[Dịch] The Sea Wolf (Sói Biển) - Jack London

Thảo luận trong 'Truyện Hay' bắt đầu bởi Chanh97hh, 15 Tháng mười 2018.

  1. Chanh97hh

    Bài viết:
    73
    Chương 20

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Thời giờ còn lại trong ngày trôi qua thật yên ả. Cơn bão làm chúng tôi ướt sũng đã bắt đầu dịu lại.

    Sau buổi phỏng vấn ấm áp với Larsen Sói, người kỹ sư thứ tư và ba thợ tra dầu được trang bị các loại trang phục từ tủ lương hiện vật dành cho thủy thủ, sau đó họ được phân công nghe lệnh các tổ thuyền của thợ săn và đội gác ở trên tàu, cuối cùng họ phải vào ở trong khoang mũi. Họ đều có ý muốn phản kháng nhưng chẳng được tích sự gì. Họ vẫn luôn giữ thái độ kính sợ sau khi chứng kiến bản chất con người Larsen Sói, nên dù cảm thấy khó chịu nhưng họ vẫn nhanh chóng tiến vào khoang mũi, và rồi chẳng chút tư tưởng chống đối nào nữa cả.

    Cô Brewster – người mà chúng tôi được biết tên nhờ một vị kỹ sư – cứ ngủ li bì.

    Trong giờ ăn tối, tôi yêu cầu đám thợ săn nói nhỏ tiếng để không làm phiền cô; mãi đến sáng hôm sau cô mới chịu xuất hiện. Tôi cố tình dọn riêng phần ăn cho cô, nhưng Larsen Sói đã can thiệp. "Cô ta quá cao quý nên không chịu ngồi vào bàn cabin và gia nhập hội cabin hả?" là nguyên văn mệnh lệnh ông ta.

    Việc cô ngồi vào bàn cũng có cái thú vị riêng. Các thợ săn im thin thít. Chỉ có Jock Horner và Smoke là không biết xấu hổ, hai người này cứ lén liếc nhìn cô, họ thậm chí còn tham gia trò chuyện. Bốn người đàn ông còn lại lúc nào cũng dán mắt vào đĩa rồi nhai đều đều, đôi tai họ nhúc nhích cùng nhịp với cổ họng, chẳng khác nào đôi tai của những con thú.

    Lúc đầu Larsen Sói rất ít nói, hầu như chỉ khi được hỏi đến thì ông ta mới trả lời. Nguyên nhân không phải vì ông ta xấu hổ. Hoàn toàn ngược lại. Người phụ nữ này là một kiểu người mới mẻ đối với ông, một giống loài hoàn toàn khác với những gì ông ta từng biết đến, vì thế ông thấy tò mò. Ông quan sát cô, đôi mắt hiếm khi rời khỏi khuôn mặt nữ tính ấy trừ khi ông cần dõi theo chuyển động của tay và vai cô. Tôi cũng quan sát cô, dù thực ra tôi là người duy trì cuộc đối thoại thì tôi vẫn tự biết mình vốn hơi nhút nhát và thiếu bình tĩnh. Phong thái của ông ta thì hoàn hảo, sự tự tin không gì có thể lay chuyển được toát ra từ tận bên trong; ông không sợ phụ nữ cũng như không sợ bão tố và chiến đấu.

    "Khi nào chúng ta cập bến Yokohama?" Cô ấy quay sang nhìn thẳng vào mắt ông ta và hỏi.

    Một câu hỏi thật thẳng thắn. Dù mắt vẫn dán vào đĩa, cổ họng của mọi người đều ngưng hoạt động, đôi tai ngừng lắc lư, ai cũng đều chăm chú lắng nghe câu trả lời.

    "Bốn tháng, cũng có thể là ba tháng nữa nếu mùa săn kết thúc sớm," Larsen Sói đáp.

    Cô hít thở sâu rồi lắp bắp nói:

    "Tôi.. tôi nghĩ.. tôi tưởng rằng rằng Yokohama chỉ còn cách một ngày thuyền. Nơi đó.." Nói đến đây thì cô ngừng lại, liếc nhìn quanh chiếc bàn nơi những khuôn mặt không biểu cảm vẫn đang nhìn chằm chằm vào đĩa.

    "Thật vô lí," cô kết luận.

    "Câu hỏi đó cô nên nói với anh Van Weyden đây," ông đáp, cúi đầu về phía tôi, mắt hấp háy tinh nghịch. "Cô có thể coi anh Van Weyden là người có uy quyền trong những lĩnh vực kiểu đó. Tôi chỉ là một thủy thủ, nên cách tôi nhìn nhận sự việc có chút khác biệt. Cô có lẽ đã không may khi phải ở chung với chúng tôi, nhưng đó lại là điều may mắn của chúng tôi." Ông nhìn cô mỉm cười. Cô cụp mắt trước ánh nhìn của ông ta, nhưng sau đó lại ngẩng lên bướng bỉnh nhìn tôi. Tôi đọc được câu hỏi không thành lời trong ánh mắt đó: Có đúng không? Nhưng tôi đã quyết đóng vai trung lập nên không trả lời.

    "Anh nghĩ sao?" cô gặng hỏi.

    "Thật không may," tôi nói, "đặc biệt là nếu cô đã kế hoạch về vài tháng tới. Nhưng cô nói cô đến Nhật vì lí do sức khỏe, nên tôi có thể đảm bảo với rằng không có nơi nào giúp cho cải thiện sức khỏe của cô nhiều hơn trên tàu Bóng Ma đâu."

    Mắt cô lóe lên vẻ phẫn nộ, lần này đến lượt tôi cụp mắt, tôi cảm thấy mặt mình ửng đỏ dưới ánh nhìn của cô ấy. Thật hèn nhát, nhưng tôi còn biết làm gì đây?

    "Đây là lời của kẻ có quyền, anh Van Weyden nhỉ." Larsen Sói cười.

    Tôi gật đầu, và sau khi bình tĩnh lại, cô háo hức chờ đợi.

    "Hiện giờ khó mà nói gì được," Larsen Sói tiếp lời: "Nhưng anh ta đã cải thiện nhiều lắm đấy. Cô nên gặp anh ta lúc mới lên tàu. Trông đến là khẳng khiu, tội nghiệp đến khó mà mường tượng được. Đúng không Kerfoot?"

    Vì bị gọi đích danh nên Kerfoot sợ đến mức đánh rơi dao xuống sàn, tuy nhiên anh ta vẫn ậm ừ tỏ vẻ đồng ý.

    "Đã cải thiện bản thân nhờ gọt vỏ khoai tây và rửa bát đĩa. Phải không Kerfoot?" Tiếng ậm ừ đó lại vang lên.

    "Giờ hãy nhìn anh ta đi. Không lực lưỡng nhưng vẫn cơ bắp hơn thời mới đặt chân lên tàu. Hơn nữa, giờ anh ta đã có thể đứng vững. Nhìn anh ta bây giờ cô sẽ không nghĩ vậy, nhưng hồi đầu anh ta không thể đứng vững một mình được." Đám thợ săn cười khúc khích, riêng cô lại nhìn tôi đầy thông cảm, và chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ bù đắp những lời mỉa mai của Larsen Sói. Thật ra, đã lâu rồi tôi mới cảm thấy dịu lòng khi được đồng cảm, tới nỗi tôi nguyện ý làm nô lệ cho cô. Nhưng tôi rất bực tức với Larsen Sói. Ông đang thách thức dũng khí của tôi bằng những lời gièm pha, thách thức đôi chân mà ông ta tự cho là đã mang lại cho tôi.

    "Có lẽ tôi vừa mới học được cách đứng trên đôi chân của mình," tôi vặn lại. "Nhưng tôi chưa từng dùng chân giẫm lên người khác."

    Ông ta khinh bỉ nhìn tôi. "Anh chỉ mới hoàn thành phân nửa chương trình giáo dục thôi," ông cộc lốc đáp lời rồi quay sang cô. "Tàu Bóng Ma của chúng tôi rất hiếu khách. Anh Van Weyden đây cũng cảm thấy điều đó. Chúng tôi làm mọi thứ để giúp khách cảm thấy như ở nhà, đúng không anh Van Weyden?"

    "Ngay cả khi phải lột vỏ khoai tây và rửa bát đĩa," tôi trả lời, "đó là còn chưa nói đến việc vặn cổ người khác một cách thân thiện."

    "Tôi hi vọng cô đừng chỉ vì anh Van Weyden mà có ấn tượng sai lầm về chúng tôi," ông ta ngắt lời bằng cách giả vờ lo lắng. "Cô sẽ tự khám phá ra thôi cô Brewster, ông ta lúc nào cũng buộc dao găm trên dây nịt, một điều – e hèm –bất thường nhất mà chỉ huy tàu có thể làm. Dù rất đáng kính, nhưng đôi lúc anh Van Weyden có hơi.. tôi nên nói thế nào nhỉ? Ờm, hung hăng, nên cẩn trọng là tốt hơn. Lúc bình tĩnh anh ta khá lí trí và tử tế, như bây giờ ấy, có điều anh ta sẽ không phủ nhận mới hôm qua anh ta còn đe dọa mạng sống của tôi đâu."

    Tôi suýt bị nghẹn, mắt trừng tóe lửa. Ông ta chuyển sự chú ý đến tôi.

    "Nhìn anh ta đi. Anh ta còn không thể khống chế mình khi đang có mặt cô. Dù sao anh ta cũng không quen với sự hiện diện của phụ nữ. Tôi sẽ phải tự trang bị vài thứ vũ khí trước khi bước lên boong tàu cùng anh ta thôi." Ông lắc đầu buồn bã, lẩm bẩm, "Tệ quá, quá tệ," còn những tên thợ săn thì cười ha hả.

    Chất giọng trầm từ biển cả của những người đàn ông này ầm ầm vang rung trong không gian chật hẹp tạo ra một hiệu ứng hoang dại. Khung cảnh đó thật dữ dội, và đó là lần đầu tiên tôi nhận thức được vai trò của mình trước người phụ nữ kì lạ trong môi trường xa lạ này. Tôi biết những người đàn ông này, biết được lối tư duy của họ, tôi cũng là một trong số họ, sống cuộc đời săn bắt hải cẩu, sử dụng những đồng tiền nhờ săn bắt hải cẩu, dồn suy nghĩ nhiều vào việc săn bắt hải cẩu. Tôi chẳng cảm thấy những bộ quần áo thô ráp, những khuôn mặt thô lỗ, tiếng cười ồn ào, những bức tường cabin lắc lư và những chiếc đèn biển đung đưa có gì kì lạ.

    Tôi phết bơ lên một lát bánh mì và vô tình nhìn bàn tay mình. Các khớp ngón tay bị lột da và phồng lên thấy rõ, ngón tay sưng vù, viền móng tay sạm đen. Tôi cảm nhận được râu mọc trên cổ dày như lớp khăn quàng, tôi biết cánh tay áo khoác của tôi đã rách toạc và một chiếc nút trên cổ áo màu xanh dương mà tôi đang mặc đã biến mất. Chiếc dao găm Larsen Sói nhắc đến đang nằm trong vỏ dao trên hông tôi. Nó nằm ở đó rất tự nhiên – tự nhiên đến mức trước đó tôi chưa từng tưởng tượng mình thiếu nó được, nhưng khi tôi nhìn vào nó bằng đôi mắt của cô, tôi chợt hiểu nó và những điều liên quan đến nó dưới đôi mắt ấy đều hết sức kì lạ.

    Cô đoán được thái độ nhạo báng trong lời nói của Larsen Sói, một lần nữa, cô lại dành cho tôi một ánh nhìn thông cảm. Nhưng trong ánh mắt đó còn có sự hoang mang. Thái độ nhạo báng kia khiến cô càng bối rối không hiểu tình hình nơi đây, "Nếu có tàu khác đi ngang qua. Có lẽ tôi sẽ chuyển sang đó," cô đề nghị.

    "Không có tàu nào đi ngang qua đâu, trừ những tàu săn khác," Larsen Sói đáp lời.

    "Tôi không có quần áo, tôi chẳng có gì hết," cô phản đối. "Thưa ông, hình như ông không nhận ra, tôi không phải đàn ông, tôi không quen với lối sống lang thang, bất cần mà ông và người của ông đang đeo đuổi."

    "Cô nên làm quen với nó càng sớm càng tốt," ông nói. "Tôi sẽ cấp cho cô vải, kim và chỉ," ông nói thêm. "Tôi hi vọng việc tự may cho mình một hai cái váy không phải là điều gì quá khó khăn và khủng khiếp với cô." Miệng cô nhăn nhó khó chịu như để thể hiện cho mọi người hiểu rằng mình không biết may đồ. Đồng thời, thể hiện luôn cả nỗi sợ hãi, hoang mang mà cô dũng cảm nỗ lực che đậy ra trước mắt tôi.

    "Tôi nghĩ cô cũng quen với việc được người khác hầu hạ như anh Van Weyden đây. Tôi nghĩ tự mình lao động cũng chẳng làm cô trật khớp xương đâu. Nhân tiện, cô làm nghề gì vậy?" Cô ném cho ông ta một cái nhìn kinh ngạc không hề giấu diếm.

    "Tôi không có ý xúc phạm cô, xin hãy tin tôi. Ai cũng có nhu cầu ăn uống, vì thế họ làm ra thứ gì đó để đổi lấy đồ ăn. Những gã đàn ông này bắn hải cẩu để sống; tôi lái con tàu buồm này cũng vì lí do tương tự; còn anh Van Weyden đây có thể ở đây và được ăn uống là nhờ hỗ trợ tôi. Vậy còn cô, cô làm gì nào?" Cô nhún vai.

    "Cô tự kiếm ăn hay phải chờ người khác dâng đến miệng vậy?"

    "Tôi rất tiếc là hầu hết quãng đời này tôi đều được người khác nuôi sống," cô cười, lấy hết dũng khí để đối đáp câu hỏi của ông, nhưng tôi lại nhìn thấy nỗi sợ trong mắt cô ngày càng lớn khi nhìn Larsen Sói.

    "Tôi đoán có người dọn giường cho cô luôn, đúng không?"

    "Tôi tự dọn giường," cô đáp.

    "Thường xuyên sao?" Cô lắc đầu ra vẻ buồn bã.

    "Cô biết người ta làm gì với những người đàn ông nghèo ở Hoa Kì không biết tự mình kiếm tiền như cô không?"

    "Tôi không biết," giọng cô van lơn. "Họ làm gì với những người đàn ông nghèo giống như tôi vậy?"

    "Họ đưa chúng vào tù. Tội không tự mình kiếm sống, trong trường hợp này được gọi là tội lang thang. Nếu ra cũng hay lải nhải những câu hỏi về đúng và sai như anh Van Weyden đây, ra sẽ hỏi rằng, cô có quyền gì được sống nếu cô không làm bất cứ điều gì cho thấy mình xứng đáng được sống?"

    "Nhưng ông không phải anh Van Weyden nên tôi không cần phải trả lời, đúng không nào?" Cô tươi cười dù trong đáy mắt tràn ngập sự sợ hãi, cảnh tượng bi thương này làm tôi rất đau lòng. Tôi thấy mình phải can thiệp và dẫn dắt cuộc đối thoại sang hướng khác.

    "Cô đã từng kiếm được bất kì đô la bằng chính sức lao động của mình chưa?" Ông ta gặng hỏi bằng giọng không khoan nhượng đầy đắc thắng khi đã biết chắc câu trả lời.

    "Có chứ," cô chậm rãi trả lời, bộ mặt ỉu xìu của ông ta chút nữa làm tôi cười phá lên. "Tôi nhớ lúc còn nhỏ cha tôi từng cho tôi một đô la vì tôi đã giữ im lặng trong năm phút."

    Ông mỉm cười đầy thỏa mãn.

    "Nhưng chuyện đó đã lâu rồi," cô tiếp tục. "Và hiếm khi có người lại yêu cầu một cô bé chín tuổi phải tự kiếm sống. Tuy nhiên, bây giờ," cô ngừng một chút rồi nói tiếp, "mỗi năm tôi kiếm được khoảng một ngàn tám trăm đô la." Đột nhiên mọi con mắt đều rời khỏi đĩa và nhất loạt nhìn cô ấy. Một phụ nữ kiếm được một ngàn tám trăm đô la mỗi năm thật sự rất đáng để chiêm ngưỡng. Larsen Sói không hề giấu giếm sự ngưỡng mộ.

    "Tiền lương hay tiền trả theo sản phẩm?" Ông ta hỏi. "Trả theo sản phẩm," cô nhanh chóng trả lời.

    "Một ngàn tám trăm," ông nhẩm tính. "Như vậy mỗi tháng cô kiếm được một trăm năm mươi đô la. Này cô Brewster, con tàu Bóng Ma không hề nhỏ đâu. Trong thời gian cô ở với chúng tôi thì hãy tự xem là mình đang được trả lương nhé." Cô chẳng hề đáp lại. Cô vẫn chưa quen với những ý tưởng bất chợt của ông nên chưa thể bình thản chấp nhận chúng.

    "Tôi quên hỏi," ông nhẹ nhàng nói tiếp, "về bản chất công việc của cô. Cô tạo ra những mặt hàng gì? Cô cần những công cụ và nguyên liệu gì?"

    "Giấy và mực," cô cười. "À! Còn có máy đánh chữ nữa."

    "Cô chính là Maud Brewster," tôi cất tiếng, giọng chậm rãi và chắc nịch như thể đang buộc tội.

    Cô ấy ngước lên nhìn tôi đầy tò mò.

    "Sao ông biết?"

    "Là cô phải không?" Tôi gặng hỏi.

    Cô gật đầu thừa nhận thân phận của mình. Giờ thì đến lượt Larsen Sói bối rối. Cái tên và phép thuật của những cái tên không có ý nghĩa gì với ông. Nhưng tôi lại cảm thấy tự hào vì nó có ý nghĩa với tôi, và đây cũng là lần đầu tiên dù đang chán nản nhưng tôi lại có thể tự tin nhận ra rằng mình có điểm vượt trội hơn ông ta.

    "Tôi nhớ mình từng viết bài bình luận về một cuốn nhỏ.." Tôi tùy ý bắt chuyện, bỗng nhiên cô ngắt lời tôi.

    "Ông!" Cô kêu lên. "Ông là.." Lúc này cô ấy trợn tròn mắt nhìn tôi đầy kinh ngạc.

    Đến lượt tôi gật đầu thừa nhận thân phận của mình.

    "Humphrey Van Weyden," cô kết luận; sau đó tiếp lời cùng một tiếng thở phào nhẹ nhõm mà không biết rằng bản thân đã thoải mái nhìn Larsen Sói, "Tôi đã rất vui."

    "Tôi vẫn nhớ bài bình luận đó," cô vội vã nói, sau đó chợt nhớ ra câu nhận xét không đầu không đuôi lúc nãy, "bài bình luận đó tâng bốc quá mức."

    "Đâu có." Tôi quả quyết phủ nhận. "Cô đã hoài nghi khả năng đánh giá sáng suốt của tôi và khiến cho tác phẩm của tôi mất giá trị, hơn nữa, những người bạn phê bình của tôi đều đứng về phía tôi."

    "Tôi chắc rằng anh rất tử tế," cô thì thầm; ngữ điệu và lời nói bình thường kết hợp lại gợi nhớ cho tôi về cuộc sống ngày xưa ở phía bên kia thế giới, khiến tôi thoáng rùng mình vì những kí ức và nỗi nhớ nhà sâu sắc.

    "Cô là Maud Brewster," tôi nhìn cô ấy và nghiêm nghị nói.

    "Còn anh là Humphrey Van Weyden," cô ấy nói, nhìn lại tôi với thái độ nghiêm nghị và ngạc nhiên.

    "Thật kì lạ! Không thể hiểu nổi. Chúng tôi chắc chắn ngòi bút tỉnh táo của ông không thể viết ra những câu chuyện tình lãng mạn hoang dại trên biển."

    "Tôi không phải đang đi thu thập tư liệu để viết đâu, tôi nói thật đấy," tôi trả lời. "Tôi không có năng khiếu và hứng thú với sáng tác tiểu thuyết."

    "Vậy anh nói tôi nghe đi, tại sao anh lúc nào cũng chôn chân ở California vậy?" cô ấy lại hỏi.

    "Điều đó không giống con người anh. Người phương Đông chúng tôi ít khi gặp được người như anh – thật ra là hầu như chưa từng gặp Trưởng Khoa văn ngữ Hoa Kì đệ nhị[1] ." Tôi cúi đầu và từ chối lời khen ngợi. "Suýt chút nữa tôi đã gặp anh ở Philadelphia, về sự kiện Browning hay gì đó mà anh tới đó thuyết trình đấy. Chuyến xe lửa của tôi trễ mất bốn giờ đồng hồ."

    Và rồi chúng tôi quên mất mình đang ở đâu, chúng tôi bỏ rơi Larsen Sói, khiến ông im lặng trong suốt cuộc trò chuyện. Những người thợ săn rời bàn để lên boong tàu nhưng chúng tôi vẫn còn nói chuyện. Chỉ còn một mình Larsen Sói ở lại. Đột nhiên tôi nhớ đến ông và nhìn thấy ông ngả người khỏi bàn, tò mò lắng nghe cuộc nói chuyện kì quặc của chúng tôi về một thế giới mà ông chưa từng biết.

    Tôi đột ngột im bặt. Hiện tại đầy hiểm nguy và lo lắng lại bủa vây lấy tôi bằng một sức mạnh khiến tôi choáng váng. Cô Brewster cũng cảm thấy như vậy, một nỗi sợ hãi không tên choán ngợp ánh mắt cô khi cô ấy nhìn Larsen Sói.

    Ông đứng lên cười đầy gượng gạo. Tiếng cười nghe như tiếng kim loại.

    "Ồ, đừng để ý đến tôi," ông vừa nói vừa vẫy tay một cách tự ti.

    "Đừng quan tâm tôi. Cứ nói tiếp đi, tôi xin hai người đấy." Nhưng cánh cổng ngôn từ đã đóng chặt, chúng tôi đồng loạt đứng dậy khỏi bàn và lúng túng cười.

    [1] Trưởng khoa Văn ngữ Hoa Kì tức William Dean Howells, tác gia có thật có ảnh hưởng lớn, có biệt danh The Dean of American Letters. Ông cũng là biên tập của tờ báo Đại Tây Dương được nhắc ở đầu truyện. Tác giả đang ví Humphrey Van Weyden là một ngài William Dean Howells thứ hai.
     
    Nguyễn Ngọc Nguyên thích bài này.
  2. Chanh97hh

    Bài viết:
    73
    Chương 21

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Nỗi chán nản Larsen Sói phải chịu đựng vì bị tôi và Maud Brewster phớt lờ trong cuộc đối thoại tại bàn ăn cần phải được giải tỏa theo một cách nào đó, cuối cùng Thomas Mugridge được chọn làm nạn nhân. Sức khỏe và chiếc áo của gã vẫn chưa lành lặn hoàn toàn dù gã luôn miệng quả quyết rằng mình đã thay áo rồi. Bản thân chiếc áo chẳng chứng minh được lời gã nói, hơn nữa những vết dầu mỡ tích tụ trên bếp lò, nồi và chảo lại càng thêm bẩn thỉu.

    "Tao đã cảnh báo mày rồi đấy Bếp à," Larsen Sói nói, "giờ mày phải nhận lấy hình phạt của mình." Khuôn mặt Mugridge trắng bệch dưới lớp bồ hóng đen sì, tới khi Larsen Sói hô tìm dây thừng và gọi những người khác đến, gã Cockney khốn khổ điên cuồng chạy khỏi ra khỏi bếp, liên tục né tránh và núp dưới boong tàu với tiếng cười ha hả của bọn thủy thủ đuổi theo ráo riết.. Họ chỉ có một vài niềm yêu thích khác mãnh liệt hơn việc ném anh ta qua mạn tàu, ông ta hướng về phía khoang mũi để truyền tin và ra cái mệnh lệnh khủng khiếp đó. Hoàn cảnh xung quanh cũng có lợi cho vụ này. Tàu Bóng Ma đang lướt trên mặt nước với tốc độ không quá ba dặm một giờ, biển khá yên tĩnh. Nhưng Mugridge sợ bị ném xuống muốn chết. Có lẽ trước đây gã đã từng thấy qua cảnh này. Mặt khác, nước biển lạnh khủng khiếp, gã lại đang chẳng khỏe mạnh gì.

    Như thường lệ, đội gác bên dưới và thợ săn xuất hiện vì loại hình thể thao giải trí đầy hứa hẹn này. Hình như Mugridge rất sợ nước, sự nhanh nhẹn và tốc độ mà gã thể hiện vượt quá mong đợi của chúng tôi. Bị dồn vào góc bục đuôi và bếp, gã phóng lên trên nóc cabin như một con mèo rồi cắm đầu chạy về hướng đuôi tàu. Bọn họ đã kịp chặn gã lại, nhưng sau đó gã quay ngược về phía cabin, nhảy qua bếp rồi chạy ra boong tàu nhờ lỗ thông ở khoang lái. Gã lao về trước, sau lưng là tay chèo Harrison đang bám sát và chuẩn bị tóm được gã. Đột nhiên Mugridge nhảy lên chụp lấy sào căng buồm. Sự việc diễn ra trong chốc mắt. Gã đu bằng cánh tay, gập người ở hông, chân lơ lửng giữa không trung. Harrison chạy đến và lãnh trọn cú đá thẳng vào bụng, nó rên rỉ, gập người và lui lại trên boong tàu.

