Ca dao tục ngữ về lịch sử và đất nước

Thảo luận trong 'Dân Gian' bắt đầu bởi thohongmeomeo, 6 Tháng một 2022.

  1. thohongmeomeo

    Bài viết:
    2,748
    Bác Hồ từng nói "Dân ta phải biết sử ta/Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam". Quả đúng như vậy lịch sử có vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi người, mỗi thế hệ. Lịch sử của một đất nước tái hiện toàn bộ chặng đường phát triển gian nan cũng đầy huy hoàng của cả dân tộc. Lịch sử chính là điểm tựa của chúng ta, là nơi hội tụ, kết tinh những giá trị tinh thần vô giá của dân tộc, của các thế hệ cha ông. Lịch sử giúp cho chúng ta có quyền tự hào và tin tưởng vào truyền thống anh hùng, bất khuất, mưu trí, sáng tạo của tổ tiên và hy vọng vào tiền đồ, tương lai tươi sáng của dân tộc.

    Trong bài viết này tôi xin tổng hợp các câu ca dao tục ngữ về lịch sử và đất nước

    1. Ai về Phú Thọ cùng ta

    Vui ngày giổ Tổ tháng ba mùng mười (1)

    Dù ai đi ngược về xuôi

    Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba.

    (1). Giỗ Tổ: Hùng Vương.

    2. Ai lên Biên Thượng, Lam Sơn

    Nhớ Lê Thái Tổ chặn đường quân Minh. (1)

    (1). Biên Thượng, Lam Sơn: Thuộc huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.

    3. Ai về đến huyện Đông Đông Anh

    Ghé thăm phong cảnh Loa thành Thục Vương.

    4. Ai về Hậu Lộc, Phú Điền (2)

    Nhớ đây Bà Triệu trận tiền xung phong.

    (2). Phú Điền: Nay là xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Hiện nay còn lăng và đền thờ Bà Triệu.

    5. Đời vua Thái Tổ, Thái Tông

    Con bế, con dắt, con bồng, con mang. (2).

    (2). Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông: Đời hai vua này nhân dân sống sung túc. Sinh con đẻ cái, sản xuất và chăn nuôi đều phát triển

    6. Đời vua Vĩnh Tộ lên ngôi (1)

    Cơm trắng đầy nồi, trẻ chẳng ăn cho.

    (1). Vĩnh Tộ: Chỉ Lê Thần Tông.

    7. Tùng tùng đánh trống quân sang

    Chợ Già trước mặt, quán Nam bên đàng

    8. Qua Chiêng thì rẽ sang Giàng

    Qua quán Đông Thổ vào làng Đình Hương

    9. Anh đi theo chúa Tây Sơn

    Em về cày cuốc mà thương mẹ già (2).

    (2). Chợ Già, quán Nam, Chiêng: Thuộc huyện Hoằng Hóa. Giàng, Đông Thổ, Đình Hương: Thuộc huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa.

    10. Trên trời có ông sao Tua

    Ba Làng, Trà Lũ có vua Ba Vành. (1)

    (1). Ba Làng, Trà Lũ: Tức Trà Trung, Trà Bắc. Trà Đoài thuộc huyện Xuân Trường tỉnh Nam Định. Trà Lũ là nơi cố thủ của Phan Bá Vành (vua Ba Vành), khi bị quân triều đình đàn áp. Phan Bá Vành lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa nông dân lớn dưới triều vua Minh Mạng.

    11. Trên trời có ông sao Tua

    Ở làng Nguyệt Giám có vua Ba Vành

    12. Phương đông quật lũ hùng tinh

    Làm cho bảy viện tan tành ra tro. (2)

    (2). Nguyệt Giám, Nguyệt Lâm: Thuộc làng Minh Giám, huyện Kiên Xương, tỉnh Thái Bình, quê hương Phan Bá Vành. Sau Minh Mạng bắt đổi làng Minh Giám thành Nguyệt Giám. Nguyệt Lâm nay thuộc xã Vũ Bình, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình còn Nguyệt Giám thuộc xã Minh Tân, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.

    13. Nhớ xưa đương thủa triều Hùng

    Vũ Ninh nổi đám bụi hồng nẻo xa.

    Trời thương Bách Việt sơn hà

    Trong nơi thảo mãng nảy ra kỳ tài.

    Lên ba đáng tuổi anh tài

    Roi ngà, ngựa sắt ra oai trận tiền.

    Một phen khói lửa dẹp yên,

    Sóc Sơn nhẹ gót thần tiên lên trời. (2)

    (2). Bài này nói về Thánh Gióng.

    13. Ru con con ngủ ngon lành

    Để mẹ gánh nước rửa bành ông voi

    Muốn coi lên núi mà coi

    Coi bà quản tượng cưỡi voi bành vàng (1)

    (1). Tương truyền câu này ca ngợi Bà Triệu, lãnh tụ nghĩa quân chống nhà Ngô xâm lược vào năm 248.

    Có nơi còn chép:

    Coi Bà Triệu tướng cưỡi voi, đánh cồng

    Túi gấm cho lẫn túi hồng

    Têm trầu cánh kiến cho chồng trẩy quân.

    (Trầu têm cánh kiến giống như trầu têm cánh phượng).


    14. Sa Nam trên chợ dưới đò (1)

    Nơi đây Hắc Đế kéo cờ dụng binh

    (1). Sa Nam: Thị trấn huyện lỵ Nam Đàn. Năm 722 Mai Hắc Đế xây Vạn An Thành ở núi Vệ Sơn cùng nhân dân chống bọn xâm lược nhà Đường. Hiện nay ở Vệ Sơn còn đền thờ Mai Hắc Đế.

    15. Bạch Đằng giang là sông cửa ải

    Tổng Hà Nam là bãi chiến trường (2)

    (2). Năm 1288 Trần Hưng Đạo diệt quân của Ô Mã Nhi ở sông Bạch Đằng (sông chảy giữa hai tỉnh Quảng Ninh và Hải Phòng)

    16. Có chàng Công Tráng họ Đinh

    Dựng lũy Ba Đình chống đánh giặc Tây.

    Cơ mưu, dũng lược ai tày

    Chẳng quản đêm ngày vì nước lo toan

    Dù cho vận nước chẳng còn,

    Danh nghĩa vẹn toàn, muôn thủa không phai. (1)

    (1). Lũy Ba Đình: Một căn cứ chống Pháp của nghĩa quân Cần Vương Thanh Hóa dưới sự chỉ huy của: Đinh Công Tráng, Phạm Bành, Hoàng Bật Đạt. Ba Đình là ba làng: Mỹ Khê, Thượng Thọ và Mậu Thịnh thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

    17. Vườn ai trồng trúc, trồng tre

    Ở giữa trồng chè, hai bên đào ao

    Ấy nhà một đấng anh hào

    Họ Phan làng Thái, đồng bào kính yêu. (2)

    (2). Họ Phan, làng Thái: Tức Phan Đình Phùng người làng Đông Thái nay là Đức phong, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.

    18. Sông Lam một dải nông sờ

    Nhớ người quân tử bơ vơ nổi chìm. (1)

    (1). Người quân tử: Chỉ cụ Phan Đình Phùng.

    19. Nhớ ai nhớ mãi, nhớ hoài

    Nhớ người tráng sĩ gươm mài dưới trăng (2)

    (2). Người tráng sĩ: Chỉ Cao Thắng, một vị tướng của Phan Đình Phùng.

    20. Kệ Sơn, Phượng Lĩnh đôi hàng

    Đi về mấy độ ngang tàng vào ra

    21. Ngàn Hống hỏi khách đi qua

    Nào ai là kẻ xông pha đứng đầu. (1)

    (1). Đây là lời một nghĩa quân thương tiếc ông Thái Vĩnh Chinh, một trong những lãnh tụ của phong trào Cần Vương.

    22. Đường đi chín xã sông con

    Hỏi thăm ông Hưởng Hiệu hãy còn hay không? (2)

    (2). Ông Hưởng Hiệu: Tức ông Nguyễn Duy Hiệu người làng Thanh Hà, xã Diên Phước (thuộc huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam) lãnh đạo phong trào Cần Vương ở Quảng Nam năm 1885. Sau khi nghĩa quân bị tan rã, ông bị Nguyễn Thân bắt ở núi Phúc Sơn (1888) và bị giặc Pháp kết án tử hình.

    23. Ngó vô Linh Đồng mây mờ

    Nhớ ông Nguyên soái dựng cờ đánh Tây. (3)

    Sông Côn khi cạn, khi đầy

    Khí thiêng đất nước, nơi này vẫn thiêng. (4)

    (3). Ông Nguyên soái tức ông Mai Xuân Thưởng, người làng Phú Lạc, huyện Bình Khê, tỉnh Bình Định, khởi nghĩa Cần Vương cùng thời với Nguyễn Duy Hiệu. Năm 1887 ông bị giặc Pháp bắt và kết án tử hình.

    (4). Linh Đồng: Thuộc xã Bình Phú, huyện Bình Khê, tỉnh Bình Định. Sông Côn: Một nhánh của sông Ba chảy qua Bình Định đổ xuống cửa biển Quy Nhơn.


    24. Chiều chiều én liệng truông Mây

    Cảm thương chú Lía bị vây trong thành. (1)

    (1). Lía: Tên một lãnh tụ nghĩa quân, quê ở Bình Định đã nổi dậy chiếm truông Mây (Bình Định) chống chúa Nguyễn.

    25. Gò Công anh dũng tuyệt vời

    Ông Trương "đám lá tối trời" đánh Tây. (2)

    (2). Cuối thế kỷ 19 khi thực dân Pháp xâm lược phía nam tổ quốc. Trương Định đã anh dũng lãnh đạo nhân dân chiến đấu. Nghĩa quân thường trú ở "đám lá tối trời" bất ngờ đánh úp quân giặc.

    26. Vĩnh Long có cặp rồng vàng

    Nhất Bùi Hữu Nghĩa, nhì Phan Tuấn Thần. (3)

    (3). Bùi Hữu Nghĩa, Phan Tuấn Thần: Những nhà nho yêu nước đã dùng bút lông làm thơ văn chống Pháp, đả kích bọn gian nịnh theo Tây.

    27. Chiều chiều trước bến Văn Lâu

    Ai ngồi ai câu

    Ai sầu ai thảm

    Ai thương ai cảm

    Ai nhớ ai trông

    Thuyền ai thấp thoáng bên sông

    Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non (1)

    (1). Bài này nói lên lòng thương tiếc của nhân dân đối với những người yêu nước đã cùng vua Duy Tân tổ chức khởi nghĩa chống thực dân Pháp năm 1916.

    28. Gió đưa cành trúc la đà

    Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương (1)

    Mịt mù khói tỏa ngàn sương

    Nhịp chầy Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.

    (1). Trấn Vũ :(còn gọi là Trấn Võ) tức đền Quan Thánh (cạnh Hồ Tây, Hà Nội)

    - Thọ Xương: Tức huyện Thọ Xương xưa kia, nay thuộc về hai quận của Hà Nội là: Quận Hoàn Kiếm và quận Hai Bà Trưng.

    - Nhịp chầy Yên Thái: Tiếng chầy giã bột giấy ở làng Bưởi.

    - Tây Hồ: Hồ Tây, hồ này còn có tên gọi là Dâm Đàm, là Đoài hồ. Có bản chép:

    Gió đưa cành trúc la đà

    Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương

    (Chùa Thiên Mụ thuộc làng Long Thọ, ngoại ô thành phố Huế)
     
    Chỉnh sửa cuối: 7 Tháng một 2022
Trả lời qua Facebook
Đang tải...