Giá trị hiện thực trong Kinh Thi - Phân tích qua phần Phong trong Kinh Thi

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Ngân Ngân08, 24 Tháng tư 2023.

  1. Ngân Ngân08 Mỹ nữ sỉ lẻ phóng lợn :3

    Bài viết:
    160
    I. MỞ ĐẦU

    Từ đầu thời Tây Chu đến giữa thời Xuân Thu đã cho ra đời tập thơ đầu tiên của Trung QuốcKinh Thi. Sự ra đời chính thức của Kinh Thi đã đánh dấu bước khởi đầu lịch sử huy hoàng và huy hoàng của văn học và thơ ca Trung Quốc cổ đại. Nó là một biểu tượng quan trọng thể hiện thơ ca cổ đại của Trung Quốc từ truyền khẩu đến văn tự, từ giao tiếp dân gian cổ đại đến cung đình cổ đại. Kinh Thi là một loại lý, mang màu sắc hư ảo, mang đậm màu sắc chính trị và đạo đức, là sản phẩm của văn hóa sử học phương Bắc. Tập Kinh Thi đã xác lập truyền thống chủ nghĩa hiện thực trong thơ ca Trung Quốc, và những giá trị hiện thực trong thơ ca đã có ảnh hưởng lớn đến văn học sau này. Nội dung và nghệ thuật viết của các bài thơ phản ánh chân thực hiện thực lịch sử phát triển xã hội của xã hội nô lệ Trung Hoa từ cực thịnh đến suy tàn dần trong quá khứ.

    II. NỘI DUNG

    1. Khái quát về Kinh Thi

    Kể từ thời nhà Thương, văn hóa và nghệ thuật cổ đại của Trung Hoa bắt đầu xuất hiện, và thành phố nguyên thủy nhất nơi văn hóa Trung Quốc cổ đại bắt đầu hình thành có thể nói là Hà Nam Diêm Thành. Thời kỳ đầu của nhà Chu là thời kỳ hoàng kim đầu tiên của văn hóa nghệ thuật, ngoài việc hưởng lợi từ sự ổn định chính trị và thịnh vượng kinh tế của nhà Chu, nghệ thuật và văn hóa đều phát triển.. Kể từ thời nhà Chu, nền văn hóa của đất nước đã đi đúng hướng về quy mô và hình thức. Sau đó vào thời Xuân Thu, văn hóa và nghệ thuật cổ đại của Trung Quốc đạt đến đỉnh cao, và nhiều thành phố đi đầu về văn hóa và nghệ thuật. Kinh Thi là tập thơ đầu tiên của đất nước Trung Hoa và được hoàn thành trong giai đoạn này, nó phản ánh sâu sắc giá trị hiện thực từ đầu thời Tây Chu đến giữa thời Xuân Thu.

    Kinh Thi gồm 311 bài thơ và được chia thành ba phần: Phong, Nhã và Tụng. Các bài thơ trong Kinh Thi có nguồn gốc khác nhau và khá phức tạp như ca dao, dân ca và nhã nhạc triều đình. Tác giả của những bài thơ trong tập Kinh Thi đến từ mọi tầng lớp trong xã hội đương thời. Trải qua nhiều biến động, Kinh Thi đã trải qua sưu tầm, nhiều lần chỉnh lý và biên soạn kỹ lưỡng, tỉ mỉ. Từ thời điểm được hoàn thiện cho tới ngày nay, Kinh Thi luôn được coi trọng và mang tầm ảnh hưởng lớn không chỉ ở Trung Hoa mà còn đối với những nước trong khu vực.

    Phần Phong (Thập ngũ quốc phong) có tất cả 160 bài, là ca dao của 15 nước chư hầu hoặc trong khu vực, bao gồm: Chu Nam, Thiệu Nam, Bội phong, Dung phong, Vệ phong, Vương phong, Trịnh phong, Tề phong, Ngụy phong, Đường phong, Tần phong, Trần phong, Cối phong, Tào phong, Mân phong.

    2. Giá trị hiện thực trong phần Phong của Kinh Thi.

    Văn học cũng giống như những loại hình nghệ thuật khác như âm nhạc hay điện ảnh, nó phản ánh hiện thực cuộc sống, tái tạo hiện thực hoặc xây dựng một hiện thực viễn tưởng. Giá trị hiện thực trong tác phẩm văn học là toàn bộ hiện thực được nhà văn phản ánh, hiện thực đó có thể đồng nhất với thực tại cuộc sống hoặc có sự chênh lệch ở những mức độ khác nhau. Trong phần Phong của Kinh Thi, giá trị hiện thực được phản ánh một cách toàn diện, Kinh Thi được ví như một bức tranh lớn miêu tả toàn cảnh về xã hội đương thời từ lịch sử tới sinh hoạt xã hội, phong tục tập quán, giáo dục giống như Lê Huy Tiêu đã nhận xét trong Lịch sử văn học Trung Quốc [tr51 1997 NXB GD Hà Nội]: "Tác phẩm trong Kinh Thi đã từ nhiều mặt miêu tả đời sống hiện thực, thể hiện sự cảm nhận đối với đời sống hiện thực của những con người thuộc các giai cấp và tầng lớp khác nhau." Trong đó, nổi bật lên là sự phản ánh lịch sử nhà Chu, phản ánh tình yêu và hôn nhân, phản ánh đời sống của dân chúng.

    2.1 Phản ánh lịch sử nhà Chu

    Các tác phẩm văn học ra đời trong một giai đoạn lịch sử nào đó thì ít nhiều đều chịu sự ảnh hưởng và phản ánh lịch sử của giai đoạn đó. Kinh Thi ra đời trong giai đoạn lịch sử nhiều biến động, từ đầu thời Tây Chu đến cuối thời Xuân Thu, vì vậy Kinh Thi chịu không ít ảnh hưởng của lịch sử giai đoạn này. Trong phần Phong, hai thế hệ Tây Chu và Đông Chu đã bị thối nát về chính trị và bị ngoại xâm khiến nhân dân cảm thấy chán nản là vấn đề được phản ánh nhiều nhất. Họ nhớ đến

    Phỉ phong (Cối phong) :

    1. Phi phong phát hề

    2. Phỉ xa kiệt hề

    3. Cố Chiêm chu đạo

    4. Trung tâm đát hề

    Dịch nghĩa

    1. Chẳng phải gió thổi cất lên

    2. Chẳng phải xe chạy vút đi

    3. Mà riêng nhìn ngoài ngoái lại con đường đi về nhà Chu

    4. Trong lòng bi thương (khi nhớ đến nhà Chu suy đồi tàn tạ)

    Những bài thơ chiến tranh được gọi là những bài thơ mô tả cảnh chiến tranh hoặc xoay quanh chiến tranh với các sự kiện chiến tranh làm chủ đề. Chiến tranh là hình thức đấu tranh cao nhất để giải quyết mâu thuẫn giữa các giai cấp, tầng lớp, quốc gia, dân tộc, các nhóm chính trị và các nhóm chính trị ở một giai đoạn phát triển nhất định. Kinh Thi là bài thơ miêu tả chiến tranh sớm nhất trong lịch sử văn học Trung Quốc, trong lịch sử 800 năm triều đại, nhà Chu liên tục chống ngoại xâm và nội chiến. Đây là thời kỳ thường xuyên xảy ra chiến tranh.

    2.2 Phản ánh tình yêu và hôn nhân

    Tình yêu được coi là chủ đề muôn thuở của văn học, tình yêu và văn học có quan hệ mật thiết với nhau. Theo nghĩa hẹp, tình yêu là một bản năng sinh học của con người. Theo nghĩa rộng, tình yêu là một hiện tượng văn hóa đặc trưng của xã hội loài người. Tình yêu thương, sự chung sức, chung lòng, thủy chung giữa nam và nữ chứa đựng những nội dung xã hội phong phú, đa dạng. Chẳng hạn như biểu hiện của tình yêu, cách thức theo đuổi, quá trình kết hợp, tác động của sự phát triển xã hội đối với tình yêu.. đều là những biểu hiện của văn hóa nhân loại. Trong phần Phong của Kinh Thi thể hiện rõ muôn màu muôn vẻ của tình yêu thời xa xưa. Trong phần Phong có 160 bài thì có tới 63 bài nói về những mặt khác nhau của tình yêu, bao gồm: Tình yêu tuổi trẻ nồng nàn, nỗi thương nhớ trong tình yêu, sự bỏ rơi và dục vọng tầm thường.

    Tình yêu là thứ gia vị của tuổi trẻ, là một phần không thể thiếu trong một phần thanh xuân. Trong Kinh Thi nói chung và phần Phong nói riêng, những bài thơ nói về tình yêu nồng nàn, nồng cháy của những đôi nam nữ được thể hiện rất tự nhiên. Trong bài Tĩnh nữ nằm trong phần Bội phong, là một bài như vậy.

    1. Tĩnh nữ kỳ xu

    2. Sĩ ngã ư thành ngu

    3. Ái nhi bất kiến

    4. Tao thủ trì trù

    Dịch nghĩa

    1. Người con gái nhàn nhã đẹp đẽ

    2. Hẹn đợi ta ở chỗ góc thành (chỗ hẻo lánh tối tăm)

    3. Yêu nàng mà không thấy nàng.

    4. Ta gãi đầu và giặm chân 207

    Bài thơ thuộc thể phú, là một bài hẹn ước tình yêu. Cô gái xinh đẹp, yêu kiều hẹn chàng trai gặp mặt ở góc thành, một nơi tối tăm và vắng vẻ. Tình yêu mới chớm nở lúc nào cũng mang trong mình cảm giác bồi hổi khó tả. Tuy nhiên, khi chàng trai tới nơi hò hẹn thì lại không thấy người con gái hẹn mình. Chàng trai đã "gãi đầu" và "giặm chân" vì không biết do mình đến sớm hay cô gái đã trốn đi. Vẻ đáng yêu pha chút bối rối và ngại ngùng của chàng trai cho ta cảm nhận được tình yêu của tuổi trẻ, dù không miêu tả tâm lý của chàng trai nhưng người đọc vẫn thấy được một người con trai si tình. Đây là bài thơ tình vô song giữa cổ đại và hiện đại, miêu tả sự thoải mái và vui vẻ của tình yêu tự do giữa nam và nữ thời cổ đại, không lén lút, rụt rè, thể hiện mối quan hệ giữa hai bên rất tự nhiên và lành mạnh. Văn học diễn đạt đơn giản, và ngôn ngữ đơn giản. Kinh Thi được ra đời khi đã bước qua giai đoạn của nạn tảo hôn và vừa bước vào thời kỳ văn minh trong lịch sử. Nó vẫn chưa bước vào giai đoạn chín muồi của xã hội phong kiến, nơi mà đạo đức phong kiến và gia đình thị tộc rất khắt khe và đàn áp bản chất con người. Mạnh đạn, tự do, không gò bó, nam nữ cơ bản bình đẳng. Đàn ông theo đuổi phụ nữ là hợp lý, phụ nữ theo đuổi đàn ông cũng hợp lý.

    Nỗi thương nhớ cũng là một chủ đề lớn trong đề tài tình yêu.

    Quan thư (Chu nam)

    1. Quan quan thư cưu

    2. Tại hà chi châu

    3. Yểu điệu thục nữ

    4. Quân tử hảo cầu

    Dịch nghĩa

    1. Đôi chim thư cưu hót họa nghe quan quan

    2. Ở trên cồn bên sông

    3. Người thục nữ u nhàn

    4. Phải là lứa tốt của bậc quân tử

    Sự bỏ rơi: Bách chu (Bội phong)

    1. Phiếm bỉ bách chu.

    2. Diệc phiếm kì lưu.

    3. Cảnh cảnh bất mị,

    4. Như hữu ẩn ưu.

    5. Vi ngã vô tửu,

    6. Dĩ ngao dĩ ngu.

    Dịch nghĩa

    1. Chiếc thuyền bách gỗ trôi nổi kia.

    2. Cũng mặc cho nó trôi nổi phiêu bạc.

    3. Dáng buồn bã không ngủ được,

    4. Như có mối đau sầu.

    5. Chẳng phải em không có rượu, 128

    6. Để có thể ngao du hầu cối mở mối sầu đau ấy.

    Dục vọng tầm thường: Tệ cẩu (Tế phong)

    1. Tệ cẩu tại lương

    2. Kỳ ngư phòng quan

    3. Tề tử qui chỉ

    4. Kỳ tụng như vân

    Dịch nghĩa

    1. Cái đó rách đặt nơi đập bắt cá

    2. Thì cá to phòng quan không giữ lại được

    3. Người thiếu phụ nước Tề trở về nước Tề

    4. Kẻ đi theo đông như mây

    Qua những vần thơ này, chúng ta có thể thấy xã hội phong kiến thời bấy giờ không có quá nhiều ràng buộc giáo điều, có tình yêu và thân phận nhất định và hôn nhân là một phần không thể tách rời của cuộc sống hiện thực. Trong một xã hội mà năng suất lao động tương đối thấp, con người sẽ ghim một phần đáng kể tinh thần vào đời sống tình cảm của mình, và sau đó sử dụng thơ văn để bày tỏ tình cảm của mình, thể hiện sự theo đuổi hợp lý của con người về tình yêu và ước nguyện tốt đẹp

    2.3 Phản ánh đời sống dân chúng

    Trong thời kì phong kiến, mối quan hệ giữa giai cấp thống trị với quần chúng nhân dân là một mối quan hệ luôn có mâu thuẫn. Bên cạnh những sáng tác của giới quý tộc thì có rất nhiều bài thơ là sáng tác dân gian, truyền khẩu và được tập hợp lại, nó phản ánh đời sống nhân dân lúc bấy giờ. Nhân dân phản ánh những mâu thuẫn giai cấp gay gắt vào trong những bài thơ, vạch trần tội ác của giai cấp bóc lột, đồng cảm và xót thương cho những số phận cơ cực giống mình.

    Trong bài Thạc thử (Ngụy phong) có viết:

    1. Thạc thử! Thạc thử!

    2. Vô thực ngã thử

    3. Tam tuế quán nhữ

    4. Mạc ngã khẳng cố

    5. Tuệ tương khứ nhữ,

    6. Thích bỉ lạc thổ!

    7. Lạc thổ! Lạc thổ!

    8. Viên đắc ngã sở.

    Dịch nghĩa

    1. Con chuột to! Con chuột to!

    2. Chớ ăn nếp của ta

    3. Ba năm ta đã quen cái thói của mày rồi

    4. Mày chẳng chịu đoái tưởng đến ta

    5. Ta đi và sẽ bỏ mày,

    6. Để đến một đất yên vui kia, một đất có đạo đức kia

    7. Một đất yên vui! Một đất có đạo đức!

    8. Ở đấy ta được nơi thích hợp.

    Thơ

    1. Thất nguyệt lưu Hỏa.

    2. Cửu nguyệt thụ ý,

    3. Nhất tri nhật tất phát

    4. Nhị chi nhật lật liệt.

    5. Vô y vô hạt

    6. Hà dĩ tốt tuế?

    7. Tam tri nhật vu trĩ.

    8. Tứ tri nhật cử tri

    9. Đồng ngã phụ tử

    10. Diệp bỉ nam mẫu

    11. Điền tuấn chi hỉ

    Dịch nghĩa

    1. Tháng 7 thì sao Đại hỏa hạ thấp

    2. Tháng 9 thì trao áo ấm cho mặc

    3. Những ngày trong tháng riêng thì lạnh căm căm

    4. Những ngày trong tháng 12 thì thêm phấn buốt giá

    5. Nếu không có áo tốt áo thô

    6. Thì lấy gì để sống tốt đến cuối năm?

    7. Những ngày trong tháng riêng thì lo sửa soạn khí cụ làm ruộng

    8. Những ngày trong tháng 2 thì nhấc chân cất bước đi cày

    9. Đàn bà và con trẻ thì cùng với ta

    10. Đem cơm cho những người cày cấy ở riêng phía nam

    11. Quan khuyến nông đến, thấy thế vui mừng

    Trung Quốc là đất nước có có bề dày lịch sử 5000 năm, nông nghiệp là ngành xuất hiện sớm và là ngành quan trọng, không thể thiếu ở Trung Quốc. Đặc biệt là trong thời đại nền văn minh còn kém phát triển cách đây hàng nghìn năm thì nông nghiệp là một ngành then chốt. Nhân dân tất bật lo trông và cấy lúa và các loại cây trồng khác. Trong bài Thất nguyệt (Mân phong), tác giả đã

    III. KẾT LUẬN

    Tựu chung lại, điều kiện sống xã hội và kinh tế của Trung Quốc mà Kinh Thi cần phản ánh rất sâu rộng và có thực. Từ thời Tây Chu đến giữa thời Xuân Thu trong hơn 500 năm, điều kiện kinh tế xã hội của Trung Quốc, điều kiện chính trị và điều kiện sống của những kẻ thống trị và những người thuộc tầng lớp dưới đáy xã hội ở Trung Quốc, cũng như diện mạo cơ bản, nghi thức và phong tục tập quán của đời sống kinh tế xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ. Nó miêu tả cảm xúc, bao gồm nỗi buồn bị bỏ rơi của vợ chồng, niềm vui khi yêu và biết nhau giữa nam và nữ, và nỗi đau đớn và day dứt của hai người phụ nữ thất tình. Những cung bậc cảm xúc vui sướng mà chúng ta không thể có được trong cuộc sống đời thường trực diện trong bài thơ đã được thể hiện trọn vẹn trong những bài thơ trữ tình văn xuôi ngắn. Những bài thơ trữ tình này, với tư cách là thơ hiện thực đương đại với tinh thần kế thừa những văn hóa đặc sắc của dân tộc Trung Hoa, đã xác lập nền thơ trữ tình hiện đại của con người Trung Quốc như một sáng tạo thơ truyền thống nghệ thuật đối diện với thực tế xã hội. Đó sẽ là sức sống mãnh liệt nhất và là nghệ thuật thơ ca vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại Trung Quốc.

    Những lời hay ý đẹp nhất trong Kinh Thi đã được hun đúc nên bởi bề dày văn hiến của dân tộc Trung Hoa, đã hun đúc nên hồn cốt của thể thơ lưu truyền ở Trung Quốc từ ngàn xưa đến nay, là xương sống, xương sống của dân tộc. Kinh Thi tạo điều kiện cho dân tộc tiến về phía trước một cách dũng cảm và tham gia vào việc tạo nên sức sống bất khuất của nền văn minh Trung Quốc.
     
    LieuDuong thích bài này.
  2. Đăng ký Binance
Trả lời qua Facebook
Đang tải...