Hình tượng bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Cam Thuong, 11 Tháng hai 2022.

  1. Cam Thuong My name is Cẩm Thương :)

    Bài viết:
    92
    Hình tượng bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt

    Bài làm

    Trong kí ức con người có rất nhiều giai đoạn đáng để nhớ để lưu giữ thế nhưng đẹp nhất chỉ có thể là những năm tháng tuổi thơ êm dịu. Những năm tháng ấy sẽ đi theo con người đến suốt cả cuộc đời. Và với nhà thơ Bằng Việt cũng không ngoại lệ. Kí ức tuổi thơ với hình ảnh "bếp lửa" mà người bà nhen nhóm đã trở thành những kí ức đẹp nhất trong cuộc đời nhà thơ.

    Bài thơ Bếp lửa được sáng tác năm 1963, khi tác giả đang là sinh viên học ngành Luật ở nước ngoài. Bài thơ được đưa vào tập Hương cây – Bếp lửa (1968), là tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ.

    Thơ ca là tiếng lòng, người thi nhân phải thể hiện cảm xúc nồng cháy để bộc lộ tiếng lòng của mình. Bài thơ Bếp lửa là tạc hình ảnh ngọn lửa bừng cháy chân thật, gần gũi qua đó gợi lên lòng thương nhớ, kính yêu, trân trọng và biết ơn bà của người cháu đã đi xa; đồng thời nói lên tình yêu thiết tha đối với gia đình, quê hương, đất nước. Mạch cảm xúc của bài đã đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm. Văn học nói chung và thơ ca nói riêng, nó đã phản ánh cuộc sống thông qua hình tượng bếp lửa. Đó là bức tranh sinh động và tương đối toàn vẹn trong cuộc sống. Bếp lửa luôn gắn liền với hình ảnh bà, nhớ đến bếp lửa là cháu nhớ đến bà và cuộc sống gian khổ. Bếp lửa bàn tay bà nhóm mỗi sớm mai là nhóm tình yêu thương, niềm vui sưởi ấm, sự san sẻ tình làng nghĩa xóm, những tâm tình và ước vọng của tuổi thơ. Hình ảnh ấy là tình cảm

    Yêu thương, bình dị mà thiêng liêng của bà.

    Nó còn là biểu tượng của gia đình, quê hương, đất nước, cội nguồn..

    Có thể nói hình ảnh bếp lửa trong tác phẩm của Bằng Việt đã trở thành hình ảnh xuyên suốt một vùng không gian và thời gian. Từ kí ức cho đến hiện đại, từ những năm tháng gian khổ trong kháng chiến đến những ngày tháng bôn ba nơi xứ lạ. Hình ảnh bếp lửa với hình ảnh người bà tần tảo đã trở thành một hoài niệm vô cùng sâu sắc của nhà thơ.

    Những câu thơ đầu hiện lên trong tâm trí của nhà thơ đầy suy ngẫm:

    "Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

    Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

    Cháu thương bà biết mấy nắng mưa."

    Đó là hình ảnh một bếp lửa nhuốm màu cổ tích "chờn vờn" trong sương sớm. Ngọn lửa không to cũng chẳng nhỏ xua tan đi cái lạnh giá của vùng nông thôn buổi sáng tinh mơ. Hình ảnh đó khắc sâu trong tâm trí non nớt của đứa cháu bé bỏng. Nó chứa đựng cả một vùng trời kí ức, một miền tuổi thơ đầy sóng gió. Gắn liền với đó là hình ảnh của người bà dầu dải biết mấy nắng mưa. Nắng mưa ở đây không chỉ là những hiện tượng mang tính thiên nhiên thời tiết mà nó còn là những nắng mưa đời bà. Những bão giông của cuộc đời hằn lên đôi vai gầy khắc khoải của bà. Điệp từ "một bếp lửa" được lặp đi lặp lại nhiều lần như khắc sâu vào trong tâm trí của tác giả nó làm sống dậy biết bao nhiêu kí ức tươi đẹp tuổi thơ.

