Welcome! You have been invited by Ponieee to join our community. Please click here to register.
Bài viết: 0 Tìm chủ đề
HỒI THỨ TƯ

Ngộ Nguyên Tử chú giải

Ngộ Nguyên Tử nói: Hồi trên đã nói toàn thốc ngũ hành. Hòa hợp tứ tượng, hoàn đan thành tựu, căn bản kiên cố, tức có thể thoát sinh tử mà trường sinh. Tuy nhiên chưa đến chỗ thuần dương, chung quy bị tạo hóa câu thúc, không thể cùng thiên địa trường cửu. Bởi thế hồi này nói thứ tự hỏa hậu, vận dụng khiếu diệu, tuần tự mà tiến, có thể đạt đến chỗ thuần dương vô âm vậy.


Kim đan đại đạo có hai thứ là hoàn đan và đại đan. Hoàn đan ấy, tức là trở về lúc mới sinh, trở về lương tri lương năng vốn có vậy. Trở về bản lai diện mục, tức như từ hạ giới mà thăng thiên cung. Cần gấp phải đem vật bản lai đó mà ôn dưỡng, không được để một chút lậu tiết, biệt lập càn khôn, tái tạo đỉnh lô mà luyện đại đan, cho đến khi đả phá hư không mới liễu đạo. Bởi thế mà Ngộ Không lên trời, Ngọc Đế cho giữ chức quan giữ ngựa Bật Mã ôn vậy. 《Kiền》chí dương tức rồng (long), tức ngựa (mã), ngự mã tức có thể dưỡng dương vậy. "Ngày đêm không ngủ, bồi dưỡng ngựa", tức 《 Dịch》nói "quân tử chung nhật kiền kiền, tịch dịch nhược lệ". "Thiên Mã thấy Ngộ Không thì sợ hãi cụp tai thu vó", đó là dùng pháp chế vậy. "Nuôi dưỡng cho đến lúc béo tốt phì nhiêu", đó là kết quả đạt được vậy. "Bất giác nửa tháng có dư trôi qua", nửa tháng tức mười năm ngày, 'có dư' ấy, là dương chi cực vậy. Hoàn đan ôn dưỡng đã đủ, phân chia có hỏa hậu, có công dụng, mà nay có thể rời 'Ngự Mã giám' được rồi vậy. Bởi thế mà Ngộ Không hỏi quan hàm phẩm, mà biết rằng chưa được 'nhập lưu' vào hàng quan phẩm, tức thì nổi giận nói: "Không làm nữa! Không làm nữa! Ta đi đây", nói rồi hô lên một tiếng, đạp đổ công án, đó là thoát nhiên siêu quần vậy. Bật Mã ôn đại thiên 'dưỡng mã', tức là 'quan thiên đạo' vậy. Theo mệnh trời mà làm, vậy cớ sao lại 'đạp đổ công án', việc này khiến độc giả khó giải thích được.

Bởi đạo kim đan, là đạo tiên thiên mà không phải 'thiên'; đắc chân mà bao la thiên địa, cùng thái hư đồng thể, mà 'thiên' cũng nằm bên trong, thế thì làm sao lại chịu thiên mệnh, làm sao cứ giữ mãi chức quan coi ngựa được. Bật Mã Ôn đại thiên dưỡng mã, tức hậu thiên mà phụng thiên thời vậy.'phụng thiên thời' đó, tức là lúc chân dương chưa thuần, cần phải ôn dưỡng cho đủ. Hoàn đan đã kiên cố, căn bản đã lập, chính là lúc biệt lập càn khôn, tái tạo lô đỉnh, là lúc làm việc lớn, đó không phải việc 'phụng thiên thời' nữa. Đến đây phải thực hiện kế lâu dài, là lúc hướng đại đạo mà chân bước thực địa, thẳng đến chốn thần tiên, làm sao một chức quan giữ ngựa có thể coi là cực đại được? Đó là với người phàm thì là cực đại, mà ở nơi thiên cung thì nói là chưa 'nhập lưu', tức kim đan đại đạo chưa được toàn thủy toàn chung vậy. Kinh phật nói: "Bách xích can đầu bất động nhân, tuy nhiên đắc nhập vị vi chân. Bách xích can đầu canh bính bộ, bặc đinh thế nghệ thị toàn thân." Nên nói rằng: "Không làm nữa, không làm nữa, đem công án đạp đổ", đó là muốn được 'bách xích can đầu canh bính bộ' vậy, đại hóa mà nhập vào thánh vực vậy. "Mọi người thấy Ngộ Không vác gậy đánh ra cửa Ngự Mã giám, thẳng đến cửa Nam Thiên. Thiên binh biết Hầu vương có tên trong sổ tiên, là Bật Mã ôn, không dám ngăn cản, để mặc Hầu vương ra khỏi cửa trời", đó không phải Ngộ Không đi, mà đạo khiến phải đi vậy. Đề cương nói: "Quan phong bật mã tâm hà túc", thành sự chưa đủ vậy. Ngộ Không trở về động nói với đám khỉ rằng: "Ngọc Đế không biết dùng người, thấy ta hình dạng thế này, phong ta làm" Bật Mã Ôn ", làm cái việc nuôi ngựa, chẳng liệt vào hàng quan nào cả.. tahất đổ bàn tiệc, không nhận chức quan đó, liền bỏ trở về". Đó là đã hoàn đan xong, mà bắt đầu đại đan. Đại đan công phu, không đến địa vị thuần âm vô dương thọ cùng thiên địa thì không dừng lại, tuy không muốn 'đạp đổ công án' mà không thể không làm vậy.

Hai độc giác quỷ vương đến hiến hoàng bào là có ý nghĩa trong đó vậy.'Hai' ấy, số chẵn vậy (chỉ vạch âm - -). 'Độc Giác quỷ vương' tức âm ở phía trên vậy; 'hoàng bào' ấy, 'hoàng' thái quá thành 'xích' sắc, nghĩa thái quá (kháng). Đó là tượng quái《Quải》, Ngộ Không là ngũ dương, Quỷ vương là một cặp, không phải quẻ 《Quải》hay sao? 《Quải》tận cùng sẽ thuần dương, không phải là Tề Thiên đại thánh hay sao? "Thác tháp Thiên Vương Lý Tĩnh là hàng ma đại nguyên soái", 《Quải》thượng quái vậy; "Na Tra là tam đàn hội hải đại thần", tức 《Quải》hạ quái vậy; "Cự linh thần là tiên phong", nhất âm 《Quải》quái vậy. "Hầu vương đánh một gậy làm chiếc búa của Cự Linh thần gẫy làm đôi", là cương 'quyết' nhu vậy. Hầu vương cười nói: "Đồ vô tích sự, Đồ vô tích sự! Ta tha chết cho ngươi, mau về báo tin đi!", đó là 'kiện mà duyệt, quyết mà hòa' vậy. "Na Tra biến thành ba đầu sáu tay, hung ác tay cầm sáu loại binh khí, hùng hổ đánh tới", đó là 《Quải》cửu tam, đó là tráng khí biểu hiện bên lên mặt (tráng vu quỳ), đó là tượng 'quyết' mà bất hòa vậy. "Đại thánh bèn hô một tiếng" biến ", liền biến thành ba đầu sáu tay, cầm gậy sắt bịt vàng vung tít, và cũng biến thành ba cây gậy. Sáu tay cầm ba cây gậy đánh đỡ", tức "quải" cửu tam: 'quân tử quải quải', tượng 'quyết' rồi lại 'quyết'. "Ngộ Không luồn ra phía sau Na Tra, nhằm vai trái đánh một gậy, Na Tra nhận một gậy, đau quá bỏ chạy", tức "quải" sơ cửu: Tượng "tráng vu tiền chỉ, vãng bất thắng vi cữu" (mạnh ở đầu ngón chân, ra đi không thắng mà gặp nguy). Thiên vương nói: "Không cùng con khỉ này tranh thắng, hãy tạm trở về thượng giới, điều thêm binh tướng rồi tróc nã hắn sau", đó là 《Quải》cửu nhị: Tượng cho "dịch hào, mạc dạ hữu nhung, vật tuất" (cẩn thận, trong bóng tối có mai phục, chớ dùng binh), thong thả mà trì hoãn, muốn được trung đạo vậy. "Hầu vương đắc thắng trở về núi, kêu sáu huynh đệ cùng xưng đại thánh, bảy đại thánh tự do tự tại, tự thuần tự đại", các câu như thế, chung quy nói rằng, tu trì đại đan, lấy dương 'quyết' âm, thừa dịp mà động, tiên thiên mà không phải 'thiên', tự chủ mà không phải 'thiên' làm chủ. Thế nhưng kim đan đại đạo, cốt yếu cần phải cương nhu tương đương, nếu chỉ cương không nhu, dương cực tất âm, khó tránh được lại gặp nạn, bởi thế Kim Tinh tấu rằng: "Con yêu hầu đó chỉ biết nói ngoài miệng, không biết lớn nhỏ (đại, tiểu)", đại tức là dương, tiểu là âm, biết đại biết tiểu, có cương có nhu tức là đại thánh; chỉ có đại không có tiểu, chỉ cương mà không có nhu tức là 'yêu'. Phân thành 'yêu' 'thánh' chỉ tại biết được đại tiểu hay không biết đại tiểu đó mà thôi. Lại nói: "Phong nó làm" Tề Thiên đại thánh "nhưng chỉ có chức suông thôi, có quan mà không có lộc", tức là 《Kiền》thượng cửu, từ viết "Quý nhi vô vị, cao nhi vô dân", (quý mà không có địa vị, cao mà không được lòng dân), dương cương quá thịnh, táo khí chưa hóa, tự túc tự mãn, chỉ biết có mình, không biết có người, làm sao được 'hữu dân'? Kim Tinh lĩnh chỉ đến Hoa Quả sơn gặp đại thánh, nói rằng: "Thông thường nhận chức quan đều phải từ nhỏ tới lớn, sao lại ngại chức quan nhỏ", thế mới biết có thể 'tiểu' mới có thể 'đại', không thể được lên cao mà không ở vị trí thấp, đại mà bất tiểu vậy. Ngọc Đế nói: "Tôn Ngộ Không lại đây, lệnh tuyên ngươi là Tề Thiên đại thánh, quan phẩm cực vậy, từ nay không được làm việc hồ đồ", đó là dương tiến đến chí cực, cần phải biết 'tiến thối tồn vong, mà không được vọng động mà hối hận vậy. "Tại ngay bên phải vườn đào, xây dựng một tòa phủ, trong phủ thiết lập hai ty: Một ty gọi là 'An Tĩnh ty', một ty gọi là 'Trữ Thần ty'", dương cực phải lấy âm tiếp, an tĩnh mà 'trữ thần', lấy âm mà dưỡng dương vậy, đó là đề cương nói rằng "Danh chú tề thiên ý vị trữ", đó là nghĩa dương thái quá mà khô nóng, như 'ý vị trữ', thế nên cần phải an tĩnh cho đến khi 'ý trữ' (ý an tĩnh). "Hầu vương tin tưởng phụng mệnh mà làm, cùng Ngũ Đẩu tinh quân uống rượu", đó là ngũ hành hỗn hợp, táo khí tất hóa, 'kiện mà duyệt, quyết mà hòa' vậy. Từ đó mới toại tâm mãn ý, vui mừng hớn hở, khoái nhạc với việc làm thiên quan, không có gì trở ngại. Dương khí thuần mà âm khí tận, công thành ghi danh thiên thượng, đại trượng phu công thành danh toại vậy. Thế nên "Tiên danh vĩnh chú trường sinh kiêm, bất đọa luân hồi vạn cổ truyện" vậy.

Hồi này là do bởi hoàn đan mà có thể thực hiện đại đan, phát triển diệu dụng 'quyết âm' mà được thuần "kiền", bên trong có khẩu quyết, độc giả cần nghiên cứu cho rõ thâm ý.

Quy căn phục mệnh thị hoàn đan, dưỡng đáo thuần dương tái hoán đàn.

Bất hiểu cá trung tiêu tức ý, thánh cơ tuy nhập đạo nan hoàn


(Quy căn phục mệnh là hoàn đan, dưỡng đến thuần dương lại hoàn.

Chẳng bảo cho biết ý tiêu tức trong đó, tuy có thể nhập thánh cơ mà đạo khó trọn vẹn)
 
Last edited by a moderator:
Bài viết: 0 Tìm chủ đề
HỒI THỨ NĂM

Loạn bàn đào đại thánh thâu đan

Phản thiên cung chư thần tróc quái

(Loạn hội bàn đào đại thánh trộm đan, phản thiên cung chư thần đánh quái)

Ngộ Nhất Tử chú:


Ngộ nhất tử viết: Đó là làm sáng tỏ thiên đạo, vật cực tất phản, đó là cơ mật mà quỷ thần không thể biết, chính là tiên thiên chân ất chi khí tự nhiên mà vận dụng, tuyệt không phải là chủ trương của đại thánh. Khởi đầu dùng giả danh để hình dung kỳ diệu vậy. Nếu nhận là tâm viên, lấy làm cơ sở để miêu tả, không biết đạo lý, lấy đó dùng làm văn vũ biến hóa thì sẽ sai một ly đi một dặm vậy.

[HIDE-THANKS]Đại thánh tự chủ mà xếp ngang hàng với trời, đó là chỉ "kiền" thượng cửu, tượng "kháng long". Dương cực tất phản, là đạo lý tự nhiên, đó có phải là đại thánh quả quyết làm phản? Có phải tại thiên cung kiên quyết làm loạn chăng? Thiên cung tức "kiền" là thiên, thượng cửu chi cung vậy. Có phải chân thực là thiên cung mà đại thánh phản loạn? Như thế tất trước tiên ở chỗ có loạn, loạn tất có lý do. Bởi nói tâm viên phóng túng, vô cớ tạo dựng huyễn tướng, kết thành từng đám hỗn loạn, để mà mê mờ nhân tâm vậy.

"Tề thiên phủ đặt tại phía bên phải vườn đào", tất vườn đào ở bên trái vậy. Thiên đạo, đảo ngược vậy. Đại thánh tại vị trí thuần dương chi thượng, khí đó biến đổi từ mát thành nóng, vạn vật phong phú tươi tốt, đến khi dương cực thành thái quá (kháng). Hạ chí tất âm sinh trở thành thế không thể không phản. Âm mà bên trái là bàn đào viên. Bên trái, tức thanh long, thuộc mộc, cho nên là vườn đào. Đó là mời chân nhân trong lúc nhàn nhã sinh sự, Ngọc Đế lệnh trông giữ bàn đào viên, đó là khí vận tất phải như thế, chứ chẳng phải đại thánh có thể tự chủ.

Người đời nghi ngờ, cho rằng đại thánh đã đắc đạo tiên thiên, có thể thống ngự âm dương, mà chẳng để âm dương trói buộc, làm sao lại không thể tự chủ được? Nào biết rằng đạo tiên thiên, nhất thuận nhất nghịch vậy. Lấy nghịch làm thể, từ âm phản thành dương, thành thánh, thành tiên, thành phật, mà nhân vật thuận theo, ma quái thuận theo, địa phủ thuận theo, thiên thần cũng thuận theo. Lấy nghịch làm thể, lấy thuận làm dụng, nghịch sinh thuận vậy. Đó gọi là tiên thiên mà không xa rời thiên, dụng cửu mà không bị cửu sử dụng vậy. Tiên thiên đạo, thuận mà dụng, tất phản dương thành âm, là người, là vật, là quỷ, là ma quái, mà chư thần nghịch, chư thiên nghịch, chư tiên phật cũng nghịch. Lấy thuận làm thể, lấy nghịch làm dụng, thuận sinh nghịch vậy. Đó là hậu thiên mà phụng thiên thời vậy, là dụng lục mà không để lục dụng vậy. Trình tử viết: "Tâm thông thiên địa chi tiên, nhi dụng tất hậu thiên hành sự phối thiên địa chi hậu, nhi tri tất tiên thiên.". Văn ngôn viết: "Biết rõ được tiến thối tồn vong, mà không mất đi 'chính', duy chỉ có bậc thánh nhân vậy!". Đó là phản thiên cung, đại thánh thuận dụng tiên thiên chi diệu vậy.

"Bàn đào viên" ấy, "khôn" cung chi đế xuất ra "chấn" vậy. "Có ba nghìn sáu trăm năm gốc đào" ấy, "khôn" cung mà sáu sáu ba mươi sáu vậy, "phía trước có một nghìn hai trăm gốc" ấy, hào sơ, hào nhị tức hai nhân sáu mười hai vậy, "ba ngàn năm thành thục một lần", đắc hạ thừa vậy. "Ở giữa có một nghìn hai trăm gốc", là "khôn" hai hào ở giữa mà hai sáu mười hai vậy, đắc trung thừa vậy. "Phía sau có một nghìn hai trăm gốc", là "khôn" hai hào ngũ lục, mà cũng là hai sáu mười hai vậy, đắc thượng thừa vậy. "Thành thục" ấy, tức là trong âm có dương vậy. "Từ đó trở đi, ba năm ngày một lần thưởng ngoạn" ấy, năm ngày là một 'hậu', mười năm ngày tức nhất khí, ba năm mười năm, âm khí nhất loạt giáng xuống, sở dĩ có thể thăm hỏi tìm quả chín, đó là thuận thiên mà hành sự vậy. "Chợt nghĩ ra một kế" ấy, là lúc dương thể có biến hóa. "Cởi bỏ mũ mão" ấy, tượng "bác" vậy. "Thu lấy những quả đào lớn, ăn no một bụng" ấy, là dương nhận âm khí của "khôn", mà dương dần biến thành âm. "Hai ba ngày lại đến ăn trộm" ấy, hai ba là năm, cũng là một 'hậu', "Vương Mẫu sai bảy tiên nữ đến chọn đào" ấy, 'hậu'nữ' tức là'cấu' (chữ nữ女với chữ hậu后thành chữ cấu 姤) lục dương mà gặp 'thất' đến vậy, "phục" cho đến bảy ngày mà là "cấu", bởi thế mới là 'thất nữ'. "Đại thánh biến nhỏ thành người dài hai thốn, nằm ngủ trên một cây đại thụ cành là xum xuê", kỳ diệu vậy! Lá xanh tức âm, 'hai' tức âm hào (nét rời --), tiểu tức tượng của âm, bèn biến thành ' -- ' (dài 2 thốn), đại biến thành tiểu, lẻ biến thành chẵn, dương hóa âm, "kiền" mà hào sơ đắc âm mà biến thành "tốn". "Nằm ngủ" ấy, là dương ngừng mà âm thịnh, thuận thiên mà tiềm ẩn, "Dụng cửu, kiến quần long vô thủ", vốn cương mà lấy nhu mà dụng, ở chỗ thái quá mà tiềm ẩn lúc mới đầu. "Tìm đến đình hoa không thấy, chỉ thấy quần áo tại đình, không biết đi đâu, xung quanh đều không thấy" ấy, các câu đó, đều có diệu nghĩa. Tiên nữ đi vào dưới tàng cây hái đào, âm dần tiến mà 'bác' dương vậy. Trước ba giỏ, sau ba giỏ, không phải "Tiên giáp tam nhật", "Hậu giáp tam nhật", tức 'trước ba cùng sau ba' sao? Do bởi trước mà giữa, do bởi giữa mà sau vậy. "Chỉ thấy hoa quả thưa thớt", ẩn ngữ rằng hoa quả mất đi thì chỉ thấy 'bác lạc' thôi vậy. "Tiên nữ nhìn đông ngó tây, chỉ thấy hướng nam trên cành có một quả đào nửa trắng nửa đỏ, thanh y nữ tử kéo xuống, hồng y nữ tử hái lấy", các câu như thế, diệu nghĩa không thể nói hết. Nói "hướng nam", tức liên hệ hướng bắc kết đào; "nửa hồng nửa trắng", tức nghĩa sau khi thành thục; "chỉ thấy" ấy, là thấy ở gần vậy; "thanh y nữ tử kéo xuống", thanh ấy, chân âm chi sắc, trong âm mà ngoài dương vậy; "hồng y nữ tử hái lấy", chân dương chi sắc, ngoại âm mà nội dương; "lúc đó thả tay ra cành cây phóng lên trên, đại thánh kinh hãi tỉnh giấc, tức thì hiện bản tướng", đó là bất kỳ mà gặp, là thuần dương đột nhiên gặp nhất âm, tượng tiểu nhân nữ tử mới tiến. Đó là nhất âm địch lại ngũ dương, mạnh mẽ phải úy kỵ, đó là loạn mà tai họa mới phát sinh vậy.

Đại thánh biết họa mới phát sinh mà nổi giận, nói rằng: "Trộm đào của ta", "trộm đào" tức trộm thiên địa huyền cơ, trộm âm dương tạo hóa. Đến khi tiên nữ nói, thắng hội bàn đào, là ý chỉ Vương Mẫu sai đến hái đào, đông tây nam bắc trung ương chư thánh, rõ ràng là tượng ngũ hành, là đại tiên đại thánh chi khí; đại thánh biết được 'tiêu tức' ấy, đổi giận làm vui, gấp dùng pháp định thân, nói rằng: "Đứng im, đứng!", tức 'cấu' sơ lục "hệ vu kim nị", như chặn xe dừng lại, mà kim tức kiên cường vững chắc, mà muốn cho không tiến lên được, sợ hãi mà nhu đạo bịdẫn dắt vậy. Tiên sư từ bi rất mực, tiết lộ hết cả kỳ diệu hạ thủ kim đan vậy.

Từ đó, "đại thánh ra khỏi vườn đào, đụng ngay Xích Cước đại tiên", đó là "Cấu" sơ lục "luy thỉ phu trịch trục" (con lợn đi tới đi lui). Con lợn gặp nước thì đi lòng vòng, nước tuy chưa sâu, cũng phải nhảy lên, phòng khi nước sâu, đó là thế không thể dừng lại được vậy. Bởi thế mà biến đổi thành lập kế, tức là biến thành hình dạng của Xích Cước đại tiên, chính là "bác" sơ lục, tức là "bác sàng dĩ túc" (gọt đẽo chân giường), bác từ chân giường, âm khí bắt đầu xâm phạm, từ dưới thấp mà lên cao vậy. "Chạy đến Dao Trì, nhưng còn chưa có vị tiên nào đến, đột nhiên nghe một mùi hương rượu thơm.. lại dùng thần thông, đem các bình rượu lại, uống một trận no say", đó là "Cấu" cửu nhị "bao hữu ngư, bất lợi tân" (trong bao có cá, khách không có lợi), như bắt cá mà đến trước, một mẻ lưới bắt hết cá, người đến sau tuy giỏi bắt cá, nhưng cũng không bằng đến trước vậy. Cá trong bao, là vật âm tốt lành, cần phải chế biến ngay, kẻo khách đến thì không kịp vậy. "Đang khi say mèm, tự nói rằng: 'Không tốt! Không tốt! Chi bằng quay về phủ ngủ một giấc thì hơn, nhưng vì say quá đại thánh đi sai đường", tức là "cấu" cửu tam "đồn vô phu, kỳ hành thứ thả" (mông không có da che, mà đứng ngồi không yên), hào tam ở phía trên, trên cao mà thế cô lập không có cứu viện, cầu mà không gặp, bởi thế mà bất an, đứng ngồi không yên, tiến thoái lưỡng nan vậy. "Đi đến cung Đâu Suất, đột nhiên tỉnh ngộ, nhìn không thấy Lão quân, tiến đến tìm mà không thấy ai", tức "cấu" cửu tứ "bao vô ngư, khởi hung" (bao không có cá, gặp hung hiểm). 'tứ' cùng 'sơ' tương ứng tương ngộ, sơ đã gặp nhị vậy, bởi thế mà không kịp đến gặp, mà mất cơ hội thoái lui. Như bao không có cá, dân tâm đã rời xa, khó khăn hành động vậy. "Đi đến phòng luyện đan, thấy năm cái hồ lô, đều là kim đan đã luyện xong, đổ tất cả ra mà ăn", tức "cấu" cửu ngũ tức là "hữu kỷ bao qua, hàm chương, hữu vẫn tự thiên" (lấy cây kỷ bao cây dưa, kín đáo bí mật, từ trên trời rơi xuống), cây kỷ sinh ở chỗ đất tốt, bao lấy cây dưa mà không ăn nó, cây kỷ bao lấy cây dưa, như ngũ dương phòng âm mới sinh, xu thế âm nhất định tan rã vậy. Thế nhưng khí thế mới tăng trưởng, lực không thể tranh cường, không lộ hào khí, mới có thể vãn hồi thiên mệnh. "Trong năm cái hồ lô, đều là kim đan đã luyện thành" tức hàm ẩn sự tốt đẹp bên trong, sở dĩ có thể vãn hồi thiên mệnh, như từ trên trời rơi xuống, vốn không mà lại có; như ta nuốt vào kim đan để tạo mệnh, là theo mệnh trời vậy. Đây là tiên sư đề xuất đạo lý kim đan trong ngoài, cứu nhân độ thế, ý nghĩa to lớn vậy!

"Một lúc sau, ngộ không tỉnh rượu, tự nghĩ:" Không tốt! Sợ kinh động Ngọc đế, tính mệnh khó giữ. Chay! Chạy! Chạy! Không bằng chạy xuống hạ giới làm vua vậy! Chẳng theo đường cũ, theo Tây Thiên môn dùng ẩn thân pháp bỏ chạy về Hoa Quả sơn ", ý nghĩa thật kỳ diệu vậy! Thế nhân chẳng biết điều kỳ diệu trong sách, cho rằng ngộ không phạm luật trời mà chạy trốn vậy, không biết chính là đại thánh thuận thiên tâm mà 'độn' (trốn) vậy, thượng thiên mà hạ sơn, viết là thiên sơn" Độn ". Đại thánh biết thái quá cực hạn (kháng cực) mà tại" Tốn ", ngũ dương chợt 'ngộ' nhất âm mà là" Cấu "." Cấu "tức nguy lệ, thế không thế lấn át," Tốn "là 'căn' nguyên vậy," Độn "là thời 'cơ' vậy," Phủ "mà dần tới" Bác "có 'cơ' sở vậy," Khôn "mới 'sơ' khởi vậy. Đến đây mà không chạy, tức không biết thời cơ vậy, một khi đã chạy, thì thoát khỏi thái quá mới hình thành. Thế nên đại thánh loạn bàn đào, không phải đại thánh làm loạn, mà khí vận loạn vậy; tiên nữ hái đào ấy, không phải Vương Mẫu sai đi hái, mà khí vận sai vậy. Chung quy là bởi" Cấu "mà âm khí sơ khởi. Thiên trung ngụ" tốn "(dưới trời có gió), ý nghĩa rõ ràng, biết được phụ nhân âm khí mãnh liệt, nếu đại thánh chẳng thuận theo mà diệt, nghịch mà chế phục, thì không biết đủ kim đan đại đạo vậy.

Bình giải" tây du ", việc đại thánh loạn bàn đào, phản thiên cung, coi đó là miêu tả phóng tâm huyễn hoặc thì thật oan uổng, thật buồn thay!" Đại thánh trở về núi tụ tập uống rượu, nhảy lên cân đẩu vân, sử dụng ẩn thân pháp, lén đến Dao Trì. Mọi người còn chưa tỉnh, ôm cắp lấy bốn vò rượu lớn, trở về động, lại mở tiệc rượu ", đó là tiềm ẩn, dễ dàng, không trở ngại, không gì không tùy tâm, nghênh xuất mà không thấy đầu, ấn trốn không thấy đuôi; bên phải bên trái, không gì không không hợp. Tuy có gây loạn bốn bề, mà có thể tiềm ẩn không thấy tung tích vậy. Đoạn trên có dùng ba từ" ẩn thân pháp ", đó là hình dung sự kỳ diệu của" độn "mà không thể tìm thấy được vậy.

Đến khi" Ngọc đế nghe tấu trình, sai tứ đại thiên vương, lĩnh mười vạn thiên binh, mười tám cái thiên la địa võng, mà đại thánh chẳng thèm để tâm ". Đó là" hoạn nạn không làm lo lắng, không thể trói buộc được ", đó là độn mà bất độn, không phải đại thánh, ai có thể thoái mái được như thế, tự đắc được như thế!

" Đại thánh đánh lui 'cửu diệu tinh', cười nói: Những việc đó đều do ta làm, người làm gì được ta? "Tứ đại cửu diệu, tức 'cửu tứ' vậy, đều thuộc dương cương. Đại thánh là" đồng nhân "mà" phục nhung vu mãng "(mai phục quân đội trước sự thô mạnh), không dám hiển lộ đối kháng, thăng cao mà bất tiến, nên có thể địch ngũ cương mà chẳng sợ vậy, tức" đồng nhân "cửu tam vậy. Đến khi cửu tứ," cùng đại thánh hỗn chiến, từ giờ thìn đến lúc tối mịt, Độc Giác nhị quái đều bị tróc nã, mạnh ai lấy chạy "ấy," giác ", thuộc quái" cấu "thượng cửu, cương mà ở trên cùng ấy không thể thi triển cương kiện, không địa vị mà cũng không có cơ hội, cùng với cửu ngũ 'hàm chương' có khác biệt, bởi thế mà bị bắt giữ vậy.

Như thế cửu tứ không thể toàn thắng được, tức" Đồng Nhân "cửu tứ mà tượng là" thừa kỳ dong, phất khắc công "(ngồi trên thành cao, không thể tiến công). Tứ đại kiện tướng cùng đại thánh, là" Đồng Nhân "cửu ngũ, cửu ngũ cương kiện trung chính mà đồng tâm, có thể đồng thanh tương ứng, thế nên kết cục an toàn trở về." Trước thì kêu khóc mà sau thì cười vui vẻ "ấy, hà cớ gì mà trước thì kêu khóc? Cứu ứng 'nhị' là 'tam', 'tứ' thì xa cách, mà không thể trợ giúp ngũ, thế nên trước thì kêu khóc, đó là sự thân mật vậy; sau gặp 'ngũ' không bị tổn thương thì cười, bởi thế mà sau cười, cũng là tư tình vậy. Đại thánh nói:" không cần phải phiền não, cẩn thận phòng thủ, ăn cho no bụng, ngủ ngon một giấc, an dưỡng tinh thần ", đó tức" đồng nhân "thượng cửu mà" đồng nhân vu giao, chí vị đắc "vậy. Đại thánh chí hướng thông thiên địa, mà có đủ thời gian, tuyệt không trốn chạy. Đọc đến chỗ" an dưỡng tinh thần"bốn chứ, mà hai hàng lệ tuôn!
[/HIDE-THANKS]
 
Chỉnh sửa cuối:
Bài viết: 0 Tìm chủ đề
HỒI THỨ NĂM

Ngộ Nguyên Tử chú giải:


Ngộ Nguyên Tử viết: Hồi trước đã nói bởi hoàn đan mà tu đại đan, 'thể' quy về thuần "kiền", tức có thể thọ 'tề thiên', tên đăng sổ tiên. Thế nhưng kim đan có diệu dụng dương hỏa âm phù, đương tiến dương hỏa thì tiến dương, đương vận âm phù thì vận âm, âm phù dương hỏa, không mất thời cơ, kim đan mới có thể thành thục. Nếu biết tiến dương mà không biết vận âm, thì kim đan ngay trước mặt mà chưa chắc thuộc về ta, bởi thế tiếp theo hồi trên, hồi này diễn giải tỉ mỉ diệu dụng vận âm phù vậy.

[HIDE-THANKS]"Đại thánh tại tề thiên phủ, ngày ăn ba bữa, đêm đánh một giấc, không phải làm gì, tự do tự tại", đó là tâm xử sự bên ngoài, tĩnh mà đợi thời vậy. Văn Ngôn viết: "Biết tiến thối tồn vong, mà không mất 'chính', duy có bậc thánh"; Ngọ Tinh dương khải tấu: "Tề thiên đại thánh ngày ngày vô sự dong chơi, sợ sau này nhàn quá mà sinh sự", đó là làm rõ rằng dương cực tất âm, nếu chẳng phòng lúc nhàn, sẽ gặp họa được rồi lại mất, đó là xu hướng tất yếu. "Chi bằng giao cho hắn một việc gì, may ra khỏi sinh rắc rối chăng?", tất phải có việc gì đó, mà chớ chính diện, tâm cũng chớ quên. "Ngọc đế lệnh hầu vương làm một chức vụ, quyền quản (tạm thời quản) vườn đào tiên, khiến cho sớm chiều phải lưu tâm", là một ngày mười hai canh giờ, ý đều phải ở đó, triêu "truân" mộ "mông", giây lát chẳng rời vậy. Hai từ "quyền quản" đều có ý nghĩa lớn trong đó, độc giả không nên xem thường. Đại thánh là tiên thiên chi tinh, là chủ của dương, mà quản lý tề thiên phủ là cửu quản (quản lâu dài) ; tiến dương để mà quyết âm, đó là công phu dương hỏa; 'quyền quản' là mượn âm để thành toàn dương, đó là công phu âm phù. Đại thánh biết mà không thể để mất 'thời', bởi thế mà hoan hỉ đồng ý, hướng lên trên bái tạ mà rời đi.

"Vườn đào có ba nghìn sáu trăm gốc", đó là quẻ "khôn" toàn thể, là số của sáu sáu ba mươi sáu; phía trước có một nghìn hai trăm gốc, hoa nhỏ quả bé, ba nghìn năm thì chín, người ăn vào liễu đạo thành tiên, thân thể khỏe mạnh nhẹ nhàng, tức trong "khôn" phát sinh nhất dương, quẻ "Phục", nhị dương quẻ "Lâm", hai sáu mười hai, âm biến thành dương tức là quả, dương khí mới sinh, bởi thế quả nhỏ vậy; "ở giữa có một nghìn hai trăm gốc, hoa thơm quả ngọt, sáu nghìn năm mới chín, người ăn vào cử hà phi thăng, trường sinh bất lão", tức trong "Khôn" phát sinh tam dương tức quẻ "thái", tứ dương tức quẻ "đại tráng", hai sáu mười hai, là kết quả âm biến thành dương, dương khí tráng thịnh, nên hoa thơm quả ngọt vậy; "mặt sau một nghìn hai trăm gốc", vỏ tím hạt vàng, chín nghàn năm mới chín một lần. Người ăn vào thọ cùng trời đất nhật nguyệt, tức trong "khôn" phát sinh ngũ dương tức "quải", lục dương tức "kiền", hai sáu mười hai, kết quả của âm biến thành dương, dương khí thuần toàn, bởi thế mà vỏ tím hạt vàng vậy. Bởi "khôn" mà "kiền", tự 'lục' trở về 'cửu', âm biến thành dương, nên phía sau vườn đào chín năm (cửu kiền niên) mới chín. "Đào" đó, quả vậy, bên trong có hạt, hạt ấy thuộc dương; dương khí thuần dương, tức là đào chín; thành thục đó tức là kim đan thành thục; kim đan thành thục, hái về mà ăn, xu thế không thể dừng lại được vậy.

"Đại thánh nghe thấy thế thì hoan hỉ, điều tra đã rõ thì liền trở về phủ", đó biết rõ thời hậu mà vui mừng, điều tra sáng tỏ hỏa hầu vậy. "Ba năm ngày một lần thăm hỏi", tam ngũ hợp nhất, tiên thiên dương khí viên mãn vậy. "Thấy đào chín thì muốn ăn", thu phục dương lúc mà âm chưa phát vậy. "Chợt nghĩ ra một kế, khiến các quan sai ra ngoài, trút bỏ quan phục, hái đào ung dung mà ăn", đó là thấy thì không thể dùng, dùng thì không thể thấy vậy, đó là ở chỗ không nhìn thấy không nghe được mà hạ thủ vậy. "Đem đào chín ăn no một bụng", ăn đúng thời vậy. "Ba hai ngày, lại đến trộm đào, tận tình hưởng dụng", ba hai là năm cũng là một 'hậu', nhất thời lục hậu, chỉ tại khoảng 'nhất hậu' đó, đoạt thiên địa tạo hóa làm của ta, đó là trộm thời cơ vậy, thiên hạ tuyệt không thể thấy, tuyệt không thể biết vậy. "Vương mẫu nương nương mở bảo khố, làm hội bàn đào", dương đã cực mà âm hội ngộ vậy. "Sai bảy tiên nữ hái đào", tượng "Cấu" quái, tức bảy ngày nhất âm trở lại vậy. "Kêu gọi hắn ta trở lại", "cấu" mà "nữ tráng" vậy. "Đại thánh biến thành người dài hai thốn, tại một cây đại thu cành lá xum xuê nằm ngủ", hai thốn là âm, trên có nhất âm dưới có ngũ dương, tượng quẻ "Quải". "Trước hái ba giỏ", "giữa hái ba giỏ", hai ba là sáu, tượng "Cấu" nhất âm. "Đến hàng cây đằng sau, thấy trên cây hoa quả thưa thớt, chỉ còn mấy quả xanh non da phủ lông tơ, bởi những quả chín, hầu vương đã ăn sạch rồi", 'chân' đã tàng ẩn rồi, cái 'giả' mới bày ra. "Cành cây phóng vút lên, làm kinh động hầu vương tỉnh dậy, đại thánh tức thì hiện nguyên hình, xuất ra kim cô bổng, hét lên một tiếng mà quát rằng: Yêu quái phương nào dám to gan ăn trộm đào của ta", đó là tượng bởi "quải" mà "kiền", bởi "kiền" mà "cấu". "Quải" ấy, là lấy dương quyết âm vậy. "Cấu" ấy, lấy âm gặp dương vậy. Dương quyết âm, tất âm sẽ trộm lấy dương, chỉ tại nói thuận nghịch mà thôi. Theo phép thuận do bởi "kiền" mà biến thành "cấu", theo phép nghịch, mượn "cấu" mà thành toàn "kiền". Thế nên "quải" phản thành "kiền", "cấu" phản thành "quải", mà "kiền" trú ngụ ở "quải". Bảy tiên nữ nói rằng vương mẫu nương nương mở hội bàn đào, lại nói mời khách dự hội đã thành quy tắc rồi, đó là thấy dương thì nhất định có âm, nhất định là phép tắc không thể thay đổi vậy, không thể sử dụng dương mà không có âm, đó là khí cơ thiên địa; mà có thể mượn âm bảo tồn dương, là công dụng của thánh nhân.

"Đại thánh sử dụng định thân pháp, đem chúng tiên nữ giữ lại dưới cây đào". Tức "cấu" sơ lục, "hệ vu kim nị, trinh cát", nhất âm đến mà gặp dương, có thể tổn thương dương, như gậy sắt có thể làm dừng xe, tuy nhiên âm mới sinh còn yếu, phòng ngừa từ sớm, nghịch vận mà chế ngự, hung hiểm mà được tốt lành, cũng như "thoán truyện" nói "vật dụng thủ nữ, bất khả dữ trường" vậy. "Đại thánh lừa Xích cước đại tiên đến Thông minh điện xem lễ, biến thành Xích cước đại tiên chạy đến cung Dao trì. Vẫn chưa có vị tiên nào đến, ăn đồ quý, uống rượu ngon" đoạn này, tức "cấu" cửu nhị: "Bao hữu ngư, vô cữu, bất lợi tân". Cửu nhị lấy cương mà cưỡi lên nhu, nhu dưới cương trên, nên kêu là Xích cước đại tiên (đại tiên đi chân trần). Lấy dương đề phòng âm, như cá ở trong bao, thừa cơ mà ra tay trước, chẳng những âm khí không thể làm hại, mà có thể trong sát khí đoạt lấy sinh khí làm của ta, thế nên lợi cho ta, không lợi cho khách. "Tự nghĩ mà nói rằng: 'không tốt! Không tốt! Rồi đây khách khứa đến, không lấy làm lạ sao? Họ giữ ta lại thì phiền!" tức là cửu tứ "bao vô ngư, khởi hung" vậy. Bởi lẽ dương đến giao với âm thì tốt, âm tới mà gặp dương thì không tốt, chẳng thể phòng âm từ sớm, khách khí thừa dịp mà tới, tất tổn thương chính khí, như trong túi mất cá, cá không được quản thúc, phóng đãng hoành hành, khởi sinh tai họa vậy. "Chi bằng quay về phủ đánh một giấc là hơn", tức là "cấu" cửu tam: "Kỳ hành thứ thả, lệ, vô đại cữu". Âm khí đã phát sinh, tuy không thể trừ âm, mà âm cũng không thể làm tổn thương, "trở về phủ mà ngủ", chính là nghĩa "lệ nhi vô đại cữu" - nguy lệ mà không có nạn lớn.

"Đại thánh say quá, xiêu vẹo bước đi, chẳng còn tỉnh táo nữa nên lầm đường, không về phủ Tề Thiên mà lại vào cung Đâu Suất. Đến nơi, Đại thánh mới chợt nhận ra, nói: - Cung Đâu Suất ở tầng trời thứ ba mươi ba, nơi ở của Thái Thượng lão quân, sao ta lại lạc đến đây nhỉ?", tề thiên phủ, "kiền" thượng cửu. Đâu suất cung, "cấu" cửu ngũ vậy. Ngộ không tỉnh ngộ thấy có sự sai khác, sai đó là tự sai, hiểu ngộ là tự ngộ, bởi sai mà khả dĩ nhận ra mà dừng lại. Sai rồi ngộ đó, ngộ thì tức 'nghịch' lại vậy, lấy nghịch hành thuận, làm sao có thể sai? "Thẳng đến đan phòng, thấy có năm cái hồ lô bên trong chứa đầy đan đã luyện thành, đổ ra ăn cho sạch", tức cửu ngũ: "Hàm chương, hữu vẫn tự thiên" vậy. Ẩn chứa sự tốt lành, trong cương mà ngoài nhu, âm khí không được dụng sự, tự tiêu tự hóa, thiên tâm thường chiếu, kim đan thành nhiệt, khả dĩ từ 'tiệm' thành 'đốn', hư tâm mà năng thực phúc vậy. "Một khoảng thời gian đan đủ mà tỉnh", chính là bởi 'tiệm' mà 'đốn', hiệu quả của hư tâm thực phúc, đó là linh đan nhập trong bụng, âm khí tất hóa, như say mới tỉnh, tức trở về đại giác, nhất thời công phu, thần thay! Diệu thay! "Lại tự nói: 'không tốt! Không tốt! Cái họa này thật lớn bằng trời, nếu kinh động Ngọc đế, tính mệnh khó bảo toàn, chi bằng xuống hạ giới làm vua", đó là thượng cửu: "Cấu kỳ giác, lận, vô cữu" vậy. Gặp "cấu", không thể tàng 'cương' mà giữ cương, kim đan được rồi lại mất, đại họa đến thân, tính mệnh khó giữ, chắc chắn lận đận, nên mới nói "chi bằng xuống hạ giới làm vua", đó là không bị mê muội mà không tỉnh, là pháp lành bảo giữ 'đan' vậy.

Ở trên nói hàng trăm từ, đều là diễn tả mượn âm bảo dương, trộm đoạt tạo hóa diệu dụng. Trộm đào, trộm tửu, trộm đan, đều tại chỗ người ta không biết, mà chỉ có một mình mình dùng thủ đoạn, đều là trộm thời cơ, tuy thiên địa thần minh cũng không thể có được, chính là đề cương nói "loạn bàn đào đại thánh thâu đan".'Hội bàn đào' là do "kiền" mà "cấu", thuận vậy.'loạn bàn đào' là mượn "cấu" trở về "kiền", nghịch vậy. Không loạn thì không thể trộm, duy chỉ có loạn mới có thể trộm, bởi thế mới có thể thuận lợi ra tay, không gì không như ý vậy.

"Không theo đường cũ, theo cửa trời tây, sử dụng ẩn thân pháp chạy trốn, trở về đến Hoa quả sơn". Đó là kim đan khẩu quyết bên trong khẩu quyết, thiên cơ bí mật, hậu nhân làm sao có thể nhìn ra? Duy Ngộ Nhất Tử chú viết: "Trời ở trên mà núi ở dưới, gọi là thiên sơn" độn "; đó là tri âm với tiên ông vậy. Chỉ có cách là trốn (độn) vậy. Hà cớ gì mà không theo đường cũ, theo cửa trời tây ẩn thân pháp mà chạy là sao? Trong đó có diệu ý, cần phải truy cứu mà hiểu ra." Đường cũ "ấy," cấu "vậy." Cửa trời tây "ấy, là quẻ" tốn "vậy." Sử dụng ẩn thân pháp chạy trốn "là quẻ" độn ", lại từ trên trời mà trở về núi cũng là tượng" độn ".

Do bởi" cấu "mà" độn ", âm khí dần tăng trưởng, dương khí thụ thương, là đạo hậu thiên thuận hành. Từ" quải "mà" độn "dương khí không quá, âm khí khó tiến, đạo tiên thiên nghịch vận. Chẳng theo đường cũ, theo cửa phía tây chạy đi, sở dĩ trong thuận mà dùng nghịch vậy. Sử dụng ẩn thân pháp, tức là trộm đoạt đạo cơ âm dương, duy chỉ có đạo cơ ấy, nên sau khi đại thành về núi," lại cưỡi cân đẩu vân, sử dụng ẩn thần pháp trở lại Dao trì, mọi người còn chưa tỉnh, cắp lấy mấy vò rượu lớn, quay trở lại trong động, lại bày tiệc tiên tửu, cùng mọi người vui vẻ khoái lạc ".

Trên trời dưới đất, tùy theo ý mình, không hề bị giàng buộc, thủ giữ 'chân' mà tả hữu phùng nguyên vậy.

" Vương mẫu kể lại bị ăn trộm bàn đào, tiên quan đến tấu bị trộm tiên tửu, Lão quân bị ăn trộm tiên đan, Ngọc đế thấy thế kinh sợ, quan lại tề thiên phủ đến tấu trình, đại thánh chẳng biết đi phương nào, Ngọc đế lại thêm nghi thì Xích cước đại tiên lại tấu gặp tề thiên đại thánh, bị lừa đi xem lễ ở điện Thông minh ", các đoạn như thế, Ngọc`đế càng thêm kinh nghi, tức như Phật tổ nói:" Nhược thuyết thị sự, chư thiên cập nhân giai đương kinh nghi "cũng nghĩa như thế. Kinh nghi đó là thế nào? Kinh nghi không thuận thiên mà nghịch thiên vậy, nhưng thiên đó, là đạo hậu thiên mà phụng thiên thời. Nghịch thiên ấy, mà không trái với trời, bởi đạo tiên thiên nghịch mà không thuận, thế nên đề cương viết" phản thiên cung ", bởi phản thiên cung, mà cùng thiên tranh quyền, tất thiên thần không vui, tất sẽ coi là quái, bởi thế mà đề cương viết" chư thần tróc quái ". Thế nhưng đạo tiên thiên sở dĩ có thể phản thiên nghịch thiên, mà bất thuận thiên ấy, chung quy bởi nhất" độn "kỳ diệu," độn "quái kiện bên ngoài mà 'chỉ' (dừng chỉ) bên trong, lấy chỉ vận kiện, kiện căn gốc ở chỉ, tuy hành kiện mà kiện vô hình tích vậy.

" Ngọc đế sai tinh tú chư tướng khắp trời, cộng lại mười vạn thiên binh xuống hạ giới, đem hoa quả sơn vây khốn, bắt cho được đại thánh. Đại thánh công nhiên không thèm hỏi đến mà nói rằng: ' Nay buổi sớm còn có rượu thì cứ say, quản làm chi chuyện thị phi bên ngoài ", đó tức là" độn "sơ lục:" Độn vĩ, lệ, vật dụng hữu du vãng "(trốn ở sau đuôi, nguy hiểm, chớ có đi lại) vậy." Độn "lúc mới đầu, sợ nguy lệ có trốn mà không thể trở về, nếu như có thể 'không quản chuyện thị phi bên ngoài, chẳng đi ra ngoài' thì làm sao gặp nạn? Đến khi" chín vị hung thần, nói lời hung ác, ngoài động chửi mắng, đại thánh cười rằng: 'Rượu thơ cứ việc say sưa Công danh chớ hỏi bao giờ thì xong ", tức là 'lục nhị':" chấp chi dụng hoàng ngưu chi cách, mạc chi thắng thuyết ", lấy trung mà tự thủ, cảnh ngộ không làm thiên lệch, hoạn nạn chẳng làm thay đổi, như buộc bằng da bò vậy." Công danh chớ hỏi bao giờ thì xong ", chính là bởi thế mà chí hướng được kiên định vậy." Chín vị hung thần đem đại môn đả phá, đại thánh tức giận, lệnh độc giác quỷ vương đem theo bảy mươi hai động yêu vương xuất trận, bị cửu diệu ác tinh nhất tề chém giết, giữ ở đầu cầu thiết bàn, không thể ra bên ngoài ", đó tức là 'cửu tam':" Hệ độn, hữu tật lệ "vậy. Thánh yêu cùng một chỗ, làm cho âm bị dẫn dắt, không thể 'độn' mà cương tự dụng sự, như 'hữu tật lệ' (có tật bệnh), thế nên ở đầu cầu thiết bản, không thể chạy ra vậy." Cửu tinh mắng chửi đại thánh trộm đào, trộm rượu, loạn hội, trộm đan ", đại thánh cười rằng: 'những việc đó, thực đều do ta làm đó! Nay ngươi làm gì được ta?" tức là 'cửu tứ': 'hảo độn' vậy. Bởi có thể 'độn', nên mới có thể trộm, trộm đó trốn đó, cảnh ngộ là do bên ngoài, tạo mệnh là do mình, 'thiên quan' ở trong tay, 'địa trục' là do tâm, tạo hóa làm sao có thể trói buộc?

"Từ giờ thìn chém giết đến khi mặt trời ngả hướng tây, độc giác quỷ vương cùng bảy mươi hai động yêu quái, đều bị chúng thiên thần đuổi bắt, chỉ có tứ đại kiện tướng cùng đám khỉ ẩn tại đáy thủy liêm động" tức là 'cửu tứ': "Quân tử cát, tiểu nhân phủ" vậy. Đó là cương mà nóng vội, không thể nào 'độn', lệ thuộc âm dương, tức bị trời trói buộc; cương mà có thể nhu, 'hảo vu độn', độn mà biến hóa, không bị trời hạn chế. Hảo độn bất hảo độn, phân ra quân tử tiểu nhân, cát hung thấy được vậy. "Đại thánh nhổ một nắm lông, biến thành trăm ngàn đại thánh, tất cả đều cầm thiết bổng, đánh lui Na Tra thái tử, đánh bại năm vị thiên vương, đắc thắng trở về động" tức là 'cửu ngũ': "Gia độn, trinh cát" vậy. Cương kiện trung chính, tùy tâm biến hóa, trong vô định mà hữu định, trong hữu định mà vô định, hào quang phổ chiếu ứng dụng vô phương, bất độn mà độn, độn mà tốt đẹp vô hình vô tích, gọi là biến hóa trăm ngàn hóa thân, bởi thế có thể thắng trời, trời không thể như thế vậy. Tứ đại kiện tướng nghênh đón đại thánh, nghẹn lời mà khóc lớn ba tiếng, rồi lại khanh khách cười lớn ba tiếng, đó là mê chân mà không thể tỉnh ngộ, tuy nhiên mê mà không tỉnh, mà dễ sai thì cũng dễ tỉnh ngộ vậy, tiên ông rõ ràng nói ra vậy. "Sáng nay giao chiến, bảy mươi hai động yêu vương, độc giác quỷ vương, đều bị chư thần bắt giữ, chỉ chúng ta trốn thoát, bởi thế mà khóc; nay thấy đại vương đắc thắng trở lại, chưa từng thương tổn, bởi thế nên cười". Yêu vương quỷ vương là dương mà thái quá, đại thánh trung mà đắc chính. Dương mà cao kháng thái quá, cương mà không có nhu, là yêu là quỷ; khóc đó, là khóc chỉ biết tiến mà không biết thoái vậy. Dương mà trung chính, cương mà có thể nhu, là thánh là tiên; cười đó, cười biết tiến lại biết thoái vậy. Biết tiến đó, sở dĩ tiến dương mà thoái âm vậy; Biết thoái đó, sở dĩ vận âm mà dưỡng dương vậy. Sau khi phục dụng đan, nên thoái mà không nên tiến, bởi thế đạo lý 'độn' quý ở chỗ đó.

"Đại thánh nói: 'Ta sớm cẩn thận phòng thủ, ăn no một bữa, an tâm ngủ ngon, dưỡng dưỡng tinh thần, trời sáng xem ta sử dụng đại thần thông, đem thiên binh thiên tướng đánh dẹp báo thù", tức là 'thượng cửu', "phì độn, vô bất lợi" vậy.'ăn no' đó, tức là 'thực kỳ phúc' vậy.'an tâm ngủ' ấy, 'hư kỳ tâm' vậy. Đã thực phúc lại hư tâm, dưỡng tinh thần mà đợi trời sáng, thân tại sự việc, tâm ở bên ngoài, vạn vật không thể tổn thương, tạo hóa khó làm biến chuyển, 'độn' mà đầy đủ (phì độn) tự do tự chuyên, dưỡng đến chỗ đại thần thông, vượt ra ngoài thiên địa, có thể địch lại thiên tướng, làm sao có thể bất lợi được?

Tóm lại, ý nghĩa kỳ diệu của hồi này, "loạn bàn đào" đó, là từ "kiền" mà "cấu" vậy; "phản thiên cung" đó, do bởi "cấu" mà "độn" vậy. "Đại thánh thâu đan" đó, mượn hậu thiên mà thành tiên thiên vậy. "Chư thần tróc quái" đó, lấy hậu thiên mà tổn thương tiên thiên vậy. Lấy hậu thiên mà dưỡng tiên thiên, trong "độn" mà dưỡng "kiền"; lấy hậu thiên mà tổn thương tiên thiên, "kiền" cực tất "cấu". Thừa dịp "cấu" mà trộm, tất tạo hóa do ta sử dụng; chỉ bởi "độn" mà đuổi bắt, tất tạo hóa hóa không thể tổn thương. "Cấu" đó là tự cấu, "độn" đó là tự độn, trộm đó là tự trộm, đuổi đó tự đuổi. Riêng bởi "cấu" mà có thể trộm, riêng bởi "độn" mà không thể đuổi bắt, có thể trộm có thể trốn, quỷ thần không thể bắt giữ, chư thần cũng làm sao đuổi bắt được? Trong đó có thiên cơ, chỉ bởi trời dung túng mà đại thánh biết mà hành, nếu cứ nhất thiết tại hâu thiên mà dụng công phu, tự cho mình là đúng, cường chế cưỡng cầu, làm sao có thể lén trộm được đây?

Đoạn cuối kết lại rằng "tứ đại thiên vương thu binh dừng chiến, các nơi đều báo công, bắt giữ hổ báo lang trùng vô số, tuyệt chưa từng bắt được một hầu tinh", đó có thể thấy đó là 'quái', mà không phải là thánh. Thánh đó, quái đó, tổng tại có thể 'độn' hay không thể 'độn' vậy. Có thể độn tức là thánh, không thể độn, tức là quái, "độn" có ý nghĩa trọng đại vậy thay!

Thơ rằng:

Dương cực âm sanh cấu tức liên, thử trung tiêu tức yếu sư truyện. Hàm chương tại nội thần công diệu, tri giả đoạt lai tạo hóa quyền.

(Dương cực sanh âm nối liền tức thì, tiêu tức trong đó cốt yếu thầy truyền. Thần công diệu dụng ẩn hàm trong văn chương, biết được nó có thể đoạt quyền tạo hóa)
[/HIDE-THANKS]
 
Chỉnh sửa cuối:
Bài viết: 0 Tìm chủ đề
HỒI THỨ SÁU

Quan âm phó hội vấn nguyên âm

Tiểu thánh thi uy hàng đại thánh

(Quan âm phó hội hỏi nguyên do, tiểu thánh thị uy hàng phục đại thánh)

[HIDE-THANKS]
Ngộ Nhất Tử chú: Đây là làm rõ lý âm dương tiêu tức doanh hư, "thái" cực mà "bĩ", đại vãng mà tiểu lai, cùng thời gian trôi đi, thấy đại thánh thần hóa khó dò, chính là thuận dụng mà không mất đạo tiên thiên vậy. Trong thiên này ý nghĩa súc tích vô cùng, bao hàm tinh tế, không phải là loại nhàn văn tạp đàm thông thường. Ta cũng không rõ lúc đó tiên sư hàm ý hạ bút, làm cách nào mà có thể viết được chặt chẽ như thế, đạo lý làm sao có thể rõ ràng như thế. Chung quy có thể thấy đã đạt đến tuyệt đỉnh, tâm như thái hư, thiên nhân hồn hóa, văn cũng như thế. Đơn giản thì hiểu được ý nghĩa đơn giản, nghiên cứu thâm sâu thì hiểu được nghĩa tinh vi thâm sâu. Tiếc rằng thế nhân từ trước đến nay đều chưa hiểu được đến ngọn nguồn. Quan âm đại sĩ xuất hiện, mà thiên này tạo thành đề cương, quan sát mà thấy được diệu dụng. "Quan" có ý nghĩa to lớn vậy! Quan đó, có thể thấy được người trung chính, đạt đến thanh khiết mà không tự cho là đúng vậy. "Dịch" viết "Đại Quan tại thượng. Thuận nhi tốn. Trung chính dĩ quán thiên hạ", lại viết: "Quan thiên nhi thần đạo nhi tứ thời bất thắc. Thánh nhân dĩ thần đạo thiết giáo. Nhi thiên hạ phục hĩ" (đại quan ở trên. Thuận mà từ tốn. Trung chính mà quan thiên hạ. Quan thiên mà thần đạo mà bốn mùa không thái quá. Thánh nhân dùng thần đạo dạy dân mà thiên hạ quy phục vậy). Dân chúng ở địa vị thấp (hạ) có tâm nguyện được quan xét, coi sóc mà người trên (thượng) không dùng thần đạo mà dạy dỗ, quan tâm; người trên biết quán xét bản thân, có đức độ phục chúng, mà kẻ dưới xem thấy mà học theo, bắt chước, thì đó chưa phải là 'thần quan'. Âm thầm vận dụng, không biểu hiện bên ngoài mới là 'thần quan'. Từ trên mà chiếu soi, quan xét mà xưng là 'đại quan', vì sao như thế? Quan đạo, nhất thiên đạo vậy. Quan thiên thần đạo, âm thầm vận chuyển, lấy 'giáo' hiển 'thần', không phải lấy 'thần' hiển 'giáo', không hiển lộ thần thông vậy. "Quan Âm đại sĩ", tức 'đại quan'vậy; 'phó hội', tức ở trên mà quán xét vậy; "hỏi nguyên nhân", tức thần quan vậy. "Thấy bữa tiệc tàn loạn, tuy có mấy vị thiên tiên, nhưng không có tiệc", tức dương tiêu âm trường vậy. "Lệnh cho Huệ Ngạn đi do thám quân tình", tức thần quan như 'vẽ rồng điểm mắt' vậy.

Tiên sư ở chỗ này, trước tiên thiết đặttượng quẻ "Đỉnh", cho đến chỗ thu phục đại thánh. Xin được chỉ ra rằng: "Lúc ấy có thái thượng lão quân tại thượng, vương mẫu nương nương tại hậu" đó là nhất "đỉnh", nhất vậy; "Bồ tát dẫn chúng nhân đến yết kiến Ngọc đế", tức "đỉnh" nhất nhất vậy; "lại cùng lão quân, vương mẫu gặp nhau, và cùng ngồi xuống", tức "đỉnh" 'nhất nhất' vậy. Đỉnh ấy, quan vậy. Đỉnh ấy, thượng 'ly' hỏa, hạ 'tốn' mộc, sở dĩ có thể nung đốt, "để mà dâng lên thượng đế", dâng lên thánh hiền vậy. "Mở hội bàn đào", tức hưởng dụng vậy. Bởi Ngộ không là đại thánh, mà không được dự hội, mà không được hưởng dụng nên tất sẽ có loạn lớn, có lý gì mà đắc được mà không được sử dụng? Bởi thế mà hội bàn đào là hội dương suy âm trường vậy. Đó là tin tức về nguyên nhân, không phải thần quan đại sĩ, làm sao có thể biết được? Xu thế là âm càng tiến dương càng tiêu, "Bĩ" chi hội vậy. Dương dần tiêu thành "bác", vận hội khiến cho như thế, mà không chỉ có như thế vậy. Tiên sư châm biếm thế nhân, ý nghĩa thâm thúy vậy! "Đỉnh" đó, là kim đan bí yếu, nên tiên sư không dám nói ra, đặc biết thiết đặt hình tượng ở chỗ đó, chờ hậu nhân xem xét kỹ lưỡng mà hiểu ra. Đặc biệt "Quan âm chắp tay mà tấu lên", bên ngoài là thần quan diệu dụng, biết được âm mới sinh trưởng mà dương dần tiêu vậy; tiểu nhân tiến mà quân tử bỏ chạy vậy.

"Quán châu quán giang khẩu" (quán- tưới rót) ấy, thơ viết "Lão phu quán quán", bên dưới tức "tiểu tử kiểu kiểu" (kiểu kiểu- kiêu dũng), 'tiểu tử' ấy, là âm vậy, "ở chỗ Quán châu Quán giang khẩu" là như thế vậy. "Hiển thánh nhị lang chân quân" ấy, "khôn" lục nhị vậy. "Khôn" âm thừa thiên mà động, đạo ấy phù hợp rõ ràng, công ấy thuận lợi mà không có gì bất lợi. Lúc ấy thì, tại chỗ đại thánh, trước là "Cấu", là "Độn", sau tức là "Bĩ", là "Bác" vậy. "Lục huynh đệ" ấy, lục âm vậy. "Một nghìn hai trăm thảo đầu thần" ấy, nhị lục nhất thập nhị (2x6=12). 'Sơ' cùng 'nhị', tiểu nhân cùng loại mà tiến, cũng như "nhổ cỏ được cả đám" (Bạt mao nhự, dĩ kỳ vị -sơ hào quẻ Bĩ). Cây cỏ mà tụ hợp thành 'đám', tức hình tượng tụ hợp thịnh vượng vậy. "Nghe điều động mà không nghe lệnh", ương nghạnh có thể thấy vậy. "Tức điểm bản bộ thần binh, giá ưng khiên khuyển", chim ưng, chó săn đều cùng một loại vậy. Chân quân cười nói "tiểu thánh đã tới đây", rõ ràng là nói 'tiểu' đã tới vậy. "Tất sẽ cùng hắn đấu biến hóa", 'biến' có ý nghĩa tinh tế vậy! "Dịch" viết: "Bác, nhu biến cương dã", lấy âm mà 'bác' dương, hà cớ gì viết 'biến'? Nói chung, quân tử tiễu trừ tiểu nhân, đều công khai nơi sân đình, rõ ràng định tội mà giải quyết. Thế nên "Quải" quái, lấy ngũ dương trừ âm, dùng từ 'quyết âm', tức giải quyết, trừ khử âm. Tiểu nhân trừ quân tử, đạo lý không chính trực, ngôn từ không thuận, có thể 'làm cho suy yếu', 'mà không biết dùng từ 'biến', để thấy rõ 'kỳ thuật' vậy. Đoạn tiếp bên dưới, thấy một lần biến, hai lần biến.. một loạt biến, đều là 'kỳ thuật' vậy.'Tiểu thánh' lại nói: "Các vị phải đem thiên la địa võng này thu lại không nên che phủ phía trên", hầu hết tiểu nhân hại quân tử, đầu tiên thì chờ lúc không đề phòng, lấp kín ở chỗ tối mà rình, rồi gặp thời cơ mà thi triển độc kế.

"Dẫn sáu vị huynh đệ.. thu ưng dắt khuyển" đoạn này, mỉm cười nói ra, đây như bức họa tình trạng của tiểu nhân. Đại thánh thấy thế cười hi hi, tra hỏi lai lịch. Nói ra căn bản, để biết được âm nhu biến hóa khó lường vậy. "Nhị Lang lắc mình biến thành thân cao vạn trượng, hai tay cầm ngọn giáo thần ba mũi hai lưỡi", nhị biến tam (2x3) thành "Khôn". "Khôn" âm thuận thiên mà động, khí thế xung thiên, là việc bình thường vậy. Tại sao lại "đao ba mũi hai lưỡi"? Từ 'mũi đao' hiển nhiên chỉ tiểu nhân; "hai lưỡi", chỉ hai bờ môi. Thấy được là người không có thể nhẫn nại, mà có sát khí vậy. "Mặt xanh, răng nhọn, đầu tóc đỏ", không phải lệ quỷ ăn thịt người sao? Tuy đại thánh chính khí cũng lấp đầy thiên địa, có thể đối địch; còn như loại thảo đầu ưng khuyển mà ám toán, đại thánh kinh sợ mà bỏ chạy vậy.

Đại thánh biết đại nạn đã đến "lại đem kim cô bổng cất trong lỗ tai, biến thành con chim sẻ, bay lên đậu trên cành cây", đó là tượng "Minh Di" sở cửu, "Minh di, vu phi thùy kì dực" (minh di, bay lên mà bị rơi mất cánh) vậy. Đó là muốn tàng ẩn 'minh', mà không bay lên cao; ẩn dấu tung tích, khiến cho không thấy được mình bay đi vậy. "Lục huynh đệ đồng thời hét to", đó là tiểu nhân đắc chí, mà đồng thanh nhất chí, rất đáng sợ. "Nhị lang trợn tròn mắt phượng mà kiếm tìm", mắt phượng làm sao có thể trợn tròn được? Bình thường thì rất đẹp, nhưng lúc cấp bách thì hiển lộ dữ tợn vậy. "Biến thành con chim ứng đói mồi, vỗ cánh bay lên", đó không phải móng vuốt sắc bén sao?

"Đại thánh biến thành con chim cốc già to lớn. Vỗ cánh bay đi". Tức "minh di" lục tứ "nhân vu tả phúc. Hoạch minh di chi tâm, kiền xuất môn đình" (nhập vào vùng bụng trái. Tâm đang lúc u ám, nên bỏ mà đi) vậy. Đó là lúc không thể tiềm ẩn, là lúc người ở vào chỗ u uẩn, thuận theo thời thế, ra khỏi cửa mà trốn đi xa vậy. "Con chim cốc già" ấy, nghĩa là thấp kém nhu thuận vậy. "Nhị lang biến gấp thành con hạc biển lớn, bay xuyên qua mây tới mà tìm mổ", lại dùng miệng mà mổ, dụng uế vậy. "Đại thánh bèn sà xuống chui vào lòng suối, biến thành một con cá lặn sâu vào làn nước", tiềm phục thật kỹ vậy. "Nhị lang lại biến thành con Ngư ưng.. tự thanh trang, mao phiến bất thanh" trang sức phụ nữ vậy. " giống con cò mà trên đầu lại không có mào dài" vụng trộm vậy. "Tựa như lão quán mà không lão quán", quyền lão vậy? "Đại thánh quay đầu bỏ chạy.. tựa như cá chép mà không phải cá chép" tuần lý vậy; "tựa cá rô mà không phải cá rô", lương quý vậy. "Tựa cá chuối mà không phải cá chuối", chân thanh vậy. "Tựa cá mè mà không phải cá mè", bên trong vuông vức vậy. "Nhị lang cản lại, mổ một nhát", lại dùng mỏ, dụng uế vậy. "Đại thánh biến thành thủy xà, lẩn vào bụi cây", không phải rắn nước, không phải độc xà, ẩn tàng vậy. "Vội vàng quay mình biến thành một con hạc màu tro cổ dài nghêu, thò cái mỏ nhọn hoắt tựa hai mũi kim xông tới mổ con rắn.", cùng với thanh đao nhọn 3 đầu, 2 lưỡi, giống nhau. Nhị lang từ đầu đến cuối đều dùng mỏ miệng, dụng uế, rất là đáng sợ. Tiên sư miêu tả đến đây, khiến người ta bất giác đổ mồ hôi.

"Đại thánh biến thành con chim bảo", chim bảo có thể quần cư, tự lập thành nhóm, quần cư mà không thành 'đảng'. Còn Nhị Lang thì ưng quạ bạn bè, có thể cùng sống mà không tránh được nổi loạn. Hung dữ như thế mà lại cùng loan phượng tương giao không biết hổ thẹn. Có thể thấy tà chính không thể cùng tồn tại. Tại sao 'bất biến' mà lại dùng đạn bắn? Phàm là phường gian ác đều đuổi cùng giết tận, hại người cho bằng được, 'bất biến' mà bên trong có biến hóa thâm sâu vậy. "Đại thánh chớp lấy cơ hội, lăn xuống dưới chân núi, lại biến thành một tòa miếu thổ địa". Đó là một sự biến hóa kỳ diệu, ý nghĩa tinh vi. Thế nhân không biết ví miếu thổ địa là "hầu đầu miếu" để chơi đùa, trải qua trăm năm chưa từng nhìn ra ý nghĩa chân thực. Kỳ diệu từ chỗ đại thánh biến thành miếu thổ địa, cho đến khi đại thánh biến thành thành Nhị Lang. Rồi sau đến chỗ nói rằng: "Lang quân không cần kêu gào nữa, miếu này đã đổi chủ thuộc về họ Tôn rồi" ý nghĩa đều kỳ diệu. Đại thánh làm gì có vật gì không thể biến thành, mà tại sao nhất định biến thành cái miếu mà không thể ẩn giấu được? Ý nghĩa ở đây là chỗ không thể chạy trốn. Mà cuối cùng biến thành Nhị Lang nhập vào chỗ không thể vào là Nhị Lang miếu. Muốn biết được ý nghĩa, cần phải xem quẻ "Bác" hào thượng cửu, "thạc quả bất thực, quân tử đắc dư, tiểu nhân bác lư" (quả lớn không ăn, quân tử được xe, tiểu nhân tự kéo đổ nhà). Đại thánh lúc ấy, lên trời không có lối, xuống đất hết cửa, gặp nạn mà kiên trì, chư dương tiêu tẫn, chỉ còn lại độc nhất dương. Nhất dương ở trên, mà chúng âm bên dưới, như vườn nhà bị đập phá tan hoang để mà ăn quả duy nhất còn lại. Đúng là không chỗ nương thân vậy. Xét đến cùng thì bác dương tức cũng là tự bác. Bởi thế nên đại thánh biến thành miếu thì miếu cũng tan hoang không hoàn chỉnh. Để có thể dừng lại: Lại biến thành nhị lang, để cùng cảnh ngộ; chạy vào miếu nhị lang, để miếu đại thánh cũng là miếu nhị lang, mà miếu nhị lang cũng là miếu đại thánh. Bởi thế mới nói "Lang quân chớ có kêu gào, miếu này thành miếu họ Tôn rồi", đó là nói phá nhà họ Tôn, tức cũng là phá nhà họ Dương (chỉ Dương Tiễn, tức Nhị Lang), nhà họ Tôn tức là nhà họ Dương, nhà Dương cũng là nhà Tôn vậy. Bởi thế mà 'quả lớn', phòng ngừa khiến tiểu nhân 'bất thực', thuận mà dừng chỉvậy.

Đoạn nói "cái đuôi không thể thu thập, để tại phía sau, biến thành cây sào tre". Nếu nói đuôi không thể biến, sao lại biến được thành cây sào tre? Bên trong có diệu nghĩa: Khi lánh nạn chạy trốn, quý ở chỗ phải trốn trước chứ không quý trốn ở phía sau. Nếu mà mọi người đều trốn trước có mình mình ở lại sau, tất sẽ lộ diện mà gặp họa. Thế nên 'độn tại vĩ', tất sẽ có dấu tích có thể bị nhìn thấy vậy. Bởi thế quẻ "độn" sơ lục: "Độn vĩ", lịch đại thánh đều phải 'độn diện', tiềm ẩn như không thấy đầu, mà không dễ dàng mà 'độn vĩ'. Tiên sư mượn hình ảnh cái đuôi, để diễn tả sự nguy hiểm của 'độn vĩ' là như thế. Như thế 'độn' muốn chắc chắn không thể 'độn vĩ', để cho 'bác' nạn kéo đến tận đuôi. Nay Nhị Lang đã 'bác' đến tận dương hào thượng, cũng tức là đuổi đến đuôi, cần nhanh chóng ngăn lại mà phản phục. "Đại thánh nói miệng như là cửa miếu", thích hợp để dâng đồ không thích hợp để trục xuất. "Răng tức là cánh cửa", răng quý trọng không thể phá hủy; "lưỡi tức là bồ tát", từ tâm mà quan sát vậy; "mắt tức là cửa sổ", giấu kín mà vẫn thấy rõ. Nhị Lang lại muốn "trước đập cửa sổ, sau giẫm nát cánh cửa". Đó là đố kỵ sự quang minh mà kiềm giữ không cho mở miệng.

"Thấy Lý Hổ dâng tam sinh, Trương Long xin bát phúc.." đoạn này, cười chê sự tham độc, tiên sư lập ngôn đều có ý nghĩa kì diệu. Đại thánh xem thấy mà bỏ đi, tiểu thánh cướp bóc (bác) mà trở lại. Trở lại ấy lại thành ra đi, 'tiểu' ấy có thể thành 'đại', Quan âm có thể trở thành 'bác' vậy. "Thế nên thánh nhân ngẩng đầu xem thiên văn, cúi xuống nhìn địa lý, biết được lý u minh, nguyên thủy phản chung, nên biết được sinh tử thuyết. Thần thông mà biết đến đi, biết mà tàng ẩn, có thể rõ biến hóa mà hàng phục quỷ thần vậy."

Cổ nhân biết cách chế ngự tiểu nhân, cần phải biết thuận thời thế, tĩnh tại mà xử sự. Chậm rãi mà ngăn ngừa. Thế nên "dịch" viết: "Thuận nhi chỉ chi, quan tượng" vậy. Bởi thế ở thời 'bác', cần phải thuận mà ngăn ngừa, lấy 'quan thiên' mà xem biết tin tức đầy vơi (doanh hư). Âm doanh mà dương hư, quân tử thuận thời mà dừng chỉ. Không dám cương cường mà dừng chỉ, thuận mà dừng, mới có thể dừng, "Bác" mà 'bất vãng', cùng "phục" mà 'lợi chú', không phải là hai đạo khác nhau vậy. "Quả lớn không ăn", là dừng chỉ vậy. Sao lại không ăn? Quả ấy, dương vậy. Dương không thể bị âm 'bác' tận, thế nên "bác" tận tắc "phục", tiểu nhân mất chỗ che trở, cũng thuận theo mà dừng lại. Đó là Quan Âm tiến cử Nhị Lang. Chính là 'quan thiên' mà hành, xem thấy mà thuận theo xu thế. Đến lúc thì dừng lại, không trợ giúp âm tiêu dương vậy. Không dùng Tịnh Bình đánh đại thánh. Mà lệnh Lão Quân dùng 'kim cương trác', thuận thiên mà hành, dừng chỉ 'bác', lấy âm cứu dương vậy. Như thế là 'bác' ấy, dừng chỉ vậy. Thuận thiên mà hành vậy. Thuận theo 'Bác' mà hóa 'chỉ', cùng là 'quan thiên' mà hành vậy.

Quan, tức là người tự quan, cần phải mượn Quan âm để làm rõ đạo lý; Chỉ, đó là đại thánh tự dừng chỉ, đặc biệt mượn hình tượng Lão quân để mở rộng ý nghĩa.'Bác' ấy, thực là đại thánh tự 'bác', đặc biệt biến thành Nhị Lang để thuận hành 'bác', chứ không phải đại thánh muốn tự sát. Đặc biệt đại thánh minh thiên đạo chi 'bác', mà cũng giống như người người ai cũng tự 'bác', tình thế rất nguy hại vậy. Biết được 'Bác' đó, thuận mà dừng chỉ, 'bác' tất 'phục', biết được như thế mà đạo sáng rõ vậy. "Quan Âm hợp chưởng nói: Bần tăng mời bệ hạ cùng lão tổ, ra cửa Nam Thiên, xem rõ thực hư", tức là quan thiên đạo âm dương thực hư vậy. "Nhị Lang đã vây chặt đại thánh, nhưng vẫn chưa bắt được", đó là 'quả lớn chưa ăn' vậy. Không dùng 'tịnh bình' ấy, đó là trí thanh khiết mà thân không thể cùng thần quan vậy.

"Bồ tát hỏi 'lão quân dùng binh khí gì không'?", Lão Quân trả lời: "Có! Có! Có!", rồi gỡ xuống một cái vòng, gọi là 'kim cương trác', cũng gọi là 'kim cương sáo', tức đoạn trước nói "Đỉnh" lục ngũ, thượng cửu tức ý chỉ 'kim huyễn', 'ngọc huyễn' là vậy. Diệu thay! Ba chữ "Có! Có! Có!", "Đỉnh" hào lục ngũ, hư bên trong nên là màu vàng, tại chỗ Lão quân là thực. Ngũ vô thực, lấy 'cửu nhị' hữu thực làm thực, thế nên Quan Âm thấy thế mà không hỏi, Lão Quân lấy đó mà có hồi đáp. Nói chung mọi vật di chuyển được là nhờ chân, riêng cái "Đỉnh" di chuyển nhờ cái tai của đỉnh. Lục ngũ, rỗng bên trong vậy, là khuyên vòng tai của đỉnh. Khuyên tai ấy, ứng với hào 'cửu nhị' kiên cường vững chắc như cây sắt xuyên qua vòng tai (kim huyễn), đó là thủy chung như nhất, vật không đồng mà kiên cố tất được lợi, bởi thế thực mà trống rỗng, rỗng mà tròn nên là cái vòng khuyên. Thượng cửu "ngọc huyễn", trái ngược với ở trên, là dương ở vị trí âm, cương lấy nhu để kiềm chế, như ngọc ôn nhuận mà bền chắc, cùng với phần trên như là phần trên và dưới cánh tay, gọi là "kim cương trác", kim kiêm ngọc vậy. Vì sao có thể bao trùm mọi vật mà gọi là "sáo" (sáo- bao chùm) ? Ngũ, hư bên trong. Hư nên có thể bao dung, chứa đựng, sở dĩ có thể chứa đựng mọi vật mà dưỡng nhân vậy. Thượng đó, Lão vậy. Ngũ đó, Quân vậy, bởi thế là Lão Quân. Duy chỉ có Lão Quân trong hư mà thực, bởi thế mới có khả năng phục chính mà 'chỉ' biến. Nhị Lang không thể ăn 'quả lớn' là đại thánh, đại thánh lại có thể làm đầy bên trong Lão Quân, "đánh trúng đỉnh đầu, ngã lăn xuống", Lão Quân thuận mà ngăn trở, tức đại thánh thuận theo mà ngừng lại vậy. "Xua chó cắn một cái, lại lôi cho té ngã", Nhị Lang thuận mà ngăn trở vậy, tức đại thánh thuận theo mà dừng chỉ. Khuyển (chó) đó, nhung (quân đội) vậy. Bác chi quái, nội "khôn" mà ngoại "cấn", thuận thời mà dừng chỉ. Bất thuận thời mà hành, hành tức chỉ vậy. Thuận thời mà dừng chỉ, chỉ tức hành vậy. Đại thánh bị vây khốn mà dừng chỉ, chính đại thánh tự dừng chỉ mà hành vậy.

Bảy vị thánh đó. Bởi "Phục" mà phản từ thất âm vậy. "Xuyên qua xương bả vai, khiến cho không thể biến hóa được" ấy, hình tượng, "bác" quái vậy. Dừng chỉ tập trung ở hào thượng, quả lớn không ăn, giữ lại chân dương trong quả. Đển chuyển thành "Phục" bởi "Bác", dừng chỉ ở chỗ không thể chỉ trụ mà bất biến. Đại thánh tiên thiên diệu dụng, mà không phải Nhị Lang có thể xuyên qua. Người học đạo 'quan' sự vi diệu, mà có thể ở chỗ không hình họa không ngôn ngữ mà an thân lập mệnh, đó tức là quan âm mà thần quan. Âm dụng mà bất cùng nhân vậy.

"Quan" ý nghĩa to lớn vậy!

Tiên sư lấy đại thánh tiểu thánh phát minh kim đan đại đạo. Phát minh đại thánh, tiểu thánh mà thấy tận cùng của sự vi diệu, không thể không nói lời kết rằng: Tiểu thánh nghe lệnh trời mà hành, "Khôn" âm vậy, để mà 'quan' tiên thiên chi đạo vậy, tại hậu thiên là nam tử vậy. Đại thánh nghịch thiên mà hành, "kiền" dương vậy, để mà quan tiên thiên chi đạo, tại hậu thiên là nữ tử vậy. Thuận thiên mà phản thiên cung. Lấy thảo nghịch làm âm nhu. Lão Quân là điều hòa chi chủ, mà phản trợ âm chế dương, kim đan lấy nghịch dụng vậy. Như thế, làm sao nói hết sự 'kỳ diệu', mà 'quan' cũng như thế vậy!
[/HIDE-THANKS]
 
Bài viết: 0 Tìm chủ đề
HỒI THỨ SÁU

Ngộ Nguyên Tử chú giải:


Ngộ Nguyên Tử rằng: Hồi trước nói từ "Kiền" mà "Cấu", từ "Cấu" mà "Độn", mượn hậu thiên thành toàn tiên thiên. Điều đó thiên địa thần minh không thể có được, không thể thăm dò được vậy. Thế nhưng kim đan đại đạo, là đạo âm dương tạo hóa, tất phải thông suốt âm dương, sáng rõ tiêu tức (tin tức), biết đầu biết cuối mới có thể thành công. Nếu chẳng biết âm dương biến hóa, tiêu tức nguyên nhân, đến lúc kim đan đến tay, tất chí dương cực mà âm. 《 kiền 》rồi《 cấu 》, 《 cấu 》rồi《 độn 》, 《 độn 》rồi《 phủ 》, 《 phủ 》rồi《 quan 》, 《 quan 》rồi《 bác, 《 bác 》rồi《 khôn 》, kim đan được rồi lại mất, làm sao có thể thành toàn đại đạo được? Thế nên hồi này kêu gọi người nghiên cứu rõ ràng âm dương tiêu tức, tùy thời mà vận dụng, như đề cương nói "Quan Âm phó hội hỏi nguyên nhân, tiểu thánh ra tay hàng phục đại thánh", đó là muốn 'quan' thiên đạo vậy, thừa mệnh trời mà hành vậy. "Quan" tức tĩnh quan mật sát vậy. "Âm" ấy, âm dương tiêu tức thời cơ vậy. Có thể 'quan' cái thời 'cơ' đó, ức chế âm phù trợ dương, không gì không như ý. "Quan Âm" hai từ, không phải chỉ ở hồi này có thể thấy, mà là đầu mối của toàn bộ tác phẩm. Bởi thế mà Tây Thiên lấy kinh, lấy 'quan' mà tiến khởi, lấy 'quan' mà kết thúc, là phép tắc tác phật thành tiên. Duy chỉ có 'quan' mới biết thiên đạo.

[HIDE-THANKS]"Quan âm được vương mẫu nương nương mời dự hội bàn đào, cùng Huệ Ngạn đến bảo các Dao Trì", Vương mẫu nương nương là lão âm, thuộc "khôn", Huệ Ngạn là mộc, thuộc "tốn". Thượng "tốn", hạ "khôn", tức phong địa "quan", "thấy bàn tiệc tàn loạn, tuy có mấy vị thiên tiên, nhưng không thấy ngồi vào bàn tiệc, tất cả đều đứng thành nhóm mà giảng luận", tức thiên địa bất giao, tượng "Bĩ" vậy. "Bồ tát cùng các vị tiên chào hỏi xong, các tiên kể lại sự việc đã xảy ra", tức nói "Cấu", "Độn" sự việc xuyên suốt vậy. "Bồ Tát cùng các vị tiên đến Thông Minh điện", tượng "kiền" quái; "sớm đã có tứ đại thiên vương, cùng Xích Cước đại tiên chờ đón", vẫn dùng dùng tượng "Cấu", "Độn". "Lúc ấy có thái thượng Lão quân tại thượng", "kiền" dương tại thượng vậy. "Vương mẫu nương nương tại hậu", "khôn" âm đi xuống dưới vậy. "Kiền" thượng, "khôn" hạ, là thiên địa "Bĩ" quái. "Bồ tát dẫn chúng tiên vào, làm lễ với Ngọc Đế, lại cùng Vương mẫu nương nương Lão Quân tương kiến xong. Mọi người cùng ngồi xuống". Đây là tiên ông chỉ rõ các quái tượng "kiền", "cấu", "độn", "bĩ", "quan", kêu gọi học giả 'quan' sát kỹ mà nhận rõ vậy. "Bồ tát hỏi rõ nguyên nhân loạn bàn đào, liền lệnh cho Huệ Ngạn rời thiên cung xuống hạ giới do thám quân tình, nếu cần thì trợ giúp một tay, nhất thiết phải tra hỏi cho rõ sự tìnhmà hồi đáp", trong này có diệu nghĩa, khó có thể thấy. Huệ Ngạn là "tốn" mộc, lấy "tốn" mộc mà từ "kiền" thiên rời xuống hạ giới, đó là "cấu", tức là dương cực mà âm, âm cùng dương tương tranh, giống như'quân tình'. Không đến gần mà thấy rõ được chỗ dương cực rồi âm, không phải là đích thực quan sát. Mộc Tra là nhị thái tử của Lý thiên vương, là nam hải Quan âm đại đồ đệ, "tốn" mộc từ thiên cung xuống hạ giới là "cấu", ở phía trên 'địa' thì là "quan", Huệ Ngạn tức có nghĩa là 'thượng địa'. Bởi "cấu" mà "quan", lấy "quan' mà thăm dò" cấu ", gọi là" lúc "kiền" gặp "cấu" tức 'quan' nguyệt quật "vậy." Mộc Tra muốn xem đại thánh trông thế nào ", lấy âm mà ngộ dương vậy." Mộc Tra quát hỏi: Kẻ kia là tề thiên đại thánh? Đại thánh nghe thấy liền trả lời: Chính là lão tôn! ", âm dương tương kiến, một gọi một đáp, dương đi âm đến, cả hai cùng không rời xa vậy." thấy ngươi cả gan làm loạn, ta đặc biệt đến bắt ngươi "đó là dương cực tất âm sinh vậy;" Mộc Tra cùng đại thánh đại chiến năm sáu mươi hiệp, bại trận mà chạy, trở về gặp đại vương nói: Đại thánh thần thông nghiễm đại ", đó là đích thân trải nghiệm, biết rõ được âm dương tiêu tức, biết được tiên thiên chi khí thần thông nghiễm đại, không thể cưỡng chế, mà không thể không kinh sợ. Tức" ngộ chân thiên "nói rằng" Hoảng hốt chi trung tầm hữu tượng, yểu minh chi nội mịch chân tinh. Hữu vô tòng thử tự tương nhập, vị kiến như hà tưởng đắc thành "vậy.

" Huệ Ngạn về gặp bồ tát, kể lại rằng không thể thủ thắng, bồ tát cúi đầu suy tính ", đó gọi là thần quan vậy;" Ngọc đế mở tấu chương ra xem, thấy có xin thêm viện binh, liền cười mà rằng: Thật không thể chịu nổi con hầu tinh này, dám đối địch cả hơn mười vạn thiên binh "đó là đại quan vậy." Bồ tát chắp tay khải tấu: Bệ hạ khoan tâm, bần tăng tiến cử một vị thần, có thể bắt giữ con khỉ đó ", đại quan thần quan lưỡng mà hợp nhất vậy. Đắc nơi tâm mà ứng thủ, tra hỏi rõ ràng không khó để biết được vậy. Tiên thiên chi khí, dương cực mà âm, âm cực mà dương," Thái "cực mà" Bĩ "," Bĩ "cực mà" Thái ", đó là thiên đạo tự nhiên, con người cũng không thể khác được. Bởi thế mà có thể tĩnh quan mật sát, mà có đủ tiêu tức, mượn âm giúp dương, tất âm có lúc thoái, mà dương có thể thuần, tận nhân đạo mà đợi thiên mệnh. Bởi thế mà thánh nhân thiết giáo, mà thiên hạ phục vậy.

" Hiển thánh nhị lang là cháu ngoại của Ngọc Đế, có Mai Sơn lục huynh đệ, một nghìn hai trăm thảo đầu thần, nghe điều động mà không nghe lệnh "," Nhị Lang ", tức âm một cặp, từ" khôn "mà xuất ra, thế nên là" kiền "thiên chi ngoại sanh (cháu trời) ; đương lúc dương cự, âm khí đương hiển, thế nên gọi là hiển thánh nhị lang." Mai sơn lục huynh đệ "ấy," khôn "sơ lục vậy;" một nghìn hai trăm thảo đầu thần "ấy, sáu nhân hai mười hai, tức là" khôn "hào lục nhị, lục tam vậy." Thảo đầu thần "tượng mông muội vậy." Nghe điều động mà không nghe lệnh "ấy, âm theo dương mà biến hóa, thế nên gọi là 'điều động'." Sai đại lực quỷ vương đi điều động ", 'đại lực' là tượng" khôn "âm vậy." Nhị Lang nghênh tiếp ý chỉ, cười lớn nói: Trời sai người cầu giúp, ta sẽ đi tương trợ ", thượng thiên hạ địa tức" Bĩ ", âm khí thừa thiên mà động vậy." Nhị lang gọi lục huynh đệ, cùng hai vị tướng quân tụ tập, điểm bản bộ thần binh, nổi trận cuồng phong, thẳng đến hoa quả sơn, thấy thiên la địa võng tầng tầng lớp lớp, không thể tiến lên ", tức" Bĩ "sơ lục:" Bạt mao nhự, dĩ kỳ hối "(nhổ cỏ được cả đám), âm khí cùng tiến, mà thời cơ chưa đến, nên không thể tiến lên trước. Chân quân cười nói:" tiểu thánh đã đến đây, tất sẽ cùng hắn đấu một trận biến hóa, các vị cần phải đem thiên la địa võng rỡ bỏ mà không phủ ở phía trên nữa ", tức" Bĩ "lục nhị:" Bao thừa, tiểu nhân cát, đại nhân phủ, hanh ", bên ngoài là quân tử mà bên trong tiểu nhân, âm khí ám tàng, từ dưới lên trên, không tiêu trừ tận dương khí thì không dừng, đại vãng tiểu lai, là tai họa rất đáng sợ vậy." Kêu thiên vương dùng kính chiếu yêu, đứng giữa không trung, đừng để chạy thoát ", từ" Bĩ "mà" Bác ", bóc lột lên tận trên cùng vậy." Chân quân dẫn chúng thần bên ngoài thủy liêm động khiêu chiến ", tức" Bĩ "lục tam:" Bao tu ", lấy âm mà ở vị trí dương, bất trung bất chính, âm khí vẫn chưa xâm phạm dương khí. Từ trước đến nay âm xâm phạm dương, chưa đến thời điểm thì không thể xâm phạm.

" Đám khỉ tề tề chỉnh chỉnh, lập thành thế trận rồng uốn khúc ", tức" thái "sơ cửu:" Bạt mao nhự, chinh cát ", tượng tam dương bên dưới, liên kết gắn bó cùng tiến lên." Trung quân dựng một cây sào, trên có lá cờ để chữ 'tề thiên đại thánh' ", tức là cửu nhị:" Bao hoang, đắc thượng vu trung hành ", lấy dương mà ở vị trí 'trung' âm nhu, trong 'thái' mà có thể phòng ngự. Chân quân cười nói:" cái con khỉ kia, tại sao lại dám xưng là 'tề thiên đại thánh' ", tức" thái "cửu tam:" Vô bình bất phạ, vô vãng bất phục "," thái "cực mà" Bĩ "sẽ đến. Dương thịnh mà âm tất phục vậy. Đại thánh vác kim cô bổng nhảy ra ngoài doanh trại, cười nói: 'ngươi là tiểu tướng ở phương nào, dám đến đây khiêu chiến? Chân quân cười nói: 'ta là hiển thánh nhị lang, nay phục mệnh thượng đế đến bắt ngươi'", tức "thái" lục tứ: 'phiên phiên, bất phú, dĩ kỳ lân, bất giới dĩ phu', "thái" sắp qua, "bĩ" sắp tới, tất có âm khí thừa thiên mà động, làm tổn thương dương, như không đề phòng mà tin tưởng vậy. Bởi thế mới nói: "Ngươi còn không biết sống chết", đó là nói không biết đề phòng đầy đủ, cuối cùng tất sẽ bế tắc không thông, chuyển "thái" thành "bĩ" vậy. "Đại thánh nói: 'ta còn nhớ em gái Ngọc Đế, động phàm tâm, xuống hạ giới phối hợp dương quân, sinh ra một một người con trai, từng dùng búa phá núi, đó chắc là ngươi hả?'", tức "thái" lục ngũ: "Đế Ất qui muội, dĩ chỉ, nguyên cát", nhu thuận mà ở vị trí tôn quý, hạ thấp mình mà cầu người hiền, lấy âm cầu dương, thiên địa giao mà vạn vật thông, thượng hạ giao mà ý chí đồng nhất, khai mở "thái" chi cát đạo. Như vậy âm dương có thời cơ tuần hoàn, mà "phủ", "thái" có đạo lý luân chuyển, trong "thái" tàng "phủ", trong dương tàng âm, nhị lang phá núi "phủ" là xu thế tất hữu vậy.

"Nhị lang biến thành thân cao vạn trượng, hai tay cầm cây giáo thần ba mũi hai lưỡi", 'hai tay' trên dưới là thượng hạ nhị quái, 'ba mũi' thượng "kiền", 'hai lưỡi' hạ "khôn", vẫn là tượng "bĩ". "Mặt xanh, răng nhọn, tóc đỏ, hung hăng nhằm đại thánh bổ xuống" ấy, là 'bĩ chi bỉ nhân, bất lợi quân tử', "đại thánh cũng biến thành hình giống hệt nhị lang, vác như ý bổng, xông tới cản đánh nhị lang", đây là âm dương hỗn nhất, nội ngoại giao thông, nhưng là tượng "thái", "hai bên thi triển thần thông giao đấu", là thời cơ tương giao vậy. "Lục huynh đệ ra lệnh cho thảo đầu thần, đồng loạt đánh lén, chúng hầu kinh sợ chạy tán loạn", tức "thái" thượng lục: "Thành phục vu hoang", mệnh ấy loạn rồi vậy. "Thái" cực mà "bĩ" tới vậy, đại vãng tiểu lai vậy. "Đại thánh bất giác hoảng loạn, thu hồi pháp tượng, đem gậy biến thành cây kim thêu, giấu vào trong lỗ tai, biến hóa mà đào tẩu", tức: "Thiên địa bất giao" bĩ ", quân tử dĩ kiệm đức ích nan" vậy. Như thế đại thánh biến hóa để tránh bên trên, tiểu thánh biến hóa để 'bác' bên trên; đại thánh biến hóa bên dưới để tránh, tiểu thánh biến hóa bên dưới để 'bác'. Một bên giữ một bên phá, một bên trốn một bên đuổi, tổng kết lại là thiên địa bất giao, tiểu nhân đạo trường, quân tử đạo tiêu vậy.

"Đại thánh biến thành con chim bảo, nhị lang không dám tiến tới, hiện thành bản tướng, dùng cung đạn bắn tới", đó là âm có thể 'bác' dương, khiến cho âm dương bất giao, còn như âm dương khí giao, âm có thể 'bác' dương hay không? Chim bảo không câu chấp loan phượng, ưng quạ, tất cả đều quần giao, đó là không câu chấp âm dương, tùy cao tùy thấp, thoái có thể tự bảo vệ, tiến có thể có triển vọng, nhị lang liệu có dám tiến đến gần hay không? Không dám, nên hiện bản tướng dùng đạn bắn tới, đó là âm 'bác' dương ở trên vậy.

"Bác" đến cực hạn, sẽ chuyển thành "khôn", "đại thánh nhân cơ hội đó, lăn xuống dưới chân núi, biến thành tòa miếu thổ địa", "bác" biến thành "khôn" vậy. "Đuôi biến thành cây sào tre, làm cột cơ sau miếu", "bác cực trở thành" khôn ", trinh hạ khởi nguyên, nhất dương lai phục, chẳng phải là cái đuôi sau miếu hay sao?" Nhị lang muốn đạp vào song cửa sổ, đá vào cánh cửa ", tức 'tiểu nhân bác lư' vậy. Tiểu nhân bác lư tức muốn 'bác' tận dương khí, đó cũng là tự làm mất chỗ chú thân, đạp cửa miếu cũng tức đạp cửa nhà mình." Đại thánh bèn sử dụng ẩn thân pháp, chạy đến quán giang khẩu, biến thành hình tướng nhị lang, nhập vào trong miếu nhị lang, quan sát hương hỏa nhị lang thế nào ", ôi! Nhị lang muốn phá miếu họ Tôn, đại thánh lập tức chiếm lấy miếu họ Dương, khiến cho miếu họ Tôn tức là miếu họ Dương, phá Tôn miếu, tức phá Dương miếu, bởi thế mới nói:" Lang quân chớ có kêu gào nữa, miếu này đã đổi thành miếu họ Tôn rồi "." thiên vương dùng kính chiếu thấy, báo với nhị lang ", đó là nói rõ với học nhân hậu học, không để dương bị 'bác' tận cùng, lưu lại dương khí đó, thuận mà dừng chỉ, để mà phản hoàn đại đan vậy." Bác "thoán truyện viết:" Thuận nhi chỉ chi. Quan tượng dã. Quân tử thượng tiêu tức doanh hư. Thiên hành dã. "Đây là quan thiên đạo, cần phải chấp thiên mà hành, nếu không xem phép trời, không theo mà hành, tất sẽ" bác "rồi" phục "," phục "rồi" cấu "," cấu "rồi lại thành" bác ";" thái "rồi" bĩ "," bĩ "rồi lại" thái "," thái "rồi lại phản thành" bĩ ", tiên thiên làm sao có thể thu phục? Làm thế nào có thể ngưng kết?

Lão quân không dùng tịnh bình trợ giúp để bắt giữ, mà dùng 'kim cương trác' để thu phục.'tịnh bình' ấy, là thanh tịnh vô vi chi đạo; 'kim cương trác' ấy, là trung chính hữu vi chi đạo. Duy chỉ có 'trung' mới bao hàm mọi vật, duy chỉ có chính mới có thể sớm tối phòng thân. Bởi thế đạo kim đan lấy thanh tịnh làm thể, lấy trung chính làm dụng." Từ thiên môn đi xuống dưới nhằm thẳng thiên linh cái, đánh trung một cái, khiến cho đại thánh ngã lăn ra ", chấp trung tinh nhất, chân không mà hàm diệu hữu, diệu hữu quy về chân không, tiên thiên linh khí, tự không chạy mất." Lại bị nhị lang đuổi chó, cắn một cái vào bắp chân, lôi cho té ngã ", dương cực mà lấy âm tiếp đón." Ngã lăn xuống đất, bò mà không thể đứng dậy ", do bởi" bác "mà" phục ", quy căn phục mệnh vậy." Bảy vị thánh xông tới, dùng thừng trói chặt lại, lại dùng móc câu xuyên qua xương tì bà, khiến cho không thể biến hóa được nữa ", vẫn là" bác "quái, thuận mà dừng chỉ.

Chao ôi! Mới đầu thì lấy giả âm 'bác' chân dương, sau rồi mượn âm mà phục dương, không có 'giả' ấy, tất sẽ không thấy được 'chân'; không đắc chân ấy, không thể trừ bỏ giả. Nhị lang biến hóa, lấy giả lấn át chân, là phép 'thuận' vậy; đại thánh biến hóa, tàng chân thuận giả, pháp 'nghịch' vậy. Nếu không thể 'thần quan đại quan' được, tất chân bị giả quản chế, tức chân biến thành giả. Nếu có thể thần quan đại quan, tất giả bị chân chuyển hóa, mà giả cũng hóa thành chân. Đúng ra Nhị lang là đầu sỏ gây tội, nhưng cũng là chủ công. Bởi thế mà" các thánh đều nói 'đây là công của tiểu thánh', nhị lang liền nói: 'tôi có công gì đâu' ". Tức đề cương viết" tiểu thánh ra oai ", là tiểu thánh thuận thời mà ra oai. Tiểu thánh hàng phục đại thánh, là đại thánh thuận thời mà hàng vậy. Thuận mà dừng chỉ, mà thu phục kim đan diệu dụng tận hết vậy! Nếu chẳng phải quan thiên đạo, chấp thiên hành, làm sao được như thế?

Thiên này hơn một nghìn từ, rõ ràng nói ra, nhưng chung quy ở một câu" thuận nhi chỉ chi", thuận mà dừng chỉ, diệu dụng của một câu này, dùng ở hoàn đan thì hoàn đan kết, dùng ở đại đan thì đại đan ngưng. Hoàn đan đại đan đều dựa vào đây mà thành tựu vậy. Quan sát quan đến chỗ này thời có thể đốn ngộ viên thông, nhất linh diệu hữu, tiên thiên chi khí tự hư vô ngưng kết vậy. Đó là cùng với tiên ông 'nhất ý song quan', thuận nghịch gồm đủ. Không phải chỉ nói đạo thuận hành, ở trong hồi này học giả có thể thấu triệt, thì hai việc trong ngoài, đã có thể đắc được hơn một nửa rồi vậy.

Thơ viết:

Đại quan nhược dã canh thần quan, phủ thái doanh hư chẩm đắc man.

Dụng cửu tùy thì kiêm dụng lục, chấp trung tinh nhất kết linh đan.


(Đại quan có được lại thần quan, Bĩ Thái doanh hư sao chẳng rõ.

Dụng cửu tùy thời kiêm dụng lục, chấp trung tinh nhất kết linh đan)[/HIDE-THANKS]
 
Bài viết: 0 Tìm chủ đề
HỒI THỨ BẢY

Bát quái trung lô đào đại thánh

Ngũ hành san hạ định tâm viên

(Đại thánh trốn khỏi lò bát quái, dưới núi Ngũ Hành định tâm viên)

[HIDE-THANKS]
Ngộ Nhất Tử chú:

Ngộ Nhất Tử rằng: Đây là tiếp nối phần trước, tiên thiên chân ất chi khí, từ vô mà hữu, từ hữu mà vô. Từ vô mà phục hữu, 《 phục 》 rồi 《 thái 》, 《 thái 》 rồi 《 kiền 》, 《 kiền 》 rồi《 cấu 》, 《 cấu 》 rồi 《 phủ 》, 《 phủ 》 rồi《 khôn 》, 《 khôn 》 rồi 《 phục 》, chung chung thủy thủy, vạn kiếp thường tồn. Tiên thiên ẩn trong hậu thiên, hậu thiên hàm chứa tiên thiên. Bởi thế tiên sư lấy bát quái, ngũ hành hậu thiên nói rõ cho thế nhân. Muốn hậu nhân quan sát mà hiểu ngộ, tu luyện nhất khí ấy, để mà thoát sinh tử.

Nhất phát xuất từ vô, vô sinh nhất. Từ nhất tới thập, âm dương lưu hành tuần tự. Nhất nhị tam tứ ngũ, là các số chính vậy. Lục thất bát cửu thập, phối theo vậy. Số dừng tại ngũ, số của ngũ đúc rút trong nhất nhị tam tứ, tam tứ chỉ tại trong nhất nhị, nhị lại nằm trong nhất. Đắc được nhất, mà trăm ngàn vạn thiên không rời nhất; trăm ngàn vạn ức, không rời nhất ngũ. Lấy số của ngũ hành lưu hành mà nói thì: Thiên nhất, địa nhị, thiên tam, địa tứ, thiên ngũ, địa lục, thiên thất, địa bát, thiên cửu, địa thập. Lấy số âm dương đối đãi mà nói thì: 《 kiền 》nhất 《 đoái 》 nhị, 《 ly 》 tam 《 chấn 》 tứ, 《 tốn 》 ngũ 《 khảm 》 lục, 《 cấn 》 thất 《 khôn 》 bát, tổng kết lại không rời thái cực, cho nên khi chồng quái sẽ biến thành sáu mươi tư quái; tính ra thì thành ba trăm tám mươi tư hào, nhân lên chung quy ta được một nghìn năm trăm hai mươi số. Chung quy không ngoài bát quái, bát quái không ngoài ngũ hành, ngũ hành không ngoài âm dương, âm dương không ngoài thái cực, thái cực không ngoài 'vô'. Tiên sư nói ra, đều có thâm nghĩa. Nói đến bát quái, là muốn người tu đạo tại chỗ bát quái đối đãi quan sát thấu đáo để mà nắm bắt được đạo lý. Trước tiên làm rõ ý nghĩa câu: "Lô trung đào đại thánh" của đề cương.

Tu đan ấy, có đỉnh có lô, trên là đỉnh, dưới là lô. Nghĩa của 'đỉnh', ở thiên trước tiên sư ngầm đề cập đến, bằng một chữ "quan", khiến người quan sát mà thấy được, không hề quanh co quỷ thần, chỉ là chưa làm rõ sự kì diệu. Ý nghĩa của 'lô' cũng như vậy, cũng không có vòng vo quỷ thần, nhưng cũng chưa nói đầy đủ sự kỳ diệu. Hậu thiên bát quái dùng để phục khí tiên thiên. Đại sĩ thần quan mà đắc hỏa hậu, Lão quân dùng 'kim cương trác' đánh vào đỉnh đầu đại thánh, mà Nhị Lang dựa vào đó mà bắt giữ. Không có đại công đoán luyện thì không thể thu phục được vậy. Cũng không phải phàm hỏa, hay đến như Lôi, Hỏa nhị bộ mà có thể miễn cưỡng chế phục. Nhất định phải là chân hỏa trong lò bát quái, mới có thể đoán luyện thành đan. Tử Dương chân nhân nói: "Tự hữu thiên nhiên chân hỏa hậu, hà tu sài thán cập xuy hư" là như vậy. Bởi thế mà trời lấy hai bộ Lôi, Hỏa chư thần đều không thể làm tổn thương, cần phải để Lão quân mang đi, đem vào lò bát quái, lấy chân hỏa đoán luyện mà xuất đan vậy.

Đại thánh nhập lô, chui ngay vào cung "tốn", "tốn" là trưởng nữ, nhu đạo vậy, thế là 'minh nhập địa trung', Văn Vương khi bị cầm tù, đã làm rõ lý của tượng. Duy chỉ có nhu thuận khiêm nhường, lấy đó phát triển tiên thiên bát quái, mà cuối cùng không làm tổn thương vậy. "Gió thổi khói vào, làm hai mắt đỏ rực". Đó là thấy được tổn thất, mà ẩn giấu thật kỹ, sáng suốt mà tránh bị tổn thương, bởi vậy: "Sau này mới gọi là 'mắt vàng ngươi đỏ'", cho đến khi hỏa hậu đầy đủ, chợt một ngày, mở lò lấy đan. Chỉ nghe được trong lô có âm thanh, nhìn thấy ánh sáng, 'vù vù' một tiếng, đạp đổ lò bát quái, chạy ra bên ngoài, trông giống như bạch hổ hung dữ, như độc giác long; long hổ nhị tượng ấy, hợp nhất vậy.

"Lão quân chạy ra, bị đạp một cái ngã lộn nhào, mà chạy thoát thân", Diệu! Diệu thay! Thần thay! Khi trước Lão quân lấy 'cái tai đỉnh' đánh trúng đỉnh đầu đại thánh ngã lăn ra, bây giờ Lão quan ngã lăn ra mà đại thánh thoát thân; trước là kim đan thuận nhập vào trong lô mà kết thai; bây giờ là kim đan nghịch xuất lô mà thoát thai vậy. Bài thơ "hỗn nguyên thể chính hợp tiên thiên" của tiên sư, chính là hình dung sự kỳ diệu của đan thành, từng câu từng chữ đều là ngọc mưu ni. Lại cần phải xem kỹ các từ 'hào sơ huyền', 'phi diên hống', 'hoàn biến hóa', trong đó đều có diệu nghĩa, khó có thể nói hết. Gọi là 'hào sơ huyền', tại đó vẫn còn 'huyền'; gọi 'phi diên hống', vẫn còn cần diên hống; đó là có thể biến hóa, lại còn biến hóa. Lão tử viết: "Huyền chi hựu huyền, chúng diệu chi môn chi huyền", rất khúc triết mà khó có thể nhận thức. "Hựu huyền" lại càng khúc triết mà khó có thể nhận thức. Bởi thế tiên sư ở chỗ này làm rõ bằng một câu: "Hựu đại loạn thiên cung", ở bài thơ thì: "Hựu thi viết", hai từ "hựu", chính là "hựu huyền", "hựu" biểu hiện sự tinh túy vậy. Tại sao "Hựu đại loạn thiên cung", đó là tiên thiên chân ất chi tinh, nhập vào trong lò bát quái, đó là 'hậu thiên' mà phụng thiên thời; xuất khỏi lò bát quái, tức 'tiên thiên' mà thiên phất vi (không trái). Tự mình cùng trời tranh bữa tiệc, mà không chịu trời quản chế vậy. Trước đại thánh nháo loạn thiên cung mà nhập lô đoán luyện, đó là trước động mà sau tĩnh, đó là nửa trước của hạ thủ công phu, đó gọi là "huyền chi" vậy; nay đại thánh lại đại nháo mà nhập vào dưới núi áp định, đó là tĩnh cực mà động, động mà lại tĩnh, là một nửa phía sau hạ thủ công phu vậy. Cũng gọi là "hựu huyền" vậy. Như thế khi trước "đại nháo", có lão quân dùng 'đỉnh' để chế phục; nay đại nháo chỉ có bàn tay Như Lai mới có thể hàng phục, đó là tương quan trong bát quái, đó là ngũ hành toàn thốc, chế phục tuy có khác biệt, mà diệu dụng thì là một vậy.

Tối diệu ở chỗ "hựu thi" (lại có bài thơ) có bốn câu rằng:

"Viên hầu đạo thể phối nhân tâm

Tâm tức viên hầu ý tư thâm

Đại thánh tề thiên phi giả luận,

Quan phong bật mã thị tri âm

Mã viên hợp tác tâm hòa ý,

Khẩn phược lao thuyên mạc ngoại tầm."

Người bình giải "tây du", đem bốn từ "tâm viên ý mã" là ý trụ cột, là nghĩa bao trùm toàn bộ tác phẩm, không biết rằng 'viên hầu' (vượn khỉ) tức là đạo thể vậy. Viên tính chậm chạp, chủ tĩnh; hầu tính hiếu động, chủ động. Đó là hình tượng của đạo thể có động có tĩnh, cùng với nhân tâm động tĩnh tương xứng, chứ không phải viên hầu tức là nhân tâm. Tiên sư ở phần đề cương nói "tâm viên" tức ý nói tâm viên hầu này vậy. Ý tứ trong đó thâm diệu, độc giả cần phải quan sát kỹ mà hiểu vậy. "Tâm tức viên hầu", quá rõ ràng hiển nhiên, sao còn nói "ý tư thâm"? Đó là bởi đạo thể có tĩnh có động, tu đạo cũng phải có tĩnh có động, động cực tất sẽ tĩnh, tĩnh cực tất sẽ lại động. Động cực tất tĩnh, tác dụng của kim đan từ đầu tới cuối tận hết trong đó, tức "huyền chi hựu huyền, chúng diệu chi môn", bởi thế mới "ý tư thâm", cần phải quán xét suy nghẫm cho thấu đáo vậy. Ở câu thứ ba lấy hợp động để tĩnh, mà không nói tâm viên hòa vào ý, mà nói về 'tâm' nào? Đó là kim đan tác dụng, đang lúc giao tế tĩnh cực rồi lại động, cần phải thu phục 'hầu động', để mà bình định 'viên tĩnh', mới thành đại đạo. Bởi thế mà 'mã', 'hầu' chưa hợp, tâm ý chưa hòa, không thể bắt giữ giam cầm, mà cần phải tìm bên ngoài vậy. Cho đến "mã viên hợp tác tâm hòa ý", mà "khẩn phược lao thuyên mạc ngoại tầm" (mã hầu đã được như tâm hòa với ý, bắt giữ giam cầm chớ tìm bên ngoài).

"Đại thánh biến thành ba đầu sáu tay", "ở trong trận bay múa", "giống như tự cổ thường tồn", "thần tướng khó mà bắt giữ", các câu đó chính là hình dung đạo thể biến hóa kỳ diệu. Người chú giải, đến đây nói là tâm, tức đại ngộ vậy! Đấy chính là 'đạo phi thường đạo', người có thể tu luyện hàng phục, tức là Như Lai. Cần phải tra xét cho đến căn nguyên, mới có thể hạ thủ. Đại thánh tự xưng là "linh căn", tức là căn nguyên tiên thiên chi tinh, không phải phàm vật thế gian. "Chích thử cảm tranh tiên" (đơn độc dám tranh tiên), đó là nói rõ 'thiên' (trời) tức 'tiên thiên', ta đây cũng là 'tiên thiên', bởi thế mới dám 'tranh tiên' không hề nhượng bộ vậy. Đến khi dụ đại thánh 'nhập thủ', chính là lúc kim đan nhập thủ. Rồi đến "Ngũ căn nhục trụ" (năm cây cột thịt), "nhất cổ thanh khí" (một vầng thanh khí), chính là hòa hợp tứ tượng, ngũ hành toàn thốc chi thì. Ở cây cột trung tâm viết "tề thiên đại thánh đã chu du đến chỗ này", đó tức Phật Tổ nói rằng: "Kiền khôn chi nội, vũ trụ chi gian, trung hữu nhất bảo, bí tại hình sơn, bất tại tâm thận, nhi tại hồ huyền quan nhất khiếu". Người bình giải lại nói đó là sự kỳ diệu của văn vũ hỏa, tức là vẫn chưa biết được sự kỳ diệu vậy! Đoạn mà đề tên trên cột trụ giữa, đó là cột trụ trời, tức ranh giới của trời, ý nghĩa như lúc khởi đầu sinh tử, bởi vậy mà không ra ngoài bàn tay của phật tổ, mà chưa vượt xuất ra bên ngoài ngũ hành vậy.

"Phật tổ lật sấp bàn tay, đem ra bên ngoài Nam Thiên môn, hóa ngũ hành sơn áp trụ", đây là nói rõ đạo kim đan, tất là ngũ hành toàn thốc, mà từ trong hư không kết thành. Nhân tâm đến được chỗ này mà phối hợp, tức là có căn cứ mà làm, tất sẽ không lạc vào không vong. Như "Đại Học" nói rằng: "Tri chỉ nhi hậu hữu định. Định nhi hậu năng tĩnh, tĩnh nhi hậu năng an", có thể thành công, dần dần mà siêu thoát vậy. Đoạn giữa của thiên này, sau khi giam giữ yêu hầu, mở đại hội đặt tên là "An thiên đại hội", chính bởi 'định' nên mới được 'an', là ý đó vậy.

"Ngộ Chân" viết: "Yết thuật nạp khí tạo nhân hành, chu vật đinh năng tạo hóa ngưu. Đỉnh nội nhược vô chân chủng tử, như tương thủy hỏa chử không đang", đại thánh tức là chân chủng tử vậy. Đó là hữu vi, lấy vô vi làm dụng; vô vi ấy, lấy hữu vi làm căn bản. Nhất định là trước hữu vi, mà sau quy về vô vi, mới có thể liễu vô thượng chí chân diệu đạo. Nếu trước không hành 'hữu vi', mà muốn 'định', 'tĩnh', cuối cùng sẽ lạc vào không vong; còn như trước đắc 'hữu vi', sau lại không thể siêu thoát, tất 'tính địa bất không', chưa thoát ra ngoài tam giới. Tử Dương chân quân nói: "Thủy vu hữu tác nhân nan kiến, cập chí vô vi chúng thủy tri. Đãn kiến vô vi vi yếu diệu, khởi tri hữu tác thị căn cơ", 'hữu tác' ở đây là 'tâm viên' ở dưới ngũ hành sơn là vậy; hữu tác mà lại vô vi vậy, dưới ngũ hành sơn định tâm viên là vậy. Đó là giải trừ vọng tâm thiên lệch, mà lấy ngũ hành sơn chế trụ.

Trong thiên này, từ chỗ "hầu tử thành tinh", cho đến nhiều lần sau, đều đề là 'hầu', mà tuyệt không thấy đề là "viên", đó là làm rõ hàng phục 'hầu' tính động, mà sau mới có thể định tâm 'viên', chớ có khinh thường mà đọc lướt qua. "Ngũ hành sơn mọc rễ mà khép lại, chỉ để chỗ mà hô hấp", đó là nuốt kim đan vào trong bụng vậy. "Đói thì cho ăn viên bi sắt, khát thì cho uống nước đồng", đều là kim loại vậy.'Viên' tức kim trong thủy, đó là đồng loại trợ giúp, tức là công phu ôn dưỡng. Lại nói Như Lai lật chưởng liền định tâm viên, có thể thấy trong hậu thiên ngũ hành có tiên thiên chân ất chi tinh, không có gì mà phải cầu tìm ở xa, dễ như lật bàn tay vậy. Tiên sư chỉ ra sự kì diệu, như thế đó!
[/HIDE-THANKS]
 
Bài viết: 0 Tìm chủ đề
HỒI THỨ BẢY

Bát quái trung lô đào đại thánh

Ngũ hành san hạ định tâm viên

(Đại thánh trốn khỏi lò bát quái, dưới núi Ngũ Hành định tâm viên)

[HIDE-THANKS]Ngộ Nguyên Tử chú giải:

Ngộ Nguyên Tử rằng: Hồi trên nói tiên thiên chi khí, thuận mà dừng chỉ, từ "bác" quy "phục", khả dĩ kim đan ngưng kết vậy. Hồi này chuyên nói chân hỏa đoán luyện, kim đan thành thục vậy. Từ hữu vi mà nhập vô vi, để thành vô thượng chí chân diệu đạo vậy.

Đại thánh bị áp giải đến 'trảm yêu đài', thần hỏa không thể thiêu đốt, sấm sét không thể đả thương, tại sao lại vậy? Đó là bởi tiên thiên chi khí trở lại, dược tức là hỏa, hỏa tức là dược, tự có thiên nhiên chân hỏa, mà hỏa ngoại lai không thể công kích tác động. Bởi thế mà Lão quân nói rằng: "Con khỉ này ăn hết đào tiên, uống rượu ngự, lại nuốt hết tiên đan của lão, tam muội hỏa luyện hình thành thân thể kim cương bất phôi, nhất thời không thể bị tổn thương, chi bằng để lão đạo đem đi, ném vào lò bát quái, dùng văn vũ hỏa đoán luyện, luyện cho xuất đan ra", đó rõ ràng nói sau khi kim đan ngưng kết, loại hỏa bình thường không thể đoán luyện thành thục được. Đã nói là ăn hết bàn đào, uống hết ngự tửu, lại trộm hết tiên đan, sao lại còn nói lấy văn vũ hỏa để đoán luyện xuất đan trở lại? Đó đều có ý nghĩa, không thể không biết. Nói là đã luyện thành thân kim cương, tức kim đan đã ngưng kết, đó là một thời công phu; lấy văn vũ hỏa để đoán luyện xuất đan, đó là triêu "truân", mộ "mông", trừu diên thiêm hống, phù hỏa phanh tiên chi công. "Lão quân đem đại thánh ném vào trong lò bát quái, lệnh cho đạo nhân đốt lửa đoán luyện, đại thánh chui ngay vào dưới cung" tốn "." Tốn "tức phong, có gió thì không có lửa, chỉ là gió thổi làm khói bay vào mắt làm hai mắt đại thánh đỏ rực, bởi thế mà về sau nói đại thánh 'mắt đỏ ngươi vàng'"! Ôi! Tiên sư từ bi, chẳng những chỉ cho người về hỏa, mà còn chỉ rõ tác dụng làm sao. Lần trước kết đan, lấy 'trung' làm quý; nay luyện đan lấy 'hòa' làm quý. "Tốn" phong có đặc điểm hòa hoãn thong thả, nhất âm nằm dưới nhị dương, trong cương mà dụng nhu, hòa hoãn thong thả mà không cấp bách vậy. "Trung Dung" viết: "Trung dã giả. Thiên hạ chi đại bản dã; hòa dã giả, thiên hạ chi đạt đạo dã.", có thể 'trung', có thể 'hòa', cương nhu tương trợ. Chính là ẩn tàng sự tốt đẹp bên trong, giấu sự thông tuệ bên trong, ý nghĩa giốngnhư 'nội minh ngoại ám', bởi thế nói là "mắt đỏ ngươi vàng".

"Bảy bảy bốn mươi chín ngày, lão quân hỏa hậu đã đầy đủ, đột nhiên một ngày khai lô thủ đan. Đại thánh chỉ nghe thấy trên lò một tiếng vang, trợn mắt nhìn thấy ánh sáng, nhịn không được tung mình nhảy ra khỏi lò, hô một tiếng, đạp đổ lò bát quái, chạy ra ngoài.", đó là hỏa hậu đã đủ, âm tận dương thuần, tạp chất trừ sạch, kim đan thành thục, tự nhiên xuất ra một viên quang minh bảo châu vậy. Lúc đó thì, thoát ngũ hành mà xuất tạo hóa, mệnh do ta tự chủ, đỉnh lô vô dụng. Bởi thế mới "đem mấy vị trông giữ lò đẩy cho té ngã, Lão quân chạy tới cũng đá cho ngã bổ nhào, mà chạy thoát thân", 'chạy thoát thân', đó là không bị tạo hóa trói buộc vậy, không bị câu thúc bởi huyễn thân vậy, bởi vậy mà đề cương mới là "bát quái lô trung đào đại thánh" là nghĩa như vậy.

"Lấy kim cô bổng từ trong tai ra, bất phân phải trái, lại một lần nữa đại nháo thiên cung", sau khi đan thành, vô câu vô thúc, nhất linh diệu hữu, pháp giới viên thông, dữ thiên tranh quyền, đạo lý đó là tất nhiên.'Lại lần nữa đại nháo thiên cung', cùng với đại nháo thiên cung lần trước có khác biệt lớn. Trước đại nháo thiên cung, là việc của hoàn đan, bởi có 'âm' mà đại nháo, hãy còn xuất ra từ công lực, lúc ấy là trước khi đỉnh lô đoán luyện; nay do thuần dương mà đại nháo, để mà quy về tự nhiên, thế nên mới đem đỉnh lô đạp đổ. "Đánh cho cửu diệu tinh bế môn bế hộ, đánh cho thiên vương vô ảnh vô tung", tất cả là miêu tả kim đan thành tựu, đạo cao long hổ phục, đức trọng quỷ thần khâm vậy.

Thơ viết rằng:

"Hỗn nguyên thể chính hợp tiên thiên, vạn kiếp thiên phiên chích tự nhiên

Miểu miểu vô vi hồn thái ất, như như bất động hào sơ huyền.

Lô trung cửu luyện phi duyên hống, vật ngoại trường sinh thị bản tiên.

Biến hóa vô cùng hoàn biến hóa, tam quy ngũ giới tổng hưu ngôn."

Bốn câu trên nói liễu tính tất phải liễu mệnh, bốn câu dưới nói liễu mệnh cần phải liễu tính. Xem các đoạn "vô vi hồn thái ất, bất động hào sơ huyền, cửu luyện phi diên hống, biến hóa hoàn biến hóa", không khó có thể hiểu được.

Bài thơ thứ hai:

"Nhất điểm linh quang triệt thái hư,

Na điều trụ trượng diệc như chi.

Hoặc trường hoặc đoản tùy nhân dụng,

Hoành thụ hoành bài nhâm quyển thư."

Tổng kết lại là nói lúc đạo thành, nhất điểm linh quang thông triệt thái hư, tất cả đều do ta, không gì không thể được. Xem đây có thể thấy từ trước đến nay, đọc "tây du", bình "tây du", lấy tâm viên ý mã mà bình giải, đều là đọc mà như mù, đến bài thơ thứ ba liệu có thể thấy được ý vị trong đó hay không?

Thơ rằng:

"Viên hầu đạo thể phối nhân tâm

Tâm tức viên hầu ý tư thâm

Đại thánh tề thiên phi giả luận,

Quan phong bật mã thị tri âm

Mã viên hợp tác tâm hòa ý,

Khẩn phược lao thuyên mạc ngoại tầm

Vạn tượng quy chân tòng nhất lý,

Như Lai đồng khế trụ song lâm"

"Viên hầu đạo thể phối nhân tâm", nói viên hầu tức là đạo, nhân tâm không phải là đạo. Đạo vốn không lời, gọi đạo là 'viên, hầu' tức dùng lời để diễn đạo, đó là nói 'tận'vậy. Viên hầu còn chẳng phải là đạo, huống chi nhân tâm? Bất quá mượn 'viên hầu' làm đạo thể, để mà phối hợp với nhân tâm vậy. "Tâm tức viên hầu ý tư thâm", đấy là nói đạo có động tĩnh, nhân tâm cũng có động tĩnh, động tĩnh của đạo tựa hồ như động tĩnh của nhân tâm, 'tâm tức viên hầu ý tư thâm' tức tâm là 'viên hầu' ý nghĩa thâm sâu, không phải suy nghĩ tầm thường. "Đại thánh tề thiên phi giả luận, quan phong bật mã thị tri âm" ấy, là nói đạo chí thuần dương, thiên kiện đức không ngừng, đạo kiện cũng không ngừng, hồn nhiên thiên lý, thừa lục long mà ngự thiên vậy. "Mã viên hợp tác tâm hòa ý, khẩn phược lao thuyên mạc ngoại tầm" ấy, sở dĩ tiến dương hỏa, đạo kim đan hữu vi, mà bởi 'viên mã' bất hợp, tâm ý bất hòa, mà làm cho viên thuần mã thục, viên mã tương hợp, tâm chính ý thành, tâm ý tương hòa, mới có thể 'khẩn phược lao thuyên' (bắt giữ giam cầm), không cần phải tìm ở bên ngoài mà vận hỏa nữa vậy. "Vạn tượng quy chân tòng nhất lý, Như Lai đồng khế trụ song lâm" ấy, là nói liễu mệnh rồi, cần phải vạn pháp đều không, để mà liễu chân tính, hợp hữu vi vô vi nhất quán, để thành diệu giác kim thân, trở về với địa vị Như Lai, mới là xong việc vậy.

"Đánh vào tới bên trong Thông Minh điện, bên ngoài Linh Tiêu điện", thông suốt u minh, tượng cho trong ngoài vô âm. "Chư thiên thần đem đại thánh vây lại tại trung tâm, đại thánh chẳng hề có chút sợ hãi biến sắc.. biến thành ba đầu sáu tay.. giống như cái guồng quay tơ, tại trung tâm mà bay múa", cương kiện trung chính, tùy tâm biến hóa, không gì ngăn trở.

Bài thơ "viên đà đà" như sau:

Viên đà đà, quang chước chước.

Tuyên cổ thường tồn nhân chẩm học?

Nhập hỏa bất năng phần. Nhập thủy hà tằng mẫn?

Quang minh nhất khỏa ma ni châu,

Kiếm giáo đao thương thương bất tiêu.

Dã năng thiện, dã năng ác, nhãn tiền thiện ác bằng tha tác.

Thiện thì thành phật dữ thành tiên,

Ác xử phi mao tịnh đái giác.

Vô cùng biến hóa văn thiên cung, lôi tướng chuyển binh bất khả tróc

Bài này nhìn chung nói đạo chí cương kiện trung chính, như một khỏa mưu ni bảo châu, quang huy thông thiên triệt địa, thủy hỏa không thể thương tổn, binh đao không thể làm hại, mệnh do ta làm chủ, không do thiên địa, thiên binh thần tướng, làm sao có thể tiếp cận đây? "Dã năng thiện, dã năng ác, nhãn tiền thiện ác bằng tha tác. Thiện thì thành phật dữ thành tiên, ác xử phi mao tịnh đái giác" (Có người thiện, có người ác, thiện ác đều có bằng chứng ở ngay trước mắt. Thiện thì thành phật cùng thành tiên, ác thì không làm cầm thú khoác lông mao thì cũng mọc sừng trên đầu mà thôi), đây là nói quang minh bảo châu, người người đều có, ai ai cũng viên thành, thế nhưng thánh nhân lấy đó mà làm thiện, mà thành tiên thành phật;phàm nhân lấy đó mà làm ác, chẳng đầu thai làm cầm thú hay sao? Đó là kết quả của làm thiện làm ác vậy! Nếu có thể làm thiện, tất có thể dụng hỏa đoán luyện, đến khi thành thục, biến hóa vô cùng, cùng trời tranh quyền, tiên thiên nhi thiên phất vi vậy!

Như thế là sau khi liễu mệnh, nắm lấy mà liễu tính; hữu vi kết thúc mà khởi đầu vô vi. Nếu chỉ biết liễu mệnh, mà không biết liễu tính, chỉ biết hữu vi, mà không biết vô vi, tức thánh biến thành ma, thọ cùng thiên địa một kẻ ngu vậy, làm sao có thể đến được địa vị bất sinh bất diệt? Bởi thế mà Phật tổ nghe đại thánh nói trường sinh biến hóa, mà cười nói: "Người chỉ là một hầu tử thành tinh, sao lại dám đoạt Ngọc Hoàng đại đế tôn vị?", lại nói: "Hãy sớm quy y, nếu không sợ rằng đến khi gặp phải độc thủ, tính mệnh một thoáng đứt đoạn, thật là đáng tiếc", đó là bản lai diện mục là liễu mệnh chi đạo, đó là mới trở về bản lai diện mục lúc phụ mẫu mới sinh thân, còn chưa trở về được 'tiền diện mục' khi mà phụ mẫu chưa sinh thân, nếu chỉ biết sinh thân chi sơ diện mục, không biết trở về chưa sinh thân chi tiền diện mục, tự mãn tự túc, tự tôn tự đại, tức thì không thể minh tâm mà có tâm khinh thường, khinh tâm tức khinh trời, khinh trời thì không thể liễu tính; không thể liễu tính, tức không thể cùng thái hư đồng thể, có sinh rồi cũng có diệt. Một khi gặp kiếp vận, gặp phải độc thủ, tính mệnh đứt đoạn, làm sao không tiếc bản lai diện mục? Trang Tử nói rằng: "Nhiếp tinh thần nhi trường sinh, vong tinh thần nhi vô sinh." Vô sinh tức vô diệt, tu đạo chưa đến chỗ vô sinh vô diệt, tất vẫn còn hậu hoạn, vẫn chưa phải là cùng cực công phu.

"Đại thánh cùng phật tổ đánh cuộc, bay tới chỗ có vầng mây sáng, đột nhiên thấy năm cột trụ thịt màu hồng, chống đỡ một cỗ thanh khí, hắn liền nói: Đến đây là cùng đường rồi", đó là liễu ngũ hành nhất khí, mệnh cơ kiên cố, có thể nói là 'tận mỹ' rồi, nhưng chưa thể đạt được 'tận thiện', tức tiên ông nói rằng: "Biến hóa vô cùng hoàn biến hóa", bởi thế mà người tu đạo cổ kim đều đến đây mà coi như 'cùng đường', bởi thế tiên ông lấy đại thánh để mà châm biếm vậy! "Tại trung trụ thượng tả nhất hành đại tự rằng: 'Tề thiên đại thánh đáo thử nhất du" (tại cột trụ giữa đại thánh viết một hàng chữ to 'tề thiên đại thánh đã chu du tới chỗ này'. "), 'trung trụ', ấy, tức trung chi thực vậy.'tả nhất hành đại tự', tức chữ 'trung' ấy, viết thật lớn vậy.'tề thiên đại thánh đáo thử nhất du', đó là nói lịch đại thánh nhân tu hành đều không rời 'trung' đó. Viết là viết chữ 'trung' đó, từ là từ 'trung' đó, 'trung' vốn là không có tên, người ta viết ra đặt thành chữ 'trung' đó, bởi thế tiên ông vì đại chúng mà đề xuất chữ 'trung', đó là cột trụ 'liễu tính', để mà quy về diệu giác vậy." Thu lại lông mao, bất kể tôn nghiêm ", đó là không dùng sự sáng suốt, nên không xưng tôn quý vậy. Tại sao lại ở gốc cột trụ thứ nhất, mà tiểu một bãi? Nước đái khỉ là thủy kim vậy. Lúc chưa thành đạo, thì tìm trăm phương ngàn kế, gấp tìm thủy kim đó để làm chân chủng tử; nay đã thành đạo, vạn pháp đều không, mang thủy kim đó mà quy về thái hư, tức" đệ nhất căn trụ tử "vậy, là vô thượng nhất thừa chi diệu đạo." Phóng một bãi nước tiêu "rồi bỏ chạy, đó là bỏ đi kim thủy không dùng vậy. Ôi! Ý nghĩa trong đó, không thể dùng lời mà nói, không thể dùng bút mà viết, đó là kinh không chữ vậy. Trong đó cùng với lúc chưa thành đan có chỗ bất đồng, lúc chưa thành đan, có âm có dương, là thiên cơ tạo hóa; lúc đan đã thành, vô biên vô ngạn, đó là sự nghiệp bên ngoài hư không." Chuyển thân nhảy lên cân đẩu vân, bay trở về chỗ cũ, đứng tại lòng bàn tay Như Lai nói: 'ta đã đi, nay trở lại', Như Lai mắng rằng: 'ngươi chính là chưa rời khỏi lòng bàn tay của ta'. ", đứng tại lòng bàn tay, chưa hề rời khỏi lòng bàn tay, chung quy là bàn tay đó, phật pháp vô biên, cần phải trở lại chỗ 'vô ngôn ngữ văn tự' vậy. Ở trong lòng bàn tay ấy, xa cách mười vạn tám ngàn dặm, gần ngay trước mắt, không phải đại thánh 'mắt đỏ ngươi vàng' có thể thấy, ai có thể quay trở lại? Đã có thế thấy 'trung', cần phải quy 'trung'. Thử xem:" Đại thánh xoay người định nhảy thoát ra, Phật tổ lật bàn tay một cái, đem năm ngón tay biến thành năm tòa liên sơn, đổi tên thành Ngũ Hành sơn, nhẹ nhàng áp trụ đại thánh ". Từ hữu nhập vô, ngũ hành hỗn hóa, liên kết thành nhất khí, hồn nhiên nhất 'trung', nhập vào chân không diệu hữu đại giác, mà dưới núi ngũ hành tâm viên có thể định vậy. Tâm viên ấy, đạo tâm diệu hữu, thuộc cương, cương chủ động; phật chưởng ấy, bản tính là chân không, thuộc nhu, nhu chủ tĩnh. Cương cực mà dưỡng nhu, động cực mà quy về tĩnh, chân không diệu hữu, lưỡng mà hợp nhất, hữu vô đều bất lập, vật ngã đều quy không. Trong lúc 'lật chưởng', tâm viêm bất định mà tự định. Việc 'lật chưởng' đó có ý nghĩa vi diệu, tức Ca Diếp mỉm cười, A nan thầm đồng tình. Người hiểu ngộ, biết được đây là sau khi liễu mệnh, tâm viên định mà hỗn hóa ngũ hành; người mê lúc ấy thì, đã liễu mệnh ấy, không thể liễu tính, tâm viên bất định, cuối cùng cũng bị ngũ hành chế trụ. Tâm viên định hay bất định chỉ tại chỗ ngộ hay không ngộ vậy.

Thơ rằng:" Đương niên lập chí khổ tu hành, vạn kiếp vô di đạo quả chân.

Nhất triêu hữu biến tinh thần tệ, bất tri hà nhật tái phiên thân. "Nhất thiết tu mệnh ấy, không biết tu tính, sau này có thể ngộ vậy!

" Chư thiên mời đặt tên cho đại hội, Như Lai liền gọi là 'An thiên đại hội', "độc giả đến chỗ này, không khỏi bình luận sai lầm, hoặc cho là đại thánh trước loạn thiên cung mà 'thiên bất an', nay bị ngũ hành áp trụ mà 'thiên an' vậy; hoặc nói đại thánh trước loạn bàn đào mà không có hội, nay bị áp trụ được an mà mở đại hội, đủ các loại. Vậy là sao? Tính này là thiên tính, mệnh này là thiên mệnh. Không thể tính mệnh cùng liễu, thì không thể 'an thiên'; không thể tính mệnh song tu, thì không có đại hội. Nay đại thánh bị Như Lai áp trụ, mà tính bất ly mệnh, mệnh bất ly tính, hữu vi mà nhập vô vi, diệu hữu mà quy về chân không, đó là thiên mệnh chi tính, bởi thế gọi là 'An Thiên đại hội', chẳng phải nên như thế ư? Nam cực thọ tinh hiến một bài thơ, ý nghĩa là ấn chứng tính mệnh đều liễu, là chỉ nam vô vi hữu vi." Như Lai vạn thọ nhược hằng sa, trượng lục kim thân cửu phẩm hoa ". Trượng lục, là số nhị bát nhất cân; cửu phẩm, là vật thuần dương vô âm, không phải 'mệnh' sao?" Vô tướng môn trung chân pháp chủ, sắc không thiên thượng thị tiên gia ", 'Vô tướng môn trung', tức thuần nhất bất nhị; 'sắc không thiên thượng', nghĩa là niết bàn bát nhã, không phải 'tính' hay sao? Trước liễu mệnh mà sau liễu tính, mới là vô thượng chí chân diệu đạo, mới không lạc vào con đường ngoan không chấp tướng vậy.

" Đến khi đại thánh vươn thân xuất đầu.. sáu chữ vàng dán vào đỉnh núi, đỉnh núi liền mọc rễ khép miệng, chỉ để lỗ cho thở, tay có thể thò ra, thân không thể cử động". Đây là tiên ông nhất bút song tả, tổng kết đại ý bảy hồi, học giả không thể không biết. Kim đan đại đạo ấy, cần phải tính mệnh song tu, công phu có hai đoạn, hai đoạn ấy, một đoạn hữu vi một đoạn vô vi, hữu vi sở dĩ liễu mệnh, vô vi sở dĩ liễu tính, tính mệnh đều liễu, đả phá hư không, đó mới là ý nghĩa kỳ diệu của thất phản cửu hoàn kim dịch đại đan. Như thế hữu vi vô vi đều cần phải có chân sư truyền thụ khẩu quyết, nếu biết vô vi không biết hữu vi, tất ngũ hành phân tán, mà huyễn thân khó thoát; nếu biết hữu vi không biết vô vi, tuy ngũ hành nhất khí, mà pháp thân khó thoát 'sáu chữ vàng', tức giáo ngoại biệt truyền khẩu quyết. Biết được quyết này, biết đầu biết cuối, khả dĩ thoát huyễn thân, khả dĩ thoát pháp thân, không bị ngũ hành áp trụ. Hoặc biết đầu mà không biết cuối, hoặc biết cuối mà không biết đầu, huyễn thân khó thoát, mà pháp thân cũng khó thoát, chung quy bị ngũ hành áp trụ; thế nhưng cũng không phải ngũ hành chế trụ, chung quy là do không biết giáo ngoại biệt truyền khẩu quyết, mà ngũ hành đè ép. Nếu quả thực có chí sĩ trượng phu, tâm chí kiên định, coi tính mệnh là đệ nhất sự nghiệp, dũng mãnh tinh tiến, quyết không lùi bước, chuyên tâm nhất chí, tầm sư phóng hữu, tự có thần minh ám hữu, chân nhân đến độ, không khó khăn mà lật bỏ ngũ hành mà phục tiên thiên, hữu vi vô vi mà hoàn thành đại đạo!

Ôi! Muốn biết đường lên núi, phải hỏi người đã đi qua, tại sao học nhân ở trên đời không chịu hạ mình cầu minh sư khẩu quyết diệu đế, cả đời trống không, đến lúc già cũng không thành, mất đi người thân, vạn kiếp khó gặp, không đáng tiếc sao?

Thơ rằng:

Cửu hoàn thất phản đại đan công, luyện tựu thuần dương tái biến thông.

Liễu mệnh phất tri kiêm liễu tính, pháp thân đáo để bất phi?

(Cửu hoàn thất phản đại đan công, luyện thành tựu thuần dương lại biến thông.

Liễu mệnh chẳng biết kiêm liễu tính, pháp thân đến tận cùng cũng chẳng cao thâm)
[/HIDE-THANKS]
 
Chỉnh sửa cuối:
Bài viết: 0 Tìm chủ đề
HỒI THỨ TÁM

Ngã phật tạo kinh truyền cực nhạc

Quan âm phụng chỉ thượng Trường An

(Ngã Phật tạo kinh truyền cực lạc, Quan Âm phụng chỉ đến Trường An)

Ngộ Nhất Tử chú:

Ngộ Nhất Tử rằng: Bảy thiên trước, làm rõ kim đan đại đạo, đó là tu luyện tiên thiên chân ất chi khí mà thành, đan pháp đó, căn nguyên, hỏa hậu từ đầu đến cuối, hạ thủ bí quyết, bao quát không gì không đủ. Người học đạo tĩnh quan mật sát, lại được thầy chỉ điểm tức có thể chứng bồ đề, bước vào tiên vị. Tiên sư lại sợ thế nhân ngu muội: Hoặc cho rằng đạo tiên phật là rộng lớn vô cùng, phàm nhân không thể học đến tận cùng; hoặc lại nói tham ngộ chỉ tại nhất tâm, chỉ có thể cầu ở tự mình mà đắc. Bởi thế mà những hồi tiếp sau mới đề xuất hình tượng Huyền Trang để làm sáng tỏ ý nghĩa; đề xuất Ngộ Không, Ngộ Tĩnh, Ngộ Năng, Long Mã, để làm rõ diệu dụng. Thấy được tiên phật, người người đều có phần, nhưngkhông phải trời sinh đã thành; cũng cần phải ta-người giúp nhau mới thành, chứ không phải tự tu mà thành.


[HIDE-THANKS]Bởi thế mà trong sách thiết đặt các nguy hiểm, quái đản; làm ra các loài ma quái tai ương, trong suốt mười vạn tám ngàn dặm đường xa, cùng tám mươi mốt nạn, thời gian kéo dài đến mười bốn năm, khiến cho người ta không tránh khỏi khởi tâm lo sợ, cho rằng không thể nào vượt qua được, nhất định không thể vượt qua tai ách, nhất định không thể thành công. Ý của tiên sư muốn nói rằng, nếu chưa đắc chân truyền, thì nhất định sẽ gặp trăm ngàn ma quái cực khổ; nếu đã đắc chân truyền thì nhất đắc vĩnh đắc mà luôn được cực nhạc. Bởi thế mà đề cương viết: "Ngã phật tạo kinh truyền cực nhạc." Chính là lấy kinh đó rất gần rất dễ dàng, cứu độ chúng sinh.

Nếu như: Đã tự có kinh đó rồi, thì đâu cần phải đi mười vạn tám ngàn dặm đường xa, đâu cần trải qua mười bốn năm khổ cực, đâu cần vượt qua tám mươi mốt tai nạn. Xem ở đầu chương thấy trực tiếp đề xuất bốn từ "tây du thích ách" (tây du giải trừ tai ách), liền hiểu được ngay rằng "tây du" vốn là để giải tai ách, chứ không phải cố tình tạo tai ách. Thế thì, là ma là nạn, bởi do Huyền Trang chưa được chân truyền mà thiết đặt ra, cũng giống như phải đến được chùa Đại Lôi Âm gặp phật tổ truyền kinh mới đắc đạo. Thế nhưng, tại sao mà tại bến đò Lăng Vân lại thoát xác thành chân? Không biết rằng Đại Sĩ tìm sư, truyền cho năm loại bảo bối, lệnh cho thu phục ba vị đồ đệ, chuẩn bị cước lực, Huyền Trang đã bí mật thụ nhận "khẩn cô" khẩu quyết. Truyền chân kinh, đã truyền ngay tại Trường An, không cần đến tận Tây Thiên mới có thể đắc đạo. Thực là mượn đến Tây Thiên mà chỉ rõ căn nguyên đại đạo; mượn mười vạn tám ngàn dặm xa, tám mươi mốt khổ nạn, mười bốn năm trường, để chỉ rõ phải phòng nguy lự hiểm, chỉ rõ yếu quyết công trình hỏa hậu.

Vốn là không xa, xa xôi cách trở sinh ra, bởi không đủ lực mà gánh vác, tùy tiện chọn đường đơn giản nông cạn, biết thì mười vạn tám ngàn dặm cũng không xa, mà đạo tại ngay trước mắt, người có thể đốn ngộ thì một lần cân đẩu vân có thể đến vậy; vốn là không có khổ nạn, nạn sinh ở chỗ mê hoặc trần duyên, sai lầm mà tích lậu, nhận thức được thì tám mươi mốt nạn rất dễ giải trừ, mà an lạc vô cùng, kẻ đại dũng thì nhất 'kim cô bổng' giải trừ hết tai nạn vậy; vốn chẳng mất nhiều thời gian, cần phải mất nhiều thời gian bởi không hiểu rõ dược vật hỏa hậu; biết thì mười vạn tám ngàn dặm chẳng xa, mà thẳng đường đến nơi. Bậc thiện tri thức, "Kim" "Khẩn" "Cấm", tức thì nhập vào 'ngã cấu trung' vậy. Nếu chẳng trải qua cực khổ, thì không biết được cực nhạc chân chính; không trải qua sự khổ đau cùng cực thì không biết được cùng cực vui sướng; không trải qua mười vạn tám ngàn dặm, tám mươi mốt nạn, mười bốn năm trường nhiều hiểm nguy khổ cực, thì không biết 'cửu cửu' chỉ là 'nhất cửu', 'tam tạng' chỉ là 'nhất tạng', năm nghìn không trăm bốn mươi tám ngày chỉ là 'nhất hậu' vậy.

Kinh này vốn gốc từ "Âm phù", "Đạo đức", tạo bởi Hoàng, Lão, tiên sư đặc biệt thiết đặt 'ngã phật' để chỉ rõ giáo lý, đời Đường để mà phổ biến, Huyền Trang là hình tượng tiêu biểu, "tây du" để diễn giải ý nghĩa, 'lấy kinh' để phát huy ý chỉ trong đó vậy. Còn như nói nhất định phải như Huyền Trang tây du thủ kinh mới có thể thành đạo, đó ý nói thế gian chân tiên chân phật rất hiếm, hậu thế đoạn tuyệt phật thai tiên chủng, tạo tác đã thâm sâu, rất khó khăn, rất xa vời, người người rất khó có thể thành đạo, không còn đơn giản, không dễ dàng, không còn gần tiên tiên phật nữa. Bởi thế muốn người người có thể cùng đắc đạo, thì ngã phật phải truyền kinh. Ngã phật truyền kinh có hai diệu nghĩa: Người chưa đắc đạo, giống như Huyền Trang, phải đến tây thiên mà thỉnh kinh; đã đắc đạo rồi, giống như Ngộ Không, đến tây thiên mà quy Phật. Chung quy nhất truyền, chung quy truyền cực nhạc vậy. Kinh ấy ý nghĩa vi diệu, người cần phải thần minh mà xem xét để mà thức tỉnh, bởi thế cần phải Quan Âm đại sĩ thần quan phụng chỉ hành sự vậy.

Bài thơ đầu thiên này, nói chúng nhân tham thiền minh ngộ, hư phí công phu, như 'mài gạch thành gương', không thể soi thấy hình; 'tích tuyết làm gạo', không thể no bụng, đến già cũng không thành, do lúc trẻ mê ngộ. Nói rằng: "Lông mao nuốt biển lớn", "hạt cải nạp núi Tu Di", nghe như không có căn cứ, vậy mà "kim sắc đầu đà", không khỏi bàng quan mà mỉm cười vậy. Người có thể ngộ điều này, tức thì "siêu thập địa tam thừa", nếu chẳng ngộ được thì nhất định nhập vào "tứ sinh lục đạo" mà luân hồi vạn kiếp, không thể thoát ra vậy. Còn như người có thể nghe được: "Bên bờ đoạt trừ vọng tưởng, dưới gốc cây không bóng", triệt để 'hoảng hốt yểu minh', lấy "một tiếng chim đỗ quyên" làm tín, hốt nhiên có thể đả phá mộng huyễn chăng?

Cho đến khi "Đường Tào Khê hiểm trở", không thể bước đi, "chim Thứu trên đỉnh núi xa" mà không thể bước tới, mờ mịt không bến bờ, tuyệt không thể nắm bắt. Tin tức cố nhân ở nơi đó, mờ mịt chẳng thể biết được vậy. Cần biết trong khoảng "ngàn trượng băng tuyết", có "hoa sen năm cánh" siêu nhiên sinh xuất, hương thơm vương vấn, điện cổ buông rèm hương thoảng bay. Người có thể ở chỗ này mà "thức phá nguyên lưu", liền đến gặp được Long vương mà có được ba thứ bảo vật, mới có thể đắc đan mà thành tiên tác phật vậy. Đâu phải tham thiền tĩnh mịch là có thể nhìn trộm được bí quyết trong đó? Thiền quán đó chẳng qua chỉ tại tính thể mà tham cầu, mà không xuất phát từ mệnh căn mà tiến bước, cuối cùng cũng chỉ phí công phu, đến già vẫn mờ mịt, chung quy đại hóa, đáng thương đáng tiếc thay! Đó đều là không rõ việc 'tâm viên' ở dưới ngũ hành sơn, cũng lại không rõ ý nghĩa 'tâm viên' thoát khỏi ngũ hành là như thế nào.

Lúc ấy Như Lai trở về chùa Lôi Âm, hướng tới chư Phật, chư Bồ Tát nói rằng: "Ta lấy tâm bát nhã thâm sâu vi diệu từ bi, quán xét khắp tam giới, căn bản tính nguyên, rốt cuộc đều là tịch diệt, đồng hư không tướng, nhất vô sở hữu". Nói 'Căn bản tính nguyên' đó, tức bản lai diện mục vậy. Tuy vậy khó mà thẳng đường nhập tịch diệt, khó lòng chuyên theo tính thể mà tham cầu. Đến sau khi đắc đạo mà quan tính thể, nhất định tĩnh mịch mà tịch diệt.'đồng hư không tướng, nhất vô sở hữu', nói "đồng hư không tướng' tức không phải là ngoan không; nói 'nhất vô sở hữu', tức không phải 'tuyệt vô'. Việc 'tiêu diệt con khỉ càn quấy' đó, trong tam giới không có ai có thể biết rõ ý nghĩa bên trong, việc đó là chí chân chí diệu, mà không phải tĩnh mịch, không phải ngoan không, đặc biệt 'gọi là khởi đầu sinh tử', mà pháp tương ứng vậy. Còn như nói là 'tính nguyên tức là không', thì tuyệt không thấy đúng sự việc, tức 'phi ngã thậm thâm', mà muốn sự tịch diệt, tức cũng tịch diệt như Lão Tử đã nói:" vô danh thiên địa chi thủy, hữu danh vạn vật chi mẫu ", vô danh tức 'tử' (chết), mà là khởi đầu thiên địa; hữu danh tức sinh, mà nhập vào trong ngũ hành. Như con khỉ tinh nghịch, danh vốn là sinh mà khởi đầu tử, pháp tướng căn nguyên vốn có bản tính 'tinh nghịch', nên trốn không khỏi bàn tay Như Lai, không thoát khỏi ngũ hành vậy.

Phật tổ trong hội vu lan, bày đủ trăm dạng kỳ hoa, muôn ngàn loại quả lạ, đó là" hữu danh, vạn vật chi mẫu ", tượng trinh hạ hoàn nguyên, bởi thế một khi hỏi, phật tổ liền nói ý nghĩa:" ta có một bảo vật, bí mật tại hình sơn, mọi người còn chưa biết ", chúng nhân liền" thỉnh phật tổ nói rõ ngọn nguồn ", Như lai" tuyên dương chính quả ", khai mở tam ngũ diệu uẩn, thiện tâm sáng như ánh trăng, chân tính bao hàm trời, nên gọi là thiên địa quỷ tam tạng chân kinh vậy. Nói ngắn gọn là: Tam tạng chỉ là tam ngũ, tam ngũ chỉ là nhất ngũ, nhất ngũ chỉ là nhất vậy. Nhất ấy, tức con đường tu chân, tức cửa thiện tâm vậy. Kinh ấy xuất phát từ phương tây, nhất định phải đợi đông thổ cầu lấy, không phải tĩnh quan mật sát như đại sĩ, không thể được vậy.

Như Lai nói:" Chuyến này đi phải 'bán vân bán vụ' mà đi, không được ở tít trên không trung mà đi, cần phải cẩn thận ghi nhớ đường đi ngắn dài ", đây là nói hành giả cần phải cước đạp thực địa, tuần tự mà tiến, không được có tư tưởng hư huyễn, không được làm bừa. Lại cần phải linh hoạt chu toàn, chớ có đình trệ, trong đó có hỏa hậu công trình thứ tự, nhất thiết phải cẩn thận ghi nhớ, không được làm sai.

Trong năm kiện bảo bối, có" Cẩm lan cà sa nhất lĩnh ". Cà sa, trang phục cách ly cấu nhiễm. Cẩm (rực rỡ) ấy, tạo bởi loại tơ ngũ sắc. Về màu sắc là năm màu: Xanh, vàng, đỏ, trắng, đen; về ngũ đức thì là nhân, lễ, nghĩa, trí, tín; về ngũ hành là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ; về ngũ luân là quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, minh hữu; về phương hướng là đông, tây, nam, bắc, trung; về âm thanh là ngũ âm cung, thương, giốc, chủy, vũ; về mùi vị là ngũ vị: Chua, cay, ngọt, mặn, đắng; cho đến ngũ quan, ngũ cốc các loại, không thể nói hết, chung quy là nhất ngũ, chung quy ' Cẩm lan cà sa nhất lĩnh" là bảo bối vậy. "Cửu hoàn tích trượng nhất căn", hoàn (vòng khuyên) ấy, tức hình tượng tròn đầy vậy. Tại hồn mị là tuần hoàn, tại âm dương là giao tiếp, tại hỏa hậu là cửu hoàn, tại thể dụng là liên hoàn, tại phương hướng là tứ phương, tại quỷ thần là khuất phục, tại thiên địa là công dụng, tại tử sinh là thủy chung, tại tứ thông là vô ngại, tại ẩn hiện mạt trắc là trí tuệ, tại nhân sự là thích hợp, đạt được tùy cơ ứng biến, tổng hết là ngũ chi trung vậy. Tóm lại "cửu hoàn tích trượng nhất lĩnh" là bảo bối vậy. Đó là hai kiện bảo bối, một kiện là thể hoàn bị, một thể là công dụng, bởi thế mà người lấy kinh có thể được miễn đọa luân hồi, cầm giữ bảo bối thì tránh gặp độc hại.

Lại còn ba cái vòng kim cô, "Gọi là 'khẩn cô nhi', tuy hình dạng giống nhau, mà tác dụng bất đồng", lại có 'kim' 'khẩn' 'cấm' ba bài chân ngôn. Kim (kim loại) ấy, cấm (giam cầm) vậy, tiến thoái có thứ tiết vậy. Bởi kim ấy cấm chế, khiến cho không thể lẩn trốn. Một cái dùng để thu phục đại thánh, lấy dụng làm cấm;một cái dùng thu phục hắc hùng, lấy bất tham làm cấm; một cái dùng thu phục thiện tài đồng tử, lấy thiện lương thí xá làm cấm. Tác dụng bất đồng, đại sĩ dụng kim kỳ diệu vậy. Đó là tu đan bí quyết, hạ sĩ nghe thấy, không nhịn được mà cười lớn, bởi thế tiên sư ẩn dụ mà không nói rõ. Nguyên nhân là gì? Tu đạo ấy, trừ hết phiền lụy, không nhiễm bụi trần, kim dùng để cấm chế, theo lẽ thường mọi người nhất định tin tưởng. Đặc biệt không biết sử dụng 'kim', chỉ một khác rời xa, tất sẽ phóng túng không thể ước chế, khiến cho không thể nhập vào pháp môn, bởi thể chỉ có thể dụng 'kim' ấy, mà 'khẩn khẩn cấm chế', mới có thể tránh họa điên cuồng thái quá. Sao lại như vậy? Kim ấy, mọi người thấy mà không nhận biết, không thấy thu hút, tuyệt không động niệm. Bởi kim niệm nhất động, nhất định hôn mê bất tỉnh, khó mà chịu đựng, không thể không nghe 'kim' lệnh vậy. Chân nhân rằng: "Muốn cầu bảo vật trên trời, cần phải dùng tài vật thế gian", đó là bí quyết vậy. Kim tuy chỉ có một màu sắc, nhưng lại có nhiều tác dụng, ý nghĩa cũng khác biệt, khẩn cấm pháp tắc cũng như thế, nếu như thế nhân rảnh rỗi mà dong chơi, thì thánh nhân tạo ra khoa 'kim' để cấm chế, đó cũng là một pháp môn cấm chế. Tiết lộ đến đây, người đời nhất định sẽ xuyên tạc mà cười lớn, mời đọc trong truyện: "Nếu không chịu phục mà vâng lời, hãy đem vòng này đeo lên trên đầu hắn, tự nhiên thấy da thịt mọc rễ, dựa theo chú đó niệm nhất niệm, đảm bảo có thể khiến hắn chịu phục pháp môn của ta", ý nghĩa thật rõ ràng. Như thế không phải tự mình lưu luyến kim ấy, mà là 'kim' 'khẩn' 'cấm' chế, không cho làm sằng bậy. Người biết như thế, dưới chân linh sơn, tức là kim đính đại tiên. Dốc tâm cầu đạo, chỉ hai ba năm, có thể đến chỗ này, vốn là lời chân thật. Thành đạo nhanh chóng, là bởi như thế, không cần phải nhất định là mười bốn năm. Thế nhưng ngũ kiện bảo bối, trong đó có ba loại, lại có nghĩa tam ngũ, không thể không biết.

Từ đó mà Sa tăng hiện tướng vậy. Sa tăng này, vốn là chí diệu chí yếu trong tu đan đạo, độc giả chớ có nhận lầm. Liễu Nguyên Tông nói: "Núi ở tây hải có nước, lỏng lẻo vô lực, hạt cải cũng không nổi lên được, chìm xuống đáy mới dừng, tên gọi là 'nhược thủy'". Dương Tử nói "Cam tuyền phú" : "Đông chúc thương hải, tây diệu lưu sa", tây vực, lưu sa, nhược thủy là những địa danh có thật. Tiên sư đặc biệt mượn hình ảnh để ẩn dụ tình dục dễ dàng lắng xuống, tính cơ khó cố định bền chắc, cần phải mượn chân thổ để mà ngưng kết. Chân thổ ấy, là chân ý vậy; lưu sa ấy, là thổ vô định vậy. Thổ vô hình, mà biến dịch cửu cung, kim mộc thủy hỏa, không chỗ nào không hòa hợp. Công ấy không gì vượt qua, nên tên gọi là "Sa hòa thượng cửu chí", "Quyển Liêm đại tướng", "trong tiệc bàn đào lỡ tay đánh vỡ cốc pha lê", "bảy ngày một lần, phi kiếm xuyên vào ngực", "không còn cách nào, tìm người qua đường, ăn thịt cho đỡ đói", tất cả những chỗ đó không hiểu thì cho là vô ý, kỳ thực bên trong có diệu nghĩa. Liêm (cái mành) ấy, có thể cách biệt trong ngoài, phòng ngừa mà được trong sạch, nó có thể cuốn lại (quyển) mà không gây hiềm tị; "bàn đào hội" có thể hợp hoan tâm. "Cốc pha lê", nước ngàn năm hóa thành, là tây phương chí bảo, dựa vào nó mà có thể hợp hoan đoàn tụ. Dụng ý bất thành lỡ tay làm vỡ nát bảo vật, tội đó rất lớn. "Thất nhật", là thời hậu của thiên tâm lai phục vậy. Đêm khuya thanh vắng, u sầu tự tư, không thể thoát khỏi đau khổ, không giống bị phi kiếm đâm sao? Bắt người đi lấy kinh ăn thịt, mà trở thành yêu nghiệt vô dụng. "Chín cái đầu lâu", chính là cửu cung chân thổ, nên nước không thể đánh chìm. "Người đi lấy kinh sẽ cần dùng đến", sử dụng kỳ diệu ra sao, sẽ nói rõ lúc thu phục. Ở đoạn "lấy 'Sa' làm tính", gọi là "Sa ngộ tĩnh", "nhập vào sa môn", "gột rửa thân tâm, không làm tổn thương sinh mệnh nữa", quy y tịnh tu chân ý chân thành, không thể sơ xuất, dẫn đến thương sinh hại mệnh vậy. Trường sinh mệnh cơ, đều tại chân thổ hòa hợp mà thành. Thổ rất trọng yếu trong tu luyện đan, nếu luận giải sa tăng là kim thủy, tức không biết diệu dụng chân thổ, mà chủ quan suy luận sai lầm vậy.

Tiếp theo trư bát giới hiện tướng. Trư thuộc hợi, trong hợi có giáp mộc, mộc có thể sinh hỏa, nên gọi "ngộ năng", "hợi" tòng 'ất' mà mang thai; tòng nhị nhân, nam nữ vậy. Lại hai đầu, sáu thân, là thập nguyệt thuần âm vậy. Lý dương không cùng tuyệt, nghĩa là được sinh sôi không dừng. Kim đan không được hòa hợp đoán luyện, không thể thành tựu vậy. "Vốn là thiên bồng nguyên soái, chỉ bởi say rượu mà chêu ghẹo Hằng Nga". Bồng ấy, tức phiêu bồng vô định, gặp gỡ bất thường, thuận nghĩa mà ái kim. "Rượu" ấy, thủy kim vậy, một khi gặp mộc kim, ngay cả Hằng Nga cũng dám chêu ghẹo. Chân linh vốn gần với súc vật, bởi vậy "đi nhầm đường" mà nhập vào trư thai. Giáp là dương mộc, mão là âm mộc, phù hợp cùng Mão Nhị Tỷ phối hợp. "Không quá một năm thì chết", nghĩa dương sinh mà âm tử. "Toàn cái động lớn, đều do ta sử dụng", bởi hợi trong ất mà mang thai, được lợi ở mão vậy. "Ăn thịt người qua ngày", đó là nói ham mê tửu sắc, mà thương sinh hại mệnh, sở dĩ là yêu. Đến khi được Bồ Tát điểm hóa, "như mộng vừa tỉnh", theo đường chính thụ giới, "đoạn tuyệt ngũ huân tam yếm", nên gọi là "Trư bát giới".

Tiếp theo là bạch mã hiện tướng vậy. Xưa nay đều ví 'viên' tức là tâm, 'mã' tức ý. Nếu mã tức ý, tâm tức thể của ý, ý tức dụng của tâm, như thế tề thiên đại thánh đại nháo thiên cung, dùng cân đẩu vân thần thông khó lường, toàn là tương ứng với bạch mã, hà cớ gì mà chỉ nói đến con khỉ (viên) ? Như thế có thể thấy bạch mã không phải là ý vậy. Bạch mã kim tượng, long mã vậy. "Kiền" tức long, tức mã. Mã là vật thuần kiền, cương kiện không ngừng mà bảo hộ tu đạo vậy. Kiên cường không ngừng, tiến bước vững chắc, cần phải nhờ vào long mã, mới có thể tới tây phương lấy kinh vậy. Bởi phàm mã không đủ sức, nên bị ngăn trở tại khe Ưng Sầu. Nếu mà tức là ý, không chỉ riêng mã? Tại sao bị long mã nuốt mất mà phải nhờ long mã? Còn có một ý nghĩa trọng yếu cần làm rõ: Tu đạo lấy việc hàng long là nhiệm vụ trọng yếu, nếu để phóng tung buông thả, nhất định sẽ tự hủy minh châu, mà thành nghiệt long. Chân không bước thực địa, khó có thể tu đạo, không thể tiến xa. Bởi thế cần phải tiềm ẩn nơi vực sâu, thao minh dưỡng hối, sau rồi mới có thể sử dụng hữu ích vậy.

Tiếp theo đại thánh hiện tướng vậy. Đại thánh tức tiên thiên chân ất chi khí, ở các hồi trước đã nói rõ, giờ không cần nói thêm nữa.

Tổng kết lại làm rõ: Mộc số tam ở phương đông, hỏa số nhị ở phương nam, mộc có thể sinh hỏa, nhị vật đồng cung. Bởi nhị cùng tam hợp thành nhất ngũ. Ngộ năng, tức hợi, là mộc hỏa nhất gia. Kim số tứ ở phương tây, thủy số nhất ở phương bắc, kim có thể sinh thủy, nhị vật đồng cung. Bởi thế tứ cùng nhất hợp thành nhị ngũ. Ngộ không, tức thân là kim thủy nhất gia. Mậu, kỷ thổ, vốn sinh số ngũ, là tam ngũ vậy. Ngộ tĩnh, là thổ nhất gia vậy. Tam ngũ hợp nhất thành nhất, tức thái cực vậy. Thái ấy, tức chí đại vậy; cực ấy, tức tận cùng vậy. Lý ấy ở trong hỗn độn, một khi động mà sinh âm dương, âm dương ấy, tức khí vậy. Đó là cơ sở của lý sinh khí, mà khí ở trong lý vậy. Có tiên thiên chân nhất chi khí, mới có thể sinh tam gia; bởi sau khi tam gia tương kiến, mà lại có thể sinh tiên thiên chân ất chi khí, để thành Anh Nhi. Anh Nhi toàn tại nhất khí ấy vận dụng, mà sau có thể thoát thai thành chân nhân. Huyền trang, tức anh nhi vậy. Bởi thế huyền trang không thể rời khỏi ngộ không; ngộ năng ngộ tịnh cũng không thể rời khỏi ngộ không vậy. Ngộ chân thiên nói: "Đông tam nam nhị đồng thành ngũ, bắc nhất tây phương tứ cộng chi. Mậu kỷ bản cư sinh sổ ngũ, tam gia tương kiến kết anh" là nói nghĩa đó vậy. Ôi! Nói đến đây, thế nhân không nhiều người có thể hiểu, không tránh khỏi suy luận sai lầm, coi là tà thuyết, đem chí chân vô thượng diệu đạo, coi như trò đùa. Người tu đạo có chí, mau cầu chân sư, chỉ điểm yếu quyết hạ thủ, để tránh đọa luân hồi.

Hồi này kết thúc là đại thánh "minh tâm kiến tính" bốn từ, bốn từ này làm rõ sự khác biệt với nhân tâm ở trên, tức như ở thiên trước bồ đề sư tổ nói: "Thành đạo chi hậu, tu yếu kiến tính minh tâm" là như vậy. Lúc mới học đạo, nếu lập tức kiến tính minh tâm, cũng là thiền gia tam thừa chi diệu. Nhưng chỉ biết vô vi, không biết hữu tác. Chẳng qua chỉ tu một vật tính âm, làm sao có thể kết đan thoát hóa thánh thai? Cuối cùng cũng lạc vào không vong. Đáng buồn! Đáng tiếc! Tử Dương chân nhân nói: "Đãn tri vô vi vi yếu diệu, bất tri hữu tác thị căn cơ." Thượng dương tổ sư nói: "Đáo lão vô vi. Như hà đắc nhạc? Nhập thất thải duyên, thị vân hữu tác. Đại ẩn thị triêu, hựuduy tri giác? Dục thành khuông khuếch, tiên lập ngân ngạc. Đắc nhất thử châu. Phương thị bất thác. Cửu tái tọa vong, vô vi công bác. Hành mãn tam thiên, dữ chúng cộng nhạc. Nhược trivô vi, bất tiên hữu tác. Thử nãi ngu phu, tự tương chấp trứ. Ân cần sổ ngữ, dĩ hiểu hậu học". Minh tâm kiến tính là công phu sử dụng sau khi kết đan: Toàn thốc ngũ hành là căn bản của tạo tiên tác phật. Nếu chỉ kiến tính minh tâm, mà không biết toàn thốc ngũ hành, nhất định không thoát khỏi sinh tử luân hồi vậy. Như đường tăng chưa thành anh nhi, nhất định mượn tam gia mà kết thành; Như ngộ không đã định ngũ hành, nhất định gặp như lai mà siêu thoát vậy. Đọc đến chỗ thầy trò lên thuyền không đáy, bỉ thử tương ứng, là việc đã xong!
[/HIDE-THANKS]
 
Bài viết: 0 Tìm chủ đề
HỒI THỨ TÁM

Ngã phật tạo kinh truyền cực nhạc

Quan âm phụng chỉ thượng Trường An

(Ngã Phật tạo kinh truyền cực lạc, Quan Âm phụng chỉ đến Trường An)


Ngộ Nguyên Tử chú giải

Ngộ Nguyên Tử nói: Bảy hồi trên, nói dược vật nội ngoại, cân lượng, hỏa hậu, đạo vô vi hữu vi

Không gì không rõ, không gì không đủ. Nếu gặp được thầy chỉ điểm thì có thể hi vọng được tiên thiên. Thế nhưng đại đạo thâm u, nếu có một chút sai lầm, liền mất đi thiên lý. Bởi vậy mà tiên ông từ chỗ sơn cùng thủy tận, lánh khởi nhất ý, diễn giải diệu đạo, mượn Huyền Trang tây thiên thủ kinh, ba đồ đệ tức chân ngũ hành hộ trì, diễn tả hỏa hậu công trình, đại đạo kỳ diệu, khiến người tu chân thân thể lực hành, cước đạp thực địa, theo hữu vi nhập vô vi, bởi miễn cưỡng mà thần hóa, để liễu đạo tính mệnh song tu, không được có một chút sai nhầm, mà rời xa vạn dặm.


Như đề cương nói: "Ngã phật tạo kinh truyền cực nhạc, quan âm phụng chỉ thượng trường an", độc giả thấy "ngã phật" hai chữ, liền nghi hoặc là liễu tính, nhất 'không' mà thôi, tu đạo ấy cần phải nhất vô sở hữu mới có thể thành chân; hoặc nghi rằng phật pháp cao thâm cần phải đắc phật pháp rồi mới thành đạo, tất cả đều không phải. Sở dĩ nói "ngã phật tạo kinh truyền cực nhạc", đạo vốn không thể dùng lời để làm rõ, tạo kinh để truyền tu đạo cực nhạc, khiến cho người người biết đến đạo đó. Nói rằng: "Quan âm phụng chỉ thượng trường an" đó, đạo quý ở 'ngộ', lại càng quý ở chỗ 'hành', 'quan' để biện rõ tu đạo pháp 'âm', tin tưởng thực hành, mà tu trì đạo đó. Tạo đó, truyền đó, quan đó, phụng đó, đạo vốn vô vi, mà pháp hữu tác. Lấy vô vi làm thể, hữu vi làm dụng, hữu vô kiêm đủ, khả dĩ từ Trường An mà nhập vào cõi cực nhạc. Nếu chỉ lấy 'không' mà hành sự, truyền cực nhạc đó là truyền cái gì? Trường an đó là tương ứng với cái gì?

Một từ 'quan' đó, bao hàm ý nghĩa toàn thiên này. Muốn thức tỉnh người tu luyện, tham cầu ngoan không tịch diệt, như mài kính thành gương, tính tuyết làm lương thực, lông mao nuốt biển lớn, hạt cải nạp núi tu di, chẳng khiến cho kim sắc Đầu Đà cười đến mất tiếng? Sao lại cười? Cười bởi đạo tu chân, có thiên cơ chân không diệu hữu, người ngộ được lập tức nhập vào thập địa tam thừa, người ngưng trệ thì nhập vào tứ sinh lục đạo. Các loại tịch diệt, đều không biết dưới cây không bóng, trước bờ vực thẳm thôi nghĩ viển vông, địa lôi chấn động, phòng trống bừng sáng, như một tiếng chim đỗ quyên, trong âm phục dương, như tín hiệu mùa xuân vậy. Đường Tào Khê vốn không nguy hiểm, đường lên Lĩnh Thứu vốn không gian nan, chỉ bởi người đời không thức tỉnh, mà tự nguy hiểm tự gian nan, bởi thế cố nhân xa cách, ngay trước mặt mà không gặp được vậy. Nếu được minh sư điểm phá, mới biết ngàn dặm núi tuyết, có hoa sen ngũ sắc nở; điện cổ buông rèm, có hương thơm phảng phất. Khi ấy thì hiểu rõ căn nguyên, liền có được ba thứ chân bảo chỗ Long Vương, rõ ràng trước mắt, thuận tay lấy được, không phải ngoan không tịch diệt có thể ngộ được.

"Như lai trở về tới chùa Lôi Âm, nói với chúng nhân:" Ta lấy tâm bát nhã thâm sâu vi diệu, quán xét khắp tam giới, căn bản tính nguyên, rốt cuộc đều là tịch diệt, đồng hư không tướng, nhất vô sở hữu. Diệt con khỉ đó, việc này khó nhận biết, gọi là khởi thủy sinh tử, pháp tướng như thế ". Bát nhã đó, là trí tuệ hoa nghiêm vậy. Nói bát nhã, nói tính nguyên, nói hư không tướng, nói pháp tướng, tức phi nhất không vậy. Nói" đều là tịch diệt ", nói" diệt con khỉ đó ", tức 'phi nhất vô sở vi' vậy. Chân không mà tàng diệu tướng, diệu tướng mà quy chân không, bởi vậy mới nói 'việc này khó nhận biết'. Chân không diệu tướng, thuận tức thức thần mượn linh mà sinh vọng, quy vào tử địa; nghịch tức nguyên thần thường minh bất muội, mà vượt qua sinh địa; 'gọi là khởi thủy sinh tử, tiêu diệt con khỉ đó', lấy định chế động, pháp tướng tương ứng vậy. Thử xem phật tổ kể ra xuất thân thạch hầu, pháp lực hàng phục, có thể thấy không phải là 'không không vô vật' có thể so sánh. Ôi! Trăm loại so sánh bỉ dụ, thuyết không đủ thức tỉnh ngu nhân thế gian; một cây gậy, không đủ đánh cho tỉnh những kẻ khờ trong thiên hạ. Bởi thế tiên ông không thể không khai mở pháp môn, xuất ra chân bảo, mượn phật tổ hiện thân thuyết pháp vậy.

" Ngày rằm trung thu, có một chiếc bảo bồn ", cái bảo bồn ấy, là tam ngũ hợp nhất, viên đà đà, quang chước chước, như trăng ngày rằm, sáng tỏ trời đất, không chỗ nào không soi chiếu, bởi thế mà bên trong có trăm loại kỳ hoa, ngàn loại dị quả vậy." Tam tạng chân kinh, một tạng "pháp", bàn về trời, một tạng "luận", bàn về đất, một tạng "kinh", để độ quỷ ", không nói thiên địa nhân, mà nói thiên địa quỷ, quỷ tức nhân vậy, khắp trên thế gian, sống như say chết như mộng, nhập vào hư giả, mê mất bản chân, tuy sống như chết, tuy nhân mà như quỷ, độ quỷ tức độ nhân vậy. Tam tạng cộng lại gồm mười năm ngàn một trăm bốn mươi bốn quyển, mỗi tạng có đủ năm ngàn không trăm bốn mươi tám quyển, năm ngàn không trăm bốn mươi tám là bạch hổ thủ kinh, là lúc thiên tâm phục hiện, tức chân kinh nhất tạng. Tam tạng ấy, tam ngũ vậy." Cộng lại gồm đủ mười năm ngàn không trăm bốn mươi bốn quyển ", tam ngũ hợp nhất vậy. Phân ra, nhất ngũ mà biến thành tam ngũ vậy; cộng vào, tam ngũ biến thành nhất ngũ vậy. Cốt yếu là, nhất ngũ mà tổng quy thập nhấp; nhất mà ngũ, ngũ mà thập, thập mà bách, bách mà thiên, thiên mà vạn, nhất phân ra thành vạn, thuận hành tạo hóa nguyên lưu; vạn mà thiên, thiên mà bách, bách mà thập, thập mà ngũ, ngũ mà nhất, đó là vạn loài quy nhất bản, nghịch vận tạo hóa nguyên lưu; nghịch vận thuận theo, phân ra hợp lại, không rời xa ngũ, không rời 'nhất' vậy. Chính là kinh tu chân, chính là thiện môn, chính là từ xưa đến nay thánh hiền khẩu khẩu tương truyền, tâm tâm tương thụ chi nguyên lưu, đều là từ bảo bồn mà xuất ra." Đại chúng xin được chỉ rõ ",

Có phải đại chúng không hiểu mà xin được chỉ rõ chăng? Đó là xin được chỉ rõ cho chúng nhân hậu thế trong thiên hạ vậy. Thế nhưng thế nhân đa phần đều coi tam tạng chân kinh đó, hoặc coi là thái chiến, hoặc hiểu là khuê đan; đó đều là những kẻ vô tri, sống thì là tội nhân giáo môn, chết đọa địa ngục, muốn chuyển sinh dương thế, liệu có được không?

Năm ngàn không trăm bốn mươi tám, là âm cực sinh dương, thiên tâm lai phục chi thì. Thiên tâm lai phục tức là thủ kinh, tức chân kinh nhất tạng, đó liệu có thể là nữ tử mười bốn tuổi mà có kinh nguyệt được sao? Tu đạo tiên phật, cơ sở là nhất điểm tiên thiên chi khí trước lúc cha mẹ sinh, vô ảnh vô tung, vô thanh vô sắc, thuần túy chí tinh chi vật. Các vật hậu thiên hữu chất đó, đều là âm trong âm, đục trong đục, đều không thể dùng. Đó gọi là thấy thì không thể dùng, dùng thì không thể thấy. Thiên hạ mê đồ, không đạt được ý đó, nghe thuyết chân không, liền cho là thiền học; nghe nói diệu hữu, cho là chấp tướng, không hiểu thế này, thì lại hiểu thế kia, đều là hủy báng chánh đạo, không hiểu ý nghĩa chân thực diệu đạo, làm sao có được một kẻ chân chính, để mà chân kinh vĩnh truyền thế gian, khuyến hóa chúng sinh đây? Bởi thế mà phật tổ không thể không cử quan âm đại sĩ hướng đông thổ tìm người thủ kinh chân chính vậy.

" Quan âm "ấy, là tĩnh quan mật sát chi thần, người tu hành cùng lý tận tính chí mệnh, từ đầu đến cuối dựa vào nó, trong một chốc lát mộc hóa thành hỏa, thẳng đến lúcđả phá hư không đại thànhmới có thể không dùng đến nữa. Kim đan đại đạo, an lô lập đỉnh, biện dược nhập dược, văn phanh vũ luyện, kết thai thoát thai, mộc dục ôn dưỡng, phòng nguy lự hiểm, dược vật già non, hỏa hậu chỉ túc, tiến thối trì hoãn, cát hung hối lận, sự hữu đa đoan, toàn bằng giác ngộ nó làm lực lượng," Tây Du "đó lấy'quan âm'là đường hướng chính yếu vậy. Phật nói: Cần phải quan âm đại sĩ thần thông quảng đại đi mới xong được.

Lại dùng năm kiện bảo bối, trong đó có một bộ cẩm lan cà sa, cửu hoàn tích trượng nhất lĩnh (một bộ). " Cà sa "ấy, là trang phục mặc vào sớm tối," cẩm lan "ấy, có năm màu sắc, mang đủ năm màu sắc kim, mộc, thủy, hỏa, thổ của ngũ hành;" nhất lĩnh "(một bộ) ấy, nhất mà thống lĩnh ngũ, gọi là ngũ hành hợp nhất, ngũ hành toàn thốc mà thành đan, người có thể mặc vào, thì trường sinh bất tử, nên nói:" Mặc áo cà sa của ta thì thoát khỏi luân hồi "." Tích trượng ", tích (thiếc) là kim loại, kim loại nhưng mềm dẻo, trượng (gậy) mà làm từ 'tích', là vật cương nhu như nhất. Trên có chín cái vòng (cửu hoàn), kim hoàn chí cửu, thuần dương vô âm, cương kiện trung chính, thủy hỏa không làm biến đổi, đao binh không làm tổn thương, nên nói:" Cầm tích trượng của ta thì không gặp tai họa ". Cà sa ấy, tức đạo thể vậy; tích trượng ấy, đạo dụng vậy. Nhất thể nhất dụng, kim đan có thể thành tựu vậy. Đó là chân chính giáo ngoại biệt truyền y bát, người theo ngoan không, liệu có thể nhìn ra bí quyết trong đó hay không?

" Lại có ba chiếc cô nhi, hình dáng như nhau, mà tác dụng bất đồng, lại có ba thiên 'kim' 'khẩn' 'cấm' chú ngũ ", kỳ diệu thay! Đó là tiên ông bảo với mọi người dụng trong dụng, quyết trong quyết vậy.'cô nhi' làthu lại mà không phóng ra, 'kim' tức vật cương cường quả quyết, tu đạo cần phải giữ lấy cương cường mà quả quyết.'khẩn' (siết chặt) ấy, nghĩa là miên miên bất tuyệt, đạo kim đan quý ở chỗ ngày càng tinh tấn, 'cấm' (nhẫn nhục) ấy, thong dong mà không nóng vội, đạo kim đan cần chuyên tâm mà phải nhu hòa. Đó đều là cái vòng (cô), mà tác dụng bất đồng vậy." dựa vào chú ngữ, niệm nhất niệm, thấy da thịt mọc rễ, khiến hắn phải chịu quản giáo môn ta ", nếu có thể y theo pháp ấy, nhất niệm hồi cơ, liền như đã có được, sát na thành phật, chẳng đợi đến kiếp sau, trước mắt liền được thần thông phật. Bởi thế mà Bồ tát đến ngay dưới linh sơn, liền có Kim Đính đại tiên ở đó chờ đón tiếp vậy. Nên nói:" Ước chừng khoảng hai ba năm, có thể tới nơi ", đó là nói chân chính trượng phu, dũng mãnh nam tử, được thầy truyền thụ, khổ công tu luyện, chừng hai ba năm, có thể hoàn thành đại đạo, tiến vào cõi cực lạc. Đó không phải lời giả dối, đều là lời lẽ chân thực, chỉ lo rằng thế gian không thực có nam tử trượng phu chân chính thôi! Ở trên từ lúc phật trở về linh sơn nói hơn trăm chữ, lời lời đều là mưu ni, chữ chữ đều là cam lộ, không có nói lời nào thừa, đều là ý nghĩa" ngã phật tạo kinh truyền cực nhạc ", không phải là không không nhất tính có thể nhìn ra được vậy!

Nói" Bồ tát nửa mây nửa gió (bán vân bán vụ) mà đi, ghi nhớ rõ lộ trình ", chỗ này trong trăm vạn người không người nào có thể nhận thức được, không biết được đạo ấy, cho rằng nó giống như nhàn nhã mà nói chơi; hoặc người có biết một chút về đạo, liền cho rằng đó là 'cược đạp thực địa'. Ôi! Nói là cước đạp thực địa, thì cũng đúng ý nghĩa, nhưng còn chưa tận hết ý nghĩa. Bởi sau này đường tăng tây thiên thủ kinh, vượt trăm ngàn dặm được, mới là cước đạp thực địa. Nay nói 'bán vân bán vụ', đâu có phải chân thực là cước đạp thực địa? Đại đạo thánh hiền, là sự học về cùng lý tận tính chí mệnh, Quan âm sang đông thổ độ tăng, là cái lý 'không' thực học, chứ không phải là cùng lý tận tính chí mệnh thực hành, bởi thế mà không đi ở trên không trung, mà cũng không đi ở dưới đất, mà 'bán vân bán vụ' mà đi vậy. Ngũ hành có tiên thiên hậu thiên chân giả, nếu có thể biện rõ chân giả thấu triệt, thì không có nhầm lẫn mà biết được chân thực. Biết được chân thực, tức hiểu được rõ ngọn nguồn, mới có thể bỏ giả theo chân, mà không gặp gian nan vậy.

" Lưu sa hà ", sa (cát) là thổ khí kết thành thạch nhưng phân tán theo dòng nước, cát mà theo dòng nước chảy, nước chảy làm sụt nở đất, bởi thế mà thổ lưu tính bất định, nên mới là ba ngàn dặm nước yếu (nhược thủy tam thiên), mà người thường khó mà vượt qua." Yêu quái ở dưới sông tay cầm một cây bảo trượng ", bảo trượng ấy tức chân thổ chi bảo trượng. Nói là chân thổ, tại sao lại làm yêu quái? Mà đặc biệt lại làm yêu quái ở Lưu Sa hà? Là yêu mà không phải vốn là yêu quái vậy." Tự xưng là quyển liêm đại tướng hạ giới ", liêm (mành), buông mành tức nội ngoại cách biệt, quyển liêm (cuốn mành) tức u- minh tương thông. Vốn là Linh Tiêu điện quyển liêm đại tướng, rõ ràng là hòa hợp tạo hóa, thông suốt âm dương chi vật." Tại hội bàn đào đánh vỡ chén pha lê mà bị đánh tám trăm gậy đầy xuống hạ giới ", dương căn sinh âm, mất đi bảo vật quang minh, tiên thiên chân thổ biến thành hậu thiên giả thổ, phân tán tám phương, thác loạn không hoàn chỉnh, thổ tùy vận chuyển, Linh Tiêu điện quyển liêm đại tướng, chẳng thành yêu ma ở Lưu Sa hà hay sao?" Bảy ngày một lần có phi kiếm đâm vào ngực ", thất nhật nhất dương lai phục, thiên tâm phát hiện, tự biết hung hiểm, khổ não như thế, tinh thần bất an vậy." Hai ba ngày nhảy ra khỏi sóng nước bắt người ăn thịt ", tam nhị tức ngũ, ý thổ vọng động vậy. Ý thổ vọng động, thương thiên hại lý, nhảy ra khỏi sóng nước, ăn thịt người là tất nhiên. Tận cùng lý về thổ, cùng đến chỗ này, hiểu biết chân thực, có thể thấy chân thổ vốn tĩnh tịnh, mà không để giả thổ làm loạn, làm sao có thể bị phi kiếm đâm vào ngực mà chịu khổ? Thứ nước ở Lưu Sa hà này ngay cả lông ngỗng cũng không thể nổi lên được, tại sao chín cái đầu lâu người lấy kinh lại không thể chìm được? Bởi Lưu Sa hà là chỗ tàng ẩn chân thổ, chân thổ có khả năng toàn thốc ngũ hành, hòa hợp tứ tượng, thống nhiếp toàn số" Hà Đồ ". Chín cái đầu lâu, là cửu cung của" Lạc Thư "." Hà Đồ "ấy, là âm dương hỗn hợp, ngũ hành tương sinh, thế nên nó là đạo thể." Lạc Thư "ấy, âm dương giao hội, ngũ hành tương khắc, là đạo dụng. Nhất sinh nhất khắc, khắc không rời sinh; thể bất ly dụng, dụng bất ly thể, chín cái đầu lâu đó liệu có thể chìm được không?" Đem chín cái đầu lâu đó xuyên lại thành vòng, đeo ở trước ngực, sau này người lấy kinh qua đây sẽ cần dùng đến ", đó là" Hà "," Lạc "kim đan đại đạo, vận dụng chân thổ, là cùng lý chân thổ vậy.

" Phúc lăng sơn ", an tĩnh mà có lợi cho người;" Vân san động ", hư huyễn mà có khả năng giam hãm người; đó là tượng trong ân tình có sát hại, trong sát hại có ân tình. Trong núi xuất hiện một con yêu quái, tay cầm 'nhất bính đinh ba', tự xưng là thiên bồng nguyên soái ở sông thiên hà, đó nghiễm nhiên là mộc hỏa vậy." Bính "(柄) hợp thành từ chữ" mộc "(木) và hỏa (火). " Đinh ba "(钉钯), đinh (丁) tức là âm hỏa, ba (巴) tức là tỵ (巳), cũng nghĩa là mộc hỏa mà 'bả bính'." Thiên hà "ấy, tức nhâm thủy vậy, nhâm thủy tại hợi, hợi tức trư vậy. Giáp mộc trường sinh tại hợi, là chỗ sinh khí xuất hiện, bởi thế là thiên bồng nguyên soái." Chỉ tại say rượu, chêu ghẹo Hằng Nga, Ngọc đế tức giận đánh hai nghìn chùy, đầy xuống trần gian, chân linh chưa mất, lạc đường mà nhập vào trư thai ", mộc tính phù mà tính linh, 'tửu' là vật âm làm loạn tính, tính loạn tâm mê, trêu ghẹo Hằng nga, bại hoại bởi tửu sắc, đó là tiên thiên chân linh chi tính biến thành hậu thiên thực sắc chi tính, làm sao không lạc mà nhập vào đường súc sinh? Nói là" đánh hai nghìn chùy ", nhị là số hỏa, mộc động sinh hỏa, hỏa sinh tại mộc, ngũ hành thuận hành, mà pháp giới biến thành hầm lửa vậy." Mão Nhị tỷ "ấy, ất mộc vậy. Giáp là dương mộc, ất là âm mộc, mão là giáp thê (vợ giáp), hợp lý vậy." Ở rể chưa được một năm nàng ấy đã chết, cả một cái động tự mình sử dụng, ngày tháng trôi qua, không có cách gì nuôi thân, bắt người qua đường ăn thịt ", đó là âm dương không gặp gỡ, mà mất đi sinh cơ vậy. Ở trong núi, không có cách gì sinh sống, thành yêu quái ăn thịt người, là lẽ tất nhiên. Tận cùng lý về mộc hỏa, tận đến chỗ này mới có thể ngộ được mộc hỏa chân tính, vốn là lương năng, mà không bị hòa lẫn cùng thực sắc giả tính, làm sao có thể thành yêu mà ăn thịt người được? Đó là cùng lý về mộc hỏa vậy.

" Giữa không trung treo ngược một con ngọc long, tự xưng là con của tây hải long vương, bởi vì phóng hỏa thiêu đốt minh châu trên cung điện. Ngọc đế đánh ba trăm cái, vài ngày nữa xử trảm ", không nói 'kim long' mà nói 'ngọc long', dương phản thành âm, chân biến thành giả, không lấy được vật cũ. Vật cũ đã mất, thông minh mà dùng sai lầm, phóng túng thoải mái, không gì không làm, hư huyễn không thực, bởi thế mà thiêu đốt điện minh châu, bị treo giữa không trung có gì khác?" Đánh ba trăm cái ", long là" kiền "dương, 'tam' đó, hàocửu tam, hào từ viết:" Quân tử trung nhật kiền kiền, tịch dịch nhược lệ, vô cữu ". Nay thiêu đốt minh châu, có phải là sớm chiều cẩn thận (trung nhật tịch dịch) không? Đã không thể sớm chiều cẩn thận, tức ngỗ nghịch mất trung chính, trái lẽ trời mất đi căn bản, tất sẽ gặp nguy, mà 'vài ngày nữa xử trảm'." Bồ tát tâu lên Ngọc Đế, nghiệt long có thể trợ sức cho người lấy kinh ", chỗ này có diệu nghĩa. Kim đan đại đạo, không có 'đại cước lực' không thể hành, sớm chiều cẩn thận mới có thể." Thả xuống khe sâu, đợi người lấy kinh đến mà trợ lực tới tây phương, tiểu long nghe lệnh ẩn thân ", tuy có nguy hiểm mà cuối cùng được vô sự vậy. Đạo lý về 'cước lực', tận cùng đến chỗ này mới có thể đắc được kim đan đại đạo, nếu không biết tiềm tu mật luyện chân chính thì không thể có 'cước lực' mà thành công. Đó là cùng lý về 'cước lực' vậy.

" Ngũ hành sơn "là chỗ tàng ẩn kim trong thủy, kim trong thủy có đủ tiên thiên chân nhất chi khí. Khí đó tại tiên thiên mà sinh ngũ hành; tại hậu thiên mà tàng trong ngũ hành, là thiên địa chi căn, sinh vật chi tổ; thành thánh thành hiền bởi nó, thành tiên thành phật bởi nó, tên gọi là chân chủng tử. Nên mới có kim quang vạn đạo, ngàn tia khí lành. Người biết mà tu có thể nhập vào địa vực thánh nhân, có thể thọ tề thiên, trường sinh bất tử. Nhưng muốn đắc khí đó, cần phải được giáo ngoại biệt truyền khẩu quyết, mới có thể thành tựu. Nếu chẳng được khẩu quyết, khí đó cuối cùng cũng ở trong ngũ hành, tuy có lúc hiển lộ, trước mặt cũng không biết, mà không thuộc về ta. Đó là chỗ" ngũ hành sơn giam hãm đại thánh "vậy. Có hai nghĩa: Một nghĩa hữu vi, một nghĩa vô vi. Bởi kim đan đại đạo, nhất định cần phải tính mệnh song tu, công phu cần có hai đoạn: Hữu vi ấy là việc tu mệnh, để mà phục hoàn kim thủy, mà quy về thuần dương, Trang Tử nói:" Nhiếp tinh thần mà trường sinh "là như vậy; vô vi ấy là việc tu tính, sở dĩ nung chảy kim thủy, đả phá hư không, như Trang tử nói:" Vong tinh thần mà vô sinh "là như vậy. Chưa tu tính, trước tiên tu mệnh, ở trong hậu thiên ngũ hành, luyện thành kim thủy đó; sau khi đã liễu mệnh, tức thì tu tính, ở chỗ ngũ hành hỗn thành, thoát khỏi kim thủy đó. Nếu biết liễu mệnh mà không biết liễu tính, thì pháp thân khó thoát hóa, như đại thánh ở trong hộp đá, miệng có thể thuận lợi nói, mà thân không thể cử động, bị ngũ hành giam hãm là như vậy. Bồ tát ngâm một bài thơ, nói tính mệnh không thể song tu, âm dương thiên lệch cô độc, tức là không thể phụng công mà hành, không thể phụng công mà hành tức là cuồng vọng. Tự cậy mình tài, không cầu chân sư khẩu quyết, nên bị Như Lai chân ngôn giam hãm, biết đến ngày nào mới có thể thoát ra đây? Đó là chưa liễu tính mà nói, cũng là chưa liễu mệnh mà nói; hoặc nói liễu tính mà chưa liễu mệnh, hoặc nói liễu mệnh mà chưa liễu tính, đều là khuyết điểm trong tu hành. Bởi thế mà đại thánh nói:" Ai là người vạch trần khuyết điểm của ta "?

Tóm lại, liễu tính liễu mệnh, đều cần phải có chân sư truyền khẩu quyết, khẩu quyết tức ngã phật giáo ngoại biệt truyền ý chỉ. Biết được khẩu quyết đó, thì có thể biết kim trong thủy đó. Nó là bất không, bất không mà không, chí vô mà hàm chí hữu, chí hư mà bao hàm chí thực, nhất đắc vĩnh đắc. Hữu vi vô vi, liễu tính liễu mệnh, 'nhất' quán thông xuyên suốt, đó là tận cùng thủy kim chi lý vậy. Kim đạn đại đạo lấy toàn thốc ngũ hành mà thành. Nếu có thể ở trong ngũ hành, biết đầu biết cuối, thấu triệt đạo lý mà minh tâm, tâm minh mà kiến tính, quy y phật, quy y pháp, quy y tăng, lại thêm 'kiền kiền bất tức chi cước lực', mà trường an đại đạo, vừa đi đã đến vậy. Đề cương nói:" Quan âm phụng chỉ thượng trường an ", chỗ 'phụng' ấy, tức ngũ hành thực lý đó, ý nghĩa là'kiền kiền cước lực'. Thế nhưng cước lực bởi ngũ hành mà thiết lập, ngũ hành bởi cước lực mà thành toàn, có cước lực mà không rõ ngũ hành," như đem thủy hỏa nấu nồi không "vậy; rõ ngũ hành mà không có cước lực," hào phát soa thù, bất kết đan", lý về ngũ hành, không thể không thấu triệt đến cùng, đạo lý về cước lực, cũng không thể không tận cùng thấu triệt. Tận cùng đến mức đó mà có thể thực lý thực hành, thông suốt đầu đuôi. Đả phá toàn bộ nghi ngờ, mà sơn hà đại địa như trong lòng bàn tay. Gặp Như Lai lấy kinh, không gặp khó khăn vậy.

Quan âm trước độ cho tam đồ cùng bạch mã, sau mới dò xét người lấy kinh. Đó là ngộ rồi mới thực hành, mà trước tiên cùng lý vậy; sau khi đường tăng thu tam đồ cùng bạch mã, rồi mới đi tới tây thiên, đó là thực hành những điều sở ngộ, cước đạp thực địa vậy. Bậc thượng đức, cần phải học theo tam đồ quy phật, mà tự quý tự trọng, chớ đánh vỡ chén pha lê, chớ say rượu trêu ghẹo Hằng nga, chớ thiêu đốt minh châu, chớ vội vàng mà để bị áp trụ dưới ngũ hành sơn; bậc hạ đức, học theo Đường Tăng dựa vào tam đồ, tự tỉnh tự ngộ, ngộ cái tĩnh, ngộ cái năng, ngộ cái không; vượt lưu sa hà, qua Lão trang, giải Sầu Giản; lật Ngũ Hành, tu kim đan, hóa quần âm; gặp Như Lai, lấy chân kinh, quy chính quả có thể được vậy.

Thơ rằng:

Kim dịch hoàn đan giáo ngoại truyện, ngũ hành tứ tượng hỏa công toàn, cầu sư quyết phá kì trung áo, liễu ngộ nguyên lưu hảo thượng thuyền.

(Kim dịch hoàn đan truyền ngoài giáo điều, ngũ hành tứ tượng hỏa công toàn vẹn, cầu thầy bí quyết khám phá sự ảo diệu trong đó, liễu ngộ nguyên lưu lên con thuyền tốt)
 
Bài viết: 0 Tìm chủ đề
HỒI THỨ CHÍN

Trần Quang Nhị phó nhâm phùng tai

Giang Lưu tăng phục thù báo bổn

(Trần Quang Nhị đi nhậm chức gặp tai vạ, sư Giang Lưu (Huyền Trang) phục thù báo bổn)

Ngộ Nhất Tử chú:

Ngộ Nhất Tử nói: Đọc sách mà không hiểu thấu đáo ý nghĩa trong sách, làm mai một đi khổ tâm của cổ nhân. Giống như món ăn quý mà không biết thưởng thức, như ngọc trong đá mà người không nhìn ra. Tuy nhiên, cũng rất khó vậy! Kinh sử thông thường, ý nghĩa không thâm sâu, để mà hiểu rõ đôi khi còn rất khó khăn. Huống chi kinh thư ẩn dụ khái quát rất nhiều, không tránh khỏi sai lầm, hoặc không biết hết được ý nghĩa. Ô hô! Đọc kinh sách thánh hiền đã khó, đọc sách thần tiên còn khó hơn. Đọc sách thần tiên mà không biết là sách của thần tiên, lại muốn biết ý nghĩa huyền diệu trong sách thần tiên, không phải là quá khó sao? Đọc sách thần tiên, muốn hiểu ý nghĩa trong đó, lại muốn người người đều biết được sự kỳ diệu trong đó, trong khi không phải là thần tiên, liệu có khó hay không?

Như ở thiên này, độc giả bất quá cho rằng là tự thuật một đoạn cuộc đời phàm tục của đường tăng, không có ý nghĩa gì thâm sâu. Vả lại câu chuyện lại có mâu thuẫn, ngay cả đối với thế pháp cũng không phù hợp, rất khó tin. Như trên lầu treo đèn, tung cầu chọn rể, hôn lễ sao không có rước dâu? Thân mẫu trạng nguyên, cớ gì lại sống một mình ở bên ngoài? Con gái tể tướng yếu đuối, sao lại hộ tống chồng đi nhậm chức? Con gái ném cầu lấy chồng, hà cớ gì mà mười mấy năm không trở lại? Tư cách làm quan, tuy rằng ít nhất mười tám năm mới điều chuyển, nhưng dù sao cũng là con gái lấy chồng, mà sao mười tám năm lại không có chút tin tức? Tìm thân nhận mẹ, làm sao có thể đến thẳng trong phòng mà không hề trở ngại? Lúc cầm quân đi diệt kẻ gian tặc, sao không bố trí người từ bên trong thăm dò trước, mà đến khi sự thể thành bại đã định, lại xuất đến sáu vạn binh lính làm chi? Rất nhiều chỗ không hợp lý, độc giả đều có thể nhận thấy. Người xưa xem thấy thì cho là sự thể trong đó, có thể là hợp lý có thể không hợp lý. Ôi! Tổ sư học thức bao quát cổ kim, thông suốt tạo hóa, am hiểu nhân tình thế thái, hiểu rõ điển chương phép tắc, làm sao lại viết văn có nhiều sơ hở như thế được? Không biết rằng tiên sư khởi ý lập ngôn đều có chỗ kỳ diệu, chính tại bởi như thế, mà chúng nhân không có nhiều người có thể hiểu hết được vậy. Tiên sư chỉ thẳng chỗ phụ mẫu sinh thân của Huyền Trang, để mà chỉ rõ căn bản của kim đan đại đạo vậy. Hậu thiên tám mươi mốt nạn có cơ sở như thế, chính quả thành chân cũng có căn bản ở chỗ đó, chung quy không ngoài cứu sống 'kim sắc lý ngư', lấy thủy sinh kim, ý nghĩa điên đảo phản phúc vậy.

Bởi kim có thể sinh thủy, mất 'thủy' tất sẽ không bảo toàn sinh mạng; thủy có thể sinh kim, đắc kim thì có thể thông thần linh mà có khả năng cứu tử; có thể bảo toàn kim 'sinh', tất tự bảo toàn 'sinh'; cứu kim thoát tử (cứu con cá vàng), tức tự cứu mình thoát tử. Ý nghĩa nhất quán, cũng là quan âm phụng chỉ đến Trường An vậy. Bởi mẫu có thể sinh tử (con), tử lại có thể sinh mẫu, tử mẫu tương hỗ sinh, mà đan pháp đầy đủ vậy. Thử xem Mãn Đường Kiều tại Châu nha hạ sinh một đứa trẻ, bên tai nghe thấy nam cực tinh quân nói: "Phụng pháp chỉ Quan Âm, ngày sau cha con vợ chồng đoàn viên, nghe kỹ lời ta, mau tỉnh! Mau tỉnh!", đó chân thực là thức tỉnh con người hãy can đảm, liệu chỉ vì Mãn Đường Kiều mà thức tỉnh thôi sao? "Mãn Đường" ấy, là Kim vậy, khai sơn sở xuất vậy. "Giang Lưu" ấy, thủy vậy, Kim kiều sở sinh vậy, kim sinh thủy vậy. "Âm thầm ra bờ sông bỏ đi", kim sinh thủy vậy. "Trôi thẳng đến Kim sơn thì dừng lại", kim sinh thủy vậy. "Tại Giang Châu nha nội tìm mẫu thân", thủy sinh kim vậy; "Tiến thẳng vào bên trong phòng đem mẫu thân giải cứu", thủy sinh kim vậy. "Huyền Trang hốt hoảng liều mình kéo xuống", thủy sinh kim vậy. Thế gian không ai có thể thấy được một vị chân chính kim trong thủy, duy chỉ có Đại sĩ thần quan, mới có thể phụng chỉ mà thực hành.

Quan âm phụng chỉ tới Trường An, muốn Trường An quan kiến đại đạo vậy. Tiếc rằng Trường An có "cải nguyên Trinh Quan", chỉ có thể phỏng theo Phật pháp, giống như sự chung trinh của nữ tử mà thôi. Trên có Trinh Quan làm chủ, tất sẽ không thể thấy được đại đạo; mà dưới lại có Ngụy Chinh (Ngụy Trưng) tương trợ, tự nhiên sẽ không mở được con đường lớn. "Ngụy" (巍) ấy, âm 'ngụy' (伪) vậy, giả tạo vậy. "Chinh" đó, là tra xét bên ngoài vậy. Xem thấy "trinh' đó bất đại vậy, tất" chinh "sẽ giả rối mà không chân thật. Ý nghĩa đó không phải ta xuyên tạc, mời xem tiên sư đề bốn chữ" Trinh Quan Ngụy Chinh ", thì hiểu rõ ràng.

Xem lại chuyện của cha mẹ Huyền Trang để thấy sự giả ngụy: Khởi đầu là tuyển chọn trạng nguyên, trao cho tước quan đi mà nhậm chức, là Quang Nhị vậy, đi nhậm chức bị Lưu Hồng ám hại cướp mất chức quan, cầu hiền dùng người tài, có sự giả ngụy vậy; để nhi nữ ném cầu tự mối mai, mất đạo lý vợ chồng chính thống, hôn lễ có giả ngụy vậy. Mệnh quan chết vào tay đạo tặc, tặc đảng hoành hành trước cửa quan, quân tướng không hề hay biết, đạo quân thần có giả ngụy vậy; một vị quan mười tám năm không điều chuyển, để giặc cướp hoành hành mà không biết, tuyển chọn sử dụng người có sự giả ngụy; bắt một kẻ tặc đảng ở một châu huyện, thống binh sáu vạn, sử dụng quân đội không hợp lý, đó cũng là sự giả ngụy; văn chương đều dùng để tiến thân quyền lực, không biết rằng đều là cái họa sát thân, văn chương có giả ngụy; đường quan lại là chỗ vinh hiển thành đạt, không biết rằng mưu đồ thân vinh, bổng lộc, là công danh giả ngụy; xa lìa mẫu thân không biết đến sống chết, muốn vinh hiển mà để mẫu thân phải đi ăn xin, vinh nhục đó giả ngụy vậy; mang theo vợ đi nhậm chức, phân ly trong khoảnh khắc, ân ái đó giả ngụy vậy; nhiều năm trôi qua mà cha mẹ- con gái không hề biết tin tức của nhau, sống chết không hay, quyến chúc thân tình giả ngụy vậy; Quang Nhị được chức quan được vợ, là giả ngụy vậy; Lưu Hồng được quan được vợ, giả ngụy trong giả ngụy vậy; Quang Nhị được lòng vua, được lòng dân, giả ngụy vậy; Lưu Hồng được lòng vua được lòng dân, ngụy trong ngụy vậy; Quang Nhị chết rồi lại sống, giả ngụy vậy; Lưu Hồng sống rồi lại chết, ngụy trong ngụy vậy; Trương phu nhân có con mà như không có, mẫu- tử giả ngụy vậy; Ân tiểu thư có chồng mà như không có, vợ- chồng giả ngụy vậy; Khai Sơn phu phụ có con gái mà như không có, hiếu từ giả ngụy vậy.

Nhất thiết đều là giả ngụy hết, nhất thiết đều là Trinh Quan vậy. Đều không được như 'kim sắc lý ngư' (cá chép vàng), từ đầu đến cuối đều như vậy, có thể quán triệt từ đầu đến cuối, khiến cho cốt nhục đoàn viên, được lợi chân thực vậy. Giúp cho đạo lý thành toàn, 'thủy' sinh 'tử' (con) báo ân mẫu thân vậy." Ân tiểu thư cuối cùng muốn tự vẫn vì trinh tiết ", để cho thấy 'trinh' tiết, cùng với ý nghĩa của thiên này là 'trinh quan' có sự tương chiếu, tạo ra kết cục của câu chuyện;" Giang Lưu muốn được an tĩnh cửa thiện", đó là 'quan' chi đại vậy, tương xứng với Quan Âm phụng chỉ tới Trường An, tương phản với 'Trinh Quan' giả ngụy vậy. Duy chỉ có người Thần Quan mới nhận thức được chân thực, mà có thể cầu được bản lai diện mục phụ mẫu sinh tiền vậy.
 

Những người đang xem chủ đề này

Back