[Dịch] Tây Du Tinh Nghĩa - Ngộ Nhất Tử Ft. Ngộ Nguyên Tử

Thảo luận trong 'Truyện Drop' bắt đầu bởi Nguyễn Anh Tú, 8 Tháng mười hai 2020.

  1. Nguyễn Anh Tú Nguyen Anh

    Bài viết:
    0
    Tên tác phẩm: Tây Du Tinh Nghĩa

    [​IMG]

    Tác giả: Ngộ Nhất Tử - Trần Sỹ Bân; Ngộ Nguyên Tử - Lưu Nhất Minh

    Dịch: Nguyen Anh- Nguyễn Anh Tú

    Thể loại: Cổ đại, huyền học, tiên hiệp,

    Giới thiệu truyện: Tây Du Tinh Nghĩa là sách truyện khám phá, giải nghĩa các bí mật đằng sau bộ truyện nổi tiếng Tây Du ký.

    Sách khá kén người đọc, để hiểu được nghĩa của tác phẩm, bạn cần phải có kiến thức cơ bản về huyền học, khí công cổ đại (đan kinh, tiên kinh), nho học (Kinh Dịch) và đặc biệt phải đọc truyện Tây Du Ký.

    Link góp ý: [Thảo luận - Góp ý] - Các bài viết của Nguyễn Anh Tú - Nguyen Anh
     
    Phan Kim Tiên thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 10 Tháng mười hai 2020
  2. Nguyễn Anh Tú Nguyen Anh

    Bài viết:
    0
    LỜI GIỚI THIỆU

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tôi là người đam mê huyền học, tu tập một số phương pháp dưỡng sinh cổ đại. Phương pháp mà tôi theo học là phương pháp tu luyện của đạo gia và mật tông. Quá trình tu học, ngoài sự hướng dẫn thực hành từ một người thầy thì người tu học cần phải đọc, tìm hiểu lý luận của môn mà mình theo học, với tôi đó là con đường huyền môn- đạo gia tu tiên. Đó cũng chính là cơ duyên mà tôi tìm đọc bộ sách với tên tiếng Trung là "Tây Du Ký toàn thư khí công phá dịch". Bộ sách nói về những bí mật tu luyện kim đan đại đạo, nội dung của sách giải nghĩa bộ truyện nổi tiếng trung quốc Tây Du ký. Chúng ta hầu hết đều đã từng đọc qua hoặc xem bộ phim Tây Du Ký rồi, nhưng không nhiều người được tiếp cận những tầng ý nghĩa bí mật ẩn sau tác phẩm. Tôi nhiều lần muốn phổ biến tác phẩm để nhiều người được biết đến bộ sách này hơn, nhưng đều chưa có đủ cơ duyên, hi vọng lần này, ở nơi đây, tác phẩm này sẽ được nhiều người đón đọc, nhất là các bạn trẻ. Biết đâu, đó lại là cơ duyên cho các bạn bước vào con đường tu tập, chứ không phải chỉ là người yêu thích đọc các tác phẩm tiên hiệp.

    Nói một chút về việc tu tập, các môn phái tu tập của phương đông cổ đại, thì có tam giáo Phật- Đạo- Nho, là ba môn phái lớn nổi tiếng nhất. Các vị giáo chủ lập giáo đều là các vị tu hành đắc đạo, với phật gia là phật tổ Thích ca, với Nho là các vị Tam Hoàng Ngũ Đế, với Đạo gia giáo chủ là Lão tử. Lời dạy của các vị giáo chủ được xưng là "kinh", với đạo phật thì tam tạng kinh điển ai cũng nghe tới, các bộ kinh đại thừa, kim cương thừa vẫn còn được lưu truyền; với nho là Hà Đồ, Lạc Thư, Kinh dịch; với Đạo Gia thì là các bộ đan kinh do các tổ đắc đạo để lại.

    Đạo gia nguyên gốc từ trung quốc cổ đại qua nhiều thời có rất nhiều vị đắc đạo để lại kinh sách cho đời sau. Ở Việt Nam, người tu tiên thường ẩn trong các môn phái bí truyền, hoặc được biết đến qua các truyền thuyết, điểm lại các vị thời xưa tu hành đắc đạo qua các truyền thuyết như tổ phụ người việt Lạc Long Quân- Âu Cơ, đạo tổ Chử Đồng Tử- Tiên Dung, Tản viên sơn thánh- Sơn Tinh, Phù Đông Tiên Vương- thánh Gióng.. vv

    Đạo gia việt nam trong khoảng mười năm trở lại đây từng bước được phổ biến hiển lộ với các phương pháp tu tập, cũng như dịch lại các tác phẩm kinh điển của gia như Đạo Đức Kinh, Ngộ Chân Thiên, Kim đan tứ bách tự..

    Tây Du ký cũng được coi là một bộ đan kinh tiểu thuyết của đạo gia, do một vị tu hành đắc đạo viết ra. Người đời lưu truyền tác giả bộ truyện là Ngô Thừa Ân, nhưng theo hai ngài chú giải Tây Du, thì sách do tổ Khưu Xử Cơ- một trong bảy vị đệ tử của bắc phái (Bắc phái do tổ sư Vương Trùng Dương sáng lập).

    Về nội dung chính trong tác phẩm, cũng như giới thiệu về hai vị tác giả chú giải sách, xin được trích dẫn lời giới thiệu của một vị tên Ngộ Chân Tử -Tôn Trung Quốc, sẽ trình bày ở bài viết tiếp theo.

    Người dịch: Nguyen Anh- Nguyễn Anh Tú
     
    Chỉnh sửa cuối: 15 Tháng mười hai 2020
  3. Nguyễn Anh Tú Nguyen Anh

    Bài viết:
    0
    Gửi tới độc giả!

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Chúng ta không phải đều muốn phát triển khoa học về nhân thể hay sao? Chúng ta không phải muốn biết được bí mật ảo diệu trong khí công hay sao? "Tây Du Ký toàn thư khí công phá dịch" chính là sách nói về bí mật ảo diệu của tu luyện đại pháp. Chắc mỗi người trong chúng ta đều không khỏi tự hỏi "Tây Du Ký" với khí công có quan hệ gì? Không phải là cố làm ra vẻ huyền bí mà bày đặt ra đấy chứ? Tác giả sách này thông qua câu truyện thần thoại để diễn ta đạo lý tu luyện chân thực. Chúng ta nghiêm túc nghiên cứu có thể minh chứng: Sách này dựa trên lý luậnđạo gia khí công, mượn câu truyện thần thoại, mượn dùng ngôn ngữ thần thoại để thuật lại toàn bộ quá trình tu luyện. Rõ ràng tả câu chuyện Tây Thiên thủ kinh, bạt sơn khai thủy, hàng trừ yêu quái; ngầm tả quá trình tu luyện, khai phát nhân thể, đắcđạo thành tiên. Sách này cho rằng: Đường Tăng là Thái Cực, Ngộ Không là Kim Thủy, Bát Giới là Mộc Hỏa, dọc đường là Đường Tăng thu tam đồ, thái cực sinh ngũ hành, tiên thiên sinh hậu thiên, sinh nhân sinh vạn vật. Tam đồ bảo hộ Đường Tăng, ngũ hành quy thái cực, hậu thiên phản tiên thiên, đắcđạo mà có được thần thông. Vừa nghe nói, thấy có vẻ khiên cưỡng, nói chuyện không đâu, nghiên cứu cho kỹ mới thấy vô trung sinh hữu, đều là diệu lý. Toàn thư xuyên sơn thảo mộc, yêu ma quỷ quái, binh khíđao thương, đều cóý nghĩa riêng, rất là kỳ diệu, thâm ảo tinh túy, ngôn ngữ cẩn mật, lý lẽ chặt chẽ, nói ra đều có căn cứ. Độc giả hãy gấp mà nghiên cứu để thấy đượcđây là bộ sách tu luyện khí công rất khoa học, có thể coi như dẫnđạo chỉ đường, chỉ mê phá nghi. Chính là: Nhất bộ Tây Du vạn cổ truyền, tự tự cú cú thị Huyền Quan. Độc giả muốn hiểuý nghĩa trong đó, hãy cẩn thận mà nghiên cứu.

    Độc giả tôn kính, nếu như lần đầu đọc sách này, chắc không khỏi kinh ngạc với phát hiện mới mẻ như thế. Đúng vậy, bao nhiêu năm rồi, "Tây Du ký" đều được coi là một tác phẩm văn học, được coi là một bộ tiểu thuyết thần thoại. Nay nói nó là một bộ sách tu luyện khí công, không giật mình sao được? Thế nhưng, nếu như tâm bình khí hòa, cẩn thận xem qua một lượt, chúng ta có thể dần dần hiểu rõ mà các loại nghi ngờ đều tiêu thất. Đến lúc đó, chúng ta như làđang khai mở một kho tàng rất nhiều chân bảo cùng rất nhiều vui sướng vậy.

    Kỳ thực, bộ sách "Tây Du Ký' là một bộ sách chuyên nói về khí công, không phải chúng ta lần đầu phát hiện, sớm tại thời nhà Minh, phía trên mục lục tác giả đã đề một bài thơ đề tỉnh độc giả, đọc" Tây Du' cần phải khứ giả tồn chân, từ bên ngoài mà thâm nhập vào trong, thông qua hiện tượng bên ngoài mà phát hiện bản nghĩa bên trong. Thơ viết rằng: "Nguyệt đáo thiên tâm xử, phong lai thủy diện thì. Nhất bàn thanh ý vị, liêu đắc thiểu nhân tri". Cũng là dùng hai mươi chữđó, đem một trăm hồi Tây Du phân thành hai mươi quyển, mỗi chữứng với một quyển, để mà đề tỉnh độc giả. Cũng như "Hồng Lâu Mộng", bên trong có thơ "Mãn chỉ hoang đường ngôn, nhất bả tâm toan lệ. Đô vân tác khán si, thùy giải kỳ trung vị'. Mãi tới cuối thời Minh, Uông Tượng Húc, Hoàng Thái Hồng mới công khai bình giảng xưng là" Tây Du chứng đạo thư ". Kế tiếp, mãi cho đến đầu thời nhà Thanh, khoảng những năm Khang Hi, Trần Sĩ Bân Ngộ Nhất Tử Trần tiên sinh, mới chú giải toàn bộ ý nghĩa tu luyện khí công, cũng xưng là" Tây Du chân thuyên "(诠, thuyên, thuyết minh, giải thích). Kế đến, những năm cuối Càn Long, học giả Lưu Nhất Minh Ngộ Nguyên Tử tiên sinh, dựa trên cơ sở chú giải của Ngộ Nhất Tử tiên sinh, tiến hành liễu giải toàn bộ ý nghĩa chân thực, xưng là" Tây Du nguyên chỉ ". Đạo Quang năm thứ mười chín, Trường Hàm Chương tiên sinh đã đề xuất" Tây Du ký "là" Dịch "đạo xiển phát khí công ý nghĩa thâm ảo, cũng viết thành sách gọi là" Thông dịch Tây Du chính chỉ ". Trong những năm Hàm Phong, học giả Hoài Minh tiên sinh cho rằng" Tây Du ký' xiển phát chính là phương pháp tu luyện khí công, cũng làm sách gọi là "Tây Du ký ký". Những năm Quang Tự, học giả Hàm Tinh Tử có tác phẩm "Tây Du ký bình chú", cũng xiển phát ẩn nghĩa tu luyện; cũng trong nhưng năm Quang Tự một vị khác là Khê Kiều đạo nhân, cũng làm thành "Tây Du xiển chân", khai phát đạo lý tu chân trong Tây Du ký. Cho đến nhưng năm Dân Quốc thì có rất nhiều học giả nghiên cứu Tây Du, phát triển ý nghĩa tư tưởng về khoa học nhân thể.

    Như trên đã nói, chúng ta không khó để nhận thấy, Tây Du Ký là một bộ sách mang ý nghĩa tu luyện khí công, không phải là người đời nay mới đề xuất, mà từ xưa rất nhiều học giả đã nhận thức. Như nay, chúng ta trọn ra hai tác giả Ngộ Nhất Tử Trần Sĩ Bân và Ngộ Nguyên Tử Lưu Nhất Minh, để giới thiệu cùng độc giả chú giải của hai vị này trong cùng một bộ sách.

    Ngộ Nhất Tử tiên sinh họ Trần, tên Sĩ Bân, người Thiệu Hưng, Triết Giang, sống vào khoảng những năm cuối nhà Minh, qua đời những năm Khang Hi nhà Thanh. Về thân thế hiện còn rất ít tư liệu ghi chép lại. Thế nhưng, chỉ với bộ "Tây Du chân thuyên", giới học giả nghiên cứu đều tôn sùng như một vị đắcđạo chân truyền.

    Ngộ Nguyên Tử tiên sinh họ Lưu, tên Nhất Minh. Quê gốc ở Khúc Ốc, Sơn Tây, nổi tiếng là người Đạo cao những năm Càn Long và Gia Khánh. Ngài khoảng năm hai mươi tuổi, mắc bệnh nặng, được cao nhân chữa trị, diệu thủ hồi xuân, từ đó tâm hướngđạo, từ bỏ gia tài vạn đại mà xuất gia, ngài cầu tìm chân quyết, bôn ba Đại Giang nam bắc, sau được chân truyền của Kham Cốc lão nhân và một vị tiên nhân, cần tu khổ luyện, ngộ đắc tinh diệu, tính mệnh chi công đạt đến thượng thừa, trở thành đạo gia nhất đại tông sư. Ngài sinh thời viết rất nhiều sách, có đến hơn ba mươi chủng loại, nay truyền thế rất nhiều. Trong đó, "Tây Du nguyên chỉ" được viết rất sớm, thế nhưng bản khắc gỗ được làm rất muộn, có thể thấy tiên sinh tâm huyết cả đời ở chỗ này. Bởi vì, muốn đem bí quyết tu luyện gửi trong câu chữ, đường lối đắc đạo để ở trong văn chương, truyền đạo độ thế, tiên sinh có thể coi là thiên hạ đệ nhất. Hết lời tâm huyết, thực là cổ kim hiếm thấy. Cẩn thận đọc "Nguyên Chỉ", kim đan tâm pháp rõ ràng nói ra. Lại xem "Tây Du", trăm hồi tiểu thuyết rõ ràng trình tự tu luyện. Chữ không viết chơi, lời văn không khinh xuất, quái thư kỳ thư có thể coi là thiên hạ đệ nhất vậy! Kế tuyệt học, khai hậu thế, truyện tâm pháp, bố đạo chủng, thành thiên cổ nhất mạch chân truyện, vạn thế hoằng đạo pháp điển, có thể không bảo giữ không lưu truyền, không nghiên cứu học luyện hay sao?

    Chúng ta nói "Tây Du Ký" cùng với "Vạn cổ đan kinh chi vương" "Tham Đồng Khế", và "Ngộ Chân Thiên", đều là kinh điển khí công lý luận, mượn câu truyện thần thoại, vứt bỏ đi cái hình thức bên ngoài, thì có thể cầu được kim đan đại đạo. Rõ ràng tả Tây Thiên thủ kinh, bạt sơn thiệp thủy, hàng yêu trừ quái, nhưng ngầm tả khí công tu luyện, khai phát nhân thể, đắc đạo thành chân. Sách này mô tả núi rừng thảo mộc, yêu ma quỷ quái, đao thương khí giới, nhân vật hành trình, đều có ý nghĩa riêng. Trong đó Đường Tam Tạng, Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Hòa Thượng, đều là các yếu tố trong tu luyện của hành giả. Chúng ta thử cùng đề cập khái lược một chút.

    Tôn Ngộ Không xuất sinh tại "Đông Thắng thần châu Ngạo Lai quốc Hoa Quả sơn, thử sơn tại đại hải chi trung, sơn đính hữu nhất khối tiên thạch, nhất nhật đạo liệt, nhân lý phong, hóa tác nhất cá thạch hầu". Tôn Ngộ Không trong tu luyện khí công, dụ cho Kim trong Thủy, tiên thiên chân ất chi khí, đó là tu đạo chi căn. Thiên nhất sinh Thủy, Thủy là Nhâm Thủy, Nhâm Thủy trường sinh tại Thân. Thân ấy, Hầu vậy. Kim sinh tại Thổ, thạch là Thổ tinh, cho nên gọi là Thạch Hầu. Tôn Ngộ Không là tiên thiên chân ất chi khí, ất là mộc, hoa quả chi mộc, sinh vào mùa xuân, mùa xuân theo bát quái thuộc "Chấn", "Tốn".

    Phương đông, tượng nhất dương mới sinh, cho nên Tôn Ngộ Không xuất sinh tại Đông Thắng thần châu Ngạo Lai quốc đại hải trung chi Hoa Quả sơn. Tây Du ký hồi đầu, có thơ rằng: "Tam dương giao thái sản quần sinh, tiên thạch bào hàm viết nguyệt tinh', tức mượn đó để đặt danh tính thạch hầu.

    Trước nói Trư Bát Giới thuộc Hợi, trong Hợi có giáp Mộc, Mộc trường sinh tại Hợi, Mộc lại có thể sinh Hỏa, cho nên Bát Giới ẩn dụ Mộc Hỏa nhất phương. Có người hỏi Tôn Ngộ Không ẩn dụ thuộc Kim, Trư Bát Giớiẩn dụ thuộc Mộc, trong" Tây Du Ký "có nói rõ ra như vậy không? Nói: Chẳng những có, mà còn rất dễ thấy. Mời xem Tây Du ký hồi thứ mười chín, Ngộ Không thu Bát Giới, có thơ làm chứng rằng:

    " Kim tính cương cường năng khắc Mộc, tâm viên hàng đắc mộc long quy. ", Kim có thể khắc Mộc, Mộc không thể khắc Kim. Kim là Ngộ Không, Mộc là Bát Giới, cho nên Trư Bát Giới:" "Đinh ba bất tằng trúc động hành giả nhất ta đầu bì" (Đinh Ba không thể đụng đến một chút da đầu của Hành Giả). Tâm viên chỉ Ngộ Không, Mộc Long ấy chỉ Bát Giới (Thanh Long thuộc phương đông, cùng Mộc đồng vị, cho nên Mộc Long tức là Bát Giới). Thơ cuối chương cũng nói: "Kim tòng mộc thuận giai vi nhất, mộc luyến kim nhân tổng phát huy." Nói Kim Mộc tương tịnh, tương tác hỗ dụng, tinh diệu trong đó có thể thấy, kim đan hữu tượng. Thơ trong đó cũng nói: "Nhất chủ nhất tân vô gian cách, tam giao tam hợp hữu huyền vi." Mộc tại đông làm chủ, Kim tại tây làm tân, chủ tân diệu hợp vô gian. "Tam giao tam hợp", tức Mộc Hỏa, Kim Thủy, giao tại Thổ. "Hữu huyền vi", đạo kỳ diệu ở chỗ này. Trong thơ cũng nói: "Tính tình tỉnh hỉ trinh nguyên tụ, đồng chứng tây phương thoại bất vi." Chân âm ấy, tính vậy, chân dương ấy, tình vậy, tức mộc tính kim tình, tính tình tương hợp tức thị âm dương tương giao, "Trinh nguyên tụ", tức đầu đuôi tương tiếp, tuần hoàn bất tức, miên miên bất đoạn, như thế trinh hạ khởi nguyên, tu luyện hữu đạo. Có thể thấy rõ tả Ngộ không thu phục Bát giới, chí đồng đạo hợp, tề tâm hiệp lực, có thể bảo hộ Đường Tăng tây thiên thủ kinh; ngầm tả kim công mộc mẫu tương tịnh, âm dương hợp nhất, mượn chân thổ điều hòa, mới là con đường tu luyện khí công.

    Trong《 Tây du ký 》 hàng yêu trừ quái, đa phần tả Tôn Ngộ Không cùngTrư Bát Giới hợp tác, liên thủ phá địch. Tôn Ngộ Không là chân dương, Trư Bát Giới là chân âm, nhất âm nhất dương vị chi đạo, cho nên có kim công, mộc mẫu xưng danh. Có người hỏi Trư Bát Giới là Mộc Hỏa, lý ứng với dương, sao lại là âm? Tôn Ngộ Không là Kim Thủy, lý ứng với âm, sao lại là dương? Ngũ hành thuận hành mà nói, mộc hỏa tại đông nam, thời là xuân hạ, lý là dương; kim thủy tại tây bắc, thời là thu đông, lý là âm, đó là lý thường. Lấy ngũ hành nghịch hành mà nói, trong dương có chân âm, 《 ly 》 quái thuộc hỏa, hỏa là dương, tây 《 ly 》 quái trung hư, nội trung hào nhất âm, thượng hạ nhị hào là dương, là chân âm tàng trong chúng dương, cho nên nói Bát Giới là chân âm, là Mộc trong Hỏa; trong âm có dương; 《 khảm 》 quái là Thủy, thủy thuộc âm, mà《 khảm 》 quái trung thực, hòa bên trong là nhất dương, thượng hạ nhị hào là âm, là chân dương tàng trong chúng âm, cho nên nói Ngộ Không là chân dương, là Kim trong Thủy. Khí công kim đan chi đạo tu luyện chính là ngũ hành nghịch đảo chi công; cho nên Trương Tam Phong nói: "Thuận vi phàm, nghịch vi tiên, chích tại trung gian thuận đảo thuận", chân âm chân dương tương hợp mới thành đan. Đó chính là một bức《 thái cực đồ 》, mộc hỏa là nghi dương, kim thủy là nghi âm ; trong nghi dương có một điểmđen là âm; trong nghi âm có một điểm trắng là dương. Đồng dạng cũng là một bức《 hà đồ 》, Mộc Hỏa tại đồ là phương đông, số Mộc là 3, 8. Số của Hỏa là 2, 7. Số 2 thêm 8, số 3 thêm 7 đều là 10. Có thủy có chung, đều là nghi dương. Kim Thủy tại đồ, thuộc hướng tây bắc, số Kim là 4, 9, số thủy 1, 6. Số 4 thêm 6, số 1 thêm 9, đều là 10, có thủy có chung, thuộc nghi âm. Thân đồ hình là số 5, 10, thuộc Thổ, Thổ khởi lên tác dụng, là chân ý, có chân ý điều hòa thì âm dương nghịch hành, có thể phản tiên thiên. Kim Thủy đắc Thổ thì hội tụ, Mộc Hỏa đắc Thổ thì điều hòa. Đã có Kim Thủy, Mộc Hỏa, không thể không có chân Thổ. Cho nên Sa Tăng ẩn dụ cho Thổ. Thổ trong đồ hình là trung cung. Chân Thổ vô hình, biến dịch cửu cung, Kim Thủy Mộc Hỏa không gì là bất hợp, kỳ công chân thực hài hòa, cho nên gọi là Sa Hòa Thượng. Lại xưng là Quyển Liêm đại tướng, Quyển Liêm ấy là hình tượng trong ngoài cách biệt, quyển liêm tức minh tương thông, tức lấy ý câu nghịch chi ý (nhân chi ngũ tàng, thận tàng tinh là thủy, tâm hỏa là hỏa, Can tàng hồn là mộc, phế tàng phách là kim, tỳ tàng ý là thổ) chân thổ sắc hoàng, đối âm dương hữu môi hợp, cho nên xưng là Hoàng Bà. Cũng gọi là Sa Tăng Ngộ Tịnh, số quy y tịnh thổ, tu chân chi đạo, tổng quy chân thổ chi tác dụng. Cho nên cần phải biết chân Thổ, muốn đắc kim đan, toàn do Thổ này điều hòa công phu.

    Có người lại hỏi, Sa Tăng là Hoàng Bà, trong Tây Du có chỗ nào nói tới không? Lại mời xem hồi thứ hai mươi ba, Đường Tăng sau khi thu phục Sa Tăng làm đồ đệ, thầy trò đồng tâm hợp lực tây hành. Lại có thơ rằng: "Khỉ kia trói buộc cần chi chão, Ngựa nọ ruổi rong há giật cương, Mộc mẫu, Kim công lòng vẫn hợp, Hoàng bà, Xích tử gốc thân thương, Cắn đôi đạn sắt ngời tin tức, Bát nhã ba la đến niết bàn", đều là tả Mộc Mẫu (Bát Giới), Kim Công (Ngộ Không), Hoàng Bà (Sa hòa thượng), xích tử (Đường Tăng), bốn người, ẩn dụ Kim Mộc Thổ, tam gia tương hợp, bảo hộ Xích Tử quy thái cực.

    Nhị thập nhị hồi, Bát giới đại chiến lưu sa hà, có thơ làm chứng: "Bảo trượng luân, đinh ba trúc, ngôn ngữ bất thông phi quyến lệ. Chích nhân Mộc Mẫu khắc Đao Khuê, trí lệnh lưỡng hạ tương chiến mẫn." Mộc Mẫu là Bát Giới, Đao Khuê tức Sa Tăng. Chữ "Khuê" (圭) tạo bởi hai chữ Thổ (土), tức mậu kỷ nhị Thổ hợp thành, là chân Thổ. Ngôn ngữ thông tức bỉ thử đồng tâm, thổ năng điều hòa; ngôn ngữ bất thông, tức bỉ thử tranh trì, Mộc khắc Thổ. Kim Mộc tương tịnh, tu luyện hữu cơ, nhưng hoàng trung bất năng sính lý, như cũ đại đạo khó thành. 《Ngộ chân thiên 》nói: "Ly khảm nhược hoàn vô mậu kỷ, tuy hàm khốn tượng bất thành đan. Chích duyến bỉ thử hoài chân thổ, toại sử kim đan hữu sính hoàn". 《 ly》là mộc hỏa, là chân âm; 《 khảm 》là kim thủy, vi chân dương, mậu kỷ là Thổ. Có thể thấy hữu chân thổ kim đan dễ thành, vô chân thổ kim đan nan tựu. Cho nên 《 tham đồng khế 》nói: "Thanh xích bạch hắc, các cư nhất phương, giai bẩm trung cung, mậu kỷ chi công." (thanh giả mộc cư đông, xích giả hỏa cư nam, bạch giả kim cư tây, hắc giả thủy cư bắc, mậu kỷ thổ cư trung). Tiếp 《 Tây Du ký 》 nhị thập nhị hồi lại có thơ rằng: "Ngũ hành thất phối hợp thiên chân, nhận đắc tòng tiền cựu chủ nhân. Luyện kỷ lập cơ vi diệu dụng, biện minh tà chính kiến nguyên nhân. Kim lai quy tính hoàn đồng loại, mộc khứ cầu tình diệc đẳng luân. Nhị thổ toàn công thành tịch mịch, điều hòa thủy hỏa một tiêm trần.". Đến đây tam gia tương kiến, có thể tu, có thể luyện, thành đạo có hi vọng. Ngộ Không thân hầu thuộc kim, kim sinh thủy, 《 hà đồ 》 tây tứ bắc nhất, nhất ngũ vậy, nhất gia; Bát Giới hợi trư thuộc mộc, mộc sinh hỏa, 《 hà đồ 》 đông tam nam nhị, nhất ngũ dã, nhất gia; Sa tăng là thổ, 《 hà đồ 》 trung cung sinh sổ ngũ là thổ, nhất ngũ dã, nhất gia. 《 ngộ chân thiên 》nói: "Tam ngũ nhất đô tam cá tự, cổ kim minh giả thực nhiên hi, đông tam nam nhị đồng thành ngũ, bắc nhất tây phương tứ cộng chi. Mậu kỷ tự cư sinh sổ ngũ, tam gia tương kiến kết anh nhi. Anh nhi thị nhất hàm chân khí, thập nguyệt thai viên nhập thánh cơ".

    Độc giả nên biết: Cái gọi là tam ngũ, Mộc Hỏa nhất ngũ, Kim Thủy nhất ngũ, Thổ nhất ngũ, đều là nhất khí phân ra vận dụng, đều là nhất khí lưu hành, không phải là chỉ vật có thực, cũng là âm dương nhị khí vận hành. Thổ là ý, chỉ nhị khí chi vận tác, dựa vào chân ý điều hòa cho nên tam gia tương hợp, mới có thể đắc đạo thành chân.

    Tôn Ngộ Không là Kim, lại xưng Kim Công; Trư Bát Giới là Mộc, lại xưng Mộc Mẫu; Sa Hòa Thượng là Thổ, lại xưng Hoàng Bà. Chẳng những thơ ca trong truyện nói rõ, mà bách hồi tiêu đề, cũng sớm chỉ rõ rồi. Như tam thập nhị hồi: Tôn Ngộ Không kêu Bát Giới đi tuần sơn, Bát Giới tham ngủ, trở về nói láo với sư phụ, kết quả bị Ngộ Không nói ra, lại bị bắt đi tuần sơn lần nữa, tại Bình Đính sơn bị Kim Giác đại vương, Ngân Giác đại vương bộ hạ bắt giữ, bắt về Liên Hoa động. Tiêu đề nói: "Bình Đính sơn công tào truyện tín, Liên Hoa động Mộc Mẫu phùng tai." Trư bát giới không phải Mộc Mẫu sao? Tứ thập nhất hồi: Tôn Ngộ Không bị Hồng Hài Nhi dụng tam muội chân hỏa đả bại, Trư Bát Giới cưỡi đi mời Quan Âm hàng yêu, kết quả bị Hồng Hài Nhi biến Quan Âm bắt về Hỏa Vân động. Tiêu đề nói: "Tâm viên tao hỏa bại, Mộc Mẫu bị ma cầm." Mộc Mẫu chẳng phải Bát Giới hay sao? Tứ thập thất hồi: Thông Thiên hà gặp trở ngại, Tôn Ngộ Không Trư Bát Giới để hàng yêu, biến thành đồng nam đồng nữ tế tái hà quái. Tiêu đề nói: "Thánh Tăng dạ trở Thông Thiên hà, Kim Mộc thùy từ cứu tiểu đồng." Kim không phải Ngộ Không, Mộc không phải Bát Giới sao? Bát thập lục hồi: Đường Tăng bị Ân Vụ sơn Chiết Nhạc liên hoàn động yêu quái bắt đi, Bát Giới ra sức trước tiên, cùng Ngộ Không cộng đồng hàng quái. Cuối cùng Tôn Ngộ Không thi pháp, khiến chúng yêu ngã lăn ra, mới cứu được sư phụ. Tiêu đề nói: "Mộc Mẫu trợ uy chinh quái vật, Kim Công thi pháp diệt yêu tà." Có thể thấy Bát Giới tức Mộc Mẫu, Kim Công là Ngộ Không.

    Ngũ thập tam hồi: Đường Tăng Bát Giới uống nước sông Tử Mẫu, hình thành thai khí, Tôn Ngộ Không đi Giải Dương sơn Phá Nhi động Lạc Dị tuyền lấy nước, lại bị Như Ý chân tiên ngăn cản, lấy nước không được. Sau Sa Tăng xuất mã, mới đem được tuyền thủy trở về, giải được Đường Tăng Bát Giới chi nguy. Tiêu đề viết: "Thiện chủ thôn xan hoài quỷ dựng, Hoàng Bà vận thủy giải tà thai". Hoàng Bà là chân thổ, không phải Sa Hòa Thượng sao?

    Bát thập cửu hồi: Báo Đầu sơn Hổ Khẩu động yêu quái, thu mất binh khí của Ngộ Không, Bát Giới, Sa Tăng, muốn khai yến khánh Đinh Ba hội. Ngộ Không, Bát Giới biến thành tiểu yêu, Sa Tăng biến thành khách nhân, hỗn nhập Hổ Khẩu động, đoạt hồi binh khí. Tiêu đề viết: "Hoàng sư tinh hư thiết Đinh Ba hội, Kim Mộc Thổ kế nháo Báo Đầu sơn". Thử hỏi: Kim không phải Ngộ Không, Mộc không phải Bát Giới, Thổ không phải Sa Tăng sao?

    Tam thập bát hồi: "Anh nhi vấn mẫu tri tà chính, Kim Mộc tham huyền kiến giả chân." Tứ thập hồi: "Anh nhi hí hóa thiện tâm loạn, Viên Mã Đao Khuê Mộc Mẫu không". Thất thập lục hồi: "Tâm thần cư xá ma quy tính, Mộc Mẫu đồng hàng quái thể chân." Bát thập ngũ hồi: "Tâm viên đố Mộc Mẫu, ma chủ kế thôn thiện." Bát thập bát hồi: "Thiện đáo ngọc hoa thi pháp hội, tâm viên Mộc Mẫu thụ môn nhân", trong đó Mộc Mẫu, Đao Khuê, Kim Công, Đều là chỉ Bát Giới, Sa Tăng, Ngộ Không. Có thể thấy Ngộ Không, Bát Giới, Sa Tăng; ẩn dụ ba yếu tố lớn trong thân người tu luyện, toàn thư chỉ điểm rất rõ, vừa nhìn đã rõ, cần gì phải nhiều lời?

    Đường Tăng ẩn dụ cho thái cực, không có Đường Tăng, Ngộ Không, Bát Giới, Sa Tăng không thể xuất hiện; không có Ngộ Không, Bát Giới, Sa Tăng, Đường Tăng không thể lấy chân kinh. Thái cực sinh âm dương ngũ hành, Đường Tăng trước đắc Ngộ Không Kim Thủy chân dương, sau đắc Bát Giới Mộc Hỏa chân âm, thứ đến đắc Sa Tăng chân Thổ; tam gia tương hợp, phục hoàn thái cực. Thái cực sinh âm dương ngũ hành, là tiên thiên hướng hậu thiên thuận hành chi sinh phát! Tam gia hợp thành nhất gia, là hậu thiên phản tiên thiên nghịch hành mà hồi quy. 《 tây du ký 》 toàn thư ngầm chỉ công phu kim đan đại đạo, giảng thuật hậu thiên phản tiên thiên chi lý.

    Long mã ẩn dụ, người tu hành cần có hằng tâm nghị lực, Đường Tăng thủ kinh thập vạn bát thiên dặm trường, không có đại cước lực không thể tới nơi; người tu luyện, trăm loại khổ nan, không có đại nghị lực không thể thành. Cho nên cần có Long Mã tinh trì, nhật kiền tịch dịch, tiến về phía trước, tiềm tu mật luyện, lâu dài tự đắc.

    《 Tây Du ký 》 đệ nhị hồi có thơ rằng: "Diệu diễn tam thừa giáo, tinh hàn vạn pháp kim. Thuyết nhất hội đạo, giảng nhất hội thiện, tam gia phối hợp mộc như nhiên. Khai minh nhất tự quy thành lý, chỉ dẫn vô sinh liễu tính huyền', bài thơ này chỉ ra đại pháp tu luyện, nội tàng hữu vô, sắc không, hư thực, động tu vận tác chi pháp tắc. Đọc hết toàn thư khí công phá dịch, lại trở về đọc bài thơ này, có thể nói là:" Chúng lý tầm tha thiên bách độ, mạch nhiên hồi thủ, na nhân khước tại đăng hỏa đệ san xử. "

    Như trên chúng ta đã nói 《 Tây du ký 》ngầm chỉ kim đan đại đạo chi diệu, 《 tây du ký 》hết thảy có đến vài chục vạn chữ, bên trong đại kỳ đại diệu, tràn ngập toàn bộ bộ sách. Ngộ Nhất Tử, Ngộ Nguyên Tử phá dịch dẫn nhập, tinh tế tỉ mỉ, tự đắc kỳ diệu. Nhưng muốn đọc hết toàn sách, cần phải hiểu một chút lý luận đạo gia khí công, cần phải biết chút ít tu luyện Phật gia. Quá khứ có rất nhiều học giả không nhận thức được giá trị thực của Tây Du, ví như" Nghi cổ phái', "Cực tả tư triều", có tư tưởng nhiễu loạn, với tư tưởng chủ quan đã tự che khuất đi tầm nhìn của họ. Thêm nữa đạo gia khí công tư tưởng thâm áo, không thể ngày một ngày hai có thể tiếp cận được. Nhất định cần phải được chân sư chỉ điểm, lại cần phải có chân lý thực tiễn của từng cá nhân, dò xét cẩn thận, cực thâm nghiên kỷ, mới có thể hiểu ngộ.

    Chúng ta nói tây du ký》 là kim đan chính tông, là nhằm vào bàng môn ngoại đạo; chúng ta nói 《 tây du ký 》là khoa học khí công, là để phê phán những tư tưởng tà đạo. "Bàng" ấy, nghĩa là ở bên lề; bàng môn, tức là ở bên ngoài cửa, không phải bên trong. "Ngoại" ấy, 《 ngọc thiên 》nói rằng: "Biểu dã, viễn dã, ngoại đạo giả, viễn ly chi đạo", ở bên ngoài, không phải bên trong. Bàng môn ngoại đạo rất dễ làm lẫn lộn 'chân' đạo, mới xem rất giống với chân đạo, thiện nam tín nữ rất khó phân biệt, cho nên 《 tây du ký 》đệ nhị hồi, Bồ Đề tổ sư trước tiên chỉ ra "Thuật", "Lưu", "Tĩnh", "Động" các môn, mượn môn Ngộ Không, phê phán các môn này đều là bàng môn tiểu thuật vậy. 《Ngộ Chân Thiên: "Bất thức chân duyên thị tổ tông. Vạn bàn tác dụng uổng thi công. Hưu thì mạn khiển âm dương cách, tuyệt lạp đồ khiếu dương vị không. Thảo mộc kim ngân giai chỉ chất, vân hà nguyệt chúc mông lung. Canh nhiêu thổ nạp tịnh tồn tưởng, tổng thị kimđan sự bất đồng".

    Có thầy nói rằng: Môn chúng ta tham thiện đả tọa, lại tĩnh tọa pháp môn, song tất bàn định, đoạn lự tuyệt tư. Vô dục vô tưởng, vạn niệm giai không, lâu dần tự có thể thành đạo, kiến Như Lai, thu được thần đạo, không gì không thể đạt tới. Ngộ Chân Tử cho rằng: Tĩnh tọa nhất không, như hỗ mộc ngốc tượng. Như thế mà thành phật, thử hỏi nhân sinh bách niên, trong đó quá nửa là ngủ, lúc ngủ vạn lự giai không, tại sao không thể thành đạo? Như thế tu hành, chẳng qua là cũng như mài gạch thành gương, lấy tuyết làm lương thực vậy.

    Có thầy nói rằng: Môn chúng ta luyện chính là tinh, khí, thần, vận hà xa, hành đồng diệt, đem thận khí từ Vĩ Lư thượng Giáp Tích, quá song quan, tới Ngọc Chẩm, hoàn tinh bổ não, gọi là thủ《 khảm 〉〉 điền 《 ly, lâu dài từ hậu thiên phản tiên thiên, tự có thể thành tiên đạo. Hiểu được chân tinh, khí, thần là nhân chi tam bảo, tu đạo tu những thứ này. Tinh ấy không phải là giao cảm tinh. Khí ấy không phải hô hấp khí. Thần ấy không phải là tư lự thần. Nếu như thế mà tu, ta không biết như thế nào để luyện thần hoàn hư? Cũng không biết làm sao phản hồi tiên thiên?

    Ở trên, nhị môn, nhất là "trứ không", nhất là "Chấp hữu", đều là bàng môn ngoại đạo, 《 tây du ký 》 nhất bách hồi trung, phê phán các môn như thế rất nhiều. Bởi nó rất giống thực cho nên rất dễ gây loạn đạo pháp, khiến nhiều người nhập vào đường mê mờ vậy.

    Có thầy cho rằng: Môn chúng ta bái phật tụng kinh, tĩnh tâm chỉ lự, thiện quan ky phong, ngộ triệt tam muội, lâu dần, tự khả thành đạo. Ngộ chân tử cho rằng: Đạo tại tu luyện, bất tại tụng kinh. Vạn quyển phật kinh chỉ là giảng thuật một thứ đạo lý, tức là con đường thành Phật. Tòng niệm kinh trung ngộ xuất thành phật liễu đạo chi pháp môn, sau đó phải tu chi luyện chi, mới là chính lộ. Cho nên《 chân kinh ca 》nói: "Trì kinh chú, niệm phật khoa, bài định chỉ lự, vọng siêu thoát. Nhược thị giá bàn siêu sinh tử, biến địa thích tử tác phật la! Hựu thán ngu nhân ái tham thiện, nhất ngôn nhất ngữ đấu xảo ngôn, ngôn tẫn khẩu quyết nan miễn tử, chân cá phật pháp bất như thử."

    Có thầy lại nói môn chúng ta giảng tu tâm dưỡng tính, kính phật ái đạo, hành chủng chủng thiện, thủ chủng chủng thành. Lâu dần, tự khả thành phật. Ngộ chân tử cho rằng: Tích xưa Lương Vũ đế, xây chùa bố thí, cung phật, thiết trai, hỏi Đạt Ma tổ sư có công đức gì? Đạt Ma nói: "Xây chùa, chép kinh, cung dưỡng, bố thí công đức, chỉ là nhân đức tiểu quả, thực không phải công đức." Tích đức hành thiện tu chính là nhân đạo, tuyệt không phải là thiên đạo. Tu thiên cần phải khởi phát tu nhân đạo, tu nhân đạo chỉ có thể nói là căn bản để tu phật đạo, so với đắc đạo thành phật còn xa vậy. Cho nên Tôn Ngộ Không đầu sư học đạo trước tiên học nhân đạo.

    Nhị môn ở trên, đều là chính phái chi môn, nhưng chỉ có thể tu nhân đạo, không thể thành phật đạo. Đối kim đan đại đạo nhi ngôn, cũng là bàng môn ngoại đạo.

    《 Tây Du ký 》chẳng những phê bình bàng môn ngoại đạo, đối với tà môn ngoại đạo cũng là thâm ác thống tuyệt. Như ở các hồi ngũ thập tứ, ngũ thập ngũ, thất thập nhị, bát thập, bát thập nhị, đều là phê phán ngự nữ thuật nhất loại, vọng tưởng tại trên thân thể nữ nhân để mà tu hành, đều là tà thuật, cho đến này loại tà đạo này vẫn còn tồn tại. Những pháp môn đó vọng xưng nam nữ song tu tựu thị biến quá tính hành vi hoàn thành, cho nên khiến không ít "Tín nữ" thất thân. Còn có không ít học giả vô trách nhiệm, đem Kim Đan đại đạo tu luyện quá trình, đánh đồng với "Phòng trung thuật". Các loại sách như vậy được lưu truyền nhiều trong giới thượng lưu trong xã hội, rất là tai hại. Ta tin rằng độc giả đọc hết《 tây du ký toàn thư khí công phá dịch》, đối với các loại dâm từ tà thuyết như thế, tự có khả năng phê phán.

    Còn có không ít khí công sư, tự cho mình là thần thánh, biểu diễn các loại thần thông năng lực, phóng ra vật này vật kia, gieo trồng thứ này thứ kia, tựa hồ ta cấp cho ngươi thứ này ngươi mới có thể thành đạo, các loại thuyết pháp như thế đều là hoang đường sai lầm cả. 《 Tây du ký》cũng là đối các loại hành vi trào lộng như thế mà phê phán, cảnh tỉnh học giả cẩn thận đề phòng. Người người đều có thể thành phật, người người tự có "Chân chủng tử", chân "Linh căn". Tu thì tự có, bất tu thì cũng là vô. Cho nên đạo gia rõ ràng chỉ ra rằng: "Thử bàn chí bảo gia gia hữu. Tự thị ngu nhân thức bất toàn'《 Tây du ký 》rằng:" Thiên di địa thiết đích gia đương. "Lại nói:" Phật tại Linh sơn mạc viễn cầu, Linh sơn chích tại nhữ tâm đầu. Nhân nhân hữu cá linh sơn tháp, hảo hướng linh sơn tháp hạ tu. "Đinh ninh dặn dò, cảnh tỉnh học nhân!

    Đương kim khí công giới, có không ít" Đại sư "đem" Ngọc tượng "của chính mình, bắt đệ tử môn" Quan chiếu "; cũng có vị chế thành tượng, khiến đệ tử môn bội bái. Các loại hành vi như thế, không biết các đại sư muốn như thế nào? Muốn cho đệ tử môn khai phát nhân thể tiềm năng, lợi kỷ lợi nhân sao? Hay là làm lợi cho tông giáo? Phật tổ Thích Ca mưu ni đối với loại hành vi này có phê phán rằng:" Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhân hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai ". Thử hỏi: Tự mình còn chưa đặt chân lên tới bỉ ngạn, còn chưa thoát khỏi" Tục niệm ", làm sao có thể phổ độ chúng sinh, làm sao giúp cho đệ tử đắc đạo thành phật mà đạt bỉ ngạn đây? Các loại hành vi như thế, đi ngược lại giáo huấn phật đạo, những kẻ trí giả cũng không làm như vậy, huống chi các vị đại sư?

    Còn có không ít người nói cái gì mà Phật đem chân kinh truyện cho Đường Tăng, còn muốn" Nhân sự ". Đường Tăng không biết làm sao, chỉ biết đem Bình Bát Đường vương đưa cho mà để lại, coi đó là cậy cửa quyền mà đoạt tài vật. Không biết rằng, Phật hướng Đường Tăng muốn" nhân sự ", ngầm ám chỉ đạt được chân kinh rồi, cần phải cước đạp thực địa tu luyện. Thành Phật đại đạo, chẳng những cần phải có chân kinh, mà còn cần phải bỏ đi tu vi tu luyện, mà dựa vào" nhân sự "để mà chân lý thực tiễn hoàn thành. Ý nghĩa" nhân sự "ấy, cùng với" tri thiên mệnh, tận nhân sự ", cùng một hàm nghĩa, tuyệt không phải muốn lấy tài vật. Lại thêm, Bình Bát là đồ vật để hóa trai, người không thể một ngày không ăn, trai không thể một ngày không hóa, đó cũng là ám chỉ" tận nhân sự", tức ngày ngày nỗ lực tu trì, không thể một ngày lười biếng, cũng như mỗi ngày phải ăn uống. Tâm niệm kiên trì, sớm chiều chăm chỉ, tích tiểu thành đại, đến ngày đại công cáo thành.

    Bính tý niên lục nguyệt tác ẩn trai chủ nhân Ngộ Chân Tử Tôn Quốc Trung thức.
     
    Last edited by a moderator: 8 Tháng mười hai 2020
  4. Nguyễn Anh Tú Nguyen Anh

    Bài viết:
    0
    HỒI THỨ NHẤT

    Linh căn dục dựng nguyên lưu xuất

    Tâm tánh tu trì đại đạo sanh

    Ngộ Nhất Tử chú:

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ngộ Nhất Tử rằng: Đây là hiển lộ ra căn nguyên đại đạo, là âm dương tổ khí, tức là hỗn nguyên thái cực tiên thiên, trong vô sinh hữu chi chân ất, có thể tận tâm tri tính mà tu trì, liền thành kim thân bất phôi, thọ cùng thiên địa vậy. Kẻ hạ sĩ tục nho, hiểu biết nông cạn, không hiểu 《 Hà Đồ》《Lạc Thư》, là vô tự chân kinh, chưa rõ diệu lý của《 Chu Dịch》《Tham Đồng》. Bám lấy sách Nho, giải ngộ chưa được một góc, vứt bỏ 《Đạo Tàng》, dù có đọc xem cũng đều hỏng cả. Đúng là gà ấp chỉ biết ổ lớn, côn trùng mùa hạ nào biết thế nào là băng giá. Ta đặc biệt thương xót người có chí tu đạo, chưa được chân truyền, đã mê mất tính mệnh nguyên lưu, bèn đem 《 tây du 》chú giải, vén lên bức màn che dấu, chỉ rõ yếu quyết cho người tri âm về sau. Thế nhưng thế nhân nhiều đời trước đã chú giải sai lầm, thiếu sót đã lâu, không thể không dẹp bỏ sai lầm mà tìm chân lý. Như thế xem hai thơ đầu, ý tứ quá sáng rõ, một câu ở trên, là toàn bộ ý nghĩa cốt yếu của tác giả, người chú giải chỉ biết được tâm làm chủ, suy đoán sai lầm, vọng tưởng chú giải, ngược lại càng làm mất đi căn nguyên đại đạo, thế là không biết đại đạo vậy, cũng không biết về tâm, như thế là đem tâm huyết tiên sư vứt bỏ đi hết, thật luyến tiếc, thật đau sót thay!

    Câu trên nói "Linh căn", tiên thiên chân ất chi khí vậy. Kinh nói: "Vô danh thiên địa chi thủy, hữu danh vạn vật chi mẫu", lại nói "lưỡng giả đồng xuất nhi dị danh". Đương lúc 'vô' ấy, chân nhất chi khí không thể thấy, bởi thế mới là khởi đầu của thiên địa; đến khi 'hữu' ấy, chân ất ấy hiện xuất trong hư vô, nên là mẹ của vạn vật. Nhất khí sinh âm dương, âm dương sinh tứ tượng, tứ tượng sinh ngũ hành, ngũ hành sinh vạn vật, đều là biến hóa của khí chân ất đó vậy. Cũng là khí ấy, có trước khi lập thiên địa, nhập vào bên trong thiên địa; mới đầu từ trong vô sinh hữu, mà phản phục từ hữu sinh vô. Người có thể đắc được nhất khí đó, có thể bao la vạn tượng, nên viết: "Đắc kỳ nhất, vạn sự tất" (có được nhất ấy, vạn sự xong) là vậy. 《Ngộ chân thiên》nói: "đạo tự hư vô sinh nhất khí, tiện tòng nhất khí sản âm dương. Âm dương tái hợp thành tam thể, tam thể trọng sinh vạn vật trương". 《 Dịch 》nói: "Thiên địa nhân uân, vạn vật hóa thuần" (trời đất hun đúc giao cảm mà vạn vật hóa thuần), Nguyên Thủy lấymột hạt bảo châu chứng đạo; trên hội Linh Sơn, Long nữ hiến mưu ni bảo châu chứng đạo. Tam giáo thánh nhân không có vị nào không theo đạo ấy, xem thẳng vào căn nguyên, động minh tạo hóa.

    Như thế là đạo sinh nhất khí, nhất khí sinh hình, trong hình lại bao hàm thủy khí (thủy- mới), cho nên thiên nhất sinh thủy, thủy là nhâm thủy, nhâm tức chân nhất sinhvật chi tổ khí. Nhâm thủy trường sinh tại thân, thân ấy, là hầu vậy, thế nên mới là hầu (thế mới có con khỉ) ; thân tức kim mới đầu sinh tại thổ, tức thạch, thạch tức thổ tinh, bởi thế mà có thạch hầu (khỉ đá).

    Như "chu thiên tam bách lục thập ngũ độ" (chu thiên 365 độ), "nhị thập tứ khí" (24 khí), "cửu cung bát quái", tức《Ngộ Chân Thiên》nói "ngũ hành tứ tượng toàn tại thổ, cửu cung bát quái khởi ly nhâm" cũng là ý đó. Ất là cây hoa quả, sinh tại "chấn", thuộc phương đông là nơi dương khí mới sinh, nạp âm là kim trong biển, thế nên Hoa Quả sơn ở trong biển lớn thuộc Đông Thắng thần châu nước Ngạo Lai, đó là kim trong thủy, đó là tiên thiên chân ất chân kim có trước phụ mẫu sinh; chân ất chân kim, không có phụ mẫu mà phụ thiên mẫu địa, sản sinh từ trứng đá, "mục vận lưỡng đạo kim quang" (mắt chiếu hai luồng ánh sáng) vậy. Bởi do uống nước hậu thiên, mà kim quang tiềm ẩn, dần dần mất đi tính sáng soi thủa ban đầu vậy. Bởi nó là kim trong thủy, thế nên ở trong Thủy Liêm Động. Bên trong có "thiết bản kiều" (cây cầu sắt), rõ ràng là "thiên tạo địa thiết đích gia đương" (gia sản trời đất tạo dựng), là cái mà sức người không thể làm được. Gia sản ấy, người đắc được, thì mệnh do ta không do trời, chẳng để lão thiên quản chế vậy. Trở thành đại vương vui sướng nhất ở trong trời đất, thế nên xưng là "Mỹ hầu vương". Bởi "cái văn thiên địa chi sổ" (nghe được khí số trời đất) đến chỗ này, thì đã rõ được ý nghĩa thâm sâu huyền ảo của nguyên lưu linh căn. Tuyệt không phải suy đoán sai lầm là cái "tâm" tự bên trong. Miễn cưỡng lấy hình tượng mà đoán nhầm, dựa vào ngũ hành mà tra xét, chẳng phải là tầm nhìn hạn hẹp hay sao?

    Tiên sư chỉ sử dụng một câu thơ, tóm gọn trong đó toàn bộ ý nghĩa sâu xa. Mượn hầu giả danh, mà hoàn phối kim đan đại đạo thành công, khiến cho đời đời gắng gỏi hoàn phối, lại cũng xưng là ngoại vương, xưng nội thánh, mà tùy ý tung hoành, không nói tâm khó hạn chế vậy. Bên dưới mới nói người quan sát thể nghiệm kỳ diệu, tận tâm tri tính, gắng sức tu trì vậy. Thân người khó có được, trăm năm dễ sai lầm, nhanh chóng khai phát đạo tâm, tự mình gắng gỏi. Hiểu ra được đạo của thiên phật thần thánh, phương pháp trường sinh bất lão, người người đều có phần. Thế nhưng thế nhân hầu hết đều theo đuổi danh lợi, chẳng có ai vì thân mệnh cả, thật đáng thương thay! Thế nên tiên sư chỉ ra một con đường đến tây phương, thẳng đến Tây Ngưu Hạ Châu, nơi đó có thần tiên hạ lạc. Ôi! Thần tiên lại không chọn đất mà sinh, sao lại đến Nam Thiên Bộ châu thì không có, mà đến Tây Ngưu hạ châu lại có? Tiên sư lập ngôn có ý chỉ rõ ràng, nam phương là hướng hỏa vượng, không phải hướng sinh kim; tất phải đến tây phương, mới sản sinh chân kim vậy, cùng ý nghĩa với quá trình lấy kinh đều hướng tây phương vậy.

    Nói ra một câu "hành hiếu đức quân tử" (quân tử hành hiếu đức). Hiếu là đạo lý cơ bản làm người, tức rất gần với thần tiên, bởi thế mới là hàng xóm của thần tiên (chỉ tiều phu hiếu đức), trong đó còn có diệu nghĩa khác nữa. Đạo thần tiên, lấy thủy sinh kim, không lấy kim sinh thủy, đó là tượng mẹ mang thai con mà con báo ơn mẹ, đó cũng là hành hiếu đạo vậy.

    Tiều phu nói: "Không xa! Không xa! Núi này gọi là núi Linh Đài Phương Thốn, trong núi có động Tà Nguyệt Tam Tinh, trong động có một vị thần tiên, xưng là bồ đề tổ sư". Bồ Đề, tiếng phạn, tức là "chính đạo" vậy. Chỗ này rõ ràng đề "Linh Đài phương thốn", một cái móc câu và ba điểm, độc giả đều cho rằng đó là chữ "tâm" ( ) không thể nghi ngờ, sao lại bảo không phải tâm? Chao ôi! Sai lầm rồi vậy! Nếu nói đó là tâm, tức là lấy tâm hỏi tâm, tham thiền đả tọa, trừ bỏ dục vọng, liền có thể trường sinh, việc gì phải tầm sư học đạo, nay đông mai tây làm gì? Bởi lẽ, tâm là thiên địa chi tâm, mới có thể! Nếu là tâm nhân tâm chi tâm, thì còn xa lắm vậy!

    《 Dịch 》nói: "Bất viễn phục" (trở lại không xa), phục (trở lại), để thấy thiên địa chi tâm ấy vậy. Bởi có địa lôi "phục" quái, mới thấy được thiên địa chi tâm. Bởi tĩnh cực mà sinh động, động mà dương sinh, sinh sinh kế tiếp, đều bởi tại 《 Khôn》nên 《 Tham Đồng》nói: "Nhân mẫu lập triệu cơ", tức 《 khôn》sinh 《 Phục》vậy, lại nói "lục ngũ khôn thừa, kết quát chung thủy". Ôm ấp nuôi dưỡng các con, nên ở vị vạn vật chi mẫu vậy. Thế nên tiều phu nói rằng: "Na tổ sư xuất khứ dã đồ đệ bất kể kỳ sổ", đó là nói vạn vật xuất ra từ đây vậy, lại nói "Kiến kim hoàn hữu tam tứ thập nhân tòng tha thúc hành." (đến nay cũng còn ba bốn chục người đang theo học), đó là nói đông tam, tây tứ, trung thập, còn tổ sư là bắc nhất, nam nhị, 《Khảm》《Ly》ký tế, ngũ hành toàn thốc rõ vậy. Lại nói: "Nhĩ thuận na điều tiểu lộ nhi hướng nam hành bất viễn, tức thị tha gia liễu." (ngươi theo đường nhỏ đằng kia, theo hướng nam mà đi thì không xa, tức là đến tha gia). Từ tây mà hướng nam (tây nam), chẳng phải hướng 《 Khôn》địa là gì? 《 Dịch 》 nói: "tây nam đắc minh, nãi dĩ loại hành". 《Ngộ Chân 》nói "chích tại tây nam thị bản hương" cùng nghĩa đó vậy. Tiểu lộ (đường nhỏ) ấy, là tây 《Đoài》vậy, 《Đoài》là thiếu âm, nên nói "tiểu". Tha gia ấy, tức 《Ngộ Chân 》 "nhận thủ tha gia bất tử phương" vậy.

    Mới đầu nói: "Bất viễn! Bất viễn!" sau lại nói: "bất viễn", làm rõ nghĩa "phục bất viễn" (trở lại không xa) vậy. Cuối cùng nói: "Ước hữu thất bát lý viễn" (ước chừng khoảng 7, 8 dặm xa), thất bát ấy, thập ngũ vậy (7+8=15), ở tại kim gặp ngày vọng (ngày 15), ý nghĩa thật tinh vi.

    Thơ tiên bài nào cũng như thơ của vua Nghiêu: "Đông chí tử chi bán, thiên tâm vô cải di. Nhất dương sơ động xử, vạn vật vị sinh thì." (đông chí sinh một nửa, thiên tâm không thể cải biến. Chỗ nhất dương sơ động, lúc vạn vật chưa sinh), sáng rõ cái gốc rễ của trời, tận hết, sáng rõ thiên tâm ở chỗ này vậy. "Tĩnh tiễu tiễu yểu vô nhân tích" (tĩnh mịch mênh mang không dấu tích người), âm tĩnh cực mà thấy được thiên địa chi tâm. Cho nên lại sắp đặt hầu vương nhảy lên ngọn cây tùng hái quả con ăn chơi (trích tử, hái quả con), đó là tượng cho "chấn" mộc sơ động, mà nghĩa là tử (con) vậy. Như thế là đã làm sáng rõ ý nghĩa thâm ảo.

    Đồng tử nói: "Ngã gia sư phụ giảng đạo, hoàn vị thuyết xuất nguyên do, khiếu ngã lai tiếp, tưởng tất thị nhĩ" (sư phụ tôi giảng đạo, còn chưa nói nguyên do, đã bảo tôi ra tiếp, chắc là anh rồi), hầu vương liền nói: "Thị ngã! Thị ngã!" (là tôi! Là tôi), ở trong đó lại có diệu nghĩa. Chân ất chi tinh, vốn nhà tại đông, nương nhờ tại tây, đó là nghĩa âm dương điên đảo. Từ lúc mới sinh, đi ở tại tha gia, nay quay về nhận nhà, nói rõ nguyên do, bày tỏ rõ ràng vốn là vật ngã gia vậy. Nên viết "Thị ngã! Thị ngã!", đối chiếu với "tha gia" ở trên, hai thứ tương chiếu.

    "Kiến bồ đề tổ sư đoan tọa thai thượng, lưỡng biên hữu tam thập cá tiểu tiên thị lập" (thấy bồ đề tổ sư ngồi ngay ngắn trên đài, hai bên có ba mươi tiểu tiên đứng hầu), cùng nghĩa với "tham đồng" : "Lục ngũ khôn thừa, kết quát thủy chung". Ngũ lục (6x5) được thập tam (30) vậy. Lịch đại thần tiên cũng lấy "khôn" là chỗ sinh 'nguyệt' (trăng), lấy tượng là 'yển nguyệt' vậy. Một cái móc câu là nguyệt vậy, tam điểm là tam tinh, nguyệt thừa thụ dương khí mà sáng, trong có tinh khí thần tượng cho tam tinh. 《Phục》quái là quái dương đứng đầu. Sóc khôi (sóc- ngày mùng 1) là ngày trăng mới nhú, nên 《Tham Đồng》nói: "Ngũ lục: Thập nhật độ cánh phục canh thủy." Ngụy Công lấy nguyệt tam thập nhật (trăng ngày 30) phối 《Khôn》là cùng một nghĩa.

    Bài thơ "đại giác kim tiên", không tịch chân như, câu câu chữ chữ đều hiển lộ, hiểu được thiên tâm mới là đại pháp sư vậy. Như thế muốn tận hết tâm ấy, trước tiên phải biết tính ấy, tức biết thiên tâm vi diệu, mà hoàn thành đại đạo vậy. Hầu vương chí tâm cầu đạo, từ đông hướng tây, đó là cầu biết tính ấy vậy. Nói: "Ngã vô tính", nói: "Ngã vô phụ mẫu", nói: "tưởng thị thụ thượng sinh" (sinh ra ở trên cây). Nói: "Kháp thị thạch lý" (sinh ra từ trong đá). Ấy là nói người khi sinh ra, bị nhiễm dục vọng trần gian, dần mất đi tiên thiên chi tính, cũng không biết đông phương "chấn" mộc chi vật, đó cũng là tây vị "đoài" kim chi thể, đó chẳng phải là vứt bỏ gia sản mà trời đất để lại cho hay sao? Thế nên bồ đề đại phát từ bi, nói: "Ngã dữ nhĩ tựu thân thượng thủ cá tính thị: Cổ, nguyệt, lão âm, bất năng hóa dục; nhi nam, anh tế, chính hợp bản luận.". Tiên sư chân thực không rườm ra nói ra chân tính kỳ diệu. Hầu vương nói: "Hảo! Hảo! Hảo! Kim nhật phương tri tính dã" (tốt, tốt, tốt, nay đã biết tính rồi), lại nói: "Hảo! Hảo! Hảo! Tự kim khiếu tố tôn ngộ không dã" (tốt, tốt, tốt, từ nay lại kêu là tôn ngộ không). Thế nhân hiểu được từ "hảo", từ "tính" từ "không", cũng tức là "Quảng, Đại, Trí, Tuệ, Chân, Như, Tính, Hải, Dĩnh, Ngộ, Viên, Giác" vậy. Thế nên nói rằng: "Hồng mông sơ ích nguyên vô tính, đả phá ngoan không tu ngộ không." Nhưng muốn tìm tiên thiên chi chân tính, cần phải theo hậu thiên mà thâm cầu. Đó là một con đường, đưa ra để mà ấn chứng.
     
  5. Nguyễn Anh Tú Nguyen Anh

    Bài viết:
    0
    HỒI THỨ NHẤT

    Ngộ Nguyên Tử chú giải

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ngộ Nguyên Tử rằng: Thân người khó có được, vô thường nhanh đến, sinh sinh tử tử, luân hồi chẳng dừng; một khi mất thân, nhập đường ác thú, đáng sợ đáng buồn thay! Người sống trên đời, sinh chẳng biết đến từ đâu, tử chẳng biết đi về đâu, sống như say chết như mộng, cả đời hèn hạ, nhập vào biển khổ mà không biết, vây trong hầm lửa mà không hay, lấy khổ làm vui, nhận giả làm chân, tuyệt chẳng hề biết trần gian thế sự đều là giết hại lẫn nhau; ân ái khổ lụy, chẳng qua đến lúc dứt mệnh, diêm vương lão tử đòi mạng, tiền bạc như núi có đổi được không? Hiếu tử hiền tôn, phân ưu chẳng hết, chỉ tự mình lạc vào đường tội nghiệt.

    Toàn thân, hết thảy đều là hư vọng. Sở dĩ các loại đan kinh, chân chính đạo thư, truyền cho hậu thế, là muốn học giả tìm sách giải nghĩa, thoát khỏi hầm lửa, xuất ly khổ hải, quên giả giữ chân, bảo tồn tính mệnh. Thế nhưng kinh sách càng nhiều, học nhân càng mê muội, bởi ý nghĩa thâm u, không nhìn ra được chân nghĩa.

    Trường Xuân chân nhân có tấm lòng độ thế cứu nhân, làm ra bộ 《Tây Du Ký》, nói những lời chân thực, bỏ qua văn chương hoa mỹ mà dùng ngôn từ dễ hiểu, muốn rằng người người thành tiên, thành phật vậy. Xem bài thơ trong truyện nói: "Dục tri tạo hóa hội nguyên công, tu khán 《 tây du thích ách truyện 》" (muốn biết tạo hóa nguyên công, cần phải xem ' tây du giải tai ách truyền'), biết được chân nhân một lòng độ thế cứu nhân. Đạo lý trong 《Tây Du Ký》là kim đan đạo, đạo tạo hóa, không ngoài nguyên hội chi đạo. Trong sách có nói nội âm dương, ngoại âm dương; thuận ngũ hành, nghịch ngũ hành, hỏa hậu dược vật, thiên đạo nhân sự, không gì không đủ. Nếu có học giả tinh ý, hiểu được thầy trò đường tăng, tức là âm dương ngũ hành chi đạo; tích trượng, cà sa, gậy kim cô, cào chín răng, tức là hội nguyên công; xuyên qua các nước, gặp trăm ngàn khó khăn, tức là chướng ngại của người tu chân; thông quan điệp văn, chín cái bảo ấn, tam tạng chân kinh, tức ấn chứng vượt qua tai ách; có thể thoát khỏi thọ mệnh, xuất luân hồi, siêu trần thế, nhập thánh cơ, có thể thành kim cương bất phôi, không có tai ách sao có thể được? Hậu nhân lầm đường lạc lối, đa phần không giải ngộ được, bàng sai tư nghị, tà thuyết dâm từ, vặn loạn tiên kinh, chẳng những không thể vượt qua tai ách, mà càng gặp thêm nhiều tai ách, như thế chẳng đáng thương, đáng thán ư?

    Ta từ khi được Kham Cốc lão nhân chỉ điểm, thu được nhiều lợi ích, mới biết sách này tàng ẩn nhiều thiên cơ, trăm năm trở lại đây, chẳng có ai có thể đạt được, ngoại trừ người tri âm là Ngộ Nhất Tử Trần công vậy. Ta nay muốn người vượt qua khổ ách, mô phỏng theo ý của Trần công, ở mỗi chương thêm vào phần chú giải, mong rằng độc giả hậu thế, có thể vượt qua khổ ách, đó là mong muốn của ta vậy.

    Như ở đầu chương có nói: "Linh căn dục dựng nguyên lưu xuất, tâm tính tu trì đại đạo sinh", có thể bạt thiên căn mà tạc lý quật, làm sao có thể giản đơn, có thể hiển lộ được bao nhiêu? Người mê hoặc chẳng hiểu 《Tây Du》, chẳng những không biết linh căn, mà tuyệt chẳng biết tâm ý. Thật không biết linh căn là linh căn, tâm ý là tâm ý, nên nói "tâm tính tu trì", đặc biệt dùng tâm tính tu trì để sinh đại đạo. Hai câu ở đầu mỗi chương là đề cương ý nghĩa toàn bộ chương, cũng là toàn bộ yếu chỉ, độc giả có thể tập trung ở đó mà biện biệt phân minh, tự có thể lĩnh hội, ngoài ra 99 chương sau, tuần tự không ngoài điểm mấu chốt đó vậy.

    Như đã nói rõ nghĩa ở đầu chương. Nói là linh căn ấy, cũng là tiên thiên hư vô nhất khí, tức sinh thiên, sinh địa, sinh nhân, sinh vật chi tổ khí, Thích gọi viên giác, Đạo gọi kim đan, tên gọi tuy khác mà cùng chỉ nhất khí đó. Chân nhân viết ra làm sáng rõ đạo, lúc đầu viết số của địa, một nguyên mười hai hội, hỗn độn mới phân, thiên tăng ở tý, địa ích ở sửu, nhân sinh tại dần, thế là sáng rõ tam tài thiên địa nhân, đều là từ nhất khí mà sinh. Tam tài đã sinh từ nhất khí, vậy thì thiên đắc nhất thì thanh, địa đắc nhất thì yên, nhân đắc nhất thì linh. Đó là linh căn của người, tức nhất khí tiên thiên hư vô. Khí đó, hồn hồn luân luân, hư viên bất trắc. Tịch nhiên bất động, cảm ứng liền thông, đầy đủ mọi lý mà ứng vạn vật, nên gọi là linh căn. Linh căn ấy, lấy khí mà nói, là hạo nhiên chính khí, lấy đức mà nói, giữ đức tính lương thiện. Khí ấy đức ấy, phi sắc phi không, bất hữu bất vô, hoảng hoảng hốt hốt, yểu yểu minh minh, chí hư mà bao hàm chí thực, bởi thế mới sinh ở Đông Thắng thần châu Ngạo Lai quốc Hoa Quả sơn vậy.

    "Đông" là phương sinh khí, "thắng" là tượng sinh khí vượng, "thần" tức nói sự thần diệu của vạn vật, tức là nhất mà là thần, cũng là thần châu xích huyền vậy. "Ngạo Lai quốc" ấy, từ chỗ không (vô sở) mà tới, ở vị chân không, tức bản thể sinh khí nhất thần. "Hoa Quả sơn" ấy, hoa là thuần âm, quả thuần dương, hoa kết thành quả, âm dương gồm đủ, ở vị diệu hữu, tức lưỡng mà hóa, thế là sinh khí nhất thần chí diệu dụng. Nhất thần ấy, vô danh thiên địa chi thủy; lưỡng hóa ấy, hữu danh vạn vật chi mẫu. "Hoa Quả sơn tại đại hải trung" (Hoa Quả sơn ở trong biển lớn), biển ấy tức là nơi các nguồn nước đổ về, tượng cho nhất khí là chúng diệu chi môn, không có đức nào không đủ, không có lý nào không bao hàm, là căn bản của thành tiên, thành phật, cho nên là "thập châu chi tổ mạch, tam đảo chi lai long" (tổ mạch của mười châu, rồng đến tam đảo) vậy.

    "Sơn đính thượng hữu nhất khối tiên thạch", nhất khí hồn nhiên, thái cực chi tượng vậy. Theo "chu thiên tam bách lục thập ngũ độ", "nhị thập tứ khí", "cửu cung bát quái", là chân không mà hàm diệu hữu, đó là vật bất nhị, sinh vật khó đo đếm, là tiên thiên trong tiên thiên vậy; "cảm nhật tinh nguyệt hoa, nội dục tiên dị" ấy, là diệu hữu mà hàm chứa chân không, âm dương giao cảm, trong đó lại sinh nhất khí, là tiên thiên trong hậu thiên vậy.

    "Sản nhất thạch noãn, tự hữu cầu dạng đại, nhân kiến phong hóa tác nhất cá thạch hầu" (sản sinh một quả trứng đá, hình một quả cầu lớn, bởi phong hóa sinh ra một con thạch hầu), thạch là thổ tinh, là vật kiên cố lâu dài, noãn cầu là vật tròn đầy không khuyết thiếu; hầu thuộc thân, thân là canh kim, kim cũng là vật kiên cố không phôi hoại, đều là hình tượng tiên thiên linh căn, có tính cương kiện, viên thành vô ngại, gốc là nhất khí, không phải vật hậu thiên tạp chất có thể bì được. "Ngũ quan câu bị, tứ chi giai toàn, bái liễu tứ phương, mục vận lưỡng đạo kim quang, xạ trùng đấu phủ" (có đủ ngũ quan, tứ chi đầy đủ, vái tứ phương, mắt phóng hai đạo kim quang, chiếu đến Đẩu phủ), linh căn chân không diệu hữu, khí âm dương ngũ hành tứ tượng, không gì không đủ, kim quang thông thiên thế địa. Tức có năng lực của thiên địa tạo hóa, cùng trường tồn với thiên địa vậy.

    "Hạ phương chi vật, nãi thiên địa trử hoa sở sinh, bất túc vi dị" (đó là vật hạ giới, do tinh hoa thiên địa sinh ra, không có gì lạ), là linh căn ở trong thân, người người đều có đủ, ai ai cũng tròn đầy, ở thánh không tăng, ở phàm không giảm, chỉ là "bách tính nhật dụng nhi bất tri" (trăm họ dùng hàng ngày mà không biết). "Phục nhị thủy thực, kim quang tiềm tức" (ăn mồi uống nước, kim quan dần ẩn) ấy, tiên thiên nhập vào hậu thiên, tri thức tăng mà linh căn mê muội, chân biến thành giả, bởi thế mà tà chính bất phân, đạo lý cùng dục vọng tạp giao, cùng muông thú chung sống vậy. Cũng như Mạnh Tử nói: "Nhân chi sở dĩ dị vu cầm thú kỷ hi, thứ dân khứ chi, quân tử tồn chi" vậy (người khác so với cầm thú không nhiều, thứ dân thì bỏ đi, quân tử thì cố giữ lấy sự khác biệt đó) là như vậy. Tuy rằng tiên thiên linh căn bị hậu thiên che mờ, nhưng cũng chưa có tiêu tán hết vào hậu thiên, thế nên người có chí hướng, nghiên cứu thâm sâu đạo lý vượt qua bể khổ, mà phản bản hoàn nguyên vậy.

    Linh căn vốn có đủ tiên thiên chân nhất chi khí, lại có tên là tiên thiên chân nhất chi thủy (thủy- nước), thủy ấy thuận tức sinh nhân sinh vật, nghịch tức là thánh, là tiên. "Thủy Liêm động Thiết Bản kiều hạ chi thủy, trùng quán vu thạch khiếu chi gian, đảo quải lưu xuất khứ, già bế kiều môn" (Nước dưới cầu sắt trong Thủy Liêm động, chảy vào lỗ đá, khi nước chảy ngược, cửa cầu liền đóng lại). Đó là đạo nghịch sinh tiên, thế nhưng người ta chỉ biết thuận hành, không biết nghịch vận, tuy rằng rõ ràng sáng sủa một thiết bản kiều ổn thỏa tại đó, mà người chẳng biết vậy. "Khước tự nhân gia trụ xử nhất bàn, hảo cá sở tại", giống như 《Ngộ Chân Thiên》nói "Thử bàn chí bảo gia gia hữu, tự thị ngu nhân thức bất toàn" (vật chí bảo ấy nhà nhà đều có, chỉ tại người ngu biết không trọn vẹn) vậy. Nếu như có người biết được bảo vật ấy, tức biết được tiên phật động tiên phúc địa, bên trong có đại tạo hóa, đốn ngộ viên thông, gia sản mà thiên tạo địa thiết ngay tại đó, giống như vốn đã có, chẳng cần cầu ở nhà khác, có thể an thân lập mệnh, tạo hóa do ta, chẳng bị lão thiên trói buộc vậy.

    "Hữu bản sự đích tiến đắc lai, xuất đắc khứ, bất thương thân thể giả, tựu bái tha vi vương." (có bản lĩnh đi vào được, đi ra được, chẳng bị tổn thương thân thể, sẽ bái làm vương). Tức 《Ngộ Chân》 nói: "Ngộ tức sát na thành phật, mê tắc vạn kiếp luân lưu. Nhược năng nhất niệm khế chân tu, diệt tẫn hằng sa tội cấu", tức Phật nói "Ngô vi nhữ bảo nhâm thử sự, quyết định thành tựu" (ta bảo đảm việc đó, nhất định thành tựu).

    "Xưng thiên tuế, xưng mỹ hầu vương", tức 《Ngộ Chân Thiên 》nói: "Khuyến quân cùng thủ sinh thân xử, phản bản hoàn nguyên thị dược vương" vậy.

    Thơ nói: "Tam dương khai thái sản quần sinh, tiên thạch bao hàm nhật nguyệt tinh" (tam dương tăng đủ sinh ra mọi vật, tiên thạch bao hàm tinh hoa nhật nguyệt) ấy, là nói địa thiên giao "Thái", hòa khí huân chưng, vạn vật đều có được mà thành hình, trong hình lại bao hàm thủy khí, đều có đủ nhất thái cực, không có tồn tại nào không hàm chứa nhất khí vậy.

    "Tá noãn hóa hầu hoàn đại đạo, giả tha danh tính phối đan thành" (mượn trứng hóa thành khỉ để hoàn thành đại đạo, mượn danh tính phối hợp đan thành), nói đạo vốn vô danh, miễn cưỡng mượn gọi là đạo, đạo vốn không lời, mượn lời để nói rõ đạo. Thế nên mượn danh tính thạch hầu để phối hợp đạo kim đan. Khiến người mượn cái này để hiểu cái kia, truy cầu linh căn thực tính vậy. "Nội quan bất thức nhân vô tương" (nhìn bên trong chẳng thấy bởi vì vô tướng) vậy, linh căn vô tướng, bất thức bất tri vậy. "Ngoại hợp minh tri tác hữu hình" (bên ngoài hợp minh mà biết tác động hữu hình), linh căn diệu hữu, mà thuận đế tắc vậy. "Lịch đại nhân nhân giai chúc thử" (thế nhân đời đời ai cũng có đủ), tức trên đã nói "Nhân nhân cụ túc. Cá cá viên thành" vậy. "Xưng vương xưng thánh nhâm túng hoành" vậy. Kẻ ngu lấy đó mà giữ thân mệnh, chí nhân lấy đó mà thành đạo, nếu có người biết, nghịch mà tu, cùng thiên địa tranh quyền, cùng nhật nguyệt tranh quang, "Túng hoành nghịch thuận mạc già lan, ngã mệnh do ngã bất do thiên" vậy. "Linh căn dục dựng nguyên lưu xuất" là chỉ diệu hữu, mà đáng tiếc người mê mất linh căn, chẳng biết mà cầu tìm. Tuy có gia sản mà trời đất ban cho, mà chẳng biết hưởng dụng, đến một ngày để mất đi, Diêm Vương lão tử chẳng lưu tình, thế chẳng phải sống uổng trên thế gian sao? Nói đến đây, đã là chân thật đầy đủ khiến cho kẻ tha hương lưu lạc, lênh đênh trong biển khổ, sớm mạnh mẽ mà quay đầu vậy.

    Hầu vương nghe nói thần thánh tiên phật bất sinh bất diệt, muốn xuống núi học thuật bất lão trường sinh, đó tức đạo tâm hiện phát, là linh căn bất muội chi cơ. "Đốn khiếu khiêu xuất luân hồi võng, trí sử tề thiên đại thánh thành" (Nhảy ra khỏi vòng luân hồi, làm cho thành Tề Thiên Đại Thánh), đó đều là đạo tâm hiện phát mà có được vậy. Thế nên thiên đạo vốn khởi đầu từ nhân đạo, cho nên nhân đạo chưa tận, thiên đạo còn xa vậy. Ở trong thế gian, tuy hình là người, mà tâm đều là thú! Chưa tu tiên đạo, trước hãy tu nhân đạo; học từ dưới lên trên, tuần tự mà tiến, tự nhiên nhập vào cảnh giới tốt đẹp. Hầu vương vượt biển lớn, đến Nam Thiệm Bộ Châu, học cách ăn mặc, học lễ nghĩa, học tiếng người, chung quy là từ bỏ thú tính mà học đạo làm người; học thành nhân đạo, tiên đạo có thể hi vọng; vì sao Nam Thiệm Bộ Châu chẳng có ai quý trọng thân mệnh, liệu có phải Nam Thiệm Bộ Châu không có thần tiên đến? Thế mới nói: Có thể tận nhân đạo, là tạo cái thang đến đất phật tiên thánh, chứ không thực sự trở thành phật tiên thánh. Tiên thánh ấy, nhất trần bất nhiễm, vạn duyên đều không, nhân đạo không khỏi chịu sự thao túng của cơm áo gạo tiền, phú quý vây quanh, chẳng thể vượt ra bên ngoài âm dương, cuối cùng cũng bị âm dương thao túng, thế nên hầu vương không thể không đến Tây Ngưu Hạ Châu, tìm chốn thần tiên hạ lạc. Đạo thần tiên ấy, là đạo kim đan vậy. Đạo kim đan vốn vạn kiếp bất truyền, không phải người đại trung đại hiếu không thể học được, không phải người đại trung đại hiếu không thể truyền. Quân tử hành hiếu đạo, cùng thần tiên rất gần, thực sự có căn cứ. Tiều phu nói "Bất viễn! Bất viễn!" Giống như nói đạo chẳng xa người vậy. Dù có cách xa là do người xa đạo vậy.

    "Linh Đài Phương Thốn sơn, Tà Nguyệt Tam Tinh động", "Tà Nguyệt" hình cái móc câu, "Tam Tinh" tức ba điểm, hợp thành chữ tâm ( ). Cổ kim có nhiều danh nhân, đều dùng nhân tâm mà đoán, có nhiều khác biệt vậy. Duy có Ngộ Nhất Tử chú rằng: "Dĩ thử tâm vi thiên địa chi tâm tắc khả, dĩ thử tâm vi nhân tâm chi tâm, thất chi viễn hĩ" (Nếu tâm là thiên địa chi tâm thì có thể được, nếu dùng tâm là nhân tâm, thì còn xa lắm vậy), lời nói ấy rất cao minh vậy, cái tâm ấy không chấp vào hình tượng, không lạc vào hữu vô, không không động động, tối hư tối linh, nên gọi là "Linh Đài Phương Thốn", đang tĩnh cực mà sinh động, trinh hạ khởi nguyên. Linh quang hiển lộ, như ánh trăng ngày mùng ba, nên nói là "Tà Nguyệt Tam Tinh động". Nói là "sơn" ấy, bất động bất diêu vậy; nói là "động" ấy, chí hư chí linh vậy. Tâm ấy tức Linh căn chiếu soi rực rỡ vậy, chiếu soi ấy, bởi một điểm dương cương chính khí vậy. Nên nói "động trung hữu nhất cá thần tiên, xưng danh bồ đề". "Kinh hoa nghiêm" nói: "Bồ đề tâm giả, danh vi chủng tử, năng sinh nhất thiết chư phật pháp.", bồ đề tâm, tức thiên địa chi tâm, cũng gọi là đạo tâm. Đạo tâm là chủng tử (hạt giống) thành tiên tác phật, là tổ tông của tu tính lập mệnh. Nên nói: "Tổ sư xuất khứ đích đồ đệ bất kế kỳ sổ dã, hiện kim hoàn hữu tam tứ thập nhân tòng tha tu hành." Tam tứ tức là thất (3+4=7), nghĩa "thất nhật lai phục".

    "Thuận tiểu lộ nhi hướng nam, thất bát lý viễn cận, tức thị tha gia liễu", "tiểu lộ" ấy là "đoài", tại tây hướng nam là "khôn", tượng tam nguyệt xuất canh phương, "thất bát lý" ấy, thất bát tức là nhất thập ngũ, tượng ánh trăng sáng tròn đầy, "tha gia" ấy, chỉ nhà người vậy. Linh căn mê muội, hãm trong hậu thiên, ngẫu nhiên hiển hiện, lúc có lúc không, không hoàn toàn sở hữu, là vật nhà mình mà chạy đến nhà người, nên gọi là tha gia. "Tĩnh tiễu tiễu yểu vô nhân tích" (tĩnh mịch mờ mịt không dấu vết), âm tĩnh cực, tượng "khôn" quái; "Trích tùng tử ngoan sái" (hái quả thông non mà đùa nghịch), tĩnh cực sinh động, là lúc thấy thiên tâm phục; đồng tử nói: "Ngã sư hoàn vị thuyết xuất nguyên nhân, tựu khiếu xuất lai khai môn.", chưa xuất ra, mà cửa đã mở, phòng trống bừng sáng, nhanh chóng cực điểm; lại nói: "Ngoại diện hữu cá tu hành đích lai liễu, khả dĩ tiếp đãi, tưởng tất tựu thị nhĩ.", đó là nói không được thầy truyền, uổng công đoán mò, tu hành mà đến từ ngoài thì không thể biết bên trong. "Khả dĩ tiếp đãi, tưởng tất thị nhĩ", tức "Nhận đắc hoán lai quy xá dưỡng" (nhận được vật trở lại nhà mà nuôi dưỡng). Hầu vương cười nói: "Thị ngã! Thị ngã!", đó là nói khẩu truyền tâm thụ hỏa hậu, không biết người tu hành trong thiên hạ, ở bên ngoài mà đến, bằng lòng tiếp đãi, có nhận đó là người ta (thị nhĩ) hay không? Cũng không biết đó là người ta (thị nhĩ), cũng chính là mình (thị ngã) hay không?

    "Tổ sư đoan tọa thai thượng, lưỡng biên hữu tam thập tiểu tiên thị lập thai hạ", đó rõ ràng là nói ra bí mật người ta (thị nhĩ) đó, trở lại thì chính là ta (thị ngã). Cái bí mật đó, tiên ông nói rõ ra, mà đa phần mọi người không biết. "Tổ sư đoan tọa đài thượng", tức "bác" quái, hào thượng nhất dương vậy, "lưỡng biên hữu tam thập tiểu tiên" tức "bác" quái, năm hào âm bên dưới, ngũ lục tam thập (5x6=30) vậy. Đây là nói thiên tâm chưa 'phục' là người ta (thị nhĩ), thiên tâm đã 'phục' là mình (thị ngã) ; chưa 'phục' là dương hào thượng quẻ "bác", đã 'phục' là dương sơ hào quẻ "phục". Muốn phục thiên tâm, cần trong quẻ "bác" mà hạ thủ công phu. Hào từ của hào thượng quẻ "bác" nói: "Thạc quả bất thực, quân tử đắc dư." (quả lớn không ăn, quân tử được xe), đó là thuận theo mà dừng lại, không để âm khí bác dương khí đến lúc tận cùng, từ đó mà phản hoàn về nguyên bản, thầy ngồi ở trên đài, đó là 'đắc dư' thuận mà dừng lại vậy.

    Thơ rằng: "Đại giác kim tiên một cấu tư" (đại giác kim tiên không nhiễm một chút trần), thoát ly quần âm, tức là chân không, là "Tây phương diệu tướng tổ bồ đề" vậy, phản phục chính khí, tức là diệu hữu vậy. "Bất sinh bất diệt tam tam hành, toàn khí toàn thần vạn vạn từ" ấy, chân không diệu hữu, bất sinh bất diệt, toàn khí toàn thần, tam tam hành mãn, thể hóa thuần dương, vạn vạn công thành, đức phối thiên địa vậy; "Không tịch tự nhiên tùy biến hóa" ấy, tịch nhiên bất động, cảm ứng liền thông; "Chân như bản tính nhâm vi chi" ấy, nhất niệm thuần chân, hư linh bất muội vậy. "Dữ thiên đồng thọ trang nghiêm thể, lịch kiếp minh tâm đại pháp sư" ấy, sau khi thành đạo, là thể kim cương bất phôi, thọ cùng trời đất, vĩnh viễn là vô lậu chân nhân. Nếu chẳng phải thâm minh thiên tâm đại pháp sư, ai có thể làm được như thế? Minh tâm chi pháp toàn tại công phu từ "bác" mà "phục", nếu chẳng biết pháp minh tâm, nhất cử nhất động đều là nhân tâm dụng sự, chẳng thấy thiên tâm, tức là "tiểu nhân bác lư" (hào từ quẻ Bác, tiểu nhân kéo đổ nhà), làm sao đến được chỗ cùng thiên địa đồng thọ trang nghiêm? Thế nhưng minh tâm đại pháp, người không dễ biết được, cũng rất khó thực hành, nếu chẳng phải may mắn mà thành tựu, thì cũng phải vất vả kiên trì, lập chí trường cửu, sau này mới có thể thành tựu. Nói là "Thập sổ niên phương đáo", nói "Ký thị trục tiệm lai đích dã bãi" (mười năm mới đến nơi, dần dần cũng đến nơi), đó là đề tỉnh hậu nhân học giả, không thừa chút nào.

    Đề cương ở trên nói "tâm tính tu trì đại đạo sinh", đó là tâm kiên trì không thể bất minh, tính không thể bất kiến; nếu chẳng kiến tính, tâm vô sở thể, không thể đến chỗ chân không, tính ấy phải nhanh chóng biết vậy. Những câu nói đó, không phải nhàn nhã nói chơi, đều có thâm ý, hết thảy học nhân, ngộ nhận khí chất chi tính là chân tính, miễn cưỡng chế phục, chung quy nhập dòng hạ thừa ngoan không. Thật không biết đó là hậu thiên giả tính, mà chẳng phải tiên thiên chân tính. Thế nên tổ sư nói: "Bất thị giá cá tính" (không phải cái tính đó), đích thực là dùng gậy đập vào đầu mà cảnh tỉnh, khiến người chấn kinh vậy. Nói: "Ngã vô phụ mẫu", nói: "Khước thị thiên địa sinh thành đích", tính do thiên địa sinh thành đó mới là chân tính; nhận tinh cha huyết mẹ sinh thành, không phải chân tính vậy. Chân tính ấy, đó là thể kế tục của linh căn, không mà bất không, bất không mà không, "Thủ cá tính thị, khiếu tính tôn", không mà bất không vậy. Nói: "Hảo! Hảo! Hảo! Phương nhật kim tri tính" (tốt, tốt, tốt, từ nay biết tính), nói: "Hảo! Hảo! Hảo! Tự kim khiếu tố Tôn Ngộ Không" (tốt! Tốt! Tốt, từ nay gọi là Tôn Ngộ Không). Biết được tính ấy, ngộ được không ấy, tức nhất âm nhất dương chi vị đạo, âm dương bất trắc chi vị thần. Hữu vô nhất trí, sắc không vô ngại; chí vô mà hàm chí hữu, chí hư mà hàm chí thực ; "Hữu dụng dụng trung vô dụng, vô công công lý thi công" (hữu dụng mà dụng trong vô dụng, trong vô công mà thi công) ; bỏ hậu thiên ngoan không, mà tu tiên thiên chân không; mới là Quảng Đại Trí Tuệ, Chân Như Tính Hải, Dĩnh Ngộ Viên Giác'. Bản lập đạo sinh, sinh sinh bất tức. Tuy nói hữu tính, kỳ thực vô tính tuy nói ngộ không, kỳ thực bất không. Thế nên nói: "Hồng mông sơ ích nguyên vô tính, đả phá ngoan không tu ngộ không" (từ thủa hồng mông vốn vô tính, đả phá ngoan không tu ngộ không).

    Thơ rằng:

    Linh căn dục dựng bổn tiên thiên, tàng tại hậu thiên thị thủy duyên,

    Ngộ đắc chân tâm minh bổn tính, bất không bất sắc tự phương viên.
     
  6. Nguyễn Anh Tú Nguyen Anh

    Bài viết:
    0
    HỒI THỨ HAI

    Ngộ triệt bồ đề chân diệu lí

    Đoạn ma quy bổn hợp nguyên thần

    Ngộ Nhất Tử chú

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ngộ Nhất Tử rằng: Kim đan đại đạo vốn là chân diệu chân truyền, hiểu rõ thì biết được chỉ ở chỗ thủ khảm điền ly, đại ý khiến cho biết được "quy bổn hợp nguyên thần". Đưa ra hai từ "ngộ triệt", đó là nói lý lẽ chân diệu, cần phải đại ngộ đại triệt, được chân sư truyền thụ, mới có thể hạ thủ, chứ không phải nói tâm ấy tức là đạo, ngộ liễu tức đắc. Nếu như tự tâm có thể tham ngộ, tức có thể đắc đạo. Thử hỏi ngộ cái gì? Đắc cái gì? Nếu đó là "tĩnh" môn trong tham tọa công phu, thì cũng như mò trăng đáy nước, cuối cùng cũng thành không vậy. Thế nên trước tiến lấy "đoạn ma" để mà "quy bổn hợp nguyên thần", thẳng hướng vào trong động mà lấy được Kim Cô bổng, tức thời được thông suốt mà "quy bổn hợp nguyên thần" là ý đó.

    Thơ của tiên sư nói: "Tam gia phối hợp bản như nhiên", "chỉ dẫn vô sinh liễu tính huyền." Người ta biết tam gia là tam tính, mà không biết tam gia là nhất tính. Người biết thơ trước "sơ ích nguyên vô tính" diệu lý, tức sẽ biết được diệu lý câu "tam gia bản như nhiên. Tuy nói tam tính, chung quy nhất tính; tuy nói nhất tính, chung quy vô tính vậy. Ngộ không nghe thầy giảng, hiểu được diệu âm, là lúc truyền đạo được vậy. Tại lạn đào sơn cật liễu thất thứ bão đào (tại Lạn Đào sơn ăn no đào bảy lần), 'lạn' (đổ nát) ấy, tượng của bác lạn, trong đó có nguyên nhân." Tham Đồng khế "nói:" Bác lạn chi thể. Tiêu diệt kỳ hình" "Đạo cùng tắc phản, Qui vu《Khôn》 nguyên" (Chương 5, sóc đán-ND). Bởi《Bác》ấy, khởi nguyên《Phục》thời vậy. Thất thứ (bảy lần) ấy, tức là nghĩa "Thất nhật lai phục", tại lúc sau khi đạo tâm đã hiện phát.

    Tổ sư nói "Thuật", "Lưu", "Động", "Tĩnh", bốn loại đều là bàng môn, một hỏi một đáp, biện luận rõ ràng. Đặc biệt gây kinh nghi: Chữ "lưu" là đạo môn trong Thích, Nho, Đạo; chữ "tĩnh" trong thanh tĩnh vô vi, tham thiền nhập định, đều là bàng môn, nói vậy khó tránh khỏi người ta kinh hãi nghi ngờ. Vìsao vậy? Nho giả chính tâm, Thích giả minh tâm, đạo giả quan tâm. Thanh tĩnh vô vi, là tâm pháp Lão tử; Tham thiền nhập định, là phật gia chi tâm. Đều theo tâm mà tu luyện, cũng phù hợp với lý giải 《Tây Du》về "tâm viên ý mã", "thu kỳ phóng tâm". Mà nay nói là "trồng cột trong vách", "Hòn đất trong lò", muốn bỏ đó mà biệt cầu chân tâm, khiến người ta mờ mịt, không biết làm sao? Ôi! Như thế có thể thấy từ trước người ta đọc 《Tây Du》, hiểu sai "tâm viên ý mã", chưa rõ "thu kỳ phóng tâm". Tiên sư sớm minh bạch mà hiển lộ ở chỗ đó, không nói thừa lời nào. Bởi lẽ, tam giáo thánh nhân, dụng tâm tu đạo, không phải là tu tâm tức đạo vậy. Lấy đạo hợp tâm viên thì có thể, lấy tâm viên tức đạo thì không thể vậy. Thế tục đều lấy "tâm viên ý mã" mà giải thích, lấy "thu kỳ phóng tâm" mà hiểu, thế nên tiên sư đặc biệt nói "bàng môn", mà không phải là kim đan đại đạo chí chân vô thượng vậy. Là Đạo ấy, tuy là Ngộ Không, là vật trời sinh chí linh, vậy mà cũng không biết đạo ấy? Mà phải cầu Bồ Đề truyền thụ? Tử Dương chân nhân nói: "Túng nhiêu thông tuệ quá Nhan, Mẫn, bất ngộ chân sư mạc cường sai." Nếu chẳng phải vật chí linh như Ngộ Không, muốn từ trong tâm mà đoán biết được diệu lý, liệu có thể được không?

    Lại có một loại phàm phu tục tử, lấy thái âm bổ dương mà làm loạn thánh kinh, nên tiên sư lấy chữ "động" mà bài trừ những sai lầm đó, khiến cho học giả cầu đạo nhất tâm chú mục, để thấy được đạo đó "vạn kiếp nhất truyền", không phải người nhân nghĩa thì không thể thụ nhận. Tổ sư thiết đặt bàn tử (câu đố vòng vèo), để mà truyền thụ bí mật. Ngộ Không tức có thể đả phá bàn tử, quỳ thẳng chân thành nhận lấy, đó là chân phật chủng vậy. Bồ đề ngâm rằng: "Nan nan nan! Đạo tối huyền, mạc bả kim đan tác đẳng nhàn. Bất ngộ chí nhân truyện diệu quyết, không khiếu khẩu khốn thiệt đầu kiền" (Khó thay, đạo rất huyền diệu, chớ nói là nhàn hạ mà biết được, chẳng gặp chí nhân thì chẳng truyền, truyền cho kẻ xấu chỉ làm khô đầu lưỡi), thế mới biết, kim đan đại đạo, nhờ thầy truyền mới được, không thể cầu ở trong tâm mà được vậy. Bởi thế Ngộ Không đả phá quần mê, biết được "tam đả hạ" (gõ đầu 3 cái), là "canh ba tồn tâm"; "quan trung môn" (đóng cửa giữa), mà "hậu môn tiến bộ" (tiến vào cửa sau), là chỗ bí mật truyền đạo. Định tức tồn thần, ước chừng trước sau giờ Tý, lén mở cửa sau, cho đến phòng ngủ, quỳ cầu trường sinh đạo.

    Bồ Đề nói:

    "Hiển mật viên thông vi diệu quyết,

    Tá tu tính mệnh vô tha thuyết.

    Đô lai tổng thị tinh, khí, thần,

    Cẩn cố lao tàng hưu lậu tiết

    Hưu lậu tiết, thể trung tàng,

    Nhữ thụ ngô truyện đạo tự xương.

    Khẩu quyết ký lai đa hữu ích, bình trừ tà dục đắc thanh lương.

    Đắc thanh lương, quang kiểu khiết,

    Hảo hướng đan thai thưởng minh nguyệt.

    Nguyệt tàng ngọc thỏ nhật tàng ô,

    Tự hữu quy xà tương bàn kết.

    Tương bàn kết, tính mệnh kiên,

    Khước năng hỏa lý chủng Kim Liên.

    Toàn thốc ngũ hành điên đảo dụng,

    Công hoàn tùy tác phật hòa tiên."

    Đó là kim đan tác dụng từ đầu đến cuối, từng chữ bao quát. Nếu hiểu được khẩu quyết chỉ điểm, tức có thể nghe đạo. Trong đó quan trọng nhất "tinh khí thần" ba chữ. Sợ người hiểu sai, ta đặc biệt chỉ ra: Tinh ấy chẳng phải giao cảm tinh, khí ấy không phải khí hô hấp, thần ấy không phải tư lự thần. May mắn không theo tự trong thân tâm mà tìm kiếm, mà lạc vào "tâm viên ý mã", "thu kỷ phóng tâm" mà giải sai lầm. Tổ sư thuyết phá căn nguyên, Ngộ Không đã hiểu khẩu quyết, âm thầm duy trì kim đan tác dụng, trước Tý sau Ngọ, công phu ôn dưỡng. Sau ba năm, pháp tính có phần thông suốt, căn nguyên dần củng cố.

    Tổ sư nói: "Thử nãi phi thường chi đạo, đoạt thiên địa chi tạo hóa, xâm nhật nguyệt chi huyền ky, đan thành chi hậu, quỷ thần nan dung. Ngũ bách niên hậu, thiên hàng lôi tai, tu yếu kiến tính minh tâm." (Đó là đạo phi thường, đoạt thiên địa tạo hóa, xâm phạm huyền cơ nhật nguyệt, sau khi đan thành, quỷ thần không dung. 500 năm sau, trời giáng sấm sét, cần phải minh tâm kiến tánh). Thế mới thấy sau khi đan thành, việc tiếp theo là phải minh tâm kiến tánh. Nếu chẳng kiến tánh minh tâm, tức thì lý dục hỗn tạp, không thể thuần nhất, sẽ lạc vào đường tà, thiên thần không dung tha, tai nạn thiên lôi không giải trừ, đó là nạn đến từ bên ngoài, vẫn còn dễ tránh; nếu chẳng kiến tánh minh tâm, tức thì âm hỏa bản thân chưa trừ, chậm chạp tích lũy, lâu dần gây hại, hỏa tai tự sinh; nếu chẳng thể minh tâm kiến tánh, tức âm khí bản tâm chưa tịnh, mà dần tích lũy, lâu ngày thành họa, phong (gió) tai tự sinh. Đó là ba tai họa, cùng phát sinh sau khi thành đạo, cần phải vượt qua để trở về chỗ vô vi chí chân vô cực vậy. Tổ sư truyền khẩu quyết, Hành Giả học thành biến hóa, mới đầu thì 'ba vân' (bò trên mây), sau thì 'cân đẩu vân', chung quy có thể kiến tánh minh tâm, tự có thể siêu thoát phàm trần, cùng thiên địa đồng biến hóa, bởi đó mà miễn cưỡng có thể thần hóa vậy.

    Người đọc《 tây du 》thấy 72 phép biến hóa, mười vạn tám ngàn cân đẩu (lộn nhào), lại giải đó là ở nơi tâm. Nếu là tâm, tức là huyền không vọng tưởng, đúng là phóng tâm, có gì chân thực? Không biết được Kim Đan ấy rất linh diệu, chân tài thực dụng đâu chỉ có biến hóa vạn vạn, mà lấy khí vận là số 72 để khái quát. Cân đẩu (lộn nhào), đâu chỉ có vạn vạn, mà lấy mười vạn tám ngàn là tàng số để khái quát. Đạo đó chỉ tự mình biết, không phải để đem ra đại chúng khoe khoang, bởi thế mà cổ phật, thượng tiên liễu đạo từ trước đến nay, siêu nhiên viễn cử, chẳng hề hiển lộ, đó chính là kiến tính minh tâm vậy. Hành giả biến thành cây tùng đùa chơi, có phần làm kinh động đại chúng, nên tổ sư nói rằng: "Giá cá công phu, cảm tại nhân tiền mại lộng? Giả như hữu nhân cầu nhĩ, nhĩ nhược úy họa, chích đắc truyện tha; nhược bất truyện tha, tất nhiên gia hại." (công phu đó, để ngươi đùa chơi trước mọi người sao? Nếu như có người cầu ngươi, nếu ngươi sợ gặp họa, thì phải truyền cho người ta, nếu như chẳng truyền, tất bị người hãm hại). Xem đó, thân chưa ly phàm thế, chớ có đem công phu ra mà đùa chơi vậy. Thế nên, tổ sư lại truyền cho một pháp: "Nhĩ tòng na lý lai, tiện tòng na lý khứ" (ngươi từ đâu đến, thì giờ trở về đó) đó là dạy Ngộ Không quy bản hoàn nguyên để tránh họa vậy.

    Tuy nhiên, "thất thập nhị bàn biến hóa" (72 phép biến hóa) ấy, nhất niên chi hậu vậy (một năm; 1 hậu- tính bằng năm ngày, 5x72=360), "ba vân" ấy (bò trên mây), pháp chưa thiện sảo vậy. "Chích phạ hữu tâm nhân" (chỉ sợ người có tâm) ấy, cẩn thận lưu tâm vậy. "Thập vạn bát thiên" ấy, số lưỡng tàng vậy. "Biến tùng" ấy, kim mộc gồm đủ mà diên hống tề tựu vậy. "Thiệt động thị phi sinh" (lưỡi động thì sinh thị phi) ấy, cẩn thận lời nói mà bí mật tu luyện vậy. "Bất khả tại nhân tiền mại lộng" (không thể ở trước mọi người mà đùa chơi) ấy, đề phòng bất trắc vậy. "Na lý lai, na lý khứ" ấy, theo hướng đông mà tới, quay trở về cũng hướng đông đó, để mà bảo toàn tính mệnh. "Chích thuyết tự gia hội" ấy, tất phải có thầy truyền vậy. "Na tiêu nhất cá thì thần, tảo khán kiến Hoa Quả sơn Thủy Liêm động, Mỹ Hầu vương tự tri khoái nhạc" (trong một canh giờ, sớm đã thấy Hoa Quả Sơn, Thủy Liêm Động, Mỹ Hầu vương tự thấy vui sướng), đó là kim đan đắc thủ vậy. Đó khẩu quyết mà kẻ mê muội, phàm nhân không thể đả phá, không thể biết được, đều là kề bên tai mà nói nhỏ, đều là diệu pháp trong khẩu quyết vậy. Kim đan khẩu quyết, tổ sư không thể dùng bút viết ra, lại lo hậu nhân cuối cùng không thể hiểu được, bởi thế mà chỉ rõ ở đoạn sau, với việc "đoạn ma". Sau khi trở về động, công phu đầu tiên đó là đoạn trừ ma đó.

    Hầu vương là thủy trung kim, rời đông mà đến tây. Một ngày rời đi, tức thì 'thủy' ở chính bắc hỗn nhập vào trong Thủy Liêm Động, mà khỉ con trong động cũng hỗn nhập vào Thủy Tạng chính bắc, thế nên gọi là "Hỗn Thế Ma Vương", chính bắc tức《 khảm 》, thế nên tay có đao, toàn thân màu đen, đầu đội mũ đen, thân mặc giáp đen, áo bào đen, chân đeo giày đen. Trong《 khảm 》có kim, bởi vì hỗn tạp, nên thành ma vậy. Ngộ Không nói: "Ngã nãi chính nam phương", chính nam, tức 《Ly》cung vậy. Không vũ khí, đầu phát quang, mặc áo hồng, dây lưng vàng, đạp ô ngoa (giày đen), tất cả là hình dung 《Ly》cung vậy. Kim mà ở trong hỏa, thì làm gì có khí giới? Hình tròn mà giống như mặt trời, chẳng phải đầu phát quang sao? Mặt trời tỏa ánh sáng, chẳng phải "Xuyên nhất lĩnh hồng y" (toàn thân mặc áo hồng) sao? Nhật (mặt trời) hành nơi Hoàng Đạo, không phải "lặc hoàng thao" (thắt dây lưng vàng) sao? Mặt trời bên trong có kim ô, không phải "đạp Ô Ngoa" sao?

    Kỳ diệu nhất là ở câu: "Lưỡng thủ câu trứ thiên biên nguyệt" (hai tay ôm trọn mặt trăng), nguyệt (mặt trăng) là chân âm, giao với nhật (mặt trời) dương hồn sinh, thượng huyền (trăng sớm) tay trái ôm lấy, hạ huyền (trăng muộn) là tay phải ôm lấy, nguyệt viên (trăng tròn) tức dương hồn đầy đủ, mà hai tay ôm trọn vậy. Người mà có thể 'lưỡng thủ câu trứ thiên biên nguyệt' (hai tay ôm trọn mặt trăng), mà đại đạo hoàn thành, mà tạng (bẩn) ma tự đoạn, mà có thể thủ ma, mà 'kim' do ta dùng vậy.

    "Đỉnh môn nhất hạ, khảm vi lưỡng đoạn" (chém một đao nơi đỉnh đầu, chia thanh hai đoạn), kỳ diệu thay! Chính bắc, là thủy trong 《 khảm 》, một đao chém làm đôi, biến lẻ thành chẵn, 《khảm 》thủy khô cạn, mà trở thành 《 khôn》, chẳng phải đốt cháy khô kiền, mà cuối cùng trở về《Kiền》nhất thể hay sao? Hài nhi bị bắt đi bỗng dưng trở về quê cũ. Mà Thủy Tạng động không giữ được đám khỉ con, đã cước đạp thực địa, nhận được quê nhà, không chịu hãm tại 《khảm 》mà điền đầy vào 《ly》vậy. Ngộ Không kết lại rằng phương nam vô đạo, mà chỉ ra phương tây đường lớn.

    Tiên sư ở trong sách viết ra, nếu chẳng thông suốt âm dương, thâm minh tạo hóa, làm sao có thể hiển lộ rõ như vậy? Đó chính là "đoạn ma quy bổn hợp nguyên thần vậy". Không phải là "Dữ thiên đồng thọ đích chân công quả, bất tử trường sinh đích đại pháp môn" thì là gì? Đã đắc thuần dương, mà tôn tôn tử tử bất tuyệt, biến hóa vô cùng, làm sao để cõi u minh câu thúc?
     
    Chỉnh sửa cuối: 8 Tháng một 2021
  7. Nguyễn Anh Tú Nguyen Anh

    Bài viết:
    0
    HỒI THỨ HAI

    Ngộ Nguyên Tử chú giải:

    Ngộ Nguyên Tử rằng: Hồi trên đã đề xuất căn nguyên đại đạo, tâm tính tu trì, nhưng chưa nói làm sao tu, làm sao trì. Bởi thế hồi này chỉ ra rõ ràng, khiến học giả sớm cầu chân quyết của thầy, đại ngộ đại triệt, dũng mãnh tinh tấn vậy.


    Bấm để xem
    Đóng lại
    Thơ "Diệu diễn tam thừa" mô tả rất rõ kì diệu đạo lý chân truyền, nhất thiết bàng môn đều có thể thông suốt vậy. "Diệu diễn tam thừa giáo, tinh vi vạn pháp toàn", trong pháp môn tiên phật, có thượng trung hạ thừa các pháp, nếu không có minh sư quyết phá, dù trăm năm cũng khó nắm bắt, cũng mãi mê muội không thể thoát ra được vậy. Duy có 'diệu diễn' tinh vi, vạn pháp đều thông, không nhập vào trung hạ nhị thừa. "Thuyết nhất hội đạo, giảng nhấthội thiền, tam gia phối hợp bản như nhiên" ấy, các từ "nhất", "tam", "như" đều là cốt tủy của đạo pháp. Tác dụng của khiếu diệu, nếu chẳng thông suốt âm dương, tinh minh tạo hóa thì không thể biết. Đạo lý tiêu tức, là 'nhất hội đạo' vậy; chân không diệu hữu chi cơ, nhất hội thiềnvậy;Phối tam gia thành nhất gia, tứ tượng tương hòa, ngũ hành toàn thốc, xuất từ tự nhiên, tuyệt không cưỡng ép, bản như nhiên vậy. Nhưng 'nhất hội tam gia' bí mật, không được sư truyền chỉ biết sai lầm, chỉ có thầy giảng mới có thể đắc chân. "Khai minh nhất tự quy thành lý, quan dẫn vô sinh liễu tính nguyên" ấy, là nói 'mệnh lý' đã biết, không thể không biết 'tính lý', nghĩa của từ 'nhất' này, với từ 'nhất' ở câu trên không giống nhau, không thể đánh đồng. Từ 'nhất' ở trên, nói hữu vi hỏa hậu. Từ 'nhất' này, nói vô vi hạ thủ. Bởi 'quy thành' tức vạn pháp đều thông, chân thực không sai; vô sinh tức hình thần câu diệu, cùng đạo hợp chân. Trước tu mệnh, sau tu tính, tính mệnh cùng liễu, mới là vô thượng chí chân diệu đạo. Trang Tử nói: "Nhiếp tinh thần nhi trường sinh, vong tinh thần nhi vô sinh" cũng là ý đó. Nếu có người tri âm, nói đến chỗ này, chẳng cười mờ mắt, mà khua chân múa tay hay sao?

    (Diệu diễn tam thừa

    Diệu diễn tam thừa giáo, tinh vi vạn pháp toàn.

    Thuyết nhất hội biến, giảng nhất hội thiền, tam gia phối hợp bản như nhiên

    khai minh nhất tự quy thành lý,

    quan dẫn vô sinh liễu tính nguyên)

    "Ngộ Không ở núi Lạn Đào ăn no quả đào bảy lần", đó là "Bác" mà "Phục", là thời cơ "Phản phục kỳ đạo, thất nhật lai phục", đó là kim đan hạ thủ khẩu quyết, đó không phải phương pháp của 360 bàng môn vậy. Nhưng có nói là "Tam bách lục thập bàng môn, giai hữu chính quả", đó là nói chính quả của bàng môn, không phải nói thiên tiên chính quả vậy. Chính Dương Ông nói: "Đạo pháp tam thiên lục bách môn, nhân nhân các chấp nhất miêu căn. Yếu tri ta tử huyền quan khiếu, bất tại tam thiên lục bách môn." (Đạo pháp 3600 môn, môn nào cũng có nguồn gốc của nó. Nếu biết một chút về huyền quan khiếu, thì không phải nằm trong 3600 môn đó nữa). Bởi tổ sư nói 'thuật', 'lưu', 'tĩnh', 'động' tứ đại môn, trước đã nói là bàng môn, thì không phải đại đạo, đã phá được bàng môn thì có thể nhập đạo.

    Đoạn nói "tổ sư thủ trì giới xích, đả ngộ không" (tổ sư cầm cây thước, đánh ngộ không), đến đây độc giả không khỏi hiểu lầm, là pháp mà tổ sư dùng để thử người hiền ngu. Tổ sư đánh ngộ không, ngộ không đả quần mê, nhất truyền nhất thụ, trường sinh bất tử đại pháp môn, thọ cùng thiên địa đích chân công quả, đã sớm nói ra từ lâu, mà người ta chẳng biết vậy. Tổ sư không đánh chỗ nào khác, mà đánh vào đỉnh đầu, đó là kêu gọi nhanh chóng mà quay đầu để sớm mà tu trì vậy.'Đánh ba cái', đó là ám chỉ 'tam nhật nguyệt xuất canh phương', tại quái là 《phục》tại thời gian là giờ Tý, là thời hậu là tiên thiên dược sinh vậy. "Đảo bối thủ tẩu nhân lý diện" (chắp tay phía sau đi vào bên trong), đó là vận chuyển đẩu bính dược từ bên ngoài tới vậy. "Tương trung môn quan thượng" (đóng của giữa lại), đó là cẩn thận phong bế tàng ẩn, đưa về thổ phủ, cẩn thận trông coi vậy. "Phiết hạ đại chúng nhi khứ" (bỏ mặc đại chúng mà đi) ấy, các duyên đều diệt, trăm loại tư lự đều dừng hết, trở về trốn 'vô hà hữu' vậy. Ngộ Không đả phá quần mê, âm thầm tại tâm, đã biết 'khiếu', lại hiểu được 'diệu'. Thử hỏi học giả, nếu không có thầy chỉ điểm, có thể biết được như thế chăng? Bởi thế Bồ Đề nói rằng: "Nan! Nan! Nan! Đạo tối huyền, mạc bả kim đan tác đẳng nhàn. Bất ngộ chí nhân truyện diệu quyết, không khiếu khẩu khốn thiệt đầu thiên", là nói điều đó vậy. Ngộ Không đả phá được mê lầm, lại được khẩu quyết tâm truyền, mà Ngộ Không lại cầu đạo trường sinh, Bồ Đề "Hiển mật viên thông" nhất thơ, là nói về cái gì? Làm sao không khiến người ta sinh nghi? Đó là đặc biệt nói rõ, trước vẫn còn mê lầm, cần phải đốn ngộ thiên cơ; sau là một câu thơ, là thái thủ công dụng, chỉ rõ thiên cơ chỉ có thể ám chỉ, không thể nói hết mà chỉ có thể tự mình hiểu rõ. Tổ sư nói: "Nhĩ ký thức phá bàn trung chi mê, đương truyện nhĩ trường sinh chi diệu đạo." (ngươi đã đả phá mê lầm, nay truyền cho ngươi đạo trường sinh), đã đả phá quần mê, mà không biết trường sinh diệu đạo, cùng với 'bất thức' một loại, làm sao có thể thành được thiên hạ hi hữu đại sự đây?

    Thơ rằng: "Hiển mật viên thông chân diệu quyết, tá tu tính mệnh vô tha thuyết.", hiển, mật, viên, thông bốn chữ nói đầy đủ chặt chẽ ngắn gọn toàn bộ kim đan tác dụng. Hiển ấy, là hiệu quả bên ngoài, dụng cương đạo vậy. Mật ấy, tồn trữ bên trong, dụng nhu đạo vậy. Viên ấy, không thiên không lệch, chấp trung vậy. Thông ấy, thông biến không câu nệ, tùy cơ ứng biến vậy. Đó là bốn pháp. Mượn đó mà tu đại đan, cương nhu gồm đủ, chấp trung quyền biến, thâm tạo tự đắc, có thể nhập thánh, có thể thành tiên, có thể thành phật, đó là pháp quyết chí chân chí diệu. "Đô lai tổng thị tinh khí thần, cẩn cố lao tàng hưu lậu tiết" ấy, tinh khí thần là tu đan bảo vật. Là dược tam phẩm, một chút lậu tiết, linh đan không kết, bởi thế cần cẩn thận giữ gìn tàng ẩn, hội tam quy nhất, không được một chút lười biếng vậy. "Hưu lậu tiết, thể trung tàng, nhữ thụ ngô truyện đạo tự xương. Khẩu quyết ký lai đa hữu ích. Bình trừ tà dục đắc thanh lương" ấy, là nói muốn bảo giữ tinh khí thần, trước tiên cần bình trừ tà dục, luyện kỷ trì tâm, tà dục đã trừ mà táo hỏa bất sinh, tức tam phẩm đại dược ngưng kết. Thân tâm đại định mà được thanh lương vậy. "Đắc thanh lương, quang kiểu khiết, hảo hướng đan thai thưởng minh nguyệt" ấy, tâm không chút nhiễm, không không động động, phòng trống sáng tỏ, thần minh tự đến, như một vầng trăng giữa hư không, ánh sáng chiếu khắp mọi nơi vậy. "Nguyệt tàng ngọc thỏ nhật tàng ô, tự hữu quy xà tương bàn kết" ấy, 'nguyệt tàng ngọc thỏ' đó là tượng trong âm có dương; 'nhật tàng ô' là tượng trong âm có dương. Trong âm có dương, trong dương có âm, âm dương hợp nhất, 'quy' 'xà' tự nhiên quấn quýt, mà thủy hỏa giao tế vậy. "Tương bàn kết, tính mệnh kiên, khước năng hỏa lý chủng kim liên" ấy, âm dương ngưng kết, tính mệnh trong tay, như trong hỏa trồng sen vàng vậy. "Toàn thốc ngũ hành điên đảo dụng, công hoàn tùy tác phật hòa tiên" ấy, đạo kim đan, toàn thốc ngũ hành, nghịch hành tạo hóa, ở trong sát cơ cầu sinh cơ, tại tử quan vận hoạt pháp, Mộc vốn nhẹ di động lên trên, Kim vốn nặng trầm xuống dưới, Thủy vốn hạ lưu, Hỏa vốn lên cao và bốc cháy, Thổ vốn nặng đục, đó là đạo thuận hành, ngũ hành mỗi thứ đều có thuộc tính của nó, pháp giới như hầm lửa, mà sinh nhân sinh vật vậy. Nay Mộc vốn thăng lên mà khiến cho hạ xuống, Kim vốn hạ xuống thì khiến cho thăng lên, Thủy vốn hạ lưu nay phản thượng, Hỏa vốn bốc cháy lên trên mà cũng khiến cho hạ xuống, thổ vốn nặng đục thì khiến cho thông hòa, đó là pháp điên đảo. Ngũ hành hợp nhất thành tính, đại địa thất bảo, tác phật thành tiên vậy. Nếu ai đó có thể đả phá mê muội, hiểu được ý thơ, hiểu được căn nguyên, tập trung nơi thần thể, kim mộc gồm đủ. Thủy hỏa giao tế, trường sinh bất lão, có thể mong thành thần tiên. Thế nhưng hội đắc tu mệnh, hội bất đắc tu tính, có thủy mà không có chung, cũng không thể nhập vào thánh vực. "Thử nãi phi thường chi đạo, đoạt thiên địa chi tạo hóa, xâm nhật nguyệt chi huyền ky, đan thành dĩ hậu. Quỷ thần nan dung, tu yếu minh tâm kiến tính", thế mới biết bão nhất vô vi, là việc thực hành sau khi đan thành. Đương khi đan chưa thành trước tiên thực hành công phu hữu vi, trộm đoạt tạo hóa, dùng để kiên cố thân mệnh. Đến khi đan đã thành, gấp hành đạo vô vi, minh tâm kiến tánh, để mà thoát hóa pháp thân, ví như sau khi đan thành, không thể minh tâm kiến tánh, tức thì âm khí trong thân bất hóa, làm cho pháp thân gặp nạn, chẳng những thiên lôi giáng xuống, đó là họa hữu ý từ bên ngoài. Trong thân âm hỏa tà phong, tích lũy lâu ngày mà thành độc hại, cũng đủ để gặp họa sát thân, đó là công phu minh tâm kiến tánh có thể tránh họa vậy.

    Tổ sư nói: "Hữu nhất bàn thiên cương sổ, cai tam thập lục bàn biến hóa; hữu nhất bàn địa sát sổ, cai thất thập nhị bàn biến hóa, nhĩ học na nhất bàn?" (Số Thiên cương có ba mươi sáu bậc biến hóa, số Địa sát có bảy mươi hai bậc biến hóa, người học pháp nào). Ngộ Không nói: "Nguyện đa lý lao mạc, học nhất cá địa sát biến hóa bãi." (nguyện đường xa mà mò mẫm, học địa sát biến hóa). Ôi! Sau khi đan thành, thiên biến vạn hóa, đâu chỉ giới hạn ở 36 biến hóa, hay 72 biến hóa? Đạo kim đan ấy, có hai pháp hữu vi và vô vi, một loại là số thiên cương biến hóa, là việc học của bậc thượng đức vô vi; một loại là số địa sát biến hóa, là bậc hạ đức thi hành. Thượng đức ấy, tức tiên thiên chưa bị tổn thương, hậu thiên chưa phát, hành đạo vô vi, ôn dưỡng tiên thiên, vận nội lô tiên thiên chân hỏa, bác trừ toàn bộ hậu thiên âm chất trong thân, âm tận dương thuần, vĩnh cửu bất phôi. Đó là bão nhất thủ trung, trong hư vô tự nhiên biến hóa, cho nên mới có thiên cương số biến hóa, biến hóa ấy ít vậy. Thế nên nói 'cai tam thập lục bàn biến hóa' ấy, là "khôn" âm, số lục lục (6x6=36), là biến hóa của số âm vậy. Hạ đức ấy, tiên thiên đã tổn thương, hậu thiên đã phát, tất phải tu hành hữu vi công phu. Trộm âm dương, đoạt tạo hóa, tiến dương hỏa, vận âm phù, từ trong hậu thiên phản tiên thiên, trong tiên thiên tiêu trừ hậu thiên, dần dần tăng trưởng, từ hữu vi nhập vô vi. Đó là cước đạp thực địa, dụng công không ngừng biến hóa, thế nên mới có địa sát số biến hóa, biến hóa ấy nhiều vậy. Nói là 'cai thất thập nhị biến hóa giả' án theo thất thập nhị hậu, âm dương tiến thối chi tiết, âm dương cùng biến hóa, tức địa sát biến hóa, kim đan toàn thủy toàn chung chi sự, đã bao gồm cả thiên cương biến hóa; thiên cương biến hóa, chỉ có bậc thượng đức mới có thể hành, còn bậc trung hạ đức khó hành, chẳng phải kim đan toàn công, nên tổ sư chẳng truyền thiên cương biến hóa, mà truyền địa sát biến hóa vậy. Đã biết biến hóa, tuần tự mà tiến, làm sao không được phi thăng, sao có thể gặp ba tai nạn được?

    Như thế là đã biết được biến hóa, mà không biết pháp âm dương điên đảo, công quả cuối cùng không được hoàn mãn. Nên tổ sư nói: "Giá cá toán bất đắc đằng vân. Chích ty đích ba vân nhi dĩ." (như thế không coi là cưỡi mấy. Chỉ có thể coi là bò trên mây thôi), bò trên mây, thì khó có thể ra tay. Bởi vậy, tổ sư nói rồi lại truyền chân quyết: "Giá đóa vân, niệp trứ quyết, niệm động chân ngôn, bá khẩn liễu quyền, tương thân nhất đẩu, khiêu tương khởi lai, nhất cân đấu tựu hữu thập vạn bát thiên lý lộ lý" (Cưỡi đám mây này khi bấm quyết, niệm chân ngôn, rồi nắm hai tay lại, cất mình nhảy lên ngay. Mỗi cân đẩu đi được mười vạn tám nghìn dặm). Đạo kim đan, nhất đắc vĩnh đắc, chí giản chí dịch, quy tắc không rườm ra phức tạp. Như đắc chân quyết, nhất niệm thuần chân, thân thể lực hành, trong khoảng điên đảo, lập tức bước vào thánh vị, tức vượt qua mười vạn tám ngàn dặm, tuyệt không tốn sức vậy. Còn như bàng môn tiểu thừa, cưỡng ép mà thi hành, khác nào nhìn quả mơ mà giải khát vậy.

    Như kim đan đại đạo, là đạo học cùng lý tận tính chí mệnh, tận tính chí mệnh, toàn tại cùng lý mà phân định thị phi, một lý không tận cùng, tức một việc hành không đến nơi; cùng được một phần lý, tức hành được một phần sự; cùng được thập phần lý, tức hành thập phần sự. Xem việc Ngộ Không thì thấy, mới đầu đả phá quần mê, âm thầm hiểu ngộ bên trong, mà đắc được đạo trường sinh. Sau này lại học được đạo biến hóa, rồi lại học thành được Cân Đẩu vân, từ nông đến sâu, từ thấp lên cao, chẳng qua là cùng cứu thực lý, từ đầu đến cuối, vô cùng bất tận. Học đạo học đến lúc hội đắc Cân Đẩu vân, mới là ngộ triệt bồ đề chân diệu lý, mà một sớm đột nhiên quán thông, tức thì mọi vật từ thô đến tinh không gì không hiểu rõ vậy.

    Cổ kim độc giả đọc "tây du" bình "tây du" đến chỗ này, cho rằng Ngộ Không đã tu thành đại đạo, mà liễu tính liễu mệnh, sai lầm lớn vậy, đó là tiên ông đặc biệt chỉ ra người tu hành cần phải bái minh sư, nghiên cứu lý tính mệnh, cầu chân thực tác dụng, không để một chút nghi ngờ vậy.

    Hồi trước Ngộ Không phóng bái chân sư, học đạo vậy; "Diệu diễn tam thừa" nhất thơ, diễn đạo vậy; "hiển mật viên thông" nhất thơ, truyền pháp vậy; còn nói phá căn nguyên, hội đích căn nguyên, truyền biến hóa, truyền cân đẩu vân, chẳng phải đều cần chân truyền thực thụ, làm sáng rõ 'lý' mà phát ra vậy. Lý đã minh, tức biết được chân thực mà hành được kết quả, chân bước thực địa, nhanh chóng hạ thủ, như sợ chậm mất, dưới đây mới nói công phu tu trì. Bồ Đề nói: "Khẩu khai thần khí tán, thiệt động thị phi sinh". Nếu chỉ lấy "Ngộ" là thành đại sự, mà trước mặt mọi người nói đúng nói sai, phô trương khoe khoang, hồ đồ cả ngày, thời gian trôi đi, tai họa đến chẳng kịp trở tay, tất sẽ hại đến tính mệnh, mà trời liền cướp đi hồn phách. Sỡ dĩ Bồ Đề lại nói: "Nhĩ tòng na lý lai, hoàn đáo na lý khứ. Nhĩ khoái hồi khứ, toàn nhĩ tính mệnh." Đọc đến đây không khỏi toàn thân đẫm mồ hôi, chẳng những Ngộ Không đốn nhiên tỉnh ngộ, mà đạo sĩ trong thiên hạ, cũng được tỉnh ngộ vậy.

    Ngộ Không sau khi đốn ngộ, "Kính hồi đông hải, na tiêu nhất cá thì thần, tảo khán kiến Hoa Quả sơn". Hoa Quả sơn là nơi Ngộ Không sinh thân, từ nơi sinh thân mà đến, lại theo nơi sinh thân mà trờ về. Hiểu được đến chỗ này, tức là phản bản hoàn nguyên, trong một khoảng thời thần đan thành. Nếu chẳng hiểu được, tức chưa triệt ngộ. Mỹ Hầu vương tự thấy khoái lạc mà nói: "Khứ thì phàm cốt phàm thai trọng, đắc đạo thân khinh thể diệc khinh. Cử thế vô nhân khẳng lập chí, lập chí tu huyền huyền tự minh." (Trước đi thân thể nặng nề. Tu hành đắc đạo nay về nhẹ không. Ít ai lập chí bền lòng, Bền lòng tu đạo, đạo bừng sáng soi). Đạo của thiên địa tạo hóa, thuận tức sinh nhân sinh vật, nên nói: "Khứ thì phàm cốt phàm thai trọng", nghịch thì thành tiên phật, nên nói: "Đắc đạo thân khinh thể diệc khinh". Độc giả đọc "tu huyền huyền tự minh", mới thấy ta nói cùng lý không hư dối vậy.

    Đám khỉ nói: "Nhĩ chẩm yêu nhất khứ hứa cửu, cận lai bị nhất cá yêu tinh cường yếu chiêm ngã môn động phủ, nhược tái bất hồi lai, ngã môn liên sơn động tẫn chúc tha nhân hĩ." (người đi sao lại lâu như vậy, gần đây có một con yêu tinh chiếm lấy động phủ của ta, nếu chẳng trở lại, thì sơn động của ta đều sẽ thành của người ta vậy) ! Hu! Tiên ông nói đến đây là chi tiết đến tận cùng rồi, người đời hết thảy đều bỏ đi quyền làm chủ nhân, để yêu ma chiếm mất động phủ, mà thuộc về người ta, có phải đáng lo không? Yêu quái tự xưng là Hỗn Thế ma vương, sống ở bắc Khảm nguyên sơn Thủy tạng (tạng-bẩn). Đó là nói rõ, "khảm" là tạng thận vậy, chắc chắn không phải nói đắc chân truyền, không phải là phản bản hoàn nguyên, nếu còn nghi ngờ tạng thận có chân dương, cho rằng thủ hộ âm tinh, hoặc là hoàn tinh bổ não, hoặc tâm thận tương giao. Như thế các loại, không thể kể hết, đều là tự lừa mình gạt người, đều là kẻ bệnh dẫn người mù, rối loạn nhân tâm, đoạn tuyệt thánh đạo, thế nên mới là Hỗn Thế ma vương. Thật không biết trong thận có âm tinh, đó là chí âm chí trọc chi thủy, không phải tiên thiên chí dương chí thanh chi thủy. Nếu tại trong thận mà dụng công phu, tức tâm bị thận là thay đổi, chân bị giả vây hãm, chẳng những không bổ thận, mà còn mê muội tâm, chân giả bất phân, thị phi không biện rõ; như Hỗn Thế ma vương, muốn chiếm lấy Thủy Liêm động, bắt đi rất nhiều khỉ con, cùng một ý nghĩa. Ngộ không tự xưng chính nam phương Hoa Quả sơn Thủy Liêm động động chủ, cũng là chân thủy tại nam, bất tại bắc, mà bất đắc dĩ giả hỗn chân vậy.

    Chính nam phương là 《 ly 》 minh chi địa, ở người là tâm quân trú ngụ, tâm vốn không không động động, hư linh bất muội, có sẵn nhất tinh chân thủy, nên mới là thủy liêm động động chủ. "Một khí giới" (không có khí giới), 《 ly 》 trống rỗng ở bên trong vậy; "Quang trứ đầu", 《 ly 》 đức minh vậy ; "Xuyên nhất lĩnh hồng y", 《 ly 》 tượng hỏa vậy; "Lặc nhất điều hoàng thao", 《 ly 》 nạp kỷ, trong có thổ vậy; "Túc hạ đạp nhất đối ô ngoa", bên dưới có thủy vậy; Chân tâm hư linh bất muội, gồm đủ mọi lý mà ứng vạn sự, tức tàng thủy, hỏa, thổ tam gia chi tượng. Bất tăng bất tục, hựu bất đạo sĩ ", trộn lẫn tam thành nhất, chỉ thấy ở 'không', tay không tấc sắt vậy. Miêu tả ma vương từ đầu đến chân toàn màu đen. Tượng" khảm "thận thuần âm vô dương." Thủ chấp nhất khẩu đao, phong nhận đa minh lượng "(tay cầm một thanh đao, mũi đao sáng loáng) ấy, là tượng của dục niệm đã động, khí thế không thể lấn át, có thể làm tổn thương người." Ngộ không yếu kiến cá thượng hạ "(ngộ không muốn thấy nó từ trên xuống dưới), lấy minh mà phá ám, lấy không mà chế hữu vậy." Lưỡng thủ câu trứ thiên biên nguyệt "ấy, trăng thượng huyền hình móc câu hướng lên trên (thượng câu), dương ở trong âm, tượng" khảm "; trăng hạ huyền hình móc câu hướng xuống dưới (hạ câu), âm ở trong dương, tượng" ly ". Lưỡng huyền hợp thành tinh, 《 kiền 》, 《 khôn 》thể mới thành, là việc của pháp thân, không phải ở trong Thủy Tạng kiếm sinh nhai có thể tìm ra manh mối.

    " Ngộ Không sử thân ngoại thân pháp, bạt nhất bả hào mao, biến tác tam nhị bách cá tiểu hầu, bả ma vương vi nhiễu, đả tác nhất cá toàn bàn "(ngộ không sử dụng thân ngoại thân pháp, nhổ một đám lông, biến thành 'ba hai' trăm con khỉ con, bám lấy ma vương gây nhiều, xúm lấy đánh một hồi), tam nhị tức ngũ, nhất biến thành ngũ, ngũ hợp thành nhất, ứng vật tùy tâm, biến hóa khó lường, thế nên có thể đoạt đao của ma vương, nhằm đỉnh đầu ma vương mà chém, mượn giả phục chân, lấy chân chế giả vậy." Nhất đao lưỡng đoạn, trực hạ dục niệm tiễu diệt tuyệt căn, phóng khởi hỏa lai, bả na thủy tạng động thiêu đắc khô kiền, tẫn quy liễu nhất thể "(một đao chém làm đôi, thẳng tới dục niệm tiễu trừ tuyệt căn, phóng hỏa thiêu Thủy Tang động đến khô kiền, quy về nhất thể), đó rõ ràng là chỉ còn có tiên thiên chân tâm thực dụng nhất thể, tuyệt không có hậu thiên tâm thận tương giao nhị thể, tức như" tham đồng "nói" Hà huống cận tồn thân, thiết tại vu tâm hung. Âm dương phối nhật nguyệt, thủy hỏa vi hiệu trưng. "(huống chi gần trong thân, ở tại nơi tâm hung. Âm dương phối nhật nguyệt, thủy hỏa có công hiệu- Tham Đồng tiên chú, Từ Cảnh Hưu, chương I, Dương Toại-ND), âm dương thủy hỏa đều tại trong khoảng 'tâm hung' (trong tâm), Thủy Tạng thuần âm vô dương có thể xem thấy vậy. Đã là thuần âm vô dương, đoạt được đại đao, đó là vật gì, sao lại chẳng khiến người sinh nghi? Thật không biết hậu thiên thận tạng cũng thuộc 《 khảm》trong đó nhất dương, tức dục niệm sắc bén, đoạt dục niệm sắc bén đó, biến thành chính niệm sắc bén, lấy chân diệt giả, tuyệt không phí lực." Biến hóa hào mao, đẩu thu thượng thân, cầm khứ tiểu hầu, nhận đích gia hương "(biến hóa lông mao, thu trở về thân, mang khỉ con đi, nhận lại quê nhà), tán rồi lại tụ, đi rồi trở về, nguyên thần bất muội, vật cũ nguyên bản nay lại trở về, đó là đề cương đã nói" đoạn ma quy bổn hợp nguyên thần vậy ". Học giả được thầy truyền khẩu quyết, muốn thành đại đạo, trước tiên nên trừ dục ma, nếu như nuông chiều chẳng trừ bỏ, mặc cho ma quỷ tự hỗn loạn, dù có được công quả mà thọ cùng trời đất, dù có được đại pháp môn trường sinh, mà con đường phía trước trở ngại, thì có lợi ích gì? Bởi thế mà hầu vương sau khi tận diệt Hỗn Thế ma vương, trở về động nói với đám khỉ:" Hựu hỉ ngã giá nhất môn giai hữu tính thị, ngã kim tính Tôn, pháp danh Ngộ Không "(lại vui mừng vì nhất môn ta nay đều có họ, ta nay họ tôn, pháp danh Ngộ Không), đám khỉ con nói:" đại vương là lão tôn, nhà ta đều là nhị tôn, tam tôn, tứ tôn, tiểu tôn, một nhà tôn, một nước tôn, cả động tôn vậy ", cả đám phụng thừa lão tôn" đoạn ma quy bổn ", bổn lập đạo sinh, sinh sinh bất tuyệt, nhất bản vạn thù (thù-khác biệt), vạn thù nhất bản, nhất đó quán thông, sau nhập địa đăng thiên, chân thực tại đó. Bởi thế mà kết rằng:" Quán thông nhất tính thân quy bản, chích đãi vinh thiên tiên triện danh".

    Thơ rằng:

    Tính mệnh thiên ky thâm hựu thâm, công trình dược hỏa tế truy tầm.

    Cầu sư quyết phá sinh thân diệu, thủ khảm điền ly đáo bảo lâm
     
  8. Nguyễn Anh Tú Nguyen Anh

    Bài viết:
    0
    HỒI THỨ BA

    Tứ hải thiên san giai củng phục

    Cửu u thập loại tẫn trừ danh

    Ngộ Nhất Tử chú:

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ngộ Nhất Tử nói: Đó là kim đan đại đạo quang minh chính đại, là nhất vật kim trong thủy, có thể đắc vật chân đó, khởi đầu phàm phu mà từ gần đến xa, hiển lộ đến thâm u, không gì trở ngại, mà tất cả đều được khai mở theo ý ta vậy.

    Hầu vương từ khi được nhất khẩu chi kim (thanh đao) của Hỗn Thế ma vương, lại lấy trọn kho binh khí của nước Ngạo Lai ở phía đông, thu phục bảy mươi hai động hiến cống kim khí, Hoa Quả sơn trở thành thiết dũng kim thành, căn bản vững chắc, bảo vệ được lãnh thổ. Thế nhưng vũ khí có được không theo kịp thần thông, nên hầu vương nói: "Nại ngã giá khẩu đao trứ thực lang kháng, bất toại ngã ý, nại hà?" (thanh đao này quả thực thô kệch, không vừa ý ta, phải làm sao), đó là đạo quý ở chỗ trung chính thuần túy, mới có thể tiến về phía trước mà không trở ngại, tất sẽ nhập Bắc Hải mà cầu tìm vậy, đó là việc không thể dừng được vậy, bèn xuống phía dưới 'Thiết Bản kiều' để cầu tìm 'Thiết Bản', đó là đạo lý nhất định phải như thế vậy.

    Tự xưng là "thiên sinh thánh nhân", bất sinh bất diệt, tự mệnh phi phàm, tất phải là kẻ đắc chí nhất vậy. "Long vương thủ xuất nhất bả đại can đao" (Long Vương đưa ra một thanh đại đao), đó là "kiền" "sơ cửu, vật dụng" (sơ cửu, không dùng) vậy; "Hựu sĩ xuất nhất can cửu cổ xoa" (Lại đem ra một cây cào chín răng), đó là 《kiền》cửu tứ, không vừa ý vậy. "Tam thiên lục bách cân" ấy, tứ cửu tam thập lục vậy (3600 cân, tức 4x9=36), thống lĩnh sơ cửu, cửu nhị, cửu tam vậy. "Hựu sĩ xuất họa can phương thiên kích" (Lại xuất ra một cây họa can phương thiên kích), đó là 《kiền》cửu tam, cửu tứ, thượng cửu vậy. Thống lĩnh 3 hào là bát cửu 7200 cân vậy (8x9=72), cũng không vừa ý. Đến khi nói ra: "Thiên hà định để thần trân thiết, thị Đại Vũ định giang hải thiển thâm đích nhất cá định tử" (Khối sắt thần định đáy thiên hà, vua Đại Vũ khi xưa trị thủy dùng để đo xem đáy biển nông sâu). Chao ôi! Đây có thể thấy Nghiêu truyền Thuấn, Thuấn truyền Vũ, thánh thánh tương truyền, dụng ý tinh vi, đó là《kiền》cửu ngũ, long đức mà được trung chính vậy. Chẳng phải thiên sinh thánh nhân, ung dung mà đại dũng, làm sao có thể gánh vác được. Thế nên Long Vương nói: "Giang bất động, sĩ bất động" (khiêng bất động, nâng bất động).

    "Kim quang vạn đạo" (vạn ánh hào quang), vạn lý vạn vật, đều theo chỗ này mà sinh ra vậy. "Nhị trượng trường" (dài 2 trượng) ấy, nhị ngũ tức thập (2x5=10) vậy, đông tam, nam nhị, bắc nhất, tây tứ, trung thập vậy (2 lần của 2x5 tức 20, tức dài 2 trượng; 3+2+1+4=10; 10+10=20). "Lưỡng đầu lưỡng cá kim cô, trung gian nhất đoạn ô thiết" (hai đầu bịt hai vòng sắt, ở giữa một đoạn sắt đen), là chấp lưỡng dụng trung vậy. "Hoán tố Như Ý Kim Cô bổng, trọng nhất vạn tam thiên ngũ bách cân." (gọi là gậy Kim Cô Như Ý, nặng 13500 cân), 'như ý' ấy, là tùy tâm ta vận dụng vậy. "Nhất vạn tam thiên ngũ bách" ấy, nhất cửu đắc cửu, lại ngũ cửu tứ thập ngũ, cửu ngũ vậy. Lại ẩn ngụ tam tứ nhất thập nhị, là đông tây nam bắc trung chi tượng, được nhất vạn nhị thiên, lại thêm thập ngũ là nghĩa tam ngũ. Khí cụ đó đãthống lĩnh toàn tượng "kiền" quái. "Nhất biên tâm tư khẩu niệm", "Chích hữu trượng nhị trường đoản, oản khẩu thô tế." (một mặt tâm tư niệm, chỉ còn dài 2 trượng, khẩu kính bằng miệng cái oản), đó là vật có thể tùy ý biến hóa, trong hữu định mà vô định. "Trượng nhị" giả, cũng là 'tam tứ nhất thập nhị' vậy, 'oản khẩu' ấy, là viên cực vậy. Lại có thể thấy trong vô định mà hữu định vậy. Bởi cương kiện trung chính, thuần túy tinh vậy, minh tuệ mà nhập thủ chi diệu vậy.

    Trăm năm nay độc giả độc《 tây du 》, bình《 tây du 》đều nói 'tâm'để chỉ hai chữ 'như ý'. Không biết "Trung Dung", trình 《Tự》nói rằng: "Chính đạo định lý" ấy, quả thực là 'tâm' ư, hay chăng phải là tâm? Sao không biết rằng: "Thủy ngôn nhất lý, chung tán vi vạn sự, mạt phục hợp vi nhất lý, phóng chi tắc di lục hợp, quyển chi tắc thối tàng vu mật" (mới đầu thì nói một lý, cuối cùng phân ra vạn sự, lại trở về một lý, phóng ra thì bao trùm trên dưới, thu về thì miên mật chặt chẽ), ý nghĩa là gì? Kim cô bổng ấy là lịch thánh tương truyền, chấp trung mà yếu chỉ rõ ràng vậy. Tiên gia gọi là kim trong thủy, chính là đại đạo chí chân chí diệu mà không thể dùng ngôn từ mà truyền vậy.

    "Ngộ Không chấp tại thủ trung" (Ngộ Không giữ cầm ở trong tay) ấy, chấp 'nhất' vậy; "Nhất khách bất phiền nhị chủ", "một hữu, ngã dã định bất xuất thử môn" (một khách không phiền hai chủ, bằng không, ta không rời khỏi cửa), nghĩa bất nhị pháp môn vậy; "Tẩu tam gia, bất như tọa nhất gia, thiên vạn cáo cầu nhất kiện" (chạy 3 nhà, chẳng bằng ngồi tại một nhà, ngàn vạn chỉ cầu một kiện mà thôi), tam gia quy về nhất gia, vạn kiện quy về nhất kiện, gọi là "đắc kỳ nhất, vạn sự tất". "Bất khứ, bất khứ! Tùy cao tựu đê" (không đi, không đi! Cao thấp tùy ý) ấy, bất chấp lý lẽ mà xua đuổi, vật đến thì ứng theo vậy. "Lôi cổ chàng chung, tu du tề đáo" (đánh trống khua chiêng, chốc lát đến đủ), thanh âm phát ra xa, cảm ứng thần tốc vậy. Phương đông là mộc tượng thanh long, cần phải 'tam nhân' dâng tặng thì mới thành toàn. Cây gậy đó có bốn nhà bàn bạc thương lượng, nghĩa hòa hợp tứ tượng vậy. Tiên sư dụng ý kỳ diệu như vậy đó. "Ngẫu ti lý", (giày làm từ tơ ngó sen), xuất từ thủy, huyền vũ, phương bắc vậy. "Tỏa tử giáp", làm từ kim loại, bạch hổ, phương tây vậy; "Phượng sí quan" (mũ phượng), hỏa phát quang, chu tước vậy, phương nam vậy. Như thế là từ đông, tây, nam, bắc đều quy phục vậy. Đó là đề cương nói "tứ hải thiên sơn giai củng phục" vậy.

    "Ngộ Không khiêu xuất ba ngoại, thân thượng canh vô nhất điểm thủy thấp, kim quang xán xán, tẩu thượng kiều lai" (Ngộ Không nhảy ra khỏi sóng, trên thân không dính chút nước, kim quang lấp lánh, nhảy lên cầu trở lại), đó là tượng thuần 《kiền》, mà đạo thể hoàn bị vậy. Một đoạn "Tương bảo bối toản tại thủ trung, khiếu đại tựu đại, khiếu tiểu tựu tiểu; sử xuất nhất cá pháp thiên tượng địa đích thần thông, na bổng thượng để tam thập tam thiên, hạ chí thập bát tằng địa ngục. Thu liễu pháp tượng, hoàn biến tố tú hoa châm nhi, tàng tại nhĩ nội" (cầm bảo bối ở trong tay, kêu to thì phóng to, kêu nhỏ thì nhỏ lại; xuất ra thần thông như phỏng theo thiên địa, gậy đó trên chọc đến 33 cõi trời, dưới thông 18 tầng địa ngục. Thâu trọn pháp tượng, biến nhỏ thì như cây kim cài tóc nhỏ, cất nó ở trong lỗ tai), độc giả đọc 《 tây du 》đến chỗ này, cho rằng biến hóa kỳ dị, cùng lắm thì cho rằng là do 'tâm' biến hóa kỳ diệu. Không biết rằng, lỹ lẽ rất giản dị, tức là: "Tán chi tắc di lục hợp, quyển chi tắc thối tàng vu mật". Ôi! "Tâm viên ý mã" có thể như thế được hay sao?

    Đạo ấy, không chỉ ngăn chặn ma vật nhân thần đều lạy phục, mà các loại u minh dị loại cũng phải khâm phục ngưỡng mộ. Tứ hầu lục vương, cũng như thập loại, hổ báo lang trùng, quái vật trong núi, cùng yêu vương bảy mươi hai động đều phải dập đầu lạy tạ, nơm nớp lo sợ, phách tán hồn bay. Lão quân nói: "Huyền tẫn chi môn, thị vị tạo hóa căn, chúng phu đạo dĩ xuất, nhuyễn động mạc bất do" Bởi tận được 'tính' ấy, có thể tận được 'tính' người 'tính' vật, nhất tận vô bất tận, mà có thể 'phóng hạ tâm' vậy. Không nói "phóng tâm", mà nói "phóng hạ tâm"; không nói "tâm phóng hạ", mà nói "phóng hạ tâm". Bên trong có diệu nghĩa, không phải người thường có thể biết, không khỏi lại phải một lần giải thích.

    Thầm xem các vị phê bình giả chỗ này mà suy ngẫm, không bị 'phóng tâm' chi hại. Chính tại lúc sinh tử quan đầu, chính "phóng hạ tâm", mơ hồ mờ mịt, nhập vào u minh giới. Cho rằng Ngộ Không chưa từng liễu đạo mà chỉ toàn dựa vào vẻ bên ngoài, sai lầm lớn vậy! Đề cương nói "cửu u thập loại tẫn trừ danh", nếu chưa từng liễu đạo thì không thể vậy. Có thể thấy liễu đạo thì không gì trở ngại. Người còn học đạo, cơ bản chỉ cầu "phóng tâm" mà thôi. Như mà đạo quả thành tựu thì tòng tâm sở dục vậy. Ngộ Không đã đắc Kim Cô bổng, đầy đủ giáp trụ, chấp lưỡng dụng trung, thần hóa khó dò. Nên dùng "phóng hạ tâm" ba từ, làm rõ được ý nghĩa lên trời, xuống đất không hề trở ngại, làm sao một chữ 'tử' có thể làm động tâm. Bởi vậy, đoạn sau nói về nhập u minh sẽ hiểu rõ hơn.

    Ta biện luận rõ về "phóng tâm" cùng "tâm phóng hạ" và "phóng hạ tâm" : "Phóng tâm" ấy, là tâm hướng cả ra bên ngoài mà dong duổi vậy; "phóng hạ tâm" ấy, tức vẫn ở bên trong, không nắm giữ mà vẫn tồn tại vậy; "tâm phóng hạ", lấy tâm phóng tâm, mà phóng nhưng không phóng, bất phóng tức phóng vậy, "phóng hạ tâm" không cầm giữ mà có chủ thể, phóng tức tồn vậy. Không phải là phóng bất hạ tâm mà tâm bị giàng buộc, chỉ có phóng hạ tâm mà tâm không trói buộc. Người ta sở dĩ học trường sinh, đều bởi sợ chết, nên phóng bất hạ tâm, ngủ không được vậy. Nay Ngộ Không đạo kim đan đã liễu, phóng hạ tâm mà ngủ được, có cơ sở như thế. Khổng Tử nói: "Triêu văn đạo, tịch tử khả hĩ." (Buổi sớm được nghe đạo, chiều có thể chết), 《 tập chú 》giải nghĩa là "sinh thuận tử an", đó cũng giải nghĩa rằng chưa thành đạo thì phóng bất hạ tâm, đã thành đạo rồi thì phóng đắc hạ tâm; bất tử có thể được, mà tử cũng có thể được vậy. Người phê bình《tây du》nhận sai chữ 'tâm' ấy là 'đạo', cho là "phóng hạ tâm" mà hại tâm, các loại sai lầm, vì thế mà mất đi ý nghĩa chân thật. Không biết rằng, tâm ấy là nhân duyên của tử sinh, là nguồn gốc của luân hồi. Thánh nhân nói 'tồn tâm', là phương pháp dạy người đời; Thích Tiên nói 'vô tâm', là phương pháp vô vi xuất thế. Chẳng hiểu rõ căn nguyên, cố chấp luận bàn, vạn kiếp luân hồi, làm sao tránh được? Bất đắc đạo ấy, tử thì vẫn tử, mà sinh rồi cũng tử; Đắc đạo ấy, sinh rồi sẽ sẽ sinh, tử rồi cũng sinh. Chung quy sinh tử nhất chí, tức được trường sinh vậy. Khiếp tử, tức hữu tử chi tâm, mà bất đắc sinh; bất khiếp tử, tức vô sinh chi tâm, mà bất đắc tử. Thế nên phải cầu thành đạo, để dứt sinh tử vậy. Nếu khiếp tử mà tồn tâm, thì tử đã xác lập; nếu chẳng giữ tâm khiếp tử, thì tồn tâm nơi nào? Tất sẽ tồn nơi sinh, mà trong tử có sinh, mà trong sinh có tử. Tử tử sinh sinh khi nào mới dứt? Chẳng hiểu rõ là người là vật, thiên ma hãm hại, không thể xuất đầu, đó là khổ trường tử, không phải vui trường sinh vậy.

    "Ngộ Không thụy trứ, kiến lưỡng nhân nã nhất trương phê văn, thượng hữu'Tôn ngộ không' tam tự." (Ngộ Không ngủ thiếp đi, thấy hai người cầm một tờ phướn, trên có ghi ba chữ 'Tôn Ngộ Không'), bọn đó tên gọi là 'Soa' (Sai phái), cùng một bọn với 'Hoạt Vô Thường' (sống vô thường), với 'Tử Hữu Phân' (chết có phần) vậy. "Bất dung phân thuyết" (không cần giải thích), người ta lúc chết cũng không có cách phản kháng như thế. "Ngộ Không độc đốn nhiên tỉnh ngộ, xế xuất bảo bối, bả lưỡng cá Câu Tử nhân đả vi nhục tương, tự giải kỳ tác, phản đả nhân thành trung." (Ngộ Không đốn nhiên tỉnh ngộ, xuất ra bảo bối đem hai kẻ 'Câu Tử nhân' đánh cho nát nhục, tự cởi trói, đánh vào bên trong), đó là tử phản thành sinh, mà hai kẻ 'câu tử' lại 'tử' vậy. "Hoảng đắc Thập Điện Diêm Quân bất năng tác chủ, lệnh kỳ tự kiểm sinh tử bộ, đáo'Hồn tự nhất thiên tam bách ngũ thập hào," (Thập Điện Diêm Quân kinh sợ không thể làm chủ, lệnh tự mình kiểm sổ sinh tử, đến hồn thứ 1350), chính cùng số với bảo bối (thiết bổng) tương hợp, cũng là số tam ngũ. Cho đến "Tam bách tứ thập nhị tuế" (thọ đến 342 tuổi), bách ấy, nhất bách vậy, cũng liên hệ với sốbắc nhất, nam nhị, tây tứ, đông tam, trung thập. "Thủ bút quá lai, nhất khái câu chi" (đoạt lấy bút, nhất loạt gạch bỏ), nghĩa của 'nhất câu' (câu- móc câu, gạch xóa) thật kỳ diệu thay!'Tâm' đó là căn nguyên của sinh tử, học giả sáng suốt, cần phải biết minh tâm. Chữ 'tâm' có hình móc câu hướng lên trên, "bất phóng tâm" tức chữ tâm móc câu hướng lên trên, mà sổ tử có ghi tên vậy; gạch bỏ tên trong sổ (câu chi) thì móc câu hướng xuống dưới, "phóng hạ tâm" mà chữ tâm móc câu hướng xuống dưới, mà sổ tử không ghi tên (gạch tên) vậy. Lúc trước hai tên 'câu tử nhân' (câu người chết) ấy, bởi Ngộ Không "phóng hạ tâm" mà tới, ấy là câu sinh mà không câu tử, là câu cái 'câu câu' vậy, cũng là câu cái 'sở bất câu' mà câu; câu mà dụng 'thần' vậy. Bởi thế mới đem hai kẻ 'câu tử nhân' đánh chết, bởi Ngộ Không "phóng hạ tâm" mà xóa sổ thành công, tất 'câu tử nhân' mới bị đả tử; chẳng thể'câu kỳ câu', là 'câu câu' tức 'câu câu' vậy, cũng khiến'câu câu' ấy không được là chủ câu, khiến cho'câu câu'ấy cũngkhông được là chủ câu, mà nhất câu vô bất câu là dụng thần vậy. Hai kẻ 'câu tử nhân' tức tâm chi câu (tâm, tức hình móc câu) ; "phóng hạ tâm" mà "đả vi nhục tương", tức là 'câu câu' (ý là gạch bỏ chữ tâm hình câu, hay đánh chết 'câu tử nhân') vậy. "Nhất khái câu chi" (một mực xóa bỏ), nghĩa tâm đó nhất thiết xóa bỏ đi. "Phóng hạ tâm" mà "Đả xuất u minh giới", tức'câu câu câu' vậy. Câu ấy, câu vậy; câu ấy, câu câu vậy; câu câu ấy, câu câu câu vậy. Câu muốn câu, thì nhất định câu; câu muốn câu câu, thì nhất định câu câu; câu muốn câu câu câu, nhất định phải câu câu câu. Như thế gọi là "Nhất khái câu chi, liễu trướng! Liễu trướng! Kim phiên bất phục nhĩ quản liễu dã" (một mực xóa bỏ, hết nợ! Hết nợ! Từ nay ta không chịu các ngươi quản chế nữa vậy), các việc làm như thế, đều là kinh thiên động địa vậy. Hầu vương ra khỏi thành, bỗng vấp vào một đám cây cỏ bị ngã, sực tỉnh dậy, mới biết đó là một giấc mộng.

    Phàm nhân lúc sống như giấc mộng, Ngộ Không lấy việc chết đi mà nằm mộng; phàm nhân bởi sinh mà làm nên tử; Ngộ Không bởi lúc tử mà tiêu sinh danh. Xuống biển, 'thân' không trở ngại; nhập vào u minh, 'thần' không tổn thương; đó là xuất u nhập minh thần thông cực đại vậy. Kỳ diệu ở chỗ 'hốt nhiên bán trứ nhất cá thảo ngật đáp' (đột nhiên vấp vào một ngọn cỏ), là nghĩa gì? Thảo mộc vướng chân đó ý mông muội, mơ màng, như giấc mộng chưa tỉnh, tượng 《Truân》quái, sơ khai thảo muội như giấc mộng mới tỉnh vậy. Thế nhưng chưa lên trời, cho nên không đủ để khai thái lực lượng vậy. Thử xem hai cái tấu sớ (sớ tấu Long vương và Tần Quảng), như là vạch tội, nhưng lại là dẫn đường vậy. Kim đan tác dụng lớn vậy! Cho nên Tử Dương chân nhân nói: "nhất nạp kim đan thôn nhập phúc, thủy tri ngã mệnh bất do thiên".

     
  9. Nguyễn Anh Tú Nguyen Anh

    Bài viết:
    0
    HỒI THỨ BA

    Ngộ Nguyên Tử chú:

    Ngộ Nguyên Tử nói: Hồi trước đã nói được thầy chân truyền, đắc chân mà thành đạo quả, cũng đủ để phá vọng quy chân, mà nguyên thần bất muội vậy. Tuy nguyên thần bất muội mà không thể toàn thốc ngũ hành, hòa hợp tứ tượng. Cuối cùng không phải là kim đan đại đạo, giống như chưa trừ hết âm khí trong thân, làm sao thoát sinh tử luân hồi? Thế nên tiên ông đến chỗ này chỉ rõ hoàn đan kỳ diệu, khiến cho học giả chẳng lạc vào con đường trung hạ nhị thừa.


    Bấm để xem
    Đóng lại
    "Mỹ Hầu vương từ đoạt Hỗn Thế ma vương nhất khẩu đại đao, giáo tiểu hầu phá trúc vi tiêu, tước mộc vi đao, hựu tại ngạo lai quốc nhiếp thủ binh khí, hựu đắc thất thập nhị động yêu vương hiến cống, bả nhất tọa Hoa Quả sơn tạo đích thị thiết dũng kim thành." (Mỹ Hầu vương từ khi đoạt được thanh đao của Hỗn Thế ma vương, dạy khỉ con phá cây trúc làm gậy, xẻ gỗ làm đao, lại đến Ngạo Lai quốc thu lấy binh khí, rồi lại thu lấy hiến cống của 72 động, làm cho Hoa Quả sơn trở thành thiết dũng kim thành), đó là phòng trước dưỡng sau, căn bản đã lập, vì kế lâu dài. Thế nhưng căn bản đã kiên cố, cần phải từ căn bản đó một lần nữa kinh thiên động địa, mới có thể đắc chân. Đại sự nghiệp đó thành công, mới có được chân trí tuệ, thẳng đường mà tiến, không gì trở ngại, bởi thế hầu vương nói: "Ngã sao toại ý? Nếu muốn toại ý, không phải hữu sát hữu sinh, sinh sát như nhất bảo vật thì không thể. Bốn khỉ già nói:" Ngã môn Thiết Bản kiều hạ, thủy thông Đông Hải long cung, tầm trứ long vương vấn tha yếu kiện binh khí, khước bất xưng tâm? ", 'Đông' ấy, phương sinh khí; 'Hải' ấy, hội tụ mọi nguồn nước, 'Long' ấy, phát động mây mưa, có đức sinh vật. Bảo vật ấy là bởi sát mà cầu sinh, lấy sinh giúp sát. Sinh sát kiêm toàn mới là bảo vật. Đạo kim đan đó nhất định không dễ dàng, như lấy thiết bản đó để mà ấn chứng. Vả lại 'Đông Long' ấy, vật ngã gia vậy. Cầu vật ngã gia, sao lại nói 'vấn tha' (hỏi người) ? Nguyên là vật ngã gia, nhưng bởi bị hậu thiên vây hãm, mà không thuộc về 'ngã gia', như 'kim' trong 'thủy' mà thủy vây hãm kim, không trở về được mà ở 'tha gia', đã trở về thì mới thuộc 'ngã gia'. Tha gia ngã gia, chung quy nhất gia, chỉ tại chưa về hay đã trở về mà phân biệt vậy. Thế nên ở trong động của ta thông với long cung, tuy hỏi người ta, nhưng ở tại chân cầu trong động, không ở bên ngoài cầu. Long cung ấy, 《 Kiền 》 quái vậy, long vương mang ra một thanh đại đao, là《 kiền 》 sơ cửu vậy, cửu là tượng cho dương, sơ mà đại nên là" kiền "sơ cửu. Lại mang ra một cây cào chín răng, là 《 Kiền 》cửu tứ vậy, nghĩa cùng 'tứ' giống nhau, nên là" kiền "cửu tứ, hợp số cửu tứ tam thập lục, nên nặng 3600 cân. Lại vác ra một cây Họa Can Phương Thiên kích, thống lĩnh ba hào cửu tam, cửu tứ, thượng cửu, tam là số mộc, mộc năng sinh hỏa, 'thanh' 'hồng' tương giao là 'họa can', 'tứ' hình phương (vuông), thiên tại thượng, tổng tam hào thủ tượng 'Họa Can Phương Thiên kích', thống tam hào là tam cửu, tứ cửu và nhất cửu là bát cửu cho nên nặng 7200 cân (9x8=72). Các loại binh khí đều không dùng được, sơ cửu ở dưới thấp vậy, cửu nhị thì 'bỏ', cửu tam 'hành sự' vậy, cửu tứ thử dùng vậy, thượng cửu 'cùng' mà gây hại vậy. Các hào đều không đủ hoặc thái quá, mất đi mà không đủ, không được như ý, nên không dùng được. Cho đến khi nói ra" Hải tàng trung khối thiên hà định để thần trân thiết, thị Đại Vũ trì thủy chi thì, định giang hải thiển thâm nhất cá định tử, thị nhất khối thần thiết, năng trung hà dụng? ", đó là 《 Kiền 》cửu ngũ, cương kiện trung chính, thuần tinh túy vậy.

    " Nhất khối thiên hà định để thần trân thiết "ấy, kim trong thủy vậy;" Định giang hải thiển thâm nhất cá định tử, thị nhất khối thần thiết "ấy, duy tinh nhất vậy, nhất mà 'thần' vậy." Năng trung hà dụng ", chấp trung, lưỡng mà hóa vậy. Tinh nhất chấp trung, nhất thần lưỡng hóa, không thiên không lệch, không thái quá không bất cập, đó là thiên địa nuôi nấng vạn vật, thế nên 'hữu kim quang vạn đạo', không phải thánh nhân đại dũng đại lực ngút trời, khiêng bất động, vác bất động. Hầu vương hai tay cầm lấy, to nhỏ ngắn dài, tùy tâm sở dục, chính là 'tịch nhiên bất động, cảm ứng liền thồng', nên gọi là 'Như Ý Kim Cô bổng';" Kỳ bản lai đấu địch thô tế "ấy, phương viên như nhất vậy;" Nhị trượng trường đoản "ấy, âm dương hỗn hợp vậy;" Trung gian nhất đoạn ô thiết, lưỡng đầu lưỡng cá kim cô "ấy, chấp lưỡng dụng trung vậy;" Trọng nhất vạn tam thiên ngũ bách cân "ấy, 《 Kiền 》nguyên dụng cửu, chính là cửu thiên cân (9000 cân), lại thêm ngũ cửu tức tứ thiên ngũ bách cân (5x9=45;tức 4500 cân), hợp lại thành nhất vạn tam thiên ngũ bách cân (13500 cân) ;" Ngộ không tương bảo bối chấp tại thủ trung, tọa tại thủy tinh cung điện thượng "ấy, tức cửu ngũ phi long tại thiên, ở vị thiên đức vậy.

    " Y giáp "ấy, nội ngoại như nhất vậy;" Nhất khách bất phiền nhị chủ "ấy, lưỡng mà hợp nhất vậy;" Tẩu tam gia bất như tọa nhất gia "ấy, tam gia quy nhất vậy;" Thiên vạn cáo cầu nhất kiện "giả, vạn sự khác biệt quy nhất vậy;" Tùy cao tựu đê đích tống nhất phó tiện liễu "ấy, dụng quyền hành nhất vậy;" Vấn Đông Hải Ngao Quảng thảo thần khí "(hỏi Đông Hải Ngao Quảng xin thần khí) ấy, toàn thốc 'mộc' vậy;" Bắc hải Ngao Ngung tống nhất song ngẫu ti lý "ấy, là toàn thốc thủy vậy;" Tây hải Ngao Nhuận tống nhất phó tỏa tử hoàng kim giáp ", là toàn thốc kim vậy;" Nam hải Ngao Khâm tống nhất đính phượng sí tử kim quan "ấy, toàn thốc hỏa vậy. Cộng đông tây nam bắc tức kim mộc thủy hỏa mà hợp thành nhất trung." Toàn thân phi quải, kim xán xán tẩu thượng thiết bản kiều lai "(toàn thân giáp trụ, ánh kim rực rỡ nhảy trở lên thiết bản kiều), tứ tượng hòa hợp, toàn thốc ngũ hành, mà kim đan thành vậy.

    " Hầu vương sử nhất cá pháp thiên tượng địa đích thần thông, na bổng thượng để tam thập tam thiên, hạ chí thập bát tằng địa ngục, tái thì thu liễu pháp tượng, tương bảo bối biến tác cá tú hoa châm tàng tại nhĩ nội ", kim đan thành tựu, linh thông cảm ứng, biến hóa không bị trói buộc, hiển chư nhân mà tàng chư dụng, phát ra vạn mà định tức nhất, năng đại năng tiểu, năng thu năng phóng, túng hoành thiên địa không gì cản trở, theo đạo thánh nhân vậy. Chỗ tối thần diệu, chính là" Tương bảo bối hoàn biến tác cá tú hoa châm tàng tại nhĩ nội ", đó là bí mật, không thầy thì không thể biết được, đó là chân sư kề bên tai mà nói nhỏ cho biết điều kỳ diệu, thế nên dùng thì từ lỗ tai lấy ra, cất giấu thì cũng giấu trong lỗ tai. Đó là bậc thầy dạy người phép tắc, không dạy người khéo léo, mà phải gắng sức mà được an, nếu không đạt đến được toàn thốc ngũ hành, thì không được như ý. Thử xem Ngộ Không, mới đầu đoạt đao của hỗn thế ma vương, rồi sau đoạt binh khí của Ngạo Lai quốc, lại lấy hiến cống của bảy mươi hai động, sau lại đoạt bảo vật của long vương, chẳng qua gắng sức để được vững chắc kiên cố, kết quả được kiên cố, tùy tâm sở dục không trở ngại, tự nhiên kim đan thành tựu mà được như ý." Ngộ chân "nói rằng" Tứ tượng hội thì huyền thể tựu, ngũ hành toàn xử tử kim minh, thoát thai nhân khẩu thân thông thánh, vô hạn long thần tẫn thất kinh ", đề cương" Tứ hải thiên sơn giai củng phục ", tức là nói điều đó vậy. Kẻ tu hành đến lúc kim đan thành tựu, có thể phóng hạ tâm, mà ngày ngày khoái lạc mà ngủ ngon vậy.

    " Hầu vương thụy lý, kiến lưỡng cá câu tử nhân, nã nhất trương phê văn, thượng hữu Tôn Ngộ Không tam tự, cận thân bất dung phân thuyết, sáo thượng thằng, tựu bả hầu vương hồn linh nhi tác liễu khứ. "(hầu vương trong lúc ngủ, thấy hai kẻ câu hồn, cầm một cái phướn ghi chữ, trên đề ba chữ Tôn Ngộ Không, đến gần không nói nhiều lời, trói lại, rồi bắt linh hồn hầu vương đem đi), từ trước đến nay bình giải 《 Dịch 》, trực tiếp giải Ngộ Không tức là 'tâm', sao không giải 'câu tử nhân' là tâm? Nên giải tâm ấy mà bất giải, không nên giải tâm ấy mà lại giải, tâm đó bất tri, huống gì đạo? Thật là người ngu nói mộng vậy. Câu tử nhân là tâm, ta làm sao biết như thế? Ta ở chỗ Ngộ Không phóng hạ tâm mà biết. Chưa phóng hạ tâm, Câu Tử nhân không đến, không không đến vậy, đến mà không biết vậy; nên phóng hạ tâm mà Câu Tử nhân đến, không phải chân thực đến vậy, chưa đến mà sớm biết vậy. Cái gọi là 'câu' ấy, là Ngộ Không câu 'câu tử nhân' đó, không phải 'câu tử nhân' câu Ngộ Không. Ngộ Không ấy, đạo tâm vậy, đạo tâm phi tâm; câu tử nhân ấy, là nhân tâm, nhân tâm là tâm; đạo tâm là thiên đường, nhân tâm là địa ngục; như thế nhân tâm tức 'câu tử nhân' vậy. Đạo tâm ấy, nhất tâm vậy; nhân tâm ấy, nhị tâm vậy. Đạo tâm chí thiện mà vô ác, nhân tâm hữu thiện mà hữu ác;hữu thiện hữu ác, thị phi tương tạp, tà chính tương hỗn, trăm trí ngàn mưu, sớm tối chẳng dừng, xuất nhập vô thì, chẳng biết bản hương. Nhất thiết thế nhân, lấy khổ làm vui, lấy giả làm chân, đều bị hai kẻ'Câu Tử nhân'mang đi, cố chạy mà không thoát khỏi tay Diêm vương. Duy Ngộ Không hiểu được lẽ đó," Não khởi tính lai, bả lưỡng cá Câu Tử nhân đả vi nhục tương, tự giải kỳ tác "là Ngộ Không do bởi phóng hạ tâm mà'câu tử nhân' tức tử, bởi'câu tử nhân' tử mà dây trói tự cởi (tự giải kỳ tác).

    Đánh người trong âm phủ, kêu gọi thập vương thủ giữ sách sinh tử, coi xem sổ sách, đến số 1350 ghi trời sinh thạch hầu, chính là số" kiền cửu ngũ ", cương kiện trung chính, thuần túy tinh vậy." Cai thọ tam bách tứ thập nhị tuế, thiện chung "(thọ 342 tuổi, chết già), tam là số của mộc, bách là nhất bách, nhất là số của thủy, tứ là số kim, thập là số thổ, nhị là số hỏa, ngũ hành toàn thốc, có" kiền cửu ngũ "tượng đại nhân cương kiện trung chính. Cửu ngũ đại nhân" Dữ thiên địa hợp kỳ đức, dữ nhật nguyệt hợp kỳ minh, dữ tứ thì hợp kỳ tự, dữ quỷ thần hợp kỳ cát hung. Tiên thiên nhi thiên phất vi, hậu thiên nhi phụng thiên thì, thiên thả phất vi, nhi huống vu nhân hồ? Huống vu quỷ thần hồ? "(cùng thiên địa hợp đức, cùng nhật nguyệt hợp minh, cùng tứ thì hợp tuần tự, cùng quỷ thần hợp cát hung. Tiên thiên mà không xa lìa thiên, hậu thiên mà phụng thiên thời, thiên ấy chẳng xa lìa, huống hồ nhân? Huống hồ quỷ thần). Là thiên đức, hợp cát hung, đại nhân chí thiện chi đức vậy. Thiện chi chí, tức thì thọ đến cùng. Thiện ác chi thiện, không rời âm dương; chí thiện chi thiện, thẳng đến thái cực, cửu ngũ long đức trung chính, thái cực chi tượng, đạo quy thái cực, vô sinh vô tử vậy.

    Cầm lấy bút, đem tất cả các loài khỉ có tên trong sổ, nhất loạt gạch đi, quẳng sổ xuống nói:" Xong nợ! Xong nợ! Từ nay ta không thuộc các ngươi quản "nói rồi vác gậy rồi khỏi u minh giới. Nói đến đây không khỏi khiến chư thiên cùng người sinh nghi, thật không biết rằng nếu nói ra khiến người bật cười vậy, đó là thế nào? Ngộ không xóa sổ sinh tử, tuyệt không phải đến lúc gặp thập vương mới xóa, mà đã xóa từ lúc đánh chết hai gã 'câu tử nhân' rồi vậy! Mà cũng không phải lúc đánh chết hai kẻ 'câu tử nhân' mới xóa sổ sinh tử, mà từ lúc 'ngủ được ngon' thì đã xóa rồi vậy! Mà cũng không phải lúc 'ngủ được ngon' đó, ngay từ khi 'phóng hạ tâm' đã xóa sổ sinh tử rồi vậy! Chung quy 'phóng hạ tâm', thì đã sớm xong nợ, chẳng chịu diêm vương quản chế. Bởi vậy thế gian có nam tử quyết liệt, dũng mãnh trượng phu, dám đem hai kẻ 'câu tử nhân' đánh chết, chẳng phải là chuyện thiên hạ hiếm có sao? Thử xem Long Vương dâng biểu: Kẻ mạnh ở thủy trạch đòi binh khí; Diêm Vương biểu tấu hầu vương đại nháo xâm la xóa sổ sinh tử. Chính là nhân thủ tuệ khí, sổ sinh tử đã xóa. Đó là đề cương nói" cửu u thập loại tẫn trừ danh ".

    " Thiên lý nhãn thuận phong nhĩ, tấu thuyết thiên sản thạch hầu, bất tri hà phương tu luyện thành chân, hàng long phục hổ, cường tiêu tử tịch. "(thiên lý nhãn thuận phong nhĩ, tấu rằng trời sinh thạch hầu, không biết tu luyện phương nào thành chân, hàng long phục hổ, xóa sổ sinh tử), không phải là không biết vậy, đó là tiên ông chê cười người đời mê muội, không biết có đạo hàng long phục hổ, xóa sổ tử sinh. Kim Tinh tấu rằng:" Tam giới trung phàm hữu cửu khiếu giả, khẳng khả tu tiên, thử hầu nãi thiên địa dục thành chi thể, nhật nguyệt dựng tựu chi thân, kim ký tu thành tiên đạo, hữu hàng long phục hổ chi năng, dữ nhân hà dị?"(Trong tam giới phàm có đủ cửu khiếu, đều có thể tu tiên, con khỉ đó do thiên địa nhật nguyệt dưỡng thành thân thể, nay đã tu thành tiên đạo, biết hàng long phục hổ, có khác gì người).

    Ôi, thế gian người người đều do thiên địa sinh thể, nhật nguyệt dưỡng thành thân, ai ai cũng có khả năng hàng long phục hổ, ai cũng có thể xóa sổ sinh tử, chỉ tại người ta không thể tự cố gắng, dũng mãnh vứt bỏ, cam chịu xuống địa ngục thành quỷ, thật không bằng cầm thú! Xem Ngộ Không xóa bỏ sổ sinh tử cõi u minh, tất có thiên thần chiêu an, từ nhỏ bé mà dần hiển lộ, từ thấp lên cao, cảm ứng thần tốc, kim đan kì diệu như vậy đó.

    Thơ rằng:

    Phân minh nhất vị thủy trung kim, thu đắc tha lai phóng hạ tâm.

    Toàn thốc ngũ hành toàn thể tựu, trường sanh bất tử quỷ thần khâm

    (Phân minh một vị trí kim trong thủy, thu được bên ấy trở lại phóng hạ tâm. Toàn thốc ngũ hành toàn thể tựu, trường sanh bất tử quỷ thần khâm phục)
     
  10. Nguyễn Anh Tú Nguyen Anh

    Bài viết:
    0
    HỒI THỨ TƯ

    Quan phong Bật Mã tâm hà túc

    Danh chú tề thiên ý vị trữ

    (Phong quan Bật Mã tâm chưa đủ, danh xứng tề thiên ý chưa an tĩnh)

    Ngộ Nhất Tử chú:

    Ngộ Nhất Tử nói: Đó thể hiện rằng có thể liễu kim dịch hoàn đan đại đạo, thọ tề thiên, xông lên chín tầng trời. Tự do ra vào, thiên đế cũng không thể quản chế vậy.


    Bấm để xem
    Đóng lại
    Thiên đế là càn khôn chủ tể, truất trắc u minh, bao hàm cổ kim, vốn không có gì sánh ngang. Duy bậc thánh nhân có thể thấy thiên đạo, thi hành đạo trời, vận hóa âm dương, thần minh hợp đức, vạn hóa sinh thân mà cùng trời đồng thể. Vì sao như thế? Kim ấy, là đời đời kiếp kiếp không phôi hoại; đan ấy, là tinh thần của nhật nguyệt, đầy đủ một đoàn dương khí. Thiên địa có thể tuần hoàn là do khí ấy vậy; kim đan có thể biến hóa, cũng do khí đó. Khí thiên địa không gì không bao hàm; khí trong kim đan, không chỗ nào không có, nên《 Tham Đồng khế 》nói: "Hàm tinh dưỡng thần, thông đức tam quang." "Chúng tà ích trừ, chính khí thường tồn." Lại nói: "U tiềm luân nặc, biến hóa vu trung; bao nang vạn vật, vi đạo kỷ cương", đều nói thánh nhân xếp ngang với trời vậy. 《 Dịch 》nói rằng: "Dữ thiên địa hợp đức, nhật nguyệt hợp minh, quỷ thần hợp cát hung", 《 Trung Dung》 nói: "Thiên địa vị, vạn vật dục", đều có nghĩa tương đồng, đại thánh xếp ngang hàng với trời (tề thiên), có gì mà không hợp lý?

    Độc giả đọc 《 Tây Du》xem thấy đề cương nói "tâm hà túc", "ý vị trữ" mà lấy "tâm viên ý mã" để giải thích, phóng tâm vọng tưởng, từng câu từng đoạn trong truyện, bằng tâm đó mà bàn luận giải thích không phù hợp, cuối cùng cũng không biết kim đan đại đạo. Đạo kim đan, hội ngũ hành mà trở về thái cực, chế ngự kiếp vận mà vô cùng vô tận, thoát khỏi kiền khôn mà không bị ước thúc. Bởi thế làm chức quan giữ ngựa làm sao đủ, cũng như tề thiên hư vị làm sao có thể tương xứng được?

    Kim Tinh cùng Hầu vương cùng cưỡi mây mà đi, làm sao lại bỏ xa Kim Tinh ở phía sau? Kim Tinh là một hành trong ngũ hành, "Ngộ Không" là ngũ hành đầy đủ vậy. Tại sao đến thiên môn thì dừng lại, không tiến lên được? Bởi dù là thiên thần cũng không thể nhìn thấu vậy. Kim Tinh nói: "Bởi chưa biết nhau, sau khi gặp thiên tôn, từ sau ngài ra vào tùy ý", Ngộ Không vì sao nói: "Cũng được, đã thế ta không vào nữa". Chung quy ta không bị trời hạn chế vậy.

    Kim Tinh tấu rằng: "yêu tiên đã đến", Ngọc Đế hỏi rằng: "Ngươi đúng là yêu tiên?", gọi Ngộ Không là yêu tiên, gọi 'yêu' thực ra cũng là chân thực vậy. Ngộ Không đáp lại "đúng là lão tôn", trực tiếp thừa nhận mà không từ chối. Tất cả các tiên quan đều đại kinh thất sắc, đó tức là địa vị không đủ để biết vậy. Ngọc Đế lại rằng: "Yêu tiên ở hạ giới, mới được thành thân người, chưa biết lễ nghĩa nay ta tạm tha tội cho", thực ra là chưa biết kỳ diệu của thiên tiên chân ất, đó cũng là nguyên nhân sau này không thể thu phục vậy. Ngộ Không hướng lên trên đáp một tiếng to, trực tiếp thừa nhận mà không bác bỏ. Chẳng phải Ngộ Không bao hàm cả thiên đế hay sao?

    Thiên cung thiếu một chức quan trông ngựa, Ngọc Đế truyền chỉ phong cho làm Bật Mã Ôn. Từ đó về sau, Ngộ Không ngày đêm chẳng ngủ. Đó là nghĩa: "Thiên hành kiện, quân tử chung nhật kiền kiền, tịch dịch nhược lệ, tự cường bất tức" (hành đức kiện của trời, quân tử cả ngày kiên cường, cẩn thận nghiêm túc, tự cường không ngừng). Độc giả đọc 《 Tây Du》cho rằng giờ ngọ là hỏa hậu trừu thiêm, chính là bàng môn nói sằng vậy. Thực ra ở trên trời thì là ngựa, tại hạ giới tức là rồng vậy, trên trời gọi là 'ngự mã giám', tại hạ giới là 'ngự long giám' vậy.

    Ngộ Không nói rằng: "Không phẩm hàm, tức là cực đại rồi", mọi người đáp rằng: "Như thế cũng chưa được'nhập lưu' vào hàng quan phẩm". Đó là trên trời thì chưa được vào hàng 'thiên quan', nhưng hạ giới thì đã là 'cực phẩm' rồi vậy. Ngộ Không tại sao nói "Không làm nữa! Không làm nữa!"? Ngày trước thì vui vẻ nhận làm, một giai đoạn công phu đã thành, không thể làm quan giám mã mãi được. "Ngộ Không hừ một tiếng, đạp đổ công án, rút bảo bối trong tai ra, đánh ra khỏi Ngự mã giám, thẳng đến cửa Nam Thiên", đó thoát nhiên siêu quần vậy! "Bất giác trong tâm khởi hỏa", "trong lòng buồn phiền", đó chẳng qua làm rõ rằng, lấy 'ngự kiếp' đại thánh, thu phục cho làm chức 'ngự mã', tất không thể được vậy. Người bình giải《 Tây Du》, lạicoi đó là 'vọng tâm phóng ý', thử hỏi: Thượng đế uy minh, sao có thể dung túng 'vọng tâm phóng ý' đó, tự do xuất nhập, làm sao có thể như thế được?

    Tử Dương chân quân nói "Nhất lạp kim đan thôn nhập phúc, thủy tri ngã mệnh bất do thiên." NgụyBá Dương tổ sư nói: "Thiên địa thần minh, bất khả trắc độ. Lợi dụng an thân, ẩn hình nhi tàng", Bởi tượng số hình tượng thiên địa, người có thể biết; cho đến thần tàng quỷ nặc, điều đó con người làm sao có thể biết được vậy. Duy bậc thánh nhân, biết được vật đó là tinh khí, du hồn biến hóa, bởi thế mà biết được tình trạng quỷ thần; bởi biết thế mà lợi dụng, để được an thân, vũ trụ trong tay, tạo hóa sinh nơi tâm; xuất hữu nhập vô, ẩn hiện khó dò. Bởi thế, mới thấy đại thánh nhập địa đăng thiên, đều là chân tâm thực dụng, mà phóng tâm vô ngại vậy. Đạo Ngộ Không, là đạo tiên thiên vậy, cùng gốc với trời, không phải nằm trong trời đất, bởi thế mà 'Độc Giác quỷ vương' phải suy tôn vậy. Vương mà 'độc giác' ấy, nghĩa làm 'chủ' vậy. "Đặc biệt dâng hiến một tấm hoàng bào", đó là tượng của 'hoàng thông trung lý' vậy. Khuyên tiến lên làm "Tề Thiên đại thánh", dựng cột treo cờ, rõ ràng chủ trương 'do ta chẳng do trời' vậy. Đặc biệt màu vàng (hoàng) mà tăng thêm nữa, thành màu đỏ vậy, đó là nghĩa dương cực vậy, 'kháng' (vượt qua) vậy, tượng 'hữu kháng long', đó là căn nguyên phản loạn sau này vậy. Đến khi Ngọc Đế phong Lý Thiên Vương làm Hàng Ma đại nguyên soái, muốn thu phục đại thánh, không xem xét cho kỹ căn nguyên dục dựng, mà phản lại nói đại thánh là ma, cuối cùng không thu phục được là hợp lý. Bởi thế mà Cự Linh thần vừa ra trận đã chạy, Na Tra chịu một gậy cũng chịu thua, đại thánh toàn thắng mà chư thần đại bại, như thế có gì kỳ quái chăng?

    Cự Linh thần không phải đối thủ, chạy là hợp lý. Na tra biến thành ba đầu, sáu tay, tức là ngàn ngàn vạn vạn, chỉ "kiền" ba vạch, tượng cho biến hóa muôn vạn; đại thánh cũng biến thành ba đầu, sáu tay, cũng là tượng "kiền" biến hóa vạn vạn thiên thiên. Hình thể tương đồng, lực lượng ngang hàng vậy. Vì cớ gì mà đại thánh, nhổ một chùm lông, hiện thành bản tướng, từ phía sau đánh vào vào bên trái Na Tra một gẫy, cuối cùng cũng bỏ chạy? Đó là bởi Na Tra ở phía trước, là "kiền" ba hào ở dưới, đại thánh ở phía sau, là "kiền" ba hào ở phía trên, thuần dương cực tất có biến hóa, tất phản thành "kiền" sơ hào mà phá 'kiên cố', đó chẳng phải là hình tượng nhổ túm lông, hiện ra bản tướng, từ phía sau đả một gậy hay sao? Bởi trời nhận đại thánh là ma, đó là nhận chân làm giả; bởi có lục ma xưng thánh, đó là phản giả làm chân; chẳng những chẳng thế thu phục thánh, mà cũng không thể phục ma vậy. Trời coi thánh là ma, nên không thể phục ma; thánh lấy ma làm thánh, mà có thể thu phục quần thánh. Từ đó về sau, thu phục thiên ma vạn quái, đều có căn cứ như vậy. Căn nguyên vốn là bao hàm thiên địa, không phải địa vị 'tề thiên' có thể trói buộc được.

    Đến khi thiên vương cùng tamthái tử trở lại tâu trình xin thêm viện binh, Ngọc Đế nghe xong kinh ngạc, đó là cuồng vọng muốn tru diệt, cũng như phật tổ nói: "Toàn thể chư thiên, đều kinh ngạc". Thái Bạch Kim Tinh lại tâu rằng: "Sợ rằng nhất thời không thể thu phục, cầu xin lại phong hắn làm 'tề thiên đại thánh', để mà phu phục tà tâm". Ngọc Đế theo lời tấu trình đồng ý chiêu hàng. Đó là trời có thể dung túng thánh vậy. Dung túng nhưng không thể thu phục, mà chỉ có thể thu phục 'tà tâm' vậy. Điều đó cho thấy Ngộ Không nếu không phải thánh tất sẽ không thể dung túng, có thể dung túng tức là thánh vậy. Sao lại nói 'tà'? Là 'tà' mà dung túng, tức dung túng 'tà' vậy. Lại bởi không thể thu phục, nên sau này 'loạn bàn đào', không phải do Ngộ Không, bởi do Ngọc Đế cùng Kim Tinh dung túng mà gây loạn vậy. Ngộ Không sao lại như thế? Ngộ Không thấy bàn đào liền ăn, chỉ bởi nghe thấy 'thánh' 'tà' mà như vậy.

    Ngọc Đế rằng: "Ngộ Không lại đây, nay tuyên ngươi là tề thiên đại thánh, quan cực phẩm", cùng với Ngọc Đế đều là cực phẩm vậy. Ngộ Không cũng chỉ hướng lên trên mà đáp một tiếng. Cùng với lúc trước khi phong Bật Mã Ôn không có gì khác, ban đầu sở dĩ đã là 'tề thiên' cùng là cực phẩm như Ngọc đế rồi, đó là đại thánh tự đại, tề thiên vốn là đã tự 'tề', ban đầu vốn đã phải là 'đế', là 'tề thiên' rồi vậy. Nay đã 'tự đại' 'tự tề', không thể khiến cho 'bất đại' 'bất tề', làm sao để có thể yên ổn vững chắc đây? Sao lại thiết lập 'nhị ti' (hai cơ quan trong phủ tề thiên đại thánh) ? Hai 'ti' đó để dưỡng tâm bất an, dưỡng cho được yên ổn vậy.
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...