại: "Ông biết tên tôi?". Người hầu mỉm cười.

    Silas ngồi dậy, xoa những cơ bắp tê cứng, cảm xúc của hắn lúc này là một dòng lũ pha lẫn bán tín bán nghi, cảm phục và bối rối: "Ông có phải là.. Thầy Giáo?"

    Rémy lắc đầu, cười cái câu hỏi hàm ý xác nhận: "Tôi ước gì tôi có được quyền năng đó. Không, tôi không phải là Thầy Giáo. Như anh, tôi phục vụ ông. Nhưng Thầy Giáo đánh giá cao anh. Tên tôi là Rémy."

    Silas kinh ngạc: "Tôi không hiểu. Nếu ông làm việc cho Thầy Giáo, tại sao Langdon lại mang viên đá đỉnh vòm về nhà của ông?"

    "Không phải nhà của tôi, mà là nhà của nhà sử học hàng đầu thế giới về Chén Thánh, ngài Leigh Teabing"

    - 343 -

    "Nhưng ông sống ở đó. Có lẽ là.."

    Rémy mỉm cười, dường như chẳng mắc mớ gì với việc Langdon chọn nơi ẩn náu có vẻ như một sự trùng hợp: "Tất cả đều có thể đoán được. Robert Langdon đang sở hữu viên đá đỉnh vòm, và ông ta cần sự giúp đỡ. Còn nơi nào hợp lý hơn là nhà của Leigh Teabing? Trước hết việc tôi tình cờ sống ở đó là lý do tại sao Thầy Giáo tiếp cận tôi". Ông ta dừng lại."Anh nghĩ làm thế nào mà Thầy Giáo biết nhiều như vậy về Chén Thánh?"

    Bây giờ sự việc bắt đầu hiện rõ và Silas vô cùng sửng sốt. Thầy Giáo đã tuyển một người hầu có thể truy nhập tất cả những gì mà ngài Teabing nghiên cứu. Thật là xuất sắc.

    "Có rất nhiều điều tôi cần nói với anh", Rémy nói, đưa cho Silas khẩu Heckler & Knoch đã nạp đạn. Rồi ông ta với tay qua vách ngăn để ngỏ, lấy ra từ hộp đựng găng một khẩu súng lục ổ quay nhỏ gọn trong lòng bàn tay."Nhưng trước tiên, anh và tôi có việc cần làm đã"

    ***

    Đại úy Fache bước từ chiếc chuyên cơ xuống sân bay Biggin Hill và lắng nghe đầy ngờ vực báo cáo của chánh thanh tra quận Kent về những gì đã xảy ra trong hăng-ga của Teabmg.

    "Chính tôi đã lục soát chiếc máy bay", chánh thanh tra quả quyết "và không có một ai trong đó". Giọng ông ta trở nên ngạo mạn."Và tôi nên nói thêm rằng nếu ngài Leigh Teabing khiếu tố tôi, tôi sẽ.."

    "Ông đã thẩm vấn người phi công chưa?"

    "Tất nhiên là chưa. Anh ta là người Pháp, và quyền thực thi pháp lý của chúng tôi yêu cầu.."

    "Đưa tôi tới chỗ chiếc máy bay"

    Khi tới hăng-ga, Fache chỉ cần sáu mươi giây để phát hiện ra một vết máu bất thường trên sàn lát gần chỗ chiếc limousine vừa đỗ. Fache bước lên máy bay và gõ mạnh vào thân máy bay.

    "Đây là đại úy Cảnh sát tư pháp Pháp. Mở cửa ra!". Viên phi công sợ hãi mở cửa xập và hạ cầu thang rút.

    Fache trèo lên. Ba phút sau, với sự trợ giúp của khẩu súng, ông ta đã có được đầy đủ lời thú nhận, kể cả sự mô tả gã tu sĩ bạch tạng. Thêm vào đó, ông ta còn biết rằng viên phi công đã thấy Langdon và Sophie để lại vật gì trong két an toàn của Teabing, một thứ hộp gỗ gì đó. Mặc dù viên phi công phủ nhận không biết có gì trong hộp, anh ta thừa nhận là Langdon chỉ tập trung chú ý vào nó trong suốt chuyến bay tới London.

    "Mở két an toàn ra", Fache yêu cầu.

