LUẬT THANH TRA I. Nguyên tắc (CSPL Điều 4 Luật thanh tra 2010/2022) 1. Nguyên tắc tuân theo pháp luật trong hoạt động thanh tra Phù hợp với nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa - một nguyên tắc cơ bản của quản lý hành chính nhà nước, hoạt động thanh tra đòi hỏi tuân thủ nguyên tắc tuân theo pháp luật. Nguyên tắc này đặt ra hai yêu cầu căn bản dưới đây: - Mọi công việc cần tiến hành trong hoạt động thanh tra phải được thực hiện trên cơ sở những quy định của pháp luật hiện hành về thanh tra; - Không một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào hoạt động thanh tra. Khi có đầy đủ những căn cứ do pháp luật quy định, cơ quan thanh tra được quyền tiến hành hoạt động thanh tra một cách độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Việc can thiệp không có căn cứ pháp luật của bất kỳ tổ chức cá nhân nào đều là bất hợp pháp và tuỳ theo mức độ nặng, nhẹ sẽ bị xử lý theo các quy định của pháp luật. Những đòi hỏi nếu trên có nội dung rất rộng, theo đó, từchương trình, kế hoạch hoạt động của các tổ chức thanh tra đến việc ra quyết định thanh tra, cử Đoàn thanh tra, Thanh tra viên.. đến việc kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động thanh tra đều phải tuân thủ triệt để các quy định của pháp luật hiện hành. 2. Nguyên tắc đảm bảo chính xác, khách quan, dân chủ, công khai, kịp thời trong hoạt động thanh tra Thanh tra là hoạt động kiểm tra, giám sát việc thực hiện kế hoạch, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trên cơ sở đó đề ra những biện pháp xử lý thích hợp, đảm bảo cho chính sách, pháp luật, kế hoạch được tôn trọng thực hiện. Mỗi kết luận, kiến nghị hay quyết định trong hoạt động thanh tra đều rất quan trọng bởi nó phải làm rõ tính đúng sai, nêu rõ tình hình, tính chất, hậu quả của sự việc, xác định trách nhiệm của tổ chức, cá nhân nếu họ có sai phạm và yêu cầu các đối tượng này có những biện pháp tích cực loại trừ những sai phạm đó. Vì vậy, tính chính xác phải được coi là một nguyên tắc của hoạt động thanh tra. Bản thân nguyên tắc tuân theo pháp luật trong hoạt động thanh tra đã tạo ra cơ sở quan trọng để đảm bảo cho nguyên tắc chính xác. Điều này có nghĩa là hoạt động thanh tra phải được tiến hành trên cơ sở có đầy đủ những căn cứ rõ ràng đã được quy định trong pháp luật; việc thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn, các quyền và nghĩa vụ pháp lý khác hoàn toàn phải phù hợp với của quy định của pháp luật về hoạt động thanh tra. Nguyên tắc khách quan trong hoạt động thanh tra đòi hỏi mọi công việc tiến hành trong hoạt động này phải xuất phát từ thực tiễn quản lý hành chính nhà nước. Mọi quyết định, kếtluận hay kiến nghị trong hoạt động thanh tra đều phải xuất phát từ thực tiễn khách quan đó chứ không phải là kết quả của việc suy diễn chủ quan, hời hợt hay mang tính áp đặt. Muốn khách quan trọng hoạt động thanh tra, cán bộ thanh tra phải có trình độ hiểu biết về chính trị, pháp luật, am hiểu chuyên môn nghiệp vụ để có thể độc lập, khách quan trong suy nghĩ và hành động của mình. Công khai, dân chủ là bản chất chế độ xã hội của chúng ta và nó cũng đã trở thành một nguyên tắc trong hoạt động thành tra. Các quy định pháp luật về cơ cấu, tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn, trình tự, thủ tục thanh tra đều thể hiện rõ nét những nội dung của nguyên tắc công khai, dân chủ. Nguyên tắc công khai, dân chủ đòi hỏi: - Nội dung các công việc của hoạt động thanh tra phải được thông báo một cách đầy đủ và rộng rãi cho mọi đối tượng có liên quan biết; - Cơ quan thanh tra phải có trách nhiệm thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tích cực tham gia vào hoạt động thanh tra, đảm bảo phát huy mạnh mẽ tính dân chủ của hoạt động này; - Các kết luận, kiến nghị, quyết định về thanh tra trong hoạt động thanh tra được thông báo công khai cho các đối tượng có liên quan biết. Kịp thời là một yêu cầu mang tính đặc thù trong phương pháp hoạt động của thanh tra. Yêu cầu này nhằm đảm bảo phát hiện, ngăn ngừa và xử lý kịp thời những việc làm vi phạm pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tập thể và các cá nhân trong xã hội. Nguyên tắc kịp thời trong hoạt động thanh tra đòi hỏi: - Khi có đầy đủ các cơ sở tiến hành thanh tra, tổ chức thanh tra có thẩm quyền phải nhanh chóng tiến hành hoạt động thanh tra theo đúng quy định của pháp luật; - Mọi công việc cần tiến hành trong hoạt động thanh tra đều phải thực hiện trong thời hạn được pháp luật quy định. 3. Nguyên tắc không cản trở hoạt động bình thường của đối tượng thanh tra Thực hiện hoạt động thanh tra là nhằm góp phần đảm bảo tuân thủ pháp chế và kỷ luật nhà nước, tăng cường hiệu quả, hiệu lực của hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Pháp luật trao cho cơ quan thanh tra những nhiệm vụ, quyền hạn đặc biệt để tiến hành hoạt động thanh tra nhằm đạt được mục tiêu quan trọng nêu trên. Tuy nhiên, khi tiến hành hoạt động thanh tra trong đó có việc thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn đặc biệt này, cơ quan thanh tra phải đảm bảo không cần trở đến hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân là đối tượng thanh tra. Có như vậy, thanh tra mới thực sự là công cụ để củng cố và tăng cường pháp chế và kỷ luật nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Nguyên tắc không cản trở hoạt động bình thường của đối tượng thanh tra có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng, đặc biệt khi trên thực tế xuất hiện tình trạng một bộ phận cán bộ thanh tra lợi dụng việc thanh tra để thực hiện những hành vi tiêu cực, gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của đối tượng thanh tra, đặc biệt là của các đơn vị thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Nguyên tắc này cũng lấy nguyên tắc tuân theo pháp luật làm cơ sở để đảm bảo thực hiện. Luật Thanh tra đã quy định những hành vi bị nghiêm cấm trong trong quá trình tổ chức thực hiện hoạt động thanh tra, trong đó có những hành vi bị cấm nhằm đảm bảo thực hiện nguyên tắc không cản trở hoạt động bình thường của đối tượng thanh tra. Khoản 1, Điều 12 Luật Thanh tra cấm việc "lợi dụng chức vụ, quyền hạn thanh tra để thực hiện hành vi trái pháp luật, sách nhiễu, gây khó khăn, phiền hà cho đối tượng thanh tra". -Liên hệ việc AD nguyên tắc TT trên thực tế tại địa phương/đơn vị: Ưu điểm: Tuân thủ nguyên tắc nên quá trình TT được xuyên suốt, thuận lợi, giải quyết được nhiều KK, vướng mắc trong KN, TC và phát hiện nhiều sai phạm, tiêu cực để có hướng giải quyết phù hợp. Hạn chế: Phân tích +Tiêu cực, trái PL, hối lộ.. không còn minh bạch +Đối tượng TT ít được trình bày ý kiến, nguyện vọng +TT chủ quan, không khách quan, 1 số nd thiếu 9 xác +TT thường xuyên, bất ngờ không TB +Ảnh hưởng hđ của đối tượng TT+.. II. Phân biệt thanh tra với các hoạt động khác 1. Thanh tra với giám sát Giám sát, theo nghĩa chung nhất, được hiểu là "theo dõi, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ" ở góc độ pháp lý, với tính chất là một biện pháp bảo đảm pháp chế trong hoạt động quản lý nhà nước, giám sát được xác định là một hoạt động thuộc về chức năng của cơ quan quyền lực nhà nước (bao gồm Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp) đối với hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, trong đó có hoạt động quản lý hành chính nhà nước nhằm bảo đảm việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan này. Bên cạnh hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước, cơ quan tòa án, các tổ chức xã hội và cá nhân công dân cũng thực hiện các hoạt động giám sát đối với quản lý hành chính nhà nước bằng các hình thức pháp lý đặc trưng theo quy định của pháp luật. Hoạt động giám sát có những nét khác biệt cơ bản với hoạt động thanh tra ở những điểm sau đây: - Chủ thể chủ yếu thực hiện hoạt động giám sát là các cơ quan quyền lực nhà nước, bao gồm Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Ngoài ra, như đã nêu ở phần trên, tòa án, các tổ chức xã hội và cá nhân công dân cũng thực hiện những hoạt động giám sát bằng các cách thức, biện pháp của mình. Như vậy, chủ thể của hoạt động giám sát và đối tượng bị giám sát không cùng nằm trong một hệ thống, hay nói cách khác, cơ quan giám sát và cơ quan chịu sự giám sát không trong một hệ thống trực thuộc nhau theo chiều dọc. Trong khi đó, hoạt động thanh tra chủ yếu được thực hiện bởi các cơ quan thanh tra -cơ quan nằm trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước và chịu trách nhiệm thực hiện việc thanh tra đối với hoạt động của chính hệ thống cơ quan này. - Hoạt động giám sát được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, mang tính đặc thù, trong đó phải kể đến những hình thức giám sát mang tính trực tiếp, "tính theo dõi" của cơ quan giám sát đối với cơ quan chịu sự giám sát. Ví dụ: Giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp đối với các cơ quan nhà nước khác thông qua kỳ họp để xét các báo cáo của các cơ quan này. Hoạt động giảm sát được thực hiện thường xuyên, liên tục không cần phải thông báo hoặc ra quyết định như hoạt động thanh tra. 2. Thanh tra với kiểm tra Kiểm tra, theo nghĩa chung như đã nêu trên, là "xem xét thực chất, thực tế.. để đánh giá, nhận xét. Kiểm tra là một khái niệm rộng và trong thực tiễn, các hoạt động kiểm tra có thể được chia thành hai nhóm sau: - Kiểm tra mang tính chuyên môn - kỹ thuật như kiểm tra chất lượng sản phẩm, kiểm tra độ an toàn của các thiết bị, kiểm tra sức khoẻ.. - Kiểm tra đối với con người hoặc tổ chức của con người trong hành vi, hoạt động.. như kiểm tra của nhà nước đối với hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc tuân thủ pháp luật, kiểm tra của tổ chức xã hội đối với thành viên của tổ chức mình.. Trong phạm vi môn học này, kiểm tra được đề cập là dạng kiểm tra có nội dung như vậy. Trong quản lý hành chính nhà nước, kiểm tra được xem là một khâu không thể thiếu được trong hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền. Hoạt động thanh tra và hoạt động kiểm tra có thể phân biệt với nhau ở một số điểm sau đây: - Chủ thể tiến hành hoạt động thanh tra là bộ máy thanh tra - bộ máy chuyên trách, được tổ chức và hoạt động tương đối độc lập đối với đối tượng bị thanh tra. Sự độc lập này đảm bảo tính chất khách quan, vô tư trong hoạt động của các cơ quan thanh tra. Trong khi đó, kiểm tra là hoạt động của các chủ thể quản lý hành chính nhà nước tiến hành đối với các đối tượng quản lý thuộc quyền và nó có thể là hoạt động tự kiểm tra đối với công việc của chính mình. - Kiểm tra là hoạt động có tính chất thường xuyên, liên tục đối với mọi hoạt động quản lý kể cả những hoạt động quản lý có tính chất đơn giản diễn ra hàng ngày nhằm phát hiện ra những yếu kém trong công tác quản lý, kịp thời có các biện pháp khắc phục, sửa chữa. Trong khi đó hoạt động thanh tra hướng vào những vụ việc có tính chất phức tạp hơn, với yêu cầu phải kiểm tra một cách tỉ mỉ, toàn diện và sâu sắc hơn đối với một vấn đề, hoạt động hay lĩnh vực nào đó của quản lý hành chính nhà nước. Hoạt động thanh tra được tiến hành trên cơ sở quyết định thanh tra của các chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật thanh tra. - Hoạt động thanh tra được tiến hành theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định và thông thường nó đòi hỏi phải tốn nhiều thời gian và công sức hơn so với hoạt động kiểm tra. 3. Thanh tra với hoạt động kiểm toán nhà nước Kiểm toán là việc kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, trung thực và hợp pháp của các số liệu, tài liệu kế toán và báo cáo quyết toán của các doanh nghiệp, tổ chức, cơ quan và trên cơ sở kết quả kiểm toán đưa ra kết luận về việc tuân thủ pháp luật, chính sách, chế độ tài chính kế toán và hiệu quả hoạt động của đơn vị được kiểm toán. Ở Việt Nam hiện nay, hoạt động kiểm toán được thực hiện bởi kiểm toán Nhà nước, các tổ chức kiểm toán độc lập và kiểm toán nội bộ Tổ chức kiểm toán độc lập là một doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp, thực hiện việc kiểm toán khi được yêu cầu. Kiểm toán nội bộ là bộ phận chuyên môn do doanh nghiệp thành lập để thực hiện công tác kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp nhằm đánh giá về chất lượng và độ tin cậy của thông tin kinh tế, tài chính mà doanh nghiệp đưa ra; kiểm soát việc bảo vệ an toàn tài sản của doanh nghiệp; kiểm soát việc chấp hành luật pháp, chính sách, chế độ của Nhà nước, cũng như các nghị quyết, quyết định của Hội đồng quản trị, của Ban Giám đốc doanh nghiệp. Kiểm toán Nhà nước là cơ quan thuộc Chính phủ có chức năng giúp Chính phủ kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của tài liệu kế toán, báo cáo quyết toán của các cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, đơn vị kinh tế nhà nước và các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội có sử dụng kinh phí do Nhà nước cấp. Kiểm toán Nhà nước do Tổng kiểm toán Nhà nướclãnh đạo; giúp việc cho Tổng kiểm toán có các Phó Tổng kiểm toán. Tổng kiểm toán và các Phó Tổng kiểm toán do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm và miễn nhiệm. Hoạt động kiểm toán nhà nước có đối tượng là các đơn vị có sử dụng ngân sách nhà nước và hoạt động này nhằm mục đích tăng cường sự kiểm soát của Nhà nước trong việc quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước và tài sản quốc gia. Hoạt động kiểm toán nhà nước và hoạt động thanh tra tài chính có điểm giống nhau là chúng đều kiểm tra các báo cáo, quyết toán của cơ quan, tổ chức có sử dụng ngân sách nhà nước. Điều này rất dễ gây ra tình trạng chồng chéo, trùng lặp giữa hai hoạt động này. Pháp luật có quy định, kế hoạch kiểm toán hàng năm phải được thống nhất với Tổng Thanh tra và Bộ trưởng Bộ Tài chính trước khi trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Tuy nhiên hai hoạt động này do hai cơ quan độc lập với nhau tiến hành nên chúng có những điểm khác biệt sau đây: - Kiểm toán nhà nước là hoạt động nhằm xác định tính đúng đắn, hợp pháp của tất cả các báo cáo quyết toán thực hiện ngân sách nhà nước sau một thời kỳ thực hiện ở các cơ quan, đơn vị có sử dụng ngân sách nhà nước. Thanh tra là hoạt động được tiến hành trên mọi lĩnh vực của hoạt động quản lý hành chính nhà nước, tất nhiên trong đó có lĩnh vực tải chính - ngân sách. Việc xem xét các báo cáo quyết toán của các cơ quan, đơn vị là đối tượng của hoạt động thanh tra chỉ được đặt ra trong trường hợp cần thiết cho việc kết luận của cơ quan thanh tra. - Hoạt động thanh tra tài chính - ngân sách có phạm virộng hơn so với hoạt động kiểm toán nhà nước. Kiểm toán nhà nước chỉ được tiến hành đối với hoạt động thu chi ngân sách đã được thực hiện thông qua các báo cáo quyết toán. Trong khi đó thanh tra có thể thực hiện đối với các hoạt động thu chi ngân sách đã thực hiện, đang thực hiện và các hoạt động tài chính có liên quan đến các dự án sẽ thực hiện trong tương lai. III. So sánh: Thanh tra hành chính – Thanh tra chuyên ngành 1. Giống nhau: + Thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành đều thuộc thanh tra nhà nước. Là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân. + Hoạt động thanh tra nhằm phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật. Bài viết sau nhầm giúp người đọc phân biệt cơ bản các loại thanh tra 2. Khác nhau: Khái niệm: + Thanh tra hành chính được hiểu là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Ví dụ: Trong quý I/2019, thành phố Hồ Chí Minh thực hiện 62 cuộc thanh tra hành chính và phát hiện 20 đơn vị có vi phạm, vi phạm về kinh tế gần 19 tỷ đồng; kiến nghị xử lý hành chính 28 tập thể và 12 cá nhân. + Thanh tra chuyên ngành được hiểu là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó. Ví dụ: Thanh tra chuyên ngành về bảo hiểm xã hội như: Trong 6 tháng đầu năm 2018, ngành Bảo hiểm xã hội đã thực hiện tốt chức năng thanh tra chuyên ngành về đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế. Qua đó, đã chấn chỉnh những tồn tại, vi phạm, đề ra những biện pháp để các đơn vị kịp thời khắc phục, sửa chữa. Đối tượng: Đối tượng của của hoạt động thanh tra hành chính là cá nhân, cơ quan, tổ chức phải có quan hệ về mặt tổ chức với cơ quan quản lý. Ví dụ: Về thanh tra hành chính thì đối tượng thanh tra Thanh tra tỉnh, Thanh tra các sở, Thanh tra các huyện, thị xã, thành phố sẽ là các cơ quan hành chính cấp dưới Còn đối tượng của hoạt động thanh tra chuyên ngành là tất cả các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động thuộc thẩm quyền quản lý ngành, lĩnh vực, chuyên môn. Ví dụ: Thanh tra Bảo hiểm xã hội tỉnh sẽ tiến hành thanh tra cơ quan bảo hiểm xã hội quận, huyện. Vậy đối tượng thanh tra ngành được hiểu là cơ quan cùng ngành như là cấp dưới của cơ quan tiến hành thực hiện thanh tra. Thẩm quyền ra quyết định: Thẩm quyền ra quyết định thanh tra hành chính là Thủ trưởng cơ quan thanh tra nhà nước, trong trường hợp cần thiết, Thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước cũng có thể ra quyết định và thành lập Đoàn thanh tra. Ví dụ: Chỉ thị số 20/CT-TTg ngày 17/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ và triển khai thực hiện Chỉ thị số 03/CT-UBND ngày 29/4/2016 về thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp, gắn với hướng dẫn, định hướng chương trình kế hoạch thanh tra năm 2018 đối với các sở, ngành và UBND huyện, thị xã, thành phố Thẩm quyền ra quyết định thanh tra chuyên ngành là Chánh Thanh tra bộ, Chánh Thanh tra sở, Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành ra quyết định thanh tra, trong trường hợp xét thấy cần thiết, Bộ trưởng, Giám đốc sở cũng có thể ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn thanh tra. Ví dụ: Ngày 03/01/2018, Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã ban hành Quyết định số 34/QĐ-BHXH về kế hoạch thanh tra chuyên ngành, thanh tra liên ngành và kiểm tra năm 2018. Theo đó, năm 2018, Bảo hiểm xã hội Việt Nam chủ trì và phối hợp thực hiện kiểm tra, thanh tra liên ngành và thanh tra chuyên ngành tại 30 tỉnh, thành phố (với gần 300 đơn vị sử dụng lao động và cơ sở khám, chữa bệnh) ; giao cho Bảo hiểm xã hội các tỉnh, thành phố thực hiện kiểm tra, thanh tra liên ngành, thanh tra chuyên ngành tại 5.396 đơn vị. Phạm vi thanh tra: Đối với hoạt động thanh tra hành chính: thông thường là việc thanh tra, đánh giá toàn diện, mọi mặt của đối tượng hoặc thanh tra, đánh giá một mặt của đối tượng. Còn hoạt động thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra trong phạm vi ngành, lĩnh vực, hoạt động chuyên môn. Cách thức thực hiện: Hoạt động thanh tra hành chính được tiến hành bởi các Đoàn thanh tra. Khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định thanh tra hành chính sẽ thành lập Đoàn thanh tra để tiến hành hoạt động thanh tra. Còn hoạt động thanh tra chuyên ngành do các Thanh tra viên, người được giao thực hiện hoạt động thanh tra chuyên ngành thực hiện trong phạm vi, nhiệm vụ, thời hạn được giao. Thời hạn thanh tra: Đối với thanh tra hành chính được chia thành các cấp như sau: + Thanh tra Chính phủ tiến hành: Không quá 60 ngày, có thể kéo dài không quá 90 ngày. Trường hợp đặc biệt không quá 150 ngày. + Thanh tra Tỉnh, Bộ tiến hành: Không quá 45 ngày, có thể kéo dài không quá 70 ngày + Thanh tra huyện: Không quá 30 ngày, kéo dài không quá 45 ngày Đối với thanh tra chuyên ngành: + Đối với đoàn thanh tra: Thanh tra cấp trung ương bao gồm bộ, tổng cục, cục thuộc bộ: Tiến hành thanh tra không quá 45 ngày, có thể kéo dài không quá 70 ngày. Cuộc thanh tra chuyên ngành do thanh tra sở, Chi cục thuộc Sở tiến hành không quá 30 ngày; nhưng không quá 45 ngày. +Đối với độc lập: Thời hạn thanh tra chuyên ngành độc lập đối với mỗi đối tượng thanh tra là 05 ngày làm việc, kể từ ngày tiến hành thanh tra. Gia hạn không quá 5 ngày. Thành viên trong đoàn thanh tra: Đối với đoàn thanh tra hành chính sẽ bao gồm các thành viên sau: +Đoàn thanh tra hành chính có Trưởng đoàn thanh tra, các thành viên Đoàn thanh tra; trường hợp cần thiết có Phó Trưởng đoàn Thanh tra. +Đoàn thanh tra liên ngành gồm đại diện những cơ quan liên quan; Trưởng đoàn thanh tra là đại diện cơ quan chủ trì tiến hành thanh tra. Đối với đoàn thanh tra chuyên ngành sẽ bao gồm các thành viên sau: + Đối với các cơ quan, tổ chức được Nhà nước giao quyền, gồm: Thanh tra bộ; thanh tra sở; cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành. Đây là các cơ quan có nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn kỹ thuật, quy tắc quản lý ngành, lĩnh vực của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý Nhà nước. + Đối với chủ thể tiến hành thanh tra chuyên ngành là cá nhân, gồm: Người có thẩm quyền ra quyết định thanh tra chuyên ngành: Bộ trưởng, giám đốc sở, thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, chánh thanh tra bộ, chánh thanh tra sở; những người trực tiếp tiến hành thanh tra: Trưởng đoàn thanh tra; các thành viên đoàn thanh tra chuyên ngành; thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành tiến hành thanh tra độc lập. Chức năng: Trong hoạt động thanh tra hành chính thì việc thanh tra có các chức năng cơ bản như sau: + Thực hiện việc thanh tra hành chính ở cấp Bộ sẽ giúp cho việc quản lý nhà nước về công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; thực hiện thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành; giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng thuộc lĩnh vực lao động, người có công và xã hội trong phạm vi cả nước theo quy định của pháp luật. Thanh tra Bộ chịu sự chỉ đạo, điều hành của Bộ trưởng và chịu sự chỉ đạo về công tác, hướng dẫn về nghiệp vụ của Thanh tra Chính phủ. + Thực hiện việc thanh tra hành chính ở cấp Sở sẽ giúp cho việc tiến hành thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành, giải quyết khiếu nại, tố cáo, tiếp công dân và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật. Thanh tra Sở chịu sự chỉ đạo, điều hành của Giám đốc Sở; chịu sự chỉ đạo về công tác thanh tra và hướng dẫn về nghiệp vụ thanh tra hành chính của Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, về nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành của Thanh tra Bộ. Trong hoạt động thanh tra, chủ thể tiến hành thanh tra chuyên ngành có các đặc điểm sau: +Thứ nhất, chủ thể tiến hành thanh tra chuyên ngành mang tính quyền lực Nhà nước và thực hiện quyền lực Nhà nước để tiến hành các hoạt động thanh tra. Thanh tra là một hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước. Để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước, chủ thể tiến hành thanh tra phải tác động tích cực nhằm thực hiện quyền lực của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản lý. Tính quyền lực Nhà nước của hoạt động thanh tra thể hiện ở chỗ, các cơ quan, tổ chức, cá nhân là chủ thể tiến hành thanh tra đều có nhiệm vụ, quyền hạn được xác định và khả năng thực hiện những quyền hạn đó. +Thứ hai, cơ quan, tổ chức, cá nhân chỉ thể hiện vai trò chủ thể tiến hành thanh tra chuyên ngành trong giai đoạn lịch sử cụ thể hoặc khoảng thời gian nhất định theo quy định của pháp luật, tùy thuộc vào vị trí, chức năng, nhiệm vụ của từng chủ thể. Năng lực chủ thể tiến hành thanh tra của cơ quan thanh tra Nhà nước phát sinh khi cơ quan đó được thành lập và chấm dứt khi cơ quan đó bị giải thể. Năng lực này được pháp luật của Nhà nước quy định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý chuyên ngành, lĩnh vực, chuyên môn – kỹ thuật, như bộ, sở. IV. So sánh Thanh tra Hành chính; Thanh tra chuyên ngành: Thanh tra nhân dân: * Khái niệm: - Thanh tra Hành chính: Là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. (K2, Đ3 LTT) - Thanh tra chuyên ngành: Là hoạt động thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật, những quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý của ngành, lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý" (khoản 3 Điều 3 luật thanh tra) - Thanh tra Nhân dân: Hình thức giám sát của nhân dân thông qua Ban thanh tra nhân dân đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở của cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm ở xã, phường, thị trấn, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước (k8, DD3 LTT) * Tính chất: - Thanh tra HC: Nội bộ hệ thống - Thanh tra CN: Theo ngành, lĩnh vực - Thanh tra ND: Giám sát xã hội * Cơ sở: - Thanh tra HC: Quan hệ trực thuộc của các đối tượng thanh tra, kiểm tra với (thủ trưởng) cơ quan hành chính - Thanh tra CN: Không có quan hệ trực thuộc * Quyền hạn: - Thanh tra HC: Rất lớn, kể cả quyền áp dụng chế tài kỷ luật, thay đổi về nhân sự - Thanh tra CN: Không có quyền áp dụng chế tài kỷ luật, thay đổi nhân sự nhưng có quyền xử phạt hành chính. Ngoài ra, khi thực hiện thanh tra các vụ vi phạm phức tạp, nghiêm trọng thì thanh tra chuyên ngành phải và có quyền tiến hành kiểm tra rất tỉ mỉ, cụ thể không khác gì công tác điều tra (nhưđiều tra vi phạm xả nước thải ra sông Thị Vải của công ty Vê Đan). - Thanh tra ND: Nhiều khi tổ chức thanh tra nhân dân cũng thực hiện quyết định thanh tra của thủ trưởng cùng cấp hay phối hợp với Thanh tra nhà nước thì nó cũng mang tính chất nhà nước, nhưng quyền hạn thanh tra chỉ hạn chế ở quyền kiến nghị. * Chủ thể thực hiện: - Thanh tra HC: Thủ trưởng hoặc cấp phó của thủ trưởng và những thành viên được ủy quyền của tất cả các cơ quan hành chính các cấp (Thủ tướng và các phó Thủ tướng hoặc các thành viên Chính phủ được ủy quyền. - Thanh tra CN: Chánh thanh tra (bộ, sở), các trưởng đoàn thanh tra, thanh tra viên được trao quyền. - Thanh tra ND: Ban thanh tra nhân dân * Trách nhiệm Thủ trưởng: - TTHC: Thủ trưởng đều chịu trách nhiệm trực tiếp và toàn bộ - TTCN: Thủ trưởng chỉ chịu trách nhiệm chung về quản lý, chỉ đạo, mà chịu trách nhiệm cụ thể và trực tiếp là các chủ thể trực tiếp thực hiện thanh tra. * Phạm vi thanh tra kiểm tra: - TTHC: Toàn bộ hoạt động của tất cả các cơ quan hành chính các cấp và các ngành, lĩnh vực trực thuộc cơ quan có quyền thanh tra trên phạm vi toàn quốc hoặc ở địa phương hoặc ngành, lĩnh vực - TTCN: Là hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật, những quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý của ngành, lĩnh vực - TTND: Là việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở của cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm ở xã, phường, thị trấn, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước. * Phương pháp tác động: - TTHC: Mang tính quyền lực lớn, như quyền của Thủ tướng và chủ tịch UBND trong quan hệ với các cơ quan, người có chức vụ trực thuộc được quy định trong Hiến pháp và các luật. - TTND: Là kiến nghị người có thẩm quyền xử lý vi phạm và giám sát việc thực hiện kiến nghị đó; kiến nghị với người đứng đầu ở cơ sở khắc phục sơ hở, thiếu sót được phát hiện qua việc giám sát. *Tổ chức hệ thống: - Thanh tra Hành chính: : + Thanh tra Chính phủ – là cơ quan của Chính phủ, có vị trí như một bộ; + Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương – là cơ quan thuộc UBND cấp tỉnh, có vị trí như một sở (gọi chung là "thanh tra tỉnh") ; + Thanh tra huyện và cấp tương đương thuộc UBND cấp huyện, có vị trí như một phòng (gọi chung là "thanh tra huyện"). - Thanh tra chuyên ngành: + Thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan thuộc Chính phủ (gọi chung là "thanh tra bộ") – là tổ chức trực thuộc bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ; + Thanh tra sở – là tổ chức trực thuộc giám đốc sở hoặc tương đương (gọi chung là "thanh tra sở"). - Thanh tra Nhân dân: + Ban Thanh tra nhân dân ở xã, phường, thị trấn thì do nhân dân (hoặc đại biểu nhân dân) xã, phường, thị trấn bầu ra và do ủy ban MTTQVN xã, phường, thị trấn chỉ đạo hoạt động; + Ban Thanh tra nhân dân ở các cơ quan, đơn vị, tổ chức cơ sở khác của Nhà nước thì do đại hội (hoặc đại hội đại biểu) công chức, viên chức của đơn vị lập ra và Ban chấp hành Công đoàn cơ sở chỉ đạo hoạt động. * Nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, người có thẩm quyền, người được trao quyền: - TTHC: 1. Kiến nghị Bộ trưởng đình chỉ việc thi hành hoặc huỷ bỏ những quy định do bộ đó ban hành trái với các văn bản pháp luật của Nhà nước, của Tổng thanh tra về công tác thanh tra; nếu Bộ trưởng không đình chỉ hoặc huỷ bỏ văn bản đó thì trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. 2. Đình chỉ việc thi hành và đề nghị Thủ tướng Chính phủ bãi bỏ những quy định của UBND cấp tỉnh, Chủ tịch UBND cấp tỉnh trái với văn bản của Tổng thanh tra về công tác thanh tra. 3. Xem xét những vấn đề mà Chánh thanh tra bộ không nhất trí với Bộ trưởng, Chánh thanh tra tỉnh không nhất trí với Chủ tịch UBND cấp tỉnh về công tác thanh tra và đề nghị Bộ trưởng, Chủ tịch UBND cấp tỉnh xem xét lại; trường hợp Bộ trưởng, Chủ tịch UBND cấp tỉnh không xem xét hoặc đã xem xét nh¬ưng Tổng thanh tra không nhất trí thì báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định ". - TTCN: Nhiệm vụ, quyền hạn của thanh tra chuyên ngành được quy định tại các điều 53; 54, 55 Luật Thanh tra 2010. (Tra luật ghi vào) - TTND: Các bảo đảm cho hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân là các quy định của LTT về trách nhiệm của UBND cấp xã hoặc thủ trưởng cơ quan tương ứng phải tạo điều kiện cho hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, phải xem xét, giải quyết và trả lời các kiến nghị, yêu cầu của Ban Thanh tra nhân dân trong thời hạn chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu, kiến nghị đó. V. Phân biệt hoạt động thanh tra nhà nước và thanh tra nhân dân Thanh tra nhà nước – Đối tượng của thanh tra nhà nước: + Trong đó đối tượng Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. + Đối tượng thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó. Căn cứ vào Luật Thanh tra 2010 Cơ quan thanh tra nhà nước, bao gồm: – Thanh tra Chính phủ; Theo đó, trong hoạt động thanh tra, Thanh tra Chính phủ có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: + Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật và nhiệm vụ, quyền hạn của bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; thanh tra đối với doanh nghiệp nhà nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập; + Thanh tra vụ việc phức tạp, liên quan đến trách nhiệm quản lý của nhiều bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; + Thanh tra vụ việc khác do Thủ tướng Chính phủ giao; + Kiểm tra tính chính xác, hợp pháp của kết luận thanh tra và quyết định xử lý sau thanh tra của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ (sau đây gọi chung là Bộ trưởng), Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh khi cần thiết. Quản lý nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Quản lý nhà nước về công tác phòng, chống tham nhũng; thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng. – Thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ (sau đây gọi chung là Thanh tra bộ) ; Theo đó, trong hoạt động thanh tra, Thanh tra bộ có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: + Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật và nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của bộ; thanh tra đối với doanh nghiệp nhà nước do Bộ trưởng quyết định thành lập; + Thanh tra việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý ngành, lĩnh vực của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý nhà nước của ngành, lĩnh vực do bộ phụ trách; + Thanh tra vụ việc khác do Bộ trưởng giao; + Kiểm tra tính chính xác, hợp pháp của kết luận thanh tra và quyết định xử lý sau thanh tra của Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với vụ việc thuộc ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước của bộ khi cần thiết. Giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về công tác phòng, chống tham nhũng; thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng. – Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Thanh tra tỉnh) ; Theo đó, trong hoạt động thanh tra, Thanh tra tỉnh có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: + Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật và nhiệm vụ, quyền hạn của sở, của Ủy ban nhân dân cấp huyện; thanh tra đối với doanh nghiệp nhà nước do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập; + Thanh tra vụ việc phức tạp, liên quan đến trách nhiệm của nhiều sở, Ủy ban nhân dân cấp huyện; + Thanh tra vụ việc khác do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giao; + Kiểm tra tính chính xác, hợp pháp của kết luận thanh tra và quyết định xử lý sau thanh tra của Giám đốc sở, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện khi cần thiết. Giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về công tác phòng, chống tham nhũng; thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng. – Thanh tra sở; Theo đó, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra sở – Xây dựng kế hoạch thanh tra trình Giám đốc sở phê duyệt; tổ chức thực hiện kế hoạch thanh tra thuộc trách nhiệm của Thanh tra sở; hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch thanh tra của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc sở. – Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật và nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của sở. – Thanh tra việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý ngành, lĩnh vực của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý của sở. – Thanh tra vụ việc khác do Giám đốc sở giao. – Hướng dẫn, kiểm tra cơ quan, đơn vị thuộc sở thực hiện quy định của pháp luật về thanh tra. – Yêu cầu Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc sở báo cáo về công tác thanh tra; tổng hợp, báo cáo kết quả về công tác thanh tra thuộc phạm vi quản lý của sở. – Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra của Giám đốc sở, Thanh tra sở. – Kiểm tra tính chính xác, hợp pháp của kết luận thanh tra và quyết định xử lý sau thanh tra của Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc sở đối với vụ việc thuộc ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước của sở khi cần thiết. – Thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo. – Thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng. – Thanh tra huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Thanh tra huyện). Theo đó, cơ quan thanh tra nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình tiến hành thực hiện và giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện công tác quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật. Thanh tra nhân dân – Đối tượng thanh tra nhân dân là hình thức giám sát của nhân dân thông qua Ban thanh tra nhân dân đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở của cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm ở xã, phường, thị trấn, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước". Tại Nghị định 159/2016/NĐ-CP quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Ban thanh tra nhân dân ở cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước: Giám sát cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước và cá nhân có trách nhiệm ở cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước theo quy định về phạm vi giám sát của Ban thanh tra nhân dân: Phạm vi giám sát của Ban thanh tra nhân dân ở cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập: – Tthực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ công tác hằng năm của cơ quan, đơn vị; – Sử dụng kinh phí hoạt động từ nguồn ngân sách nhà nước, sử dụng các quỹ, chấp hành chế độ quản lý tài chính, tài sản và công tác tự kiểm tra tài chính của cơ quan, đơn vị; – Thực hiện Nghị quyết Hội nghị cán bộ, công chức, viên chức, Nghị quyết Hội nghị đại biểu cán bộ, công chức, viên chức của cơ quan, đơn vị; việc thực hiện nội quy, quy chế của cơ quan, đơn vị; – Thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động theo quy định của pháp luật; – Thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở cơ quan, đơn vị; – Tiếp công dân, tiếp nhận và xử lý đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh thuộc thẩm quyền của người đứng đầu cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập; việc thi hành các quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo đã có hiệu lực pháp luật tại cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập; – Thực hiện các kết luận, quyết định xử lý về thanh tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; việc xử lý các vụ việc tham nhũng, lãng phí trong cơ quan, đơn vị; Phạm vi giám sát của Ban thanh tra nhân dân ở doanh nghiệp nhà nước: – Thực hiện nhiệm vụ, chỉ tiêu kế hoạch sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; thực hiện chế độ, chính sách đối với người lao động theo quy định của pháp luật; – Thực hiện quy chế dân chủ cơ sở tại nơi làm việc; Nghị quyết của Hội nghị người lao động; kết quả đối thoại thường kỳ, đối thoại theo yêu cầu được ghi tại biên bản đối thoại; – Thực hiện các nội quy, quy chế của doanh nghiệp; – Việc thực hiện chính sách, chế độ của nhà nước, nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với nhà nước; việc sử dụng các loại quỹ tại doanh nghiệp; – Việc giải quyết tranh chấp lao động; – Việc tiếp công dân, tiếp nhận và xử lý đơn, thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh thuộc thẩm quyền của người đứng đầu doanh nghiệp; việc thi hành quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo đã có hiệu lực pháp luật tại doanh nghiệp; – Việc thực hiện các kết luận, quyết định xử lý về thanh tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; việc xử lý vụ việc tham nhũng, lãng phí trong doanh nghiệp; Theo đó, có thể thấy pháp luật quy định thanh tra nhân dân được tổ chức dưới hình thức Ban thanh tra nhân dân được thành lập ở xã, phường, thị trấn, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước. Như vậy, đối với hoạt động thanh tra nhà nước và hoạt động thanh tra nhân dân thì được quy định về quyền hạn và trách nhiệm là hoàn toàn khác nhau. Trong hoạt động của cơ quan thanh tra nhà nước thì được chia thành thanh tra chính phủ, thanh tra bộ, thanh tra tỉnh, thanh tra sở.. làm việc theo thẩm quyền các cấp; còn đối với thanh tra nhân dân thì được tổ chức và hoạt động theo Ban thanh tra hoạt động tại xã, phường, thị trấn, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước thực hiện các nhiệm vụ theo quyền hạn của mình. - HẾT- Cảm ơn mọi người đã xem bài viết của em![/HIDE-REPLY][/HIDE-REPLY]