Các chế độ chụp trên máy ảnh Canon

Thảo luận trong 'Bài Sưu Tầm' bắt đầu bởi Hiepk61baochi, 30 Tháng sáu 2022.

  1. Hiepk61baochi

    Bài viết:
    5
    [​IMG]

    THIẾT LẬP CHẾ ĐỘ CHỤP


    Nếu nhấn thấy những bức ảnh mình chụp lúc nào cũng có vẻ tốt hơn khi giảm độ phơi sáng xuống một 'stop', hoặc tăng ½ 'stop', bạn hãy sử dụng thiết đặt bù sáng để cài đặt yếu tố ấy trên thước đo sáng của máy ảnh. Chức năng này làm cho bạn có thể tăng hoặc giảm độ phơi sáng lên đến ba f-stops. Kết quả đó thường được ghi rõ trên máy ảnh của bạn bằng một trị số từ +3 đến -3 ứng với mức gia tăng từ ½ đến 3 'stop'. Một khi bạn đã cài đặt, máy ảnh sẽ sẽ duy trì kết quả điều chỉnh cho đến khi bạn thay đổi nó.

    Đa số nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp tôi quen biết đều dùng tính năng bù sáng để tinh chỉnh thước đo trên máy ảnh của họ. Hãy chụp một loạt nhiều tấm ảnh. Lúc nào có thời gian và chủ thể cho phép, bạn hãy chụp nhiều tấm khác nhau, như vậy bạn mới không bỏ lỡ một bức chụp quan trọng. Hãy kiểm tra các bức ảnh trên máy tính và loại đi những tấm không đạt trước khi đưa cho ai đó xem. Các chế độ Phơi Sáng Tự Động (AE) Trên hầu hết các máy ảnh KTS, bạn sẽ tìm thấy nhiều chế độ phơi sáng khác nhau, điển hình như sau:

     ưu tiên khẩu độ AE (Av)

     ưu tiên màn trập AE (Tv)

     lập trình AE (P)

     thủ công (M)

    Ưu tiên khẩu độ

    Ưu tiên khẩu độ giúp bạn có thể cài đặt f-stop (khẩu độ) và sau đó máy ảnh sẽ điều chỉnh tốc độ chụp để đưa Các điều ghi nhớ liên quan đến chế độ A trên máy ảnh:  A - khi chọn chế độ A không phải là chế độ chụp Auto đúng nghĩa Auto chụp hoàn toàn tự động, giao phó tất cả cho máy ảnh xử lý, mà A viết tắt là Aperture Priority, nghĩa là ưu tiên KHẨU ĐỘ ỐNG KÍNH.

     A - khi chụp chế độ A, tức là người chụp MUỐN tự mình chọn KHẨU ĐỘ ỐNG KÍNH theo ý mình. Mà khẩu độ ống kính là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến DOF. (DOF - viết tắt của Depth of Field mà dân chụp hay gọi là "đóp" hay "đốp". Đơn giản nó là từ để diễn tả khoảng ảnh rõ nét và những gì ngoài khoảng rõ nét đó trong ảnh. Muốn cho chủ đề của bạn rõ nét thì nó phải nằm trong khoảng DOF của ảnh. Khi bạn lấy nét, trên một trục thẳng ta thấy ngoài điểm mà bạn cần muốn nét thì một số điểm phía trước điểm đó và phía sau điểm đó cũng rõ nét, khoảng ảnh rõ nét đó gọi là khoảng DOF)

     A - khi chụp chế độ A, là bạn muốn có DOF như ý muốn của mình, khoảng ảnh rõ trong ảnh dày hay mỏng theo ý của mình. Tức là không bận tâm đến tốc độ màn trập tương ứng là bao nhiêu, đối tượng tĩnh hay động, thậm chí để ISO Auto để máy tự cân đong đo đếm chọn ISO tương ứng mà không quan tâm đến độ mịn hay nhiễu hạt.

     A - Muốn làm chủ chủ DOF, chọn chế độ A, thay đổi thông số khẩu độ theo ý muốn, bấm chụp! Ưu tiên tốc độ màn trập Bằng cách sử dụng ưu tiên màn trập, bạn có thể cài đặt tốc độ chụp, và máy ảnh tự chọn fstop (khẩu độ) để đưa ra độ phơi sáng chính xác. Tính năng này có thể đặc biệt hữu dụng khi bạn chụp các chủ thể di động và muốn 'đóng băng' các chuyển động bằng cách cài đặt một tốc độ chụp ở mức cao. Do đó, nếu đang chụp một thác nước và muốn dòng nước nhòa đi, ban có thể cài đặt một tốc độ chụp chậm và khẩu độ sẽ tự điều chỉnh theo. Cần phải nói thêm rằng cả hai chế độ vừa đề cập ở trên đều được giả định cho trường hợp bạn có đủ ánh sáng để chụp các bức ảnh trong phạm vi tốc độ chụp và khẩu độ mà bạn đang sử dụng. Khi bạn chọn chế độ chụp S / Tv để ưu tiên tốc độ màn trập, nghĩa là bạn chỉ còn được xoay bánh xe để tuỳ chỉnh tốc độ màn trập theo ý đồ chụp của bạn, chọn tốc độ trập tuỳ ý. Còn lại khẩu độ ống kính là máy tự tính và tuỳ ứng theo bối cảnh đo sáng của máy. Như vậy, bạn có thể để ISO Auto, hoặc cố định ISO, khi bạn chọn tốc độ theo ý định, thì khẩu độ tự thay đổi tương ứng. Trong biểu đồ trên đây, mỗi kết hợp giữa khẩu độ ống kính và tốc độ chụp cùng cho ra một mức độ phơi sáng, hoặc để cho cùng một lượng ánh sáng như nhau lọt vào máy ảnh. Lập trình (P) Thiết đặt này để cho máy ảnh hoàn toàn đưa ra quyết định về thông số phơi sáng. Máy ảnh tự kết hợp tốc độ màn trập với khẩu độ. Trên một số máy ảnh, tính năng này có thể được cài đặt tuỳ theo đối tượng chụp, chẳng hạn như "chân dung", "thể thao", hoặc "phong cảnh." Tuy nhiên, bạn hãy cẩn thận, nếu có không đủ (hoặc có quá nhiều) ánh sáng ngoài ý muốn, thì máy ảnh của bạn cũng sẽ không thể làm ra những điều kỳ diệu được. Ngay cả khi dùng thiết đặt này, bạn hãy kiểm tra trên màn hình LCD để bảo đảm mình sẽ có được bức ảnh như ý. Và đừng quên là bạn còn có thể sử dụng chế độ bù sáng để quyết định thay vì để máy ảnh tự làm. Thủ công (M) Chế độ này giúp bạn có thể tự tay cài đặt tốc độ chụp và khẩu độ một cách độc lập với nhau, tùy theo thước đo tích hợp sẵn trong máy ảnh hoặc thước đo cầm tay. Nhiều thợ chụp thương mại, còn dùng đo sáng rời, để có được nhiều trị số đo tại nhiều điểm khác nhau trong khung hình. Bằng phương pháp như thế, người chụp ảnh có toàn quyền kiểm soát đối với hiệu ứng hình ảnh mà các kết hợp tốc độ chụp và khẩu độ khác nhau có thể thực hiện. Thời kỳ chụp ảnh bằng phim còn thống trị, phương pháp này có xu hướng trở thành lĩnh vực độc quyền của những người chuyên nghiệp hoặc những người nghiệp dư có kinh nghiệm. Ngày nay, nhiếp ảnh KTS cho phép bạn chụp thử một bức ảnh, xem qua, điều chỉnh đôi chút, thấy có hơi khác, và bạn chụp được bức ảnh như ý. Đa số máy ảnh D-SLR đều có một thiết đặt 'autobracket' (AEB). Tính năng thông minh nhỏ này cài đặt máy ảnh tự động chụp liền ba tấm: Một với "độ phơi sáng đúng", một dư sáng, và một thiếu sáng. Tôi nhận thấy tính năng này rất hữu dụng khi tác nghiệp nhanh bởi nó sẽ cho tôi chọn các bức ảnh sau. Bằng cách cài đặt máy ảnh chụp một bức ảnh với độ phơi sáng "chính xác" -đúng như máy ảnh nhìn thấy-và hai bức khác có thể có mức chênh lệch một f-stop, tôi luôn có thể kết thúc bằng một bức ảnh mà tôi cho là hoàn hảo hơn cả. Bạn có thể thay đổi trị số tăng giảm của AEB đến 1/3, ½ hoặc 2/3 stop so với bức chụp "chính xác", tùy kiểu máy ảnh. Trên đa số máy ảnh, tính năng này có tác dụng với các thiết đặt chế độ tự động và thủ công. MẸO: Quy tắc ánh nắng f/16 Nếu bạn cố chụp cho được một bức ảnh phong cảnh mà không có giá ba chân, hãy đảo lại độ ISO bằng cách chọn tốc độ chụp, ví dụ, với ISO 200 bạn có thể chọn 1/200 giây với khẩu độ f/16.