    - 344 -

    Viên phi công có vẻ sợ hãi."Tôi không biết mã khóa số!"

    "Đáng tiếc. Tôi đang định đề nghị để anh được giữ bằng lái của mình"

    Viên phi công vặn hai tay vào nhau: "Tôi biết một vài người trong bộ phận duy tu ở đây. Có lẽ họ có thể khoan nó chăng?"

    "Anh có nửa giờ"

    Viên phi công lao tới máy bộ đàm.

    Fache bước về phía sau máy bay và tự rót rượu cho mình.

    Lúc này vẫn sớm, nhưng vì ông ta chưa được chợp mắt nên đây không kể là uống rượu trước buổi trưa. Ngồi xuống chiếc ghế bọc vải nhung, ông ta nhắm mắt lại, cố gắng phân tích những gì đang diễn ra. Sai lầm của cảnh sát quận Kelt có thể làm mình trả giá đắt. Giờ đây, mọi người đang dồn sức tìm kiếm chiếc limousine Jaguar màu đen.

    Chuông điện thoại của Fache vang lên, và ông ta ước có được một phút bình yên."Alô?"

    "Tôi đang trên đường tới London", đó là giám mục Aringarosa."Tôi sẽ tới nơi trong vòng một giờ nữa"

    Fache ngồi xuống: "Tôi tưởng ngài đang đi Paris?"."Tôi rất lo lắng và đã thay đổi kế hoạch"

    "Lẽ ra ngài không nên làm vậy"."Ông đã tìm được Silas chưa?"

    "Chưa. Những kẻ bắt giữ hắn đã qua mặt được cảnh sát địa phương trước khi tôi hạ cánh"

    Giọng Aringarosa gắt lên, giận dữ: "Ông đã cam đoan với tôi là sẽ ngăn chiếc máy bay đó lại!"

    Fache hạ thấp giọng: "Thưa giám mục, xét tình cảnh của ngài, tôi khuyên ngài đừng thử thách lòng kiên nhẫn của tôi ngày hôm nay. Tôi sẽ tìm thấy Silas cùng những tên kia trong thời hạn sớm nhất có thể. Ngài sắp hạ cánh ở đâu?"

    "Chờ một lát", Aringarosa che ống nghe, rồi nói tiếp."tay phi công đang xin phép hạ cánh ở Heathrow. Tôi là hành khách duy nhất của anh ta, nhưng việc đổi hướng bay là ngoài kế hoạch"

    "Hãy bảo anh ta tới sân bay Biggin Hill. Tôi sẽ xin cho anh ta hạ cánh. Nếu tôi không có ở đây khi ngài hạ cánh, tôi sẽ cho xe đợi ngài"

    "Cám ơn ông"

    "Như tôi đã nói trong lần đầu chúng ta nói chuyện với nhau, thưa giám mục, ngài nên nhớ kỹ rằng ngài không phải là người duy nhất sắp mất hết mọi thứ"
     
    Chỉnh sửa cuối: 29 Tháng năm 2018
  9. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,093
    Mật Mã Davinci - Chương 85

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ngươi kiếm tìm trái cầu lẽ ra phải ở trên mộ chàng.

    Mỗi tượng hiệp sĩ bên trong Nhà thờ Temple đều nằm ngửa, gối đầu trên một phiến đá hình chữ nhật. Sophie cảm thấy ớn lạnh. Bài thơ nhắc tới trái cầu gợi lại những hình ảnh về cái đêm trong tầng hầm của ông cô.

    Hieros Gamos. Những quả cầu.

    Sophie tự hỏi liệu phải chăng lễ tế đó đã từng được tiến hành trong chính điện thờ này. Căn phòng hình tròn dường như được đặt hàng xây dựng riêng cho một nghi thức ngoại giáo như vậy. Một hàng ghế đá dài được đặt thành hình tròn ở khoảng trống giữa phòng. Một rạp hát vòng tròn, như Robert đã gọi nó. Sophie tưởng tượng ra căn phòng về đêm, đầy những người đeo mặt nạ, cầu kinh dưới ánh đuốc, tất cả chứng kiến sự "hợp nhất thần thánh" ở trung tâm căn phòng.