    Bốn tuổi cháu đã ở bên bà cháu nhớ đến những năm tháng đầy gian khổ đó đến giờ

    Như còn sống dậy trong tâm trí:

    "Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

    Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

    Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay"

    Có thể nói Bằng Việt đã vô cùng khéo léo khi nhắc lại những kỉ niệm tuổi thơ đầy mộc mạc giản dị thông qua hình ảnh vô cùng gợi hình. "Mùi khói", "nhèm mắt cháu", "sống mũi còn cay".. những kỉ niệm đó như xoáy sâu vào tiềm thức non nớt của đứa trẻ bốn tuổi làm cho người đọc cũng thấy cay cay nơi sống mũi. Người ta thường bảo niềm vui thì nhanh quên nhưng nỗi buồn sự cơ hàn luôn theo con người đến hết đời quả không sai. Nếu như tuổi thơ của cháu đầy đủ về vật chất với bếp điện bếp ga thì có đâu hình ảnh khói hun nhèm mắt cháu theo cháu đến cả những phương trời xa lạ đến thế?

    Đến đây, dòng cảm xúc hòa vào dòng chảy của những câu thơ tự sự, tưới đẫm chất trữ tình cho giọng thơ, góp phần làm cho hình ảnh bà trong bài thơ hiện ra rõ hơn và đẹp hơn cả:

    "Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa

    Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

    Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà

    Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

    Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế"

    "Tám năm ròng" mà chỉ nghe thôi đã thấy được cái đằng đẵng, ròng rã, với bao nhọc nhằn khó khăn, vất vả và cả nỗi sợ hãi, niềm thương nhớ da diết nữa.. cứ đeo đẳng lấy hai bà cháu! Nhưng trong tám năm ấy, "cháu cùng bà nhóm lửa", vẫn nhóm lên ngọn lửa của sự sống, của tình yêu cháy bỏng nơi trái tim một cậu bé hồn nhiên, trong trắng tuổi lên tám. Chính hình

    Ảnh bếp lửa quê hương, bếp lửa của tình bà cháu đó đã gợi nên một liên tưởng khác, một hồi ức khác trong tâm trí thi sĩ thuở nhỏ.

    Tuổi thơ Bằng Việt lớn lên trong cảnh hoang tàn của chiến tranh. Quê hương, xóm làng bị giặc tàn phá. Cuộc sống cạnh tranh song hai bà cháu cũng được an ủi bởi tình cảm hàng xóm láng giềng. Bởi trong hoàn cảnh chung của phổ thông gia đình Việt Nam lúc đó, các người lớn phải tham dự kháng chiến, ở nhà chỉ còn cụ già và cháu nhỏ: "Mẹ cùng cha công tác bận không về".

    Và vì vậy chỉ với hai bà cháu mồ côi mồ cút bên nhau. Bà nói chuyện ở Huế cho cháu nghe, bà dạy cháu học, chỉ cháu làm. Bao công tác bà đều lo chu toàn hết vì cha mẹ bận công tác không về. Bà là chỗ dựa cho

    Cháu, và đứa cháu ngoan ngoãn là nguồn vui sống của bà. Các kỉ niệm của tuổi thơ đều gắn liền sở hữu hình ảnh "bếp lửa", bởi "lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói", đã sớm phải toan lo. "Cháu cùng bà nhóm lửa" trong tám năm ròng. Tám năm đấy nó cũng chẳng phải là dài lắm nhưng sao cứ kéo dài lê thê trong lòng cháu. Cho nên, nhớ về tuổi thơ, người cháu lại "chỉ nhớ khói hun nhèm mắt". Cảm giác đó chân thật và xúc động. Chiếc làn khói bếp của ngày xưa đấy như bay tới tận bây giờ làm cay nơi sống mũi. Ngày xưa cay vì khói còn giờ đây sống mũi lại cay lúc nhớ về tuổi thơ và cũng vì nhớ thương tới người bà.

    Trong bài thơ với tới mười lần người bà hiện diện cộng bếp lửa mang vẻ đẹp tần tảo, hi sinh, yêu thương con cháu. Và từ "bếp lửa", nhà thơ đã đi tới hình ảnh "ngọn lửa" :

    "Rồi sớm chiều lại bếp lửa bà nhen

    Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn

    Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng.."

    Điệp ngữ "một ngọn lửa" ý muốn nhấn mạnh tình yêu thương ấm áp bà dành cho cháu. Hình ảnh bếp lửa mà bà nhen sớm sớm, chiều chiều không phải chỉ bằng nhiên liệu người ta vẫn thường dùng nhóm lửa mà đã sáng bừng lên ngọn lửa bất diệt, ngọn lửa của tình yêu thương luôn ủ sẵn trong lòng bà, ngọn lửa của niềm tin dai dẳng, ngọn lửa thắp sáng lên niềm tin, ý chí, hi vọng và nghị lực luôn bền bỉ và bất diệt. Ngọn lửa của bà còn làm bùng cháy lên những điều tươi đẹp, hồn nhiên và trong sáng trong tâm hồn tuổi thơ của cháu.

    Từ các hồi ức về tuổi thơ, người cháu đã

    Suy ngẫm về thế cuộc của bà. Bà đã hi sinh cả đời mình để lực lượng bếp lửa và giữ cho ngọn lửa luôn ấm áp, tỏa sáng trong gia đình:

    "Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

    Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi

    Nhóm nồi xôi gạo mới thổi chung vui

    Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

    Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!"

    Người đọc cảm thấy mái ấm hạnh phúc gia đình mỗi sáng mỗi chiều. Câu cảm thán cuối đoạn thơ như một tiếng reo cất lên của đứa cháu nhỏ, tiếng reo của ngọn lửa bập bùng trong bếp lửa được bà "nhen" lên và "ủ sẵn" cả cuộc đời. Hình ảnh bếp lửa, ngọn lửa luôn luôn gắn bó với người bà thân yêu. Bếp lửa bà nhen mỗi ban mai không chỉ bằng rơm rạ mà còn được nhen lên bằng chính ngọn lửa trong lòng bà, ngọn

    Lửa của sự sống, lòng yêu thương và niềm tin tưởng. Từ bếp lửa bình dị, quen thuộc, người cháu nhìn thấy bao điều "kì diệu" và "thiêng liêng". Ngọn lửa được đội ngũ lên từ chính bàn tay bà đã nuôi lớn tuổi thơ cháu: "Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi thơ". Bà thầm lặng chịu chứa, hi sinh để: "Bố ở chiến khu, bố còn việc bố". Chính vì thế, đứa cháu đã cảm nhận được trong bếp lửa bình dị mà quen thuộc sở hữu nỗi khó nhọc, gian khó của người bà. Dù đang sống và học tập ở phương xa, đứa cháu vẫn luôn nhớ khôn nguôi về người bà đôn hậu và bếp lửa ở quê nhà. Những kỉ niệm trôi qua theo một nhạc điệu tâm tình âm ỉ thầm thì triền miên như nỗi nhớ chất thơ lan tỏa trong từng con chữ có cả sắc màu, hương vị, ký ức và hồn người, tình người lan tỏa vào cảnh, ấp ủ thành tình yêu quê hương.

    Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!

    Đó là lời thốt lên từ niềm trân trọng, biết ơn cũng là lời thốt lên khi chợt nhận ra trong một vật đơn sơ, lại ẩn náu bao điều kì diệu. Hình ảnh bếp lửa cứ cháy, trong những kỉ niệm của tình bà cháu. Đoạn thơ thật cảm động, dù cho ngọn lửa hung tàn của giặc đang thiêu huỷ làng xóm thì chính bếp lửa ấm cúng, ân cần của bà đang nhen lên sự sống. Bà đã chịu đựng tất cả vất vả, khó khăn, hy sinh, mất mát. Vì vậy những gì bị thiêu cháy trong ngọn lửa dã man, kỳ lạ thay đang hồi sinh trong ngọn lửa của lòng bà. Ngọn lửa ấy, bếp lửa ấy đã sưởi ấm tâm hồn đứa cháu ngây thơ từ những tháng năm lên bốn. Kì lạ và thiêng liêng nhất là tình yêu quê hương, xứ sở bắt đầu từ sự gắn bó với những gì đơn sơ, bình dị và gần gũi nhất. Tình bà cháu gắn bó với lòng yêu nước thật thiêng liêng, cao cả. Cháu lớn khôn trưởng thành trong đôi bàn

    Tay nâng niu trong tấm lòng yêu thương vô hạn của bà. Ngọn lửa mà bà đã nhóm lên từ "bếp lửa" ấy đã sưởi ấm và soi sáng cuộc đời đi lên phía trước của cháu.

    Câu hỏi tu từ khép lại bài thơ làm cho nỗi nhớ bà, nhớ bếp lửa, nhớ gia đình, nhớ quê hương càng trở nên sâu lắng, thiết tha, bồi hồi:

    "Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu

    Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

    Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:

    Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?"

    Người cháu năm xưa giờ đã trưởng thành, đi xa. Trước mắt mang các "niềm vui trăm ngả", "có khói trăm tàu", "có lửa trăm nhà", một thế giới rộng lớn mang bao điều mới mẻ được hiện ra. Nhưng đứa cháu vẫn không giới hạn hỏi: "Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?". Mỗi ngày đều tự hỏi "Sớm

    Mai này" là mỗi ngày cháu đều nhớ về bà, Hình ảnh người bà luôn làm cho ấm lòng và nâng đỡ cháu trên bước trục đường đi tới.

    Bếp lửa ấy là nơi bà nhen nhóm lên những yêu thương, sự quan tâm, chăm sóc và những kí ức đẹp của tuổi thơ trong cháu. Ngọn lửa của bà như nguồn sáng mạnh mẽ, bất diệt để làm cháu tự tin, can đảm trên đường đời. Có thể nói, bếp lửa ấy không chỉ còn có hơi ấm, mà nó còn cả một trời sức mạnh, cả một biển yêu thương, một điểm tựa vững chắc và thiêng liêng của tuổi thơ. Để rồi cứ thổn thức, âm vang và ám ảnh mãi hình ảnh bếp lửa và đôi bàn tay chi chút, cẩn trọng của bà. Bếp lửa ấy của Bằng Việt giống như mảnh kí ức thiêng liêng, thầm kín mà dù có đi xa, quen với cuộc sống hiện đại, tiện nghi thì cũng không bao giờ cháu quên thổn thức sớm

    Mai này bà nhóm bếp lên chưa? Như thế, bếp lửa chính là sự hiện hữu thiêng liêng và cao cả của người bà, của sức mạnh và niềm tin bất diệt mà người cháu luôn khắc cốt ghi tâm.

    "Bếp lửa" là bài thơ cảm động, tình cảm dạt dào trong lòng đã tìm đến một giọng điệu, một nhịp điệu thật phù hợp. Ấy là giọng nồng đượm của lửa, ấy là nhịp bập bùng của lửa, giọng kể lể cứ tràn ra, dâng lên một ngày một nồng nàn, ấm nóng.. Bằng Việt đã khéo lựa chọn và sắp xếp để hình ảnh người và bà bếp lửa luôn đi đôi với nhau. Đọc "Bếp lửa" chẳng những thấy được một dòng tâm sự sâu nặng, dạt dào mà nhà thơ còn muốn đề cao một điều rất đỗi giản dị: "Tình yêu quê hương đất nước bắt nguồn từ những cái cụ thể gần gũi, thân thương với mỗi con người".

    Bằng những hình ảnh thơ giản dị, xúc động và đầy tính thẩm mĩ, nhà thơ Bằng Việt đã tạo dựng nên chân dung người bà, người phụ nữ Việt Nam dũng cảm, kiên trung bằng tình yêu thương của mình sưởi ấm đứa cháu, vững lòng nơi hậu phương. Đồng thời khắc họa được hình tượng bếp lửa đầy tính thẩm mĩ và giá trị nghệ thuật, góp phần làm nên con mắt thơ tinh tế, giàu cảm xúc.

    Tác giả: DNNY
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...