    CÁC CƠ CHẾ ĐO SÁNG

    Đa số máy ảnh D-SLR hiện đại, cùng với các chế độ phơi sáng tự động, đều có một số thiết đặt có thể tác động đến bức ảnh của bạn. Mặc định trên hầu hết các máy ảnh D-SLR và 'point-and shoot' là cơ chế đo sáng đa điểm. (Nikon gọi đó là đo sáng ma trận (matrix metering), Canon, thì gọi là đo sáng giá trị chung (evaluative). Phương pháp đo sáng này phân chia bức ảnh thành các vùng nhỏ, trong đó bộ vi xử lý của máy ảnh tự đo sáng từng vùng nhỏ ấy. Sau đó máy ảnh kết hợp những dữ liệu ấy với khẩu độ và tốc độ chụp rồi cho ra một kết quả gần như hoàn chỉnh trên toàn khung hình.  Đo sáng một điểm - Spot Metering Tính năng đo sáng một điểm thực sự là một thiết đặt rất hay. Dữ liệu đo sáng được thu thập từ một khu vực (diện tích) rất nhỏ nằm trong khung hình, đôi khi chỉ bằng một phần trăm bức ảnh. Điều này rất hữu ích khi bạn muốn chụp đúng sáng một đối tượng và không quan tâm đến các vùng sáng chênh lệch khác nhau xung quanh đối tượng nhỏ đó.  Đo sáng trung tâm - Center-weighted Meterting Đo sáng trung tâm thì hơi thiên về tâm của khung hình hơn, là đo sáng một diện tích phần trung tâm khung ảnh, không cần phải chú ý nhiều đến các góc cạnh. Cá nhân tôi, tôi ít sử dụng tính năng này. Những người chụp ảnh khác thì thích nó bởi vì loại đo sáng như thế có xu hướng làm cho bức ảnh thiếu sáng, vốn rất phù hợp với phong cách ảnh phim cũ. Bao giờ cũng vậy, hãy thử nghiệm để tìm ra cách kết hợp tốt nhất và ưng ý bạn.  Đo sáng thủ công Đây là một phụ tùng bên ngoài dành cho người chụp ảnh cần làm việc với ánh sáng nhân tạo phức tạp. Một máy đo sáng cầm tay thường là một kết hợp giữa thước đo độ phơi sáng và và thước đo đèn flash, và nói chung là được sử dụng như một thước đo phụ. Điều đó có nghĩa là thước đo lượng ánh sáng bao trùm trên chủ thể hơn là ánh sáng phản chiếu từ chủ thể như cách mà máy ảnh của bạn thực hiện việc đo sáng của nó. Đây là công cụ đạt độ chính xác cao được sử dụng bằng cách cầm nó đưa ra phía trước chủ thể với đỉnh tròn của nó hướng vào phía máy ảnh của bạn. Hệ thống này không dính dáng đến màu sắc của chủ thể. Trong thế giới KTS, loại thước đo này chủ yếu được sử dụng với đèn nháy/flash. Nó có khả năng đo được độ sáng/cường độ của một đèn flash trong studio, một khả năng không có trên thước đo của máy ảnh. Công cụ này là thiết yếu khi chụp những bức ảnh phức tạp với ánh sáng kiểu studio. TÌM HIỂU BIỂU ĐỒ Một trong những khả năng hay của máy ảnh KTS là có thể xem lại các bức ảnh trên màn hình LCD. Cứ nói đi nói lại nhiều lần về việc kiểm tra độ phơi sáng trên màn hình LCD như thế này, đôi lúc tôi dường như nghe có ai đó nói: "Ông đúng là lão gàn. Dưới ánh nắng thì làm sao tôi có thể nhìn vào màn hình được. Làm sao tôi có thể đánh giá được mức độ phơi sáng của mình đây?" Đa số máy ảnh D-SLR đều có tính năng hiển thị một biểu đồ trên màn hình LCD. Đồ thị minh họa cách các điểm ảnh trong một bức ảnh được phân bố bằng cách biểu thị số lượng điểm ảnh theo từng mức độ màu sắc. Điều này cho bạn thấy bức ảnh có chứa đựng đầy đủ hay không các chi tiết trong các vùng bóng đổ (được hiển thị bên trái biểu đồ), vùng màu sắc trung bình (hiển thị ở giữa), và các vùng sáng (hiển thị bên phải) để tạo ra độ phơi sáng tốt cho toàn bộ. Histogram là biểu đồ trực quan về tất cả các màu sắc và sắc độ (tones) trong ảnh của bạn. Từ bên trái là những "tone" tối nhất di chuyển dần qua bên phải là những "tone" sáng nhất. Sự phân bố sắc độ (tones) và màu sắc cho bạn biết dữ liệu ảnh mà bạn chụp được. Nếu bạn chụp chủ đề của mình trên nền xám thì có nhiều khả năng biểu đồ dữ liệu của mình sẽ tập trung ở vùng giữa của Histogram (vùng dữ liệu tập trung nhiều gọi là "spike"). Tùy theo ảnh bạn chụp, bạn còn có thể biết màu nào một cách trực quan nằm trên vùng tối (shadow), vùng trung (midtone), hay vùng sáng (highlight). Nếu có nhiều sắc độ (tones) nằm bên trái của Histogram có thể hình bạn chụp bị tối (underexpose), tuy nhiên nếu bạn chụp chủ đề trên nền tối và bạn đo sáng đúng khuôn mặt thì hoàn toàn okie cho dù dữ liệu sắc độ của bạn nằm bên trái nhiều. Sắc độ (tones) được tổ chức thành từng vùng (sections) theo thứ tự từ trái sang phải là Black (cực tối), Shadow (tối), Exposure (Midtone), Highlight (sáng), và White (cực sáng). Đặc biệt trong Lightroom, bạn có thể dùng chuột để dịch chuyển các vùng sắc độ (tones) theo ý muốn bằng cách rê chuột lên trên vùng bạn muốn thay đổi sắc độ. Khi đã quen nhìn vào biểu đồ, bạn sẽ nhận ra đó là một công cụ tuyệt vời để kiểm tra đi kiểm tra lại những bức ảnh của bạn, đặc biệt là trong các điều kiện ánh sáng bất lợi. Nếu biểu đồ trông ổn định, thì chẳng còn gì phải "lăn tăn" về hình ảnh sáng hay tối trên màn hình nữa. Sự thật nằm trong biểu đồ. Một thực hành tốt là hãy chụp một vài bức ảnh về một chủ thể có đầy đủ sắc thái. Cài đặt máy ảnh của bạn ở chế độ chụp thủ công và chụp một bức theo gợi ý của biểu đồ. Sau đó hãy chụp cùng bức ảnh đó với 'stop' được tăng lên ½ hoặc 1/3, cho đến dưới 3 'stop'. Nhìn vào các biểu đồ của những bức ảnh ấy để tìm hiểu cách đọc và hiểu chúng, để ý đến cách mà biểu đồ thay đổi tùy theo thiếu sáng hoặc quá sáng. Phải nói trắng ra - và tôi có thể bị chỉ trích khi đơn giản hóa đến mức này – là bạn đang nhìn vào một dãy núi trong cửa sổ biểu đồ của bạn, khởi đi từ bên này, kết thúc ở bên kia, và lên đến tận đỉnh của khung biểu đồ. Tất nhiên, do mỗi bức ảnh có một nội dung khác nhau, nên các dãy núi của bạn sẽ không như nhau. LẤY NÉT TỰ ĐỘNG Đa số người chụp ảnh mới vào nghề đều để máy ở chế độ "thường xuyên" lấy nét tự động theo thiết đặt mặc định của nhà sản xuất, giống như phần lớn các thiết định khác trên máy ảnh của họ. Giống như đa số những thiết đặt trên máy ảnh D-SLR, chức năng lấy nét tự động, nhưng không phải tự nó làm hết mọi việc vì có nhiều tùy chọn trong menu trên máy ảnh để tinh chỉnh việc lấy nét. Tôi không thể nhấn mạnh được hết tầm quan trọng về việc từng bước tìm hiểu cách sử dụng chúng và tất cả các tính năng trên máy ảnh của bạn cho bằng bạn tự tìm hiểu. Hiểu và tận dụng các chế độ lấy nét mà thiết bị cho phép tuỳ nghi từng ngoài cảnh cho phù hợp thì sẽ hiệu quả hơn, và bạn đã không bị lãng phí. Bạn nên tìm hiểu cách sử dụng vào lúc mới bắt đầu, có tên gọi phổ biến là "one-shot" hoặc "cơ chế tự động đơn" (single servo). Hãy dùng tính năng này trong các trường hợp bạn muốn lên bố cục cho bức ảnh khi chủ thể lệch tâm. Trong ống ngắm máy ảnh của bạn, sẽ có những lằn ngang hoặc những điểm AF (lấy nét tự động) để xác định điểm mà máy ảnh đang lấy nét. Hãy chĩa thẳng máy ảnh vào chủ thể sao cho điểm AF hướng đúng vào phần bức ảnh bạn muốn chọn làm điểm lấy nét ưu tiên. Khi nhấn giữ một nửa nút chụp để cố định việc lấy nét, bạn có thể lấy lại bố cục cho bức ảnh theo ý, giúp cho bố cục tốt hơn. Hãy cẩn thận, vì tính năng này hoàn toàn không phù hợp với các chủ thể di động, bởi lẽ một khi đã khóa lại, thì việc lấy nét vẫn giữ nguyên cho đến khi bạn nhấn nút chụp. Máy ảnh mặc định là tự động sử dụng hết các điểm AF trong các chế độ chụp. Chọn chế độ này, bạn bấm nút AF ở mặt sau máy ảnh (có thể vị trí các model khác nhau), màn hình các điểm nét hiển thị xác nhận AF đa điểm tự động. Khi bạn muốn lấy nét vào đối tượng gần nhất trong khung và khoảnh khắc có thể qua đi, AF tự động chọn là giải pháp tốt nhất, tránh tình trạng loay hoay với thiết bị mà khoảnh khắc vụt qua. Trường hợp duy nhất mà tôi khuyên bạn nên tập trung vào cẩm nang sử dụng là khi bạn chụp ảnh qua một tấm lưới hoặc những tiền cảnh tương tự. Như khi chụp bóng đá, chẳng hạn, việc chụp từ phía sau cầu môn xuyên qua tấm lưới có thể mang lại một hiệu ứng sinh động. Nhưng vì máy ảnh được cài đặt ở chế độ tự động lấy nét nên dễ lấy nét vào lưới mà không trúng thủ môn chẳng hạn. Hãy tắt tính năng tự động lấy nét khi chụp loại hình hoạt động như thế. Việc này cũng áp dụng cho việc chụp ảnh động vật trong chuồng sở thú. ĐỘ SÂU TRƯỜNG ẢNH Là thuật ngữ được dùng để diễn tả vùng ảnh rõ nét - vùng trước và sau tính từ điểm nét của ảnh. Viết tắt là DOF (Depth of field). Kiểm soát vùng này bằng cách tuỳ chỉnh khẩu độ ống kính. Chẳng hạn bức ảnh dưới đây được chụp với khẩu độ f/2.8, vùng trước và sau điểm nét là trái chín đỏ bị mờ. Trong khi bức ảnh sau, khép khẩu độ xuống f/16, độ nét của ảnh sâu hơn. Chiều sâu của bối cảnh trong ảnh chịu ảnh hưởng của tiêu cự ống kính. Khi bạn thay đổi tiêu cự ống kính từ ống góc rộng đến ống téle với cùng một góc chụp cùng bối cảnh, chiều sâu của ảnh cũng thay đổi. Với mỗi ảnh, người chụp di chuyển vị trí chụp để giữ đúng khung cảnh giữa các tấm ảnh sau. Khi bạn nhìn thấy một bức ảnh phong cảnh đẹp được treo trên tường trong một gian phòng triển lãm, trông nó có vẻ rất giống như được chụp với một khẩu độ nhỏ (trị f/stop lớn) để có được độ sâu trường ảnh càng dày càng tốt. Ngay cả trong một ngày đầy nắng, việc sử dụng khẩu độ nhỏ nhất cũng có thể đòi hỏi một tốc độ chụp chậm hơn và, do đó, phải có chân máy. Việc này có thể dẫn đến một tình huống khó xử. Ví dụ, bạn rất muốn sử dụng tốc độ chụp cao để chụp những ảnh về hoạt động. Mà bạn muốn khép khẩu độ nhỏ để có dof dày, trông bức ảnh sắc nét hơn. Một số người sẽ chỉ sử dụng độ nhạy ISO của cảm biến cao hơn, và như vậy phải bật chức năng chụp tốc độ cao và khẩu độ nhỏ. Nhưng khi bạn tăng độ nhạy của cảm biến, thì chất lượng hình ảnh có thể giảm do nhiễu hạt nếu ánh sáng không đủ tốt. Do vậy, tuỳ hoàn cảnh mà quyết định. Bạn không thể có được hết mọi thứ, do đó bạn phải chọn những gì quan trọng nhất với mình. Ngay cả vào những ngày rực nắng trong năm, với mặt trời được chọn làm chủ thể, nếu sử dụng ISO 100, thì độ phơi sáng của bạn sẽ là 1/1000 với khẩu độ f/5.6 nhưng lại sử dụng ống tê-lê và hậu cảnh cách xa chủ thể thì cũng không thể có dof mỏng. Và giả như bạn đang chụp một trận bóng đá ban đêm với đèn chiếu yếu ớt, bạn sẽ gặp rắc rối thực sự vì cần tăng ISO lên rất cao để chụp tốc độ màn trập cao để bắt dính chuyển động, mà ISO cao thì dễ nhiễu hạt, nên khả năng khử nhiễu của thiết bị trong trường hợp này là cần thiết. Một số ống kính có những vạch chỉ báo cho thấy ước lượng độ sâu trường ảnh hiệu quả như thế nào ứng với một khẩu độ cụ thể. Một ví dụ điển hình: Với một ống kính 20mm được thiết đặt f/11 và khoảng cách lấy nét được ước lượng khoảng 1, 5 mét, thì độ sâu trường ảnh sẽ mở rộng từ hơn 3m cho đến vô cực Sử dụng một ống kính 400mm được thiết đặt ở f/4, thì độ sâu trường ảnh với khoảng cách lấy nét được thiết đặt khoảng 10m sẽ ít hơn một chút. Nên nhớ bạn có thể sử dụng độ sâu trường ảnh một cách sáng tạo bằng cách dùng khẩu độ lớn để tách riêng chủ thể. Chủ thể bạn chụp sẽ rõ nét nổi bật trong khi phần còn lại bao quanh trong bức ảnh vẫn giữ được độ mờ nhòe rất thú vị. Cũng vậy, với một ống kính góc rộng và khẩu độ nhỏ, hầu hết mọi thứ trong bức ảnh của bạn đều có thể sắc nét, giúp bạn có thể làm đầy khung hình và tách riêng chủ thể ở tiền cảnh, trong khi vẫn giữ được một cảm quan về cảnh chụp với một hậu cảnh sắc nét. Tóm lại, f-stop càng nhỏ, bạn càng có được độ sâu trường ảnh dày. Nhưng hãy luôn nhớ sử dụng một tốc độ chụp phù hợp với chủ thể bạn muốn chụp.
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...