    Gắng xua đuổi hình ảnh đó ra khỏi tâm trí, cô tiến lên cùng với Langdon và Teabing đến chỗ nhóm hiệp sĩ đầu tiên. Mặc dù Teabing nhấn mạnh là phải xem xét thật tỉ mỉ, Sophie cảm thấy nôn nóng và dấn lên trước, lướt nhanh qua năm hiệp sĩ ở bên trái.

    Quan sát cẩn thận những ngôi mộ đầu tiên, Sophie ghi nhận những nét giống và khác nhau giữa chúng. Mỗi hiệp sĩ đều nằm ngửa, nhưng ba trong số họ chân duỗi thẳng hai người còn lại vắt chéo chân. Sự kỳ lạ này có vẻ chẳng có liên quan gì tới quả cầu thiếu vắng. Xem xét y phục, Sophie nhận thấy hai hiệp sĩ mặc áo dài ra ngoài áo giáp, trong khi ba người còn lại mặc áo chùng đến mắt cá chân. Một lần nữa, những điều này chẳng giúp ích được gì. Sophie chuyển sự chú ý của mình sang sự khác nhau hiển nhiên duy nhất còn lại - tư thế cánh tay. Có hai hiệp sĩ tay nắm chặt kiếm, hai người đang cầu nguyện, và một người đứng chống nạnh. Sau một lúc lâu ngắm nhìn những cánh tay, Sophie nhún vai, chẳng thấy chỗ nào hé lộ dấu vết của quả cầu khuyết diện.

    Cảm thấy trọng lượng của hộp mật mã trong túi áo len, cô quay lại nhìn Langdon và Teabỉng. Họ thật chậm chạp, bây giờ mới đi qua người hỉệp sĩ thứ ba, hình như cũng chẳng may mắn hơn. Chẳng có bụng dạ nào mà chờ, cô bỏ mặc họ, hướng tới nhóm hiệp sĩ thứ hai. Khi đi ngang qua khoảng trống, cô nhẩm lại bài thơ mà cô đã đọc thuộc lòng đến mức như khắc cào tâm khảm.

    Ở London yên nghỉ một hiệp sĩ được Giáo hoàng mai táng.

    - 346 -

    Kết quả công sức chàng chuốc lấy cơn thịnh nộ Thần Thánh. Ngươi kiếm tìm trái cầu lẽ ra phải ở trên mộ chàng.

    Nó nói về da thịt Hồng và tử cung mang hạt giống.

    Khi Sophie đi đến chỗ nhóm hiệp sĩ thứ hai, cô thấy nhóm thứ hai cũng tương tự như nhóm thứ nhất. Tất cả nằm ở những tư thế khác nhau, mang áo giáp và kiếm.

    Tất cả, ngoại trừ ngôi mộ thứ mười và cũng là cuối cùng. Đi tới đó thật nhanh, cô nhìn chăm chăm xuống mộ. Không gối. Không giáp trụ. Không áo dài. Không gươm.

    "Robert? Leigh?" Cô gọi, giọng vang vọng trong phòng."Ở đây có cái gì thiếu vắng"

    Hai người đàn ông cùng ngẩng lên và bắt đầu đi về phía cô ngay lập tức.

    "Một quả cầu?". Teabing hỏi đầy phấn khích. Đôi nạng của ông lộc cộc theo một tiết tấu gấp, ngắt đoạn trong khi ông hối hả đi ngang phòng."Thiếu một quả cầu ư?"

    "Không hẳn thế", Sophie trả lời, cau mày nhìn ngôi mộ thứ mười."Hình như thiếu cả một hiệp sĩ"

    Tới bên cạnh cô, cả hai bối rối nhìn trân trân xuống ngôi mộ thứ mười. Thay vì một hiệp sĩ nằm ở ngoài trời, ngôi mộ này là một quan tài đá đóng kín. Quan tài hình thang, thon đằng chân, loe ra ở đằng đầu, với một cái nắp có chóp nhọn.

    "Tại sao hiệp sĩ này không được thể hiện ra ngoài?". Langdon hỏi.

    "Hấp dẫn đấy". Teabing nói, tay xoa cằm."Tôi đã quên mất về điều kỳ lạ này. Đã nhiều năm trôi qua từ khi tôi còn ở đây"

    "Chiếc quan tài này." Sophie nói, có vẻ như được chạm khắc vào cùng một thời điểm và cùng một người thợ với chín ngôi mộ kia. Vậy tại sao hiệp sĩ này lại ở trong quan tài chứ không ở ngoài?"

    Teabing lắc đầu: "Đây là một trong những điều kỳ bí của nhà thờ này. Theo tôi biết thì chưa ai lý giải được điều này"

    "Xin chào?". Cậu bé lễ sinh nói, chạy tới với vẻ lo lắng hiện rõ trên nét mặt: "Xin thứ lỗi nếu điều này có vẻ thô lỗ nhưng ngài đã bảo là các ngài muốn rải tro. Vậy mà các ngài hình như đang ngắm cảnh thì phải"

    Teabing quắc mắt nhìn cậu bé và quay sang Langdon: "Ông Wren, hình như lòng nhân đức của gia đình ông không mua được thời gian như trước đây, có lẽ chúng ta nên lấy tro ra và bắt đầu công việc thôi". Teabing nhìn sang Sophie."Bà Wren?"

    Sophie cũng diễn theo, lôi cái hình trụ bọc da ra khỏi túi áo.

    "Nào bây giờ", Teabing gắt cậu bé."cháu có thể cho chúng ta chút riêng tư được chứ?"

    - 347 -

    Cậu bé lễ sinh vẫn không nhúc nhích. Nó nhìn Langdon chằm chằm: "Trông ông rất quen"

    Teabing sẵng giọng: "Có lẽ bởi vì ông Wren hàng năm đều tới đây!"

    Hoặc có lẽ, Sophie bắt đầu thấy sợ, bởi vì nó nhìn thấy Langdon trên ti vi ở tòa thánh Vatican năm ngoái.

    "Tôi chưa từng gặp ông Wren", cậu bé khẳng định.

    "Em nhầm đấy", Langdon trả lời nhã nhặn."Tôi tin là chúng ta đã gặp nhau thoáng qua hồi năm ngoái. Cha Knowles đã quên không chính thức giới thiệu chúng ta với nhau, nhưng tôi đã nhận ra em ngay khi chúng tôi vửa vào. Này, tôi biết đây là một sự đột nhập, nhưng nếu em có thể cho chúng tôi thêm vài phút, tôi đã phải đi rất xa để rắc tro lên các ngôi mộ này"

    Langdon nói những lời này với giọng điệu đáng tin đặc trưng của Teabing. Vẻ mặt cậu bé lễ sinh lại càng tỏ ra nghi ngờ: "Đây không phải là mộ"."Xin lỗi?". Langdon nói.

    "Tất nhiên đây là những ngôi mộ", Teabing tuyên bố."Cháu đang nói về cái gì thế?"

    Cậu lễ sinh lắc đầu: "Mộ thì phải có thi hàỉ. Đây là những hình nộm. Tượng đá để tôn vinh người thật. Chẳng có cái xác nào dưới những bức tượng đá này cả"

    "Đây là một hầm mộ tượng trưng trong nhà thờ!" Teabing nói.

    "Cái đó chỉ có trong những quyển sách lịch sử lỗi thời mà thôi. Trước kia chỗ này được tin là một hầm mộ nhưng trong cuộc cải cách 1950, người ta đã phát hiện ra rằng không phải thế". Cậu thanh niên quay sang Langdon."Và tôi tưởng ông Wren phải biết điều đó chứ, vì chính gia đình ông ta đã khám phá ra sự thật đó"

    Im lặng đè nặng.

    Rồi bị phá vỡ bởi tiếng xập cửa trong dẫy nhà phụ.

    "Chắc hẳn là cha Knowles", Teabing nói."có lẽ cháu nên ra xem?"

    Cậu lễ sinh vẫn có vẻ nghi ngờ nhưng lộn trở ra dẫy nhà phụ, để lại Langdon, Sophie và Teabing nhìn nhau rầu rĩ.

    "Leigh", Langdon thì thào."không có xác sao? Nó vừa nói cái gì vậy?"

    Teabing có vẻ quẫn trí: "Tôi không biết. Tôi cứ nghĩ.. chắc chắn phải là chỗ này. Tôi không thể tưởng tượng thằng bé biết nó đang nói về cái gì. Thật chẳng ra nghĩa lý gì!"

    "Cho tôi xem lại bài thơ được không?". Langdon nói.

    Sophie lôi cái ống hình trụ từ trong túi áo ra và cẩn thận đưa cho Langdon. Langdon mở miếng da ra và giữ hộp mật mã trong tay trong khi xem kỹ lại bài

    - 348 -

    thơ."Phải, bài thơ dứt khoát nhằm chỉ một ngôi mộ hẳn hoi chứ không phải một hình nộm"

    "Bài thơ có thể sai không?" Teabing thắc mắc."Có lẽ nào Jacques Saunière cũng mắc cái sai lầm giống như tôi vừa rồi?"

    Langdon suy xét và lắc đầu: "Leigh, chính miệng ngài nói ra đấy. Nhà thờ này được xây bởi các Hiệp sĩ Templar, đội quân của Tu viện Sion. Một cái gì đó nói với tôi rằng vị Đại Sư của Tu viện Sion ắt biết rõ các hiệp sĩ có được chôn cất tạì đây hay không"

    Teabing có vẻ kinh ngạc: "Nhưng nơi này quá hoàn hảo". Ông quay lại chỗ những tượng hiệp sĩ."Chúng ta chắc hẳn đã bỏ sót điều gì đó!"

    ***

    Bước vào khu nhà phụ, cậu lễ sinh rất ngạc nhiên khi thấy chẳng có ai."Cha Knowles?", mình nghe thấy tiếng xập cửa mà, cậu nghĩ, đi ra cho đến khi nhìn thấy cổng vào.

    Một người đàn ông gày guộc mặc xmôckinh đứng gần cửa ra vào, gãi đầu, vẻ bối rối. Cậu lễ sinh thốt ra một tiếng gắt bực bội, nhận ra mình đã quên không khóa cửa lại sau khi để cho mấy người kia vào. Bây giờ một gã bi đát lang thang ngoài phố tạt vào tìm kiếm xem có lễ cưới nào để kiếm chác."Xin lỗi", cậu nói to."chúng tôi đóng cửa rồi"

    Một tiếng vái loạt xoạt đằng sau cậu, và trước khi cậu lễ sinh kịp quay lại, đầu cậu giật về phía sau, một bàn tay to khoẻ bịt chặt miệng cậu, không để cậu kêu. Bàn tay bịt miệng cậu lễ sinh trắng như tuyết, và cậu ngửi thấy mùi rượu.

    Người đàn ông điềm tĩnh trong bộ xmôckinh lạnh lùng dí khẩu súng lục ổ quay vào giữa trán cậu lễ sinh.

    Cậu lễ sinh cảm thấy vùng háng mình nong nóng và nhận ra rằng cậu đã tè ra quần.

    "Nghe cho kỹ đây", người đàn ông mặc xmôckinh nói khẽ."Hãy lặng lẽ ra khỏi nhà thờ, và chạy đi. Không được dừng lại. Rõ chưa?"

    Cậu gật đầu thật mạnh với bàn tay vẫn bịt miệng cậu.

    Nếu mày gọi cảnh sát..". Người đàn ông mặc xmôckinh ấn khẩu súng lên da cậu." tao sẽ tìm ra mày đấy"

    Điều tiếp theo cậu biết là chạy thật nhanh qua sân sau và không dừng lại cho đến khi chân còn có thể chạy được.
     
    Chỉnh sửa cuối: 29 Tháng năm 2018
  10. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,093
    Mật Mã Davinci - Chương 86

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Như một bóng ma, Silas lặng lẽ dượt sau mục tỉêu của mình. Sophie Neveu cảm thấy sự có mặt của hắn quá muộn. Trước khi cô kịp quay lại, Silas đã gí nòng súng vào xương sống và vòng cánh tay cường tráng qua ngực cô, kéo lưng cô áp vào thân hình hộ pháp của hắn. Cô thét lên kinh ngạc. Teabing và Langdon cùng quay phắt lại, vẻ mặt ngỡ ngàng và hoảng sợ.

    Chuyện gì?

    Teabing nghẹn lời.

    Ngươi đã làm gì Rémy!

    Mối quan tâm duy nhất của ông.

    Silas nói rất bình tĩnh, là để tôi ra khỏi đây cùng với viên đá đỉnh vòm. Nhiệm vụ thu hồi này, như Rémy đã vạch rõ, phải gọn ghẽ và đơn giản: Vào nhà thờ, lấy viên đá đỉnh vòm và đi ra, không giết người, không vật lộn.

    Vẫn giữ chặt Sophie, Silas hạ tay khỏi ngực cô, lần xuống cổ tay của cô và thọc sâu vào túi chiếc áo len chui đầu, lục lọi.

    Hắn ngửi thấy hương thơm nhè nhẹ trên tóc cô qua hơi thở nặng mùi rượu của hắn.

    Nó đâu?

    Hắn thì thào. Lúc trước viên đá đỉnh vòm nằm trong túi áo len của cô ta. Vậy bây giờ nó ở đâu?

    Nó đây này!

    Giọng trầm của Langdon vang lên từ phía bên kia phòng.

    Silass quay lại nhìn Langdon đang cầm chiếc hộp mật mã đen, giơ trước mặt hắn vẫy qua vẫy lại như một võ sĩ đấu bò đang nhử một con thú lì lợm.

    Đặt nó xuống!

    Silas ra lệnh.

    Hãy để Sophie và Leigh ra khỏi nhà thờ.

    Langdon đáp.

    Tôi và ông có thể dàn xếp vụ này.

    Silas đẩy Sophie ra và nhắm súng vào Langdon, tiến về phía ông.

    Không được bước tới gần hơn!

    Langdon nói.

    Cho đến khi họ ra khỏi tòa nhà này.

    Ông không có thể để yêu sách.

    Tôi không đồng ý vậy.

    Langdon giơ hộp mật mã cao quá đầu.

    Tôi sẽ không ngần ngại quật cái này xuống sàn và làm vỡ cái lọ bên trong.

    Mặc dù bề ngoài Silas cười nhạo nhưng hắn vẫn cảm thấy lóe lên một nỗi sợ. Điều này thật bất ngờ. Hắn nhằm súng vào đầu Langdon và cố giữ cho giọng nói cũng vững như bàn tay cầm súng.

    Ông sẽ không bao giờ đập vỡ viên đá đỉnh vòm. Ông cũng muốn tìm thấy Chén Thánh như tôi mà thôi.

    Ông nhầm rồi. Ông cần nó hơn tôi. Ông đã chứng tỏ ông sẵn sàng giết người vì nó.


    * * *

    Cách đó hơn mười mét, nhòm ra từ hàng ghế phụ gần cửa tò vò Rémy Legaludec cảm thấy một nỗi hoảng sợ dâng lên. Kế hoạch đã không được tiến hành như dự kiến, và thậm chí từ chỗ này, ông ta cũng có thể thấy là Silas đang phân vân không biết xử lý tình huống như thế nào. Theo lệnh của Thầy Giáo, Rémy đã cấm Silas nổ súng.

    Hãy để cho họ đi!

    Langdon lại yêu cầu, giơ cao hộp mật mã trên đầu và nhìn trừng trừng vào khẩu súng của Silas.

    Đôi mắt ngầu đỏ của gã tu sĩ đầy vẻ giận dữ và thất vọng, và Rémy cứng người vì sợ Silas có thể bắn Langdon thật trong khi ông ta còn đang cầm hộp mật mã. Không thế để hộp mật mã rơi xuống!

    Hộp mật mã đó phải là tấm vé để Rémy đi tới tự do và giàu sang. Hơn một năm trước y chỉ là một lão người hầu năm mươi nhăm tuổi sống quanh quẩn trong những bức tường của Château Villette, phục vụ cho những thói bốc đồng của ngài Leigh Teabing, cái lão què không ai chịu nổi ấy. Rồi bỗng đâu có người tiếp cận y với một đề nghị phi thường. Việc Rémy phục vụ cho Ngài Leigh Teabing - nhà sử học về Chén Thánh nổi tiếng trên thế giới - sắp mang đến cho Rémy tất cả những gì y hằng mơ ước trong đời. Từ đó, mỗi giây phút y sống trong Château Villette đều dẫn dắt y đến chính khoảnh khắc này đây.

    Mình đã tới gần kề rồi. Rémy tự nhủ, nhìn vào chính điện của Nhà thờ Temple và viên đá đỉnh vòm nằm trong tay của Langdon. Nếu Langdon thả nó xuống, tất cả sẽ tan biến.