    Những tràng vỗ tay và tiếng cười của bọn thợ săn vang lên như tán thưởng pha hành động vừa rồi, còn Mudgridge thì đã loại bỏ hết phân nửa những kẻ săn đuổi gã tại cột buồm mũi, gã tả xung hữu đột với những người còn lại để chạy về phía đuôi tàu như cầu thủ chạy trên sân bóng đá. Sau khi chạy thẳng về phía bục đuôi tàu, gã bám lấy nó và tiến ra sau tàu. Với tốc độ khủng khiếp đó, gã vòng qua góc tường cabin và trượt ngã. Cả thân hình gã Cockney lao vào chân của Nilson đang đứng ngay bánh lái. Cả hai đều ngã xuống nhưng chỉ có Mugridge đứng dậy. Bằng dưới áp lực đáng sợ nào đó, thân thể yếu ớt của gã bẻ gãy đôi chân của một người đàn ông khỏe mạnh như cái tẩu thuốc.

    Parsons nắm lấy bánh lái, cuộc truy đuổi lại tiếp tục. Họ rượt nhau xung quanh boong tàu, Mugridge cực kì sợ hãi, bọn thủy thủ luôn miệng la hét chỉ điểm người khác tóm gã, còn bọn thợ săn rống lên cổ vũ và cười giỡn. Mugridge rơi xuống cửa hầm trước và bị ba người đàn ông đè xuống; nhưng rồi gã trườn ra khỏi họ như một con lươn, miệng chảy máu, áo rách bươm, gã phóng lên nơi buộc dây buồm chính. Sau đó gã trèo lên thang dây và thẳng tiến đến đỉnh cột buồm.

    Khoảng sáu thủy thủ bám theo anh ta và trèo lên thanh giữ cột buồm, họ tụ tập, chờ đợi trong khi Oofty–Oofty và Black (tay lái trên thuyền của Latimer) đinh thép mỏng dùng để cột dây rồi dùng lực tay nâng cơ thể lên cao. Việc này khá là nguy hiểm vì họ đang dùng tay đu người ở độ cao hơn ba mươi mét so với boong tàu, hơn nữa, tư thế đó cũng khiến họ khó bảo vệ bản thân khỏi những cú đá của Mugridge. Mugridge đá rất hăng cho đến khi anh chàng người Kanaka tóm được chân gã Cockney bằng một tay, tay kia bám chặt dây lèo.

    Ít phút sau, Black chụp được bàn chân còn lại của gã. Sau đó ba người họ vật lộn và lắc lư trên dây, trượt ngã rồi rơi vào cánh tay của những người bạn đang bám trên thang ngang buồm.

    Trận chiến trên không đã kết thúc, Thomas Mugridge bị vác xuống boong tàu, gã vừa rên rỉ vừa lắp bắp. Larsen Sói cởi gút dây ở dây buồm vuông rồi thòng nó dưới vai gã. Sau đó gã bị vác về hướng đuôi tàu và ném xuống biển. Một đoạn dây được thả ra khoảng mười hai, mười lăm, mười tám mét, cho đến khi Larsen Sói hét lên "Dừng lại!" thì Oofty Oofty xoay một vòng trên cọc, dây thừng được kéo căng, con tàu Bóng Ma vừa tiến về phía trước vừa kéo người đầu bếp chìm ngụp trên mặt nước.

    Đó là một khung cảnh đáng buồn. Mặc dù gã sống sót vì không bị chìm nhưng vẫn phải chịu đủ mọi thống khổ trong tình trạng nửa chìm nửa nổi. Tàu Bóng Ma chạy rất chậm, khi đuôi tàu được sóng nâng lên, trôi về trước, nó kéo gã khốn khổ nổi lên và cho gã được thở vài giây; nhưng đó đuôi tàu lại chìm, đầu tàu lười nhác trèo lên ngọn sóng kế tiếp khiến sợi dây thả lỏng làm gã chìm xuống nước.

    Tôi đã quên sự tồn tại của Maud Brewster, tôi chỉ nhớ ra cô ấy khi cô nhẹ nhàng bước đến sau lưng tôi. Đó là lần đầu tiên cô ra ngoài boong tàu kể từ khi lên tàu. Bầu không khí im lặng tới đáng sợ chào đón cô. "Có chuyện gì vui vậy?" cô ấy hỏi. "Cô hãy đến hỏi Thuyền trưởng Larsen," tôi trả lời điềm tĩnh và lạnh nhạt, dù trong thâm tâm khí huyết của tôi sục sôi khi nghĩ đến tình cảnh tàn nhẫn mà cô ấy sắp phải chứng kiến.

    Cô nghe theo lời khuyên của tôi và định làm vậy, cô dán mắt vào Oofty–Oofty, anh ta đang đứng ngay phía trước cô, tay nắm lấy đầu dây thừng, bản năng khiến cơ thể anh ta căng thẳng và dẻo dai vì đang nắm sợi dây thừng. "Anh đang câu cá sao?" cô hỏi. Anh ta không trả lời. Đôi mắt vốn nhìn ra xa bỗng dưng lóe sáng.

    "Thưa ông, có cá mập!" anh ta hét lên.

    "Kéo dây! Nhanh lên! Tất cả kéo đi!"

    Larsen Sói hét lên, ông ta nhảy đến sợi dây với tốc độ nhanh nhất.

    Mugridge đã nghe thấy tiếng la của anh chàng người Kanaka, bản thân gã cũng đang gào thét đến điên cuồng. Tôi nhìn thấy vây cá màu đen đang lao về phía gã, tốc độ của con cá thậm chí còn nhanh hơn tốc độ của đám người đang kéo gã lên tàu. Tình huống này chẳng khác nào một trò chơi sấp ngửa xem chúng tôi hay con cá mập tóm được gã trước, mọi thứ xảy ra chỉ trong tích tắc. Khi Mugridge ở ngay bên dưới chúng tôi, đuôi tàu hạ xuống theo độ dốc của con sóng đang tới, vì vậy mà lợi thế nghiêng về con cá mập. Vây cá biến mất. Cái bụng màu trắng của nó xuất hiện rồi lao lên nhanh chóng. Nhưng Larsen Sói cũng nhanh gần như thế. Ông ta dồn toàn bộ sức mạnh vào cú kéo. Cơ thể gã Cockney và thân con cá mập rời khỏi mặt nước. Gã đưa chân lên, con cá mập hầu như chỉ mới chạm vào một chân thì đã rơi xuống biển sau một cú tóe nước. Nhưng vào lúc con cá mập chạm vào mình, Thomas Mugridge hét lớn. Gã văng lên boong tàu như một con cá mắc miệng vào lưỡi câu, tay và chân đập xuống rồi lăn tròn. Mắt cá chân gã có một vết đứt gọn ghẽ, thì ra bàn chân phải của gã đã biến mất!

    Tôi liếc sang Maud Brewster ngay lập tức. Khuôn mặt cô ấy trắng bệch, đôi mắt trợn trừng lên trong nỗi kinh hoàng. Người mà cô ấy nhìn chằm chằm không phải là Thomas Mugridge mà là Larsen Sói. Ông ta cũng biết điều đó, rồi ông ta vừa cười vừa nói: "Đây là trò của đàn ông thôi cô Brewster. Dù vụ này có hơi kinh khủng hơn những gì cô từng thấy, nhưng tôi đảm bảo đây vẫn chỉ là trò của đàn ông thôi. Riêng con cá mập này thì không tính. Nó.." Nhưng ngay lúc này, Mugridge ngước lên và nhận ra mình vừa mất gì, giãy giụa trên boong tàu rồi cắn ngập răng vào chân của Larsen Sói. Larsen Sói khẽ cúi xuống nhìn gã Cockney, sau đó ông dùng ngón cái và ngón trỏ bóp vào sau quai hàm, bên dưới lỗ tai gã. Gã miễn cưỡng há miệng ra, Larsen Sói dễ dàng thoát ra.

    "Như tôi đã nói," ông ta nói tiếp giống như chẳng có chuyện bất hạnh nào đã xảy ra, "cá mập không được tính. Đó là –a hèm– chúng ta có nên gọi đó là ý trời không nhỉ?"

    Cô không hề tỏ ra đã nghe rõ hay không, tuy nhiên, khi cô quay người đi, biểu cảm trong đôi mắt ấy đã biến thành thái độ kinh tởm không lời nào tả được. Cô loạng choạng, lảo đảo rồi yếu ớt vươn tay về phía tôi. Tôi đỡ cô kịp lúc, rồi tìm cho cô một chỗ ngồi trên cabin. Tôi tưởng cô sẽ ngất xỉu ngay, nhưng cô đã khống chế được bản thân.

    "Ông Van Weyden, ông lấy giúp tôi băng ga–rô được không?" Larsen Sói gọi tôi.

    Tôi do dự. Cô mấp máy môi, dù cô chẳng nói chẳng rằng, nhưng cô đã dùng đôi mắt ra lệnh cho tôi hãy giúp đỡ người đàn ông xấu số đó. "Làm ơn," cô cố gắng thì thầm và tôi chẳng thể làm được gì ngoài nghe theo. Đến bây giờ, tôi đã tự học được kỹ năng giải phẫu, vì thế Larsen Sói cho phép tôi thực hiện công việc này với sự trợ giúp từ một số thủy thủ, thỉnh thoảng ông ta cũng buông đôi chút lời chỉ dẫn. Nhiệm vụ của ông ta lúc này là trả thù con cá mập.

    Một móc quay nặng treo miếng thịt heo muối được thả xuống mạn tàu; tới khi tôi đang buộc chặt các tĩnh mạch và động mạch nát bấy lại thì các thủy thủ hò reo và kéo con quái vật khủng khiếp đó lên. Tôi không tận mắt nhìn thấy nó, nhưng các trợ lí của tôi, hết người này rồi lại đến người khác, đều rời đi vài phút để chạy đến giữa tàu và quan sát xem chuyện gì xảy ra. Con cá mập dài năm mét bị treo lên nơi buộc dây buồm chính. Hàm của nó bị cạy ra hết mức có thể, một cái cọc cứng mài nhọn hai đầu được nhét vào miệng nó sâu đến nỗi sau khi lấy đồ cạy ra thì hàm của nó vẫn ở nguyên vị trí. Sau khi xong việc, móc quay được rút ra. Con cá mập rơi tõm xuống biển trong vô vọng, sức lực của nó vẫn còn, nhưng nó sẽ phải chịu đói cho đến chết – tình trạng sống dở chết dở mà nó không đáng phải chịu, khác với kẻ đã nghĩ ra hình phạt này.
     
    Nguyễn Ngọc Nguyên thích bài này.
  3. Chanh97hh

    Bài viết:
    73
    Chương 22

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tôi biết cô ấy muốn gì khi đi về phía tôi. Tôi đã nhìn thấy cô ấy nói chuyện vô cùng nghiêm túc với người kỹ sư trong suốt mười phút, sau khi đưa tay ra dấu im lặng, tôi kéo cô ra khỏi tầm nghe ngóng của người lái tàu. Khuôn mặt cô trắng bệch và căng thẳng; đôi mắt vốn đã to nay lại càng to hơn hàm chứa mục đích bí ẩn đang nhìn xuyên vào đôi mắt tôi. Cô ấy đang tìm kiếm linh hồn của Humphrey Van Weyden, nhưng kể từ khi bước lên con tàu Bóng Ma, Humphrey Van Weyden chẳng có gì đáng để tự hào, thế nên tôi thấy mình nhút nhát và sợ hãi trước ánh mắt ấy. Chúng tôi bước đến chỗ nứt của bục đuôi tàu, sau đó cô xoay người và nhìn thẳng vào tôi. Tôi dáo dác nhìn xung quanh để đảm bảo không ai có thể nghe được cuộc đối thoại này.

    "Chuyện gì vậy?" Tôi nhẹ nhàng hỏi; nhưng vẻ quyết tâm đến đáng sợ trên khuôn mắt cô ấy vẫn không hề biến mất.

    "Tôi đã hiểu hết rồi," cô nói, "sự việc sáng nay là một tai nạn; nhưng tôi đã nói chuyện với anh Haskins. Anh ta bảo ngày mà chúng tôi được cứu, ngay khi tôi đang ở trong cabin, có hai người đàn ông đã chết đuối, thật ra là bị dìm chết – bị mưu sát." Giọng cô chất vấn, cô tỏ thái độ như đang tố cáo tôi, cứ như thể tôi là người thực hiện hành vi đó, hay ít nhất cũng dính líu tới nó.

    "Thông tin cô nghe được cũng khá chính xác đấy," tôi đáp. "Hai người đó đã bị sát hại."

    "Và anh đứng im nhìn việc đó xảy ra!" cô gào toáng lên.

    "Cô nên nói là tôi không cản được thì đúng hơn," tôi vẫn nhẹ nhàng.

    "Nhưng anh đã thử ngăn cản chưa?" Cô nhấn mạnh chữ "thử," giọng cô thoáng nài xin. "Anh không làm vậy!" cô nói nhanh, đoán trước được câu trả lời của tôi. "Nhưng tại sao anh không làm vậy?" Tôi nhún vai. "Cô phải nhớ chứ, cô Brewster, cô là thành viên mới của cái thế giới nhỏ bé này, vậy mà hình như cô vẫn chưa hiểu những luật lệ ở đây. Cô còn mang theo những khái niệm trong sáng về lòng nhân đạo, tính can đảm, đạo đức và những khái niệm tương tự khác; tuy nhiên, tại đây những khái niệm đó đều là các quan điểm sai lầm. Tôi cũng vừa nhận ra đấy thôi," tôi nói tiếp rồi bất giác thở dài. Cô lắc đầu hoài nghi. "Vậy cô bảo tôi phải làm thế nào đây?" Tôi hỏi. "Tôi nên chộp lấy một con dao, một cây súng hoặc một cái rìu rồi giết chết ông ta sao?"

    Cô lại tiếp lời. "Không, không phải như vậy!"

    "Vậy thì tôi phải làm gì? Tự sát à?"

    "Anh toàn sử dụng những thuật ngữ duy vật," cô phản đối. "Có thứ gọi là tinh thần can đảm, mà tinh thần can đảm thì không bao giờ vô dụng."

    "À," tôi cười, "cô bảo tôi không nên giết ông ta hay tự sát mà hãy để ông ta giết tôi."

    Tôi giơ tay lên để ngăn lời cô ấy sắp nói. "Tinh thần can đảm là thứ tài sản không có giá trị trên cái thế giới trôi nổi nhỏ bé này. Leach có tinh thần can đảm mạnh mẽ đến mức bất bình thường, và cậu ta đã chết. Người chết còn lại, là Johnson, cũng như thế. Tinh thần can đảm chẳng những nó không có ích gì cho bản thân họ mà nó còn tiêu diệt họ. Nếu tôi sống theo thứ tinh thần can đảm nhỏ nhoi đó, có lẽ kết cục của tôi cũng như họ. Cô Brewster, cô nhất định phải hiểu và hiểu cho thật rõ ràng, ông ta là một con quái vật. Ông ta không có lương tri. Đối với ông ta không có thứ gì là bất khả xâm phạm hay quá xấu xa để làm. Tôi bị giam hãm trên tàu là do ông ta muốn thế. Tôi còn được sống cũng là do ông ta muốn thế. Tôi không làm gì, cũng không thể làm gì vì tôi là nô lệ của con quái vật đó giống như cô bây giờ cũng là nô lệ của ông ta vậy; tôi còn muốn được sống, giống như cô cũng muốn được sống; tôi không thể vùng dậy rồi tiêu diệt ông ta, giống như cô cũng không thể vùng dậy và tiêu diệt ông ta."

    Cô đợi tôi nói tiếp.

    "Vậy thì chúng ta còn lại gì? Tôi phải đóng vai của kẻ yếu. Tôi phải im lặng và chịu đựng sự nhục nhã, giống như cô cũng sẽ im lặng và chịu đựng sự nhục nhã. Nhưng điều đó vẫn tốt thôi. Đó là điều tốt nhất mà chúng ta có thể làm để được sống sót. Trận chiến không phải lúc nào cũng nghiêng về kẻ mạnh. Chúng ta không đủ sức đấu với ông ta; chúng ta phải giả vờ và chiến thắng bằng mưu kế nếu có cơ hội. Nếu cô muốn tôi cho lời khuyên thì đây là những điều cô nên làm. Tôi biết vị thế của tôi rất hiểm nghèo, tôi cũng nên nói thẳng rằng vị thế của cô thậm chí còn nguy hiểm hơn.

    Chúng ta phải lập một liên minh bí mật và không để lộ điều đó. Có lẽ tôi không thể ra mặt bênh vực cô, nhưng dù tôi có bị sỉ nhục đến nhường nào đi nữa thì cô vẫn phải im lặng. Chúng ta không nên tranh cãi với ông ta, không được nghịch ý ông ta. Chúng ta phải luôn tươi cười thân thiện với ông ta dù điều đó thật kinh tởm."

    Cô bối rối ôm trán và nói, "Tôi vẫn chưa hiểu."

    "Cô phải làm theo lời tôi," tôi hung dữ ngắt lời khi trông thấy Larsen Sói khẽ liếc sang phía chúng tôi trong lúc đi tới đi lui giữa tàu với Latimer. "Hãy nghe tôi, rồi cô sẽ sớm nhận ra lời tôi nói là đúng."

    "Tôi phải làm gì đây?" cô hỏi, sau khi nhận thấy ánh nhìn lo lắng của tôi liếc nhìn người mà chúng tôi đang nhắc đến, cô lập tức hiểu ra, tôi tự huyễn hoặc bản thân bằng thái độ khẩn thiết của mình.

    "Hãy quên cái tinh thần can đảm ấy đi," tôi nói nhanh, "Đừng kích thích thái độ thù địch của ông ta. Hãy tỏ ra thân thiện và trò chuyện với ông ta, hãy thảo luận cùng ông ta về văn học và mĩ thuật – ông ta thích những chủ đề đó lắm. Rồi cô sẽ thấy ông ta lắng nghe chăm chú và nhận ra ông ta không phải tên đần độn. Vì lợi ích của bản thân, xin cô cố gắng đừng chứng kiến những cảnh tượng tàn ác trên tàu hết mức có thể. Nhờ vậy cô sẽ dễ nhập vai hơn."

    "Tôi phải nói dối," cô ấy nói bằng giọng đều đều, bất trị; "dùng lời nói và hành động để nói dối."

    Larsen Sói đã tách khỏi Latimer và đang đi về phía chúng tôi, tôi tuyệt vọng. "Làm ơn, xin cô hãy hiểu cho tôi," tôi thấp giọng nói nhanh. "Mọi kinh nghiệm của cô về đàn ông và cuộc sống đều vô nghĩa ở đây. Cô phải làm lại từ đầu. Tôi biết – tôi hiểu – rằng cô đã quen điều khiển người khác bằng ánh mắt, để tinh thần dũng cảm của bản thân thoải lên tiếng như cô đã từng. Cô đã chế ngự tôi bằng mắt, cô dùng mắt để ra lệnh cho tôi. Nhưng đừng làm vậy với Larsen Sói. Cô có thể dễ dàng khống chế một con sư tử nhưng ông ta sẽ chế nhạo cô. Ông ta sẽ.."

    "Tôi vẫn luôn tự hào vì mình đã phát hiện ra anh ta," tôi nói, chuyển hướng cuộc đối thoại vì Larsen Sói đã bước đến bục đuôi tàu và tham gia cùng chúng tôi. "Biên tập sợ anh ta, nhà xuất bản không thích anh ta. Nhưng tôi biết, tài năng thiên phú của anh ta và óc phán đoán của tôi đều được chứng minh thông qua thành công từ" Thợ cày. "

    " Đó là một bài thơ trên báo, "cô nhanh nhảu nói.

    " Nó suýt được đăng báo, "tôi trả lời," nhưng rồi lại không vì biên tập không chịu nhìn nhận nó.

    "Chúng tôi đang nói chuyện về Harris," tôi nói với Larsen Sói.

    "À, vậy sao," ông ta chấp nhận lời trình bày. "Tôi nhớ đến" Chiếc Nhẫn. "Một tác phẩm tràn đầy những xúc cảm tích cực cùng một niềm tin vững chắc về ảo tưởng của con người. Tiện thể thì, ông Van Weyden này, ông nên đi kiểm tra xem thằng Bếp thế nào rồi. Nó cứ cằn nhằn mãi mà không thể ngủ được."

    Thế là tôi bị đuổi thẳng khỏi bục đuôi tàu dù sau đó tôi phát hiện Mugridge đang ngủ rất ngon dưới tác dụng của liều Morphine[1] mà tôi cho gã uống. Tôi không vội trở ra boong tàu, khi tôi trở ra đó, tôi hài lòng thấy cô Brewster đang bàn tán rất sôi nổi với Larsen Sói. Như tôi nói, cảnh tượng đó làm tôi phấn khởi. Cô đã tiếp thu lời khuyên của tôi. Mặc dù vậy, tôi vẫn nhận thức được mình có chút sốc và tổn thương khi cô phải làm theo những điều tôi van cầu dù cô chẳng hề thích thế.

    [1] Morphine: Hay moóc–phin, một loại thuốc giảm đau gây nghiện.
     
    Nguyễn Ngọc Nguyên thích bài này.
  4. Chanh97hh

    Bài viết:
    73
    Chương 23

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Những cơn gió dữ dội đang thổi con tàu Bóng Ma tiến về phía Bắc, ngày càng đến gần bầy hải cẩu. Trên mặt nước biển rét căm căm đầy bão tố cùng làn gió thổi những màn sương mù không ngớt, chúng tôi bắt gặp chúng ở vĩ tuyến số bốn mươi bốn. Trong nhiều ngày liên tiếp, chúng tôi vừa không nhìn thấy ánh mặt trời, vừa không thể tiến hành quan sát; rồi đây cơn gió sẽ quét sạch bề mặt đại dương, những làn sóng rì rầm ào ào sẽ giúp chúng tôi xác định vị trí của mình. Một ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày đẹp trời sẽ đến, và rồi làn sương mù sẽ càng dày đặc hơn.

    Chuyến đi săn này thật nguy hiểm; những chiếc thuyền ngày càng ngập sâu chỉ chực bị màn đêm tối tăm nuốt chửng, đến bam đêm thì không còn thấy gì nữa, và rồi không lâu sau đó, những con thuyền sẽ từng chiếc một lẻn ra khỏi màn đêm như hồn ma của biển cả. Tổ thuyền của anh thợ săn Wainwright, những người đã bị Larsen Sói ép ở lại trên tàu, đã tận dụng mặt biển tối tăm để tẩu thoát. Vào một buổi sáng dày đặc sương mù, anh ta biến mất cùng với hai người bạn đồng hành của mình, kể từ đó chúng tôi chưa từng gặp lại họ, nhưng cách sau mấy ngày chúng tôi nghe tin họ liên tục chuyển từ tàu này sang tàu khác trước khi tìm về đúng tàu của mình.

    Đây là điều tôi vốn đã muốn làm từ lâu nhưng chưa lần nào chớp được thời cơ. Thuyền phó không được phép bước ra khỏi tàu, mặc dù tôi đã khéo léo tìm cách thì Larsen Sói vẫn không cho phép tôi được quyền làm vậy. Nếu được ông ta duyệt thì tôi đã sớm mang Brewster đi cùng tôi.

    Mọi thứ đang tiến đến giai đoạn mà tôi rất sợ phải đối mặt. Mặc dù tôi vô tình phớt lờ nó, những dòng suy tưởng cứ bộc phát trong tâm trí tôi như một bóng ma ám ảnh.

    Tôi đã đọc nhiều câu chuyện tình yêu lãng mạn trên biển cả, trong đó lúc nào nữ chính cũng bị đám đàn ông bao vây trên tàu; nhưng bây giờ tôi đã biết thì ra tôi chưa từng thẩm thấu tầng nghĩa sâu hơn trong tình cảnh đó – tình cảnh mà các tác giả cứ mãi khai thác và tận dụng một cách triệt để. Và lúc này tình cảnh đó xảy đến với tôi, còn tôi thì bắt buộc phải đối mặt với nó. Tình cảnh này xảy đến chỉ vì Maud Brewster, người con gái đã mê hoặc tôi từ lâu bởi những tác phẩm của mình.

    Tôi không thể tưởng tượng ra ai khác thoát tục hơn cô ấy. Cô ấy tinh tế, tao nhã, yêu kiều, thướt tha, bay bổng và duyên dáng. Cô ấy không bước đi giống lũ phàm nhân tục tử chúng tôi, mà di chuyển ung dung như chiếc lông vũ đang trôi, như con chim đập cánh giữa thinh không.

