- Xu
- 13,795,226
Bài viết: 2022 



Đề kiểm tra đọc hiểu truyện ngắn Đòn chồng - Nam Cao bao gồm hệ thống các câu hỏi phân bố theo 4 cấp độ nhận biết, thông hiểu, vận dụng, vận dụng cao giúp các bạn học sinh củng cố lại phần kiến thức đã học và kỹ năng làm bài đọc hiểu. Các kĩ năng cơ bản đó là: Nhận diện đề tài, chủ đề chính, chủ đề phụ, tư tưởng, giá trị văn hóa, triết lí nhân sinh, sự kiện, nhân vật, chi tiết quan trọng, không gian, thời gian, người kể chuyện toàn tri, hạn tri, sự thay đổi điểm nhìn.. của các văn bản truyện; so sánh được hai văn bản văn học viết cùng đề tài.
Đọc văn bản sau:
Trả lời câu hỏi:
Câu 1. Xác định thể loại của văn bản. Truyện được kể theo ngôi thứ mấy?
Câu 2. Truyện viết về đề tài gì? Hãy kể tên 2 tác phẩm cùng viết về đề tài đó.
Câu 3. Truyện có sự chuyển dịch điểm nhìn như thế nào?
Câu 4. Những sự việc chính được kể trong truyện là những sự việc gì?
Câu 5. Theo em, vì sao chị vợ Lùng lại phải "ăn gian" bánh ngoài chợ? Chị vợ ấy đáng thương hay đáng trách?
Câu 6. Em có suy nghĩ như thế nào về nhân vật người chồng?
Câu 7. Thông điệp mà em tâm đắc nhất từ câu chuyện trên là gì?
Câu 8. Qua truyện trên, em hiểu điều gì về số phận người phụ nữ nông dân trong xã hội cũ?
Câu 9. Sơ lược cốt truyện của văn bản trên.
Câu 10. Nêu những nét đặc sắc trong nghệ thuật kể chuyện của Nam Cao thể hiện trong văn bản trên.
Gợi ý trả lời câu hỏi:
Câu 1.
- Thể loại của văn bản: Truyện ngắn;
- Truyện được kể theo ngôi thứ ba (người kể chuyện giấu mình)
Câu 2.
- Truyện viết về đề tài người phụ nữ nông dân trong xã hội cũ;
- Hai tác phẩm cùng viết về đề tài đó: "Dì Hảo" - Nam Cao; "Nhà mẹ Lê" - Thạch Lam
Câu 3. Truyện có sự chuyển dịch điểm nhìn đa dạng, linh hoạt: Điểm nhìn của người kể chuyện chuyển dịch sang điểm nhìn của nhân vật Lúng, nhân vật vợ Lúng, có khi lại chuyển dịch sang nhân vật dân làng.
Câu 4. Những sự việc chính được kể trong truyện:
- Vợ Lúng ăn gian bánh ngoài chợ, bị chị bán bánh bóc mẽ;
- Lúng giận vợ, trói vợ vào cột nhà, đánh đòn đau.
Câu 5. Vợ Lúng phải "ăn gian" bánh ngoài chợ vì chị quá đói. Tiền làm thuê phải nộp hết cho chồng. Tiền chồng kiếm được hắn chỉ lo uống rượu. Túng quá làm liều, chị "ăn gian" để được ăn nhiều hơn. Chị vợ ấy vừa đáng thương vừa đáng trách. Đáng thương vị hoàn cảnh túng quẫn, khổ sở, người chồng tán ác; đáng trách vì đánh mất cả nhân phẩm chỉ vì miếng ăn.
Câu 6. Về nhân vật người chồng:
- Hắn là kẻ ích kỉ, chỉ biết đến bản thân mình: Nhà nghèo nhưng phần lớn tiền kiếm được hắn chỉ lo uống rượu.
- Hắn là người chồng vô tâm, sĩ diện, vũ phu, tàn độc: Chưa từng thấu hiểu cho cảnh ngộ đói khổ của vợ, vợ "ăn gian" bánh hắn chỉ nghĩ đến sĩ diện của hắn, hắn đánh vợ tàn độc là để thỏa cái sĩ diện ấy.
