- Xu
- 13,791,790
Bài viết: 2022 



Xin giới thiệu tới các thầy cô và các bạn học sinh bộ 05 đề ôn tập, kiểm tra Ngữ văn 12.
Mỗi đề gồm 2 phần: Đọc hiểu và Làm văn theo cấu trúc đề thi của bộ giáo dục.
Các câu hỏi trong bài đọc hiểu, bài nghị luận xã hội đã được biên soạn mới.
Phần nghị luận văn học xoay quanh các đoạn thơ trong văn bản "Việt Bắc" - Tố Hữu, có yêu cầu phụ đi kèm.
Mỗi đề gồm 2 phần: Đọc hiểu và Làm văn theo cấu trúc đề thi của bộ giáo dục.
Các câu hỏi trong bài đọc hiểu, bài nghị luận xã hội đã được biên soạn mới.
Phần nghị luận văn học xoay quanh các đoạn thơ trong văn bản "Việt Bắc" - Tố Hữu, có yêu cầu phụ đi kèm.
ĐỀ BÀI ÔN TẬP NGỮ VĂN 12 THAM KHẢO
Đề 1

Đề 1
I. ĐỌC HIỂU
Đọc đoạn trích sau:
"Đố kị nghĩa là bực tức, khó chịu trước những may mắn và thành công của người khác. Trong khi người thành công luôn nhìn thấy và học hỏi những đức tính tốt đẹp của người khác thì kẻ thất bại lại không làm được điều đó. Họ không muốn nhắc đến thành công của người khác, đồng thời luôn tìm cách chê bai, hạ thấp họ. Họ để mặc cho lòng tỵ hiềm, thói ganh tỵ, cảm giác tự ti gặm nhấm tâm trí ngày qua ngày.
Đố kị không những khiến con người cảm thấy mệt mỏi mà còn hạn chế sự phát triển của mỗi người. Thói đố kị khiến chúng ta lãng phí thời gian và không thể tận dụng hết năng lực để đạt được điều mình mong muốn. Ganh tị với sự thành công của người khác sẽ khiến chúng ta đánh mất cơ hội thành công của chính mình.
Tạo hóa tạo ra con người trong sự khác biệt và bình đẳng. Bạn cần phải ý thức được rằng, bạn là duy nhất và không bao giờ có người nào hoàn toàn giống bạn, cả về diện mạo lẫn tính cách. Vì thế, thay vì ganh tị với thành công và may mắn của người khác, bạn hãy tập trung toàn bộ tâm trí vào những ước mơ, dự định, đồng thời cố gắng hoàn thành chúng một cách triệt để. Hãy tự hào về sự khác biệt của bản thân bạn và vui mừng trước sự may mắn, thành công của những người xung quanh. Niềm vui ấy sẽ chắp cánh cho hạnh phúc của bạn và sớm muộn gì, bạn cũng sẽ đạt được thành công như họ".
(Trích"Không gì là không thể" – George Matthew Adams – Thu Hằng dịch, Tr. 117, NXB Tổng hợp Tp Hồ Chí Minh, 2019)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1. Xác định phong cách ngôn ngữ và phương thức biểu đạt chính của đoạn trích.
Câu 2. Theo tác giả, người đố kị thường có biểu hiện như thế nào?
Câu 3. Từ đoạn trích, anh/chị hãy lí giải vì sao: Ganh tị với sự thành công của người khác sẽ khiến chúng ta đánh mất cơ hội thành công của chính mình?
Câu 4. Anh/ chị có đồng tình với lời khuyên của tác giả "thay vì ganh tị với thành công và may mắn của người khác, bạn tập trung toàn bộ tâm trí vào những ước mơ, dự định, đồng thời cố gắng hoàn thành chúng một cách triệt để" không? Vì sao?
II. LÀM VĂN
Câu 1.
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh / chị hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) bày tỏ suy nghĩ về vấn đề: Sự cần thiết phải từ bỏ thói đố kị.
Câu 2.
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay..
(Trích "Việt Bắc" – Tố Hữu)
Phân tích đoạn thơ trên, từ đó hãy nhận xét về chất trữ tình, chính trị trong thơ Tố Hữu.
GỢI Ý LÀM BÀI
I. ĐỌC HIỂU
Câu 1.
- Phong cách ngôn ngữ: Chính luận
- Phương thức biểu đạt chính: Nghị luận
Câu 2.
- Biểu hiện của thói đố kị:
+ bực tức, khó chịu trước những may mắn và thành công của người khác;
+ không muốn nhắc đến thành công của người khác, đồng thời luôn tìm cách chê bai, hạ thấp họ;
+để mặc cho lòng tỵ hiềm, thói ganh tỵ, cảm giác tự ti gặm nhấm tâm trí ngày qua ngày..
Câu 3.
Ganh tị với sự thành công của người khác sẽ khiến chúng ta đánh mất cơ hội thành công của chính mình vì:
Khi ganh tị với thành công của người khác, con người sẽ cảm thấy mệt mỏi, hạn chế sự phát triển của bản thân. Ganh tị với thành công của người khác khiến ta lãng phí thời gian, không tận dụng hết năng lực để đạt được điều mình muốn. Ganh tị với thành công của người khác còn khiến ta không tạo được thiện cảm với mọi người, không kết giao được những mối quan hệ bền vững, đánh mất cơ hội thành công..
Câu 4.
Tôi đồng tình với lời khuyên của tác giả "thay vì ganh tị với thành công và may mắn của người khác, bạn tập trung toàn bộ tâm trí vào những ước mơ, dự định, đồng thời cố gắng hoàn thành chúng một cách triệt để." Vì:
- Ganh tị với sự thành công của người khác sẽ khiến chúng ta đánh mất cơ hội thành công của chính mình.
- Tập trung toàn bộ tâm trí vào những ước mơ, dự định, đồng thời cố gắng hoàn thành chúng một cách triệt để thì ta sẽ thực hiện được ước mơ, dự định, có được thành công, khẳng định được giá trị của mình. Khi có được những điều đó, ta đâu cần phải ganh tị với người khác.
II. LÀM VĂN
Câu 1. Bày tỏ suy nghĩ về vấn đề: Sự cần thiết phải từ bỏ thói đố kị.
"Ganh tị với sự thành công của người khác sẽ khiến chúng ta đánh mất cơ hội thành công của chính mình." – quan điểm của George Matthew Adams trong văn bản trên đã nói lên phần nào tác hại của thói đố kị. Đố kị nghĩa là bực tức, khó chịu trước những may mắn và thành công của người khác. Đố kị là thói xấu, như một thứ vi rút gặm nhấm tâm hồn ta, vì thế cần phải từ bỏ thói đó kị. Cần từ bỏ thói xấu này bởi đố kị không bao giờ khiến tâm hồn ta được thanh thản, khi lúc nào cũng bực tức trước thành công của người khác. Đố kị còn khiến ta mệt mỏi, chán nản, vì vậy mà hạn chế sự phát triển của bản thân. Khi dành nhiều thời gian vào việc chê bai, hạ bệ thành quả của người khác vì thói đố kị, ta sẽ không tận dụng hết năng lực để đạt được điều mình muốn. Người có thói đố kị khó có thể tạo được thiện cảm và lòng tin với mọi người, không kết giao được những mối quan hệ bền vững, đánh mất cơ hội thành công.. Đố kị trong gia đình khiến tình thân rạn nứt, đố kị ngoài xã hội gây hại cho tập thể. Không ít người vì đố kị nhau mà gây hiềm khích, thiệt mình, thiệt người, ảnh hưởng tới người khác. Thử ngẫm xem, nếu trong tập thể, người này đố kị với người kia thì tập thể đó liệu có đoàn kết, phát triển vững mạnh không? Hơn nữa đố kị sẽ gây nên thù hằn, thù hằn sinh ra dối trá. Đố kị là nguồn gốc của mọi tâm tính xấu. Như vậy, đố kị chỉ có hại, chứ không mang lại giá trị cho con người, nên đừng để con rắn đố kị len vào tâm trí. Ta cần loại bỏ thói đố kị và tập trung vào việc phát triển năng lực, sở trường của chính mình. Bởi mỗi người đều có giá trị riêng, mình không giỏi lĩnh vực này nhưng lại có khả năng ở lĩnh vực khác. Hãy tự hào về sự khác biệt của bản thân và vui mừng cho thành công của người khác, để đố kị không còn là thứ vi rút ăn mòn tâm hồn và tính cách của chính bản thân ta. Hãy khắc ghi lời dạy của nhà Phật:
"Ở đời ganh ghét chẳng được chi
Thù hận hại nhau chẳng được gì
Xã hội bao la người mỗi tính
Rộng lượng bao dung bớt sầu bi"
Câu 2.
Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn thơ
Thân bài:
- Khái quát:
+ Hoàn cảnh sáng tác bài thơ: Tháng 10/ 1954, chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi, đất nước đã hòa bình, Bác Hồ và các cơ quan trung ương Đảng, cùng với phần lớn các tổ chức kháng chiến, những người kháng chiến đã hồ hởi trở về tiếp quản thủ đô. Một cuộc chia tay lớn mang tính chất lịch sử đã diễn ra. Nhân sự kiện ấy Tố Hữu đã viết bài thơ Việt Bắc.
+ Lấy điểm xuất phát là cuộc chia tay lịch sử giữa cơ quan trung ương của Đảng và chính phủ với chiến khu Việt Bắc, bài thơ nói chung và đoạnt hơ nói riêng đã thể hiện những tính cảm nhớ thương, sâu sắc, chân thành giữa người đi và kẻ ở, giữa đồng bào Việt Bắc và cán bộ kháng chiến.
+ Niềm thương nhớ đó đã được diễn đạt bằng hình thức đối đáp "mình" – "ta", thể thơ lục bát truyền thống trữ tình ngọt ngào. Hình thức nghệ thuật độc đáo ấy khiến cho bản hùng ca về 15 năm cách mạng kháng chiến bỗng có dáng dấp của một bản tình ca. Tố Hữu đã tổ chức bài thơ thành một khúc hát giao duyên. Ở đó có khúc dạo đầu, có lời độc thoại nội tâm của người về, có cuộc đối đáp giao duyên giữa người đi và kẻ ở và cuối cùng là sự hòa giọng của cả hai.
- Phân tích:
+ Bài thơ mở đầu bằng khúc hát nhớ thương của người Việt Bắc. Niềm nhớ thương đã bật lên thành lời:
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Bốn câu thơ tạo thành hai câu hỏi. Một câu hỏi hướng về thời gian (mười lăm năm ấy), một câu hỏi hướng về không gian (nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn). Mới đọc hai câu đầu ta cứ ngỡ đó là lời của một người yêu nói với một người yêu về mười lăm năm ân tình chung thủy. Đó là những lời lẽ mà ta thường gặp trong ca dao:
Mình về có nhớ ta chăng,
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười
Nhưng đến hai câu thơ sau thì đã không cong giống với ca dao tình yêu nữa bởi vì ở đó người Việt Bắc đã gợi nhắc đến tình cảm nguồn cội – một tình cảm cao đẹp mang tính đạo lý của dân tộc.
Hai câu hỏi ngân lên một cách da diết, nồng nàn. Người ở lại nhắc nhớ người về đừng quên những ân tình của quê hương cách mạng, của con người nơi đây. Đó là những câu hỏi xuất phát từ tâm hồn, vì vậy người ta chỉ có thể trả lời bằng chính những rung động chân thành của trái tim dành cho trái tim mà thôi.
Bốn câu thơ quấn quýt những "mình" với "ta" (có bốn chữ "mình", bốn chữ "nhớ", một chữ "ta"). Sự luyến láy của ta và mình, của niềm thương nỗi nhớ đã tạo nên một gia điệu du dương dịu ngọt góp phần thể hiện một cách xúc động những tình cảm thương nhớ bồi hồi của người ở lại trong thời khắc chia tay.
+ Trước nỗi niềm khắc khoải nhớ thương của người Việt Bắc, bao cảm xúc trào dâng đã khiến cho người về xuôi nghẹn lời không thốt nên lời nhưng thẳm sâu trong tâm hồn đã ngân nga điệp khúc nhớ thương:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay..
Trong lời độc thoại nội tâm trên, ta có thể hình dung một khung cảnh chia tay bịn rịn, lưu luyến. Người đi, kẻ ở giã biệt bên một dòng sông. Sau 15 năm gắn bó đầy ân nghĩa, cả người việt Bắc và người về xuôi đều bùi ngùi không nở rời tay. Người về đã thấu hiểu nỗi niềm cảm xúc của người ở lại nên rất đỗi xao xuyến. Có thể thấy điều đó qua câu thơ: "Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi". Những từ láy giàu tính biểu cảm "bâng khuâng", "bồn chồn" vừ gợi ra sự cộng hưởng của những sắc thái cảm xúc phong phú phức tạp trong lòng người khi ly biệt, vừa gợi ra trạng thái bối rối khắc khoải của người về. Nhịp thơ lục bát vốn đều đặn nhịp nhàng ở bốn câu thơ đầu đến đây như cũng vì tâm trạng bối rối của lòng người mà thay đổi: "Áo chàm đưa/buổi phân ly; Cầm tay nhau/ biết nói gì/ hôm nay".
Tiết tấu của các câu thơ trên đây đã góp phần biểu đạt một cách thần tình giây phút thoáng ngập ngừng bối rối của lòng người khi ly biệt; một chút dùng dằng của cái bắt tay không lời của người đi, kẻ ở trong giờ phút chia tay, không thể thốt được thành lời.
Khoảnh khắc yên lặng ấy đã trơr thành một tư thế trữ tình sâu lắng để tri âm, để "tiếng ai" ngân nga, đồng vọng. Đó cũng chính là lí do mà trong lời lẽ của người đi, kẻ ở có sự cộng hưởng, hô ứng thú vị. Chẳng hạn, người Việt Bắc nói "thiết tha", thì người về xuôi nghe "tha thiết". Chỉ thế thôi nhưng cũng đủ để thấy sự đồng cảm, tri âm của con người trong giờ phút chia ly và đó chính là cái gốc làm nên sự gắn bó, hòa hợp giữa người với người.
- Nhận xét về chất trữ tình, chính trị trong tám câu thơ đầu:
Chất trữ tình, chính trị là một trong những điểm nổi bật của phong cách thơ Tố Hữu. Thơ Tố Hữu gắn bó một cách sâu sắc với mọi biến chuyển trong đời sống cách mạng, trong cuộc đấu tranh giành độc lập, giải phóng miền nam thống nhất giang sơn và từng bước đi lên cuộc CM DT DC do Đảng cộng sản lãnh đạo.. Trong đoạn thơ này, chất chính luận được thể hiện ở sự kiện mà Tố Hữu đề cập đến là cuộc chia tay lịch sử giữa đồng bào và chiến sĩ cách mạng sau 15 năm gắn bó. Nhưng Tố Hữu đã viết về sự kiện lịch sử, chính trị ấy bằng giọng thơ ngọt ngào, da diết, bằng những cảm xúc lay động lòng người, bằng lối đối đáp, bằng ngôn từ, hình ảnh đầm chất dân gian, bằng Tố Hữu đã trữ tình hóa cuộc chia tay lớn này bằng việc thể hiện nó như một cuộc chia tay của đôi lứa, của "mình với ta", "ta với mình". Như vậy, ông đã trữ tình hóa mọi vấn đề chính trị - xã hội để làm nên chất "trữ tình chính trị" rất riêng trong thơ mình.
Kết bài: Khái quát lại nội dung, nghệ thuật đoạn thơ:
Về phương diện nghệ thuật còn phải thấy tác giả đã sử dụng những hình ảnh hoán dụ ẩn chứa nhiều tầng ý nghĩa. Dùng "áo chàm" để nói người Việt Bắc, cũng để nói cả Việt Bắc đang tiễn đưa người kháng chiến về xuôi. Ta chợt nhớ câu thơ của Lưu Quang Vũ viết về bàn tay của những người yêu nhau:
Khi chia tay ta chỉ nắm tay mình
Điều chưa nói bàn tay đã nói
Mình đi rồi hơi ấm còn để lại
Còn bồi hồi trong những ngón tay ta.
Việt Bắc chỉ với tám dòng thơ mở đầu, người đọc cảm nhận một cách khá đầy đủ âm hưởng chung của cả bài thơ, âm hưởng khúc hát đối đáp, khúc hát ru nhẹ nhàng sâu lắng. Cùng với ngôn ngữ đậm màu sắc trữ tình của ca dao chúng ta có thể cảm nhận một cách sâu sắc đặc trưng trữ tình chính trị của thơ Tố Hữu.
Câu 1.
- Phong cách ngôn ngữ: Chính luận
- Phương thức biểu đạt chính: Nghị luận
Câu 2.
- Biểu hiện của thói đố kị:
+ bực tức, khó chịu trước những may mắn và thành công của người khác;
+ không muốn nhắc đến thành công của người khác, đồng thời luôn tìm cách chê bai, hạ thấp họ;
+để mặc cho lòng tỵ hiềm, thói ganh tỵ, cảm giác tự ti gặm nhấm tâm trí ngày qua ngày..
Câu 3.
Ganh tị với sự thành công của người khác sẽ khiến chúng ta đánh mất cơ hội thành công của chính mình vì:
Khi ganh tị với thành công của người khác, con người sẽ cảm thấy mệt mỏi, hạn chế sự phát triển của bản thân. Ganh tị với thành công của người khác khiến ta lãng phí thời gian, không tận dụng hết năng lực để đạt được điều mình muốn. Ganh tị với thành công của người khác còn khiến ta không tạo được thiện cảm với mọi người, không kết giao được những mối quan hệ bền vững, đánh mất cơ hội thành công..
Câu 4.
Tôi đồng tình với lời khuyên của tác giả "thay vì ganh tị với thành công và may mắn của người khác, bạn tập trung toàn bộ tâm trí vào những ước mơ, dự định, đồng thời cố gắng hoàn thành chúng một cách triệt để." Vì:
- Ganh tị với sự thành công của người khác sẽ khiến chúng ta đánh mất cơ hội thành công của chính mình.
- Tập trung toàn bộ tâm trí vào những ước mơ, dự định, đồng thời cố gắng hoàn thành chúng một cách triệt để thì ta sẽ thực hiện được ước mơ, dự định, có được thành công, khẳng định được giá trị của mình. Khi có được những điều đó, ta đâu cần phải ganh tị với người khác.
II. LÀM VĂN
Câu 1. Bày tỏ suy nghĩ về vấn đề: Sự cần thiết phải từ bỏ thói đố kị.
Bài tham khảo: Tác hại của thói đố kị
"Ganh tị với sự thành công của người khác sẽ khiến chúng ta đánh mất cơ hội thành công của chính mình." – quan điểm của George Matthew Adams trong văn bản trên đã nói lên phần nào tác hại của thói đố kị. Đố kị nghĩa là bực tức, khó chịu trước những may mắn và thành công của người khác. Đố kị là thói xấu, như một thứ vi rút gặm nhấm tâm hồn ta, vì thế cần phải từ bỏ thói đó kị. Cần từ bỏ thói xấu này bởi đố kị không bao giờ khiến tâm hồn ta được thanh thản, khi lúc nào cũng bực tức trước thành công của người khác. Đố kị còn khiến ta mệt mỏi, chán nản, vì vậy mà hạn chế sự phát triển của bản thân. Khi dành nhiều thời gian vào việc chê bai, hạ bệ thành quả của người khác vì thói đố kị, ta sẽ không tận dụng hết năng lực để đạt được điều mình muốn. Người có thói đố kị khó có thể tạo được thiện cảm và lòng tin với mọi người, không kết giao được những mối quan hệ bền vững, đánh mất cơ hội thành công.. Đố kị trong gia đình khiến tình thân rạn nứt, đố kị ngoài xã hội gây hại cho tập thể. Không ít người vì đố kị nhau mà gây hiềm khích, thiệt mình, thiệt người, ảnh hưởng tới người khác. Thử ngẫm xem, nếu trong tập thể, người này đố kị với người kia thì tập thể đó liệu có đoàn kết, phát triển vững mạnh không? Hơn nữa đố kị sẽ gây nên thù hằn, thù hằn sinh ra dối trá. Đố kị là nguồn gốc của mọi tâm tính xấu. Như vậy, đố kị chỉ có hại, chứ không mang lại giá trị cho con người, nên đừng để con rắn đố kị len vào tâm trí. Ta cần loại bỏ thói đố kị và tập trung vào việc phát triển năng lực, sở trường của chính mình. Bởi mỗi người đều có giá trị riêng, mình không giỏi lĩnh vực này nhưng lại có khả năng ở lĩnh vực khác. Hãy tự hào về sự khác biệt của bản thân và vui mừng cho thành công của người khác, để đố kị không còn là thứ vi rút ăn mòn tâm hồn và tính cách của chính bản thân ta. Hãy khắc ghi lời dạy của nhà Phật:
"Ở đời ganh ghét chẳng được chi
Thù hận hại nhau chẳng được gì
Xã hội bao la người mỗi tính
Rộng lượng bao dung bớt sầu bi"
Câu 2.
Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn thơ
Thân bài:
- Khái quát:
+ Hoàn cảnh sáng tác bài thơ: Tháng 10/ 1954, chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi, đất nước đã hòa bình, Bác Hồ và các cơ quan trung ương Đảng, cùng với phần lớn các tổ chức kháng chiến, những người kháng chiến đã hồ hởi trở về tiếp quản thủ đô. Một cuộc chia tay lớn mang tính chất lịch sử đã diễn ra. Nhân sự kiện ấy Tố Hữu đã viết bài thơ Việt Bắc.
+ Lấy điểm xuất phát là cuộc chia tay lịch sử giữa cơ quan trung ương của Đảng và chính phủ với chiến khu Việt Bắc, bài thơ nói chung và đoạnt hơ nói riêng đã thể hiện những tính cảm nhớ thương, sâu sắc, chân thành giữa người đi và kẻ ở, giữa đồng bào Việt Bắc và cán bộ kháng chiến.
+ Niềm thương nhớ đó đã được diễn đạt bằng hình thức đối đáp "mình" – "ta", thể thơ lục bát truyền thống trữ tình ngọt ngào. Hình thức nghệ thuật độc đáo ấy khiến cho bản hùng ca về 15 năm cách mạng kháng chiến bỗng có dáng dấp của một bản tình ca. Tố Hữu đã tổ chức bài thơ thành một khúc hát giao duyên. Ở đó có khúc dạo đầu, có lời độc thoại nội tâm của người về, có cuộc đối đáp giao duyên giữa người đi và kẻ ở và cuối cùng là sự hòa giọng của cả hai.
- Phân tích:
+ Bài thơ mở đầu bằng khúc hát nhớ thương của người Việt Bắc. Niềm nhớ thương đã bật lên thành lời:
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Bốn câu thơ tạo thành hai câu hỏi. Một câu hỏi hướng về thời gian (mười lăm năm ấy), một câu hỏi hướng về không gian (nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn). Mới đọc hai câu đầu ta cứ ngỡ đó là lời của một người yêu nói với một người yêu về mười lăm năm ân tình chung thủy. Đó là những lời lẽ mà ta thường gặp trong ca dao:
Mình về có nhớ ta chăng,
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười
Nhưng đến hai câu thơ sau thì đã không cong giống với ca dao tình yêu nữa bởi vì ở đó người Việt Bắc đã gợi nhắc đến tình cảm nguồn cội – một tình cảm cao đẹp mang tính đạo lý của dân tộc.
Hai câu hỏi ngân lên một cách da diết, nồng nàn. Người ở lại nhắc nhớ người về đừng quên những ân tình của quê hương cách mạng, của con người nơi đây. Đó là những câu hỏi xuất phát từ tâm hồn, vì vậy người ta chỉ có thể trả lời bằng chính những rung động chân thành của trái tim dành cho trái tim mà thôi.
Bốn câu thơ quấn quýt những "mình" với "ta" (có bốn chữ "mình", bốn chữ "nhớ", một chữ "ta"). Sự luyến láy của ta và mình, của niềm thương nỗi nhớ đã tạo nên một gia điệu du dương dịu ngọt góp phần thể hiện một cách xúc động những tình cảm thương nhớ bồi hồi của người ở lại trong thời khắc chia tay.
+ Trước nỗi niềm khắc khoải nhớ thương của người Việt Bắc, bao cảm xúc trào dâng đã khiến cho người về xuôi nghẹn lời không thốt nên lời nhưng thẳm sâu trong tâm hồn đã ngân nga điệp khúc nhớ thương:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay..
Trong lời độc thoại nội tâm trên, ta có thể hình dung một khung cảnh chia tay bịn rịn, lưu luyến. Người đi, kẻ ở giã biệt bên một dòng sông. Sau 15 năm gắn bó đầy ân nghĩa, cả người việt Bắc và người về xuôi đều bùi ngùi không nở rời tay. Người về đã thấu hiểu nỗi niềm cảm xúc của người ở lại nên rất đỗi xao xuyến. Có thể thấy điều đó qua câu thơ: "Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi". Những từ láy giàu tính biểu cảm "bâng khuâng", "bồn chồn" vừ gợi ra sự cộng hưởng của những sắc thái cảm xúc phong phú phức tạp trong lòng người khi ly biệt, vừa gợi ra trạng thái bối rối khắc khoải của người về. Nhịp thơ lục bát vốn đều đặn nhịp nhàng ở bốn câu thơ đầu đến đây như cũng vì tâm trạng bối rối của lòng người mà thay đổi: "Áo chàm đưa/buổi phân ly; Cầm tay nhau/ biết nói gì/ hôm nay".
Tiết tấu của các câu thơ trên đây đã góp phần biểu đạt một cách thần tình giây phút thoáng ngập ngừng bối rối của lòng người khi ly biệt; một chút dùng dằng của cái bắt tay không lời của người đi, kẻ ở trong giờ phút chia tay, không thể thốt được thành lời.
Khoảnh khắc yên lặng ấy đã trơr thành một tư thế trữ tình sâu lắng để tri âm, để "tiếng ai" ngân nga, đồng vọng. Đó cũng chính là lí do mà trong lời lẽ của người đi, kẻ ở có sự cộng hưởng, hô ứng thú vị. Chẳng hạn, người Việt Bắc nói "thiết tha", thì người về xuôi nghe "tha thiết". Chỉ thế thôi nhưng cũng đủ để thấy sự đồng cảm, tri âm của con người trong giờ phút chia ly và đó chính là cái gốc làm nên sự gắn bó, hòa hợp giữa người với người.
- Nhận xét về chất trữ tình, chính trị trong tám câu thơ đầu:
Chất trữ tình, chính trị là một trong những điểm nổi bật của phong cách thơ Tố Hữu. Thơ Tố Hữu gắn bó một cách sâu sắc với mọi biến chuyển trong đời sống cách mạng, trong cuộc đấu tranh giành độc lập, giải phóng miền nam thống nhất giang sơn và từng bước đi lên cuộc CM DT DC do Đảng cộng sản lãnh đạo.. Trong đoạn thơ này, chất chính luận được thể hiện ở sự kiện mà Tố Hữu đề cập đến là cuộc chia tay lịch sử giữa đồng bào và chiến sĩ cách mạng sau 15 năm gắn bó. Nhưng Tố Hữu đã viết về sự kiện lịch sử, chính trị ấy bằng giọng thơ ngọt ngào, da diết, bằng những cảm xúc lay động lòng người, bằng lối đối đáp, bằng ngôn từ, hình ảnh đầm chất dân gian, bằng Tố Hữu đã trữ tình hóa cuộc chia tay lớn này bằng việc thể hiện nó như một cuộc chia tay của đôi lứa, của "mình với ta", "ta với mình". Như vậy, ông đã trữ tình hóa mọi vấn đề chính trị - xã hội để làm nên chất "trữ tình chính trị" rất riêng trong thơ mình.
Kết bài: Khái quát lại nội dung, nghệ thuật đoạn thơ:
Về phương diện nghệ thuật còn phải thấy tác giả đã sử dụng những hình ảnh hoán dụ ẩn chứa nhiều tầng ý nghĩa. Dùng "áo chàm" để nói người Việt Bắc, cũng để nói cả Việt Bắc đang tiễn đưa người kháng chiến về xuôi. Ta chợt nhớ câu thơ của Lưu Quang Vũ viết về bàn tay của những người yêu nhau:
Khi chia tay ta chỉ nắm tay mình
Điều chưa nói bàn tay đã nói
Mình đi rồi hơi ấm còn để lại
Còn bồi hồi trong những ngón tay ta.
Việt Bắc chỉ với tám dòng thơ mở đầu, người đọc cảm nhận một cách khá đầy đủ âm hưởng chung của cả bài thơ, âm hưởng khúc hát đối đáp, khúc hát ru nhẹ nhàng sâu lắng. Cùng với ngôn ngữ đậm màu sắc trữ tình của ca dao chúng ta có thể cảm nhận một cách sâu sắc đặc trưng trữ tình chính trị của thơ Tố Hữu.
Xem thêm bên dưới..
Chỉnh sửa cuối: