I. Giới thiệu chung: 1. Tác giả: - Quang Dũng quê ở Hà Tây nhưng học hết THPT ở Hà Nội, như thế có thể xếp Quang Dũng vào tầng lớp trí thức tiểu tư sản Hà Thành hào hoa, lãng mạn, chịu ảnh hưởng của dòng văn học lãng mạn, nhất là Thơ Mới. - Quang Dũng đã từng là lính binh đoàn Tây Tiến, nhà thơ đã có những trải nghiệm cuộc sống của người lính ở nơi chiến trường. Khi viết về Tây Tiến là QD viết về chính mình và về chính đồng đội của mình, vậy nên bài thơ "Tây Tiến" là máu thịt là tâm hồn Quang Dũng cất thành thơ. - Là một người nghệ sĩ đa tài, có tài sáng tác nhạc, vẽ tranh, làm thơ. Có lẽ sự đa tài làm nên nét đặc sắc trong thơ Quang Dũng - có chất thơ, chất nhạc và chất họa. - Trong thơ Quang Dũng thể hiện 1 cái tôi vừa hào hoa lịch lãm, vừa chân thành hồn hậu giàu tình yêu đất nước, quê hương. 2. Tác phẩm: - Hoàn cảnh ra đời: Bài thơ được viết vào cuối 1948 tại Phù Lưu Chanh khi Quang Dũng đã rời đơn vị cũ, bài thơ Tây Tiến không phải là cảm xúc trực tiếp mà là những hồi ức hoài niệm về núi rừng Tây Bắc, về cuộc sống của những người lính Tây Tiến. Mỗi chi tiết đều thấm đượm cảm xúc của nhà thơ. - Bài thơ viết về Tây Tiến - một đơn vị bộ đội được thành lập vào mùa xuân năm 47 có nhiệm vụ kết hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao sinh lực địch để bảo vệ biên giới Việt-Lào, lính Tây Tiến phần đông là thanh niên học sinh Hà Nội. - Nhan đề: Bài thơ ban đầu tên "Nhớ Tây Tiến" - cảm xúc chủ đạo bao trùm toàn bài thơ là nỗi nhớ, tuy nhiên với nhan đề này người đọc có thể hiểu bài thơ mang màu sắc riêng tư cá nhân. Sau đó Quang Dũng đổi tên thành "Tây Tiến" - là tên của một đơn vị bộ đội, nó gợi hình dung về hình tượng của một tập thể những người lính thanh niên, học sinh Hà Nội vừa lãng mạn, hào hoa, vừa mang lí tưởng anh hùng. Gợi liên tưởng về một cuộc hành trình về miền Tây Bắc của tổ quốc, là một vùng không gian vừa hoang vu, hiểm trở, vừa lãng mạn thi vị. Vì thế tên "Tây Tiến" không chỉ gọn mà còn giàu sức gợi để gợi mở thế giới hình tượng của bài thơ. II. Đọc hiểu: 1.14 câu thơ đầu: "Sông Mã xa rồi.. thơm nếp xôi" 1.1 – Cảm xúc chủ đạo bao trùm toàn bộ bài thơ: - Câu thơ mở đầu là câu thơ gợi nhớ "Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi" + "Sông Mã" – là một địa danh, là tên của một con sông thuộc Thanh Hóa gắn với địa bàn hoạt động của đoàn binh Tây Tiến, Sông Mã là một không gian kỉ niệm. + "Xa rồi" – Khoảng cách về không gian vừa gợi độ lùi về thời gian, thanh bằng trong câu thơ khiến âm điệu câu thơ như trầm lắng xuống để cảm xúc tỏa lan. + "Tây Tiến ơi" – Như một tiếng gọi, tiếng gọi hướng về Tây Tiến, cái tên Tây Tiến không còn là tên của một địa danh hành chính nữa mà nó thật thiêng liêng, thân thương vì nó gắn với phần đời của một con người. Tiếng gọi làm sống dậy những kí ức, kỉ niệm về một thời kì sống và chiến đấu của một lớp người. => Tuy QD chưa dùng từ nhớ nhưng người đọc có thể cảm nhận được cái da diết trong âm vang câu thơ. - Từ "nhớ" được điệp lại 3 lần, mỗi lần lại có một sắc thái riêng. + "Nhớ về" – Gợi ra một cuộc hành trình của tâm tưởng, ngược dòng thời gian để tìm lại những gì thân thương, gắn bó. + "Nhớ chơi vơi" – Là cách kết hợp từ đặc biệt. ● "chơi vơi" thường gợi cảm giác không chắc chắn vững chãi, cảm giác đó thường có khi người ta ở một độ cao. ● Từ nghĩa gốc của từ chơi vơi ta có thể hình dung "nhớ chơi vơi" là nỗi nhớ hướng tới miền đất Tây Bắc, với đỉnh núi quanh năm mây phủ, với đèo cao vực sâu, "nhớ chơi vơi" còn là nỗi nhớ da diết đủ để kéo con người tạm dời bỏ cảm nhận về thực tại để chỉ chìm đắm trong những hồi ức về quá khứ. + "Nhớ ôi" – là một tiếng gọi, hô ứng với tiếng gọi "Tây Tiến ơi" để vừa thể hiện được độ lắng sâu của cảm xúc lại vừa thể hiện trọn vẹn một ý tưởng. Nỗi nhớ trong QD mang tên Tây Tiến và hình ảnh Tây Tiến cũng được cụ thể hóa dần trong nỗi nhớ của nhà thơ. 1.2 – Đối tượng của nỗi nhớ: 1.2. 