    Cô giống như đồ sứ Dresden[1], tôi chưa bao giờ ngừng thổn thức trước sự mỏng manh dễ vỡ của cô. Từ giây phút tôi bắt lấy cánh tay rồi đỡ lấy cô, tôi lúc nào cũng chuẩn bị tâm lí rằng chỉ cần một chút thô bạo thì cô sẽ tan vỡ thành trăm mảnh. Tôi chưa bao giờ chiêm ngưỡng sự hòa hợp giữa thể xác và linh hồn nào tuyệt diệu đến vậy. Các nhà phê bình sẽ miêu tả cô bằng những vần thơ thăng hoa và thiêng liêng, và những vần thơ đó cũng có thể được sử dụng để miêu tả cơ thể cô. Cơ thể cô là một phần của linh hồn cô, chúng cùng nhau chia sẻ những thuộc tính chung và cơ thể mang linh hồn cô đến cuộc sống thông qua những mắt xích mỏng manh nhất. Thật vậy, cô ấy bước đi nhẹ nhàng trên mặt đất, cơ thể dường như không biết tới định nghĩa của từ thô kệch. Cô hoàn toàn đối lập với Larsen Sói. Cô ấy và Larsen Sói sở hữu những điều mà đối phương không có. Một buổi sáng nọ, tôi trông thấy họ đi cùng nhau trên boong tàu, trông chẳng khác gì hai thái cực trên nấc thang tiến hóa của loài người – một bên là đỉnh cao của sự tàn bạo và độc ác, một bên lại là tạo phẩm của nền văn minh cao cấp nhất. Đúng vậy, Larsen Sói thông minh đến mức bất bình thường, nhưng phần trí tuệ đó chỉ được sử dụng để thỏa mãn bản năng dã thú và khiến ông ta biến thành một tên bạo chúa đáng sợ. Ông ta là một người vạm vỡ, cường tráng, ông ta thường sải bước đầy kiên định và thẳng tắp theo cách của một kẻ cơ bắp, tuy nhiên bước đi của ông ta lại chẳng nặng nề. Rừng rậm và chốn hoang vu như ẩn nấp dưới từng bước chân ông. Chân ông ta như chân mèo, uyển chuyển và lúc nào cũng đầy uy lực. Tôi thầm ví ông ta với một loài hổ thiện chiến, một con thú săn mồi dũng cảm. Ánh nhìn của ông ta đôi khi tóe ra những tia sáng chói mắt, tôi đã từng thấy tia sáng tương tự trong đôi mắt con báo bị giam hãm trong lồng và những loài thú săn mồi hoang dã khác.

    Hôm nay, khi họ đang đi cùng nhau, cô ấy chủ động dừng bước. Họ bước đến nơi tôi đang đứng bên cửa cầu thang dẫn từ boong tàu đến cabin. Dù cô ấy không hề tỏ vẻ gì, nhưng tôi cảm thấy dường như cô đang rất sợ. Cô nói vài câu vu vơ, liếc nhìn tôi và cười khẽ, nhưng sau đó đôi mắt cô không tình nguyện quay về phía ông ta như thể trúng bùa mê; rồi, làn mi ấy hạ xuống, với tốc độ không đủ nhanh để che giấu cơn khủng hoảng trong lòng.

    Tôi nhìn vào đôi mắt ông ta và hiểu ra nguyên nhân làm cô bồn chồn. Đôi mắt xám lạnh lùng nghiêm khắc cố hữu nay thật ấm áp, dịu dàng và phát ra ánh vàng, trong đôi mắt đó là những tia sáng nhỏ mờ nhạt nhảy múa tuôn trào cho đến khi cả đôi mắt đều tràn ngập ánh sáng chói lọi. Có lẽ vì thế mà đôi mắt ông ta biến thành màu vàng; nhưng đôi mắt vàng ấy vừa lôi cuốn vừa quyền uy, cũng lại vừa quyến rũ và mê hoặc, chúng toát ra vẻ đòi hỏi và khát máu mà không người phụ nữ nào không hiểu, nhất là Maud Brewsster.

    Nỗi sợ hãi của cô nhanh chóng lan sang tôi, giây phút đó là giây phút lo lắng tột độ nhất mà một người đàn ông có thể trải nghiệm, tôi chợt hiểu ra rằng tôi thương mến cô theo những cách khó diễn tả bằng lời.

    Nhận thức được tình yêu của tôi với cô làm tôi kinh sợ, hai dòng xúc cảm yêu thương và sợ hãi bóp nghẹn trái tim tôi, máu trong người tôi vừa như lạnh cóng lại vừa nhảy nhót dữ dội. Cơ thể tôi đang bị khống chế bởi một thứ sức mạnh vượt quá khả năng hiểu biết của bản thân, đôi mắt tôi đã phản chủ khi liếc nhìn vào mắt của Larsen Sói. Nhưng ông ta đã trở lại như thường. Ánh vàng và những tia sáng nhảy nhót không còn nữa. Khi ông ta thô lỗ cúi chào và bỏ đi, đôi mắt ấy chỉ ánh lên sắc xám lãnh đạm.

    "Tôi sợ lắm," cô ấy thì thào rồi thoáng rùng mình. "Tôi thật sự sợ lắm." Tôi cũng sợ, nhất là sau khi tôi phát hiện cô ấy quan trọng với mình đến nhường nào, trí óc của tôi lại càng rối loạn hơn; mặc dù vậy, tôi trấn tĩnh trả lời: "Cô Brewster, mọi chuyện rồi sẽ ổn thôi. Hãy tin tôi; rồi mọi chuyện sẽ đâu vào đó." Cô đáp lại tôi bằng một nụ cười nhạt để tỏ lòng biết ơn, khiến trái tim tôi đập thình thịch liên hồi, sau đó cô bước xuống cầu thang.

    Một hồi lâu sau đó, tôi vẫn còn đứng chết trân tại đấy. Tôi thật sự rất cần phải điều chỉnh lại bản thân mình để cân nhắc tầm quan trọng của những điều vừa thay đổi. Cuối cùng nó đã xuất hiện rồi: Tình yêu đã đến khi tôi ít trông đợi nhất, và cũng trong tình huống không phù hợp nhất. Tất nhiên, hệ thống triết lí của tôi luôn hiểu tình yêu là điều không thể tránh khỏi – nó chỉ là vấn đề sớm muộn mà thôi; nhiều năm qua tôi chỉ biết ham mê đọc sách, vì thế tôi đã lơ đễnh và chuẩn bị chưa kỹ càng cho tình yêu.

    Và bây giờ tình yêu đã đến! Maud Brewster! Trí nhớ của tôi ùa về cuốn sách mỏng đầu tiên ở trên bàn mình nhiều năm trước, những hàng sách mỏng trên giá hiện ra rõ ràng như thực thể. Tôi đã vui mừng sự xuất hiện của chúng xiết bao! Mỗi năm nhà xuất bản lại gửi cho tôi một quyển, tôi xem đó là sự kiện quan trọng hằng năm. Chúng là hiện thân của trí tuệ và tâm hồn đồng điệu, vì thế tôi đã xem nó là người bạn thân thiết của lí trí; nhưng bây giờ vị trí của chúng là ở trong trái tim tôi. Trái tim tôi sao? Một cảm xúc khiếp sợ len lỏi trong tôi. Tôi giống như đang thoát ra khỏi xác và hoài nghi chính bản thân mình. Maud Brewster! Humphrey Van Weyden, "con cá máu lạnh," "con quái vật vô cảm," "con quái thú phân tích," theo như lễ rửa tội của Charley Furuseth nhận xét đang yêu! Sau đó, chẳng cần vần điệu hay lập luận, bộ não đang nghi hoặc của tôi nhớ đến tờ giấy ghi chú trong một quyển danh mục tiểu sử, rồi tôi tự nói với bản thân mình: "Cô ấy sinh ra ở Cambridge, cô ấy hai mươi bảy tuổi." Sau đó tôi lại nói: "Hai mươi bảy tuổi, vẫn còn độc thân chưa biết yêu ai." Nhưng làm sao tôi biết cô ấy vẫn còn độc thân? Và rồi cơn ghen đau đớn khiến mọi hoài nghi đều tan biến. Không còn gì nghi ngờ nữa. Tôi ghen; tức là tôi đã yêu rồi. Và người con gái mà tôi phải lòng là Maud Brewster. Tôi, Humphrey Van Weyden, đang yêu đấy! Một lần nữa tôi lại thấy hoài nghi. Không phải tôi sợ hãi, nhưng tôi chưa thật sự sẵn lòng đón nhận nó. Mặt khác, tôi là người theo chủ nghĩa duy tâm đến mức cực đoan, mớ triết lí của tôi luôn công nhận lúc nào cũng tung hô tình yêu như một thứ tuyệt diệu nhất trên cõi đời, tình yêu là mục đích, là đỉnh cao của sự sống, tình yêu là niềm vui và hạnh phúc cực độ mà đời người có thể vì nó mà xúc động, tình yêu được vạn vật ngợi khen, chào đón và giữ trong tim. Nhưng khi nó đã đến thì tôi lại không thể tin được. Tôi làm sao lại may mắn đến thế. Điều này quá tốt để được có thể là hiện thực. Những dòng văn này chợt xuất hiện trong đầu tôi: "Tôi lang thang suốt ngần ấy năm giữa nhiều người phụ nữ để tìm kiếm em. Và rồi tôi không cần tìm nữa." Tôi đã quyết định rồi, thứ tuyệt vời nhất trên thế giới này không dành cho tôi. Furuseth nói đúng; tôi là người lập dị, là một "con quái vật vô cảm," một tên mọt sách tự hài lòng với những xúc cảm của lí trí. Dù ngày nào cũng có nhiều phụ nữ vây quanh tôi, tôi chỉ thưởng thức họ dưới góc độ mĩ học, không còn gì hơn. Nhiều lúc tôi thấy mình giống như một thầy tu yếu đuối phủ nhận sự vĩnh hằng của thứ tình cảm đê mê mà tôi đã nhận thấy và thấu hiểu từ những người xung quanh. Và bây giờ nó đã xuất hiện! Thứ mà tôi không ngờ đến đã xuất hiện không một lời báo trước. Trong trạng thái vui sướng tột cùng, tôi rời khỏi đầu cầu thang rồi sải bước đi dọc boong tàu, vừa đi vừa lẩm bẩm những vần thơ tuyệt đẹp của Bà Browning[2]:

    Tôi sống với ảo mộng về người bạn đời

    Thay vì xem họ là những người đàn ông đàn bà như nhiều năm về trước,

    Và nhận thấy người tri kỉ, tưởng như từng hiểu rõ

    Tôi đang nghe một loại âm nhạc ngọt ngào.

    Tôi đắm chìm trong thứ âm nhạc ngọt ngào của tâm trí đó đến nỗi không thấy gì nữa và lãng quên mọi chuyện xung quanh. Giọng nói sắc bén của Larsen Sói đánh thức tôi.

    "Anh đang làm cái quái gì vậy?" Ông ta gắt hỏi.

    Tôi đã đi lạc đến nơi các thủy thủ đang sơn, chân trước của tôi đang chuẩn bị đá đổ một thùng sơn.

    "Anh đang mộng du, say nắng hay bị cái quái gì thế?" Ông ta hét toáng.

    "Không phải; tôi bị khó tiêu thôi," tôi vặc lại rồi tiếp tục đi như thể chẳng có điều gì vô lí đã xảy ra.

    [1] Dresden là thành phố thủ phủ của Bang tự do Sachsen tại Đức. Thành phố nằm trên một thung lũng ven con sông Elbe, gần biên giới với Cộng hòa Séc

    [2] Elizabeth Barrett Browning (06/03/1806 – 29/06/1861) là một trong những nhà thơ Anh nổi bật nhất của thời đại Victoria. Thơ của bà đã được phổ biến rộng rãi ở cả Anh và Hoa Kì trong cuộc đời của mình.
     
    Nguyễn Ngọc Nguyên thích bài này.
  5. Chanh97hh

    Bài viết:
    73
    Chương 24

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Một trong những đoạn kí ức sinh động nhất cuộc đời tôi chính là những sự kiện xảy ra trong vòng bốn mươi tám tiếng trên con tàu Bóng Ma kể từ thời điểm tôi nhận ra tình yêu của mình dành cho Maud Brewster. Một con người sống cả cuộc đời ở những nơi yên tĩnh, chỉ khi bước vào tuổi ba mươi lăm thì mới bị cuốn vào cuộc phiêu lưu phi lí nhất có thể tưởng tượng ra như tôi vốn chưa từng có trải nghiệm bốn mươi tám tiếng đồng hồ nào đầy rẫy những rắc rối và phấn khích đến vậy. Tôi cũng không thể ngăn mình lắng nghe giọng nói tự hào rằng với mọi thứ đã xảy ra thì cách xử lí của tôi cũng không quá tệ.

    Sự kiện khởi đầu chính là tuyên bố của Larsen Sói với cánh thợ săn vào bữa trưa. Kể từ nay, bọn chúng sẽ phải dùng bữa trong khoang lái. Đó là một sự kiện chưa từng xảy ra trên một con tàu săn hải cẩu. Tại đây, dù không chính thức nhưng bọn thợ săn vẫn được xem là thuộc đội ngũ chỉ huy trên tàu. Ông ta không hề đưa ra nguyên nhân, nhưng động cơ thì đã quá rõ ràng. Horner và Smoke đã quá ga lăng với Maud Brewster, dù những cử chỉ đó đối với cô ấy trông thật lố bịch và vô hại, nhưng trong mắt của Larsen Sói thì cách xử sự đó rất đáng ghét.

    Mọi người yên lặng nghe thông báo, bốn tên thợ săn thì liếc nhìn hai nhân vật vốn là nguyên nhân dẫn đến thông báo trục xuất này. Jock Horner vẫn lặng thinh như thường ngày, khuôn mặt anh ta gần như vô cảm; nhưng mạch máu trên trán Smoke dường như đang sôi sùng sục, anh ta đã mở miệng chuẩn bị nói gì đó. Nhưng đôi mắt ánh cứng rắn của Larsen Sói đang quan sát anh ta, chực chờ anh ta; sau đó Smoke khép miệng lại mà không dám phát biểu gì. "Có ý kiến gì không?" Ông ta hung hăng nói. Đó là một lời thách thức, nhưng Smoke không nhận lời thách thức đó.

    "Phát biểu về vụ gì?" Anh ta vô tội hỏi, câu hỏi đó làm Larsen Sói lúng túng còn những người bạn khác thì mỉm cười.

    "Ồ, không có gì đâu," Larsen Sói chán nản nói. "Tao tưởng mày muốn phản đối."

    "Phản đối chuyện gì?" Smoke bình tĩnh hỏi. Mấy tên bạn của Smoke cười rõ to. Thuyền trưởng đáng lẽ đã giết anh ta, tôi ngờ rằng nếu Maud Brewster không có mặt thì máu đã đổ rồi. Nhờ có sự hiện diện của cô ấy nên Smoke mới được phép hành động như thế.

    Anh ta là một người rất thận trọng và cảnh giác nên không muốn chọc giận Larsen Sói tại thời điểm mà người ta có thể dùng nhiều phương pháp dữ dội hơn là lời nói để giải tỏa phẫn nộ. Tôi đang lo sắp có đánh nhau, nhưng bỗng dưng tiếng hét của người lái tàu vang lên khiến cho cục diện bớt căng thẳng.

    "Có khói!" tiếng hét vang xuống cầu thang dẫn từ boong tàu. "Từ hướng nào?" Larsen Sói gọi vọng lên.

    "Từ phía sau tàu, thưa ông!"

    "Có lẽ nó là tàu Nga," Latimer nói. Lời anh ta khiến bọn thợ săn lo lắng. Tàu Nga là thuật ngữ ám chỉ không điều gì khác ngoài tàu tuần dương. Cánh thợ săn vốn chưa bao giờ nhận thức rõ vị trí của tàu mình đã hiểu rằng Bóng Ma đang đến rất gần vùng biển cấm, Larsen Sói lại là một tên săn trộm khét tiếng.

    Tất cả mọi đôi mắt đều đổ dồn vào ông ta. "Chúng ta chắc chắn sẽ an toàn," ông ta cười trấn an mọi người. "Mày không phải đi đào mỏ muối đâu, Smoke. Nhưng tao nói mày nghe – tao đánh cược một ăn năm rằng đó là tàu Macedonia." Không ai nhận ván cược đó hết, sau đó ông ta nói tiếp: "Dù sao tao dám cá một ăn mười rằng sắp có phiền phức xảy ra."

    "Không, cảm ơn," Latimer nói lớn. "Tôi không khó chịu khi phải mất tiền, nhưng tôi muốn có tiền. Chẳng có lần nào không có phiền phức xảy ra khi ông và anh em của ông tụ họp, tôi sẽ đánh cược một ăn hai mươi." Sau đó anh ta cười, Larsen Sói cũng cười. Bữa ăn diễn ra suôn sẻ nhờ công lao của tôi, trong suốt buổi ông ta đối xử với tôi thật tệ hại, ông ta luôn khinh bỉ và thể hiện thái độ trịch thượng cho đến khi tôi phát run vì phải kiềm chế cơn giận dữ.

    Mặc dù vậy tôi biết mình phải kiềm chế bản thân vì Maud Brewster, tôi đã được đền ơn xứng đáng khi cô ấy vô tình chạm mắt với tôi trong vài giây thoáng qua, đôi mắt cô ấy hệt như đang nói với tôi rằng "Dũng cảm lên, hãy gan dạ lên!" Chúng tôi rời khỏi bàn ăn rồi bước lên boong tàu, con tàu chạy bằng hơi nước phá vỡ sự đơn điệu của mặt biển mà chúng tôi đang lướt băng băng trên đó, niềm tin chắc chắn đó là Larsen Tử Thần và tàu Macedonia làm không khí thêm hào hứng. Cơn gió mạnh và mặt biển dữ dội từ chiều hôm qua đã dịu lại sáng nay, lúc này đã có thể hạ thuyền để phục vụ cho chuyến săn vào buổi chiều.

    Chuyến săn này hẳn sẽ rất hời. Từ sáng chúng tôi đã lái tàu xuyên qua vùng biển vắng và hiện tại đang tiến đến rất gần bầy hải cẩu. Cột khói còn cách xa tới vài dặm, nhưng nhanh chóng cuốn lấy chúng tôi khi hạ thuyền. Khói gần như ngay lập tức bành trướng và bay xuyên qua mặt biển phía bắc.

    Cứ chốc chốc, chúng tôi lại thấy cột buồm hạ thấp, nghe tiếng súng săn nổ, sau đó cột buồm lại dâng cao. Lũ hải cẩu đang tụ tập rất đông, ngọn gió dần mất tăm; mọi thứ đều tạo điều kiện thuận lợi để săn được một mẻ lớn. Khi đang bám được vào phía khuất gió của con thuyền cuối cùng ở phía khuất gió, chúng tôi nhìn thấy đại dương như đang trải một lớp thảm bằng những con hải cẩu say ngủ. Chúng ở rất gần, số lượng đông đúc hơn bao giờ hết, chúng tụ lại thành bầy, có bầy khoảng hai, ba con, hải cẩu phủ hết bề mặt biển và nằm ngủ hệt như những chú chó con lười biếng.

    Dưới làn khói ngày càng đến gần, thân và thân trên của một con tàu chạy bằng hơi nước ngày càng hiển hiện ra rõ ràng hơn. Đó chính là tàu Macedonia. Tôi nhìn thấy tên nó qua ống nhòm khi nó đang cách mạn phải tàu một dặm. Larsen Sói thù hằn nhìn con tàu, còn Maud Brewster thì rất tò mò. "Phiền phức mà ông cam đoan sẽ xảy ra là gì vậy, Thuyền trưởng Larsen?" cô vui vẻ hỏi. Ông ta liếc nhìn cô, cảm xúc thích thú ngắn ngủi khiến cơ mặt ông ta giãn ra. "Cô nghĩ nó là gì nào? Cô nghĩ bọn chúng sẽ lên tàu và rạch nát cổ họng của chúng ta sao?"

    "Những điều tương tự vậy," cô thú nhận.

    "Ông hiểu mà, đối với tôi, săn hải cẩu là một công việc mới mẻ và kì lạ, nên tôi gần như đã chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận mọi thứ."

    Ông ta gật đầu. "Cũng đúng, cũng đúng. Sai lầm của cô chính là không dự tính trước những điều tệ hại nhất."

    "Tại sao, điều gì còn tệ hơn là bị rạch cổ họng chứ?" Cô ngạc nhiên hỏi, trông cô thật đáng yêu và ngây thơ.

    "Đó chính là bị chúng cướp mất tiền," ông ta trả lời. "Ngày nay loài người xác định khả năng sống còn của người đàn ông qua số tiền mà anh ta đang sở hữu."

    "Ai mà cướp ví tiền của tôi thì chỉ cướp được rác rưởi thôi," cô trích dẫn William Shakespeare.

    "Ai mà cướp ví tiền của tôi thì chính là cướp đi quyền được sống của tôi," ông trả lời, "một câu tục ngữ hoàn toàn trái ngược. Giống như cướp đi bánh mì, thịt và giường của tôi, làm như thế thì tôi sẽ bị đẩy vào cảnh nguy hiểm. Sẽ không có đủ quầy phát cháo cứu tế để cô đến xin đâu, khi đàn ông không có tiền trong túi thì họ sẽ chết, chết một cách khổ sở trừ khi họ có khả năng kiếm lại tiền một cách nhanh chóng."

    "Nhưng tôi không nghĩ con tàu này có ý định cướp tiền của ông."

    "Hãy chờ đi rồi cô sẽ thấy," ông dứt khoát trả lời.

    Chúng tôi cũng chẳng phải chờ quá lâu. Sau khi vượt mặt hàng thuyền của chúng tôi vài dặm, tàu Macedonia bắt đầu hạ thuyền. Chúng tôi biết tàu đó chở mười bốn con thuyền trong khi chúng tôi chỉ có năm con (chúng tôi mất một con do Wainwright đã cướp đi để tẩu thoát), tàu bắt đầu thả thuyền xuống vị trí cách xa hướng khuất gió của con thuyền cuối cùng của chúng tôi, và liên tục thả thuyền ngang đường đi của tàu chúng tôi, chiếc thuyền cuối cùng tàu Macedonia thả xuống khá xa ở hướng ngược gió so với con tàu đầu tiên nằm ở hướng đón gió của chúng tôi. Chuyến đi săn này xem như hỏng bét. Sau lưng chúng tôi chẳng có con hải cẩu nào cả, còn trước mặt chúng tôi là một dãy mười bốn con thuyền xếp hàng như một cây chổi lớn càn quét hết bầy hải cẩu phía trước.

    Thuyền của chúng tôi săn hải cẩu dọc hai hoặc ba dặm biển giữa họ và nơi thuyền con của tàu Macedonia hạ thủy, rồi về tàu mẹ. Gió lặng dần, mặt biển êm dịu trở lại, và một đàn hải cẩu lớn trước mắt. Tất cả những yếu tố cần để tạo nên một ngày đi săn hoàn hảo – chỉ có hai, hoặc ba ngày như thế trong suốt cả mùa. Đám thủy thủ chèo thuyền, lái thuyền cũng như thợ săn giận dữ chèo trở về. Tên nào cũng cảm thấy mình vừa bị cướp, những chiếc thuyền được kéo lên giữa những tiếng nguyền rủa, nếu như những lời nguyền rủa ấy có sức mạnh, hẳn Larsen Tử Thần đã bị "chết và nguyền rủa tới vĩnh cửu" như lời Louis rên rỉ, đôi mắt anh ta hấp háy nhìn tôi khi anh thôi không kéo thanh giằng thuyền.

    "Hãy nghe mà xem, xem thử điều gì thực sự nằm trong cốt tủy của chúng." Larsen Sói nói. "Niềm tin, tình yêu và lí tưởng cao cả ư? Hay những điều tốt lành, cái đẹp và chân lí?"

    "Bản tính hướng thiện của họ không còn," Maud Brewster nói. Cô ấy đang đứng cách tôi hơn chục thước, một tay đặt lên dây thừng chằng cột buồm, cơ thể lắc lư nhẹ nhàng theo nhịp di chuyển của con tàu. Cô ấy không lên giọng, vậy mà tôi vẫn bị ấn tượng bởi âm thanh trong trẻo và rõ ràng. Giọng nói ấy với tôi thật ngọt ngào. Tôi không dám nhìn cô ấy lúc đó, sợ rằng mình sẽ không kiềm chế nổi mình. Cái mũ thiếu niên cô ấy đang đội, mái tóc màu nâu nhạt, buộc hờ và óng ả trong nắng như một quầng sáng bao lấy khuôn mặt hình ovan của cô ấy. Cô ấy thực sự khiến tôi mê mẩn, thậm chí là tôn thờ sự ngọt ngào thánh thiện ấy. Tất cả những khoảng khắc kì diệu đã qua trong đời đột nhiên sống lại trong tôi ngay giây phút ấy. Lời giải thích lạnh lùng của Larsen Sói về cuộc đời và ý nghĩa của nó trở nên vô lí và nực cười.