    Liệu mình có sẵn sàng ra mặt không? Đó là điều mà Thầy Giáo cấm ngặt. Rémy là người duy nhất biết nhân thân của Thầy Giáo.

    Ông có chắc là ông muốn Silas thực hiện nhiệm vụ này không?

    Rémy đã hỏi Thầy Giáo khoảng nửa giờ trước khi y nhận lệnh đánh cắp viên đá đỉnh vòm.

    Bản thân tôi cũng làm được!

    Thầy Giáo rất cương quyết:

    Silas đã phục vụ tốt cho chúng ta với việc thanh toán bốn thành viên Tu viện Sion. Hắn sẽ thu hồi được viên đá đỉnh vòm. Anh phải giấu mặt. Nếu để những người kia thấy anh, ta sẽ buộc phải khử họ, mà đến giờ đã quá đủ chuyện giết chóc rồi. Đừng để lộ mặt.

    Mặt tôi rồi sẽ thay đổi thôi, Rémy nghĩ. Với những điều mà ông hứa trả cho tôi tôi sẽ trở thành một người hoàn toàn mới. Thậm chí phẫu thuật có thể thay đổi cả dấu vân tay của y, Thầy Giáo đã nói như vậy. Chẳng bao lâu nữa, y sẽ tự do - một gương mặt khác tươi đẹp không ai nhận ra, tắm nắng trên bãi biển

    Tôi hiểu rồi!

    Rémy nói.

    Tôi sẽ giúp Silas từ trong bóng tối!

    Nói để anh biết, Rémy!

    Thầy Giáo đã bảo y.

    Ngôi mộ đó không ở trong Nhà thờ Temple đâu. Vì thế anh không phải sợ. Bọn chúng đã tìm nhầm chỗ rồi.

    Rémy kinh ngạc:

    Và ông biết ngôi mộ thật sự ở đâu ư?

    Đương nhiên. Ta sẽ nói với anh sau. Lúc này, anh phải hành động nhanh chóng. Nếu bọn kia tìm ra vị trí thật của ngôi mộ và ra khỏi nhà thờ trước khi anh lấy được hộp mật mã thì chúng ta sẽ mất Chén Thánh vĩnh viễn.

    Rémy bất cần Chén Thánh, ngoại trừ việc Thầy Giáo từ chối trả công cho y trước khi viên đá đỉnh vòm được tìm thấy. Rémy cảm thấy ngây ngất mỗi khi nghĩ đến số tiền mà chẳng bao lâu nữa y sẽ có. Một phần ba của hai mươi triệu euro. Ê hề để biến mất vĩnh viễn. Rémy đã hình dung ra những thị trấn ven biển trên Côte d' Azur, nơi mà hắn dự tính sẽ sống những ngày đổi đời, phơi mình dưới ánh mặt trời và có kẻ hầu người hạ.

    Tuy nhiên, giờ đây, trong Nhà thờ Temple này, với Langdon đang đe da sẽ đập nát viên đá đỉnh vòm, tương lai của Rémy đang lâm nguy. Không chịu đựng nổi ý nghĩ miếng ăn đến mồm còn tuột mất, Rémy quyết định hành động táo bạo. Khẩu súng trong tay y là một khẩu súng nhỏ dễ giấu, khẩu Medusa nòng J nhưng ở tầm gần cũng rất lợi hại.

    Bước ra từ bóng tối, Rémy tiến vào phòng thờ hình tròn và nhắm súng thắng vào đầu Teabing:

    Lão già, ta đã đợi bao lâu để làm điều này.

    Tim ngài Leigh Teabing gần như khựng lại khi nhìn thấy Rémy nhắm súng vào đầu mình. Hắn đang làm gì vậy? Teabing nhận ra khẩu Medusa nhỏ xíu của mình, khẩu súng mà ông cất giữ cẩn thận trong hộp đựng găng của chiếc limousine.

    Rémy ư?

    Teabing lắp bắp vì bị sốc.

    Điều gì đang diễn ra thế này?

    Langdon và Sophie cũng ngớ ra như thế.

    Rémy vòng ra sau Teabing và gí súng vào lưng ông, phía bên trái ngay sau tim. Teabing cảm thấy các cơ bắp mình tê cứng vì kinh hãi:

    Rémy, tôi không..

    Tôi sẽ nói gọn thôi.

    Rémy gắt, đưa mắt theo dõi Langdon qua vai Teabing.

    Đặt viên đá đỉnh vòm xuống kẻo tôi sẽ bóp cò.

    Langdon như bị liệt trong giây lát:

    Viên đá đỉnh vòm là vô giá trị đối với ông.

    Langdon lắp bắp.

    Ông không thể mở được nó.

    Đồ ngu ngốc hợm hĩnh.

    Rémy cười nhạo.

    Các ngươi không để ý là đêm nay ta đã nghe được các ngươi bàn luận về những bài thơ này sao? Tất cả những điều ta nghe thấy, ta đã nói cho người khác. Họ còn biết nhiều hơn các ngươi. Thậm chí các ngươi đã không tìm đúng chỗ. Ngôi mộ các ngươi tìm kiếm ở một nơi hoàn toàn khác!

    Teabing hoảng sợ. Hắn đang nói gì vậy!

    Tại sao ông lại cần Chén Thánh?

    Langdon hỏi.

    Để hủy nó sao? Trước Ngày tận thế ư?

    Rémy ra lệnh cho gã tu sĩ:

    Silas, lấy viên đá đỉnh òm từ ông Langdon đi.

    Khi gã tu sĩ tiến tới, Langdon lùi lại, giơ cao viên đá đỉnh vòm, nom như sẵn sàng sẵn sàng ném nó xuống nền nhà.

    Ta thà đập vỡ nó.

    Langdon nói.

    Còn hơn là nhìn thấy nó trong những bàn tay không chính đáng

    Teabing lúc này cảm thấy một làn sóng khiếp sợ. Ông có thể nhìn thấy sự nghiệp của đời mình đang bốc hơi ngay trước mắt. Tất cả mơ ước của ông sắp tan tành.

    Robert, không!

    Teabing kêu lên.

    Đừng! Anh đang cầm chính Chén Thánh đấy! Rémy không bây giờ bắn tôi đâu. Chúng tôi đã biết nhau được mười..

    Rémy chĩa súng lên trần và nổ khẩu Medusa. Vũ khí nhỏ mà tiếng nổ vang to như sấm.

    Tất cả mọi người đông cứng lại.

    Ta không đùa đâu!

    Rémy nói.

    Viên đạn tiếp theo sẽ là vào lưng ông ta. Đưa viên đá đỉnh vòm cho Silas.

    Langdon miễn cưỡng giơ hộp mật mã ra. Silas bước tới, cầm lấy nó, đôi mắt đỏ của hắn long lanh ánh lửa thỏa mãn của sự báo thù. Đút gọn viên đá đỉnh vòm vào trong túi áo choàng, Silas lùi lại súng vẫn chĩa vào Langdon và Sophie.

    Teabing cảm thấy cánh tay Rémy kẹp quanh cổ mình khi tên người hầu bắt đầu lùi ra khỏi tòa nhà, kéo theo Teabing, khẩu súng vẫn gí vào lưng ông.

    Hãy buông ông ấy ra!

    Langdon đề nghị.

    Bọn ta sẽ mang theo ngài Teabing một đoạn đường.

    Rémy nói, vẫn tiếp tục lùi.

    Nếu anh gọi cảnh sát, ông ta sẽ chết. Nếu anh làm bất kỳ điều gì để can thiệp, ông ta cũng sẽ chết. Rõ chưa?

    Hãy mang tôi theo!

    Langdon đề nghị, giọng khàn đi vì xúc động.

    Hãy thả Leigh ra!

    Rémy cả cười:

    Ta không nghĩ vậy. Ông ấy và ta có một lịch sử tốt đẹp. Ngoài ra, ông ta vẫn còn có thể hữu ích.

    Lúc này, Silas mới giật lùi, vẫn chĩa súng vào Langdon và Sophie trong khi Rémy kéo Leigh về phía lối ra, đôi nạng lết quèn quẹt đằng sau.

    Giọng Sophie không hề run:

    Anh làm việc cho ai?

    Câu hỏi khiến một nụ cười tự mãn nở trên gương mặt Rémy:

    Cô sẽ ngạc nhiên đấy, thưa cô Neveu.
     
    Chỉnh sửa cuối: 29 Tháng năm 2018
Trả lời qua Facebook
Đang tải...