1 – Bức tranh núi rừng Tây Bắc: * Về mặt nghệ thuật: - Trong đoạn thơ này QD đã sử dụng một lớp từ địa danh: Sông Mã – Sài Khao – Mường Lát – Pha Luông – Mường Hịch – Mai Châu – là những cái tên mang màu sắc phương xa xứ lạ, âm vang của tên dường như cất trong đó một điều bí ẩn. Thứ tự sắp xếp của các địa danh gợi cho ta liên tưởng về con đường hành quân của đoàn quân Tây Tiến - Lớp từ miêu tả: Heo hút – khúc khuỷu - thăm thẳm – gợi tả nét đặc trưng của một vùng đất. - Biện pháp tương phản được sử dụng triệt để vửa tô dậm ấn tượng về đối tượng miêu tả lại vừa góp phần biểu hiện cảm xúc và những tưởng tượng mang màu sắc lãng mạn. - Vẻ đẹp hùng vĩ hiểm trở: + Hình ảnh núi đồi, đèo dốc, trùng điệp: Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm. ● "Dốc" – Được điệp lại 2 lần gợi thế trùng điệp của những con dốc nối tiếp nhau, gợi hình dung cảm giác choáng ngợp của con người khi vừa đi hết một con dốc ngỡ được thở phào thì lại hiện ra một con dốc mới. ● "Khúc khuỷu"... " Thăm thẳm" : Gợi tả tính chất của không gian lại vừa biểu hiện cách nhìn có phần ngỡ ngàng trước tính chất đặc biệt của không gian ấy. ● "khúc khuỷu" - Gợi cái quanh co của con đường vòng qua núi đèo đồi dốc lại vừa gợi ra cái gập ghềnh của đường đi ● "Thăm thẳm" – vốn có nghĩa là rất sâu rất xa không nhìn thấy đáy, thấy đích. Trong ngữ cảnh của câu thơ này nó vừa tạo ra cái hun hút của đáy vực khi nhìn từ đỉnh dốc, lại vừa gợi ra cái vời vợi của khoảng không gian khi từ đỉnh dốc phóng tầm mắt về phía chân trời. + Độ gấp khúc dữ dội của không gian: "Ngàn thước lên cao. Ngàn thước xuống". ● QD đã sử dụng cặp từ mang ý nghĩa đối lập để gợi mở không gian 2 chiều: Chiều lên vời vợi – "ngàn thước lên cao", chiều xuống hun hút – "ngàn thước xuống". ● Điệp từ "ngàn thước" trong trường hợp này có tác dụng tạo độ mở không giới hạn của không gian, QD đã sử dụng lớp từ giàu giá trị tạo hình, đồng thời thể hiện con mắt của một họa sĩ khi lựa chọn và sử dụng những đường nét có khả năng gây ấn tượng mạnh mẽ để làm nổi bật độ hùng vĩ mà vẫn gợi tả được độ phóng khoáng lãng mạn của khung cảnh không gian. + Những nguy hiểm ghê gớm luôn thường trực: "Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người" ● "Chiều chiều.. đêm đêm" – Gợi sự thường trực, cái thường trực trong cuộc sống người lính là nguy hiểm đang vây bọc xung quanh. ● 2 hình ảnh "thác" và "cọp" là hiện thân cho sức mạnh vừa thiêng liêng lại vừa hoang dã của tự nhiên. ● Điều đặc biệt là thiên nhiên vô tri dưới ngòi bút của QD lại trở nên đầy sinh khí thậm chí còn chứa đựng một nguồn sức mạnh vừa dữ dội lại vừa bí ẩn. ● Từ "gầm thét" gợi tính chất dữ dội vang vọng của âm thanh vừa gợi ra cơn cuồng nộ của tự nhiên. ● Từ "oai linh" – sức mạnh linh thiêng bí ẩn. + Là người đầu tiên khai phá đề tài Tây Bắc, QD đã có những phát hiện chính xác về những nét đặc trưng nhất ở một vùng đất, phải hơn 10 năm sau khi đọc mới có thể tìm đọc được những cảm giác đó trong văn của Nguyễn Tuân. + Bên cạnh đó, sự hô ứng giữa tên đất với tính chất hình ảnh được gợi tả cũng góp phần kích thích trí tưởng tượng của người đọc, tên Mường Hịch có một âm hưởng trắc nặng, lại gắn với hình ảnh "cọp trêu người" hai thanh trắc liên tiếp trong 2 chữ "hịch – cọp" còn như gợi ra tiếng bước chân của chúa sơn lâm như đang dậm dịch trong màn đêm. - Thơ mộng, thi vị: Gợi ra 2 hình ảnh "hoa" và "sương". Đây là 2 hình ảnh đặc trưng nhất góp phần tạo nên cái thi vị, thơ mộng. + Sương: "Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi". ● "Sương lấp" – nếu đứng độc lập dễ gợi cảm nhận về sự vùi lấp mịt mờ về cái nặng nề che lấp tầm nhìn của sương đêm, nhưng khi đặt bên cạnh địa danh Sài Khao với âm êm nhẹ nó khiến trong trí tượng của người đọc hình dung ra cái lãng đãng, bảng lảng của khói sương để làm nhòe bớt đi nét nhọc nhằn vất vả trong hình ảnh con người. + Hoa: Trong toàn bộ bài hình ảnh "hoa" xuất hiện nhiều lần và mỗi lần đều có sức gợi tả riêng. ● "Hoa về" – bút pháp tỉnh lược, cụm từ trở nên đa nghĩa, hoa ở đây có thể là hoa của tự nhiên, núi rừng theo tay của người hái trở về; có thể hình dung búp hoa trong đêm hơi; hình dung những gương mặt hoa của những thiếu nữ miền sơn cước. ● Nhiều nhà phê bình nói rằng từ ngữ mà QD dùng lung linh khả giả (có thể cắt nghĩa giải thích), bất khả giải là không thể cắt nghĩa giải thích chỉ có thể chấp nhận kích thích trí tưởng tượng của người đọc, giàu sức gợi. - Bình dị, gần gũi và ấm áp hơi thở cuộc sống con người. + Bằng những hình ảnh như nếp nhà thấp thoáng trong làn mưa xa khơi, hình ảnh khói tỏa của nồi cơm vừa chín tới. + Hương vị: "Thơm nếp xôi" – bình dị nồng đượm tỏa ra từ nếp sống sinh hoạt đời thường. Trong cái nhìn của người lính Tây Tiến những hình ảnh hương vị vốn bình dị đời thường nhưng lại được lãng mạn hóa, thi vị hóa. + Màn mưa xa khơi khiến hình ảnh nếp nhà trở nên thấp thấp thoáng hương thơm mùa gặt, mùa thu hoạch lại hòa quyện với hình dáng thiếu nữ. + Mùa em – mang đến một cảm giác thi vị, màu lúa chín, mùa nếp thơm đã trở thành mùa em thơm thảo dịu dàng. => Chính vẻ đẹp vừa bình dị vừa thơ mộng đó đã góp phần cân bằng lại cảm xúc, đã phần nào xóa đi nhọc nhằn gian khổ. - Trong cách miêu tả của QD thì sau hàng loạt câu thơ gợi ra sự khắc nghiệt dữ dội gợi ra những hiểm nguy rình rập từng bước chân người lính, nhà thơ lại xen vào một câu thơ đem đến cảm giác nhẹ nhõm, thơm lành. - Sau hàng loạt câu thơ sử dụng thanh trắc, nhà thơ lại xen vào một câu thơ có hầu hết là thanh bằng tạo một âm hưởng êm nhẹ. - Cách tổ chức hình ảnh và thanh điệu như thế đem đến cảm giác êm nhẹ bình yên luôn ở trong, ở sau những hiểm nguy gian khổ. Bởi thế mà tuy đoạn thơ này nói khá nhiều tới sự hiểm trở của thiên nhiên Tây Bắc nhưng ấn tượng sau cùng đọng lại vẫn là sự tỏa lan của những cảm xúc bâng khuâng. 1.2. 2 – Hình ảnh người lính Tây Tiến: - Hình ảnh người lính gợi ra ở đây là những con người bình thường với giới hạn về sức lực. + "Đoàn quân mỏi" – gợi ra cái mỏi mệt ở dáng vẻ của người lính trong cuộc trường chinh, hé mở một thực tế của cuộc sống đời lính, họ không chỉ phải đối mặt với kẻ thù mà ngay cả những chặng đường hành quân xuyên qua không gian rừng đại ngàn, đi qua cái thăm thẳm đêm tối đã vắt kiệt sức lực của người lính. + "dãi dầu" – nhọc nhằn, gian khổ. + "gục" có 2 cách hiểu: ● Ngủ gục: Một giấc ngủ chớp nhoáng giữa 2 chặng đường hành quân để lấy lại sức lực. ● Là cách nói tránh chỉ sự hi sinh của người lính góp phần hé mở một thực tế khốc liệt nơi chiến trường, nơi thường xuyên phải đối mặt với bom đạn của kẻ thù. - Hình ảnh người lính gợi ra ở đây là những chàng trai tuổi còn rất trẻ: Chất trẻ được bộc lộ ra trong cách nhìn vừa hồn nhiên vừa tinh nghịch, được thể hiện qua câu thơ "Heo hút cồn mây súng ngửi trời" + Vế đầu: QD gợi ra 1 không gian đặc biệt đó là đỉnh núi, đứng ở đây tưởng như ta có thể chạm tới trời. + Vế sau: Không gian ấy vừa trống vắng vừa lạnh lẽo, nhưng lại xuất hiện một mũi súng, đây là dấu hiệu về sự có mặt của người lính, cũng là dấu hiệu của sức trẻ vượt lên gian khó. Đặc biệt nhất là cách người lính cảm nhận về cây súng – phương tiện chiến tranh gắn với chức năng bắn phá hủy diệt, nhưng bằng từ "ngửi", QD đã khiến cây súng từ công cụ vô tri trở thành một sinh thể có sự sống, có khả năng cảm nhận và rất tò mò với thế giới xung quanh mình, đối tượng khám phá của cây súng lại là cái xa xanh vô tận của bầu trời kia. À Từ cách cảm nhận về cây súng người lính đã tự bộc lộ là những tâm hồn vừa lãng mạn lại vừa hồn nhiên. - Là những thanh niên mang lí tưởng anh hùng nên họ luôn hiện diện với tư thế ngang tàng đầy kiêu hãnh: "Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời!" + Chỉ cần đổi một chút trong cách dùng từ là sắc thái, khả năng biểu hiện của câu thơ sẽ hoàn toàn thay đổi. Nếu thay cụm từ "không bước nữa" = cụm từ "không bước nổi" à thể hiện sự thất bại, bất lực của con người khi đối mặt với gian khổ hiểm nguy; còn cụm từ "không bước nữa" mà QD dùng lại gợi ra sự chủ động dừng lại của con người. Một mặt nó vẫn gợi được cái giới hạn về sức lực, bên cạnh đó nó vẫn thể hiện đươc cái mạnh mẽ về tinh thần. + Cụm từ "bỏ quên đời" – làm sống dậy cái hào khí một thuở của những chinh phu, tráng sĩ sẵn sàng "Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao". À Hình tượng người lính vừa chân thực đời thường lại ít nhiều mang màu sắc lí tưởng. Hướng cảm nhận này tiếp tục được QD triển khai trong suốt bài thơ để làm nổi bật vẻ đẹp độc đáo cho hình tượng người lính trong bài. 2 – 8 câu thơ tiếp theo: "Doanh trại bừng lên.. hoa đong đưa" 2.1 – 4 câu thơ đầu :(Kỉ niệm về miền đất Tây Bắc – nơi có những sinh hoạt văn hóa độc đáo) Kỉ niệm về một đêm hội vùng cao: - Không gian: Là không gian gắn liền với đời lính. + "Doanh trại" – Là nơi đóng quân của bộ đội, thường có không khí trang nghiêm bởi đây là nơi mà những kỉ luật được thực hiện nghiêm ngặt. Nhưng không gian doanh trại trong câu thơ QD lại đầy thi vị thơ mộng, đem đến một cảm xúc say đắm bằng chính không khí đặc biệt, độc đáo của nó. + "Bừng lên" – gợi một thứ ánh sáng đột ngột bất ngờ, tỏa rạng; và gợi ra một cảm xúc hân hoan hứng khởi trong tâm hồn. + "Hội đuốc hoa" – gợi không khí tưng bừng rộn rã vừa gợi ánh sáng lung linh lại vừa gợi màu sắc rực rỡ. Trên nền không gian vừa lung linh vừa rực rỡ ấy là sự xuất hiện của thiếu nữ miền sơn cước. + 2 tiếng "kìa em" – như tiếng thốt ngỡ ngàng mà say mê của người lính trẻ trước vẻ đẹp lạ lùng của cô gái + Cụm từ "xiêm áo" – gợi vẻ lộng lẫy đầy quyến rũ khiến các cô gái bước vào đêm hội như những nàng tiên. + Từ "e ấp" – gợi vẻ duyên dáng đầy nữ tính, hơn nữa thiếu nữ xuất hiện không phải trong những công việc