    "Một kẻ ủy mị," ông ta chế nhạo "giống như ngài Van Weyden đây. Những kẻ đó đang nguyền rủa vì ước vọng của chúng bị tước đoạt trắng trợn. Có vậy thôi. Mà ước vọng đó là gì? Là có một miếng ăn ngon, một cái giường êm ái trên đất liền, là rượu và đàn bà sau những lần nhận xấp lương dày, nhét cho đầy cái bụng và thỏa mãn những ham muốn thú tính là cách tốt nhất để chúng thể hiện mình, là những điều tốt nhất, là nguyện vọng lớn nhất, là lí tưởng của chúng. Cách mà chúng biểu lộ cảm xúc không phải một hình ảnh đẹp đẽ và cảm động, nhưng lại bộc lộ cách chúng xúc động, bởi động đến miếng cơm là động đến linh hồn chúng."

    "Ông cư xử như thể không phải miếng cơm của ông bị cướp mất." Cô ấy mìm cười và nói.

    "Đúng là tôi cư xử khác, ngay cả khi miếng cơm và linh hồn tôi bị xúc phạm. Theo mức giá da hiện tại ở thị trường London và số lượng hải cẩu có thể săn được chiều nay nếu không bị bọn Macedonia nẫng mất, Tàu Bóng Ma đã mất khoảng một ngàn năm trăm đô la."

    "Lời nói của ông rất bình tĩnh." Cô ấy tiếp lời.

    "Nhưng tôi không cảm thấy bình tĩnh, tôi đã có thể giết chết kẻ dám nẫng tay trên của tôi." Ông dừng lại. "Đúng, tôi biết, kẻ đó là anh trai tôi, càng nhiều xúc cảm ủy mị hơn nhỉ." Mặt ông ta đột ngột thay đổi, giọng nói bớt khắc nghiệt và hoàn toàn chân thành.

    "Các người hẳn rất hạnh phúc, những kẻ ủy mị, thực sự hạnh phúc khi mơ đến và tìm thấy những điều tốt lành, bởi khi các người tìm thấy những điều tốt ấy, các người sẽ cảm thấy sự lương thiện trong mình. Giờ nói cho tôi biết, hai người có thấy tôi tốt không?"

    "Ông tốt về một mặt nào đó." Tôi đánh giá.

    "Ông có đủ mọi quyền năng để làm một người tốt." Maud Brewster đáp.

    "Cô đấy," ông ta kêu lên, nửa như giận dữ. "Những lời cô nói thật vô nghĩa với tôi. Chẳng có gì rõ ràng, nhạy bén hay dứt khoát trong lời cô vừa nói. Cô không thể cẩm lấy nó và nhìn thẳng vào nó. Đúng ra, nó còn chẳng phải một ý nghĩ. Đó là cảm giác, một xúc cảm, là điều gì đó sinh ra từ những ảo tưởng, không phải một sản phẩm của trí tuệ." Ông ta tiếp tục nói, giọng nhỏ dần với một thoáng tự tin trong lời nói. "Cô biết không, đôi khi tôi ước, mình có thể bịt mắt trước sự thật phũ phàng của cuộc đời, chỉ nhìn thấy những huyễn hoặc và ảo tưởng. Chúng đều sai, rất sai, và dĩ nhiên, đối nghịch với những lí lẽ, nhưng đối diện với cuộc đời, lí lẽ cho tôi thấy, thật sai lầm khi nghĩ rằng mơ tưởng và sống với những ảo vọng thì sẽ hạnh phúc hơn. Sau cùng, niềm vui thú là thứ cuộc đời trả công cho con người. Không có nó, cuộc sống chỉ là những chuỗi dài vô nghĩa. Lao động để sống và được trả công còn tệ hơn là chết. Những người sống với niềm vui thú cực đỉnh là những người sống một cuộc đời đáng sống. Những mơ tưởng thiếu thực tế ít gây phiền toái và mang lại sự thỏa mãn cho cô cũng như sự thật đem lại sự thỏa mãn cho tôi." Ông ta chậm rãi lắc đầu, cân nhắc.

    "Tôi thường nghi ngờ sự cần thiết của lí trí. Những giấc mơ hẳn là quan trọng và thỏa mãn hơn. Thú vui xúc cảm thường tràn đầy và kéo dài hơn niềm vui trí tuệ. Thêm nữa, người ta phải trả giá cho niềm vui trí tuệ bằng việc trải qua nỗi buồn. Dư âm của thú vui cảm xúc chẳng có gì khác ngoài sự mệt lử, thứ sẽ phục hồi rất nhanh. Tôi ghen tị với các người đó." Ông ta đột ngột dừng lại, một nụ cười kì quặc hiện trên khuôn mặt, rồi nói thêm "Hãy nhớ là trí não của tôi ghen tị, chứ không phải trái tim tôi. Lí trí của tôi điều khiển nó. Ghen tị là sản phẩm của trí tuệ. Tôi giống như người tỉnh táo đang nhìn vào kẻ say rượu, mệt mỏi mà ước ao rằng mình cũng đang say."

    "Hay giống như người đàn ông khôn ngoan đang nhìn vào những kẻ ngốc và ước rằng anh ta cũng ngốc như họ." Tôi cười.

    "Gần như thế," ông ta nói. "Hai người quả là may mắn, những kẻ ngốc không một xu dính túi. Hai người đâu cần quan tâm đến thực tế cuộc sống đâu."

    "Vậy mà chúng tôi chi tiêu cũng thoải mái như ông vậy." Maud Brewster góp thêm.

    "Còn thoải mái hơn ý chứ, vì hai người đâu mất gì."

    "Bởi vì nguồn cung của chúng tôi là vĩnh cửu." Cô nói.

    "Những điều cô cô làm hay nghĩ rằng mình làm đều thế thôi. Cô tiêu cái mà cô không có và nhận được nhiều hơn so với những gì tôi nhận được khi tôi tiêu cái mình có và những thứ tôi đã đổ mồ hôi để có được."

    "Tại sao không thay đổi loại tiền của mình," cô trêu chọc. Ông ta liếc nhìn cô, nửa như hi vọng, rồi nói trong tiếc nuối: "Quá muộn rồi, tôi đã từng muốn làm nhưng không thể. Ví của tôi đầy những đồng tiền kiểu cũ và nó rất cứng đầu. Tôi chẳng bao giờ có thể khiến mình nhận ra giá trị của thứ gì khác." Ông ta ngừng nói, ánh mắt lơ đãng nhìn cô rồi chìm trong mặt biển ôn hòa. Nỗi u sầu nguyên thủy chiếm hữu, khiến ông ta run rẩy. Lí trí khiến ông ta cột chặt mình trong nỗi buồn. Trong một vài giờ đồng hồ, người ta có thể nhìn thấy phần ác quỷ hiện lên và khuấy đảo trong ông ta. Tôi nhớ đến Charley Furuseth và biết rằng nỗi buồn của ông ta là cái giá phải trả giống như những kẻ theo chủ nghĩa vật chất phải trả cho chủ nghĩa vật chất của mình.
     
    Nguyễn Ngọc Nguyên thích bài này.
  6. Chanh97hh

    Bài viết:
    73
    Chương 25

    Bấm để xem
    Đóng lại
    "Ông vừa lên boong tàu phải không ông Van Weyden?" Larsen Sói hỏi tôi trong bữa sáng ngày hôm sau. "Trời hôm nay thế nào?"

    "Trời quang," tôi đáp rồi liếc nhìn ánh nắng xuyên qua cửa thang để mở. "Gió nhẹ từ hướng tây, có thể mạnh lên, nếu Louis đoán đúng."

    Ông ta gật đầu hài lòng. "Có sương mù không?"

    "Sương dày đặc ở phía Bắc và Tây Bắc." Ông ta gật đầu còn hài lòng hơn cả lúc trước.

    "Còn tàu Macedonia?"

    "Tôi không thấy nó." Tôi đáp.

    Khuôn mặt ông ta đột nhiên biến sắc, nhưng ông ta thất vọng vì điều gì thì tôi không thể đoán được.

    Nhưng rồi mọi chuyện sớm sáng tỏ.

    "Có khói!" tiếng kêu từ trên boong khiến khuôn mặt ông ta trở nên rạng rỡ.

    "Tốt rồi," ông ta kêu lên và ngay lập tức rời bàn ăn để đi lên boong tàu, chui vào buồng lái, nơi các thợ săn đang ăn bữa sáng đầu tiên trước chuyến đi săn.

    Maud Brewster và tôi chẳng thể đụng tới chỗ đồ ăn trước mặt mà im lặng nhìn nhau trong lúc cố nghe xem Larsen Sói nói gì. Giọng ông ta vang vọng vào cabin, lọt qua vách ngăn. Ông ta nói khá lâu, và đoạn kết được tán dương nhiệt liệt bởi những tiếng reo hò cổ vũ. Trần vách quá dày nên chúng tôi không nghe rõ những gì ông ta nói nhưng điều đó chắc chắn được những tên thợ săn ủng hộ hết mình, bởi chúng tôi nghe thấy những tuyên ngôn lớn tiếng và la hét vui mừng theo sau tiếng reo hò.

    Từ âm thanh trên boong, tôi biết được các thủy thủ đã được tập trung và chuẩn bị hạ thuyền. Maud Brewster đi cùng tôi lên boong tàu, nhưng tôi để cô ở lại phía sau để cô có thể nhìn mà không phải tham dự vào sự việc.

    Các thủy thủ hẳn biết rất rõ những gì sắp xảy ra. Họ hào hứng bắt tay vào công việc với sự nhanh nhẹn và hồ hởi thấy rõ. Những người thợ săn rảo bước trên boong tàu mang theo súng ngắn, đạn dược và lạ lùng thay, có cả súng trường.

    Súng trường hiếm khi được mang lên thuyền săn bởi bắn hải cẩu bằng súng trường ở cự ly xa có thể khiến chúng chìm xuống biển trước khi thuyền kịp chèo tới vớt. Nhưng hôm nay, tay thợ săn nào cũng mang theo một khẩu súng trường và một hộp đạn lớn. Tôi nhìn thấy họ mỉm cười hài lòng khi thấy cột khói bốc lên từ tàu Macedonia ngày càng cao hơn khi con tàu tiến tới từ phía tây.

    Năm chiếc thuyền săn của tàu chúng tôi nhanh chóng tỏa ra các phía, trải rộng như cánh quạt hướng về phía bắc giống như chiều hôm trước.

    Tôi tò mò nhìn theo nhưng chẳng thể phát hiện ra điều gì bất thường trong hành vi của họ. Các thủy thủ hạ buồm, bắn hải cẩu rồi lại căng buồm, tiếp tục cuộc đi săn giống như bao nhiêu lần trước đó.

    Tàu Macedonia hoạt động giống như chiều hôm trước, "ăn chặn" toàn bộ mặt biển bằng cách thả từng hàng thuyền chắn ngang trước mặt thuyền chúng tôi và chặn cả hướng đi. Mười bốn con thuyền chiếm một khoảng không rộng lớn để thoải mái săn bắt.

    Sau khi đã thả những hàng thuyền kẹp chặt những con thuyền của chúng tôi, con tàu tiếp tục hướng về phía Đông Bắc và thả thêm thuyền trên đường đi.

    "Có chuyện gì vậy?" Tôi không thể kiềm chế nổi sự tò mò và cất tiếng hỏi Larsen Sói.

    "Ông không cần phải bận tâm chuyện gì đang xảy ra." Ông ta cộc cằn đáp.

    "Chẳng mấy nữa rồi ông sẽ thấy, nhân tiện, hãy cầu nguyện cho trời nổi gió."

    Lát sau, ông ta nói, "Thực ra tôi chẳng hề ngại nói với ông, rằng tôi đang định cho ông anh trai của tôi một bài học. Tóm lại là tôi sẽ chơi tất, không phải chỉ một ngày hôm nay mà là từ giờ cho đến tận cuối mùa – nếu chúng ta may mắn."

    "Nếu không thì sao?" Tôi hỏi.

    "Tôi chưa nghĩ đến chuyện đó," ông ta cười.

    "Đơn giản là chúng ta phải may mắn, hoặc không, chúng ta sẽ tiêu đời."

    Lúc đó, ông ta phải cầm lái nên tôi đi thẳng vào khu cấp cứu của mình ở mũi tàu. Ở đó, có hai gã tàn tật đang nằm, Nilson và Thomas Mugridge.

    Nilson vẫn vui vẻ như mọi khi vì cái chân gẫy của mình được khâu lại ngon lành nhưng gã Cockney thì u sầu và tuyệt vọng. Tôi nhận ra mình cảm thông sâu sắc với kẻ thiếu may mắn đó. Đáng ngạc nhiên là gã vẫn sống, vẫn bấu víu vào cuộc đời. Những năm tháng bạo tàn đã hủy hoại thân thể còm nhom của gã, vậy mà sức sống trong gã vẫn cháy mãnh liệt hơn bao giờ hết.

    "Nếu dùng chân giả – bây giờ họ làm đẹp lắm – anh vẫn có thể làm bếp trưởng chạy khắp tàu tới cuối đời." Tôi hứa hẹn với gã, hơi bông đùa.

    Nhưng hắn trả lời một cách nghiêm túc và long trọng:

    "Tôi không biết ông nghĩ gì, Van Wayden. Nhưng tôi biết chắc một điều là tôi sẽ không bao giờ yên nghỉ chừng nào chưa nhìn thấy con quỉ đó bị giết. Lão không được phép chết sau tôi. Lão ta không đáng hưởng quyền sống. Tôi thề," lão sẽ chết nhục nhã "sau đó tôi sẽ nói trước xác lão," Lạy chúa, sẽ sớm thôi "."

    Tôi quay lại boong tàu và thấy Larsen Sói đang lái tàu bằng một tay. Tay còn lại ông ta cầm cái kính viễn võng và nghiên cứu hiện trạng của những con thuyền, đặc biệt chú tâm đến vị trí của tàu Macedonia. Tôi chỉ thấy một thay đổi đáng chú ý nhất là họ đột ngột cho tàu chạy gần ngược gió và hướng tới vài điểm phía Tây Bắc.

    Tôi vẫn không hiểu nổi ý đồ của những thay đổi vừa diễn ra. Vùng biển trống phía trước bị chiếm bởi năm con thuyền của Macedonia, những con thuyền nằm ở hướng đón gió và cũng chạy gần ngược chiều gió. Nhưng chúng chầm chậm đi lệch về hướng tây, càng lúc càng xa với đoàn thuyền còn lại.

    Những con thuyền của chúng tôi vừa chèo vừa giương buồm. Cả các thợ săn cũng chèo. Với ba đôi mái chèo chạy đua trên mặt biển, chúng tôi nhanh chóng đuổi kịp bọn chúng, những kẻ mà tôi đáng ra phải gọi là kẻ thù.

    Ống khói tàu Macedonia thu lại dần thành những đốm mờ ở chân trời phía Đông Bắc. Hình bóng con tàu tan vào vùng biển mênh mông. Lúc này, tàu của chúng tôi vẫn chạy lòng vòng, những cánh buồm của chúng tôi rung lắc trên cao để lọt gió, chúng tôi đã phải dừng tàu tới lại mất một lúc tới. Rồi tàu bắt đầu chuyển hướng, dây lèo buồm được kéo căng, Larsen Sói điều khiển tàu chạy hết tốc lực. Chúng tôi lướt qua hàng thuyền của mình và dừng lại gần chiếc đầu tiên trong hàng thuyền Macedonia.

    "Hạ cánh buồm phụ rời đó xuống, anh Van Weyden," Larsen Sói ra lệnh cho tôi. "Rồi đứng đó và canh buồm." Tôi chạy lên trước và nhanh chóng kéo buồm xuống ngay khi tàu của chúng tôi lướt qua chiếc thuyền đang nằm cách cả ba mươi mét phía sườn khuất gió. Ba người đàn ông trên thuyền cảnh giác ngước nhìn chúng tôi. Họ biết họ đã ăn chặn và cái tên Larsen Sói hẳn đã quá quen thuộc.

    Tôi thấy một gã Bắc Âu to lớn ngồi trên thuyền, súng trên tay đã chuẩn bị sẵn sàng trên đầu gối mình. Khẩu súng lẽ ra nên được đặt ngay ngắn trên giá. Khi chúng tôi đứng đối diện với chúng, Larsen Sói vẫy tay chào và kêu lên:

    "Mời các vị lên tàu để chúng ta có thể" xả hơi "một lúc."

    "Xả hơi" ở đây, với dân đi biển có nghĩa là "thăm tàu" hay "nói chuyện phiếm." Nó là cách giải trí để đối phó với sự đơn điệu đến nhàm chán của những ngày trên biển.

    Tàu Bóng Ma rung lắc trong gió, tôi làm xong việc ở buồm mũi đúng lúc để chạy về khoang sau tới chỗ dây lèo cột buồm chính.

    "Mời cô ở lại trên tàu, cô Brewster," Larsen Sói nói khi chuẩn bị gặp gỡ các vị khách. "Cả ông nữa, ông Van Weyden."

    Con thuyền hạ buồm và chạy song song. Tên thợ săn với bộ râu vàng óng như những vị vua của biển cả bước qua lan can và trèo lên tàu. Bộ dáng to lớn không che giấu được nỗi sợ hãi của hắn. Khuôn mặt hắn lộ rõ sự bối rối và hồ nghi. Nhưng sau khi liếc thấy trên tàu chỉ có tôi và Larsen Sói, rồi quay lại nhìn hai người phe hắn đang cùng bước lên tàu, người đàn ông nén tiếng thở phào. Chắc hắn thấy chẳng có lí do gì để lo lắng. Đứng trước Larsen Sói, hắn cao chót vót như Goliath[1] với chiều cao hai mét bảy hay hai mét mười và nặng tới một trăm linh tám cân – thông tin này sau này tôi mới biết. Người hắn săn chắc, không một chút mỡ thừa, chỉ có cơ và xương.

    Khi Larsen Sói mời hắn bước xuống khoang, nỗi e ngại lại hiện lên trên khuôn mặt hắn. Nhưng hắn tự trấn an khi nhìn xuống vị chủ nhà, cũng là một gã to con, nhưng chẳng khác gì người lùn khi đứng bên cạnh hắn. Vậy là nỗi băn khoăn tan biến. Hai người bước xuống cabin.

    Cùng lúc đó, hai gã thủy thủ đi cùng cũng đi về phía mũi tàu theo thói quen để quan sát.

    Từ trong cabin đột ngột vang lên tiếng la hét nghẹt thở, tiếp đó là âm thanh của một cuộc đụng độ dữ dội. Cuộc chiến của báo và sư tử, nhưng chỉ có con sư tử là rên la dữ tội. Larsen Sói là báo.

    "Cô nghe xem, chúng ta đón tiếp những vị khách mới long trọng làm sao." Tôi cay đắng nói với Maud Brewster.

    Cô gật đầu đồng tình và tôi thấy trên mặt cô tái hiện lại nỗi kinh hoàng khi chứng kiến sự bạo lực mà tôi đã trải qua trong hãi hùng suốt những ngày đầu tiên đặt chân lên Tàu Bóng Ma.

    "Tôi nghĩ tốt hơn là cô nên đi ra khoang lái và ở đó cho đến khi mọi chuyện kết thúc." Tôi gợi ý.

    Cô lắc đầu và nhìn tôi đầy thương hại. Cô không hề sợ hãi mà chỉ cảm thấy ghê tởm những hành vi thú tính.

    "Rồi cô sẽ hiểu."

    Tôi cố gắng giải thích, "tôi có tham gia vào bất kì phần nào trong những việc đang diễn ra và sẽ diễn ra cũng là vì tôi bắt buộc phải làm thế. Để có cơ hội giữ mạng sống cho tôi và cô để thoát khỏi cái mớ bòng bong này. Tôi chẳng thích thú gì với nó." Tôi nói thêm.

    "Tôi hiểu," cô đáp lại, giọng yếu ớt và xa xăm. Qua đôi mắt, tôi biết cô hiểu những điều tôi vừa nói.

    Những âm thanh từ cabin lặng dần. Rồi Larsen Sói bước lên boong một mình.

    Trông ông ta chẳng có chút dấu hiệu nào của cuộc vật lộn, ngoại trừ vài vết đỏ tấy lên trên làn da như đồng thau.

    "Gọi hai tên kia vào đây, anh Van Weyden," ông ta nói.

    Tôi làm theo, và chỉ một hay hai phút sau, hai gã đó đã đứng trước mặt ông ta.

    "Kéo thuyền của các người lên," ông ta nói với họ. "Thợ săn của các vị đã đồng ý ở lại trên tàu và không muốn thuyền trôi nổi ở bên dưới."

    "Tôi nói là kéo thuyền lên," ông ta nhắc lại, giọng đanh thép khi hai tên thủy thủ lưỡng lự chưa chịu làm theo lời mình.

    "Ai mà biết được, có khi chúng ta lại cùng đội cùng thuyền ấy chứ." Ông ta hạ giọng, lời nói nhẹ nhàng nhưng đầy hăm dọa. Những tên thủy thủ chậm chạp làm theo lời ông ta.

    "Chúng ta nên bắt đầu hiểu nhau thì hơn. Nhanh tay lên. Làm việc với Larsen Tử Thần các người nhanh nhẹn hơn thế nhiều cơ mà."

    Hai tên thủy thủ nhanh tay làm theo dưới con mắt giám sát của ông ta. Ngay khi thuyền được kéo lên, ông ta nói tôi thả buồm. Larsen Sói tiếp tục điều khiển tàu tiến sát đến con thuyền thứ hai của tàu Macedonia.

    Trên đường đi, tôi tận dụng thời gian rảnh rỗi rà soát lại tình hình. Con thuyền thứ ba của tàu Macedonia bị tấn công bởi hai chiếc thuyền của chúng tôi. Chiếc thứ tư bị bao vây bởi ba thuyền còn lại. Thuyền thứ năm đang cố gắng giúp con thuyền gần nó chống cự lại cuộc tấn công. Cuộc vật lộn xảy ra phía xa, tiếng súng vang lên đều đặn. Mặt biển yên ả bỗng dưng nổi sóng bởi những cơn gió mạnh. Với thời tiết như thế, những trận đấu súng khó có thể diễn ra. Khi tàu tiến đến gần, chúng tôi có thể thấy những viên đạn sượt qua những đợt sóng.

    Con thuyền chúng tôi đang đuổi theo đã chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc trốn chạy. Nó lao nhanh trong gió theo hướng tránh khỏi cuộc tấn công của chúng tôi.

    Việc canh chừng các dây lèo và đinh cột dây buồm khiến tôi có ít thời gian để nhìn xem chuyện gì đang xảy ra, nhưng tôi tình cở đứng ở bục đuôi khi Larsen Sói ra lệnh cho hai tên thủy thủ mới lên tàu đi vào khoang mũi. Chúng cau có, nhưng vẫn nghe lời.

    Ông ta tiếp tục ra lệnh cho Brewster đi xuống, nở nụ cười khi nhìn thấy nỗi kinh hoàng hiện lên trong mắt cô.

    "Không có gì kinh khủng dưới đó đâu. Chỉ là một gã đàn ông không bị thương được cố định bằng vòng thép. Đạn có thể lạc trên boong tàu và tôi không muốn cô trúng đạn, thế thôi."

    Ông ta vừa dứt lời, một viên đạn chệch hướng bay vào giữa những ngón tay của ông ta, sượt qua tay quay bằng đồng của bánh lái và rít lên trong gió.

    "Cô thấy chưa," ông ta nói với cô, rồi quay sang tôi. "Anh Van Weyden, nhờ anh cầm lái."

    Maud Brewster bước vào bên trong cửa thang xuống cabin, chỉ để đầu hở ra ngoài. Larsen Sói tìm được khẩu súng trường và bắt đầu nạp đạn. Tôi nhìn cô cầu khẩn, mong cô đi xuống nhưng cô cười đáp lại.

    "Có thể chúng tôi là những sinh vật đất liền yếu đuối, nhưng tôi có thể cho thuyền trưởng Larsen thấy, ít ra tôi cũng gan dạ như ông ta."

    Ông ta nhìn cô tỏ vẻ thán phục.

    "Tôi ngưỡng mộ cô hơn thế nhiều." Ông ta nói, "sách vở, trí tuệ và lòng can đảm. Cô là hình mẫu hoàn hảo để làm vợ một thuyền trưởng đấy. Thôi, chuyện đấy ta bàn sau," ông ta cười. Tôi nhìn thấy mắt ông ta ánh lên tia sáng vàng và nỗi kinh hoàng hiện rõ trên khuôn mặt cô.

    "Chúng tôi là những kẻ can đảm." Tôi hấp tấp nói. "Ít nhất, tôi biết mình can đảm hơn thuyền trưởng Larsen." Lần này đến lượt tôi nhận lấy cái liếc nhìn của ông ta. Ông ta đang băn khoăn không biết liệu tôi có đang chế nhạo ông. Tôi xoay bánh lái vài vòng để tránh con tàu đi chệch theo hướng gió rồi cố định nó. Larsen Sói vẫn đang chờ lời giải thích của tôi. Tôi chỉ xuống chỗ đầu gối.

    "Ông xem nhé." Tôi nói và khẽ run lên. "Vì tôi sợ hãi nên cơ thể tôi cũng sợ hãi, tâm trí tôi sợ hãi bởi tôi không muốn chết. Nhưng ý chí của tôi chống lại nỗi sợ hãi từ bên trong cơ thể. Còn hơn cả can đảm, tôi thấy mình dũng cảm.

    Cơ thể ông không sợ hãi. Ông cũng không sợ. Một mặt, ông chẳng mất gì khi đối mặt với nguy hiểm, mặt khác, sự hiểm nguy còn mang lại cho ông niềm thích thú. Có thể ông không sợ hãi, ông Larsen, nhưng ông phải công nhận rằng, tôi mới là người dũng cảm."

    "Anh nói đúng," ông ta đồng ý ngay tức khắc. "Tôi chưa bao giờ nghĩ về chuyện này theo cách đó. Nhưng điều ngược lại thì có đúng không? Nếu anh can đảm hơn tôi, liệu tôi có nhát gan hơn anh không?"

    Chúng tôi cùng phá lên cười. Sau đó, ông ta nằm xuống boong và đặt khẩu súng lên lan can. Viên đạn chúng tôi nhận được bắn từ cách đó một dặm, nhưng giờ khoảng cách đó chỉ còn nửa dặm. Ông ta bắn ba phát súng một cách cẩn trọng. Phát đầu tiên đi chệch khoảng mười lăm mét so theo hướng gió, phát thứ hai bắn vào mạn thuyền, phát thứ ba bắn trúng tên lái tàu, khiến hắn bỏ bánh lái và ngã nhào xuống đuôi thuyền.

    "Xem ra thế đủ rồi." Larsen Sói nói, rướn người lên. "Tôi không thể để tên thợ săn trúng đạn, và không chừng đứa chèo thuyền không biết lái. Nếu đúng thế, tên thợ săn không thể vừa lái thuyền vừa ngắm bắn được." Ông ta nói đúng, bởi ngay lập tức, con thuyền ngay lập tức lao vút vào gió, tên thợ săn nhảy vào vị trí lái thuyền. Không còn loạt đạn bay vèo vèo mặc dù tiếng súng vẫn vang lên ở những thuyền bên cạnh.

    Tên thợ săn đã điều khiển được thuyền trước khi gió nổi lên, nhưng chúng tôi đã tiến sát gần nó, chỉ cách khoảng hơn nửa mét. Cách đó ba mươi mét, tôi đã nhìn thấy thủy thủ chèo thuyền đưa khẩu súng trường cho tên thợ săn. Larsen Sói đi đến giữa tàu và nhấc lấy cuộn dây nâng buồm ra khỏi móc cố định. Sau đó, ông ta đưa khẩu súng đã lên nòng ra ngắm bắn. Hai lần tôi nhìn thấy tên thợ săn thả một tay lái thuyền ra để với lấy khẩu súng rồi lại lưỡng lự. Tàu của chúng tôi giờ đã áp sát thuyền.

    "Mày đây rồi." Larsen Sói kêu lên với thủy thủ chèo thuyền.

    "Quay thuyền lại," vừa nói ông ta vừa ném cuộn dây về phía thủy thủ chèo thuyền, cuộn dây đập trúng người làm hắn suýt ngã nhưng hắn không làm theo mà quay ra nhìn tên thợ săn chờ chỉ thị. Đến lượt mình, tên thợ săn bối rối và khó xử. Hắn đang kẹp chặt khẩu súng giữa hai chân nhưng nếu hắn rời bánh lái để bắn, con thuyền sẽ quay ngang rồi va vào tàu. Hắn cũng nhìn thấy khẩu súng của Larsen Sói đang chĩa vào hắn và biết rằng hắn chẳng có đủ thời gian mà xoay sở với khẩu súng trước khi bị bắn.

    "Quay thuyền lại," hắn hạ giọng nói với tên giữ thuyền. Tên kia làm theo.

    Con thuyền khựng lại rồi tên thợ săn giữ thuyền song song và cách khoảng bảy mét rưỡi bên mạn tàu.

    "Giờ hạ buồm xuống và lên tàu." Larsen Sói ra lệnh.

    Ông ta vẫn nắm chặt khẩu súng, dùng một tay ném dây móc qua. Khi đã sẵn sàng để lên tàu, tên thợ săn với lấy khẩu súng như thể định cất nó vào vị trí an toàn. "Bỏ súng xuống," Larsen kêu lên. Tên thợ săn ngay lập tức thả súng xuống nhanh như thể bị bỏng.

    Khi bước lên tàu, hai gã tù nhân cột thuyền lại theo mệnh lệnh của Larsen Sói và đưa thủy thủ lái thuyền đã bị thương lên khoang mũi tàu.

    "Nếu cả năm tàu của tôi đều làm được như tôi và anh, chúng ta sẽ có một đội hùng hậu." Larsen Sói nói với tôi.

    "Người đàn ông bị ông bắn trúng thì sao? Tôi mong là?" Maud Brewster băn khoăn.

    "Hắn bị thương ở vai," ông ta trả lời.

    "Không có gì nghiêm trọng đâu. Anh Van Weyden sẽ mang hắn vào và chăm sóc cho hắn. Hắn sẽ lành lặn trong ba hoặc bốn tuần tới."

    "Nhưng trông có vẻ gã kia thì không." Ông ta vừa nói vừa chỉ vào con thuyền thứ ba của Macedonia, giờ đang đi ngang tàu của chúng tôi.

    "Thành quả của Horner và Smoke đó. Tôi đã nói với chúng rằng tôi muốn người sống, chứ không phải những cái xác thế này. Nhưng việc bắn và bắn trúng là thú vui khó cưỡng, nhất là khi người ta biết cách bóp cò. Anh đã thử chưa, anh Van Weyden?"

    Tôi lắc đầu và đưa mắt nhìn tàn tích Smoke bỏ lại. Hẳn đã xảy ra một cuộc chiến đẫm máu và giờ thuyền thứ ba đã bị kéo lại và nhập vào đoàn ba thuyền của chúng tôi để tấn công hai thuyền còn lại của Macedonia.

    Con thuyền trống đang nằm trên hõm sóng sâu, xoay vô định theo mỗi đợt sóng, cánh buồm buông thõng bên mé phải và bay phần phật trong gió. Thợ săn và thủy thủ chèo thuyền đều nằm còng keo ở đuôi thuyền còn tên thợ lái thì nằm vật ra ở mép thuyền, nửa người treo lơ lửng dưới nước, cánh tay hắn trôi lập lờ theo dòng nước còn cái đầu thì lăn qua lăn lại.

    "Đừng nhìn, cô Brewster, xin đừng." Tôi cầu khẩn và may mắn là cô đã để ý đến lời tôi và quay đi chỗ khác.

    "Tiến sát gần thuyền đi anh Van Weyden." Larsen Sói ra lệnh.

    Khi chúng tôi lại gần, tiếng súng đã ngớt và cuộc tranh đấu đã ngã ngũ. Hai thuyền còn lại bị năm thuyền của chúng tôi bắt trọn. Cả bảy con thuyền đang chờ được đưa lên tàu.

    "Nhìn kìa," tôi vô thức kêu lên khi nhìn thấy những cột khói từ tàu Macedonia hiện ra.

    "Tôi biết rồi," Larsen Sói bình tĩnh đáp. Ông ta ước lượng khoảng cách với khối sương mù rồi dừng lại một lát để cảm nhận sức gió đang thổi trên mặt. "Tôi nghĩ chúng ta sẽ làm được, nhưng phải xem người anh trai quý hóa của tôi có muốn tham gia vào trò chơi này không, hay chỉ làm tôi thấy thất vọng. À, nhìn xem." Cột khói từ tàu Macedonia đột nhiên lớn dần rồi chuyển sang màu đen.

    "Ta sẽ đánh bại ngươi, người anh em." Ông ta cười khoái trá. "Ta sẽ đánh bại nhà ngươi, hi vọng ngươi không tệ đến nỗi biến cả con tàu thành đống sắt vụn."

    Khi chúng tôi kéo thuyền lên, tiếng ra lệnh ào ào khắp nơi. Những con thuyền ngay lập tức được kéo lên từ các phía. Trong khi các thủy thủ cột thuyền, những tên tù nhân nhanh chóng bị dẫn vào khoang mũi. Chúng bị giữ ở bất cứ chỗ nào có thể trên boong và không ngừng nghe tiếng mắng chửi. Chúng tôi đã sẵn sàng, tất cả buồm đã được hạ, dây lèo chùng xuống để đón gió và chiếc thuyền cuối cùng đã được kéo lên, đung đưa trên mặt nước.

    [1] Goliath: Người khổng lồ trong Kinh Thánh.
     
    Nguyễn Ngọc Nguyên thích bài này.
  7. Chanh97hh

    Bài viết:
    73
    Chương 26

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Chúng tôi đang rất khẩn trương. Tàu Macedonia hiện ra từ hướng đông bắc với ống khói đang nhả ra cột khói đen ngòm, đang đuổi theo chúng tôi. Nó đổi hướng để đón đầu chúng tôi, bỏ lại cả đoàn thuyền phía sau. Nhưng thay vì lao thẳng về phía chúng tôi, nó đón đầu xa phía trước. Hướng chạy của hai tàu sẽ tụ lại thành một góc, với đỉnh góc nằm ngay rìa của khối sương mù. Tàu Macedonia định bắt chúng tôi ở nơi như có như không đó.

    Cơ hội duy nhất của tàu Bóng Ma là vượt qua điểm đó trước tàu Macedonia.

    Larsen Sói đang cầm lái, mắt ông ta hấp háy và chớp liên tục khi phải tập trung vào từng chi tiết của cuộc rượt đuổi. Lúc này ông ta đang nghiên cứu biển để dự đoán gió sẽ nhẹ hay mạnh lên; lúc thì mắt ông ta nhìn tàu Macedonia, lúc thì nhìn tất cả các cánh buồm, xong ông ta ra lệnh nới dây lèo chỗ này một chút, túm lại chỗ kia một tí để tàu đạt tốc độ tối đa. Chẳng ai nhớ tới xích mích hận thù gì nữa, tôi kinh ngạc nhìn những người bị ông ta hành hạ tàn nhẫn bấy lâu nay răm rắp làm theo lệnh của ông ta. Nói ra cũng lạ, khi chúng tôi đang nhấp nhô theo con sóng, tôi bỗng nghĩ đến Johnson bất hạnh, cảm giác tiếc nuối trước sự ra đi và thiếu vắng anh ta hiện lên rõ rệt; anh ta từng rất yêu mến tàu Bóng Ma và tự hào với khả năng đi biển của nó.

    "Các anh chuẩn bị sẵn súng đi." Larsen Sói nói với các thợ săn; năm người đàn ông liền đứng xếp hàng bên phía lan can khuất gió chờ đợi với súng sẵn trong tay.

    Tàu Macedonia chỉ còn cách chúng tôi chừng một dặm, khói đen vẫn nhả từ ống khói bên góc phải, nó chạy điên cuồng, phi thẳng qua mười bảy hải lí – "Lướt trên mặt biển" – Larsen Sói trích dẫn Rufus Fairchild Zogbaum khi nhìn nó. Chúng tôi đi chưa được chín hải lí, nhưng đã tiến thật gần màn sương rồi.

    Một làn khói bốc lên từ boong tàu Macedonia, rồi chúng tôi nghe thấy tiếng súng nổ vang rền và một lỗ tròn hiện lên trên tấm vải bạt buồm chính đang căng ra. Họ bắn chúng tôi bằng khẩu pháo nhỏ người ta đồn rằng họ vẫn đem theo trên tàu. Mọi người tụm lại giữa tàu, vẫy mũ reo hò chế nhạo. Lại một làn khói kèm tiếng nổ lớn, lần này quả đạn pháo bắn đi chưa được sáu mét sau tàu và nảy trên mặt biển hai lần theo hướng gió trước khi chìm xuống.

    Nhưng không có tiếng súng trường nào, vì toàn bộ thợ săn của họ hoặc đang trên thuyền hoặc là tù nhân của chúng tôi. Khi hai con tàu chỉ còn cách nhau nửa dặm, phát bắn thứ ba làm lủng thêm một lỗ trên buồm chính. Rồi chúng tôi tiến vào sương mù. Sương mù khắp mọi nơi, bao phủ và che giấu chúng tôi trong màn sương ẩm dày.

    Sự thay đổi đột ngột thật đáng kinh ngạc. Khoảnh khắc chúng tôi rời khỏi ánh nắng, bầu trời vẫn còn trong xanh, sóng vẫn vỗ và cuộn dài về phía chân trời, và còn có một con tàu đang phun khói lửa cùng đạn sắt, điên cuồng theo phía sau. Rồi lập tức, như một bước nhảy vọt, không còn mặt trời, bầu trời cũng biến mất, ngay cả đỉnh cột buồm cũng không thấy đâu, đường chân trời như bị che đi bởi một tấm kính mờ. Màn sương mù xám xịt rũ xuống chúng tôi như mưa. Mỗi sợi vải quần áo, mỗi sợi tóc hay lông trên mặt đều như được đính một viên pha lê. Hơi ẩm làm ướt cả dây chằng cột buồm; nhỏ thành giọt từ mối buộc dây buồm trên đầu chúng tôi; còn bên dưới mấy thanh sào căng buồm, nước đung đưa thành dòng, rồi tách ra và đổ xuống như mưa theo mỗi đợt nhấp nhô của con tàu. Tôi cảm thấy ngột ngạt, bức bối kì lạ. Màn sương dội ngược lại những âm thanh con tàu tạo ra khi băng qua từng đợt sóng, tựa như suy nghĩ của con người. Tâm trí tôi vẫn bồi hồi trong vẻ đẹp của thế giới bên ngoài tấm màn ẩm ướt đang bao trùm lấy chúng tôi. Đây là thế giới, là vũ trụ, và ranh giới của nó đang ở quá gần tới nỗi thôi thúc người ta vươn cả hai tay ra để đẩy lui chúng trở lại.

    Phần còn lại của thế giới không thể nào lại nằm ở bên ngoài bức tường xám này được. Phần còn lại của thế giới chỉ là một giấc mơ, là kí ức của một giấc mơ mà thôi.

    Lạ quá, thật là lạ quá. Tôi nhìn Maud Brewster và thấy cô ấy cũng bị ảnh hưởng tương tự. Rồi tôi nhìn qua Larsen Sói, nhưng ông ta không hề có chút vẻ lơ đãng nào.

    Toàn bộ sự chú ý của ông ta đều đặt ở thực tế trước mắt. Ông ta vẫn đang cầm bánh lái, có vẻ ông ta đang canh thời gian, ước lượng từng phút trôi qua với mỗi cú nhô lên và hạ xuống của tàu Bóng Ma.

    "Giữ yên lặng, tiến thẳng về trước và chỉnh buồm về mạn khuất gió," ông ta thấp giọng nói với tôi. "Cuốn buồm đỉnh lên trước. Cho người đứng giữ tất cả các dây lèo. Đừng để ròng rọc kêu, cũng không được gây ồn ào. Không một tiếng động, rõ chưa, không một âm thanh nào cả."

    Khi mọi thứ đã sẵn sàng thì câu "chỉnh buồm về mạn khuất gió" được truyền đi từ tôi tới hết người này đến người kia; tàu Bóng Ma xoay hướng mạn trái trong âm thầm, gần như không gây ra tiếng động nào.

    Chút âm thanh như tiếng vỗ chỗ mép buồm hay tiếng cọt kẹt của một hai bánh răng ròng rọc cũng trở nên ma quái dưới màn sương đầy âm vang, trống rỗng đang bao lấy chúng tôi.

    Có vẻ, chúng tôi chẳng đi xa mấy, khi lớp sương mù đột ngột mỏng đi, chúng tôi lại ngập chìm trong ánh nắng, mặt biển mênh mông trải dài trước mặt chúng tôi đến tận chân trời. Nhưng mặt biển hoàn toàn vắng lặng. Không có tàu Macedonia đầy giận dữ đang xé toạc mặt biển hay nhả khói đen đầy trời nữa.

    Larsen Sói ngay lập tức hoàn thành nhiệm vụ và cho tàu chạy dọc theo mép khối sương mù. Dự định của ông ta đã lộ rõ. Ông ta sẽ tiến vào trong sương mù, trước con tàu hơi nước, khi tàu hơi nước mù quáng lao theo hòng bắt cho được ông ta, ông ta lại chạy vòng ra khỏi nơi ẩn náu để quay lại lần nữa theo hướng khuất gió. Nếu thành công, anh trai ông ta mò kim đánh biển còn dễ hơn tìm thấy ông ta.

    Ông ta không chạy lâu. Xoay buồm mũi và buồm chính rồi dựng buồm đỉnh lên lần nữa, chúng tôi tiến trở vào màn sương. Tôi thề là lúc tiến vào tôi đã thấy một hình ảnh mờ ảo khổng lồ đang lao theo hướng gió. Tôi liếc vội nhìn Larsen Sói. Màn sương đã vùi lấp chúng tôi, nhưng ông ta vẫn gật đầu. Ông ta cũng nhìn thấy nó – tàu Macedonia, đoán chừng hướng đi của tàu Bóng Ma và trong giây phút lơ là, nó đã đoán sai.

    Rõ ràng là chúng tôi không hề bị phát hiện và đã thoát được.

    "Hắn không thể cứ làm thế mãi," Larsen Sói nói. "Hắn phải quay về chỗ đoàn tàu của hắn. Gọi người đến cầm lái đi anh Van Weyden, tạm thời cứ chạy theo hướng này, và xếp ca trực luôn, tôi sẽ cho tàu chạy suốt đêm."

    "Tôi sẵn sàng bỏ ra năm trăm đô la," ông ta nói tiếp, "chỉ để ở trên tàu Macedonia độ năm phút lúc này, nghe anh trai tôi chửi rủa."

    "Giờ thì, anh Van Weyden," ông ta nói với tôi khi đã buông tay lái, "Hãy tổ chức đón mừng người mới tới. Cứ phục vụ thật nhiều Whisky vào, rồi anh sẽ thấy là chỉ mất vài chai rượu thôi, mai đứa nào cũng đều sẽ về phe tôi, hài lòng săn bắt cho Larsen Sói y như hồi làm việc cho Larsen Tử Thần vậy."

    "Liệu họ có bỏ trốn như Wainwright không?" Tôi hỏi.

    Ông ta thâm thúy cười. "Miễn là thợ săn cũ của tôi không nhắc gì chuyện ấy. Cứ mỗi tấm da do thợ săn mới bắn, tôi lại chia cho đám cũ một đô la. Quá nửa sự hăng hái của chúng hôm nay là do vậy đó. Ồ, không đâu, sẽ không có ai bỏ trốn hết nếu chúng không nói gì về chuyện đó. Thôi anh đi cứu thương đi, phải có cả đoàn đang chờ anh rồi đó." Larsen Sói thay tôi đi phân phát Whisky, những chai rượu xuất hiện khi tôi đang băng bó cho những người mới bị thương ở khoang mũi. Tôi từng thấy cảnh nhậu Whisky rồi, như hồi mấy người ở câu lạc bộ uống Whisky với soda chẳng hạn, nhưng chưa từng thấy ai uống rượu như mấy người này, uống trong chén, trong cốc, và cả trong chai – rót cho đầy tràn, ai ai cũng phóng túng. Hết một, hai chai rồi họ vẫn uống tiếp. Họ cứ uống rồi uống, chai rượu cứ lăn lông lốc còn họ thì càng uống nhiều.

    Mọi người đều uống; những kẻ người bị thương uống; Oofty–Oofty đang phụ tôi băng bó cũng uống. Có mỗi Louis kiềm chế, anh ta chỉ thận trọng nhấp môi một chút, dù cuối cùng anh ta cũng cùng họ chè chén phóng túng y như vậy. Chẳng khác gì lễ hội Saturnalia. Họ ầm ĩ hò hét về cuộc chiến sáng nay, tranh cãi về các chi tiết, hoặc say sưa tình cảm và kết bạn với người họ từng chiến đấu chống lại. Kẻ bắt và kẻ bị bắt nấc cục trên vai nhau, hứa danh dự với nhau sẽ tôn trọng và quý mến nhau. Họ khóc than những khổ đau đã qua và cho khốn khổ sắp tới dưới những luật lệ sắt thép của Larsen Sói. Tất cả họ đều nguyền rủa ông ta và kể những câu chuyện đáng sợ về sự tàn nhẫn của ông ta.

    Cảnh này vừa kì lạ vừa khiếp hãi – trong không gian chật hẹp, nhỏ như chiếc giường ngủ, sàn và vách tàu cứ tròng trành chao đảo, ánh sáng mờ nhạt, những cái bóng lắc lư kéo dài thật dài và rút ngắn trong một điệu nhảy kì quái, không khí nặng trĩu vì khói thuốc, mùi cơ thể và mùi thuốc sát trùng cũng như những khuôn mặt đỏ ối của những người – những kẻ sống mà như chết trong mắt tôi. Tôi để ý thấy Oofty–Oofty, dù tay cầm đầu băng ga rô, mắt lại đang quan sát cảnh xung quanh, đôi mắt anh ta sáng lên trong suốt như mắt nai; dù biết rõ sự ác độc man rợ ẩn nấp bên trong lồng ngực anh ta trái ngược hoàn toàn với vẻ mềm mại, dịu dàng, gần như nữ tính trên gương mặt và bề ngoài của anh ta. Tôi cũng nhận ra nét mặt trẻ con của Harrison, gương mặt từng lương thiện, giờ đây chỉ còn là quỷ dữ, căng lên đầy say mê khi nó nói với những người mới về con tàu địa ngục này và đổ những lời nguyền rủa lên đầu Larsen Sói.

    Larsen Sói thì vẫn là Larsen Sói, kẻ nô dịch và hành hạ mọi người, một nam phù thủy Circe[1] và kia là bầy lợn của ông ta, chúng phải chịu nhịn sự hung ác và khúm núm trước mặt ông ta, chỉ dám nổi dậy trong cơn say xỉn và trong âm thầm. Liệu tôi có phải một trong những con lợn của ông ta không? Tôi tự hỏi. Còn Maud Brewster thì sao? Không! Tôi giận sôi máu, nghiến chặt răng đến nỗi người đang được tôi băng bó kêu rên và Oofty–Oofty tò mò nhìn tôi. Tôi thấy như được ban cho sức mạnh bất ngờ. Tình yêu vừa đến này khiến tôi trở nên phi thường. Không điều gì làm tôi sợ hãi. Tôi sẽ làm theo ý nguyện của bản thân cho tới cùng, mặc kệ Larsen Sói và cả ba mươi lăm năm đèn sách của tôi. Mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp. Tôi sẽ khiến mọi chuyện tốt đẹp. Được tiếp thêm sức mạnh tột bậc từ cảm xúc mạnh mẽ này, tôi quay lưng lại với địa ngục gào thét kia và trèo lên boong tàu đầy sương nhỏ giọt suốt đêm, nơi không khí ngọt lành và yên ắng. Trong buồng lái có hai thợ săn bị thương, cảnh tượng cũng tương tự như trên khoang mũi, chỉ khác là không ai nguyền rủa Larsen Sói; tôi thấy thật nhẹ nhõm khi rời boong tàu, đi về đuôi tàu xuống cabin. Bữa tối đã sẵn sàng, Larsen Sói và Maud đang đợi tôi.

    Trong khi mọi người chung quanh vội lao vào cơn say xỉn, Larsen Sói vẫn tỉnh táo vì không hề nhấp một giọt rượu nào. Ông ta không dám mạo hiểm trong tình cảnh này, vì chỉ tin được mỗi tôi và Louis, mà Louis thì đang cầm lái rồi. Chúng tôi đi xuyên qua màn sương mà không có người nhìn quan sát hướng đi hay đèn đóm. Tôi không ngờ Larsen Sói lại cho mọi người nhậu nhẹt phóng túng, nhưng rõ ràng là ông ta hiểu tâm lí của họ và biết cách nào tốt nhất để hàn gắn sự thân mật sau cơn chém giết. Dường như chiến thắng trước Larsen Tử Thần có ý nghĩa đặc biệt nào đó với ông ta. Đêm trước ông ta còn đắm chìm trong sự chán chường, còn tôi cứ chờ tới lúc ông ta bùng nổ. Vậy mà chẳng có gì xảy ra hết, tâm trạng ông ta giờ vô cùng tốt đẹp. Hẳn là việc ông ta bắt giữ được rất nhiều thợ săn và tàu thuyền đã kiềm hãm lại cách phản ứng thường ngày của ông ta. Dù sao thì ông ta đã hết chán nản, con quỷ chán chường đã không có dịp hiện hình. Lúc đó tôi đinh ninh là vậy; nhưng tôi á? Tôi đâu biết gì nhiều về ông ta hay chuyện lúc ấy, có lẽ ông ta đang ấp ủ một cơn thịnh nộ tồi tệ hơn bất cứ điều gì tôi từng chứng kiến.

    Như đã nói, ông ta đang trong tâm trạng hết sức tốt đẹp khi tôi tiến vào cabin. Mấy tuần gần đây, ông ta không bị đau đầu nữa, mắt ông ta trong xanh như bầu trời, làn da màu đồng đẹp đẽ khỏe mạnh; sức sống căng phồng lại chảy cuồn cuộn trong mạch máu. Ông ta kéo Maud vào một cuộc trò chuyện sôi nổi trong lúc chờ tôi. Họ đang nói về cám dỗ, từ mấy từ loáng thoáng nghe được, tôi đoán ông ta cho rằng cám dỗ chỉ là cám dỗ khi người ta bị nó dụ dỗ và sa ngã.

    "Coi nào," ông ta nói, "theo tôi thì con người làm việc vì dục vọng. Một con người có rất nhiều dục vọng. Có thể là mong muốn không phải chịu đau đớn nữa, hoặc là được hưởng sung sướng. Nhưng dù con người có làm gì, thì cũng làm vì khát khao được làm điều đó."

    "Nhưng giả sử người đó muốn làm hai điều trái ngược nhau, làm điều này thì không thể làm điều kia thì sao?" Maud xen vào.

    "Tôi sắp nói tới điều đó đây," ông ta nói.

    "Giữa hai ham muón trái ngược, linh hồn con người sẽ bộc lộ," cô nói tiếp. "Linh hồn lương thiện sẽ mong muốn làm điều thiện, và nếu ngược lại đó là một linh hồn xấu xa. Linh hồn sẽ ra quyết định."

    "Vớ vẩn!" Ông ta nổi nóng kêu lên. "Dục vọng quyết định tất cả. Ví dụ nếu có gã muốn nhậu nhẹt. Đồng thời, hắn lại không muốn say xỉn. Vậy thì hắn làm sao? Hắn phải làm thế nào? Hắn là một con rối. Hắn là tạo vật do dục vọng tạo thành, giữa hai thứ dục vọng, hắn phải tuân theo dục vọng mạnh mẽ hơn, chỉ vậy thôi. Tâm hồn hắn chẳng liên quan gì hết. Làm sao hắn bị cám dỗ chè chén mà lại không phải say xỉn? Nếu mong muốn phải tỉnh táo chiếm ưu thế, là vì mong muốn đó mạnh mẽ hơn. Cám dỗ không thể làm gì, trừ khi –" ông ta dừng lại suy ngẫm những ý tưởng vừa xuất hiện trong đầu – "trừ khi là hắn bị cám dỗ phải tỉnh táo."

    "Ha! Ha!" Ông ta cười. "Anh nghĩ thế nào, anh Van Weyden?"

    "Cả hai người đều quá thiển cận," tôi trả lời. "Linh hồn của một người chính là dục vọng của anh ta. Hoặc, nếu ông muốn, có thể nói rằng tất cả dục vọng của một người chính là tâm hồn của anh ta. Cho nên hai người đều sai. Ông đặt dục vọng tách bạch khỏi tâm hồn, còn cô Brewster đặt nặng phần hồn tách rời khỏi dục vọng, mà trong thực tế thì tâm hồn và dục vọng đều là một."

    "Tuy nhiên," tôi tiếp tục, "Cô Brewster đúng ở chỗ xem cám dỗ là cám dỗ, cho dù tôi đầu hàng hay vượt qua được nó. Gió sẽ thổi cho đến khi ngọn lửa bùng lên dữ dội. Dục vọng cũng giống như lửa. Cũng được thổi bùng bằng một thứ giống như gió, có thể là hình ảnh vật tôi khao khát, hoặc diện mạo hay sự lĩnh hội mới đầy thu hút của điều tôi mong ước. Cám dỗ tồn tại ở đó. Nó là ngọn gió thổi lên dục vọng cho đến khi nó vùng lên điều khiển tôi. Đó là cám dỗ. Có thể nó thổi chưa đủ mạnh để khiến dục vọng to lớn đến mức không thể cưỡng lại được, nhưng chỉ cần nó có thổi một chút, thì cũng đủ để trở thành cám dỗ. Và như ông nói, nó có thể dụ tôi làm cả điều tốt lẫn điều xấu." Tôi cảm thấy tự hào về bản thân vào thời điểm chúng tôi cùng ngồi xuống bàn. Lời của tôi nghe hết sức quả quyết. Ít nhất thì họ cũng ngừng cuộc tranh luận.

    Nhưng Larsen Sói có vẻ vẫn còn muốn nói không thôi, trước nay tôi chưa từng thấy ông ta như vậy. Trông ông ta như đang bùng nổ vì nguồn năng lượng bị đè nén đang cố thoát ra cho bằng được. Gần như ngay sau đó, ông ta lại bắt đầu thảo luận về tình yêu. Như thường lệ, quan điểm của ông ta nghiêng hẳn về phía duy vật, còn của Maud thì duy tâm. Riêng tôi không tham gia tranh luận vì chẳng có lời nào đáng để kiến nghị hay chỉnh sửa nữa.

    Ông ta thật xuất sắc, nhưng Maud cũng không kém; có đôi lúc tôi mất tập trung khỏi đề tài tranh luận vì mải ngắm nhìn khuôn mặt của cô khi cô nói chuyện. Gương mặt cô hiếm khi biến sắc, nhưng đêm nay thì nó đỏ bừng đầy sôi nổi. Cô ấy đối đáp sắc sảo, vô cùng hứng thú với cuộc tranh luận, Larsen Sói cũng vậy, ông ta cũng cực kì thích thú. Không biết vì sao, dù gì thì cũng không phải do cuộc tranh luận, trong lúc tôi hoàn toàn đắm chìm trong suy nghĩ về lọn tóc nâu phất phơ của Maud thì ông ta trích dẫn "Iseult ở Tintagel[2]" :

    May phước cho tôi giờ hơn mọi phụ nữ trên đời.

    Dù may mắn đó là tội lỗi,

    Hoàn thiện nên sự vượt trội của tôi.

    Và ông ta trích dẫn về chủ nghĩa bi quan của Omar, rồi trích tiếp về những thành tựu và niềm hân hoan đầy thương đau của Swinburne. Ông ta trích dẫn rất chính xác và truyền cảm. Ông ta không ngừng ngâm nga khi Louis ghé đầu xuống cầu thang thì thầm:

    "Yên lặng được chưa? Sương đang tan, đèn pha của một tàu hơi nước đang quét qua mũi tàu mình rồi kìa."

    Larsen Sói vọt lên boong tàu, nhanh đến nỗi khi chúng tôi bắt kịp ông ta thì ông ta đã kéo cửa trượt khoang lái giữa tiếng la ó say xỉn và đang chuẩn bị đi đóng lỗ thông của khoang mũi. Sương vẫn còn, nhưng đã bốc dần lên cao, che khuất các ngôi sao và làm tối tăm màn đêm. Tôi có thể thấy ngay trước chúng tôi hai luồng sáng một đỏ, một trắng, và còn nghe thấy tiếng máy động cơ hơi nước. Chắc chắn đó là tàu Macedonia.

    Larsen Sói đã quay trở lại bục đuôi tàu, chúng tôi im lặng đứng tụm lại, nhìn ánh đèn liên tục quét qua mũi tàu Bóng Ma.

    "May là anh của tôi không mang đèn pha," Larsen Sói nói.

    "Nếu tôi la to lên thì sao?" Tôi thì thầm.

    "Thì coi như xong," ông ta trả lời.

    "Nhưng ông có nghĩ tới chuyện xảy ra ngay sau đó không?" Trước khi tôi kịp hỏi thêm, ông ta đã dùng đôi tay mạnh như thú dữ túm lấy cổ tôi, đe dọa bằng cách chỉ hơi siết cơ bắp lại – chỉ cần một cú vặn nhẹ là đủ bẻ gãy cổ tôi. Ông ta thả tôi ra ngay tắp lự, chúng tôi cùng chăm chú nhìn ánh đèn của tàu Macedonia.

    "Nếu tôi la lớn thì sao?" Maud hỏi.

    "Tôi thích cô đủ nhiều để không làm hại cô," ông ta nhẹ giọng – không, sự dịu dàng và ân cần trong giọng nói của ông ta khiến tôi khó chịu. "Nhưng nếu cô làm vậy thì tôi cũng sẽ lập tức bẻ cổ anh Van Weyden."

    "Vậy tôi cho phép cô ấy la đó," tôi dứt khoát.

    "Tôi không nghĩ cô lại muốn hi sinh Trưởng khoa Văn ngữ Hoa Kì đệ nhị[3] đâu." Ông ta chế nhạo.

    Chúng tôi không nói nữa, dù đã quá quen thuộc với nhau tới nỗi việc im lặng khiến mọi người lúng túng; khi ánh đèn đỏ và trắng biến mất, chúng tôi quay lại cabin ăn nốt bữa tối dang dở.

    Rồi họ lại bắt đầu trích dẫn, Maud nhắc tới "Vô Hối Tột Cùng" của Dowsons[4] . Cô ấy ngâm thật hay, nhưng tôi không nhìn cô mà nhìn Larsen Sói. Việc ông ta bị cuốn hút bởi Maud khiến tôi chú ý. Ông ta có vẻ gì đó khác lạ, tôi thấy môi ông ta vô thức chuyển động theo từng từ cô ấy nói ra. Ông ta chen ngang khi cô ấy ngâm tới: Và đôi mắt nàng là ánh sáng của tôi khi ánh dương khuất xa, và giọng nói du dương như đề cầm của nàng là âm thanh cuối cùng tôi nghe được.

    "Có tiếng đề cầm trong giọng cô," ông ta thẳng thắn nói, đôi mắt chớp ánh vàng.

    Tôi muốn hét lên sung sướng vì sự bình thản của cô ấy. Cô ấy đọc nốt đoạn kết bài thơ trôi chảy, rồi từ từ dẫn dắt cuộc trò chuyện theo hướng ít nguy hiểm hơn. Trong lúc tôi ngồi hơi ngẩn ra, tiếng mấy gã say náo động ở buồng lái xuyên qua cả vách ngăn, người đàn ông họ sợ hãi và người phụ nữ tôi yêu thương vẫn tranh luận không ngừng. Bàn ăn vẫn còn người. Người thế chỗ Mugridge hiển nhiên đã gia nhập cùng đồng đội anh ta trong khoang mũi.

    Nếu Larsen Sói có thể đạt tới đỉnh cao của cuộc sống, ông ta sẽ đoạt lấy nó. Thỉnh thoảng, tôi bỏ qua suy nghĩ của bản thân mà làm theo ý muốn của ông ta; tôi đã làm vậy trong sự ngỡ ngàng, để bản thân được làm chủ một khoảnh khắc thời gian nhờ sự thông minh xuất sắc của ông ta, tôi bị mê hoặc bởi khát vọng của ông ta, vì ông ta đang thuyết giáo nỗi khát khao phản loạn. Đương nhiên, Lucifer của Milton[5] được trích dẫn tới, và sự sắc bén khi Larsen Sói phân tích, miêu tả nhân vật này đã bộc lộ sự xuất chúng bị kiềm nén của ông ta. Điều ấy khiến tôi nhớ đến Taine[6], dù tôi biết ông ta chưa từng nghe đến nhà tư tưởng vừa tài ba vừa đáng sợ ấy.

    "Ngài tiên phong trong vô vọng, và ngài không hề sợ sấm sét của Đức Chúa," Larsen Sói nói. "Ngài vẫn bất bại khi bị đuổi xuống địa ngục. Một phần ba số thiên thần của Đức Chúa đã nổi dậy cùng ngài, vậy là ngài lập tức xúi giục con người chống lại Đức Chúa và sở hữu phần lớn các thế hệ loài người dưới địa ngục cho bản thân ngài. Tại sao ngài lại bị đánh đuổi khỏi thiên đường? Vì ngài không can đảm bằng Đức Chúa? Không đủ kiêu hãnh? Hay thiếu khao khát? Không! Ngàn lần không! Ngài đã nói rằng Đức Chúa sở hữu tia sét làm nên những điều vĩ đại rằng Người quyền năng hơn ngài. Nhưng Lucifer là một linh hồn tự do. Để phụng sự thì phải chịu sự gò bó. Ngài thà chịu khổ trong tự do hơn là có được hạnh phúc của phận nô lệ ấm êm. Ngài không quan tâm tới chuyện phụng sự Đức Chúa. Ngài không cần phụng sự ai cả. Ngài không phải là bù nhìn. Ngài đứng vững trên đôi chân của bản thân. Ngài là một người độc lập."

    "Người theo chủ nghĩa vô chính phủ đầu tiên," Maud cười, đứng dậy chuẩn bị đi về phòng riêng.

    "Nếu vậy thì làm người vô chính phủ cũng tốt," ông ta la lên. Ông ta đứng dậy đối diện với cô ấy khi cô đang đứng trước cửa phòng riêng, rồi ông nói tiếp:

    "Ít nhất nơi đây,

    Ta được tự do; Đấng Toàn Năng không tồn tại

    Nơi đây, vì sự đố kỵ của ngài không thúc đẩy ta đi;

    Nơi đây ta an tâm thống trị, theo ý ta lựa chọn

    Thống trị là tham vọng quý báu dù ở lòng Địa Ngục

    Thà thống trị cõi Địa ngục còn hơn làm nô lệ trên Thiên Đường."

    Đó là tiếng kêu thách thức của một linh hồn vĩ đại. Tiếng ông ta ngân vang khắp cabin, trong lúc ông ta đứng đó lắc lư, gương mặt màu đồng sáng bóng, đầu ngẩng cao quyền uy, đôi mắt vàng ánh lên vẻ nam tính mãnh liệt mà vẫn dịu dàng, tỏa sáng nhìn Maud đang đứng ở cửa.

    Nỗi kinh hoàng không thể gọi tên và cũng không thể nhầm lẫn lại tràn ngập trong mắt cô ấy, rồi cô ấy nói, gần như thì thầm, "Ông là Lucifer." Cửa đóng lại, và cô ấy đã đi rồi. Ông ta vẫn đứng nhìn chằm chằm theo cô ấy một lúc, rồi trở lại với chính bản thân và tôi.

    "Tôi sẽ thay phiên Louis cầm lái," ông ta nói ngắn gọn, "và sẽ gọi anh thay tôi khoảng lúc nửa đêm. Mau quay về phòng, ngủ chút đi." Ông ta mang găng tay và đội mũ vào rồi đi lên tầng trên, còn tôi thì nghe lời ông ta quay về phòng ngủ. Dự cảm kì lạ không rõ đến từ đâu khiến tôi cứ mặc nguyên đồ mà nằm xuống ngủ. Tôi lắng nghe tiếng kêu la trong buồng lái và tự hỏi về tình yêu vừa đến với tôi, nhưng những giấc ngủ trên tàu Bóng Ma hiện là thứ lành mạnh và tự nhiên nhất mà tôi có, nên chẳng mấy chốc, tiếng nhạc và tiếng la ó nhanh chóng trôi xa, mắt tôi nhắm nghiền, ý thức tôi chìm vào giấc ngủ say nồng.

    Tôi không biết điều gì đánh thức tôi, nhưng tôi tỉnh dậy thấy mình không nằm trên giường nữa, mà đã đang đứng hoàn toàn tỉnh táo, linh hồn tôi rung lên cảnh báo trước nguy hiểm như đang thổi kèn trumpet. Tôi mở tung cánh cửa. Ánh sáng trong cabin leo lắt.

    Tôi thấy Maud đang vật lộn trong vòng tay ghì chặt của Larsen Sói. Mặt cô ấy bị ép ngửa lên trên. Cô ấy cố sức đánh trả và vẫy vùng trong vô vọng khi chống cự ông ta, giấu khuôn mặt vào ngực ông ta để không bị ông ta hôn. Tôi chứng kiến tất cả trong khi vội lao về phía trước. Tôi giáng một cú đấm lên ngay lên mặt khi ông ta ngẩng đầu lên, nhưng chẳng hề hấn gì. Ông ta gầm lên hung tợn như thú dữ và xô tôi ra. Chỉ một cú vẩy nhẹ cổ tay, nhưng sức mạnh khủng khiếp như máy ném đá của ông ta đẩy tôi bật ngược ra sau. Người tôi văng trúng cánh cửa phòng cũ của Mugride và đập vỡ vụn tấm ván. Cố gắng đứng dậy, tôi lê thân khỏi cánh cửa đã tan nát mà không hề cảm nhận được bất kì đau đớn nào. Điều duy nhất tôi nhận thức được là cơn giận dữ không cách nào kiềm chế được. Tôi nghĩ lúc đó tôi đã gào to khi rút dao ở thắt lưng ra rồi lao về trước.

    Nhưng chuyện gì đó đã xảy ra. Họ lảo đảo tách ra. Tôi ở ngay sát ông ta, tôi giơ con dao lên nhưng chưa đâm xuống ngay. Sự bất thường này khiến tôi bối rối.

    Maud chống một tay dựa vào vách phòng; còn ông ta thì đứng loạng choạng, bàn tay trái ôm lấy trán và che khuất đôi mắt ông ta, bàn tay phải mù mờ mò mẫm xung quanh. Khi tay ông ta tìm được bức vách, cơ bắp và thân thể ông ta như được thả lỏng, giống như ông ta đã tìm được chỗ dựa, biết được vị trí của bản thân, và có thứ gì đó để tựa vào.

    Rồi cơn giận của tôi lại ập đến. Tất cả những tổn thương và nhục nhã như ánh sáng chói lòa vụt qua trong tôi, tất cả những khổ sở tôi đã phải chịu đựng và cả những khổ sở mọi người phải chịu đựng đều do ông ta mà ra cả, tất cả tội lỗi đến từ chính sự tồn tại của người đàn ông này. Tôi mù quáng nhảy lên và đâm vào vai ông ta. Khi ấy tôi biết nó chỉ như vết thương ngoài da, chẳng đáng là gì với ông ta – khi tôi nhận ra lưỡi thép trên xương bả vai của ông ta – và tôi nâng dao lên để đâm xuống chỗ yếu hại hơn. Nhưng Maud đã thấy cú đâm đầu của tôi, cô ấy la lên, "Đừng! Dừng lại đi!"

    Tôi hạ tay xuống một lúc, và chỉ trong phút chốc thôi. Rồi lại nâng con dao lên, Larsen Sói chắc chắn sẽ chết nếu cô ấy không chen vào giữa chúng tôi. Đôi tay cô ấy ôm lấy tôi và tóc cô ấy cọ vào mặt tôi. Tim tôi đập nhanh bất thường, cơn giận của tôi cũng bốc lên theo ngùn ngụt. Cô ấy chủ động nhìn thẳng vào mắt tôi.

    "Vì tôi đi mà," cô ấy van xin.

    "Tôi sẽ giết hắn vì cô!" Tôi thét lên, cố thoát tay ra mà không làm tổn hại đến cô ấy.

    "Yên nào!" cô ấy nói rồi đặt ngón tay lên môi tôi. Tôi đã có thể hôn chúng, nếu như can đảm hơn chút, mặc dù đang trong cơn giận dữ, những ngón tay ấy vẫn ngọt ngào, hết sức ngọt ngào. "Làm ơn, xin anh đó," cô ấy nài nỉ, và dùng lời nói ấy vô hiệu hóa tôi, trước khi tôi kịp nhận ra lời cô có sức mạnh như thế nào.

    Tôi lùi lại, tách khỏi cô ấy, và nhét con dao vào bao. Tay trái ông ta vẫn bóp trán, che khuất đôi mắt, còn đầu thì gục xuống. Trông ông ta có vẻ yếu ớt. Ông ta chùng nửa người xuống, bờ vai vĩ đại cũng rũ xuống và đổ về trước.

    "Van Weyden!" Ông ta khàn khàn gọi, giọng nghe có phần sợ sệt. "Ô, Van Weyden, anh đâu rồi?"

    Tôi nhìn Maud. Cô ấy không nói gì, chỉ gật đầu.

    "Tôi ở đây," tôi trả lời, bước đến cạnh ông ta. "Có chuyện gì sao?"

    "Đỡ tôi ngồi xuống," ông nói, giọng vẫn khàn khàn sợ sệt.

    "Tôi bệnh mất rồi, bệnh nặng lắm rồi, Hump," ông ta nói khi buông tay tôi ra ngồi xuống ghế.

    Ông ta ngồi gục trước bàn, hai tay ôm lấy đầu. Thỉnh thoảng đầu ông ta lại đung đưa vì đau. Lúc ông ta hơi ngẩn mặt lên, tôi nhìn thấy những giọt mồ hôi trĩu nặng bám trên chân tóc trên trán ông ta.

    "Tôi bệnh mất rồi, bệnh nặng lắm rồi," ông ta lặp lại lần nữa, rồi lại thêm lần nữa. "Có chuyện gì sao?" Tôi hỏi, tựa tay lên vai ông ta. "Tôi giúp được gì không?"

    Nhưng ông ta khó chịu lắc vai khỏi tay tôi, và tôi im lặng đứng cạnh ông ta một lúc lâu. Maud đang nhìn, gương mặt cô ấy vẫn đầy nỗi sợ hãi và kinh hoàng.

    Chúng tôi không thể nào tưởng tượng ra ông ta đã bị gì.

    "Hump," cuối cùng ông ta cũng lên tiếng, "tôi phải quay về giường của tôi. Giúp tôi một tay. Chốc nữa là tôi sẽ ổn thôi. Tôi nghĩ là do mấy cơn đ–đau đầu này. Chúng khiến tôi lo lắng. Tôi có linh cảm là.. không, tôi không biết tôi đang nói gì nữa. Đưa tôi về giường đi."

    Nhưng khi tôi dìu ông ta về đến giường thì ông ta lại vùi đầu vào hai tay, che phủ mắt, và khi quay đi, tôi nghe thấy ông ta lẩm bẩm, "tôi bệnh rồi, bệnh nặng lắm rồi."

    Maud nhìn tôi dò hỏi khi tôi quay lại. Tôi lắc đầu, nói:

    "Có chuyện gì đó xảy ra với ông ta. Tôi không biết là chuyện gì. Nhưng tôi tin đây là lần đầu trong đời, ông ta tuyệt vọng và sợ hãi như vậy. Hẳn là có gì đó xảy ra trước khi tôi đâm ông ta, vì đó chỉ là vết thương xoàng thôi. Cô cũng chứng kiến hết mà."

    Cô ấy lắc đầu. "Tôi không thấy gì hết. Tôi cũng thấy lạ lắm. Ông ta bỗng dưng thả tôi ra rồi lảo đảo ngã xuống. Nhưng chúng tôi phải làm gì bây giờ? Tôi phải làm gì bây giờ?"

    "Chờ tôi đi đây một chút," tôi trả lời.

    Tôi đi lên boong tàu. Louis đang cầm lái. "Thay ca, anh đi nghỉ đi," tôi nói và cầm lấy bánh lái.

    Anh ta làm theo ngay và tôi lại một mình trên boong tàu Bóng Ma. Im lặng hết sức, tôi cuộn buồm đỉnh lên, hạ buồm phụ rời và buồm chéo xuống, xoay ngược buồm tam giác và kéo dựng buồm chính. Xong tôi quay xuống chỗ Maud. Tôi đặt tay lên môi ra dấu im lặng rồi tiến vào phòng Larsen Sói.

    Ông ta vẫn nằm nguyên vị trí cũ, đầu ông ta lắc lư qua lại gần như là lăn lộn.

    "Tôi giúp được gì cho ông không?" Tôi hỏi. Lúc đầu ông ta không nói gì, nhưng khi tôi hỏi lại lần nữa thì ông ta trả lời:

    "Không, không cần; tôi không sao. Cứ để tôi được yên tĩnh tới sáng." Nhưng khi xoay người đi, tôi thấy ông ta lại tiếp tục lắc đầu.

    Maud kiên nhẫn chờ tôi, và tôi vui sướng nhận ra phong thái cao quý và ánh mắt điềm tĩnh sâu sắc của cô ấy. Điềm tĩnh và đáng tin như chính linh hồn của cô ấy.

    "Cô có dám đặt niềm tin cùng tôi đi một cuộc hành trình sáu trăm dặm không?" Tôi hỏi.

    "Ý anh là?" cô ấy hỏi, và tôi biết là cô ấy đã đoán được.

    "Đúng vậy, đúng như cô nghĩ," tôi đáp lại. "Chúng ta không có gì cả, ngoại trừ một con thuyền."

    "Chỉ có tôi cần phải đi," cô ấy nói. "Anh hẳn sẽ vẫn được an toàn trên tàu này."

    "Không, chúng ta không có gì cả, ngoại trừ một con thuyền," tôi quả quyết lặp lại. "Mặc thật ấm vào ngay đi, rồi gói tất cả những thứ cô muốn mang theo. Làm nhanh lên đi," tôi nói với theo khi cô ấy xoay người đi về phòng riêng.

    Hầm chứa đồ nằm ngay bên dưới cabin, sau khi kéo cửa sập lên và đem theo một cây nến, tôi nhảy xuống và kiểm tra đồ dự trữ trên tàu. Tôi lấy chủ yếu toàn đồ hộp, và khi lấy xong thì có sẵn đôi tay đang chờ tôi chuyển đồ lên phía trên. Chúng tôi lẳng lặng làm. Tôi lấy cả chăn, găng tay, quần áo làm bằng vải dầu, và những thứ tương tự từ tủ lương hiện vật. Đây không phải là một cuộc dạo chơi thoải mái, mà là đặt cược mạng sống vào một con thuyền nhỏ giữa biển cả bão bùng dữ dội, nên chúng tôi bắt buộc phải tự giữ mình khỏi bị ướt và lạnh.

    Chúng tôi cật lực chuyển mớ đồ ăn cắp lên boong tàu, rồi để ở giữa tàu, vất vả đến nỗi Maud, người chẳng có mấy sức lực, phải dừng lại nghỉ trên bậc thềm chỗ bục đuôi tàu. Nhưng thế chẳng giúp cô ấy đỡ mệt được chút nào, thế là cô ấy nằm ngửa ra trên boong tàu cứng ngắt, dang rộng hai tay và thả lỏng cả thân người. Đó là một mẹo mà tôi nhớ em gái tôi cũng hay làm, nên tôi biết chẳng mấy chốc cô ấy sẽ khỏe lại thôi. Tôi quay vào phòng Larsen Sói để lấy hai khẩu súng trường và súng lục. Tôi hỏi chuyện ông ta, nhưng ông ta không đáp lời, dù ông ta vẫn lắc đầu qua lại và không hề ngủ.

    Còn phải lấy băng đạn, việc này dễ thôi dù tôi phải đi qua cầu thang buồng lái mới lấy được. Đây là chỗ thợ săn trữ hộp đạn họ mang lên thuyền, tôi trộm đi hai hộp đạn ở chỗ chỉ cách nơi bọn họ chè chén ồn ào có vài mét.

    Tiếp đến, cần hạ thuyền xuống. Đây không phải nhiệm vụ dễ dàng khi chỉ có một mình. Sau khi tháo toàn bộ dây buộc thuyền, tôi kéo dây chằng phía trước lên, rồi phía đuôi thuyền để đưa thuyền qua lan can, sau đó tôi hạ từng sợi dây một xuống độ khoảng chừng vài ba mét sao cho chiếc thuyền được treo cố định trên bề mặt nước, đối diện dọc mạn buồm. Tôi phải đảm bảo rằng trên thuyền có đủ mái chèo, cọc chèo và buồm. Nước ngọt rất quan trọng nên tôi đã lấy hết toàn bộ thùng nước của các thuyền. Có tổng cộng chín chiếc thuyền, nên hẳn là chúng tôi sẽ có rất nhiều nước, và cả đồ để dằn thuyền xuống nữa, mặc dù chiếc thuyền không chừng sẽ bị quá tải vì hàng đống thứ tôi đã mang lên trước đó.

    Khi Maud đang chuyển cho tôi số lương thực dự trữ để tôi chất chúng lên thuyền, một thủy thủ đi lên boong tàu từ khoang mũi. Anh ta đứng chỗ lan can hứng gió một hồi lâu (lúc ấy chúng tôi đang hạ thấp thuyền xuống lan can khuất gió), rồi bước chậm rãi về phía giữa tàu, và dừng lại hóng gió, quay lưng về phía chúng tôi.

    Tôi có thể nghe thấy tiếng tim mình đập thình thịch khi cúi rạp người trong thuyền. Maud giấu mình trên boong tàu và tôi đoan chắc rằng cô ấy cũng nằm im bất động, người nép vào bóng khuất của thành tàu.

    Nhưng anh ta không hề quay lại, và sau khi vươn vai, ngáp một cái rõ to, anh ta quay lại lỗ thông khoang mũi rồi mất dạng luôn.

    Sau vài phút ít ỏi đủ để hoàn tất việc chất đồ lên thuyền, tôi hạ thuyền xuống biển. Khi nâng Maud qua khỏi lan can tàu, tôi cảm nhận được cơ thể cô ấy đang kề sát mình, tất cả những gì tôi có thể làm lúc bấy giờ là ngăn không cho bản thân mình gào lên ba tiếng "Anh yêu em! Anh yêu em!" Khoảnh khắc tay cô ấy níu chặt lấy tay tôi khi tôi đỡ cô ấy xuống thuyền, tôi thầm nghĩ, cuối cùng Humphrey Van Weyden đã thật sự biết yêu là gì. Một tay tôi vịn lan can tàu, tay còn lại đỡ lấy người cô ấy, tôi thật cảm thấy tự hào với sức mạnh của tôi lúc đó. Sức mạnh mà tôi của mấy tháng trước, khi chào từ biệt Charley Furuseth để đến San Francisco trên chiếc phà Martinez yểu mệnh, không thể nào có được.

    Khi chân cô ấy chạm tới chiếc thuyền đã hạ xuống biển, tôi buông tay cô ấy ra. Tôi tháo đống dây dợ rồi nhảy theo sau cô ấy. Tôi chưa bao giờ chèo thuyền cả, nhưng tôi vẫn vươn mái chèo, dùng tất cả sức bình sinh đưa con thuyền ra xa khỏi tàu Bóng Ma. Sau đó tôi thử dùng buồm. Tôi đã xem người lái thuyền và thợ săn dựng buồm căng chéo rất nhiều lần, nhưng đây là lần đầu tiên tôi làm thử. Nếu họ chỉ làm trong vỏn vẹn khoảng hai phút, thì tôi mất đến tận hai mươi phút, nhưng rồi cuối cùng tôi cũng dựng và xoay buồm thành công, với mái chèo trong tay, tôi lướt mạnh chiếc thuyền theo chiều gió.

    "Nhật Bản kia rồi," tôi nói, "ngay phía trước mình."

    "Humphrey Van Weyden," cô ấy nói, "anh rất dũng cảm."

    "Không đâu," tôi trả lời; "cô mới là người dũng cảm chứ."

    Chúng tôi cùng quay đầu lại nhìn con tàu Bóng Ma một lần cuối. Thân tàu Bóng Ma dập dìu trong gió biển; những tấm vải bạt lờ mờ trong đêm đen mù mịt; bánh lái cọt kẹt khi đuôi lái đập vào; hình ảnh và âm thanh của nó tan biến dần chỉ còn lại hai chúng tôi đơn độc trên mặt biển tối tăm.

    [1] Nữ phù thủy trong Thần Thoại Hi Lạp, kẻ thường biến các nạn nhân của mình thành lợn.

    [2] Iseult at Tintagel – phần V của trường thi Tristram of Lyonesse của nhà thơ người Anh Algernon Charles Swinburne (1837–1909) kể về chuyện tình của Tristram và Iseult.

    [3] Xem chú thích số 35

    [4] Tựa tạm dịch từ bài thơ Impenitentia Ultima của Ernest Dowson (1867–1900), nhà thơ, nhà văn người Anh, được in trong tập thơ Verses (1896).

    [5] John Milton (1608–1674) là nhà thơ, nhà soạn kịch và nhà phê bình văn học người Anh. Nhân vật Lucifer trong truyện thuộc sử thi tôn giáo "Thiên đường đã mất" được xuất bản lần đầu vào năm 1667.

    [6] Hippolyte Taine (1828–1893) là nhà phê bình và sử học người Pháp.
     
    Nguyễn Ngọc Nguyên thích bài này.
  8. Chanh97hh

    Bài viết:
    73
    Chương 27

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ban mai lạnh lẽo ảm đạm. Con thuyền xuôi chèo theo cơn gió lạnh, dựa theo la bàn thì thuyền đang đi đúng hướng thẳng tiến về Nhật Bản. Dù được bọc dưới lớp găng, những ngón tay tôi vẫn lạnh cóng và đau buốt vì phải giữ tay chèo. Sương giá cũng làm chân tôi tê dại và tôi chỉ khát khao được thấy ánh nắng mặt trời.

    Maud đang nằm ở trên sàn thuyền, trước mặt tôi. Ít nhất cô ấy cũng được ủ ấm trong lớp chăn mền dày cộp bọc quanh người. Tối hôm qua, tôi còn phủ thêm một lớp che mặt cho cô để tránh sương đêm, nên hiện tôi chỉ nhìn thấy hình dáng mơ hồ của cô ấy cùng với lọn tóc nâu nhạt đẫm sương lấp ló dưới lớp chăn dày. Tôi ngắm cô ấy thật lâu, ngắm lọn tóc duy nhất không bị chăn che khuất ấy như nhìn vật trân quý nhất trên cõi đời. Tôi nhìn chăm chú đến nỗi cô ấy cuối cùng cũng cựa quậy dưới đống chăn. Tấm vải phủ trên cùng trượt xuống để lộ ra gương mặt đang mỉm cười với tôi, dù đôi mắt ngái ngủ vẫn trĩu nặng.

    "Chào buổi sáng, anh Van Weyden," cô ấy chào. "Anh thấy đất liền chưa?"

    "Chưa," tôi trả lời, "nhưng mình đang tiến về đất liền với vận tốc sáu dặm một giờ."

    Nghe tới đó cô ấy bĩu môi thất vọng.

    "Tức là một trăm bốn mươi bốn dặm trong hai mươi tư giờ tới," tôi trấn an cô ấy.

    Mặt cô ấy sáng bừng lên. "Vậy mình còn phải đi bao xa nữa?"

    "Siberia nằm ở kia," tôi nói, chỉ về hướng tây. "Nhưng đi chừng sáu trăm dặm về phía tây nam là tới Nhật Bản. Gió không đổi chiều thì năm ngày nữa mình đến nơi."

    "Lỡ có bão thì sao? Con thuyền chịu nổi không?"

    Cô ấy thường nhìn thẳng vào mắt người khác khi muốn biết sự thật, và cô ấy đang nhìn thẳng vào mắt tôi khi hỏi câu ấy.

    "Phải bão to lắm kìa," tôi lập lờ.

    "Vậy nếu bão to lắm thì sao?"

    Tôi gật đầu. "Nhưng có thể có thuyền buồm nào ngang qua cứu mình lên ngay không biết chừng. Vùng biển này tàu thuyền qua lại tấp nập lắm."

    "Sao anh lạnh ngắt thế này!" Cô ấy thốt lên. "Coi kìa! Anh đang run cầm cập kìa. Tôi biết là có, anh khỏi chối. Trong khi tôi được ủ ấm như nằm lò nướng thế này."

    "Tôi chỉ nghĩ cô có ngồi đây lạnh run với tôi cũng có giúp ích gì đâu." Tôi cười.

    "Sẽ có ích gì đó khi tôi biết cách lái thuyền, chắc chắn là tôi sẽ học lái thuyền ngay thôi."

    Cô ấy ngồi dậy và bắt đầu làm vệ sinh buổi sáng. Cô ấy rũ đám tóc mây màu nâu bồng bềnh xuống che phủ lên gương mặt và bờ vai cô. Mái tóc nâu ướt sương đáng yêu ấy! Tôi chỉ muốn hôn lên nó, luồn chúng qua kẽ tay tôi và vùi mặt vào đó. Tôi ngẩn ngơ nhìn cho đến khi thuyền đi ngược gió, tiếng buồm vỗ phần phật nhắc nhở tôi phải tập trung vào nhiệm vụ của mình.

    Mặc kệ bản năng lí tính của mình, tôi đã và sẽ luôn là người theo chủ nghĩa duy tâm và trường phái lãng mạn, vậy mà tôi vẫn chưa từng thành công trong việc nắm bắt được những đặc điểm thực tế của tình yêu. Tình yêu nam nữ trong tôi là sự thăng hoa của linh hồn, là sự kết nối và kéo gần khoảng cách giữa linh hồn con người bằng những ràng buộc về tinh thần. Sự ràng buộc thể xác không hề hiện diện trong vũ trụ tình yêu của tôi. Nhưng giờ tôi đang trải nghiệm bài học ngọt ngào về cách linh hồn chuyển đổi và bộc lộ nó qua xác thịt; hình ảnh, mùi hương và xúc cảm từ mái tóc người thương cũng như hơi thở, tiếng nói và tinh túy của linh hồn đều giống thứ ánh sáng ngời lên trong ánh mắt hay lời nói tuôn ra khởi bờ môi. Dầu sao, linh hồn thuần khiết là một điều huyền bí, người ta chỉ có thể cảm nhận và phán đoán về nó; nó không có cách nào tự thể hiện mình ra được. Jehovah[1] hiện thân dưới dạng con người cũng là để Người có thể truyền lời răn đến cho người Do Thái thông qua những gì trí tuệ của họ hiểu được; vậy nên Người hiện thân qua những hình ảnh họ nghĩ tới được, như là một đám mây, một cột khói, một vật hữu hình hay dạng vật chất nào đó mà người Do Thái có thể nhận biết được.

    Tôi vẫn ngắm nhìn lọn tóc nâu nhạt của Maud, tôi yêu nó xiết bao; tôi chợt hiểu thêm về tình yêu nhiều hơn tất cả những gì các thi sĩ hay ca sĩ đã chỉ cho tôi qua những bài hát và thơ của họ. Bỗng nhiên cô ấy uyển chuyển hất tóc ra sau, để lộ ra gương mặt đang mỉm cười.

    "Sao phụ nữ không thả tóc mọi lúc?" Tôi hỏi. "Thả tóc xuống nhìn đẹp hơn nhiều."

    "Phải chi mà nó không rối tinh rối mù lên ấy," cô ấy cười. "Anh xem! Cái kẹp tóc yêu thích của tôi mất tiêu rồi này!"

    Tôi thả trôi thuyền và mặc gió thổi tung buồm lên, giờ tôi chỉ còn thấy hứng thú với việc nhìn cô ấy lục tung từng lớp chăn lên để tìm chiếc kẹp. Tôi vừa ngạc nhiên, vừa hân hoan vì sự yểu điệu của cô ấy, mỗi nét tính cách và hành vi nữ tính được bộc lộ ra đều làm tôi hớn hở vui mừng. Tôi đã quá tôn sùng cô ấy, nên trái tim tôi tôn vinh cô ấy lên một cõi cách xa trần ai và quá xa vời với tôi. Tôi tự biến cô ấy thành một nữ thần mà mình không thể tiếp cận. Vậy nên, tôi vui sướng hoan nghênh từng yếu tố nhỏ bé thể hiện rằng cuối cùng thì cô ấy vẫn là một người phụ nữ, ví dụ như khi cô ấy hất suối tóc mây của mình ra sau, hay việc tìm kiếm chiếc kẹp tóc. Cô ấy là phụ nữ, đồng loại của tôi, sống trong cùng thế giới với tôi, có cùng chung cảm xúc của những kẻ đồng loại, của đàn ông và phụ nữ, đồng thời cũng đáng tôn sùng kính trọng như cách tôi tôn sùng kính trọng cô.

    Cô ấy reo vui như đứa trẻ khi tìm thấy chiếc kẹp, còn sau đó tôi cũng hoàn toàn tập trung vào việc lái thuyền. Tôi bắt đầu thử nghiệm, kéo tới đẩy lui mái chèo cho đến khi tự con thuyền được gió thổi đi tiếp mà không cần tôi. Có lúc buồm quá phẳng hoặc quá trùng; nhưng rồi buồm lại tự chỉnh lại như ban đầu và hầu như luôn làm tốt nhiệm vụ.

    "Ăn sáng thôi nào," tôi nói. "Nhưng trước tiên cô phải mặc thêm quần áo ấm đã." Tôi lấy ra chiếc áo sơ mi dày, làm từ vải may chăn, một món đồ mới ở trong tủ lương hiện vật.

    Đây là loại vải dày và sợi được dệt thật chặt nên có thể chống mưa và ngăn ngấm nước hàng giờ liền. Khi cô ấy trùm áo qua đầu, tôi đổi chiếc mũ thiếu niên cô đang đội thành mũ cho người lớn, mũ đó mới che được hết mái tóc của cô, vành mũ gập xuống bao phủ hoàn toàn cổ và tai cô ấy. Hiệu quả của chiếc mũ quá rực rỡ. Cô ấy có khuôn mặt mà dù ở trong hoàn cảnh nào cũng sẽ luôn xinh đẹp. Không điều gì có thể hủy hoại khuôn mặt trái xoan tinh xảo với những đường nét cổ điển, hàng lông mày thanh nhã như vẽ, đôi mắt nâu to tròn, gương mặt sáng sủa và điềm tĩnh, điềm tĩnh một cách lộng lẫy.

    Rồi một luồng gió hơi mạnh thổi qua chúng tôi. Con thuyền không tránh được vì đang nghiêng ngả đi qua đầu sóng. Thuyền bất ngờ đổ nghiêng một bên, mép thuyền chìm xuống mặt biển rồi múc lên một đống nước vào trong thuyền. Tôi bỏ xuống hộp thịt lưỡi đang định mở xuống và vội kéo dây lèo xuống vừa kịp lúc.

    Buồm vỗ phành phạch còn con thuyền đã đi chệch hướng. Tôi mất một lúc điều chỉnh cho thuyền đi đúng hướng trở lại rồi tiếp tục chuẩn bị bữa sáng.

    "Trông vẫn ổn nhỉ, dù tôi không rành chuyện hàng hải lắm." Cô ấy nói, gật đầu tán thưởng khả năng lái tàu của tôi.

    "Nhưng chỉ chạy được khi thuận gió thôi," tôi giải thích. "Nếu không có gió, gió thổi ngược hay ngang hông tàu hoặc chéo tàu thì tôi phải tự lái."

    "Nói thật là tôi không hiểu những kỹ thuật anh vừa nói," cô ấy nói, "nhưng phần kết luận thì tôi hiểu và không thích vậy chút nào. Sao anh có thể lái ngày, lái đêm, lái mãi được. Thế nên, sau khi ăn sáng xong, anh hãy dạy tôi cách lái thuyền. Xong thì anh nằm xuống nghỉ ngơi. Mình sẽ thay phiên nhau lái như mấy người trên tàu ấy."

    "Tôi không dạy cô được đâu." Tôi phản đối. "Tôi cũng mày mò tự học thôi. Cô đã không nghĩ kĩ khi tin tưởng trao tính mạng cho tôi đó, tôi không có kinh nghiệm gì với mấy con thuyền nhỏ hết. Đây là lần đầu tôi ngồi thuyền nhỏ thế này đấy."

    "Vậy thì hãy cùng nhau học, thưa ông. Mà tối qua anh cũng đã thử qua rồi, cứ chỉ tôi hết những điều anh biết. Còn giờ, ăn sáng đã. Ôi! Không khí này khiến tôi thèm ăn quá!"

    "Không có cà phê," tôi ủ rũ than, rồi chuyển cho cô ấy một miếng bánh quy bơ khô và thịt lưỡi đóng hộp.

    "Và cũng sẽ không có trà hay súp, không có bất cứ món nóng nào trước khi chúng ta bằng cách nào đó đặt chân lên mảnh đất liền nào đó."

    Sau khi kết thúc bữa sáng đơn giản với một cốc nước lạnh, Maud bắt đầu học lái thuyền. Nhờ dạy cô ấy mà tôi cũng học thêm được khối thứ, dù tôi chỉ đang áp dụng những thứ đã biết từ việc lái tàu Bóng Ma và quan sát cách mấy thủy thủ lái thuyền điều khiển mấy con thuyền nhỏ. Cô ấy là học sinh có tài, chẳng mấy mà đã biết cách giữ hướng chạy, lái theo hướng gió và cách hạ dây lèo khi cần kíp.

    Thấm mệt vì luyện tập, cô ấy giao mái chèo lại cho tôi, rồi trải đống chăn tôi đã gấp lại để lót đáy thuyền. Khi sắp xếp ngay ngắn kín kẽ mọi thứ, cô ấy nói:

    "Thưa ông, tới giờ lên giường rồi. Ông phải ngủ tới giờ ăn trưa luôn nhé."

    "Tới bữa tối chứ nhỉ." Cô ấy chỉnh lại, mường tượng cách sắp ca trên tàu Bóng Ma.

    Tôi còn làm gì được nữa khi cô ấy kiên quyết nói, "đi mà, đi mà". Cuối cùng thì tôi đưa mái chèo cho cô ấy và ngoan ngoãn vâng lời. Cảm giác thoải mái sảng khoái tràn dâng trong lòng khi tôi bò vào chỗ ngủ được cô ấy tự tay chuẩn bị. Dường như cô đã truyền cảm giác an bình và trấn tĩnh vào mớ chăn, khiến tôi thấy như được chạm vào giấc mộng êm đềm và gương mặt trái xoan với đôi mắt nâu tuyệt đẹp dưới mũ của người đánh cá, lúc thì tương phản với nền mây xám, lúc lại in lên nền biển đen. Thế là tôi chìm dần vào giấc ngủ.

    Tôi nhìn đồng hồ. Bây giờ là một giờ. Tôi đã ngủ bảy tiếng đồng hồ. Còn cô ấy đã lái thuyền suốt bảy tiếng! Ngón tay cô ấy tê cứng hết cả, tôi phải duỗi thẳng chúng ra rồi mới lấy lại mái chèo được. Hoàn toàn kiệt sức, cô ấy không di chuyển nổi khỏi chỗ đang ngồi. Tôi buộc phải thả dây lèo khi đỡ cô ấy đến ổ chăn và xoa tay cho cô ấy.

    "Tôi mệt quá," cô ấy nói, hít nhanh một hơi rồi thở dài, mệt mỏi gục đầu xuống. Nhưng lập tức ngẩng đầu lên.

    "Đừng có mắng tôi, anh mà dám cằn nhằn xem," cô ấy la lên, tỏ vẻ thách thức.

    "Hi vọng gương mặt tôi không có nét giận dữ," tôi nghiêm túc đáp lời, "vì tôi đảm bảo là tôi không có giận chút nào hết."

    "Kh–không có," cô ấy ngẫm nghĩ. "Có vẻ oán trách thôi."

    "Vậy thì đúng rồi, tôi cảm thấy thế thật mà. Cô làm vậy đâu có công bằng với cô và cả tôi nữa. Làm sao tôi tin cô được nữa?"

    Cô ấy có vẻ hối lỗi. "Tôi sẽ nghe lời," cô ấy nói như mấy đứa trẻ hư hay nói "Tôi hứa.."

    "Sẽ vâng lời như một thủy thủ tuân theo mệnh lệnh của thuyền trưởng?"

    "Vâng," cô ấy nói. "Tôi ngu quá đi, tôi phải biết chứ."

    "Vậy cô phải hứa thêm điều này," tôi đánh bạo nói thêm.

    "Được thôi."

    "Cô không được thường xuyên nói" làm ơn "hay" đi mà ", vì mỗi lần như vậy là cô lại chiếm quyền của tôi đó."

    Cô ấy cảm kích cười thích thú. Cô ấy cũng nhận ra quyền năng của việc nói đi nói lại từ "làm ơn".

    "Đó là một từ hay.." Tôi mở lời.

    "Nhưng tôi không nên lạm dụng nó," cô ấy tiếp.

    Rồi cô ấy cười yếu ớt và lại gục đầu xuống. Tôi bỏ chỗ mái chèo một lúc để đi phủ chăn kín đến chân cô ấy và kéo một lớp chăn phủ lên mặt cô. Chúa ơi! Cô ấy có mạnh mẽ gì cho cam. Tôi nghi hoặc nhìn về hướng tây nam và nghĩ đến sáu trăm dặm khó khăn trước mắt – ôi, miễn là không tồi tệ hơn nữa. Trên mặt biển này, bão có thể nổi lên bất cứ lúc nào và hủy diệt chúng tôi.

    Vậy mà tôi không hề thấy sợ. Tôi cực kì hoài nghi chuyện sắp xảy ra, không chút niềm tin vào tương lai, nhưng tôi cũng không hề cảm thấy sợ hãi.

    "Rồi sẽ ổn thôi, phải ổn thôi," tôi cứ lặp đi lặp lại điều đó với bản thân. Tới trưa thì gió mạnh lên, làm nhấp nhô mặt biển vốn đang yên ả và liên tục khiến tôi và con thuyền gặp khó khăn. Nhưng chỗ thức ăn và chín thùng nước giúp con thuyền vững vàng trên biển, trước, còn tôi vẫn cứ liều gan tiếp tục. Rồi tôi bỏ sào căng buồm ra, kéo mạnh đỉnh buồm xuống, chúng tôi lại di chuyển dưới cánh buồm ba góc như các thủy thủ vẫn gọi.

    Lúc xế chiều, tôi nhìn thấy cột khói của một tàu hơi nước phía chân trời ngược hướng gió. Tôi biết hoặc đó là tàu tuần dương Nga, hoặc, có khả năng lớn hơn, đó là tàu Macedonia vẫn đang đi tìm tàu Bóng Ma.

    Cả ngày nay trời không có nắng và cứ lành lạnh. Khi màn đêm kéo xuống, mây cũng sẫm màu và gió càng mạnh thêm, nên tôi và Maud đã đeo găng khi ăn bữa tối. Tôi vừa lái thuyền vừa tranh thủ ăn mấy miếng.

    Khi trời tối hẳn, con thuyền không thể chạy trong cơn gió và mặt biển dữ dội nữa, nên tôi miễn cưỡng cuốn buồm lại và chuẩn bị dừng lại thả neo. Tôi đã nghe thợ săn nói về nó, làm một cái neo cũng đơn giản. Cuộn và cẩn thận buộc buồm lại chung với cột buồm, sào căng buồm cùng hai cặp mái chèo dư, tôi quẳng tất cả qua mạn thuyền. Một sợi dây nối chúng vào mũi thuyền, chúng lững lờ chìm xuống dưới mặt nước, hoàn toàn tránh được gió, nên trôi chậm hơn so với thuyền. Kết quả là nó giữ mũi thuyền trước gió biển trong thế an toàn nhất tránh khỏi cảnh bị cuốn đi khi biển bị cào nát dưới những con sóng bạc đầu.

    "Giờ thì sao?" Maud phấn khởi hỏi, khi tôi đeo găng vào sau khi làm xong việc.

    "Giờ thì mình không đi về Nhật Bản nữa," tôi trả lời. "Chúng ta đang trôi theo hướng đông nam hoặc là đông–đông nam, với tốc độ thấp nhất là hai dặm một giờ."

    "Thì cũng chỉ có hai mươi bốn dặm thôi," cô ấy nói thêm, "nếu gió thổi mạnh suốt đêm kìa."

    "Phải, và chỉ một trăm bốn mươi dặm nếu cứ tiếp tục thế này ba ngày ba đêm nữa."

    "Sẽ không thế này mãi được," cô ấy tự tin nói, "Gió sẽ đổi chiều và thổi mạnh."

    "Biển cả là một tên đại lừa đảo."

    "Nhưng còn cơn gió!" Cô ấy vặn lại. "Tôi nghe nói anh đã thành thạo cách xử lí gió tín phong."

    "Phải chi tôi lấy cả đồng hồ chronometer và kính lục phân của Larsen Sói," tôi uể oải nói. "Lái theo một hướng rồi lại trôi theo một hướng khác. Đó là chưa kể đến dòng chảy đang chảy theo một hướng khác nữa, cho nên không cách nào tính ra vị trí được. Ngắn ngủi năm trăm dặm nữa là chúng ta không biết mình đang ở đâu luôn."

    Rồi tôi xin cô ấy tha lỗi và hứa sẽ không tiếp tục chán nản nữa. Vì cô ấy cứ nài nỉ nên tôi để cô ấy canh lái đến nửa đêm – lúc đó là khoảng chín giờ. Nhưng tôi quấn cô trong chăn và phủ một lớp vải da dầu lên người cô trước khi nằm xuống nghỉ. Tôi chỉ chợp mắt một chút. Thuyền vẫn chao lên đảo xuống khi đi qua những ngọn sóng, tôi có thể nghe thấy tiếng biển xô thuyền và bụi nước vẫn bắn tung lên. Nhưng đêm nay không quá tệ, tôi trầm ngâm – đêm nay chẳng là gì so với những đêm tôi đã trải qua trên tàu Bóng Ma, có lẽ cũng chẳng là gì so với những đêm sắp tới trên cái vỏ sò này. Ván thuyền dày ba phần tư tấc. Ngăn giữa chúng tôi và đáy đại dương là tấm gỗ không đầy một tấc.

    Vậy mà, tôi vẫn quả quyết lặp đi lặp lại rằng tôi không hề sợ hãi. Tôi không còn thấy sợ nỗi sợ cái chết như khi bị Larsen Sói và cả Thomas Mugride đe dọa. Sự xuất hiện của Maud Brewster dường như đã thay đổi con người tôi. Cuối cùng thì, tôi nghĩ, yêu vẫn tốt và ổn hơn là được yêu, khi mà tình yêu có thể biến một điều gì đó trong đời trở nên đáng giá tới nỗi người ta sẵn sàng chết vì nó. Tôi đã bỏ qua chính sự sống của bản thân mình khi dành tình yêu cho người khác, vậy mà ngược đời là tôi càng ham sống hơn khi tôi xem nhẹ giá trị mạng sống của mình nhất. Chưa bao giờ tôi có thật nhiều lí do phải sống như thế, đó là suy nghĩ cuối cùng trong đầu tôi; sau đó, trước khi chìm vào giấc ngủ, tôi tạm bằng lòng với việc xuyên qua màn đêm, nhìn về hướng nơi tôi biết Maud đang rúc vào trong đuôi thuyền, quan sát biển cả đầy bọt sóng và sẵn sàng gọi tôi khi nguy cấp.

    [1] Jehovah: Tên gọi Chúa trong tiếng Hebrew trong một số bản dịch Kinh Thánh.
     
    Nguyễn Ngọc Nguyên thích bài này.
  9. Chanh97hh

    Bài viết:
    73
    Chương 28

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Chẳng cần tốn công kể lại những khó khăn chúng tôi đã trải qua trên chiếc thuyền nhỏ trong mấy ngày vừa cố chạy vừa bị cuốn đi rày đây mai đó trên biển dù muốn hay không. Gió tây bắc thổi mạnh suốt hai mươi bốn giờ, khi trời tĩnh lặng vào đêm thì tới phiên gió tây nam. Răng lợi chúng tôi lạnh cứng, nhưng tôi lấy neo phao và bắt đầu chỉnh buồm, xoay thuyền để gió đẩy chúng tôi đi hướng nam–đông nam. Hoặc là hướng đó hoặc là hướng tây–tây bắc tùy theo hướng gió, nhưng luồng khí ấm phương nam xuất hiện, thổi bùng lên trong tôi ham muốn tiến vào một vùng biển ấm áp hơn và làm lung lay quyết định của tôi.

    Tôi vẫn nhớ khá rõ vào khoảng nửa đêm, trong khoảng ba tiếng đồng hồ, biển cả thẫm sắc đen tối tăm nhất mà tôi từng thấy, còn cơn gió vẫn thổi theo hướng tây nam và ngày càng dữ dội hơn, tôi lại bắt buộc phải thả neo. Cho tới chạng vạng sáng thì tôi cũng mệt nhoài, biển vỗ những đợt sóng trắng xóa đẩy thuyền lên gần như dựng đứng theo chiều ngang của neo. Chúng tôi lâm vào nguy cơ sắp bị sóng lớn nhấn chìm. Sóng hất cả đống nước vào thuyền, còn tôi thì tát ra không ngừng. Chăn mền ướt hết cả rồi. Tất cả mọi thứ đền ướt trừ Maud. Cô ấy vẫn khô ráo trong lớp da dầu, đôi giày cao su và mũ vành chống nước, chỉ có khuôn mặt cùng đôi tay và mái tóc là bị ướt.

    Thỉnh thoảng cô ấy giải phóng tôi khỏi nhiệm vụ một lúc, dũng cảm tát nước đi và đối mặt với cơn bão. Gió không quá tệ, chỉ hơi mạnh một chút, nhưng với chúng tôi thì nó không khác gì một cơn bão khi phải giành lấy sự sống trên còn thuyền bé nhỏ này.

    Chúng tôi vật vã qua ngày trong cái lạnh và u ám, gió vẫn thổi thốc vào mặt và biển trắng xóa gầm rú dữ dội. Ban đêm, cả hai đều không ngủ được. Khi ngày mới tới thì gió vẫn thốc vào mặt chúng tôi và biển trắng vẫn gầm rú. Đêm thứ hai, Maud gục xuống vì kiệt quệ. Tôi dùng vải dầu và bạt che chắn cho cô ấy.

    Cô ấy được tương đối khô ráo nhưng tê cóng vì lạnh. Tôi đã rất sợ cô ấy sẽ không qua khỏi đêm đó, nhưng sáng hôm sau vẫn đến, vẫn lạnh và u ám, trời đầy mây và gió giật còn biển thì gầm rú. Tôi đã không ngủ suốt bốn mươi tám tiếng. Ướt và lạnh tới tận xương tủy, tôi cảm thấy mình như chết đi rồi. Người tôi căng cứng vì làm việc quá sức và vì lạnh, cơ bắp đau nhức khiến tôi cảm thấy nỗi thống khổ tận cùng mỗi khi phải cử động, và tôi vẫn phải hoạt động liên tục. Lúc này chúng tôi đang bị đẩy về hướng đông bắc, ngược hẳn hướng đến Nhật Bản, tiến thẳng vào vùng biển Bắc Thái Bình Dương hoang vu.

    Nhưng chúng tôi vẫn sống, con thuyền vẫn chịu đựng được, dù gió vẫn mạnh mẽ thổi. Thật ra vào khoảng chập tối ngày thứ ba, gió giật mạnh hơn gấp ba lần. Mũi tàu chúi xuống biển rồi bật lên mang theo một đống nước. Tôi tát nước như điên. Nguy cơ chúng tôi đi đến một vùng biển khác tăng vọt lên theo lượng nước tràn vào thuyền, nhấn chìm nó xuống. Vùng biển khác sẽ là dấu chấm hết. Khi tôi tát sạch nước trong thuyền rồi, tôi buộc phải lấy tấm vải bạt che cho Maud để che mũi thuyền lại. May mà tôi làm vậy, nhờ tấm vải bạt che phủ một phần ba từ đầu đến đuôi thuyền, nên trong vài giờ sau đó, đã có ba lần nó cản cả đống nước tràn vào thuyền mỗi lần mũi thuyền chúi xuống biển.

    Maud thật đáng thương. Cô ấy ngồi thu lu ở dưới lòng thuyền, đôi môi xanh mét và gương mặt tái nhợt thể hiện rõ những đau đớn cô phải chịu đựng. Nhưng ánh mắt cô ấy nhìn tôi vẫn đầy kiên quyết, đôi môi cất những lời dũng cảm hơn bao giờ hết.

    Có lẽ đó là đêm bão nổi kinh khủng nhất, dù tôi không hề nhận thấy điều đó. Tôi kiệt quệ chìm vào giấc ngủ ngay chỗ ngồi lái phía đuôi thuyền. Sáng ngày thứ tư, gió nhẹ nhàng thổi, biển thôi gầm rú và mặt trời lại chói chang trên đầu chúng tôi. Ôi, mặt trời thiêng liêng! Tắm thân thể bạc nhược của mình trong ánh nắng mặt trời ấm áp, tôi cảm thấy được hồi sinh như loài sâu bọ côn trùng sau cơn giông bão! Chúng tôi lại nói chuyện, vui đùa với nhau và niềm lạc quan về tình hình trước mắt cũng tăng thêm.

    Ấy vậy mà chuyện lại còn tồi tệ hơn rất nhiều. Chúng tôi đã cách xa Nhật Bản hơn nhiều so với đêm chúng tôi vừa rời khỏi tàu Bóng Ma. Tôi cũng không thể làm gì hơn là áng chừng kinh độ và vĩ độ vị trí của chúng tôi. Nếu tính rằng chúng tôi bị cuốn đi với vận tốc hai dặm một giờ trong suốt cơn bão dài bảy mươi giờ có lẻ vừa rồi, thì chúng tôi đã trôi ít nhất một trăm năm mươi dặm về hướng đông bắc. Nhưng con số đó có đúng không? Lỡ biết đâu được là bốn dặm chứ không phải hai dặm một giờ thì sao, nếu vậy, chúng tôi lại xa thêm một trăm năm mươi dặm.

    Dù không biết chúng tôi đang ở đâu, nhưng rất có khả năng là tàu Bóng Ma chỉ ở đâu đó gần đây thôi. Bầy hải cẩu đang ở chung quanh, nên tôi đã chuẩn bị tinh thần đón tìm những con tàu đánh bắt hải cẩu vào bất cứ lúc nào. Chúng tôi có bắt gặp một chiếc vào buổi trưa khi gió tây bắc lại nổi mạnh lên lần nữa; nhưng rồi chiếc tàu ấy cũng biến mất ở phía đường chân trời, bỏ lại chúng tôi một mình lênh đênh giữa biển rộng.

    Những ngày ngập sương sau đó, đến Maud cũng không còn đủ sức hăng hái nô đùa được câu nào nữa; những ngày tĩnh lặng, chúng tôi trôi vô định giữa biển cả mênh mông cô độc, chịu đầy áp lực của sự mênh mông đó, đồng thời kinh ngạc vì sức sống nhỏ bé diệu kì vì chúng tôi vẫn đang sống và đấu tranh để được sống; rồi những ngày mưa tuyết bão bùng, làm gì cũng không thể ấm lên được; hay những ngày mưa phùn không ngớt, chúng tôi hứng nước nhễu giọt từ cánh buồm cho đầy thùng nước.

    Tình yêu tôi dành cho Maud ngày một lớn thêm. Cô ấy có thật nhiều khía cạnh khác nhau, nhiều tâm trạng thất thường – tôi gọi cô ấy là "Tâm tính Protean[1]". Nhưng tôi chỉ gọi cô ấy bằng tên ấy và bằng cả những tên gọi trìu mến khác trong suy nghĩ của chính tôi mà thôi.

    Dù lời yêu đã chực thốt ra khỏi đầu môi tôi cả ngàn lần, nhưng tôi biết giờ chưa phải lúc thích hợp. Dù không có lí do gì khác, thì thời điểm một người đang bảo vệ và cứu giúp một người phụ nữ không phải là lúc thích hợp để bày tỏ tình yêu đối với người phụ nữ đó. Trong tình huống hết sức nhạy cảm lúc này, với không chỉ riêng chuyện này mà cả với các vấn đề khác nữa, tôi cảm thấy tự hào khi bản thân đã xử trí thật tinh tế; và cũng tự hào là tôi không hề có cử chỉ nào để lộ tình yêu mà tôi dành cho cô ấy. Chúng tôi chỉ như những người đồng chí tốt của nhau, mỗi ngày trôi qua, chúng tôi lại càng thêm gắn bó khăng khít.

    Có một điểm khiến tôi ngạc nhiên là cô ấy không hề nhút nhát hay sợ hãi. Biển cả kinh hoàng, con thuyền mỏng manh, cơn bão, những khổ sở, tình trạng kì quặc và cô độc này có thể làm khiếp đảm bất kì người phụ nữ mạnh mẽ nào, nhưng dường như chẳng thể làm sờn lòng người phụ nữ vốn chỉ biết đến cuộc sống an toàn thoải mái dưới mái nhà và cảnh trí nhân nạo, người phụ nữ với tâm hồn tinh khiết như lửa, như sương, như mây mù – tất cả những gì êm ái và dịu dàng nữ tính. Nhưng rốt cuộc tôi lại sai. Cô ấy có nhút nhát và sợ hãi, nhưng cũng đầy dũng cảm. Cô ấy cũng sinh ra với thân thể bằng máu thịt và những bồn chồn lo lắng sinh ra từ thân xác ấy, nhưng đau đớn xác thịt chỉ là nỗi khổ phàm trần. Khía cạnh mạnh nhất, nổi trội nhất trong cô là linh hồn thuần khiết, là phần tinh túy của sự sống, nó luôn trấn định như ánh mắt của cô ấy, bất biến giữa dòng đời vạn biến.

    Bão lại đến, bão suốt từ sáng đến đêm thâu, biển dọa nạt chúng tôi bằng những con sóng bạc đầu gầm rú. Còn gió vả những cú tát khổng lồ vào con thuyền khốn khổ của chúng tôi, đẩy chúng tôi trôi dạt ngày càng xa hơn nữa về phía đông bắc. Chính trong cơn bão khủng khiếp và tồi tệ nhất đó, tôi đảo mắt mệt mỏi nhìn về phía khuất gió, không phải để tìm kiếm thứ gì mà chỉ vì sự mỏi mệt khi phải đương đầu với cơn bão dữ dội cùng lời khẩn cầu thầm lặng xin cho cơn bão hung tợn này mau tan để chúng tôi lại được yên ổn. Lúc đầu tôi không thể tin nổi vào mắt mình; có lẽ nhiều ngày mất ngủ và lo âu đã khiến tôi loạn trí và hoang tưởng. Tôi nhìn về Maud để tìm kiếm sự xác nhận với chính bản thân mình giữa không gian và thời gian lúc đó. Hình ảnh cô ấy với gò má ướt đẫm, mái tóc tung bay và đôi mắt nâu can trường khẳng định rằng thị lực của tôi không hề suy giảm đi. Tôi lại nhìn về phía khuất gió và lại nhìn thấy mũi đất nhô cao, đen ngòm, cao vút và trơ trọi, những con sóng dữ dội vỡ tan dưới chân nó và đập vào nó thành những cột nước bắn lên tung tóe, đường bờ biển tối đen nguy hiểm chạy dài theo hướng đông nam được viền bởi chiếc khăn quàng màu trắng khổng lồ.

    "Maud," tôi gọi, "Maud."

    Cô ấy quay đầu lại và trông thấy nó. "Không thể là Alaska được!" Cô ấy gào lên.

    "Không," tôi đáp lời; rồi hỏi tiếp, "cô biết bơi không?"

    Cô ấy lắc đầu. "Tôi cũng không biết bơi," tôi nói. "Vậy là chúng ta không bơi vào bờ được rồi, chúng ta có thể lái thuyền vào chỗ khoảng trống giữa các tảng đá để trèo ra. Nhưng chúng ta phải thật nhanh – và phải thật cẩn thận."

    Tôi nói đầy tự tin, dù tôi không dám chắc chút nào. Theo ánh mắt không nao núng đặc trưng của cô ấy khi cô ấy nhìn tôi, hẳn là cô ấy cũng nhận ra điều đó, cô ấy nói:

    "Tôi vẫn chưa cảm ơn anh, vì tất cả những điều anh làm cho tôi, nhưng.." Cô ấy ngập ngừng, cứ như đang suy ngẫm phải nói như thế nào để tỏ lòng biết ơn.

    "Nhưng sao?" Tôi thô lỗ chen ngang vì cảm thấy phật lòng với việc cô ấy cảm ơn tôi vào lúc này.

    "Anh có thể giúp tôi," cô ấy cười.

    "Bằng cách nhận biết lòng biết ơn của cô trước khi cô chết? Không đâu. Chúng ta sẽ không chết. Chúng ta sẽ cập bờ hòn đảo đó và sẽ lại được ấm cúng an toàn trước khi trời tối."

    Dù không dám tin tưởng vào những lời đó nhưng tôi vẫn nói hết sức quả quyết. Không phải tôi tự nói dối bản thân cho đỡ sợ. Tôi không hề cảm thấy sợ hãi, dù tôi biết chúng tôi có thể chết trong sóng cồn cuồn cuộn giữa những tảng đá đang ngày càng gần kề kia. Vì chẳng có cách nào để dong buồm tiến về phía bờ đó cả. Gió sẽ thổi lật thuyền ngay tắp lự; hoặc biển sẽ nhấn chìm con thuyền ngay khi nó bị cuốn vào vùng xoáy; chưa kể đến buồm được buộc chung với mái chèo đang bị kéo trôi trên biển ngay trước chúng tôi. Như đã nói, tôi không hề sợ hãi cái chết cách vài trăm thước phía khuất gió kia; nhưng tôi kinh sợ ý nghĩ Maud cũng sẽ phải chết. Trí tưởng tượng chết tiệt của tôi hình dung ra cảnh cô ấy bị quăng quật và xé nát giữa những tảng đá, điều đó thật sự quá kinh khủng. Tôi cố ép bản thân phải nghĩ rằng chúng tôi sẽ cập bờ an toàn, nên tôi đã nói những lời mà tôi muốn tin là sẽ xảy ra, dù rằng tôi chẳng hề tin vào điều đó.

    Ý nghĩ về cái chết khủng khiếp đó làm tôi nao núng, trong một khoảnh khắc tôi bỗng có ý nghĩ điên rồ là hãy bồng Maud lên rồi nhảy khỏi thuyền, sau đó tôi sẽ đợi đến giây phút cuối cùng để ôm lấy cô ấy và thổ lộ tình yêu của tôi, chúng tôi sẽ cùng vật lộn trong tuyệt vọng để rồi chết cùng nhau, khi cô còn trong vòng tay tôi. Chúng tôi cứ nhích lại gần nhau hơn giữa lòng thuyền. Tôi cảm nhận được đôi tay lạnh cóng của cô ấy đang chạm vào tay tôi; cứ như vậy, không nói một lời, chúng tôi chờ đợi giây phút cuối cùng. Chúng tôi không cách xa chỗ gió thốc vào mũi đá là bao, tôi nhìn chúng với hi vọng là có dòng chảy hoặc biển sẽ kéo chúng tôi trở lại trước khi con sóng ập đến.

    "Sẽ qua được thôi," tôi nói, vẫn với sự tự tin chẳng thể lừa nổi bất kì ai trong chúng tôi. Năm phút sau đó, tôi gào lên: "Thề có Chúa! Chúng ta sẽ qua được!"

    Tôi bật rủa lên trong niềm vui mừng – tôi nghĩ đây là lần đầu tiên trong đời tôi rủa lên như thế, trừ khi từ "tai họa" cửa miệng của tôi khi còn trẻ cũng được tính là nguyền rủa.

    "Cô mới nói gì cơ," tôi hỏi.

    "Lần này tôi tin vì cuối cùng anh cũng nói lời thật lòng mình," cô ấy cười mỉm.

    "Giờ tôi biết chắc là chúng ta sẽ qua được thôi."

    Tôi đã thấy mũi đất nhọn phía xa đằng sau rìa rẻo đất nhô cao, chúng tôi thậm chí còn có thể thấy rõ ràng đường bờ biển hõm sâu kia là một vịnh sâu. Cùng lúc đó, chúng tôi nghe bên tai có tiếng rít the thé liên tục. Âm thanh đó cộng hưởng với tiếng sấm dội lại từ đằng xa, kéo đến từ phía khuất gió, cuồn cuộn phía trên ngọn sóng và nhằm thẳng vào miệng bão. Khi qua khỏi mũi đất, toàn bộ vịnh nhỏ hiện ra trước mắt chúng tôi, sóng vỡ tung khi vỗ vào bờ biển cát trắng hình bán nguyệt chữa đầy hải cẩu. Chính chúng đã tạo ra âm thanh the thé đó.

    "Một quần thể hải cẩu!" Tôi hét toáng lên. "Chúng ta được cứu rồi. Chắc chắn phải có người và đội tuần dương bảo vệ chúng khỏi thợ săn hải cẩu. Không chừng sẽ có một đồn gác ở trên bờ này."

    Nhưng sau khi quan sát sóng vỗ vào bờ biển, tôi nói: "Tình hình vẫn chưa tốt lắm, nhưng cũng không quá tệ. Nếu Chúa nhân từ thì giờ chúng ta sẽ trôi dạt đến mũi đất tiếp theo và cập bến một bãi biển khuất gió để có thể lên được bờ mà không ướt một cọng lông chân nào."

    Và Chúa đã thực sự rủ lòng thương. Mũi đất thứ nhất và thứ hai đều nằm thẳng hướng gió tây nam; nhưng khi vòng qua mũi thứ hai – ở khoảng cách gần tới mức nguy hiểm – chúng tôi chọn mũi đất thứ ba, nó cũng thẳng theo hướng gió như hai mũi đất trước. Nhưng cái vịnh nhỏ cong vào chỗ này! Nó cắt sâu vào trong đất liền, thủy triều dâng lên cuốn chúng tôi vào mũi khuất gió. Biển nơi này hiền hòa, chỉ có những cơn sóng lớn nhịp nhàng, tôi cuốn neo lên và bắt đầu chèo. Từ chỗ mũi đất, bờ biển uốn cong xa dần về phía tây và phía nam, rồi nó dẫn đến một vịnh nằm trong vịnh, một cảng nhỏ nằm sâu trong đất liền, mực nước chỉ ngang bằng mực nước hồ thông thường, sóng gợn lăn tăn trước cơn gió lang thang, nơi hơi thở gió bão đã quất lên vách đá già cau có, đẩy bờ biển vào sâu hơn cả trăm mét.

    Nơi này không hề có hải cẩu. Đuôi thuyền vướng vào đám đá cuội. Tôi nhảy xuống, chìa tay đón Maud. Giây tiếp theo cô ấy đã đứng cạnh tôi. Khi tôi thả cô ấy ra, cô ấy vội níu lấy cánh tay tôi. Cũng ngay lúc đó tôi nghiêng ngả, như sắp ngã xuống cát. Đó là hệ quả không ngờ tới của việc ngừng chuyển động. Chúng tôi đã trôi dạt trên những con sóng dập dìu trên biển quá lâu, nên cảm thấy choáng váng khi đặt chân lên đất liền bằng phẳng. Chúng tôi những tưởng bờ cát sẽ nâng chúng tôi đi từ bên nọ sang bên kia và những vách đá sẽ nghiêng tới ngả lui như vách tàu, chúng tôi đã chuẩn bị gồng người ứng phó với những chuyển động bất chợt đó thì sự bất động lại làm chúng tôi mất thăng bằng.

    "Tôi phải ngồi xuống thôi," Maud nói với nụ cười gượng và vẻ choáng váng, cô ấy ngồi xuống cát ngay lập tức.

    Tôi buộc thuyền lại rồi cũng đến ngồi cùng cô ấy. Vậy là chúng tôi đã cập bến đảo Nỗ Lực, chúng tôi gọi nó như vậy, trong tình trạng say đất liền vì quãng thời gian dài lênh đênh trên mặt biển.

    [1] Protean: Người hay vật có đặc trưng giống thần Proteus, vị thần Hi Lạp cai trị biển cả thất thường và hay thay đổi.
     
    Nguyễn Ngọc Nguyênthanhpv1411 thích bài này.
  10. Chanh97hh

    Bài viết:
    73
    Nguyễn Ngọc Nguyênthanhpv1411 thích bài này.
    Last edited by a moderator: 27 Tháng một 2019
Từ Khóa:
Trạng thái chủ đề:
Đã bị khóa
Trả lời qua Facebook
Đang tải...