Câu 7. Thông điệp mà em tâm đắc nhất từ câu chuyện trên là sự tàn bạo và vô cảm trong cách hành xử của con người, khi mà bạo lực và sự tủi nhục dường như trở thành phần tất yếu của cuộc sống nghèo khổ và thiếu thốn.
Câu 8. Thân phận người phụ nữ nông dân trong xã hội cũ: Bất hạnh, đau khổ, tủi nhục. Họ vừa phải chịu nỗi khổ về vật chất: Không đủ ăn, đủ mặc; vừa phải chịu nỗi đau tinh thần: Bị sỉ nhục, bị hành hạ, bị chính người chồng mình trao thân gửi phận đối xử phũ phàng; họ không có quyền được sống một cuộc sống chính đáng. Tất cả đều do hủ tục lạc hậu, do bất công xã hội.
Câu 9. Sơ lược cốt truyện của văn bản trên:
Truyện xoay quanh những tình huống liên quan đến hai vợ chồng Lúng. Một hôm vợ anh Lúng ra chợ ăn bánh dày, cô vợ đã nhanh tay kẹp thêm một tấm bánh nữa thành hai tấm để ăn gian người bán. Dù vậy nhưng bà bán bánh vẫn thấy hành động gian dối đó, bà đè chị ra bóp cổ để miếng bánh trong miệng rơi ra ngoài và gọi làng xóm đến để làm bẽ mặt chị. Giận vợ làm mình bẽ mặt, Lúng xuống tay đánh vợ. Vừa đánh anh vừa uống rượu ăn đùi vịt cho đến khi say khướt nằm lăn ra thì thôi.
Câu 10. Những nét đặc sắc trong nghệ thuật kể chuyện của Nam Cao thể hiện trong văn bản trên:
- Nghệ thuật kể chuyện lôi cuốn, hấp dẫn: Dựng tình huống có vấn đề, buộc nhân vật phải bộc lộ tính cách;
- Xây dựng nhân vật sắc nét qua những suy nghĩ nội tâm, đặc biệt là qua ngôn ngữ, hành động.
- Sự chuyển dịch điểm nhìn từ người kể chuyện sang nhân vật khiến suy nghĩ, nội tâm nhân vật được miêu tả sâu sắc, trọn vẹn hơn.
- Thời gian sự kiện lịnh hoạt, không theo trình tự trước sau: Bắt đầu bằng việc tả thái độ của dân làng trước sự việc vợ Lúng ăn gian nhằm tạo sự tò mò, sau đó quay ngược thời gian, kể lại sự việc ở chợ để làm rõ hơn chuyện ăn gian của vợ Lúng, rồi lại trở về hiện tại miêu tả sự việc Lúng xuống đòn.
- Ngôn ngữ kể chuyện tự nhiên, hài hước.
Đọc hiểu: Đòn chồng - Nam Cao
Đọc văn bản sau:
[..]
Thoạt tiên là các bà vợ về kể lại với chồng. Rồi các ông chồng đem kể lại với nhau. Bây giờ thì cả làng ai cũng biết. Ai cũng biết: Con vợ thằng Lùng, mặt mũi như thế ấy, mà gian vô cùng. Chẳng gian mà lại làm cái trò nhập nhòa như thế này.. Chẳng biết y xin ai hay là nhặt ở đâu được có mỗi một đồng xu. Nếu không xin, không nhặt được thì hẳn là ăn cắp. Bởi y làm gì mà có xu! Vườn có ba sào, chồng thua bạc cố rồi. Đồ bòn, thức bán không. Đi dệt cửi thuê cho người ta ngày được một hào thì chồng lấy cả một hào, thiếu một đồng xèng nó đánh cho gãy gối. Vả nó chẳng đánh thì cũng không dám thiếu: Thiếu lấy gì mà đổ vào mồm? Gạo nước năm nay.. Có một hào mà những hai cái miệng ăn, mà lại còn chực thiếu nữa thì có lẽ đến phải đếm mà chia nhau từng hạt. Bởi vì hai vợ chồng chỉ trông vào tiền của vợ để mà ăn gạo. Chồng chẳng chịu bỏ ra một đồng trinh. Hắn dận trai mỗi ngày cũng được vài hào. Có ngày bốn năm hào. Nhưng bốn năm hào thì cũng hết. Tiền hắn làm, uống rượu chưa chắc đủ. Huống chi lại còn đánh bạc.