đời thường mà xuất hiện trong vũ điệu của những đêm hội. + "Man điệu" – gợi liên tưởng tới những bước chân uyển chuyển trong điệu múa. - Hình ảnh ấy, không khí ấy rất hài hòa với âm thanh được gợi ra là "tiếng khèn". + Đối với đồng bào dân tộc vùng Tây Bắc, tiếng khèn, tiếng sáo hay tiếng đàn không đơn giản chỉ là những giai điệu, khúc nhạc mà khi gắn với không khí lễ hội nó đã trở thành lời tỏ tình của trai gái. Bởi vậy, sự hiện diện của nó khiến không gian trở nên kì ảo quyến rũ trong giai điệu tình yêu. + Các từ "khèn lên, nhạc về" gợi ra sự vận động của âm thanh tiếng khèn theo bước chân người lên núi rồi lại vương vít lan tỏa theo bước chân người về làng bản. Tiếng khèn ru bổng tâm hồn nâng cánh cho những tưởng tượng để trong giây phút hòa mình vào đêm lễ hội, người lính lại bộc lộ chất lãng mạn thi sĩ trong tâm hồn mình. + "Viêng - chăn" – Thủ đô của nước Lào, là một địa danh gợi màu sắc phương xa xứ lạ. Với những người lính phần đông xuất thân từ tầng lớp thanh niên học sinh Hà Nội thì tính chất phương xa xứ lạ bao giờ cũng có khả năng kích thích cảm xúc và tưởng tượng khơi dậy những đam mê. + "Hồn thơ" mà QD nói đến ở đây là thế giới tâm hồn tràn đầy cảm xúc, đam mê, lãng mạn, là thế giới tâm hồn vô cùng nhạy cảm với vẻ đẹp lạ lùng, là chất thi sĩ trong tâm hồn người chiến sĩ khiến hình tượng người lính trong thơ QD bên cạnh vẻ đẹp hào hùng thì cũng rất mực hào hoa. 2.2 – 4 câu thơ tiếp: Là kí ức về miền đất Tây Bắc, nơi có thiên nhiên hoang sơ, thơ mộng và dữ dội. - "Người đi" – là những người lính TT, sau đêm lễ hội những người lính lại lên đường. Khác với từ "người lính" vì "người lính" gợi ra hình ảnh xác định cụ thể, khi dùng từ "người đi" thì tính chất xác định cụ thể được làm nhòe đi, từ đó hình ảnh gợi ra trong câu thơ trở nên rất gần với hình ảnh của các chinh phu, lữ khách, mang một ý vị cổ xưa để hài hòa với khung cảnh không gian xa mờ, bàng bạc, bảng lảng màu sương khói như trong một bức cổ họa. - "Châu Mộc" – ngoài màu sắc phương xa xứ lạ thì từ này còn gợi ra một không gian phóng khoáng, bát ngát. - "Chiều sương" – không khí bảng lảng, xa mờ từ đó ta có thể hình dung về hình ảnh bóng người đi mờ dần trong sương khói. - Tiếp theo là các câu hỏi dồn dập chồng chất nhưng là những câu hỏi gợi nhớ, nhắc nhớ nó đánh thức dậy kí ức, tô đậm ấn tượng. => Thiên nhiên Tây Bắc được đánh thức dậy với những nét đặc trưng. - Hình ảnh "hồn lau nẻo bến bờ" + Lau là loài cây dại mọc ở bên bờ vách đá, ở những nơi hoang vu vắng vẻ. + Hoa lau với màu bàng bạc của khói sương. + Hồn lau gợi ý vị bàng bạc, bảng lảng của một nơi bến bờ xa lắc. => Cho ta thấy vẻ hoang sơ, xa ngái. - Hình ảnh "Dáng người trên độc mộc.. Trôi dòng nước lũ", câu thơ gợi ra một tương phản. + "dáng người" – cái thấp thoáng của bóng người. + "độc mộc" -con thuyền nhỏ. + "dòng nước lũ" – chỉ sức mạnh hoang dã và dữ dội của thiên nhiên. => Thông thường trong không gian như vậy hình ảnh con người, con thuyền sẽ trở nên thật nhỏ nhoi, nhưng QD lại có cách cảm nhận lạ lùng. + "Trôi" – gợi tính chất nhẹ nhàng của một vận động, tương ứng với nó là sự thanh thản của tâm trí con người. Dường như cái dữ dội của dòng nước lũ không thể làng xao động tâm trí con người hay là con người đã chế ngự được thiên nhiên hung bạo và dữ dội kia. Dù khó có thể chắc chắn về một ý nghĩa cụ thể nào đó nhưng điều đọng lại từ hình ảnh này là ấn tượng về một vẻ đẹp hào hùng khi con người có thể bình thản tự do trên nền thiên nhiên dữ dội. - Hình ảnh "Hoa đong đưa" – hình ảnh hoa đã trở đi trở lại nhiều lần trong bài, nó là hiện thân vẻ đẹp rực rỡ và quyến rũ của tự nhiên. "Đong dưa" – là một từ giàu sức gợi, khác với từ "đu đưa" – gợi vận động còn từ "đong đưa" lại gợi ra vẻ đẹp duyên dáng tình tứ, trong cái nhìn của QD ngay cả một đóa hoa cũng có tình yêu với con người. 3 – 8 câu thơ tiếp: Hình tượng người lính Tây Tiến: "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc * * * Sông Mã gầm lên khúc độc hành" 3.1 – 4 câu thơ đầu: Tập trung khắc họa bức chân dung người lính. - Diện mạo: + Xây dựng hình tượng tập thể, đó là hình tượng đoàn binh Tây Tiến, lính TT phần đông là thanh niên học sinh Hà Nội – vừa lãng mạn hào hoa vừa mang lí tưởng anh hùng. => Sự lãng mạn đó được bộc lộ trong cách nhìn, cách cảm nhận, QD sử dụng lối nói lạ hóa để gây ấn tượng về diện mạo của người lính. + "Không mọc tóc" – cụm từ này nhắc tới một thực tế trong điều kiện chiến trường các chiến sĩ phải cắt tóc ngắn để tiện cho sinh hoạt, hơn nữa do chưa quen thông thổ khí hậu, một số chiến sĩ đã bị bệnh nên tóc đã rụng đi như trút. => Qua cách nói của QD nó lại đem đến một ấn tượng lạ, không mọc tóc lại là sự chủ động khắc chế những điều vốn rất tự nhiên trong cuộc sống của con người. + "Quân xanh màu lá" – nếu đứng độc lập sẽ đem đến nhiều cách hiểu khác nhau: Có thể là màu xanh của lá ngụy trang, có thể là màu của nước da xanh tái vì thiếu thuốc, thiếu ăn; nhưng khi đặt bên cụm từ "dữ oai hùm" người đọc chỉ có thể hình dung tới cái sắc xanh chứa trong đó là khí thế, sức mạnh của một đoàn quân lừng tiếng. Lối liên tưởng tiếp thu từ văn chương cổ, cụm từ "dữ oai hùm" – ngòi bút QD đã khắc họa được diện mạo khí thế của người lính TT. - Chân dung tâm hồn người lính TT năm xưa. + Thông thường những từ mộng – mơ vẫn được dùng để biểu hiện những cảm xúc lãng mạn ở những con người trẻ tuổi. Trong câu thơ này những từ đó được sử dụng sáng tạo để có thêm khả năng biểu hiện mới. + "Mắt trừng gửi mộng" – đem đến một ấn tượng lạ vì "trừng" là khi đôi mắt mở căng ra khi nhìn trong bóng tối, đó cũng có thể là đôi mắt mở căng ra và chất chứa trong đó sự căm hờn, phẫn nộ. + Đặt cạnh cụm từ "mắt trừng" bên cụm từ "gửi mộng" sẽ thể hiện một khát vọng cháy bỏng. + Nếu nhìn từ nhiệm vụ của đoàn binh TT là kết hợp với lực lượng Lào đánh tiêu hao sinh lực địch, bảo vệ biên giới Việt – Lào, nên địa bào hoạt động của đoàn binh TT trải rộng với khu vực Tây Bắc và Thượng Lào, thì giấc mộng gửi qua biên giới khi là giấc mộng trả thù nhà, đền nợ nước của những chàng trai mang lí tưởng anh hùng. - Cùng với lí tưởng cao đẹp để làm nên vẻ đẹp hào hùng, người lính TT cũng có những rung động của tâm hồn lãng mạn hào hoa: "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm". + "Đêm" – Là thời khắc của cuộc sống riêng tư và trong thế giới riêng tư sâu thẳm nhất của tâm hồn người lính có dáng đài các dáng kiêu sa của những khuê nữ Hà thành. + "Dáng kiều thơm" – tuy không gợi ra một chân dung cụ thể nhưng lại có một vẻ đẹp kinh kì của người con gái trong thế giới mộng tưởng của chàng trai trẻ. Vì câu thơ này mà bài thơ bị đánh giá là lãng mạn tiểu tư sản nhưng đáng giá như thế là áp đặt, cực đoan bởi dáng kiều thơm không chỉ gắn với rung động mang tính cá nhân mà ngay cả những rung động rất riêng tư cũng hòa vào tình cảm lớn, bởi theo trình tự sắp xếp của chữ nghĩa đối.. + Đối với người lính TT, HN trước hết là quê hương sau nữa là biểu tượng thiêng liêng của tổ quốc, lên Tây Bắc thực hiện cuộc hành trình TT cũng là sự bình yên của Hà Nội phía sau mình, hiểu như thế ta sẽ thấy ở người lính TT phần riêng tư cá nhân đã thống nhất hài hòa với tình cảm lớn lao, đẹp đẽ. 3.2 – 4 câu thơ sau: QD đi vào khắc họa cuộc sống của người lính TT. - Nhà thơ trước hết mở ra một thực tế khốc liệt nơi chiến trường "Rải rác biên cương mồ viễn xứ" – khung cảnh biên ải xa xôi và lạnh lẽo, các từ "biên cương" "viễn xứ" thuộc lớp từ Hán – Việt, có âm hưởng trang trọng, có tác dụng làm sống dậy trong kí ức người đọc ấn tượng về các cuộc chinh chiến đã từng được nói nhiều trong những trang thơ xưa. Hình ảnh nấm mồ gợi nhắc đến cái chết sự mất mát và nỗi đau, nó sẽ đem đến cho khung cảnh biên cương một không khí thật bi ai nên câu thơ nếu đứng độc lập sẽ đem đến một ám ảnh thê lương không kém gì so với những câu thơ trong "Chinh phụ ngâm" – của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm. "Hồn tử sĩ gió ù ù thổi Mặt chinh phu trăng dõi dõi theo Chinh phu tử sĩ mấy người Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn" - Tuy nhiên mục đích của QD không phải là kể về những gian khổ hi sinh, không phải là cố ý nói đậm lên những gian khổ hi sinh để gây bi lụy làm nhụt nhuệ khí chiến đấu như nhà phê bình nào đó từng phê phán. Mục đích của QD là từ việc gợi ra thực tế khốc liệt để nêu bật lí tưởng cao đẹp của những người lính trẻ: "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh" + "Chiến trường" – là nơi phải giáp mặt với kẻ thù, nơi sự sống và cái chết chỉ cách nhau gang tấc. + "Đời xanh" – là tuổi trẻ, là phần đời đẹp nhất của một con người và tuổi trẻ thì một đi không trở lại, nên đối với tuổi trẻ ta cần biết trân trọng khi đang sở hữu và nuối tiếc khi nó đã đi qua. + "chẳng tiếc" – là sẵn sàng trao đi, sẵn sàng dâng hiến mà không chút tính toán. Câu thơ đã nêu bật lên lẽ sống xả thân, tinh thần xả thân vô tư trong sáng của những người lính trẻ, đây là điều không chỉ QD nhắc tới mà rất nhiều nhà thơ cùng thời với ông đã khẳng định và ngợi ca. (So sánh với Đất Nước) "Em ơi em ĐN là máu xương của mình Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên ĐN muôn đời.." - Khi người lính sẵn sàng xả thân, đây là hiện thân của sức mạnh quê hương đất nước. Khi người lính sẵn sàng dâng hiến đời mình cho tổ quốc thì sự sống không chỉ thuộc về riêng anh, đó là cơ sở cho cách cảm nhận của QD về sự hi sinh của người lính. "Áo bào thay chiếu anh về đất" + "Áo bào" - ở lớp nghĩa trực tiếp gợi nhắc tới tấm áo hành trang duy nhất của người lính khi ngã xuống nơi chiến trường. + Cụm từ "Áo bào thay chiếu" gợi ra một thực tế khốc liệt ở nơi chiến trường gian khổ khó khăn, thì sự thiếu thốn không chỉ gắn với người sống mà còn gắn với những người đã ngã xuống. Khi người lính ngã xuống nơi chiến trường, đồng đội không thể có dù manh chiếu hay tấm chăn để bao bọc cho anh. Tấm áo anh mặc trên người là hành trang duy nhất cùng anh đi vào lòng đất mẹ. Hiện thực khắc nghiệt ấy được làm mờ đi bằng bút pháp lãng mạn hóa của nhà thơ. + Cụm từ "áo bào" ở lớp nghĩa biểu trưng gợi liên tưởng tới tấm áo choàng của những chiến tướng trên chiến trường xưa, đem đến cho hình ảnh người lính một vẻ uy nghi, lẫm liệt. + Cụm từ "về đất" – không chỉ là cách nói tránh chỉ sự hi sinh mà còn gợi liên tưởng tới sự hóa thân. Trong cách cảm nhận của nhà thơ QD, những người lính không chết mà các anh chỉ hòa linh hồn, thể xác vào núi sông quê hương, có nghĩa là anh sẽ bất tử cũng sông núi. - Đoạn thơ khép lại bằng âm vang tiếng gầm sông Mã. "Sông Mã gần lên khúc độc hành" + Sông Mã đã song hành với người lính TT - đó là nơi bắt đầu của một mối quan hệ cũng là điểm kết thúc của một cuộc hành trình. Tiếng gầm của sông Mã là âm vang dữ dội, là âm vang của nỗi đau cũng chứa đựng trong nó 1 sức mạnh vô biên khi người lính về đất ;là khi sông Mã gầm lên khúc độc hành, khúc độc hành đã trở thành khúc tráng ca về sự ra đi không trở lại. 4 – 4 câu cuối: "Tây Tiến người đi không hẹn ước * * * Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi" - Vị trí của đoạn thơ: Là đoạn kết khép lại bài thơ, vì thế đoạn thơ có nhiệm vụ hoàn tất hình tượng và biểu hiện trọn vẹn cảm xúc. - Bài thơ làm theo thể hành – một thể thơ cổ có âm điệu gân guốc, hào hùng, phù hợp để diễn tả tâm tình mạnh mẽ dữ dội, phù hợp để xây dựng hình tượng tầm vóc tráng lệ. - Như là một khúc vĩ thanh mang dư vị đọng lại. - 2 câu thơ đầu trong đoạn là 2 câu khái quát về hình tượng. + Hình tượng người línhTT + Hình tượng con đường lên TB + "TT" : Đặt trong câu đầu vừa là tên của một đơn vị bộ đội, vừa gắn với hình tượng đoàn binh TT; mặt khác còn gợi ra cuộc hành trình lên miền Tây Bắc để thực hiện một lí tưởng sống cao đẹp là xả thân vì tổ quốc, là cơ sở để hình thành một lí tưởng sống hào hùng. + "Người đi" – Người lính TT, đã làm nhòe nét nghĩa cụ thể của hình tượng để người lính hiện lên mang phảng phất bóng dáng của chinh phu, tráng sĩ đời xưa "Nhất khứ bất phục phản". + "Không hẹn ước" – không hẹn ngày trở lại. + "Một chia phôi" – dưt khoát kiên quyết khi chia tay, đoạn tuyệt mọi níu kéo, hết mình trọn vẹn cho lí tưởng. => Hình ảnh của những người lính anh hùng. + Hình ảnh ấy được đặt trên một nền không gian đặc biệt đó là con đường lên miền Tây Bắc – "Đường lên thăm thẳm" – gơi cái xa xôi vời vợi, vừa gợi cái hun hút trong không gian điệp trùng đồi núi, có nhiều đèo cao dốc đứng, bởi phía trước từ "thăm thẳm" QD sử dụng từ lên gợi vận động, mang ý nghĩa tạo hình, cho ta liên tưởng tới bước chân chinh phục không gian. - 2 câu thơ cuối khái quát lại cảm xúc của người lính khi hòa mình vào đoàn binh TT để trải nghiệm một phần đời gian khổ mà hào hùng. + Nếu "TT" ở câu đầu gợi nhắc tới một đơn vị bộ đội thì ở đây TT là gợi ra một cuộc hành trình. + "Mùa xuân ấy" – có thể là mùa xuân năm 1947 khi binh đoàn TT được thành lập, đó cũng là thời điểm của một mqh, là thời điểm bắt đầu của một cuộc hành trình, của một phần đời mà ở đó cuộc sống cá nhân đã hòa quyện thống nhất, tỏa sáng trong cuộc đời chung của toàn dân tộc. + Điều đọng lại trong hành trình TT đó là những cảm xúc tình cảm, chữ "hồn" mà QD dùng là chỉ tâm hồn thế giới tình cảm, cảm xúc. => Câu thơ gợi ra sự lựa chọn giữa về Sầm Nứa và "chẳng về xuôi", trong sự hô ứng về ngữ nghĩa của câu thơ, từ "về" ở đây không phải là cuộc hành trình của đôi chân mà nó gợi đích hướng tới của tâm trí. + QD đã sử dụng cách nói cường điệu để nhấn mạnh, nhà thơ khẳng định tình cảm gắn bó sâu nặng thắm thiết với miền đất TB - nơi ghi dấu 1 quãng đời của những con người trẻ tuổi, sẵn sàng dâng hiến máu xương, xả thân vì tổ quốc.