Bài viết: 38 



MÔNG CỔ CHINH PHẠT KIM QUỐC: TỐC BẤT ĐÀI NGÃ NGỰA
Năm 1230, Tốc Bất Đài về Mông Cổ, lập tức dẫn quân thảo phạt nước Kim.
Đây sẽ là cuộc chinh phạt khó khăn nhất trong toàn bộ sự nghiệp của Tốc Bất Đài, bởi vì kẻ địch tưởng dễ ăn mà chẳng dễ ăn tí nào, cuộc chinh phạt nước Kim trước đó của Thành Cát Tư Hãn cũng phải chịu những tổn thất đáng kể chứ chả dễ ăn gì.
Nhà Kim có truyền thống quân sự lâu đời và mạnh mẽ, lực lượng kỵ binh tinh nhuệ, một tiếng gọi là tập hợp được chục vạn binh, quân tướng nhà Kim sau chục năm ăn hành, nay đã quen với cách đánh của người Mông Cổ, đáng kể đến là hai tướng Hoàn Nhan Hợp Đạt, người đã khiến Mộc Hoa Lê ôm hận mà chết ở Phượng Tường, và bộ tướng là Hoàn Nhan Trần Hòa Thượng, người đã đánh tan quân Mông cổ ở Đại Xương Nguyên, dưới trướng Hợp Đạt còn có 20 vạn quân tinh nhuệ thường trực, các tướng Kim sẵn sàng tiến hành kế "tiêu thổ", đốt trụi mọi thứ để cắt nguồn lương thực của quân Mông Cổ, và để mặc số phận của người dân (quân Mông Cổ hay cướp phá vùng nông thôn để lấy lương thực và dụ quân địch ra ngoài thành).
Địa hình nước Kim thuận lợi cho việc phòng thủ trước quân Mông Cổ, phía Đông là biển, phía Bắc là sông Hoàng Hà, phía Nam là nước Tống, phía Tây là vùng núi hiểm trở, còn có Đồng Quan vững trãi.
Theo Tốc Bất Đài, kế hoạch khả thi nhất là từ phía Tây đánh vào Đồng Quan, sau đó thần tốc tiến vào Hà Nam chiếm lấy Khai Phong (nghe dễ vl).
Năm 1230, Tốc Bất Đài làm thống soái quân Mông Cổ, chia đại quân làm 2, đạo quân thứ nhất do Đà Lôi, đánh vào Uy Châu (phía nam Phượng Tường), đúng như dự đoán của Tốc Bất Đài, Hợp Đạt lập tức dẫn đại quân cứu Uy Châu. Biết được Đồng Quan giờ không còn ai giữ, Tốc Bất Đài lập tức dẫn cánh quân chủ lực tiến đánh Đồng Quan. Hợp Đạt đang giải vây cho Uy Châu, thì nhận được tin thám báo về động tĩnh của Tốc Bất Đài, biết ngay mình bị trúng kế, nhanh chóng thu quân quay ngược về Đồng Quan, bỏ mặc Uy Châu. Tốc Bất Đài dù phải hành quân khẩn trương nhưng vẫn cẩn trọng, khi biết kỵ binh tiên phong đang bị đánh chặn đã bắt đầu nghi ngờ, cho quân chuẩn bị giao chiến. Quân Kim tới nơi, Trần Hòa Thượng làm tiên phong, 2 bên đánh nhau to một trận ở Đảo Hồi Cốc, rất ít thông tin về trận chiến này, nhưng có một điều chắc chắn, Tốc Bất Đài là kẻ bại trận. Sau trận Đảo Hồi Cốc, Tốc Bất Đài mặc dù thua trận nhưng vẫn xoay sở để triệt thoái quân chủ lực, nhờ đó tránh được thương vong nặng nề, hội quân với Đà Lôi, biết mục tiêu Đồng Quan giờ là bất khả thi, Tốc Bất Đài hành quân tới Phượng Tường, tiến hành vây hãm. Còn về quân Kim, sau khi bị trúng kế một lần ở Uy Châu, quyết định thủ chặt ở Đồng Quan. Năm 1231, Phượng Tường, Uy Châu rồi Trường An, lần lượt rơi vào tay quân Mông Cổ, lãnh thổ nước Kim bị rút lại chỉ còn Hà Nam và vùng phía Đông.
Cuộc chinh phạt coi như rơi vào bế tắc, dẫu cho chiếm được vùng phía Tây nước Kim, thì đây vẫn được coi là một thất bại với Tốc Bất Đài do không đạt được mục đích cuối cùng là tiến đánh Hà Nam.
Năm 1230, Tốc Bất Đài về Mông Cổ, lập tức dẫn quân thảo phạt nước Kim.
Đây sẽ là cuộc chinh phạt khó khăn nhất trong toàn bộ sự nghiệp của Tốc Bất Đài, bởi vì kẻ địch tưởng dễ ăn mà chẳng dễ ăn tí nào, cuộc chinh phạt nước Kim trước đó của Thành Cát Tư Hãn cũng phải chịu những tổn thất đáng kể chứ chả dễ ăn gì.
Nhà Kim có truyền thống quân sự lâu đời và mạnh mẽ, lực lượng kỵ binh tinh nhuệ, một tiếng gọi là tập hợp được chục vạn binh, quân tướng nhà Kim sau chục năm ăn hành, nay đã quen với cách đánh của người Mông Cổ, đáng kể đến là hai tướng Hoàn Nhan Hợp Đạt, người đã khiến Mộc Hoa Lê ôm hận mà chết ở Phượng Tường, và bộ tướng là Hoàn Nhan Trần Hòa Thượng, người đã đánh tan quân Mông cổ ở Đại Xương Nguyên, dưới trướng Hợp Đạt còn có 20 vạn quân tinh nhuệ thường trực, các tướng Kim sẵn sàng tiến hành kế "tiêu thổ", đốt trụi mọi thứ để cắt nguồn lương thực của quân Mông Cổ, và để mặc số phận của người dân (quân Mông Cổ hay cướp phá vùng nông thôn để lấy lương thực và dụ quân địch ra ngoài thành).
Địa hình nước Kim thuận lợi cho việc phòng thủ trước quân Mông Cổ, phía Đông là biển, phía Bắc là sông Hoàng Hà, phía Nam là nước Tống, phía Tây là vùng núi hiểm trở, còn có Đồng Quan vững trãi.
Theo Tốc Bất Đài, kế hoạch khả thi nhất là từ phía Tây đánh vào Đồng Quan, sau đó thần tốc tiến vào Hà Nam chiếm lấy Khai Phong (nghe dễ vl).
Năm 1230, Tốc Bất Đài làm thống soái quân Mông Cổ, chia đại quân làm 2, đạo quân thứ nhất do Đà Lôi, đánh vào Uy Châu (phía nam Phượng Tường), đúng như dự đoán của Tốc Bất Đài, Hợp Đạt lập tức dẫn đại quân cứu Uy Châu. Biết được Đồng Quan giờ không còn ai giữ, Tốc Bất Đài lập tức dẫn cánh quân chủ lực tiến đánh Đồng Quan. Hợp Đạt đang giải vây cho Uy Châu, thì nhận được tin thám báo về động tĩnh của Tốc Bất Đài, biết ngay mình bị trúng kế, nhanh chóng thu quân quay ngược về Đồng Quan, bỏ mặc Uy Châu. Tốc Bất Đài dù phải hành quân khẩn trương nhưng vẫn cẩn trọng, khi biết kỵ binh tiên phong đang bị đánh chặn đã bắt đầu nghi ngờ, cho quân chuẩn bị giao chiến. Quân Kim tới nơi, Trần Hòa Thượng làm tiên phong, 2 bên đánh nhau to một trận ở Đảo Hồi Cốc, rất ít thông tin về trận chiến này, nhưng có một điều chắc chắn, Tốc Bất Đài là kẻ bại trận. Sau trận Đảo Hồi Cốc, Tốc Bất Đài mặc dù thua trận nhưng vẫn xoay sở để triệt thoái quân chủ lực, nhờ đó tránh được thương vong nặng nề, hội quân với Đà Lôi, biết mục tiêu Đồng Quan giờ là bất khả thi, Tốc Bất Đài hành quân tới Phượng Tường, tiến hành vây hãm. Còn về quân Kim, sau khi bị trúng kế một lần ở Uy Châu, quyết định thủ chặt ở Đồng Quan. Năm 1231, Phượng Tường, Uy Châu rồi Trường An, lần lượt rơi vào tay quân Mông Cổ, lãnh thổ nước Kim bị rút lại chỉ còn Hà Nam và vùng phía Đông.
Cuộc chinh phạt coi như rơi vào bế tắc, dẫu cho chiếm được vùng phía Tây nước Kim, thì đây vẫn được coi là một thất bại với Tốc Bất Đài do không đạt được mục đích cuối cùng là tiến đánh Hà Nam.