So sánh hình tượng đất nước trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm và Nguyễn Đình Thi

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Dautaycutee, 11 Tháng sáu 2024.

  1. Dautaycutee

    Bài viết:
    7
    So sánh hình tượng đất nước trong bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm và Nguyễn Đình Thi ✍️

    [​IMG]

    Đối với mỗi con người, hai tiếng tổ quốc, Tổ quốc bao giờ cũng thiêng liêng rất mực. Chẳng vậy nhưng mà các thi sĩ, nhà văn luôn có cho mình một cảm hứng dạt dào lúc viết về hình tượng tổ quốc. Trải qua bao nhiêu thời kì với bốn nghìn năm dựng và giữ nước, biết bao áng thơ văn đã tạc nên hình tượng non sông. Trong đó phải kể tới hai bài thơ cùng tên của hai tác giả thi ca nổi tiếng Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm. Cả hai bài thơ cùng tên "Quốc gia" trình bày cùng một tình yêu nước vô cùng sâu nặng nhưng lại được trình bày qua từng cách cảm nhận riêng của mỗi tác giả. Điều đó đã đem lại cho người đọc chúng ta cái nhìn thật toàn diện, thật mới mẻ và thâm thúy hơn về hình tượng tổ quốc.

    Cả hai tác phẩm thơ đều ra đời sau lúc Cách

    Mệnh tháng Tám thành công, trong khi nhân dân Việt Nam đã thừa hưởng tự do, độc lập, có được quyền làm chủ non sông, vậy nên chúng đều trình bày hình tượng của một tổ quốc trù phú, giàu đẹp, với người dân người hùng. Cả hai thi sĩ đều sử dụng giọng thơ trữ tình – chính luận lúc viết về Quốc gia mang tính súc tích và triết lý cao. Không chỉ vậy, nó còn trình bày sự tìm tòi, khám phá những điều mới lạ cho hình tượng tổ quốc. Thế nhưng, tựu chung lại, chúng đều trình bày một tình yêu tổ quốc non sông vô cùng thâm thúy của những người con đất Việt.

    Tuy vậy, về cơ bản, hai bài thơ đều có chung hướng đi, có chung điểm tới, thế nhưng hình thức, cách cảm nhận và biểu thị đều mang nét riêng của từng tác giả. Mỗi người đều có những khám phá riêng về Quốc gia của mình.

    Với "Quốc gia" của Nguyễn Đình Thi, ông mở đầu viết từ năm 1948, nhưng mãi tới 1955 mới hoàn thành. Chặng đường làm nên tác phẩm kéo dài tám năm, suốt cuộc kháng chiến chống Pháp lần hai của quân và dân ta. Vậy nên cảm nhân về tổ

    Quốc của ông mở rộng từ quá khứ tới tương lai về một tổ quốc kiên cường, quật cường, vươn dậy trở thành "những người hùng áo vải", đem lại một tương lai huy hoàng. Bài thơ của Nguyễn Đình Thi mang màu sắc hiện đại, trẻ trung, pha chút u buồn, trầm lắng, nhưng không thiếu đi nét dân tộc, truyền thống. Tính dân tộc trong bài thơ được trình bày qua hình ảnh của mùa thu xử sở với gió heo may, với "hương cốm mới", với cảm giác "chớm lạnh" giữa "những phố dài" của Hà Nội thủ đô:

    "Sáng mát trong như sáng năm xưa

    Gió thổi mùa thu hương cốm mới

    Tôi nhớ những ngày thu đã xa"

    Hay "Những phố dài xao xác hơi may"

    Đó là mùa thu của một tổ quốc hiền hòa, một mùa thu thật đẹp nhưng có chút gì đó man mác buồn suy tư. Để tiếp tới sau đó là hình ảnh về một mùa thu mới của non sông, mùa thu ngày nay với thú vui phơi phới:

    "Mùa thu nay đã khác rồi"

    Đó là thú vui về một tổ quốc tự do, được làm chủ quê hương, niềm tự hào lúc tổ quốc được "thay áo mới". Đồng thời, cũng qua đó, Nguyễn Đình Thi bộc bạch niềm tự hào về một hình ảnh tổ quốc Việt Nam giàu có, trù phú với:

    "Những cánh đồng thơm mát

    Những ngả đường mênh mông

    Những dòng sông đỏ nặng phù sa"

    Hình ảnh tổ quốc hiện lên sao xinh tươi và thân yêu tới thế! Không chỉ gắn liền với hôm nay, tổ quốc còn nối tiếp mạch với truyền thống, với quá khứ của dân tộc:

    "Nước chúng ta

    Nước những con người chưa bao giờ khuất

    Đêm đêm rì rầm từ trong đất

    Những buổi ngày xưa vọng nói về"

    Mạch nguồn của truyền thống kết nối với ngày nay để làm nên một tổ quốc người hùng. Truyền

    Thống đó được lớp lớp người con Việt Nam kế cận, không chỉ là về văn hóa, phong tục nhưng mà còn về truyền thống quả cảm, quyết tâm đấu tranh bảo vệ quê hương mình. Ở đây, màu sắc hiện đại của bài thơ nổi lên khá rõ, đó là hình ảnh của một tổ quốc trong trận chiến tranh vệ quốc ở thế kỉ XX. Hình tượng tổ quốc được ấp ủ trong suốt cuộc kháng chiến chín năm với bao nhiêu là trải nghiệm được đúc kết. Để tới cuối cùng, lúc nói về đau thương của chiến tranh gây ra cho quê hương, Nguyễn Đình Thi chỉ thốt lên:

    "Ôi những cánh đồng quê chảy máu

    Dây thép gai đâm nát trời chiều"

    Chiến tranh đi qua bao giờ cũng để lại những tang thương, những đau thương mất mát. Những người nào đã từng đi qua chiến tranh đều hiểu cái điêu tàn, tang thương nó để lại và Nguyễn Đình Thi đã trình bày hình tượng tổ quốc trong chiến tranh bằng hình ảnh "cánh đồng quê chảy máu", với "dây thép gai đâm nát trời chiều". Tư duy đấy gắn liền với tư duy của thơ hiện đại trong khi mỗi quốc gia đều đang oằn mình dưới

    Chân quân thù, đang phải đấu tranh để giành lấy độc lập, tự do trong thế kỉ XX. Đồng thời những hình ảnh đấy cũng gợi lên sự đau thương tới vô tận, sự căm thù vô bờ dành cho quân thù. Quốc gia đã bị chúng dày xéo tới tan tành, không còn chút bình yên.

    Thế nhưng, từ trong nỗi đau thương đấy, tổ quốc ta, dân tộc ta đã đứng lên với ý thức quật cường:

    "Xiềng xích chúng bay không khóa được

    Trời đầy chim và đất đầy hoa

    Súng đạn chúng bay không bắn được

    Lòng dân ta yêu nước thương nhà"

    Nguyễn Đình Thi đã lấy cái hữu hạn để so sánh với cái vô hạn, cái cụ thể so sánh với cái trừu tượng: "Xiềng xích – trời đầy chim và đất đầy hoa", "súng đạn – lòng dân ta yêu nước thương nhà", cốt để nói lên sự bất lực của quân thù đối với sự bất tử, tình yêu nước của dân tộc ta.

    Đặc trưng, Nguyễn Đình Thi đã viết lên lời thơ trong niềm tin thắng lợi về tương lai chói lòa của

    Dân tộc:

    "Súng nổ rung trời tức giận

    Người lên như nước vỡ bờ

    Nước Việt Nam từ trong máu lửa

    Rũ bùn đứng dậy sáng lòa"

    Đó là lúc chủ nghĩa người hùng cách mệnh làm nên thắng lợi chói lòa, làm cho muôn vạn quân thù sợ hãi. Đây là đỉnh cao của xúc cảm, những suy tư, suy ngẫm về tổ quốc. Bức tranh tổ quốc hiện lên cụ thể, mạch lạc, từ quá khứ, tới ngày nay rồi tới tương lai, kết lại bằng thắng lợi vẻ vang với hình ảnh mang tính sử thi, hoành tráng, có sức nói chung. Khổ thơ cuối là hình tượng tổ quốc Việt Nam từ trong vũng "bùn" lầy u tối, đau thương của kiếp nô lệ, bứt đứt gông xích, đứng lên hiên ngang làm nên thắng lợi lịch sử "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu". Bức chân dung đấy của tổ quốc được vẽ lên vô cùng chân thực, bởi ngòi bút tài hoa gắn liền với tư duy thơ hiện đại, trên nền khói lửa, máu xương, một Việt Nam kiên cường, sừng sững tự hào trước năm châu bốn bể.

    Cùng chung cảm hứng về tổ quốc nhưng Nguyễn Khoa Điềm lại vẽ lên hình tượng một tổ quốc với đầy màu sắc văn hóa dân gian. Không như Nguyễn Đình Thi dùng mùa thu để nói về hình tượng tổ quốc, Nguyễn Khoa Điềm đã dùng chất liệu dân gian, của ca dao và thần thoại để tạo nên hình tượng tổ quốc, đồng thời trình bày tư tưởng "tổ quốc của nhân dân". Đây là một tư duy tư tưởng vừa mới mẻ lại vừa hết sức thân thuộc. Bởi dân gian cũng chính là nhân dân, nhân dân là phần cơ bản nhất, rõ ràng nhất để nhìn thấy tổ quốc. Nhưng nó cũng vô cùng mới mẻ bởi chất liệu dân gian dựng lên hình tượng tổ quốc gợi ra một tổ quốc bình dị, thân thiện, hiền hòa, đầy chất thơ, luôn sống mãi cùng con người và dân tộc.

    Lúc nói về sự tạo nên, cội nguồn của tổ quốc, Nguyễn Khoa Điềm đã trình bày tổ quốc từ chiều sâu của văn hóa, của những phong tục, tập tục được nối truyền, từ cha mẹ với "gừng cay muối mặn", từ "miếng trầu bà ăn".. Quốc gia là những gì thân thuộc nhất, thân thiện nhất với chúng ta:

    "Lúc ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

    Đất Nước có trong những cái" ngày xửa ngày xưa.. "mẹ hay kể

    Đất Nước mở đầu với miềng trầu hiện thời bà ăn

    Đất Nước lớn lên lúc dân mình biết trồng tre đánh giặc

    Tóc mẹ thì bới sau đầu

    Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

    Cái kèo, cái cột thành tên

    Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã, giần, sàng

    Đất Nước có từ ngày đó.."

    Tác giả đã lý giải cội nguồn của tổ quốc, khẳng định Đất Nước "có rồi" như một điều thế tất, đương nhiên, đó là một trong những động lực khiến chúng ta phải đi tìm lại cội nguồn của tổ quốc. Quốc gia bắt nguồn từ những điều giản dị, thật tình, thân thuộc nhất với mỗi con người chúng ta, từ tục ăn trầu, từ những câu chuyện cổ tích "ngày xửa ngày xưa.." mẹ hay kể, từ thói quen vấn tóc sau đầu của mẹ, từ truyền thống "trồng tre" lấy chông đánh giặc của ông cha.. Và tổ quốc cũng trưởng thành mỗi ngày như một

    Thực thể, trưởng thành trong quá trình lao động của con người:

    "Cái kèo, cái cột thành tên

    Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã, giần, sàng"

    Cái nhìn về cội nguồn của tổ quốc của tác giả thật mới mẻ. Nó chứa đựng trong đó cả chiều sâu về lịch sử, phong tục, văn hóa..

    Không chỉ làm rõ cội nguồn của tổ quốc, Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục làm rõ khái niệm tổ quốc trong cái thước đo "thời kì đằng đẵng, không gian mênh mông", của lịch sử, của địa lý.

    Khái niệm về tổ quốc được trình bày qua phương diện không gian, địa lý:

    "Đất là nơi anh tới trường

    Nước là nơi em tắm

    Quốc gia là nơi ta hò hứa

    Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm"

    Quốc gia là sự liên kết của hai yếu tố: Đất và Nước. Hai yếu tố đó được khái niệm là những gì thân thuộc, thân thuộc nhất của lứa đôi yêu nhau, gắn liền với đời sống sinh hoạt của con người "nơi anh tới trường", "nơi em tắm", gắn liền với kỉ niệm của lứa đôi yêu nhau "nơi ta hò hứa". Trong hình ảnh tổ quốc đấy có những lời ca dao, những truyền thuyết, thần thoại, không gian rộng lớn. Nó là không gian sống sót của các thế hệ con người Việt Nam:

    "Đất Nước là nơi dân mình đoàn viên"

    Không chỉ dựng lên hình ảnh tổ quốc qua không gian, chiều sâu địa lý, Nguyễn Khoa Điềm còn dựng lên hình tượng tổ quốc thông qua chiều sâu lịch sử, xuyên suốt bốn nghìn năm của tổ quốc ta. Đó là lúc ta biết tới những truyền thuyết về u Cơ – Lạc Long Quân, về Hùng Vương, về ngày giỗ Tổ:

    "Đất là nơi chim về

    Nước là nơi Rồng ở

    Lạc Long Quân và u Cơ

    Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng

    Những người nào đã khuất

    Những người nào hiện thời

    Yêu nhau và sinh con đẻ cái

    Gánh vác phần người đi trước để lại

    Dặn dò con cháu chuyện tương lai

    Hằng năm ăn đâu ở đâu

    Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ"

    Đây là tổ quốc trong quá khứ của dân tộc, trong ngày nay, tổ quốc nằm trong sâu thẳm mỗi con người, mỗi con người đều mang một phần trị giá của tổ quốc. Và lúc chúng ta kết đoàn lại với nhau, những trị giá đấy sẽ gắn kết lại, tổ quốc sẽ "hài hòa nồng thắm".

    "Trong anh và em hôm nay

    Đều có một phần Đất Nước

    Lúc hai đứa nắm tay

    Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm

    Khí chúng ta cầm tay mọi người

    Đất Nước vẹn tròn to lớn"

    Hình tượng tổ quốc trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự thống nhất, gắn kết giữa cái chung và cái riêng, giữa các tư nhân với cả tập thể lớn. Hình tượng đấy cũng được soi chiếu qua lăng kính văn hóa dân gian để tới thế hệ tương lai kế cận, chúng sẽ mang tổ quốc "đi xa" hơn nữa, tổ quốc của chúng ta sẽ trường tồn muôn thuở:

    "Tương lai con ta lớn lên

    Con sẽ mang tổ quốc đi xa

    Tới những tháng ngày mộng mơ"

    Tới đây, Nguyễn Khoa Điềm lại trở lên thật suy tư và trầm lắng, bởi ông nhìn thấy cái trách nhiệm của mỗi tư nhân cho tổ quốc. Mỗi người phải biết "gắn bó và san sẻ", đóng góp cho tổ quốc "hóa thân cho dáng hình xứ sở", không chỉ bởi tổ quốc là máu xương của mình nhưng mà còn bởi vì tương lai tổ quốc trường tồn:

    "Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình

    Phải biết gắn bó và san sẻ

    Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

    Để làm nên Đất Nước muôn thuở.."

    Hình tượng tổ quốc ở đây hiện lên thật thân thiện, thân thuộc biết bao, thế nhưng cũng chẳng kém phần thiêng liêng, hào hùng. Hòa trong đó là khát vọng về một tổ quốc thịnh vượng, trường tồn trong sự gắn kết của mỗi con người trong xã hội.

    Trong lúc xây dựng hình tượng tổ quốc, Nguyễn Khoa Điềm không quên cái tư tưởng mấu chốt làm nên tổ quốc đó là "Quốc gia của nhân dân". Tại khổ cuối này, ông đã bộc lộ những xúc cảm của mình về tư tưởng đó đồng thời trình bày những cảm nhận của riêng mình về tổ quốc.

    Nguyễn Khoa Điềm cho rằng tổ quốc được là nên từ những phẩm chất, số phận của con người, của mỗi người dân trong xã hội, nó được dựng lên bằng máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên lịch sử của tổ quốc bốn nghìn năm:

    "Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

    Cặp vợ chồng yêu nhau góp lên hòn trống mái

    Gót ngựa Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

    * * *

    Những cuộc đời đã hóa núi sông ta"

    Đó là một tổ quốc vừa thi vị lại vừa giàu tính trí tuệ. Những cái tên, cảnh trí tự nhiên đều là những con người những số phận tạo nên. Những gò đất, ruộng đồng, bờ bãi đều là những phẩm chất, "lối sống của ông cha". Chính những chất liệu đặc thù đấy đã khiến tổ quốc trở lên vừa thiêng liêng nhưng cũng thân thiết lên bội phần.

    Thế nhưng, tổ quốc không chỉ được tạo nên bởi những người được "nhớ mặt đặt tên", tổ quốc còn được làm nên từ vô số những con người vô danh:

    "Trong bốn nghìn lớp người giống chúng ta thế hệ

    Họ đã sống và chết

    Giản dị và bình tâm

    Không người nào nhớ mặt đặt tên

    Nhưng họ đã làm ra Đất Nước"

    Và cũng chính những con người đấy đã tạo nên những trị giá vật chất và ý thức cho tổ quốc chúng ta lưu truyền, làm nên bản sắc riêng của tổ quốc. Họ là người đặt nền tảng cho sự tăng trưởng lâu dài, thịnh vượng của non sông:

    "Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa giống

    * * *

    Họ đắp đập be bờ để người sau trồng cây hái trái"

    Như đã nói ở trên, đoạn thơ này, Nguyễn Khoa Điềm tập trung nói về tư tưởng "Quốc gia của nhân dân", vậy nên cảm hứng bao trùm toàn thể đoạn thơ là tư tưởng đó. Một tổ quốc biết mến thương, trân quý tình nghĩa, có ơn trả ơn, có thù báo thù, cùng nhau góp sức xây dựng tổ quốc, cùng đấu tranh bảo vệ non sông:

    "Để Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân

    Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao, thần thoại"

    Tương tự, tóm lại, hình tượng tổ quốc nhưng mà Nguyễn Khoa Điềm trình bày vừa có chiều sâu lịch sử, vừa có không gian của địa lý, bề rộng của phong tục, tập quán. Mọi khía cạnh đều được nhìn từ cái nhìn của phong tục tập quán. Trong đó có những phát hiện mới mẻ về cội nguồn tổ quốc, về sự tạo nên tổ quốc cũng như một tư tưởng mấu chốt "Quốc gia của nhân dân". Tác giả đã sử dụng chất liệu dân gian bằng giọng thơ của mình, bằng sự thông minh của mình để tạo nên một hình tượng tổ quốc thật thâm thúy trong bài thơ. Bài thơ của ông tạo nên sự mới mẻ trong thơ ca Việt, đồng thời tạo nên bức chân dung mới về hình tượng tổ quốc trong thời đại mới ngày nay.

    Cả hai bài thơ của hai tác giả đều cảm nhận về tổ quốc ở một khía cạnh riêng của mình, có mới lạ, hiện đại, có truyền thống, dân gian. Nhưng tựu chung lại, nó đều làm nổi trội lên tình yêu nước thâm thúy của hai thi sĩ, đồng thời làm hoàn thiện hơn hình tượng tổ quốc trong nền thơ ca Việt Nam, làm cho người đọc chúng ta càng có cái nhìn đầy đủ nhất, mới mẻ nhất về tổ quốc chúng ta.

    Mỗi người một phong cách, người dùng chất liệu hiện đại, người dùng chất liệu dân gian, nhưng dù là người nào cũng đều mang tới cho người đọc những xúc cảm tuyệt vời về hình ảnh tổ quốc. Qua đó, chúng ta cảm thu được tình yêu tổ quốc tới sâu nặng của cả hai người con đất Việt qua từng câu chữ, và họ cũng đã góp phần giúp mỗi người con Việt Nam càng thêm yêu quý và trân trọng Tổ quốc thiêng liêng của mình hơn nữa.
     
    LieuDuong thích bài này.
Trả lời qua Facebook
Đang tải...