Vậy đồng xu của vợ Lúng, không nhặt được hay ăn cắp, thì chắc là y xin. Y buộc vào dải yếm, trông chặt lắm. Lại hàng bánh dày, y hí hoáy cởi một lúc lâu mới được. Hay là y giả đận làm như thế thì chẳng biết. Làm thế, để đợi lúc có thật nhiều người ăn. Bởi vì lúc y ngồi xuống thì đã có bốn năm bà đang ăn rồi. Chị hàng bánh tới ta tới tấp. Vợ Lúng mân mê một lát, rồi nhặt lấy một tấm bánh dầy đậu, đưa lên ngoạm một miếng hết già nửa tấm. Còn non nửa tấm. Còn non nửa tấm nữa, y ném tọt vào miệng nốt. Y đưa đồng xu ra, chị hàng bánh dầy trợn mắt:
- Sao lại có một xu?
- Tôi ăn một tấm.
Thế là chẳng nói thêm một tiếng, chị hàng bánh nhảy ra bóp cổ y. Y giãy giụa, nhưng cái cổ y ngẳng quá, chỉ vừa một chét. Y lại mếu. Mà con mẹ hàng bánh sao mà khỏe thế. Nó dúi đầu y xuống, mắt y trợn ngược. Y kêu ằng ặc. Miệng y há hốc. Miếng bánh dầy nhả ra. Bây giờ chị hàng bánh mới chịu buông cổ y, và reo lên:
– Xem nào!
Một tay chị vẫn xoắn lấy áo y, một tay chị cúi xuống nhặt miếng bánh đầm đìa dãi nhớt. Chị tách miếng bánh làm hai và đưa cho những bà đứng đấy xem và phân bua.
Các ông, các bà trông giùm tôi xem chị ấy ăn một tấm hay là hai tấm, này! Một tấm mà lại tách ra được thế này! Tôi có mù đâu? Mắt tôi vẫn phải trông đấy chứ!.. Bán hàng mà không mắt năm mắt mười thì mấy chốc cởi váy mà bán đi? Tôi biết chị ta chập hai tấm vào làm một, nhưng tôi lờ đi, để rồi xem chị ta làm ăn thế nào. Ấy thế mà chị ấy nhất định cãi là một tấm. Các ông các bà thử trông giúp tôi xem một tấm hay hai tấm mà nó lại như thế này?
Bao nhiêu người xúm lại, đứng vây thành cái cũi. Chị hàng bánh biết y không còn chạy được, mới chịu buông áo y ra; chị chỉ vào mặt y the thé:
– Cái mặt nhà chị! Chị thử mở mắt ra trông một tấm hay là hai tấm, nào!
Cái mặt bủng beo của y xám như chàm. Nó không còn đỏ được, bởi y làm gì có máu. Cái miệng y há ra như chực nói, nhưng nói thế nào? Chứng cớ trờ trờ ra đấy. Y cứng hàm. Những tiếng ấp úng trong cổ họng, một lúc lâu mới bật ra thành lời được:
– Thì tôi giả, tôi giả hai xu..
Nhưng y làm gì còn xu! Y cúi mặt, nước mắt ra ròng ròng. Chị hàng bánh lộn tiết lên. Chị xỉa tay vào tận mặt y:
- Thôi! Tôi cũng thí cho nhà chị. Tôi chỉ lu loa lên thế để cho cả chợ người ta biết; rồi giờ người ta vạch vôi lấy mặt chị, để thấy cái mặt nhà chị ở đâu thì người ta kiềng nó ra.
Câu chuyện đến tai Lúng. Lúng thâm tím mặt. Giá lúc ấy vợ hắn có nhà thì có lẽ hắn đã đâm chết vợ. Nhưng vợ hắn còn đi dệt cửi.
[..]
Đây! Y đã về. Nhẹ và mạnh như con báo, hắn nhảy vọt từ trên giường xuống đất, chưa kịp trông rõ hắn, y đã bị tay hắn chộp. Y kinh ngạc:
- Ô hay!
- Mày lại đây!
Hắn nắm cổ y, đẩy vào chỗ cột nhà. Y không kháng cự. Bởi kháng cự thật là vô ích. Hắn cởi cái thắt lưng của y: Trói ngang lưng vào cái cột. Như thế đã tha hồ vững chãi. Nhưng hắn còn muốn vững chãi thêm nhiều nữa. Hắn đặt ngay cái đòn gánh ở bên ngoài cột, dang hai tay vợ dang ra, lấy sợi dây thừng quấn. Hắn quấn cánh tay vợ vào đòn gánh. Được rồi. Hắn trở lại giường, rót rượu ra chén, uống. Vợ hắn hu hu khóc. Còn khóc nữa! Oan lắm đấy! Hắn khà một cái, cầm cái đùi vịt, chấm một tí muối, cắn, nhai nhồm nhoàm. Hắn vừa nhai vừa kể lại tội y cho y biết. Bao nhiêu là tội! Hắn cứ uống một ngụm rượu thì một tội lại bật ra. Toàn những tội ăn vụng, ăn trộm, ăn cắp, ăn mày, ănh nhặt! Chao ôi! Vợ hắn bêu hắn quá! Vợ hắn làm hắn nhuốc nhơ với làng với xóm. Sao vợ hắn lại vẫn cứ sống mà làm tội hắn? Sao vợ hắn chẳng chết đi cho rồi? Không chết hắn sẽ đánh cho mà chết. Trăm nết mất cả trăm, còn sống làm gì nữa? Sống làm gì cho nhục nhã? Hắn bỗng nhiên vùng dậy, cầm cái roi mây chạy lại, nghiến răng vụt đen đét vào mông y. Y đau quắn đít. Y nhăn mặt lại. Y van lạy. Y gào. Trời ơi! Y gào!..
Hắn vụt xong một chập rồi, nghỉ tay. Lại uống, lại nhồm nhoàm vừa nhai vừa kể tội. Kể tội xong lại đánh. Đánh một chập rồi lại uống. Uống rồi lại đánh, cứ như thế mãi. Đến nỗi vợ hắn tê mông, không còn thấy đau. [..]

Trả lời câu hỏi:
Câu 1. Xác định thể loại của văn bản. Truyện được kể theo ngôi thứ mấy?
Câu 2. Truyện viết về đề tài gì? Hãy kể tên 2 tác phẩm cùng viết về đề tài đó.
Câu 3. Truyện có sự chuyển dịch điểm nhìn như thế nào?
Câu 4. Những sự việc chính được kể trong truyện là những sự việc gì?
Câu 5. Theo em, vì sao chị vợ Lùng lại phải "ăn gian" bánh ngoài chợ? Chị vợ ấy đáng thương hay đáng trách?
Câu 6. Em có suy nghĩ như thế nào về nhân vật người chồng?
Câu 7. Thông điệp mà em tâm đắc nhất từ câu chuyện trên là gì?
Câu 8. Qua truyện trên, em hiểu điều gì về số phận người phụ nữ nông dân trong xã hội cũ?
Câu 9. Sơ lược cốt truyện của văn bản trên.
Câu 10. Nêu những nét đặc sắc trong nghệ thuật kể chuyện của Nam Cao thể hiện trong văn bản trên.
Gợi ý trả lời câu hỏi:
Câu 1.
- Thể loại của văn bản: Truyện ngắn;
- Truyện được kể theo ngôi thứ ba (người kể chuyện giấu mình)
Câu 2.
- Truyện viết về đề tài người phụ nữ nông dân trong xã hội cũ;
- Hai tác phẩm cùng viết về đề tài đó: "Dì Hảo" - Nam Cao; "Nhà mẹ Lê" - Thạch Lam
Câu 3. Truyện có sự chuyển dịch điểm nhìn đa dạng, linh hoạt: Điểm nhìn của người kể chuyện chuyển dịch sang điểm nhìn của nhân vật Lúng, nhân vật vợ Lúng, có khi lại chuyển dịch sang nhân vật dân làng.
Câu 4. Những sự việc chính được kể trong truyện:
- Vợ Lúng ăn gian bánh ngoài chợ, bị chị bán bánh bóc mẽ;
- Lúng giận vợ, trói vợ vào cột nhà, đánh đòn đau.
Câu 5. Vợ Lúng phải "ăn gian" bánh ngoài chợ vì chị quá đói. Tiền làm thuê phải nộp hết cho chồng. Tiền chồng kiếm được hắn chỉ lo uống rượu. Túng quá làm liều, chị "ăn gian" để được ăn nhiều hơn. Chị vợ ấy vừa đáng thương vừa đáng trách. Đáng thương vị hoàn cảnh túng quẫn, khổ sở, người chồng tán ác; đáng trách vì đánh mất cả nhân phẩm chỉ vì miếng ăn.
Câu 6. Về nhân vật người chồng:
- Hắn là kẻ ích kỉ, chỉ biết đến bản thân mình: Nhà nghèo nhưng phần lớn tiền kiếm được hắn chỉ lo uống rượu.
- Hắn là người chồng vô tâm, sĩ diện, vũ phu, tàn độc: Chưa từng thấu hiểu cho cảnh ngộ đói khổ của vợ, vợ "ăn gian" bánh hắn chỉ nghĩ đến sĩ diện của hắn, hắn đánh vợ tàn độc là để thỏa cái sĩ diện ấy.
Câu 7. Thông điệp mà em tâm đắc nhất từ câu chuyện trên là sự tàn bạo và vô cảm trong cách hành xử của con người, khi mà bạo lực và sự tủi nhục dường như trở thành phần tất yếu của cuộc sống nghèo khổ và thiếu thốn.
Câu 8. Thân phận người phụ nữ nông dân trong xã hội cũ: Bất hạnh, đau khổ, tủi nhục. Họ vừa phải chịu nỗi khổ về vật chất: Không đủ ăn, đủ mặc; vừa phải chịu nỗi đau tinh thần: Bị sỉ nhục, bị hành hạ, bị chính người chồng mình trao thân gửi phận đối xử phũ phàng; họ không có quyền được sống một cuộc sống chính đáng. Tất cả đều do hủ tục lạc hậu, do bất công xã hội.
Câu 9. Sơ lược cốt truyện của văn bản trên:
Truyện xoay quanh những tình huống liên quan đến hai vợ chồng Lúng. Một hôm vợ anh Lúng ra chợ ăn bánh dày, cô vợ đã nhanh tay kẹp thêm một tấm bánh nữa thành hai tấm để ăn gian người bán. Dù vậy nhưng bà bán bánh vẫn thấy hành động gian dối đó, bà đè chị ra bóp cổ để miếng bánh trong miệng rơi ra ngoài và gọi làng xóm đến để làm bẽ mặt chị. Giận vợ làm mình bẽ mặt, Lúng xuống tay đánh vợ. Vừa đánh anh vừa uống rượu ăn đùi vịt cho đến khi say khướt nằm lăn ra thì thôi.
Câu 10. Những nét đặc sắc trong nghệ thuật kể chuyện của Nam Cao thể hiện trong văn bản trên:
- Nghệ thuật kể chuyện lôi cuốn, hấp dẫn: Dựng tình huống có vấn đề, buộc nhân vật phải bộc lộ tính cách;
- Xây dựng nhân vật sắc nét qua những suy nghĩ nội tâm, đặc biệt là qua ngôn ngữ, hành động.
- Sự chuyển dịch điểm nhìn từ người kể chuyện sang nhân vật khiến suy nghĩ, nội tâm nhân vật được miêu tả sâu sắc, trọn vẹn hơn.
- Thời gian sự kiện lịnh hoạt, không theo trình tự trước sau: Bắt đầu bằng việc tả thái độ của dân làng trước sự việc vợ Lúng ăn gian nhằm tạo sự tò mò, sau đó quay ngược thời gian, kể lại sự việc ở chợ để làm rõ hơn chuyện ăn gian của vợ Lúng, rồi lại trở về hiện tại miêu tả sự việc Lúng xuống đòn.
- Ngôn ngữ kể chuyện tự nhiên, hài hước.
Chỉnh sửa cuối: