Bông Hồng Vàng Và Bình Minh Mưa - K.G. Paustovski

Thảo luận trong 'Văn Học' bắt đầu bởi Cute pikachu, 28 Tháng mười hai 2021.

  1. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,898
    Tác phẩm: Bông hồng vàng và Bình minh mưa

    Tác giả: K. G. Paustovsky

    Thể loại: Truyện ngắn văn học

    Số chương: 22 chương

    [​IMG]

    Giới thiệu Sách

    Paustovsky là nhà văn nổi tiếng của nước Nga. Tập truyện Bông hồng vàng và bình minh mưa là tác phẩm tiêu biểu của ông tác phẩm được đưa vào chương trình học chính khóa trong Sách giáo khoa Ngữ Văn 6, Sách Chân trời Sáng tạo từ năm học 2021-2022.

    Bông hồng vàng và Bình minh mưa là tập truyện văn học kể về cuộc sống của những con người nước Nga trước thế chiến thứ II. Những điều đẹp đẽ, những niềm hạnh phúc nhỏ nhắn mà chúng ta đã bỏ quên hay xem như xa xỉ trong cuộc sống vội vã của mình được Paustovski diễn đạt bằng lối văn chương giản đơn nhưng thấm đẫm tình cảm cao đẹp.

    Nghe xong những câu chuyện như Tuyết, Chiếc nhẫn bằng thép, Bức điện, Trái tim nhút nhát, ta cảm thấy tâm hồn ta lớn thêm, rộng ra, nhẹ hơn.
     
    Chỉnh sửa cuối: 4 Tháng một 2022
  2. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,898
    Chương 1: Bông hồng vàng và bình minh trong mưa

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Cơn bão tuyết tràn vào thành phố từ chập tối. Tắt ánh mặt trời là nhiệt độ hạ xuống đột ngột. Khi cơn bão ập tới, nhiệt độ còn xuống nữa. Không khí khô đến khó thở. Từ trong nhà nhìn ra chỉ thấy trời đất trắng bệch một màu bạc xỉn của băng bụi. Gió quyện chúng quẩn quanh trên mặt đường, xếp thành từng đống ở chân tường. Không một bóng người bóng vật ngoài phố. Thỉnh thoảng mới thấy một chiếc xe tải, chăn trấn thủ bọc kín máy, lạc lõng chạy qua, bụi trắng cuồn cuộn dưới gầm xe.

    Tì tay trên bậu cửa sổ, tôi bần thần nhìn ra những ngọn đèn đường vàng ệch trong bóng tối nhuốm màu trắng phản chiếu của tuyết già mà rùng mình cảm trước thấy chiều dài ghê gớm của thời gian một đêm mất ngủ.

    Guenađy Shpalikov, bạn cùng phòng với tôi, nhà thơ chưa được ai biết đến trong những năm xa xôi ấy, quẳng cho tôi một cuốn sách dày cộp, bìa bọc simili:

    - Đọc đi! Những đêm như đêm nay mà đọc Paustovsky thì đúng lúc lắm. Nếu cậu thích, có thể coi như mình tặng cậu. Đây là tuyển tập. Mình đã đặt mua toàn tập hôm qua rồi.

    Tôi ngần ngại nhìn cuốn sách dày cộp. Nhưng chỉ vừa đọc mấy chục trang đầu, tôi đã hiểu ngay rằng không gì có thể bắt tôi gấp cuốn sách lại chừng nào tôi chưa đọc xong.

    Và thế là đêm đó - một đêm giá lạnh mùa đông năm 1956 ở Moskva - tôi đã gặp Paustovsky.

    Từ những hàng chữ in bình thường trên trang giấy xanh lên màu chao đèn ngủ, những nhân vật sống bước ra, đi lại, làm việc, yêu, ghét, đau khổ, vui, buồn, trong những câu chuyện đầy tình cảm của những xúc động thường là thầm kín và cao cả, trên nền phong cảnh Nga với những hàng bạch dương run rẩy trong gió, những vì sao trong vũng nước đêm, mùi lá mục trong rừng..

    Tôi nghiễm nhiên trở thành người chứng kiến, người tham gia vô vàn chuyện đời chuyện người, rất thường mà rất lạ, không sao quên được. Là nhờ Konstantin Paustovsky.

    Và tôi thật sự đã không quên, bởi vì, hơn là những chuyện kể mà ta có thể nghe ở bất cứ ai, trong một đêm đó Paustovsky đã giúp tôi sống một đoạn đời tính bằng nhiều năm, mà là những năm giá trị, khi con người bỗng nhận ra rằng mình không thể giản đơn tồn tại, mà phải được sống thực, sống đầy đủ, với những rung cảm thực, cái duy nhất làm cho cuộc sống của ta phong phú thêm và vì thế có ý nghĩa hơn.

    Đọc Paustovsky tôi bỗng hiểu tôi hơn, tôi bỗng hiểu mọi người hơn. Và, đây mới là cái chính: Tôi chợt hiểu rằng mỗi con người, dù người đó là ai, là nhà bác học, nhà thơ, là ông thợ mộc bình dị, tất cả, đều là một thế giới phong phú. Thế giới ấy không lồ lộ dưới ánh sáng mặt trời, và ta không thể thấy được nó, càng không thể nhìn rõ nó, bằng cặp mắt lười biếng. Mỗi dòng chữ của Paustovsky nói với chúng ta một cái gì rất mới về cái thế giới không dễ thấy ấy.

    Tôi đọc mê mải, không biết rằng cơn bão tuyết đã lặng từ lâu, có lẽ từ nửa đêm, và khi tôi gập sách lại thì ánh bình minh màu trắng đục của riêng những chân trời phương Bắc đã tràn ngập khắp phòng. Ngọn đèn đêm vẫn cháy, nhưng ánh sáng màu xanh lơ của nó nhợt nhạt hẳn. Qua một đêm, tuyết đã xếp thành những vồng trắng mịn màng trên bậc cửa sổ. Tôi trở dậy, mở một cánh cửa, lặng ngắm những bông tuyết đang sà xuống.

    Chúng bay chậm, đung đưa trong gió nhẹ, rồi từ từ đậu xuống những đống tuyết lớn. Tôi chìa tay ra đón tuyết. Lúc đầu, tôi có cảm giác những bông tuyết lảng tránh tay tôi. Nhưng có những bông bạo dạn hơn đến gần, ngập ngừng trong giây lát, rồi mới nhẹ nhàng đáp xuống. Khi tôi thu tay về thì trong lòng bàn tay chỉ còn mấy vệt ướt: Tuyết đã tan rồi. Trong khoảnh khắc ấy tôi chợt hiểu rằng tôi đã bỏ qua rất nhiều, nhiều lắm, cái đẹp trên những con đường mà tôi đã đi qua, tính cả về không gian lẫn thời gian. Cũng như trước cái đêm đáng nhớ ấy tôi đã không biết đến cái đẹp của những bông tuyết này, chỉ vì tôi không biết nhìn, chưa biết đến niềm mê say mà cái đẹp mang tới. Paustovsky chỉ cho tôi thấy cái mất mát ấy. Như một người bạn rất gần gụi với ta, như một người thân của ta, Paustovsky bước vào tâm hồn ta rồi ở lại đó, ông thủ thỉ với ta những chuyện tâm tình. Nghe xong những câu chuyện ấy, ta cảm thấy tâm hồn ta lớn thêm, rộng thêm, nhẹ hơn.

    * * *

    Paustovsky ra đời ngày 31 tháng 5 năm 1892 trong một ngõ hẻm thành Moskva. Dòng họ ông gốc kazak[1] miền Zaporozhe, sau mới chuyển tới cư ngụ ở vùng ven sông Roshi gần tỉnh lỵ Belaya Serkov. Cha ông làm nhân viên thống kê ngành đường sắt. Ông nội là một cựu chiến binh kadak dưới thời Nga hoàng Nikolaev.

    [1] Người Nga, xuất thân từ các chiến binh chống lại các cuộc xâm lăng của Thổ Nhĩ Kỳ và người Tartar, sống thành một cộng đồng lớn ở vùng Nam Nga, thường được gọi là cô-dăc (cosaques) trong các bản dịch từ tiếng Pháp. Phân biệt với người Kazakh, cư dân nước Kazkhstan.

    Cụ thân sinh ra Paustovsky là người mơ mộng và là người ở không yên chỗ. Sau thời gian tòng sự tại Moskva, ông đổi đi Vino, rồi Pskov, sau cùng mới đỗ lại Kiev. Mẹ Paustovsky lớn lên trong một gia đình tư chức ở một nhà máy đường. Tính khắc khổ, bà nắm mọi quyền hành trong nhà. Gia đình Paustovsky đông người, đủ tính đủ nết, nhưng hết thẩy đều yêu nghệ thuật. Cậu bé Paustovsky lớn lên trong tiếng đàn dương cầm, những giọng ca, những cuộc cãi vã nghệ thuật và những rạp hát.

    Cậu bé bắt đầu cuộc đời học trò ở trường trung học số 1 thành phố Kiev. Khi cậu học tới lớp 6 thì gia đình khánh kiệt, cậu phải tự nuôi thân bằng một nghề bất đắc dĩ không xứng với tuổi học trò là nghề "gia sư".

    Đó là tóm tắt mấy dòng về con người về sau này trở thành nhà văn. Tôi chép lại tiểu sử ông ở đây theo thói thường phải viết tiểu sử nhà văn mà mình giới thiệu, chứ tôi biết tiểu sử chẳng giải thích được bao nhiêu vì sao Paustovsky chọn nghề văn chứ không phải nghề nào khác.

    Truyện ngắn đầu tiên của Paustovsky được in khi Paustovsky còn là học sinh năm chót của trường trung học. Nó xuất hiện trong tạp chí "Những Ngọn Lửa", là tạp chí văn học duy nhất của Kiev hồi bấy giờ, vào khoảng năm 1911.

    Sau khi tốt nghiệp trung học, Paustovsky thi vào đại học tổng hợp Kiev. Hai năm sau, Paustovsky chuyển qua một trường đại học khác ở Moskva và ở hẳn thành phố này từ đấy.

    Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Paustovsky làm nghề bán vé xe điện, rồi lái xe điện, rồi y tá trong các đoàn tàu quân y con thoi chạy đi chạy lại giữa hậu phương và tiền tuyến. Mùa thu năm 1915 ông bỏ công việc dân sự để đi theo một đơn vị quân y dã chiến và làm một chuyến đi dài suốt từ thành phố Lublin (Ba Lan) đến tỉnh lỵ Nesvizh ở Belorussya. Trên đường, tình cờ nhặt được một mẩu báo, ông mới biết hai anh ông đã tử trận trong cùng một ngày trên hai mặt trận khác nhau. Paustovsky vội vã trở về với mẹ. Bà cụ lúc đó đang ở Moskva.

    Nhưng Paustovsky không thể ngồi lâu một chỗ. Bệnh xê dịch giày vò ông và ông lại lên đường, tiếp tục cuộc sống nay đây mai đó. Ông đi Ekaterinoslav để làm việc trong nhà máy luyện kim của công ty Briansky. Rồi bỏ đấy mà đi Yuzovka, từ đó đến Taranrog, làm trong các nhà máy. Ở Taranrog, Paustovsky khởi viết cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình - "Những Kẻ Lãng Mạn". Mùa thu năm 1916, Paustovsky lại một lần nữa bỏ Taranrog để đến nhận công tác tại Công ty liên hiệp hải sản Azovskoye.

    Cách mạng Tháng Hai bùng nổ khi Paustovsky đang ở Moskva. Lúc đó ông đã bước vào nghề báo. Ông viết: "Sự hình thành con người và nhà văn trong tôi bắt đầu từ những năm ấy, nó xảy ra dưới chính quyền xô-viết và quyết định toàn bộ cuộc đời tôi từ đấy về sau".

    Sau thời gian ở Moskva, ông lại quay về với mẹ, bà cụ lúc ấy đã sống ở Ukraina. Từ Kiev, nơi ông chỉ cư ngụ một thời gian ngắn, Paustovsky đi Ôđessa. Ở thành phố cửa biển này ông được sống trong môi trường các nhà văn trẻ và tài năng: Ilf, Bagritzky, Babel, Shenghel, Lev Slavin.. Nhưng rồi ông lại giã từ những người bạn tuyệt vời của mình để trở về để tiếp tục cuộc hành trình vô định. Ông đi Sukhum, Batum, Tifflis. Từ Tifflis, Paustovsky đến Armenya, rồi lang bạt sang tận Ba Tư.

    Năm 1923, Paustovsky trở về Moskva trong một chuyến dừng chân, xin làm biên tập viên cho một tờ báo. Cũng từ đó tên tuổi của ông bắt đầu trở thành quen thuộc với độc giả qua những tác phẩm nối tiếp nhau ra đời.

    Cuốn sách đầu tiên được Paustovsky coi là tác phẩm thực sự của ông là tuyển tập truyện ngắn "Những Con Tàu Đi Ngược Chiều Nhau".

    Mùa hè năm 1932 Paustovsky bắt đầu cuốn "Kara-Bugaz" và một số truyện ngắn khác mà về sau này ông đã kể lại khá tỉ mỉ trong "Bông Hồng Vàng".

    Sau khi "Kara-Bugaz" ra đời, Paustovsky xin ra ngoài biên chế, tức là thôi không làm cho nhà nước và ăn lương nhà nước nữa, để chuyên viết văn, "cái công việc duy nhất, choán hết mọi việc khác, có lúc thực cay cực, nhưng là cái bao giờ tôi cũng yêu mến". Ở chế độ xã hội chủ nghĩa, việc xin ra ngoài biên chế để sống tự do được coi như một việc làm không bình thường, một hành động rồ dại, hoặc một hành động dũng cảm, tuỳ theo cách nhìn của mỗi người.

    Trong cuộc sống tự do khỏi công việc nhà nước Paustovsky còn đi nhiều hơn nữa. Dấu chân ông in khắp mọi miền đất nước xô-viết, từ bán đảo Konsky đến những sa mạc vùng Trung Á, từ các thành phố băng tuyết ở Cực Bắc đến những bờ biển ấm áp vùng Krym tới những miền rừng rậm rạp của Sibir. Ngoài ra, ông còn đến Tiệp Khắc, đi tàu biển vòng quanh châu Âu, qua các thành phố Istanbul, Athena, Napoli, Roma, Paris, Rotterdam, Stockholm..

    Trong đại chiến thế giới lần thứ hai, ông làm phóng viên chiến tranh của Mặt trận Nam và ở đó ông cũng đi rất nhiều.

    Đời ông, từ lúc còn nhỏ cho đến năm 1921, được ghi lại khá đầy đủ trong các cuốn truyện mang tính hồi ký "Những Năm Xa Xôi", "Tuổi Trẻ Không Yên", "Sự Bắt Đầu Của Thế Kỷ Ta Chưa Biết".

    Paustovsky nói rằng nhà văn cần phải biết tạo ra tiểu sử cho mình. Tức là, ông muốn nói, nhà văn cần phải chủ động ném mình vào trong những xoáy lốc của cuộc đời, để được sống nhiều, sống thật trong nó, tự mình tạo ra nguồn nguyên liệu dồi dào cho công việc viết văn sau này. Ông nhìn những nhà văn cạo giấy, những viên chức văn chương bằng cái nhìn khinh bỉ.

    Ông không chỉ viết nhiều, mà còn viết hay. Hiếm có nhà văn nào ở nước Nga được in toàn tập trong khi còn sống. [2]

    [2] Hiện nay ở Moskva có một đường phố mang tên Konstantin Pautovsky.

    Paustovsky là nhà văn không biết hài lòng về mình. Ông luôn nói rằng những gì ông đã viết chỉ là bước đầu, chứ toàn bộ công việc thực sự thì bao giờ cũng vậy, còn ở phía trước.

    Văn của Paustovsky, cũng như sự tiếp nhận cuộc đời ở trong ông, những suy ngẫm của ông, mang một sắc thái đặc biệt.

    Lần đầu đọc Paustovsky, trong cái đêm bão tuyết không ngừng gào thét, tung băng bụi ra khắp nơi và trùm lên tất cả, khi ngọn đèn đêm tỏa ánh sáng nhè nhẹ mơ hồ lên những trang giấy, trong cái thời gian mung lung làm cho con người dễ đi vào mình hơn cả, tôi cảm thấy cuộc sống vụt ngưng lại, nhưng bên cạnh nó lại hiện ra một cuộc sống khác, với đầy đủ đường nét, màu sắc, âm thanh và tình người. Cuộc sống ấy rõ nét đến nỗi ta có thể nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy tất cả những gì thuộc về nó. Nhưng đồng thời nó cũng mơ hồ, huyền ảo, như một cái gì không thực, không dễ có thực, nhưng nó làm ta tin ngay rằng nó thật sự hiện hữu, sung sướng để mà tin. Bởi vì những cái đó đúng là có thực, nhưng lại là những cái, tiếc thay, ta không thể thấy được dễ dàng. Có lẽ, tôi đã nói điều mâu thuẫn. Nhưng, thú thật, tôi không biết diễn tả thế nào những cảm giác mới sinh mỗi lần đọc Paustovsky. Nguyễn Khải nói với tôi về Paustovsky thế này: "Hình như Paustovsky thích thả sương mù vào truyện của ông ta. Cái đó làm người đọc nhiều lúc tưởng những điều ông ta nói giống như những giấc mơ, để rồi sau khi suy nghĩ kỹ, mới tin là chúng có thật, lúc đó họ mới phát hiện rằng mình đã lớn thêm một chút trong tâm hồn". Tôi thấy đó là một nhận xét xác đáng. Cái hư mà thực, thực mà hư trong Paustovsky là thế. Nói cách khác, trong văn ông thực hư lẫn lộn - trong thực có hư, trong hư có thực.

    Để làm được việc đó, nhà văn phải rất dày công nghiên cứu cuộc sống, nghiên cứu thật tỉ mỉ, đến chân tơ kẽ tóc, nhập tâm cuộc sống mà mình quan sát, rồi hòa mình vào nó, sống thực với nó. Đến khi ngồi vào bàn viết thì cuộc sống ấy đã thành của mình, còn hơn của mình nữa, vì nó được nghiên cứu, được suy ngẫm, để cuối cùng bật ra chỉ những đường nét chính, những màu sắc chính mà thôi. Đó là cuộc sống trong sự biểu đạt tiết kiệm, được đưa lên giấy chỉ những gì cần thiết nhất, tinh chất nhất, đẹp đẽ nhất.

    Cách biểu đạt này của Paustovsky giống phong cách làm việc của những họa sĩ Trung Hoa cổ trong trường phái quốc họa. Khác với bạn đồng nghiệp phương Tây, những họa sĩ quốc họa Trung Hoa không bao giờ làm phác thảo cho những bức tranh sẽ vẽ. Họ an nhiên sống trong đời, lặng lẽ quan sát nó, lặng lẽ thu nó vào lòng, nói cách khác, họ sống như mọi người, nhưng chăm chú quan sát cuộc sống đến mức thuộc lòng nó, chỉ đến lúc ấy họ mới nhả tinh chất của nó ra trên giấy trên lụa. Cuộc sống được biểu đạt theo cách ấy hiện ra ở những điểm tập trung nhất, dường như không còn lệ thuộc chủ đề. Những gì không cần thiết, những tạp chất, đều bị họ gạt bỏ không thương tiếc. Nhưng khoan, cũng không hẳn là thế. Bên cạnh những cái thuộc tinh chất ta lại bắt gặp những nét tưởng chừng chẳng có liên quan gì tới chủ đề, có vẻ như thừa. Nhưng thử bỏ những cái thừa ấy đi mà xem - tác phẩm sẽ mất đi vẻ đẹp mà ta đã được thấy. Tức là, chúng là những cái thừa cần thiết, những cái thừa có chọn lọc bằng vô thức, những cái thừa xét cho cùng là cố ý của tác giả. Thiếu những cái thừa đó văn hết là văn. Nó thành xác chết.

    Tôi sẽ không chứng minh điều này. Nó vô ích như khi ta cố chứng minh vẻ đẹp của một buổi bình minh chẳng hạn.

    Mà cũng đừng hoài công kể lại những truyện ngắn của Paustovsky. Chúng ta hãy thử nhớ lại "Chú Bé Chăn Bò", "Gió Biển", "Chuyến Xe Đêm", "Người Đầu Bếp Già".. Liệu có thể kể lại những câu chuyện trong những truyện ngắn đó không nhỉ? Có người đã kể, kể rất hay, nhưng nghe xong, tôi nghĩ rằng sự mất mát trong câu chuyện được kể lại có thể tính bằng số bách phân là 90 phần trăm.

    Paustovsky có thể từ một chi tiết rất nhỏ mà dựng thành một truyện ngắn. Nhưng qua truyện ngắn đó ta được biết không phải một người - nhân vật chính - mà nhiều người, và hơn thế nữa, dấu vết của cả một khoảng thời gian.

    Cái "hư" trong văn Paustovsky có một đặc tính được nhiều người nhận xét. Dường như ông khám phá được trong tâm hồn ông, và trong tâm hồn người nói chung, sự ưa thích bản năng những cái không bình thường. Cho nên nói về cái bình thường bằng con đường tìm kiếm, lựa chọn để rồi đưa ra cái có vẻ không bình thường lại là con đường ngắn nhất của sự biểu đạt cái đẹp.

    Nhưng nếu cái không bình thường ấy quá xa lạ với trí tưởng tượng của người đọc thì cũng hỏng, người đọc sẽ đẩy nó ra và người viết thế là hoài công. Cần phải chọn cái không bình thường bình dị, nghĩa là cái có thể có, có thể xảy ra, dường như người đọc có thể thấy nó, nhưng do vô tình đã đi lướt qua nó, đi lướt qua cái đẹp, một cách hững hờ, và giờ đây, khi được nhà văn chỉ cho thấy, mới biết ra để mà nuối tiếc. Khả năng nhìn thấy cái không bình thường trong cái bình thường ở trong ông làm nên nét độc đáo của văn ông. Paustovsky thú nhận rằng khả năng đó bắt nguồn từ tính chuộng lạ vốn có trong ông từ thuở thiếu thời. Ông thuật lại:

    "Thế giới sặc sỡ của những cái lạ chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của tôi".

    "Môn học mà tôi thích nhất ở trường trung học là môn địa lý. Môn này khẳng định với tôi rằng trên trái đất có những xứ sở kỳ lạ. Tôi biết rằng cuộc sống nghèo nàn và vất vưởng của gia đình tôi hồi ấy không thể cho phép tôi nhìn thấy những xứ sở ấy. Mơ ước của tôi không thể thực hiện được. Nhưng không phải vì thế mà nó chết dần chết mòn đâu".

    "Tâm trạng tôi khi ấy có thể định nghĩa bằng hai từ: Hào hứng và buồn rầu. Hào hứng trước cái thế giới mà mình tưởng tượng ra, buồn rầu vì không thể nhìn thấy nó. Hai cảm giác ấy chiếm thế thượng phong trong những vần thơ thuở thiếu thời của tôi và trong những tác phẩm văn xuôi đầu tiên còn non nớt của tôi".

    "Những năm tháng qua đi và dần dần tôi rời bỏ tính chuộng lạ, vẻ diêm dúa, hương vị làm ta mê mẩn, chất bốc của nó và thái độ dửng dưng đối với con người bình dị, không có gì đáng chú ý. Nhưng trong một thời gian dài, trong những truyện dài và truyện ngắn của tôi vẫn cứ còn rơi rớt những sợi chỉ mạ vàng của nó."

    Paustovsky kể rằng lần cắt đứt quyết liệt và cuối cùng với tính chuộng lạ ở trong ông xảy ra trong lần ông đi xem nhà chiếu hình vũ trụ Moskva. Cũng như mọi người, ông bị lóa mắt bởi sức sáng tạo của con người với những máy móc kỳ diệu đó.

    Ông ra về khi trời đã khuya. Một buổi tối tháng Mười với mùi lá rụng trên đường. Paustovsky ngẩng đầu lên. Ông bàng hoàng. Tưởng chừng ông được trông thấy, lần đầu tiên trong đời, một bầu trời thực sự - một bầu trời sống - với muôn vàn vì sao lấp lánh.

    "Và thế là tôi thấy tất cả những gì tôi viết từ trước tối hôm đó chỉ là giả tạo, hệt như cái nhà chiếu hình vũ trụ với những chòm sao giả của nó".

    Sau đêm đó, ông vội vã hủy đi một số truyện ngắn quá diêm dúa và giả tạo mà trước kia ông thích thú.

    Tuy nhiên, không phải cái gì khác, mà chính lòng ham mê cái lạ trong buổi thiếu thời đã dạy cho ông biết cách nhìn thấy những nét đẹp, và hơn nữa, những nét hoàn toàn không dễ thấy đối với người khác, trong những sự vật tầm thường. Những nét đẹp đó chúng ta gặp luôn luôn trong những tác phẩm của ông, hầu như trên mỗi trang giấy. Chúng làm nên cái thần thái đặc sắc của văn ông. Ngay ở trong những truyện dài "Những Kẻ Lãng Mạn", "Những Vầng Mây Lấp Lánh", mà ông than phiền rằng trong đó tính chuộng lạ còn để lại nhiều dấu vết, chúng ta vẫn thấy những nét đẹp nhờ lòng ham mê tính chuộng lạ mà có. Có lẽ cái hại của tính chuộng lạ chỉ ở chỗ nó dễ làm người viết ham cái bề ngoài hào nhoáng mà quên mất cái bề trong còn đẹp hơn rất nhiều của cuộc sống.

    Về vấn đề này Paustovsky viết: "Tôi cho rằng một trong những đặc tính thuộc sáng tác văn xuôi của tôi là cái thần thái lãng mạn của chúng"... "

    Cái đó, tất nhiên, là chất riêng của từng người. Đòi hỏi người nào cũng vậy, nhất là nhà văn, phải từ bỏ cái thần thái ấy là lố bịch. Chỉ có dốt nát mới đi đòi hỏi như thế"..

    "Cái thần thái lãng mạn không hề sống chung dưới một mái nhà với sự quan tâm cấp thiết đối với cuộc sống" thô thiển "và tình yêu đối với cuộc sống ấy. Trong hết thảy lĩnh vực của thực tại và hoạt động của con người, trừ một vài trường hợp ngoại lệ, bao giờ cũng sẵn có những hạt giống lãng mạn.. Vì không nhận thấy những hạt giống ấy, người ta có thể giày xéo lên chúng, nhưng cũng có thể ngược lại, tạo điều kiện cho chúng nở rộ, cho chúng lấy mùa hoa của mình làm cho thế giới bên trong của con người đẹp thêm, cao thượng hơn".

    Ông phải bộc bạch tâm sự mình như thế, ông phải lớn tiếng bảo vệ phong cách lãng mạn trong văn học như thế là để tự vệ, để chống trả sức mạnh của trào lưu thời thượng "hiện thực xã hội chủ nghĩa" muốn áp đặt phong cách của nó như là một phong cách duy nhất cho nền văn học xô-viết. Paustovsky không rời con đường riêng mà ông đã chọn. Ông cho rằng nó hoàn toàn không có gì trái ngược với con đường chung của các nhà văn của bất kỳ nước nào, bất kỳ thời đại nào, là hướng tới và vẫy gọi mọi người cùng nhau hướng tới Cái Đẹp. [3]

    [3] "Lời Nói Đầu" này được in trong lần xuất bản thứ nhất của bản dịch "Bông Hồng Vàng". Lần xuất bản thứ hai nó bị bỏ đi, liên quan đến việc tên người dịch bị cấm. Trong lần xuất bản này có một số sửa chữa nhỏ.

    Từ lâu Paustovsky đã có ý định viết một cuốn sách về nghề văn. Không phải một cuốn sách dạy viết văn, không phải thế, ông không có ý định dạy bảo ai, mà là một cuốn khảo cứu nghiêm túc nói về lao động đặc thù của những người cầm bút và vai trò của họ trong đời sống tinh thần của cộng đồng nhân loại. Trong bài "Thơ Của Văn Xuôi" đăng trong tạp chí "Ngọn Cờ" (Znamya) số ra tháng 9 năm 1953, ông viết rằng ý sáng tác một cuốn sách về nghề văn đã nảy ra trong ông ngay từ trước Thế chiến thứ hai. Ông đã bắt đầu, nhưng chiến tranh đã ngăn trở ông hoàn thành nó.

    Trong một thời gian hơn mười năm Paustovsky dạy nhiều khóa học văn xuôi tại Học viện văn học Gorky. Nhiều vấn đề có liên quan tới nghề văn và tâm lý sáng tác đã được đề cập. Vì các bài giảng của thầy, cũng như những lời phát biểu của trò, đều không được ghi lại, Paustovsky lấy làm tiếc, mới nảy ra ý tập hợp những tư liệu phong phú đó, bằng hình thức này hay hình thức khác, miễn sao chúng trở thành có ích cho những người viết văn, nhất là cho những người viết văn trẻ, và cho cả những ai yêu thích văn học.

    Mùa thu năm 1955, tại tỉnh Dubunty, một tỉnh nhỏ nằm bên bờ vịnh Riga, Paustovsky hoàn thành cuốn sách mà ông thai nghén từ lâu. "Bông Hồng Vàng" ra mắt bạn đọc lần đầu trong tạp chí "Tháng Mười" (Oktiabr).

    Trong bản dịch này, giống như trong nhiều bản dịch ở các nước khác mà tôi được biết ( "Bông Hồng Vàng" đã được dịch ra nhiều thứ tiếng), tôi bỏ qua hai chương "Ngôn Ngữ Kim Cương" và "Những Cuốn Từ Điển". Tác giả dành hai chương này cho việc nghiên cứu những nét độc đáo của tiếng Nga liên quan tới sự thể hiện văn học, xem xét nhiều mặt ngữ nghĩa, các gốc từ, âm hưởng, tiết tấu.. của văn ngôn tiếng Nga. Tôi rất tiếc những chương này, nhưng tôi nghĩ không có cách nào truyền đạt cái đẹp thuần khiết của từ ngữ thuộc một ngôn ngữ này bằng những phương tiện không tương thích của một ngôn ngữ khác.

    Nói chung, trong khi dịch cuốn sách, cảm giác đuối sức là cảm giác tôi thường gặp. Thậm chí ở một vài đoạn tôi cảm thấy hoàn toàn bất lực. Ai cũng biết rằng dịch nếu không phải là phản thì cũng là một cái gì mất mát so với nguyên bản. Trong "Bông Hồng Vàng", sự mất mát đó không phải là ít.

    Khi bản dịch hoàn tất, tôi mới hiểu rằng trong việc làm này của tôi chính tác giả đã giúp tôi rất nhiều.

    Bởi vì mỗi lần đọc đi đọc lại một đoạn văn khó, một hình ảnh đẹp được miêu tả một cách khác thường, cần phải tìm cách để truyền đạt cho tốt nhất, tôi lại phát hiện trong lòng mình một niềm vui, niềm vui này đã giúp tôi vượt qua những khó khăn.

    Bởi vì trong khi dịch "Bông Hồng Vàng", tôi hiểu thêm được rất nhiều cái lao động nặng nhọc nhưng cao quý và vi thế tuyệt đẹp của nghề văn (nếu có thể coi nó là một nghề). Tôi sẽ sung sướng nếu qua bản dịch này những ý nghĩ tốt lành của tác giả tới được với bạn đọc.

    Bởi vì, sau hết, tôi rất yêu Paustovsky.

    VŨ THƯ HIÊN

    Tặng Tatiana Alexeevna Paustovskaia

    - Bạn đời chung thủy của tôi

    Văn học nằm ngoài những định luật của băng

    Hoại. Chỉ mình nó không công nhận cái chết.

    Saltưkov Sheđrin_

    Lúc nào cũng phải hướng tới cái tuyệt mỹ.

    Honoré de Balzac[4]

    [4] Nhà văn Pháp (1799-1850)

    Nhiều điểm trong cuốn sách này trình bày còn rời rạc, và rất có thể, chưa được sáng sủa cho lắm.

    Nhiều điểm sẽ còn phải tranh luận.

    Cuốn sách này không phải là một công trình nghiên cứu lý thuyết, càng không phải là một kim chỉ nam. Đây chẳng qua chỉ là những ghi chép về cái nhìn của tôi đối với nghề văn và về kinh nghiệm của riêng tôi.

    Những vấn đề lớn được dùng làm cơ sở tư tưởng cho nghề văn của chúng ta không được đề cập trong cuốn sách này vì ở nước ta không có những bất đồng lớn trong lĩnh vực đó. Đối với tất cả mọi người, tính chất anh hùng và ý nghĩa giáo dục của văn học đã rõ ràng.

    Trong cuốn sách này tôi chỉ tạm kể chút ít những gì tôi kịp kể.

    Nhưng nếu như tôi truyền đạt được tới bạn đọc, dù chỉ trong một chừng mực ít ỏi, khái niệm về bản chất tuyệt vời của lao động nhà văn thì tôi dám coi như đã làm tròn bổn phận của tôi đối với văn học.

    Konstantin Paustovsky[5]

    [5] Trong cuốn này những từ riêng của Nga được phiên âm theo cách đọc tiếng Việt (đối với những âm không có âm tương ứng, thì: Sh đọc như s rất uốn lưỡi, zh đọc như g (i) rất uốn lưỡi, tz đọc như tx, f đọc như ph). Những tên người, địa danh các nước khác được để nguyên dạng.
     
    Chỉnh sửa cuối: 28 Tháng mười hai 2021
  3. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,898
    Chương 2: Bụi quý

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tôi không sao nhớ ra được bằng cách nào tôi đã biết được câu chuyện về anh thợ quét rác thành Paristên là Jean Chamet. Chamet sống bằng nghề quét dọn các xưởng thủ công trong khu phố anh ở.

    Nhà của Chamet là một túp lều ở ngoại ô. Tất nhiên, tôi có thể miêu tả tỉ mỉ khu vực Chamet cư ngụ và bằng cách đó đưa độc giả đi xa khỏi cốt truyện. Nhưng có lẽ chỉ cần nói rằng cho đến nay ở ngoại thành Parisvẫn còn lại những bức tường pháo đài bằng đất cũng đủ. Vào thời gian xảy ra câu chuyện này, những bụi kim ngân và sơn trà vẫn mọc um tùm trên tường thành và chim chóc làm tổ trong những bụi đó.

    Túp lều của anh thợ quét rác nằm ép sát chân tường pháo đài mặt bắc, kế bên những căn nhà bé bỏng của các bác hàng thiếc, các bác thợ giày, những tên du thủ du thực và đám hành khất.

    Giá mà Maupassant[6] để mắt đến cuộc sống của số cư dân trong những túp lều nọ, hẳn ông đã viết thêm được vài truyện ngắn tuyệt diệu. Có khi những truyện ấy còn mang lại cho vinh quang vốn đã vững chắc của ông thêm nhiều vòng nguyệt quế nữa cũng nên.

    Đáng tiếc là người ngoài cuộc chẳng có ai để mắt đến những nơi ấy, trừ lũ mật thám. Mà mật thám thì cũng chỉ ló mặt tới đây mỗi khi họ phải lùng xục tìm đồ mất trộm mà thôi.

    Bằng vào cái biệt hiệu "Gõ kiến" mà xóm giềng đặt cho Chamet, ta phải hình dung anh là một người gầy gò, mũi nhọn và dưới vành mũ bao giờ cũng thò ra một lọn tóc.

    Trước kia, Chamet đã từng có một cuộc sống dễ chịu. Anh đăng lính trong quân đội của "Tiểu Napoléon", hồi chiến tranh Mehico.

    [6] Guy de Maupassant (1850-1893), nhà văn Pháp.

    May cho Chamet. Anh bị sốt rét nặng ở Veracruz. Và thế là anh lính ốm yếu chưa từng một lần đọ súng thực sự nào liền bị tống về nước. Viên chỉ huy trung đoàn nhân tiện bèn gửi anh mang đứa con gái lên tám của ông là Suzanne về theo.

    Viên chỉ huy của Chamet góa vợ, thành thử đi đâu ông ta cũng lếch thếch tha mụn con gái đi cùng. Nhưng lần này ông đành phải chia tay với con gái và gửi nó về cho bà chị ở Rouen. Khí hậu Mehico rất độc đối với trẻ con châu Âu. Hơn nữa, trong cuộc chiến tranh du kích bát nháo ở nơi này chẳng thiếu gì những nguy hiểm bất ngờ.

    Trên đường về Pháp, khí nóng bốc ngùn ngụt trên Đại Tây dương. Con bé suốt ngày lặng thinh. Thậm chí nhìn những con cá bay vọt lên khỏi mặt nước bóng nhẫy nó cũng chẳng buồn mỉm cười.

    Chamet ra sức chăm sóc Suzanne. Tất nhiên, anh cũng hiểu rằng con bé không chỉ mong được anh chăm sóc, mà còn muốn được anh âu yếm, vuốt ve. Khốn nỗi, một tên lính quèn của trung đoàn thuộc địa như anh thì làm sao có thể nghĩ ra được cái gì cho trìu mến kia chứ? Anh có thể mua vui cho nó bằng cách nào đây? Đánh mạt chược với nó chăng? Hay là hát cho nó nghe những bài ca tục tĩu của lính tráng.

    Nhưng dù sao thì cũng không thể nín lặng mãi. Càng ngày anh càng bắt gặp nhiều thêm những cái nhìn băn khoăn của con bé. Cuối cùng, anh đánh liều kể cho nó nghe về cuộc đời mình. Một cách không mạch lạc, anh kể lại cho nó nghe những tình tiết hết sức vụn vặt về một vạn chài trên bờ biển Manche, những bãi cát tơi, những vũng nước đọng khi triều xuống, ngôi nhà thờ nhỏ trong thôn nhà anh với quả chuông rạn, chuyện mẹ anh đã chữa cho hàng xóm khỏi chứng rát họng như thế nào.

    Trong những mẩu ký ức đó Chamet cho rằng chẳng có gì khả dĩ làm cho Suzanne vui lên được. Nhưng anh ngạc nhiên biết bao khi thấy con bé lại háo hức nghe chuyện anh, thậm chí nó còn bắt anh kể đi kể lại những chuyện ấy, đòi biết thêm những tình tiết mới.

    Chamet nặn óc tìm cho bằng ra những tình tiết ấy, cho đến khi anh không còn tin là chúng có thật. Đó không còn là những mẩu ký ức nữa, mà chỉ là bóng mờ của chúng. Chúng tan ra như những mảnh vụn của sương mù. Thực vậy, Chamet không bao giờ có thể ngờ rằng có lúc anh sẽ phải khôi phục trong trí nhớ quãng thời gian vô tích sự ấy của đời mình.

    Một hôm, Chamet chợt mang máng nhớ tới một bông hồng vàng. Bông hồng thô kệch bằng vàng kim đã xuống nước ấy, được móc vào cây thập giá Chúa trong ngôi nhà một bà lão dân chài, chính mắt anh đã thấy. Có lẽ là như thế, mà cũng có thể là anh chỉ nghe láng giềng kể về nó.

    Không, đúng là anh đã thấy nó thật, anh còn nhớ rõ nó lấp lánh thế nào, mặc dầu ngoài trời không có nắng và một cơn bão buồn thảm đang sục sôi trên eo biển. Càng về sau Chamet càng hình dung rõ hơn cái ánh lấp lánh ấy: Nó giống như mấy ngọn lửa nhỏ sáng lên dưới một trần nhà thấp.

    Người trong vạn chài thẩy đều ngạc nhiên thấy bà lão nọ khăng khăng không chịu bán báu vật của bà. Bán nó đi bà sẽ sống dư dật. Riêng có mẹ Chamet là quả quyết rằng bán bông hồng đi là có tội, bởi vì nó là quà chúc phúc của người tình bà lão tặng bà khi bà còn là một cô gái tươi hơn hớn tại nhà máy đóng hộp cá cá mòi ở Odern.

    - Trên thế gian này những bông hồng bằng vàng như thế hiếm lắm, con ạ - mẹ Chamet nói - Nhà nào có nó nhà ấy sẽ có hạnh phúc. Mà không riêng họ đâu, con ơi, người nào chỉ chạm vào bông hồng thôi, người ấy cũng sẽ được hạnh phúc.

    Thằng bé Chamet mỏi mắt chờ cái ngày cuộc sống hạnh phúc đến với bà lão dân chài. Nhưng hạnh phúc chẳng thấy đâu, thậm chí bóng dáng của nó cũng chẳng có. Ngôi nhà của bà lão run rẩy trước gió và tối tối trong nhà chẳng có ánh lửa.

    Thế rồi Chamet bỏ làng ra đi, không được thấy ngày đổi đời của bà lão. Mãi một năm sau, anh bạn Chamet làm thợ đốt lò trên con tàu chở thư ở Le Havre mới cho anh hay rằng con trai bà lão vừa mới từ Paris đột ngột trở về, một anh chàng tính tình kỳ cục, râu xồm, vui nhộn.. Từ ngày ấy túp lều của bà lão thay đổi hẳn, khó mà nhận ra. Nó trở nên ồn ào và dư dật. Thiên hạ kháo nhau rằng bọn họa sĩ vẽ lăng vẽ nhăng thế mà kiếm được ối tiền.

    Một hôm, ngồi trên boong tàu, Chamet đang dùng chiếc lược sắt chải mớ tóc rối tung trước gió cho Suzanne thì con bé bỗng hỏi anh:

    - Anh Jean ơi anh Jean, rồi cũng sẽ có người cho em một bông hồng vàng chứ?

    - Có thể lắm. - Chamet trả lời - Rồi cũng sẽ có một thằng dở hơi nào đó cho em, Suzanne ạ! Ở đại đội anh ấy mà, em biết không, có một tay còm nhỏm còm nhom, mà tốt số lạ lùng. Hắn ta lượm được trên chiến trường một cái hàm giả đã gẫy, bằng vàng. Tụi anh mới đem cái hàm giả ấy đi bán lấy tiền nhậu một bữa, cả đại đội. Chuyện xảy ra lâu rồi, từ hồi chiến tranhAnnam kìa. Đám pháo thủ say khướt bèn lôi súng cối ra bắn chơi, thế quái nào một viên đạn lại rơi trúng miệng một núi lửa đã tắt rồi nổ tung trong đó.

    Núi lửa giật mình thở phì phì, và phun lửa. Mẹ kiếp, không nhớ cái núi ấy tên gì nhỉ? Đâu như Kraka-Taka thì phải. Chao ôi, nó phun mới dữ làm sao! Bốn chục dân bản xứ đang yên lành lăn cổ ra chết tốt. Chỉ vì một cái hàm giả đã gẫy mà ngần ấy con người ta toi mạng, thật là quá quắt! Về sau mới vỡ lẽ ra rằng cái hàm giả ấy là của chính ông đại tá của bọn anh đánh rơi. Vụ cái hàm giả sau rồi cũng yên - uy tín quân đội trên hết mà. Nhưng bọn anh đận ấy say bí tỉ, em ạ.

    - Ở đâu kia hả anh? - Suzanne ngờ vực hỏi.

    - Anh nói rồi mà, ở xứ Annam, ở Indochine ấy. Ở đấy em ạ, đại dương bốc cháy cứ bùng bùng chẳng khác gì dưới hỏa ngục, còn lũ sứa thì uốn éo lượn lờ y như những tấm váy riềm ren của vũ nữ. Lại còn ẩm nữa chứ, eo ơi là ẩm, ẩm đến nỗi chỉ một đêm thôi, trong ủng bọn anh nấm đã mọc đầy. Thật đấy, anh mà nó bịa thì giời đánh thánh vật anh đi.

    Trước đấy, Chamet đã nghe không biết bao nhiêu là chuyện tào lao của lính tráng, nhưng riêng anh, anh chưa từng bịa. Không phải anh không biết bịa, chẳng qua chưa bao giờ anh cần phải làm việc đó. Giờ đây anh coi việc làm cho Suzanne vui là một bổn phận thiêng liêng.

    Chamet đưa con bé đến Rouen và trao tận tay bác gái của nó - một người đàn bà cao đuồn đuỗn, đôi môi tái nhợt mím chặt. Khắp mình bà ta toàn hạt cườm đen, trông chẳng khác gì một con rắn ở gánh xiếc.

    Vừa nhác thấy bà bác, con bé bám chặt ngay lấy Chamet và nép vào cái áo ca-pốt bạc phếch của anh.

    - Không việc gì đâu! - Chamet thì thầm và khẽ ủi vào vai, đẩy Suzanne ra. - Bọn lính trơn các anh, em ạ, cũng chẳng có quyền chọn cho mình các ông chỉ huy đại đội. Thôi, chịu khó vậy, Souzi, em cũng con nhà lính mà!

    Chamet bỏ đi. Anh ngoảnh lại mấy lần, nhìn lên những khung cửa sổ của ngôi nhà buồn tẻ, nơi đến gió cũng chẳng buồn lay động những bức rèm. Nghe rõ tiếng đồng hồ hối hả trong những quán nhỏ nơi phố hẹp. Chamet còn giữ lại trong túi dết một kỷ niệm của Suzanne, một cái nơ buộc tóc màu xanh đã nhàu nát. Không hiểu sao cái nơ lại có mùi thơm dịu dàng đến thế, như thể nó được để lâu trong một giành hoa tím.

    Bệnh sốt rét Mehico tàn phá sức khỏe Chamet. Anh chưa được thăng chức đội thì đã bị sa thải rồi. Chamet trở về cuộc sống dân thường với hàm binh nhì.

    Năm tháng qua đi trong cảnh thiếu thốn đơn điệu. Chamet nếm hết nghề khốn khổ này đến nghề khốn khổ khác, để rồi cuối cùng trở thành thợ quét rác. Từ đó, mùi bụi bậm và rác rưởi lúc nào cũng ảm vào anh. Anh thấy nó cả trong gió thoảng từ sông Seine luồn vào trong các phố, cả trong những bó hoa ướt mà các lão bà ăn vận sạch sẽ đứng bán trên các đại lộ.

    Ngày lại ngày quyện lấy nhau trong một màu vàng đục. Nhưng đôi khi trong cái màu vàng đục ấy, Chamet lại thấy trong lòng mình hiện lên một áng mây hồng - đó là bộ áo dài cũ của Suzanne. Từ tấm áo ấy phảng phất hương xuân tươi mát như thể người ta cũng để nó lâu trong một giành hoa tím.

    Suzanne giờ ở đâu? Sống ra sao? Chamet biết giờ đây Suzanne đã là một thiếu nữ, còn cha nàng thì đã tử trận.

    Đã nhiều lần Chamet toan đi Rouen thăm Suzanne. Nhưng anh cứ lần lữa mãi, cho đến khi chợt hiểu ra rằng mình đã bỏ lỡ dịp và Suzanne chắc cũng đã quên hẳn anh rồi.

    Anh tự mắng mình là đồ bị thịt, khi nhớ đến cuộc chia tay với Suzanne. Đáng lẽ phải hôn con bé thì anh lại ấn vào lưng nó, đẩy nó tới chỗ con quạ già nọ và bảo: "Chịu khó vậy, Souzi ạ, em cũng con nhà lính mà!".

    Ai cũng biết thợ quét rác chỉ làm việc về đêm. Họ phải làm đêm như vậy vì rác rưởi do cái hoạt động náo nhiệt và không phải lúc nào cũng có ích mà con người ta thải ra tích tụ lại nhiều nhất vào cuối ngày và ngoài chuyện đó ra, thợ quét rác không được phép xúc phạm thị giác và khứu giác của dân đất kinh kỳ. Ban đêm hầu như chẳng ai thấy những người quét rác làm việc thế nào, trừ lũ chuột cống.

    Chamet đã quen với công việc về đêm, thậm chí anh còn thích cái khoảng thời gian ấy là khác. Nhất là lúc ánh bình minh uể oải bắt đầu chọc thủng màn đêm trên thành phố. Sương mù vương vất trên sông Seine, nhưng sương không bao giờ bốc lên quá thành cầu.

    Một hôm, cũng vào một buổi bình minh mờ mịt hơi sương như thế, Chamet đang đi trên cầu Phế Binh thì bắt gặp một thiếu phụ mặc áo dài màu tím nhạt viền ren đen. Thiếu phụ đứng bên thành cầu, cúi nhìn sôngSeine.

    Chamet dừng lại, cất chiếc mũ bụi bậm xuống và nói:

    - Thưa tiểu thư, nước sông Seine giờ này lạnh lắm. Tiểu thư nên để tôi đưa về nhà thì hơn.

    - Giờ đây tôi cũng chẳng có nhà để mà về, ông ạ.

    Thiếu phụ trả lời rất nhanh rồi day mặt nhìn Chamet. Chamet để rơi chiếc mũ.

    - Souzi! - anh nói bằng một giọng tuyệt vọng và sung sướng đến cực điểm - Cô bé con nhà lính ơi! Cô nhóc của anh ơi! Thế là cuối cùng anh cũng đã gặp được em. Chắc em quên mất anh rồi. Anh là Jean Ernest Chamet đây, chính là cái thằng cha binh nhì ở trung đoàn thuộc địa số Hai Mươi Bảy đã đưa em về cho mụ bác gái tởm lợm ở Rouen đây. Souzi ơi, giờ em mới xinh dẹp làm sao! Tóc em chải khéo ơi là khéo! Còn anh, thằng lính quèn này thì đến chải đầu cho em thôi cũng chẳng biết cách.

    - Ôi, anh Jean! - thiếu phụ kêu lên, đâm bổ tới, đeo lên cổ anh và òa khóc. - Jean ơi, anh vẫn tốt với em như xưa. Em còn nhớ hết mà!

    - Ồ, rõ vớ vẩn chửa kìa! - Chamet lầu bầu - Lòng tốt của anh phỏng có lợi gì cho ai mới được chứ! Chuyện gì đã xảy ra với em vậy, em gái bé bỏng của anh?

    Chamet kéo Suzanne lại gần mình và làm cái việc mà anh không dám làm trước kia ở Rouen: Anh vuốt ve và hôn lên mái tóc óng ả của nàng. Rồi anh vội lánh ra, sợ Suzanne ngửi thấy mùi hôi của chuột cống trên áo ngoài của anh. Nhưng Suzanne lại càng nép chặt vào vai anh hơn.

    - Có chuyện gì vậy, em gái bé bỏng của anh? - Chamet bối rối nhắc lại.

    Suzanne không trả lời. Nàng không nén được nức nở. Chamet hiểu rằng trong lúc này anh chưa nên hỏi chuyện gì hết.

    - Anh có một cái hang, em ạ, ở chỗ tường thành ấy. - Chamet hấp tấp - Hơi xa đây một chút. Tất nhiên, ở chỗ anh ở chẳng có gì hết, nhẵn như chùi. Nhưng được cái có thể hâm nước nóng và nằm ngủ trên giường. Ở nhà anh, em có thể tắm táp và nghỉ ngơi. Và nói chung, em muốn ở bao nhiêu lâu tùy thích.

    Suzanne ở nhà Chamet năm ngày. Năm ngày ấy một mặt trời kỳ lạ cất lên trên thành Paris. Hết thảy mọi nhà, kể cả những ngôi nhà ám khói cũ kỹ nhất, tất cả những khu vườn, thậm chí cả cái hang của Chamet, đều rực lên trong ánh sáng của vầng thái dương ấy, như thể chúng là những vật báu.

    Ai chưa từng xúc động với hơi thở nhè nhẹ của thiếu nữ trong giấc điệp mơ màng, người đó chưa thể hiểu thế nào là sự dịu dàng. Môi nàng tươi hơn cả những cánh hoa ẩm ướt và trên mi nàng lấp lánh những giọt lệ đêm.

    Phải, những gì đã xảy ra với Suzanne đều đúng như Chamet dự đoán. Người tình của nàng - một diễn viên trẻ - đã phụ nàng. Nhưng năm ngày Suzanne sống bên Chamet đã đủ để cho cặp tình nhân làm lành với nhau.

    Chamet tham dự vào việc hòa giải đó. Anh phải mang thư của Suzanne đến cho anh chàng diễn viên, và anh đã cho cái gã điển trai đáng ngán nọ một bài học về phép lịch sự khi gã định dúi vào tay anh vài xu tiền thưởng.

    Ít ngày sau chàng diễn viên đáp xe ngựa đến tìm Suzanne. Và đâu lại vào đó: Một bó hoa, những cái hôn, tiếng cười qua nước mắt: Những lời xin lỗi và vẻ ngượng nghịu hồn nhiên.

    Khi đôi trẻ lên đường, Suzanne vội nhảy lên xe, quên cả từ biệt Chamet. Liền đó nàng sực nhớ, đỏ ửng mặt, ngượng ngùng đưa tay cho anh.

    - Em đã chọn cuộc sống theo ý em, Souzi ơi, giờ đây anh chỉ còn biết chúc em hạnh phúc. - cuối cùng Chamet mới lầu bầu nói.

    - Em chưa biết rồi em sẽ ra sao, anh ơi? - Suzanne trả lời và mắt nàng ngấn lệ.

    - Em băn khoăn như vậy thực là vô ích, em bé bỏng của anh ạ! - anh chàng diễn viên trẻ dài giọng và nhắc lại - Em bé bỏng xinh đẹp của anh.

    - Giá mà có ai tặng em một bông hồng vàng! - Suzanne thở dài - Nó chắc chắn sẽ mang lại cho em hạnh phúc. Em vẫn nhớ câu chuyện anh kể trên tàu, anh Jean ạ!

    - Biết đâu đấy! - Chamet trả lời - Nhưng dù sao thì người mang bông hồng vàng đến cho em sẽ chẳng phải là anh chàng quý phái này đâu. Anh nói thế em đừng giận nhé, anh là thằng lính mà. Anh không ưa lũ công tử bột.

    Hai người trẻ tuổi đưa mắt cho nhau. Gã diễn viên nhún vai. Chiếc xe chuyển bánh.

    Thường thường, cứ hết ngày là Chamet đổ đi tuốt tuột mọi thứ rác rưởi anh dọn ở các xưởng. Nhưng sau lần gặp Suzanne, anh thôi không đổ bụi quét ở những hiệu kim hoàn đi nữa. Anh giấu giếm bỏ chúng vào một cái túi rồi vác về lều. Xóm giềng cho rằng anh chàng quét rác nọ đã "lẩn thẩn". Hiếm ai biết rằng trong số bụi anh mang về có chứa một ít bột vàng, bởi vì những người thợ bạc khi làm việc thể nào cũng để rơi rớt một chút xíu thứ kim loại quý đó.

    Chamet quyết định sàng sẩy lấy vàng để đúc một thoi nhỏ. Anh sẽ dùng thoi vàng ấy để đánh bông hồng sẽ mang lại hạnh phúc cho Suzanne. Mà rất có thể, như mẹ anh đã nói, nó còn mang lại hạnh phúc cho nhiều người khác nữa. Biết đâu đấy! Anh quyết không gặp lại Suzanne nữa, chừng nào bông hồng chưa xong.

    Chamet không kể cho ai nghe chuyện đó. Anh sợ cảnh sát và tất tật những kẻ có quyền chức. Ai biết được bọn quan tòa nhiễu sự sẽ giở trò gì. Họ có thể buộc anh tội ăn cắp, tống anh vào tù và lấy mất số vàng anh có. Có thể lắm chứ. Dù sao thì vàng cũng chẳng phải của anh.

    Trước khi đăng lính, Chamet là cố nông trong điền trang của một ông mục sư ở vùng quê và vì thế anh biết cách sàng sẩy. Hiểu biết đó đối với anh bây giờ hóa ra lại có ích. Anh nhớ rằng khi người ta quạt lúa mì thì những hạt nặng rơi xuống đất, còn bụi thì gió sẽ cuốn đi.

    Chamet làm một cái quạt gió nhỏ và đêm đêm, ở sân nhà, anh quạt bụi thu lượm được ở các cửa hiệu kim hoàn. Anh hồi hộp mãi cho đến lúc trông thấy mờ mờ một lớp mạt vàng lấp lánh trên ngăn gỗ.

    Đến lúc có đủ mạt để đánh được một thoi vàng thì đã mất nhiều thời gian lắm. Nhưng Chamet chưa đưa cho thợ bạc đánh bông hồng vội.

    Không phải Chamet thiếu tiền thuê thợ: Bất cứ ông thợ bạc nào cũng sẵn sàng đánh bông hồng ấy để lấy tiền công bằng một phần ba thoi vàng, và như thế họ cũng đã hài lòng lắm.

    Nguyên do là ở chỗ khác. Mỗi ngày qua, giờ gặp gỡ với Suzanne càng gần lại. Nhưng không biết từ lúc nào, Chamet bắt đầu sợ cái giờ ấy.

    Tất cả tình cảm trìu mến từ lâu được giữ kín trong lòng, Chamet chỉ muốn dành cho nàng, cho Souzi. Nhưng cái tình cảm trìu mến của con người dị dạng như anh phỏng có ích cho ai? Từ lâu Chamet đã thấy mỗi khi gặp anh, thiên hạ chỉ muốn bỏ đi cho nhanh để quên phứt bộ mặt hốc hác xám ngoét với làn da chảy xệ và đôi mắt nhìn chòng chọc của anh.

    Trong túp lều của Chamet có một mảnh gương vỡ. Họa hoằn lắm Chamet mới soi gương, nhưng hễ cứ soi vào là anh văng tục và quăng vội nó đi. Thà đừng nhìn thấy mình, cái thân hình gớm ghiếc lê lết trên đôi chân tê thấp khập khiễng, còn hơn.

    Cuối cùng, khi đã đánh xong bông hồng, Chamet mới biết Suzanne đã rời Paris đi sang Hoa Kỳ từ một năm trước và, người ta nói, nàng đi hẳn, không trở lại nữa. Không ai có thể cho Chamet biết địa chỉ của nàng.

    Thoạt đầu, Chamet thấy nhẹ hẳn người. Nhưng rồi không hiểu vì sao, tất cả nỗi chờ mong cuộc gặp gỡ đầm ấm và thanh thản với Suzanne đã biến thành một mảnh sắt rỉ. Mảnh sắt nhọn ấy mắc trong lồng ngực anh, ngay bên tim, và Chamet cầu Trời cho nó mau mau đâm thẳng vào trái tim ốm yếu đi, cho nó vĩnh viễn ngừng đập.

    Chamet bỏ việc quét dọn các xưởng. Anh nằm bẹp trong túp lều của anh mấy ngày liền, quay mặt vào tường. Anh im lặng và chỉ mỉm cười một lần, đưa cánh tay áo cũ lên mắt. Không ai trông thấy anh khóc. Hàng xóm láng giềng chẳng ai thăm anh: Người nào cũng có chán vạn lo âu và bận bịu của mình.

    Chỉ có một người chăm sóc Chamet. Đó là ông thợ bạc đứng tuổi đã đánh từ thoi vàng ra một bông hồng rất mực tinh xảo. Cùng trên một cành, ngay bên cạnh bông hoa, ông ta đánh thêm một nụ hồng bé và nhọn.

    Ông thợ bạc thường đến thăm Chamet, nhưng không mang thuốc cho anh. Ông nghĩ rằng có mang thuốc cho anh cũng bằng thừa.

    Thực thế, Chamet lặng lẽ qua đời trong một lần đến thăm của ông thợ bạc. Ông ta nâng đầu anh thợ quét rác lên, lật cái gối xám bẩn và lôi ra bông hồng vàng bọc trong một cái nơ nhầu nát màu xanh. Rồi khẽ khép cánh cửa cọt kẹt, ông ta thong thả đi ra. Từ cái nơ bay lên mùi hôi của loài chuột.

    Lúc đó vào cuối thu. Màn đêm rung động vì gió và vì những đốm lửa nhấp nháy. Ông thợ bạc nhớ đến nét đổi thay trên mặt Chamet sau khi anh chết. Bộ mặt anh trở nên nghiêm nghị và trầm tĩnh. Ông ta thấy niềm cay đắng hiện trên mặt anh còn tuyệt đẹp nữa là khác.

    "Cuộc sống không cho người ta cái gì thì cái chết cho người ta cái ấy", ông thợ bạc vốn quen với những ý nghĩ rẻ tiền nghĩ như vậy và thở dài não nuột.

    Ít lâu sau ông ta đem bông hồng vàng nọ bán cho một nhà văn già ăn vận lôi thôi lốc thốc, và theo ông thợ bạc nhận xét, thì nhà văn này cũng chẳng giàu có gì cho lắm để có thể bỏ tiền ra mua một vật đắt đến như thế.

    Hẳn câu chuyện về bông hồng vàng do ông thợ bạc kể lại cho nhà văn đã đóng vai trò quyết định trong việc mua bán nọ.

    Chúng ta phải mang ơn nhà văn già, nhờ những ghi chép của ông mà sau này mới có người biết được câu chuyện cay đắng trong đời người cựu binh trung đoàn thuộc địa thứ Hai Mươi Bảy là Jean Chamet.

    Trong những ghi chép của ông, nhà văn viết:

    "Mỗi phút, mỗi lời tình cờ được nói ra và mỗi cái nhìn vô tình ta bắt gặp, mỗi ý nghĩ sâu sắc hoặc bông đùa, mỗi rung động thầm lặng của con tim, thậm chí một bông tiêu huyền xốp đang bay lượn, hay lửa sao trong một vũng nước đêm - tất cả những cái đó đều là những hạt rất nhỏ của bụi vàng.

    Chúng ta, những nhà văn, chúng ta bòn đãi chúng trong hàng chục năm, hàng triệu những hạt cát đó, thu góp chúng lại cho mình, một cách thầm lặng mà chính mình cũng không nhận thấy, biến chúng thành một hợp kim và rồi từ hợp kim ấy ta đánh" bông hồng vàng "của ta - truyện, tiểu thuyết hay là thơ".

    Bông hồng vàng của Chamet!

    Đối với tôi, nó phần nào là hình tượng tương lai của hoạt động sáng tạo của chúng ta. Thật là lạ, chẳng có ai chịu khó nghiền ngẫm xem từ những hạt bụi quý ấy đã khởi sinh nguồn văn học sống động như thế nào.

    Nhưng cũng giống như bông hồng vàng của người thợ quét rác kia được tạo ra vì hạnh phúc của Suzanne, sáng tác của chúng ta được tạo ra là để cho cái đẹp của đất đai, cho lời kêu gọi đấu tranh vì hạnh phúc, cho niềm vui và tự do, cho cái cao rộng của tâm hồn người, cho sức mạnh của trí tuệ sẽ chiến thắng bóng tối, để chúng vĩnh viễn rực rỡ như một mặt trời không bao giờ tắt".
     
  4. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,898
    Chương 3: Chữ Đề Trên Tảng Phiêu Nham

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Niềm vui trọn vẹn chỉ tới với nhà văn khi nào

    Anh ta tin chắc rằng lương tâm mình không có

    Gì trái ngược với lương tâm của những người

    Xung quanh.

    Saltưkov Shedrin

    Tôi ở trong một ngôi nhà nhỏ dựng trên vùng cồn cát. Cả một vùng ven biển Riga ngập trong tuyết. Từ những ngọn thông vòi vọi, tuyết không ngừng bay xuống như những món tóc dài và tan ra thành bụi.

    Tuyết bay xuống vì gió và vì trên ngọn thông có những con sóc nhảy. Khi trời thật yên lặng, có thể nghe rõ tiếng sóc gặm nhấm bóc vỏ quả thông.

    Ngôi nhà tôi ở nằm sát bờ biển. Chỉ cần ra ngoài cửa rào và đi vài bước theo một con đường nhỏ do chân người dẫm tuyết lên mà thành, băng ngang một biệt thự đóng im ỉm, là đã nhìn thấy biển rồi.

    Ở những khung cửa sổ biệt thự này vẫn còn lại những bức rèm cửa từ mùa hè. Những bức rèm lay động mỗi khi có gió thổi nhẹ. Chắc gió đã lọt qua những khe hở kín đáo nào đó vào trong cái biệt thự bỏ trống ấy, nhưng nếu nhìn từ xa anh sẽ tưởng có ai đó đang kéo chúng lên và canh chừng theo dõi anh.

    Biển không đóng băng. Tuyết nằm dài đến tận mép nước. Trên tuyết trông rõ những dấu chân thỏ rừng.

    Khi ngoài biển có một con sóng lớn cất lên, ta không nghe thấy tiếng sóng đập vào bờ mà lại nghe tiếng băng vỡ và tiếng lạo xạo của tuyết già.

    Biển Baltic mùa đông hoang vắng và sầu tư.

    Người Latvya gọi Baltic là "Biển lạp phách" (Zintarayura). Người ta gọi thế có lẽ chẳng phải chỉ vì Baltic ném lên bờ nhiều lạp phách mà còn vì nước biển hơi nhuốm sắc vàng của thứ đá nọ.

    Suốt ngày chân trời nặng chịch những tầng u ám. Đường nét những bờ biển thấp biến đi trong cái u ám ấy. Chỉ ở đôi nơi có những dải trắng rũ rượi sà xuống trên mặt biển: Tuyết rơi.

    Đôi khi, những con ngỗng trời năm nay bay về quá sớm hạ cánh xuống nước và kêu ầm ỹ. Tiếng kêu hoảng hốt của chúng lan rất xa trên bờ biển nhưng không có tiếng đáp lại: Mùa đông trong những khu rừng ven biển hầu như không còn chim chóc.

    Ban ngày trong ngôi nhà tôi ở, cuộc sống quen thuộc vẫn tiếp diễn. Củi nổ tí tách trong những lò sưởi ốp gạch men sặc sỡ, máy chữ đập rào rào, chị phục vụ ít lời Lilya ngồi trong tiền phòng ấm áp và làm ren. Mọi cái đều bình thường và giản dị.

    Nhưng tối đến thì bóng đêm đen kịt lại vây chặt ngôi nhà. Những cây thông sáp lại gần và khi rời gian phòng rực sáng ánh đèn bước ra ngoài, ta sẽ ngập trong cảm giác hoàn toàn cô độc khi chỉ có mình ta đối mặt với mùa đông, biển cả và đêm tối.

    Biển lùi ra hàng trăm dặm về những phía xa có màu chì xám. Không có lấy một ánh lửa trên mặt nước. Và không có lấy một tiếng sóng vỗ.

    Ngôi nhà nhỏ bé giống như ngọn hải đăng cuối cùng bên bờ vực thẳm vô tận của sương mù. Đất đến đây là hết. Vì thế ta phải ngạc nhiên khi thấy đèn vẫn bình thản sáng trong nhà, máy thu thanh vẫn ca hát, những tấm thảm mềm mại nuốt mất tiếng bước đi, trên bàn có những cuốn sách để ngỏ và những tập bản thảo.

    Đằng kia, về phía tây, hướng Venspins, sau bức màn tối là một thôn chài nhỏ bé. Một thôn chài bình thường với những tấm lưới phơi trong gió, với những ngôi nhà thấp tè và khói la đà bay ra từ những ống khói, những chiếc thuyền máy đen đúa được lôi lên bãi cát và lũ chó cả tin lông xù rũ rượi.

    Những người đánh cá Latvya đã sống hàng trăm năm trong thôn chài ấy. Thế hệ này nối thế hệ khác. Những cô gái tóc vàng ươm với cặp mắt e thẹn và giọng nói thánh thót đã trở thành những bà lão da sạm nắng gió, già khọm, quấn mình trong những tấm khăn nặng nề. Những chàng trai hồng hào diện những chiếc mũ kê-pi điệu đàng đã trở thành những ông già râu ria tua tủa với cặp mắt trầm tĩnh.

    Cũng như hàng trăm năm về trước, những người dân chài ra khơi đánh cá trích. Và cũng như hàng trăm năm về trước, không phải tất cả những người trong bọn họ đều trở về. Nhất là về mùa thu, khi biển Baltic gầm thét trong phong ba và sủi lên bọt sóng lạnh giá như trong vạc dầu của quỷ sứ.

    Nhưng dù có xảy ra chuyện gì đi nữa, dù đã bao lần phải ngả mũ nghe tin bạn chài thiệt mạng, người ta vẫn cứ tiếp tục công việc của mình, cái công việc nguy hiểm và nhọc nhằn của cha ông để lại. Không thể lùi bước trước biển cả.

    Ngoài biển, gần thôn chài, có một tảng phiêu nham lớn. Trên đó, đã lâu lắm rồi, những người dân chài khắc một hàng chữ "Để tưởng niệm những ai đã bỏ mình và sẽ bỏ mình trên biển cả". Từ xa có thể trông rõ hàng chữ ấy.

    Khi tôi được biết về hàng chữ ấy, tôi cảm thấy nó cũng buồn thảm như hết thảy các mộ chí. Nhưng anh bạn nhà văn Latvya, người kể cho tôi nghe chuyện tảng phiêu nham đó, không đồng ý với tôi. Anh nói:

    - Trái lại. Đó là một hàng chữ dũng mãnh. Nó nói rằng con người không bao giờ chịu hàng phục và bất chấp tất cả, nó vẫn cứ tiếp tục công việc của mình. Tôi muốn đặt hàng chữ ấy như một đề từ cho bất cứ cuốn sách nào nói về lao động và sự bền bỉ của con người. Đối với tôi hàng chữ ấy có nghĩa đại khái như sau: "Để tưởng niệm những ai đã thắng và sẽ thắng biển này.

    Tôi đồng ý với anh bạn và nghĩ rằng đề từ ấy có lẽ cũng thích hợp cho cả cuốn sách bàn về lao động của nhà văn.

    Nhà văn không thể hàng phục, dù chỉ trong giây lát, trước những dập vùi và không thể lùi bước trước trở ngại. Dù có thế nào đi chăng nữa, nhà văn cũng không được ngừng công việc của mình, công việc do những bậc tiền bối để lại và được người đương thời ủy thác. Chả thế mà Saltưkov Shedrin đã nói rằng nếu như văn học chỉ im tiếng trong một phút thôi, thì điều đó cũng chẳng kém gì cái chết của cả một dân tộc.

    Nghề văn không phải là một nghề thủ công và cũng không phải là một thứ công việc.

    Nghề văn là sứ mệnh. Đi sâu vào một số từ, vào cội nguồn âm hưởng của chúng, ta sẽ bắt gặp nghĩa ban đầu của chúng. Từ" sứ mệnh "có chung một gốc với từ" tiếng gọi ". [7]

    Không ai hô hào con người đi làm chuyện vặt. Người ta chỉ kêu gọi con người làm tròn bổn phận và thực hiện những nhiệm vụ khó khăn.

    [7] Dịch theo nghĩa gốc của từ zov (tiếng gọi) và từ prizvanie (sứ mệnh). Từ prizvanie có từ căn zov bị mất nguyên âm o.

    Vậy thì cái gì thôi thúc nhà văn đến với cái lao động tuyệt mỹ nhưng đôi khi cay cực kia?

    Trước tiên là tiếng gọi của trái tim. Tiếng gọi của lương tâm và lòng tin ở tương lai không cho phép nhà văn đích thực sống trên trái đất như một bông hoa điếc và không truyền đạt hết mình cho đồng loại tất cả cái phong phú của tư tưởng và tình cảm đang tràn ngập chính tâm hồn nhà văn.

    Nếu anh không làm cho nhãn quan của con người tinh tường thêm, dù chỉ là một phút, anh không phải là nhà văn.

    Con người trở thành nhà văn không phải chỉ do tiếng gọi của trái tim. Chúng ta nghe tiếng gọi của trái tim nhiều hơn hết vào lúc thiếu thời, khi chưa có gì lấn át và đập nát thế giới tình cảm tươi mát của chúng ta.

    Nhưng rồi tuổi trưởng thành đến và ngoài tiếng gọi của trái tim ta, ta còn nghe rành rọt một tiếng gọi mạnh mẽ khác: Tiếng gọi của thời đại ta đang sống và của nhân dân ta, của nhân loại.

    Theo lệnh truyền của sứ mệnh, do sự thôi thúc tự bản thân, con người có thể làm nên những điều kỳ diệu và có thể chịu đựng những thử thách gay go nhất.

    Số mệnh của nhà văn Hà Lan Eduard Dekker[8] là một trong những dẫn chứng về điều đó. Ông ký dưới bút hiệu" Multatuli ". Theo tiếng la-tinh tên đó có nghĩa là" Người chịu nhiều đau khổ ".

    [8] Dekker, Eduard Douwes (1820-1887), nhà văn Hà Lan, viết dưới bút hiệu Multatuli. Ông là viên chức phục vụ cho chính quyền thuộc địa Hà Lan từ 1838. Năm 1857 ông ký tên dưới bản tuyên bố phản đối chính sách thuộc địa của Hà Lan tại Java. Năm 1860 ông xuất bản một phần cuốn tự truyện Max Havelaar, là một tập của cuốn Uncle Tom's Cabin (), cuốn sách tố cáo những điều kiện sống tồi tệ của dân bản xứ trong các thuộc địa của Hà Lan. Những tác phẩm của ông đã mang lại một số điều cải cách trong hệ thống hành chính thuộc địa.

    Có thể là chính ở đây, trên bờ biển Baltic u tối, tôi đã nghĩ đến Dekker, bởi vì cũng một biển phương Bắc nhợt nhạt như thế bao quanh tổ quốc Hà Lan của ông. Ông đau đớn và hổ thẹn nói về đất nước mình:" Tôi là đứa con của Hà Lan, đứa con của xứ sở những tên ăn cướp nằm giữa Frisian Islands và Scotland. "

    Tất nhiên, Hà Lan chẳng phải là đất nước của những tên ăn cướp văn minh. Những tên ăn cướp này chỉ là một nhúm và chẳng ai coi chúng là người đại diện cho nhân dân. Hà Lan là đất nước của những con người cần cù lao động, con cháu của những" gez "dũng mãnh và của Til Ulenshpigel[9] . Đến nay" nắm tro tàn của Klaas "[10] vẫn lên tiếng trong tim rất nhiều người Hà Lan. Nó cũng lên tiếng trong trái tim của Multatuli.

    [9] Người dịch không tìm được xuất xứ của hai từ" gez "và" Til Ulenshpigel ". Chắc nó thuộc về một nhân vật văn học dân gian.

    [10] Nhân vật trong các chuyện dân gian Hà Lan.

    Xuất thân từ một gia đình thủy thủ, Multatuli tòng sự ở Java và sau một thời gian ngắn, ông thậm chí được bổ làm công sứ tại một trong những tỉnh trên đảo này. Trước mắt ông là quyền cao, chức trọng, lợi lộc, giàu sang, cả ghế phó vương nữa cũng nên, nhưng.." nắm tro tàn của Klaas lên tiếng "trong tim ông và Multatuli đã coi khinh những bổng lộc đó.

    Với lòng dũng cảm hiếm có và chí kiên nhẫn, ông rắp tâm phá từ trong phá ra mưu toan vĩnh viễn nô lệ hóa dân Java mà nhà cầm quyền Hà Lan và bọn lái buôn đang tiến hành.

    Ông luôn đứng ra bảo vệ người Java, không cho phép kẻ nào làm nhục họ. Ông thẳng tay trừng trị bọn ăn hối lộ. Ông giễu cợt phó vương và những cận thần của ông ta - tất nhiên bọn họ đều là những con chiên ngoan đạo - và ông giải thích hành động của mình bằng thuyết bác ái của chúa Giêsu. Họ không thể phản đối ông. Nhưng họ có thể khử ông.

    Khi cuộc khởi nghĩa của dân Java bùng nổ, Multatuli đã đứng về phía quân khởi nghĩa, vì" nắm tro tàn của Klaas vẫn lên tiếng trong tim ông ". Ông viết về những người Java, về những con người cả tin như con trẻ ấy với một tình yêu đằm thắm, và ông viết về đồng bào mình với tất cả nỗi căm giận.

    Ông vạch trần cái mưu mẹo bỉ ổi trong chiến đấu của bọn tướng lĩnh Hà Lan.

    Người Java ăn ở rất sạch sẽ và không chịu nổi nhơ bẩn. Lợi dụng đặc tính ấy của họ, đám tướng lĩnh Hà Lan tính độc kế.

    Quân lính Hà Lan được lệnh ném cứt vào người Java trong khi giao chiến. Và người Java không run sợ trước lửa đạn bão táp của quân thù không chịu nổi cái lối đánh nhau đê tiện như vậy, đã phải tháo lui.

    Multatuli bị cách chức và bị đuổi về châu Âu.

    Mấy năm trời ròng rã ông đòi quốc hội Hà Lan trả lại lẽ công bằng cho người Java. Đi đâu ông cũng nói tới chuyện đó. Ông viết kiến nghị gửi các bộ trưởng, trình lên nhà vua.

    Nhưng vô ích. Người ta nghe ông, miễn cưỡng và vội vã, cho qua chuyện. Họ gọi ông là một tên gàn dở nguy hiểm, thậm chí một thằng điên. Ông không tìm đâu ra việc làm. Gia đình ông đói khổ.

    Lúc ấy, theo tiếng gọi của trái tim, nói cách khác, nghe theo cái sứ mệnh vốn vẫn sống trong lòng ông, tuy trước đó chưa rõ rệt, Multatuli bắt đầu viết. Ông viết một cuốn tiểu thuyết vạch trần bộ mặt thật của người Hà Lan trên đảo Java, cuốn Max Havelaar, Hay Là Những Tên Lái Buôn Cà Phê". Nhưng đó chỉ là lần thử bút đầu tiên. Trong cuốn đó hình như ông chỉ mới chạm chân vào mảnh đất nghệ thuật văn chương còn chưa vững chắc đối với ông.

    Nhưng bù vào đó, cuốn tiếp "Những Bức Thư Tình" thì lại được viết bằng một sức mạnh ghê gớm. Lòng tin mãnh liệt vào lẽ phải của mình đã cho ông sức mạnh đó.

    Từng chương trong cuốn sách, lúc thì như tiếng kêu cay đắng của con người tuyệt vọng hoàn toàn trước nỗi bất công kinh khủng, lúc thì như những bài ngụ ngôn châm biếm sắc sảo và chua cay, lúc thì lại như những lời an ủi nhẹ nhàng, đượm màu hài hước buồn rượi nhằm an ủi người thân, lúc thì giống như những mưu toan cuối cùng muốn làm sống lại niềm tin của tuổi ấu thơ.

    "Không có Trời, mà nếu có Trời thì Trời phải tốt - Multatuli viết - Biết đến bao giờ người ta mới thôi bóc lột những kẻ ăn mày!"

    Ông rời Hà Lan với hy vọng kiếm ăn ở phương xa. Vợ con ông ở lại Amsterdam. Ông không có lấy một xu thừa để đưa vợ con đi cùng.

    Con người bất tiện đối với cái xã hội đứng đắn, con người bị giễu cợt, bị hành hạ ấy, đi ăn xin qua các thành phố châu Âu và viết, viết không ngừng. Ông không nhận được thư vợ, vì đến tiền tem bà cũng chẳng có.

    Ông nhớ vợ, nhớ con, nhất là đứa con trai bé bỏng mắt xanh của ông. Ông lo thằng bé sẽ không còn biết mỉm cười tin cậy với mọi người và ông cầu xin người lớn đừng bắt nó phải nhỏ những giọt nước mắt trước tuổi.

    Không ai muốn xuất bản sách của Multatuli.

    Nhưng sự lạ đã xảy ra. Một nhà xuất bản lớn của Hà Lan bằng lòng mua bản thảo của ông, với điều kiện ông không được phép cho xuất bản cuốn sách ở bất cứ nơi nào khác.

    Multatuli, mệt mỏi đến rã rời, đành nhận lời. Ông trở về tổ quốc. Người ta thậm chí còn cho ông một ít tiền. Nhưng họ mua bản thảo của ông chỉ cốt để tước vũ khí ông. Cuốn sách được in ra với một số lượng nhỏ nhoi và bán với giá đắt đến nỗi chẳng khác gì chúng bị thiêu hủy. Bọn lái buôn và chính quyền Hà Lan không thể ăn ngon ngủ yên chừng nào cái thùng thuốc súng kia chưa ở trong tay của chúng.

    Chưa được thấy lẽ công bằng, Multatuli đã qua đời. Mà lẽ ra ông còn có thể viết nhiều cuốn tuyệt hay nữa, những cuốn sách, như người ta thường nói, được viết không phải bằng mực mà bằng máu của trái tim.

    Ông đã đấu tranh hết mình và đã hy sinh. Nhưng ông đã "thắng biển cả". Và rất có thể, trong một ngày gần đây, trên đảo Java độc lập, ở Jakarta, người ta sẽ dựng tượng con người đau khổ đã vì người quên mình kia.

    Đó là cuộc đời của con người đã hợp hai sứ mệnh vĩ đại lại làm một.

    Multatuli có một bạn đồng nghiệp cũng trung thành hết mực đối với sự nghiệp của mình như ông; một người Hà Lan cùng thời với ông: Họa sỹ Vincent Van Gogh[11]

    Khó mà tìm được một tấm gương sáng về đức hy sinh vì nghệ thuật như cuộc đời Van Gogh. Ông mơ ước thành lập ở Pháp một "Liên minh huynh đệ các họa sỹ" - một thứ công xã, trong đó các họa sỹ có thể dốc toàn tâm toàn lực vào việc phụng sự hội họa.

    Van Gogh đau khổ rất nhiều. Ông đã rơi xuống tận đáy vực tuyệt vọng của con người trong bức "Những Người Ăn Khoai" và "Giờ Đi Dạo Của Tù Nhân". Ông cho rằng sự nghiệp của họa sỹ là phải dốc toàn lực và đem hết tài năng chống lại đau khổ.

    [11] Vincent Willem Van Gogh (1853-1890), họa sỹ trường phái Hậu Ấn tượng, người Hà Lan. Phiên âm cho đúng tiếng Hà Lan là Phinxen Phan Khôôc.

    Sự nghiệp của họa sỹ là sáng tạo niềm vui. Và ông đã tạo ra nó bằng những phương tiện mà ông nắm vững hơn hết: Màu sắc.

    Trên nền vải ông thay đổi bộ mặt của trái đất. Như thể ông đã rửa đất đai bằng một thứ nước thần, làm cho nó sáng chói lên những màu trong sáng và đậm đặc đến nỗi mỗi gốc cây già cũng trở thành một tác phẩm điêu khắc, mỗi cánh đồng cỏ xa trục cũng biến thành ánh sáng mặt trời hiển hiện trong muôn vàn nhị hoa bình dị.

    Ông lấy ý chí của mình mà hãm sự đổi thay không ngừng của màu sắc để ta có thể nhập thân vào cái đẹp của chúng.

    Nhưng chẳng lẽ vì thế mà có thể nói rằng Van Gogh thờ ơ với con người? Ông đã tặng cho con người cái tốt nhất mà ông có - đó là khả năng sống trên mặt đất, cái mặt đất chói lọi muôn màu muôn sắc với những trung độ vô cùng tế nhị của chúng.

    Van Gogh là một người cùng khổ, kiêu hãnh và không thực tế. Ông chia sẻ với những kẻ vô gia cư mẩu bánh cuối cùng và biết rất rõ, bằng kinh nghiệm bản thân, thế nào là bất công xã hội. Ông coi khinh những thành công rẻ tiền.

    Tất nhiên, Van Gogh không phải là chiến sỹ. Chất anh hùng của ông nằm trong lòng tin hết sức mãnh liệt ở tương lai tuyệt đẹp của người lao động - dân cày và thợ, nhà thơ và nhà bác học. Ông không thể trở thành chiến sỹ, nhưng ông muốn đóng góp và đã đóng góp phần của mình vào kho báu của tương lai: Đó là những bức tranh ca ngợi đất đai.

    Trong mọi hình thức của cái đẹp, Van Gogh chọn một: Màu sắc. Ông không ngớt ngạc nhiên trước thuộc tính của thiên nhiên là trong nó không bao giờ có sự sai lầm trong quan hệ tương ứng giữa các màu với nhau, trước muôn vàn độ chuyển tiếp của màu sắc, cái nước sơn luôn luôn thay đổi của trái đất, mà mùa nào cũng đẹp, ở đâu cũng đẹp.

    Đã đến lúc phải lấy lại lẽ công bằng cho Van Gogh và các họa sỹ khác như Vrubel, Borisov, Musatov, Gauguin[12] và nhiều người khác nữa.

    [12] Vrubel, Borisov, Musatov - các họa sỹ Nga thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. (Eugène Henri) Paul Gauguin (1848-1903), họa sỹ hậu ấn tượng chủ nghĩa, người Pháp.

    Chúng ta cần tất cả những gì làm phong phú thêm thế giới bên trong của con người xã hội chủ nghĩa, tất cả những gì nâng cao đời sống tình cảm của họ. Cái chân lý đương nhiên ấy chẳng lẽ lại cần phải chứng minh?

    Lẽ hiển nhiên là chúng ta phải trở thành chủ nhân ông của nghệ thuật mọi thời đại và mọi nước. Chúng ta phải tống cổ khỏi đất nước ta bọn đạo đức giả đang điên cuồng chống lại cái đẹp chỉ vì nó tồn tại độc lập ngoài ý muốn của chúng.

    Xin các bạn tha lỗi cho tôi vì những dòng tùy bút nhảy từ lĩnh vực văn học vào hội họa này. Tôi cho rằng mọi loại hình nghệ thuật đều giúp nhà văn hoàn thiện nghề viết. Nhưng về cái đó chúng ta sẽ có một cuộc nói chuyện riêng biệt.

    Không thể để mất cảm giác về sứ mệnh. Nó không thể nào thay thế được bằng sự tính toán sáng suốt cũng như bằng kinh nghiệm văn học.

    Trong quan niệm đúng đắn về sứ mệnh nhà văn hoàn toàn không có những cái mà bọn hoài nghi rẻ tiền cố tình gán ghép cho nó, cũng không có cái nhiệt tình rởm, cũng như không có quan niệm thổi phồng nhà văn về vai trò đặc biệt của anh ta.

    Prishvin[13] hiển nhiên là người mang sứ mệnh nhà văn. Ông gắn cả đời ông vào sứ mệnh ấy. Nhưng chính ông lại là người nói ra những lời tuyệt đẹp rằng "hạnh phúc lớn nhất của nhà văn là không tự coi mình như một người đặc biệt, một người cô độc, mà là một người như những người khác".

    [13] Nhà văn Nga, nổi tiếng về miêu tả thiên nhiên.
     
    Chỉnh sửa cuối: 28 Tháng mười hai 2021
  5. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,898
    Chương 4: Những Bông Hoa Làm Bằng Vỏ Bào

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Thường khi nghĩ đến cái nghiệp văn chương tôi hay tự đặt cho mình câu hỏi: Nó khởi đầu từ bao giờ nhỉ? Và nói chung, nó khởi đầu như thế nào? Cái gì đã buộc ta cầm bút lần đầu để không bao giờ buông ra nữa cho đến mãn đời?

    Khó nhất là cái việc nhớ lại xem nó bắt đầu từ lúc nào. Chắc là cái nghiệp văn chương bao giờ cũng xuất hiện trong con người như một trạng thái tâm hồn từ rất lâu trước khi ta bắt đầu viết hết chồng giấy này đến chồng giấy khác. Nó xuất hiện từ thời niên thiếu, và có thể, từ tuổi ấu thơ.

    Trong tuổi thơ và trong thời niên thiếu, thế giới tồn tại khác hẳn khi ta đã trưởng thành. Với tuổi thơ mặt trời nóng bỏng hơn, cỏ rậm hơn, mưa to hơn, trời tối hơn và con người nào cũng cực kỳ thú vị.

    Đối với trẻ con thì bất kỳ người lớn nào cũng là một sinh vật hơi bí ẩn, dù cho đó là ông thợ mộc với bộ đồ nghề sặc mùi vỏ bào hay nhà bác học, người biết vì sao cỏ lại màu xanh.

    Sự tiếp nhận một cách thi vị cuộc đời, tất cả những gì ở quanh ta, là tặng phẩm vĩ đại nhất mà tuổi thơ cho ta.

    Nếu con người sau nhiều năm dài tỉnh táo không để mất đi tặng vật ấy thì người đó sẽ là nhà văn hay nhà thơ. Nói cho cùng, họ cũng chẳng khác nhau là mấy.

    Cảm giác về cuộc sống như một sự đổi mới không ngừng chính là cái mảnh đất màu mỡ, trên đó nghệ thuật đơm hoa kết quả.

    Khi còn là học sinh trung học, tất nhiên tôi cũng làm thơ. Tôi làm nhiều thơ đến nỗi chỉ trong một tháng đã hết veo một quyển vở dày.

    Những bài thơ ấy tồi, hoa mĩ và hào nhoáng, nhưng hồi ấy tôi lại tưởng chúng rất đẹp.

    Bây giờ tôi đã quên những bài thơ ấy rồi. Chỉ còn nhớ lõm bõm đôi đoạn. Thí dụ như những câu này:

    Hãy ngắt đi, những nhành hoa sa thấp

    Khi mưa rơi lặng lẽ xuống đồng

    Và chân trời, nơi chiều thu cháy đỏ

    Những chiếc lá vàng tan tác bay đi..

    Thế còn khá. Càng về sau tôi càng chất đủ mọi thứ hoa mĩ, thậm chí vô nghĩa vào trong thơ:

    Và nỗi nhớ Sadi lấp lánh như ngọc thạch

    Trên những trang tháng ngày chậm chạp trôi qua..

    Tại sao nỗi nhớ lại "lấp lánh như ngọc thạch" thì cả lúc ấy, cả bây giờ, tôi đều không giải thích nổi.

    Đó chẳng qua chỉ vì âm hưởng của những từ lôi cuốn tôi. Tôi không hề nghĩ đến nghĩa của chúng.

    Tôi làm thơ về biển nhiều hơn cả. Lúc đó hầu như tôi chưa biết biển là gì.

    Đó không phải là một biển nào rõ rệt, không phải Hắc hải, không phải Baltic hay Địa Trung hải, mà là một "biển nói chung" hào nhoáng. Nó gắn lại với nhau tất cả cái phong phú của màu sắc, mọi thứ phóng đại, tất cả cái lãng mạn viển vông không có người thực, thời gian thực và không gian địa lý cụ thể. Lúc đó chất lãng mạn ấy bao trùm cả địa cầu trong mắt tôi như một khí quyển dày đặc.

    Đó là một biển tươi vui, có sóng bạc đầu, tổ quốc của những con tàu có cánh và những người vượt biển gan dạ. Trên các bờ biển, những ngọn hải đăng tỏa sáng như những viên ngọc bích. Một cuộc sống vô tư lự sục sôi trên các hải cảng. Những cô gái duyên dáng tuyệt trần với nước da bánh mật bị ngòi bút của tôi cuốn vào cơn lốc dục vọng.

    Nói cho đúng, cùng với thời gian thơ tôi cũng bớt dần hào nhoáng. Tính chuộng lạ cũng mất dần trong thơ.

    Thật ra, tuổi ấu thơ và niên thiếu bao giờ cũng chuộng lạ, dù cho cái lạ đó là của những xứ nhiệt đới hay của thời nội chiến.

    Có ai lúc còn thơ mà không bao vây các lâu đài cổ, không chết trên những con tàu viễn dương với những cánh buồm tơi tả nơi eo biển Magellan hay ở Tân thế giới, không cùng với Chapaev cưỡi cỗ xe ngựa gắn trung liên phóng băng băng trên những cánh đồng cỏ dại bên kia dãy Ural, không đi tìm những kho báu mà Stevenson đã giấu rất tài tình trên một hòn đảo bí mật, không nghe tiếng cờ reo trên trận địa Borodino hoặc không giúp đỡ Mowgli trong những rừng hoang rậm rạp xứ Industan.

    Tính chuộng lạ truyền cho cuộc sống một chút phi thường cần thiết cho bất cứ ai còn trẻ và nhạy cảm. Denis Diderot đã nói rất đúng rằng nghệ thuật là ở chỗ tìm ra cái phi thường trong cái bình thường và cái bình thường trong cái phi thường.

    Dù sao thì tôi cũng không nguyền rủa thói chuộng lạ mà một thời niên thiếu tôi đã say mê.

    Tôi thường sống ở nhà quê và hay để ý quan sát các trò chơi của lũ trẻ nông trang. Bao giờ chúng cũng thích chơi những trò mới lạ, như vượt đại dương trên những chiếc bè (đại dương đây là một cái hồ nông có cái tên chẳng lấy gì hay ho lắm là hồ "Con bê"), bay lên các vì sao hoặc tìm ra những xứ sở bí ẩn. Chẳng hạn, lũ trẻ hàng xóm của tôi đã khám phá ra một vùng đất chưa người biết đến ở giữa các đồng cỏ. Chúng đặt tên cho vùng đất ấy là "Lukomorie" (Biển Cỏ). Đấy là một cái hồ có nhiều vũng nhỏ và đầy cỏ ấu, đến nỗi chỉ ở giữa hồ mới có một chút nước lấp lánh.

    Tính chuộng lạ, tất nhiên, không phải một lúc mà mất hẳn trong ý thức của tôi. Nó còn lại rất lâu như hương thơm bền vững của hoa đinh hương trong vườn. Nó làm cho cái thành phố Kiev quen thuộc đến phát ngán của tôi thay đổi hẳn trong mắt tôi.

    Ráng chiều vàng lộng lẫy trong các công viên thành phố. Chớp loang loáng trong bóng đêm bên kia sông Đnepr. Tưởng chừng ở đó có một nước chưa ai biết đến - một đất nước đầy giông tố và ẩm thấp - tràn ngập tiếng lá chuyển động ào ào.

    Mùa xuân trút xuống thành phố cơ man nào là hoa dẻ vàng nhạt với những cánh lốm đốm đỏ. Hoa nhiều đến nỗi khi trời mưa chúng rơi xuống thành từng đống, ngăn nước mưa lại làm cho một số đường phố biến thành những hồ con.

    Nhưng sau cơn mưa thì bầu trời Kiev lại sáng sủa như một vòm đá trăng. Và những vần thơ bỗng dưng được nhớ lại mạnh mẽ lạ thường.

    Ôi sức mạnh bí ẩn của mùa xuân

    Đang ngự trị với ngàn sao trên trán

    Ngươi hiền dịu trên cõi trần nhơ bẩn

    Ngươi hứa cho ta hạnh phúc vô ngần..

    Những năm những tháng ấy gắn liền với mối tình đầu say đắm của tôi. Đó là một trạng thái kỳ lạ, khi trong mắt ta cô gái nào cũng đẹp mê hồn. Mỗi nét xuân thì thoáng qua ngoài phố, trong vườn hoa, trên xe điện - một khóe mắt thẹn thùng tưởng như đang chú ý đến ta, hương thơm của mái tóc, hàm răng trắng bóng sau làn môi hé mở, bắp chân trần khi gió làm tung váy, cái chạm nhẹ vào những ngón tay lạnh - tất cả những cái đó nhắc tôi rằng hoặc sớm hoặc muộn rồi tình yêu cũng sẽ đến với tôi. Tôi tin chắc như thế. Tôi muốn nghĩ như thế và tôi đã nghĩ như thế.

    Cứ mỗi lần gặp gỡ như vậy là trong tôi lại dấy lên một nỗi buồn khó hiểu.

    Phần lớn tuổi trẻ nghèo túng và thực ra rất cay đắng của tôi đã qua đi trong những vần thơ và trong niềm xao xuyến mơ hồ.

    Sau đó tôi bỏ không làm thơ nữa. Tôi hiểu rằng đó chỉ là cái hào nhoáng bề ngoài, là những bông hoa làm bằng vỏ bào nhuộm khéo, một thứ vàng mạ.

    Thay vào thơ tôi viết truyện ngắn đầu tiên. Nó có lịch sử của nó. Tôi sẽ kể lại lịch sử truyện ngắn này trong chương sau.
     
  6. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,898
    Chương 5: Truyện Ngắn Đầu Tiên

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Từ thị trấn Chernobyl tôi đáp tàu thủy về Kiev theo sông Pripyat. Mùa hè, tôi sống trong trang viên xơ xác của viên tướng hồi hưu họ Levkovich - ở gầnChernobyl. Thầy học tôi kiếm được cho tôi một chân gia sư trong nhà viên tướng nọ. Nhiệm vụ của tôi là kèm cho cậu ấm gà tồ con ông tướng thi lại hai môn thuộc học kỳ đầu trong niên khóa.

    Ngôi nhà cũ kỹ của viên điền chủ nằm trên một vùng đất thấp. Tối đến, sương mù lạnh lẽo cuồn cuộn bốc quanh nhà. Ếch nhái kêu inh ỏi trong những đầm lầy lân cận và mùi đỗ quyên xông lên phát nhức đầu.

    Mấy đứa con trai dở hơi của Levkovich đứng ngay ở hàng hiên dùng súng trường bắn vịt trời trong bữa trà tối.

    Levkovich - một người đàn ông phì nộn, dữ tợn, với bộ ria điểm bạc và đôi mắt đen trợn trừng - suốt ngày ngồi lì trong cái ghế mềm đặt ngoài thềm, thở dốc vì suyễn. Thỉnh thoảng ông ta lại hét toáng lên bằng giọng khàn khàn:

    - Không phải gia đình nữa, mà là một lũ vô công rồi nghề! Một quán rượu! Rồi ông tống cổ tuốt tuột chúng bay đi cho mà xem! Đừng hòng hưởng gia tài của ông!

    Nhưng chẳng có ai để ý đến những tiếng la hét của ông ta. Bà vợ nắm tay hòm chìa khóa trang trại. "Mađam Levkovich" là một người đàn bà chưa già, lẳng lơ, nhưng bo bo bom bỏm. Suốt mùa hè bà ta mang cái cóoc-xê kêu sột soạt.

    Ngoài lũ con trai vô công rồi nghề, Levkovich còn một mụn con gái trạc hai mươi. Tên cô ả là "Jeanne d'Arc". Suốt từ sáng đến tối cô ả ngồi trên lưng con ngựa ô hung tợn, theo cách đàn ông, mà phóng ào ào. Ra cái điều ta đây ngang tàng.

    Cô ta thích lặp đi lặp lại một tiếng, hoàn toàn vô nghĩa trong hầu hết trường hợp: "Coi khinh!".

    Khi người ta giới thiệu tôi với cô ta, cô ả ngồi nguyên trên ngựa mà nhìn thẳng vào mắt tôi, rồi chìa tay ra, phán:

    - Coi khinh!

    Tôi chán ngán, chẳng biết đến khi nào mới thoát được cái gia đình điên điên khùng khùng ấy và cảm thấy nhẹ hẳn người khi rốt cuộc rồi cũng ngồi lên được cái đệm cỏ phủ vải gai trên chiếc xe tải đồ và người xà ích, bác Ignati Loyola (trong nhà Levkovich mọi người đều mang những tên lịch sử), tục gọi Ignat, nắm lấy sợi thừng thay cho cương ngựa và chúng tôi thủng thẳng đi về hướng Chernobyl.

    Vừa ra khỏi cổng nhà, xe chúng tôi đã lọt ngay vào cái tĩnh lặng triền miên của cánh rừng thấp.

    Mãi chiều tối chúng tôi mới lết được tới Chernobyl và đành phải ngủ lại trong một quán trọ. Tàu thủy đến chậm.

    Chủ quán là một người Do Thái đứng tuổi, họ Kusher.

    Kusher để tôi ngủ trong một căn phòng hẹp với những bức chân dung ông bà ông vải ông ta - những ông lão râu bạc đội mũ chỏm bằng lụa, những bà lão mang tóc giả và quấn khăn thêu. Mắt các bà lão trong tranh đều đẫm lệ.

    Từ ngọn đèn trong bếp, mùi dầu hỏa hôi rình xông lên sặc sụa. Vừa mới ngả mình xuống cái đệm nhồi lông chim dày cộp, tôi đã bị hằng hà sa số rệp từ mọi ngóc ngách xông ra tấn công.

    Tôi chồm dậy, hấp tấp mặc quần áo, bước ra thềm. Ngôi nhà ở ngay cạnh dải cát bờ sông. Dòng Pripyat mờ mờ lấp loáng. Trên bờ sông, gỗ ván xếp từng chồng.

    Tôi ngồi xuống ghế dài ngoài thềm, xốc cổ áo choàng học sinh lên. Đêm lạnh. Tôi thấy rét.

    Có hai người lạ mặt ngồi trên bậc thềm. Trong bóng tối tôi không nhìn rõ mặt họ. Một người hút makhorka, người kia ngồi gập mình, hình như đang ngủ. Từ trong sân vọng ra tiếng ngáy như sấm của bác Ignati Loyola. Bác ngủ ngay trên đệm cỏ khô trong xe và giờ đây tôi ghen với bác.

    - Rệp hả?

    Người hút makhorka cất giọng the thé hỏi tôi.

    Nghe tiếng, tôi nhận ra anh ta. Đó là một anh chàng Do Thái thấp bé, mặt khó đăm đăm, chân đi ủng dạ không tất. Khi tôi và bác Ignati Loyola vừa đến đây, anh ta mở cổng cho chúng tôi vào sân và đòi trả công mười kopek. Tôi cho anh ta đồng một hào. Kusher nhìn thấy, từ bên trong cửa sổ kêu ầm lên:

    - Cút ngay lập tức khỏi nhà tao, đồ khố rách áo ôm! Tao nói mày có cả nghìn lần rồi!

    Nhưng anh chàng đi ủng dạ thậm chí chẳng buồn nhìn lại Kusher. Anh ta nháy mắt với tôi, bảo:

    - Ông thấy chửa? Bất cứ một đồng cắc nào cũng làm hắn ta bỏng tay. Hắn rồi chết vì tiền cho mà xem, ông cứ nhớ lấy lời tôi!

    Khi tôi hỏi Kusher về anh chàng nọ thì ông ta miễn cưỡng đáp:

    - Thằng Yoska đấy mà! Cái thằng ấy nó dở người đấy! Nhưng mà, tôi hiểu cậu nghĩ gì rồi.. Có điều, nếu cậu chưa biết sống thế nào cho phải đạo thì xin cứ trọng thiên hạ trước đã. Chớ có nhìn người bằng nửa con mắt.

    - Này ông, ông còn phải trả thêm tiền rệp cho Kusher nữa cơ đấy - Yoska rít một hơi thuốc, nói với tôi, và tôi nhìn thấy trên má anh ta những nám râu tua tủa - Con người ta khi ngửa tay ăn xin để làm giàu, nó không từ bất cứ điều gì đâu.

    - Yoska! - người từ nãy ngồi ngủ gục bất thần lên tiếng, giọng khàn và dữ tợn - Cớ sao mày làm thiệt đời Khristya, hở thằng kia? Hai năm trời, chẳng đêm nào tao ngủ được..

    - Ông Nikifor, họa có điên mới đi nói những lời đê mạt như vậy! - Yoska giận dữ kêu lên - Con mà lại làm thiệt đời Khristya ư? Ông hãy đến đức cha Mikhail của ông mà hỏi xem đứa nào làm thiệt đời nàng? Hay là đến mà hỏi ông đội xếp Xukharenkô cũng được.

    - Ôi, con gái của ta ơi! - Nikifor nói, giọng tuyệt vọng - Mặt trời của ta ơi, con đã lìa bỏ nơi đầm lầy mà về cõi vô cùng rồi.

    - Thôi, im đi! - Yoska quát.

    - Đến cả làm lễ cầu hồn cho con gái tao chúng nó cũng không cho! - không thèm nghe Yoska, Nikifor nói - Tao ấy à, rồi tao phải đến Kiev, đến tận đức giáo chủ. Ngài chưa thương là tao chưa chịu.

    - Thôi đi! - Yoska nhắc lại - Chỉ cần đổi lấy một sợi tóc của Khristya thôi, con cũng sẵn lòng bán ngay cái cuộc đời ghẻ lở của con. Vậy mà ông lại nỡ nói con như vậy!

    Bất thình lình anh chàng bật khóc, tuy cố nén nhưng vẫn thút thít. Vì cố nén khóc, từ cổ họng anh ta phát ra một tiếng rít khẽ.

    - Khóc đi, thằng ngốc ạ! - Nikifor bình thản nói, còn có vẻ khuyến khích anh ta khóc nữa là khác. - Nếu không vì Khristya yêu mày thì tao đã giết phứt mày đi cho rồi, thằng tội đồ khốn khổ khốn nạn ạ. Tội vạ đâu tao chịu.

    - Thôi đi, ông! - Yoska hét lên - Ông cứ giết con đi! Con đang mong thế đây! Thà chết rữa trong mồ còn hơn.

    - Mày ngốc vẫn hoàn ngốc, Yoska ạ! - Nikifor trả lời, giọng buồn rũ - Được, về đến Kiev tao sẽ giết mày đi cho rảnh, cho mày khỏi làm khổ tao. Tao cực lắm rồi.

    - Thế ông giao nhà lại cho ai vậy, ông Nikifor? - Yoska thôi khóc, hỏi.

    - Tao chẳng giao cho ai sất.

    Tao lấy gỗ đóng chặt cửa rả lại, thế là xong. Bây giờ tao cần cóc gì cái nhà ấy nữa. Người chết chẳng cần đến thuốc lá.

    Tôi lắng nghe câu chuyện khó hiểu. Trên sông Pripyat, sương mù dâng lên như một bức tường. Từ những tấm ván ẩm mốc bốc lên một mùi như mùi thuốc, hăng hắc. Trong thị trấn, những con chó uể oải cắn suông.

    - Không biết bao giờ cái tàu thủy phải gió ấy mới đến? - Nikifor bực dọc nói - Tao với mày bây giờ có nửa chai ngang mà nốc thì tuyệt, Yoska nhỉ? Cũng đỡ buồn. Nhưng mà kiếm đâu ra cái của ấy bây giờ?

    Tôi dựa lưng vào tường, sưởi ấm trong tấm áo choàng.

    Sáng ngày ra, tàu thủy vẫn chưa tới. Kusher nói rằng do sương mù cho nên tàu phải đậu lại qua đêm ở đâu đó, nóng ruột cũng vô ích. Thể nào rồi nó cũng dừng ởChernobyl vài tiếng.

    Tôi uống trà no nê. Ignati Loyola ra về.

    Buồn, tôi đi lang thang trong thị trấn. Trên đường phố chính, quán xá đã mở cửa. Từ các quán bay ra mùi cá ướp và mùi xà phòng giặt. Ở hiệu cắt tóc có tấm biển dựng trên một cái chạng gỗ, ông chủ hiệu mặt đầy tàn nhang, mặc áo khoác, đứng cắn hạt dưa.

    Chẳng biết tiêu thời giờ vào việc gì, tôi rẽ vào cạo mặt. Ông thợ cạo thở dài, phết bọt xà phòng mát lạnh lên mặt tôi và bắt đầu cuộc hỏi cung nhã nhặn thường gặp ở các hiệu cắt tóc tỉnh lẻ rằng tôi làm nghề gì, tại sao lại đến đây.

    Bỗng lũ trẻ con chạy sầm sầm trên những tấm ván lát hè, vừa chạy vừa huýt sáo, nhăn nhó giễu cợt. Vẳng đến giọng quen thuộc của Yoska:

    Ta không dùng bài ca hùng tráng

    Phá giấc mộng vàng người đẹp ta yêu

    - Lazar! - bên kia bức vách bằng ván ghép, một giọng nữ quát lên - Cài cửa lại ngay lập tức! Yoska lại say rồi. Sao mà lại cứ thế kia chứ, hở trời?

    Ông thợ cạo cài then cửa và kéo rèm.

    - Hễ thấy có ai trong hiệu của chúng tôi là y như rằng thằng Yoska rẽ vào, hát hỏng, nhảy múa và khóc lóc - ông ta thở dài, giải thích.

    - Anh ta làm sao vậy? - tôi hỏi.

    Ông thợ cạo không kịp trả lời. Một thiếu phụ trẻ, đầu tóc bơ phờ, mắt mở to, long lanh vì xúc động, từ bên kia vách bước ra.

    - Chả là thế này, ông khách ạ! - thiếu phụ nói - Nhưng trước tiên, em phải chào ông đã! Sau là, thưa ông, cái anh Lazar nhà em đây, nói thực, anh ấy chẳng biết quái gì để kể cho ông nghe đâu, bởi vì đàn ông, ông ạ, hiểu làm sao nổi trái tim đàn bà! Sao cơ? Đừng lắc đầu quầy quậy như thế, Lazar! Ông khách ơi, xin ông cứ nghe em kể cái đã, rồi xin ông ngẫm về những điều em sắp nói với ông. Em sẽ kể cho ông nghe vì tình yêu, người con gái kia đã chịu khổ chịu sở đến là nhường nào.

    - Manya! - ông thợ cạo nói - Đừng có bốc.

    Yoska kêu gào ở đâu đó, xa xa:

    Khi tôi chết, các người hãy đến

    Thăm nấm mồ bé nhỏ của tôi

    Tặng nhau, mang mấy miếng dồi

    Và rượu đắng một chai lừa lọc.

    - Có khiếp không kia chứ! - Manya nói - Mà đó là Yoska đấy! Chính là cái nhà anh Yoska con bà Pesya lẽ ra thì đậu y sĩ ở Kiev đấy! Ông biết không, Pesya là bà mẹ tốt bụng nhất ở thị trấn chúng em. Ơn Chúa, bà ấy không phải sống đến cái ngày nhục nhã này. Ông khách ơi, chắc ông cũng thừa hiểu: Phải yêu tới mức nào người đàn bà mới có thể vì người mình yêu mà sẵn lòng chịu mọi khốn khó..

    - Cái gì, nhà nó nói cái gì thế, hở Manya? - ông thợ cạo kêu trời - Nghe nhà nó nói, ông khách chẳng hiểu nhà nó định nói cái gì đâu.

    - Chả là hồi ấy ở miền chúng em đây có hội chợ - Manya kể - Ông Nikifor góa vợ, làm nghề gác rừng ở Karpilovka, mới dẫn con gái đi xem. Ông ấy có mỗi mụn con gái là Khristya thôi. Chao ôi, giá mà ông được thấy Khristya! Ông khách ơi, em nói chắc là ông sẽ bị Khristya hớp hồn đấy! Nói để ông biết, mắt Khristya cứ xanh ngăn ngắt như da trời kia kìa, còn đuôi xam của cô ấy thì cứ rộm sáng lên như thể nó được gội bằng nước vàng trong truyện cổ tích. Sao mà lại có người hiền thục như thế cơ chứ! Mới thanh tú như thế cơ chứ! Em chưa từng gặp người như vậy bao giờ! Vừa nhác thấy Khristya là anh chàng Yoska nhà ta đã đứng sững như trời trồng. Hắn phải lòng cô ấy ngay tắp lự. Thì có gì lạ đâu. Đến hoàng đế mà trông thấy cô ấy cũng phải chết mê chết mệt. Thế mà Khristya lại đi yêu Yoska mới lạ! Ông nhìn thấy anh chàng ấy rồi phải không? Người thì bé tẹo, chỉ bằng cái thằng nhóc này này, tóc thì đỏ cạch, giọng thì rè rè, tính tình lại gàn dở. Rốt cuộc là thế nào? Khristya bỏ bố đẻ đến ở với Yoska. Ông đến mà xem nhà cửa của anh ta! Ông ngó kỹ mà xem! Một con dê ở còn chật, lọ là họ những ba người. Chỉ được cái sạch thôi, sạch lắm lắm. Thế rồi.. ông thử đoán rồi sao? Bà Pesya đón Khristya rất mực long trọng, chẳng khác gì đón một nàng công chúa. Khristya ở lại với Yoska, thành vợ thành chồng. Thế là anh ta, cái anh chàng Yoska ấy, cứ hơn hớn lên, mặt mũi cứ sáng choang như đèn ban đêm vậy. Ông thừa biết người Do Thái mà ăn ở với người theo đạo Thiên Chúa thì điều đó có nghĩa là thế nào. Không một đức cha nào chịu làm phép cưới cho họ đâu. Yoska mới vào nhà thờ gặp cha Mikhail để xin cải đạo. Nhưng cha bảo: "Đáng nhẽ nhà anh phải cải đạo trước đã rồi mới được ngủ với con gái theo đạo Chúa. Anh lại làm ngược tuốt tuột. Bây giờ, nếu không có phép của chính đức giáo chủ thì ta cũng chẳng làm lễ cưới cho anh đâu, nhà quý tộc thành Jerusalem ạ!". Yoska văng tục với cha rồi bỏ đi. Lúc đó ông ravin của chúng em bèn thọc tay vào. Ông ravin đã nghe tin Yoska muốn cải sang đạo Chúa, thế là ông ấy nguyền rủa mười đời nhà anh ta ở trong nhà nguyện. Đúng vào lúc ấy, ông gác rừng Nikifor cũng đến, ông ta gục xuống chân con gái mà van nài cô trở về. Khristya chỉ khóc, một mực không là không. Lũ trẻ con ở đây, tất nhiên là có kẻ xúi giục, hễ thấy Khristya đâu là la hét: "Ê, Khristya, đồ ngoại giáo! Có thèm thịt cấm không đấy?" Rồi nắm tay dứ cô ấy. Ở ngoài phố thiên hạ nghiêng ngó nhìn theo Khristya, giễu cợt. Một hôm có đứa từ bên kia hàng rào lượm cục phân ném vào lưng Khristya. Khắp nhà bà Pesya, chỗ nào cũng bê bết hắc ín, ông có tưởng tượng được không, ông khách?

    - Trời, bác Pesya ấy tốt lắm! - ông thợ cạo thở dài. - Đấy mới thật là một người đàn bà!

    - Ông ravin mới gọi bà Pesya lại mà bảo rằng: "Bà Pesya Izmailevna kính mến ạ, bà đã để cho chuyện loạn hôn xảy ra trong nhà bà đấy nhá. Bà đã chống lại luật đạo đấy nhá. Tôi nguyền rủa nhà bà. Đức Jehova sẽ trừng phạt bà như trừng phạt một con điếm. Bà hãy thương lấy cái đầu bạc của bà". Ông có biết bà Pesya đáp lại ông ta thế nào không? Bà Pesya mới nói thế này: "Ông không phải là ravin! Ông là một tên đội xếp! Thiên hạ yêu nhau thì mặc xác người ta, can dự gì đến nhà ông mà ông phải thò đôi tay núc ních mỡ sấy của ông vào chuyện người dưng". Bà nhổ toẹt một bãi nước bọt rồi bỏ đi. Ông ravin bèn nguyền rủa cả bà Pesya trong nhà thờ. Ở vùng này cái gì chứ hành con người ta thì họ giỏi lắm, ông ạ. Nhưng ông chớ nói lại với ai đấy! Cả thị trấn xôn xao, người ta không còn biết đến chuyện gì khác ngoài chuyện Khristya. Cuối cùng, ông cẩm Sukharenko mới gọi Yoska và Khristya lại mà bảo: "Yoska, ta sẽ đưa anh ra tòa vì tội lăng mạ đức cha Mikhail. Rồi anh sẽ được nếm mùi khổ sai của ta. Còn Khristya, ta sẽ bắt cô về với bố đẻ. Ta cho các người suy nghĩ ba ngày. Các người làm loạn cả huyện này lên rồi. Vì các người, ta sẽ bị ngài tỉnh trưởng quở trách đấy".

    Yoska bị ông cẩm tống ngục ngay tắp lự. Về sau, Sukharenko bảo ông ta chỉ định dọa thôi, chứ không định bỏ tù thật. Sau đó thì sao, ông có đoán được không? Nói ông không tin đâu, nhưng thực quả Khristya đã vì đau đớn quá mà chết. Trông thương lắm. Người nào cũng mủi lòng, ấy là em nói những người tốt kìa. Mấy ngày liền Khristya chỉ khóc ròng, nước mắt cũng chẳng còn, hai con mắt cứ khô khốc, lại chẳng ăn chẳng uống gì ráo. Chỉ một mực lạy van xin cho được gặp Yoska. Đúng vào ngày Yôm Kipur, tức là ngày lễ Phán Xét, vào buổi tối, Khristya ngủ thiếp đi, rồi cứ thế không dậy nữa. Cô ấy nằm đấy, nom mới trắng trẻo và hạnh phúc làm sao! Hẳn Khristya phải cảm ơn Chúa đã thương đến cô ấy mà rước đi khỏi cuộc đời chó má này. Tại sao Khristya lại phải chịu một hình phạt như thế, nếu chỉ vì cô ấy yêu Yoska? Ông cắt nghĩa cho em nghe xem nào, vì sao kia chứ? Chẳng lẽ trên cõi đời này chỉ còn toàn ngợm là ngợm hay sao? Sukharenko vội tức tốc thả ngay Yoska ra, nhưng anh ta đã hoàn toàn mất trí rồi. Từ đó Yoska bắt đầu rượu chè be bét, rồi ngửa tay đi ăn xin.

    - Tôi mà như hắn ta thì thà tôi chết quách còn hơn - ông thợ cạo nói. - Tôi sẽ tương ngay vào trán một viên đạn.

    - Ối giời ơi, nhà nó can trường nhỉ! - Manya kêu lên. - Đến lúc ấy có mà ba chân bốn cẳng tránh xa cái chết đến hàng trăm dặm ấy thì có. Ngữ nhà nó hiểu sao nổi chuyện trái tim đàn bà. Tình yêu có thể đốt cháy nó thành tro bụi.

    - Trái tim đàn bà với chả trái tim đàn ông! - ông thợ cạo trả lời và nhún vai. - Có cái gì khác nhau kia chứ?

    Từ hiệu cắt tóc tôi trở về quán trọ. Cả Yoska lẫn Nikifor đều không thấy ở đấy nữa. Kusher vận chiếc gi-lê sờn ngồi bên cửa sổ uống trà. Trong phòng, những con ruồi béo mập bay vù vù.

    Cái tàu thủy bé xíu mãi tối mới đến. Nó đỗ lạiChernobyl đến đêm. Tôi được một chỗ nằm trong phòng khách của tàu, trên một cái đi-văng bọc vải sơn cũ rích.

    Đêm, sương lại xuống. Tàu thủy tông vào bờ. Cứ thế nó đứng đực ra cho đến sáng bạch, đợi cho sương tan hết. Tôi không gặp Nikifor trên tàu. Chắc hẳn ông ta lại say khướt cùng với Yoska.

    Sở dĩ tôi phải kể lại tỉ mỉ câu chuyện trên bởi vì tôi đã đốt phăng quyển vở chép những bài thơ đầu tiên của tôi khi đặt chân về đến Kiev. Không một chút tiếc rẻ, tôi nhìn những dòng chữ cầu kỳ biến thành tro. Những "bọt pha lê", những "bầu trời bằng ngọc xanh", những quán rượu và những điệu nhảy của vũ nữ di-gan Tây Ban Nha chết đi không bao giờ sống lại.

    Tôi tỉnh ngộ lập tức. Thì ra tình yêu không gắn liền với những bông hoa súng đang héo hắt, mà với những cục phân. Người ta đã ném cứt vào lưng một thiếu nữ tuyệt đẹp đang yêu.

    Nghĩ về chuyện đó, tôi chợt nhớ đến dòng chữ "Thế kỷ kinh khủng, những tâm hồn kinh khủng" và quyết định viết truyện ngắn đầu tiên của mình, như tôi tự nhủ, một "truyện ngắn ra truyện ngắn" về số phận của Khristya.

    Tôi đánh vật mãi với truyện ngắn ấy, nhưng không tài nào hiểu nổi vì sao dưới ngòi bút của tôi nó lại cứ khô héo và nhợt nhạt, cho dù cốt chuyện thật thê thảm. Sau rồi, tôi cũng đoán ra. Trước hết, truyện ngắn được viết bằng lời người khác, sau là vì quá say với cuộc tình của Khristya tôi đã bỏ qua nếp sống cuồng tín tàn nhẫn của thị trấn.

    Tôi viết lại. Chính tôi cũng ngạc nhiên, không hiểu sao tôi không tài nào "đặt được" vào truyện những từ đẹp và cầu kỳ. Truyện ngắn này đòi sự thật và sự giản dị.

    Khi tôi mang truyện ngắn đầu tiên của tôi tới tòa soạn tờ báo đã đăng thơ tôi thì ông chủ bút bảo:

    - Đừng uổng công vô ích, anh bạn trẻ ạ. Truyện của anh không đăng được đâu. Chỉ riêng một lão cẩm trong truyện thôi cũng đủ để tôi bị rầy rà rồi. Nhưng nói chung, truyện viết chắc tay đấy. Hãy mang lại cho chúng tôi một cái gì khác đi. Mà nhớ phải ký bút danh nhá. Anh còn là học sinh trung học mà. Anh có thể bị đuổi học vì chuyện ấy đấy.

    Tôi nhận lại truyện ngắn, cất đi. Mãi tới mùa xuân năm sau tôi mới lấy nó ra, đọc lại, và hiểu thêm được một điều: Trong truyện không thấy tác giả, không nỗi căm giận, không ý nghĩ, không cả sự thán phục của tác giả trước tình yêu của Khristya.

    Tôi bèn viết lại lần nữa và mang đến cho ông chủ bút, không cốt để được in, mà để nhờ ông thẩm định.

    Ông chủ bút đọc một lèo ngay trước mặt tôi rồi đứng lên, vỗ vai tôi và buông một câu:

    - Tôi ủng hộ.

    Thế là lần đầu tiên tôi khẳng định được một cách chắc chắn rằng điều căn bản đối với nhà văn là phải thể hiện mình đầy đủ nhất, khoáng đạt nhất, trong bất kỳ tác phẩm nào, dù chỉ trong một truyện ngắn nhỏ như vậy. Bằng cách đó nhà văn thể hiện thời đại mình đang sống và nhân dân. Trong việc thể hiện mình này không có gì đáng để nhà văn phải chùn bước - không cả sự hổ thẹn rởm trước độc giả, không cả nỗi lo sợ phải nhắc lại những điều mà các nhà văn khác đã viết (nhưng viết một cách khác), không cả sự e ngại cả các nhà phê bình lẫn các ông chủ bút.

    Trong lúc làm việc nhà văn cần phải lãng quên mọi sự và viết như thể viết cho chính mình hoặc cho người thân nhất của mình.

    Phải làm cho nội tâm mình được tự do, mở mọi cửa cho nó và bất thần anh sẽ ngạc nhiên khi nhận ra rằng trong tâm thức của anh, những ý nghĩ, tình cảm và tứ thơ hóa ra phong phú hơn nhiều so với anh tưởng.

    Quá trình sáng tạo, trong dòng đi của nó, dần có thêm những tính chất mới, phức tạp lên và phong phú thêm.

    Cái đó cũng giống như mùa xuân trong thiên nhiên. Sức nóng của mặt trời không thay đổi. Nhưng nó làm tan tuyết, nó sưởi ấm không khí, đất đai và cây cối. Đất đai tràn ngập tiếng động, tiếng sóng vỗ, ánh lấp lánh của những giọt nước và dòng băng tan - hàng nghìn dấu hiệu của mùa xuân - trong khi đó thì, tôi xin nhắc lại, sức nóng của mặt trời không hề thay đổi.

    Trong sáng tác cũng vậy. Cảm thức của ta, về thực chất, không thay đổi. Nhưng trong lúc ta làm việc, nó dấy lên những trận cuồng phong, những dòng, những thác ý nghĩ mới, hình ảnh mới, cảm giác mới và từ mới. Chính vì thế mà nhiều khi ta phải ngạc nhiên trước cái mà mình viết ra.

    Chỉ có người nào nói được với mọi người những điều mới, có ý nghĩa và thú vị, nhìn thấy những điều người khác không nhận ra, người đó mới có thể là nhà văn.

    Riêng đối với tôi, tôi rất chóng vánh hiểu ra rằng tôi chỉ có thể nói được rất ít, ít đến bực mình. Và tôi cũng hiểu rằng cảm hứng trong sáng tác cũng dễ tắt như nó dễ bùng lên, nếu ta bỏ đói nó. Cái vốn quan sát cuộc sống của tôi lúc đó quá nghèo nàn và hạn hẹp.

    Lúc đó tôi đặt cuốn sách lên trên cuộc đời chứ không phải đặt cuộc đời lên trên cuốn sách. Cần phải làm cho cuộc sống tràn đầy trong ta.

    Sau khi hiểu ra điều ấy, tôi hoàn toàn gác bút mười năm liền, và như Gorky nói, tôi "nhập thế", bắt đầu cuộc viễn hành lang thang trên nước Nga, làm hết nghề này đến nghề khác, tiếp xúc với đủ mọi loại người.

    Nhưng đó không phải là cuộc sống nhân tạo. Tôi không phải là người quan sát chuyên nghiệp hay là người sưu tầm các sự kiện.

    Không! Tôi sống, đơn giản là thế, không hề cố gắng ghi chép hoặc nhớ lấy dù là một chút gì cho những tác phẩm tương lai.

    Tôi sống, tôi làm việc, tôi yêu, tôi đau khổ, tôi hy vọng, tôi mơ ước, biết chắc rằng sớm hay muộn, trong tuổi trưởng thành, hoặc thậm chí trong tuổi già, tôi sẽ viết. Tôi sẽ viết không phải vì tôi đã đặt ra cho mình nhiệm vụ ấy mà là vì bản thể tôi đòi tôi phải làm như vậy. Và bởi vì văn học đối với tôi là một cái gì đó đẹp đẽ nhất trên đời.
     
  7. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,898
    Chương 6: Tia Chớp

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ý sáng tác nảy ra như thế nào?

    Hầu như chẳng bao giờ có hai ý sáng tác nảy ra và phát triển giống nhau. Rõ ràng ta không thể trả lời cho câu hỏi "ý sáng tác nảy ra như thế nào" một cách chung chung, mà phải gắn vào từng truyện ngắn, từng tiểu thuyết hay từng truyện dài riêng biệt.

    Dễ hơn là trả lời cho câu hỏi: "Muốn cho ý sáng tác xuất hiện cần có những gì?". Hoặc khô khan hơn: "Để có ý sáng tác phát sinh cần có những điều kiện gì?" Sự xuất hiện của ý sáng tác bao giờ cũng được chuẩn bị từ trước bởi trạng thái nội tâm của nhà văn.

    Giải thích sự xuất hiện ý sáng tác bằng cách so sánh là tốt nhất. Đôi khi cách so sánh cho ta cái sáng rõ kỳ lạ ngay cả trong những điều phức tạp nhất.

    Người ta hỏi nhà thiên văn Jeans rằng tuổi trái đất là bao nhiêu. Jeans trả lời:

    - Các bạn hãy tưởng tượng một ngọn núi khổng lồ, ngọn Elbrus ở Kavkaz chẳng hạn. Và hãy hình dung một con chim sẻ độc nhất, nhỏ bé, chỉ có một việc nhảy nhót và dùng mỏ khoét ngọn núi đó. Như thế, nếu con chim sẻ ấy muốn khoét từ ngọn đến chân quả núi thì phải mất một số năm bằng số tuổi của trái đất.

    Cách so sánh có thể cho ta hiểu sự xuất hiện ý sáng tác đơn giản hơn nhiều.

    Ý sáng tác là tia chớp. Điện năng trong nhiều ngày tích tụ lại mỗi lúc một nhiều thêm bên trên mặt đất. Khi bầu không khí đầy ứ điện thì những tảng mây trắng sẽ biến thành những đám mây giông khủng khiếp và từ trong những đám mây ấy, từ trong lượng điện dày đặc sẽ phát sinh tia lửa đầu tiên - đó là tia chớp.

    Mưa rào đổ xuống mặt đất hầu như ngay lập tức sau khi có tia chớp ấy.

    Cũng như tia chớp nọ, ý sáng tác nảy ra trong ý thức của con người khi nó đã tràn đầy những ý nghĩ, những cảm xúc và những dấu vết ghi trong trí nhớ. Tất cả những cái đó được tích lại dần dần, chậm chạp, cho tới khi đạt đến một độ dồn nén nào đó, thì sự giải tỏa năng lượng điện nhất thiết sẽ xảy ra. Lúc đó cả cái thế giới bị nén chặt và còn khá hỗn độn ấy phóng ra một tia chớp: Đó là ý sáng tác.

    Muốn cho ý sáng tác phát sinh, cũng như trong trường hợp đối với tia chớp, thường phải có một kích thích rất nhỏ.

    Ai biết được đó sẽ là cái gì? Một cuộc gặp gỡ bất ngờ, một từ chợt đến trong tâm hồn, một giấc mơ một giọng nói xa xa, ánh mặt trời trong giọt nước hay một tiếng còi tàu thủy.

    Mọi cái đang tồn tại quanh ta, ở chính trong ta, đều có thể là cái kích thích đó.

    Lev Tolstoy trông thấy một cây ngưu bàng bị gãy và một tia chớp chợt lóe lên: Ý sáng tác cuốn truyện dài bất hủ về Hatji-Murat xuất hiện.

    Nhưng nếu như Tolstoy không ở Kavkaz, không được biết, không được nghe kể về Hatji-Murat thì tất nhiên cây ngưu bàng kia cũng chẳng gợi được ý đó trong ông. Trong nội tâm Tolstoy đã có sẵn mọi cái cần thiết cho đề tài ấy và chỉ vì vậy mà cây ngưu bàng đã cho ông cái liên tưởng cần thiết.

    Nếu như tia chớp là ý sáng tác thì cơn mưa rào chính là sự thể hiện ý sáng tác ấy. Đó là những dòng nước đầy hình tượng và từ ngữ chảy nhịp nhàng. Đó là tác phẩm.

    Nhưng khác với tia chớp chói lòa, ý sáng tác đầu tiên thường không rõ nét.

    "Qua tấm kính nhiệm màu, ta vẫn chưa thấy rõ cuốn truyện bao la nơi chân trời xa tắp"

    Ý sáng tác chỉ chín dần, nó chiếm lĩnh dần khối óc và trái tim nhà văn, dần được suy nghĩ kỹ hơn và trở nên phức tạp hơn.

    Nhưng cái gọi là sự "thai nghén" ý sáng tác hoàn toàn không giống như cái mà những người ngây thơ tưởng tượng ra. Nó không hiển hiện trong cảnh nhà văn ngồi, hai tay ôm lấy đầu, hoặc đi lang thang, cô độc và kỳ quái, vừa đi vừa lẩm bẩm thành tiếng những ý nghĩ của mình.

    Hoàn toàn không phải như thế! Ý sáng tác kết tinh lại, phong phú thêm mãi, từng giờ, từng ngày, mọi lúc và mọi nơi, trong mọi sự tình cờ, mọi công việc, mọi niềm vui và mọi nỗi đau khổ trong "cuộc sống trôi nhanh" của chúng ta.

    Muốn nung nấu ý sáng tác cho chín, nhà văn không bao giờ được tách khỏi đời sống và đắm đuối trong thế giới nội tâm. Ngược lại, do sự cọ xát thường xuyên với thực tại, ý sáng tác sẽ nở hoa và tràn đầy nhựa sống của đất.

    Nói chung, có rất nhiều định kiến và ý nghĩ sai lầm về công việc của nhà văn. Một số định kiến và ý nghĩ như thế làm ta phải tuyệt vọng kêu trời vì tính dung tục của chúng.

    Bị dung tục hóa nhiều nhất là cảm hứng của nhà văn.

    Lũ thế nhân dốt nát bao giờ cũng tưởng tượng cảm hứng như là đôi mắt của nhà thơ trợn trừng trong phút say mê, cái nhìn hướng lên trời hay là cây bút lông ngỗng bị nhà văn gặm cụt.

    Chắc hẳn nhiều người còn nhớ cuốn phim "Nhà Thơ Và Hoàng Đế". Trong cuốn phim đó nhà thơ Pushkin mơ mộng ngước mắt nhìn lên, rồi hối hả vớ lấy cây bút, bắt đầu viết, rồi ngừng lại, lại nhìn lên, gặm gặm cây bút lông ngỗng, rồi lại hối hả viết.

    Có biết bao nhiêu hình tượng Pushkin mà chúng ta đã thấy, trong đó ông giống như một cuồng sĩ đang cơn phấn hứng.

    Tôi đã được nghe một câu chuyện thú vị như sau bên cạnh pho tượng Pushkin với mái tóc uốn quăn và cái nhìn "thần hứng" trong một cuộc triển lãm nghệ thuật.

    Một đứa con gái bé tí tẹo ngắm ông Pushkin nọ hồi lâu rồi chau mày hỏi mẹ:

    - Mẹ ơi, bác ấy đang mơ một cái ước mơ phải không mẹ?

    - Phải đấy, cưng ạ, bác Pushkin đang mơ một cái ước mơ.

    Người mẹ dịu dàng trả lời.

    Bác Pushkin đang "mơ một cái ước mơ"! Chính cái bác Pushkin, người đã nói về mình như thế này: "Rồi nhân dân sẽ còn mãi mãi yêu tôi, vì tôi đã dùng thơ thức lên những tình cảm tốt lành, vì trong thế kỷ khốc tàn của chúng ta, tôi ca ngợi tự do và tình thương kẻ khốn cùng!".

    Và nếu như cái cảm hứng "thần thánh" đã "bao trùm" (cứ nhất thiết phải "thần thánh" và cứ nhất thiết phải "bao trùm" kia) lên nhà soạn nhạc thì ông ta ắt phải ngước mắt lên; điều khiển một cách uyển chuyển - và điều khiển cho bản thân mình thưởng thức - những nét nhạc mê hồn chắc chắn lúc đó đang vang vang trong tâm hồn ông hệt như bức tượng Chaikovsky ngọt xớt ở Moskva.

    Không đâu! Cảm hứng là một trạng thái lao động nghiêm túc của con người. Sự cao hứng trong tâm hồn không biểu hiện ở điệu bộ rạp hát và trong sự bốc đồng. Những cái gọi là sự "dằn vặt trong sáng tác" được người ta khua chiêng gõ trống khi nói về nó cũng vậy.

    Pushkin nói về cảm hứng chính xác và đơn giản: "Cảm hứng là trạng thái tâm hồn thích hợp cho sự tiếp nhận sinh động những ấn tượng, do đó, cho sự lĩnh hội nhanh chóng những ý niệm, tức là những cái tạo điều kiện cho việc giải thích những ấn tượng nói trên". Ông nói thêm: "Những nhà phê bình thường hay lẫn lộn cảm hứng với niềm phấn khởi". Cũng như người đọc đôi khi lẫn lộn cái thật với cái giống thật.

    Như thế cũng còn chưa tai hại lắm. Nhưng khi một số họa sĩ và nhà điêu khắc lẫn lộn cảm hứng với "niềm phấn khởi của con bê" thì cái đó là cả một sự dốt nát và là sự không tôn trọng lao động nặng nhọc của nhà văn.

    Chaikovsky quả quyết "rằng cảm hứng là trạng thái khi con người mang hết sức mình ra mà làm việc như trâu chứ không phải là cái sự ve vẩy tay một cách õng ẹo".

    Xin các bạn tha lỗi cho vì những dòng tùy bút này, nhưng tất cả những điều tôi nói trên hoàn toàn không phải chuyện vặt. Đó là chỉ dấu cho chúng ta biết rằng vẫn còn những kẻ tầm thường và thiển cận.

    Người nào cũng vậy, dù chỉ một đôi lần trong đời, nhưng thể nào cũng đã trải qua trạng thái cảm hứng: Đó là sự thăng hoa của tâm hồn, sự thoải mái, sự tiếp nhận hiện thực một cách sống động, khi trong người tràn đầy ý nghĩ và tri thức về sức mạnh sáng tạo của mình.

    Vâng, cảm hứng chính là trạng thái lao động nghiêm túc, nhưng nó có màu sắc thơ riêng biệt của nó, tôi muốn nói cái ẩn ý thơ của nó.

    Cảm hứng đi vào tâm hồn chúng ta như một buổi sáng mùa hạ rực rỡ vừa mới rũ khỏi thân mình sương mù của một đêm êm ả, nhưng vẫn còn lại những hạt sương sớm với những bụi cây um tùm ẩm ướt. Nó nhẹ nhàng phả hơi tươi mát tốt lành vào mặt chúng ta.

    Cảm hứng giống như mối tình đầu, khi tim ta đập rộn ràng trong mối tiên cảm về những cuộc gặp gỡ lạ kỳ, đôi mắt tuyệt trần, những nụ cười và những câu nói ngập ngừng dang dở..

    Lúc đó thế giới bên trong của chúng ta trở nên tinh tế và chuẩn xác như một cây đàn kỳ diệu, nó tạo nên âm hưởng dội ngược trở lại đối với mọi tiếng động của cuộc sống, kể cả những tiếng động thầm kín nhất, khó nhận thấy nhất.

    Nhiều nhà thơ và nhà văn đã viết những dòng tuyệt diệu về cảm hứng. "Chỉ có lời thần mới động đến tai tinh" (Pushkin). "Mối lo âu xao xuyến trong hồn ta chỉ dịu đi vào lúc đó" (Lermontov). "Âm thanh đến, và ngoan ngoãn nương theo âm thanh làm nhức nhối con tim, tâm hồn ta trẻ lại" (Blok). Fet nói rất chính xác về cảm hứng:

    Một cái đẩy, và thuyền lao xuống nước

    Rời bãi cát vàng nước triều san phẳng

    Một đợt sóng lên - và thuyền đi xứ khác

    Đón gió lành từ những bờ hoa

    Một tiếng động thôi - thế là

    Giấc mộng buồn của ta đứt quãng

    Phút chốc bất ngờ hồn ta được hưởng

    Cảm giác thân thương, cái chưa từng biết

    Cho cuộc đời ta - một tiếng thở dài

    Cho nỗi khổ âm thầm - này một niềm vui

    Và phút xuất thần của người xa lạ

    Bỗng hóa thành của ta..

    Turgenev gọi cảm hứng là "thiên giáng", là thần khải của con người, nhờ ý nghĩ và tình cảm mà có. Ông sợ hãi nói đến nỗi dằn vặt kinh khủng đối với nhà văn khi nhà văn bắt đầu biến thần khải ấy thành những từ.

    Lev Tolstoy nói về cảm hứng giản dị hơn bất cứ ai: "Cảm hứng chính là sự bất thần chợt thấy rõ điều ta có thể thực hiện. Cảm hứng càng rõ thì sự thực hiện cảm hứng lại càng phải tỉ mỉ".

    Nhưng dù ta có định nghĩa cảm hứng như thế nào đi chăng nữa thì ta cũng vẫn biết rằng nó bao giờ cũng mang lại cho ta những kết quả tốt đẹp, rằng nó không thể mất đi vô ích chừng nào nó chưa tự hiến nó cho con người.
     
  8. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,898
    Chương 7: Nhân Vật Nổi Loạn

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ngày trước, khi phải dọn nhà đi nơi khác, đôi khi người ta cũng thuê tù ở trại giam địa phương đến làm việc chuyển đồ.

    Bao giờ cũng vậy, lũ trẻ con chúng tôi chờ đợi sự xuất hiện của những người tù với lòng thương và nỗi tò mò nôn nóng.

    Những viên cai ngục để ria mép với những khẩu súng lục to đùng kiểu "Bulldog" bên sườn áp giải những người tù ấy. Chúng tôi cứ trố mắt nhìn họ - những người mang áo tù xám, đầu đội những mũ nhỏ tròn xoay, cũng một màu xám xịt. Lạ một cái, không hiểu vì lẽ gì mà chúng tôi cứ ngây ra ngắm nhìn những người tù bị những dây xích nhỏ kêu rổn rảng quấn ngang người như những cái dây lưng kia với niềm kính trọng đặc biệt.

    Tất cả những cái đó thật bí ẩn. Lạ nhất là hầu hết những người tù nọ lại chỉ là những người bình thường, những người mệt mỏi đến rã rời, và là những người tốt bụng đến nỗi không thể nào tin được họ là những kẻ phạm tội và những kẻ độc ác. Ngược lại, không những họ lễ phép, mà còn lịch thiệp nữa. Họ lo nhất là khi di chuyển những đồ vật cồng kềnh mà lỡ va phải ai hoặc làm gãy, vỡ vật gì.

    Bọn trẻ chúng tôi, được người lớn đồng tình, đã nghĩ ra một kế hoạch láu cá. Mẹ chúng tôi mời các viên cai ngục vào bếp uống trà, trong khi đó thì chúng tôi hối hả nhét vào túi những người tù bánh mì, xúc xích, đường, thuốc lá, đôi khi cả tiền. Bố mẹ chúng tôi cho chúng tôi những thứ đó.

    Chúng tôi hình dung đấy là một công việc nguy hiểm và vui mừng đến tột độ khi những người tù vừa thì thào cảm ơn, vừa nhấm nháy với chúng tôi vừa chỉ về phía bếp. Họ giấu quà biếu của chúng tôi vào những túi bí mật trong người.

    Thỉnh thoảng những người tù lén lút đưa thư cho chúng tôi. Chúng tôi dán tem lên phong bì rồi ầm ĩ kéo nhau đi bỏ vào thùng. Trước khi bỏ vào thùng, chúng tôi còn nhìn quanh xem gần đấy có viên cẩm nào hoặc giả có tên đội xếp nào không? Cứ y như là họ biết được chúng tôi đang gửi đi những bức thư gì.

    Trong đám phạm nhân tôi nhớ mãi một người có bộ râu bạc. Những người tù gọi ông bằng "trưởng toán".

    Ông ta đứng ra trông nom việc chuyển đồ. Đồ đạc, đặc biệt là tủ áo và đàn dương cầm, thường hay bị kẹt ở giữa cửa. Xoay trở chúng rất khó, nhiều khi không tài nào đặt nổi chúng vào chỗ mới đã định cho chúng, dù cho những người tù có vật vã đến mấy. Đồ đạc chống cự ra mặt. Trong những trường hợp như vậy, ông "trưởng toán" lại đem chuyện khuân một cái tủ nào đó ra mà nói:

    - Hãy để nó vào chỗ mà nó muốn, các cậu ơi. Đấm đá nó mà làm gì! Tớ đã làm cái việc chuyển đồ này năm năm trời rồi, tính nết chúng nó thế nào, tớ biết. Phàm đồ đạc đã không ưng chỗ mà mình định thì dù các cậu có cố ấn nó vào đến mấy chúng nó cũng không chịu. Gãy thì gãy, chứ nhất định không chịu.

    Khi nghĩ đến những đề cương của nhà văn và cách hành xử của các nhân vật văn học, tôi chợt nhớ đến câu nói cửa miệng người tù già nọ. Trong cách hành xử của đồ đạc và của những nhân vật kia có một cái gì đó giống nhau. Nhân vật thường hay chống lại tác giả và bao giờ nó cũng chiếm phần thắng. Nhưng chuyện đó để sau.

    Tất nhiên, hầu hết các nhà văn đều có đề cương cho những sáng tác tương lai. Một số nhà văn vạch ra những đề cương đó tỉ mỉ và chính xác. Nhiều nhà văn khác lại làm việc đó một cách rất đại khái. Nhưng cũng có một số nhà văn chỉ vạch đề cương bằng vẻn vẹn vài chữ, mà là những chữ dường như chẳng có liên quan gì với nhau.

    Chỉ có những nhà văn có tài xuất khẩu thành chương mới có thể viết mà không cần có một đề cương vạch sẵn. Trong các nhà văn Nga, Pushkin rất tài về mặt này, còn trong các nhà văn hiện đại của chúng ta thì có Aleksey Nikolaevich Tolstoy. [14]

    [14] Aleksey Nikolayevich Tolstoy (1882-1945), nhà văn Nga.

    Xin phân biệt với Lev Tolstoy.

    Tôi dám cho rằng nhà văn thiên tài có thể viết mà không cần đến một đề cương nào. Thiên tài vốn đã phong phú tự bên trong đến nỗi bất cứ đề tài nào, bất cứ ý nghĩ nào, bất cứ trường hợp nào hay bất cứ vật nào cũng gợi lên trong nhà văn một dòng liên tưởng vô tận.

    Chekhov khi còn trẻ, bảo Korolenko:

    - Này, trên bàn ông có một cái gạt tàn kìa. Nếu ông muốn, tôi sẽ viết ngay lập tức một truyện ngắn về nó.

    Và tất nhiên, Chekhov có thể viết thừa đi được.

    Ta có thể hình dung một người nào đó nhặt được tờ bạc một rúp nhàu nát ở giữa phố, bắt đầu cuốn tiểu thuyết của mình từ tờ bạc một rúp ấy, bắt đầu như thể đùa bỡn, nhẹ nhàng và đơn giản. Nhưng ngay lập tức sau đó, cuốn tiểu thuyết phát triển cả về bề sâu lẫn bề rộng, dần dà đầy thêm người, sự việc, ánh sáng, màu sắc và bắt đầu trôi chảy mạnh mẽ và phóng khoáng. Bị trí tưởng tượng thúc giục, nó đòi nhà văn mỗi lúc một nhiều thêm những vật hiến tế, buộc nhà văn phải nộp cho nó những dự trữ quý giá về hình tượng và ngôn ngữ.

    Và như thế là trong câu chuyện bắt đầu bằng cái ngẫu nhiên, những ý mới liên tiếp nảy ra, nảy ra cả cái số mệnh phức tạp của những con người. Và nhà văn đã không còn đủ sức để chống lại nỗi xúc động của chính mình. Nhà văn sẽ khóc trên chồng bản thảo của mình như Dickens, rền rĩ vì đau đớn như Flaubert hay cười phá lên như Gogol.

    Cũng như vậy ở vùng núi, chỉ một tiếng động nhỏ bé, một tiếng nổ của súng săn thôi, cũng đủ làm từng đợt tuyết lấp lánh bỗng đổ ụp xuống trên sườn núi dựng đứng. Rồi ngay đấy, tuyết biến thành một con sông tuyết rộng, lao nhanh xuống dưới, và chỉ sau vài phút là cả một núi tuyết đã ầm ầm đổ xuống thung lũng làm cho không khí tràn đầy một thứ bụi óng ánh.

    Nhiều nhà văn đã viết về sự dễ dàng xuất hiện trạng huống sáng tác ở những con người thiên tài và lại có thêm cả tài xuất khẩu thành chương.

    Baratynsky, người biết rất rõ Pushkin sáng tác như thế nào, đã nói về ông:

    Chàng Pushkin kia, trẻ trung và bay bướm

    Với tay chàng viết nghịch cũng thành thơ

    Tôi đã nói rằng có một số đề cương chỉ là một mớ từ.

    Đây là một thí dụ nhỏ. Tôi có một truyện ngắn tên là "Tuyết". Trước khi viết, tôi ghi ra một tờ giấy và từ những đoạn ghi đó, truyện ngắn ra đời. Những đoạn ghi ấy có hình thù thế nào?

    "Cuốn sách về phương Bắc bị bỏ quên. Màu căn bản của phương Bắc là màu giấy thiếc. Hơi nước trên mặt sông. Những người đàn bà giũ quần áo ở các lỗ băng thủng. Khói. Những chữ đề trên quả chuông nhỏ ở nhà bà Aleksandra Ivanovna" Ta treo ngươi trên cửa - hãy kêu giòn cho vui "." Và quả chuông nho nhỏ, quà tặng của Vanđai, nó treo nơi cổ ngựa, một điệu buồn bi ai ". Người ta gọi chúng, những quả chuông ấy, là" quà-của-Vanđai ". Chiến tranh. Tanya. Nàng ở đâu, trong cái tỉnh lỵ xa vắng nào? Một mình. Trăng mờ khuất sau mây - cái miền xa lơ xa lắc. Cuộc đời nén chặt trong vòng sáng nhỏ bé của ánh đèn. Suốt đêm có cái gì kêu u u trong tường. Những cành cây nhỏ cào mặt kính. Chúng tôi rất ít khi ra khỏi nhà vào cái giờ lặng lẽ nhất của đêm đông.. Cái đó cần phải kiểm tra lại. Cô đơn và chờ đợi. Con mèo già bất mãn. Không sao chiều nổi nó. Hình như mọi vật đều rõ - cả những cây nến hình xoáy ốc (nến dầu ô-liu) trên cây đàn dương cầm, ngoài ra hiện nay chẳng còn có gì khác. Nàng tìm một căn nhà có dương cầm (nữ ca sĩ). Tản cư? Câu chuyện về sự chờ đợi. Nhà người. Cổ, nhưng ấm áp cách riêng, những cây vạn niên thanh, mùi thuốc lá cũ miền Stambol hoặc Mesaksudi. Ông lão đã sống và đã qua đời. Cái bàn viết bằng gỗ chà là với những vết vàng trên tấm dạ xanh phủ bên trên. Đứa con gái nhỏ. Đứa bé bị hắt hủi. U già. Tạm thời không còn ai thêm nữa. Người ta nói rằng tình yêu có sức hút vượt đường xa. Có thể viết một truyện ngắn chỉ riêng về nỗi chờ đợi. Chờ gì? Chờ ai? Nàng không biết nữa. Cái đó làm tim nàng vỡ ra. Trên những ngã năm ngã bảy của hàng trăm con đường, những con người ngẫu nhiên gặp nhau, không hề biết rằng cả cuộc sống đã qua của họ là sự chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ ấy. Thuyết xác suất. Áp dụng vào tâm hồn người. Đối với lũ ngốc thì cái gì mà chả đơn giản. Cả nước chìm trong tuyết. Tất phải xuất hiện một con người: Thư ai gửi cho người đã chết? Chúng xếp thành chồng trên bàn. Chìa khóa là ở đó. Thư gì? Trong thư viết những gì? Anh bộ đội hải quân. Người con trai. Nỗi lo sợ anh bộ đội sẽ đến. Chờ đợi. Lòng tốt của nàng không có giới hạn. Những bức thư biến thành sự thực. Lại những cây nến hình xoáy ốc. Trong một tính chất khác. Những bản nhạc. Cái khăn mặt với những chiếc lá sồi. Cây đàn phong cầm. Khói bạch dương. Người lên dây đàn, người Tiệp nào cũng chơi nhạc cừ. Khăn quấn đến tận mắt. Rõ cả rồi!".

    Đó là cái mà ta có thể gọi một cách hết sức khiên cưỡng là đề cương của truyện ngắn nói trên. Nếu chỉ đọc bản ghi chép này mà không biết gì về truyện ngắn ta cũng có thể thấy đó là sự mò mẫm chậm chạp, không rõ ràng, nhưng kiên trì để dò tìm đề tài và cốt truyện.

    Vậy thì cái gì thường xảy đến với những đề cương chính xác đã được suy nghĩ kỹ, được kiểm tra chu đáo nhất của nhà văn. Nói tình thật, cuộc sống của những đề cương ấy phần lớn là ngắn ngủi.

    Trong tác phẩm mới bắt đầu viết, cứ vừa xuất hiện những con người và những con người đó vừa mới bắt đầu hoạt động theo ý tác giả thì cũng lại là lúc chúng bắt đầu chống lại đề cương và bước vào cuộc vật lộn với đề cương. Tác phẩm bắt đầu phát triển theo cái lô-gích nội tại của nó. Tất nhiên, động lực đầu tiên của tác phẩm là do nhà văn tạo ra. Nhân vật hoạt động theo cá tính của nó, không hề đếm xỉa đến việc nhà văn là người sáng tạo ra cá tính đó.

    Nếu như nhà văn buộc các nhân vật hoạt động ngược với cái lô-gích nội tại hiện hữu, nếu nhà văn cố gắng nhét nhân vật vào trong khuôn khổ của đề cương, thì nhân vật bắt đầu chết dần chết mòn, biến thành những công thức biết đi, những người máy.

    Lev Tolstoy đã diễn tả ý đó hết sức đơn giản.

    Có một người đến thăm Yasnaia Polyana đã trách Tolstoy quá tàn nhẫn với Anna Karenina khi bắt nàng lao vào gầm xe lửa.

    Tolstoy mỉm cười, đáp:

    - Ý kiến đó gợi tôi nghĩ đến một trường hợp đã xảy ra với Pushkin. Có lần ông nói chuyện với một người bạn: "Ông có thể tưởng tượng được cái cô Tatyana đã chơi xỏ tôi một vố như thế nào không? Cô ta đi lấy chồng, ông ạ. Chuyện đó, nói thực, tôi hoàn toàn không ngờ là nó có thể xảy ra với cô ấy". Tôi cũng có thể nói hệt như vậy trong trường hợp Anna Karenina. Nói chung, đám nhân vật của tôi, cả nam lẫn nữ, họ làm những chuyện mà tôi chẳng muốn chút nào. Họ làm những gì mà họ phải làm trong cuộc sống thực và thường xảy ra trong cuộc sống thực, chứ không làm những gì tôi muốn.

    Tất cả các nhà văn đều biết rõ tính ngang ngạnh của các nhân vật. Aleksey Tolstoy nói: "Trong lúc công việc đang độ sôi nổi nhất tôi không hề biết năm phút sau nhân vật sẽ nói gì. Tôi theo dõi nó với cả một sự ngạc nhiên".

    Có khi nhân vật phụ lấn át các nhân vật khác, tự nó biến thành nhân vật chính, làm đảo lộn cả trình tự câu chuyện và kéo câu chuyện đi theo mình.

    Tác phẩm chỉ bắt đầu sống thực sự một cách hết sức mạnh mẽ trong ý thức của nhà văn trong lúc nhà văn viết nó ra. Cho nên sự đổ vỡ của đề cương chẳng có gì là lạ, và cũng chẳng có gì đáng coi là bi đát.

    Ngược lại, cái đó là chuyện rất đương nhiên và nó chỉ chứng minh thêm một lần rằng cuộc sống chân chính đã xông vào, làm tràn đầy giản đồ sáng tác, khai triển nó ra, bằng áp lực sống động của nó cuộc sống phá tung khuôn khổ đề cương ban đầu của nhà văn.

    Cái đó hoàn toàn không làm hỏng đề cương, nó không hề thu hẹp vai trò nhà văn vào chỗ chỉ làm có một việc ghi chép tất cả những gì mà anh ta được cuộc đời nhắc cho. Bởi vì chính cuộc sống của những hình tượng trong tác phẩm của nhà văn chịu sự quy định của ý thức nhà văn, của trí nhớ, của trí tưởng tượng - của toàn bộ cơ cấu bên trong con người nhà văn.
     
  9. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,898
    Chương 8: Hỏa Tinh

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tôi sẽ cố nhớ lại xem ý sáng tác cuốn truyện dài "Kara-Bugaz" của tôi đã nảy ra như thế nào?

    Trong thời thơ ấu của tôi ở Kiev, tối nào trên ngọn đồi Vlađimir trên sông Đnepr cũng thấy xuất hiện một ông lão đội mũ sụp vành bụi bặm. Ông lão mang theo một kính thiên lý cổ lỗ và loay hoay rất lâu để đặt nó lên một cái giá ba chân cong queo bằng sắt.

    Người ta gọi ông lão là "nhà chiêm tinh" và cho rằng ông ta người Ý vì lúc nào ông cũng cố ý nói lơ lớ tiếng Nga theo lối nói của người nước ngoài.

    Sau khi đặt xong kính thiên lý, ông lão nói bằng một giọng thuộc lòng, đều đều:

    - Thưa các signor và các signorina! Buona juorno! Chỉ bỏ ra có năm kopek là các quý ông quý bà sẽ được bay từ trái đất lên mặt trăng và các vì tinh tú khác. Tôi xin đặc biệt khuyên các vị hãy nhìn lên sao Hỏa hung dữ, ngôi sao có màu máu người. Ai mà bị sao Hỏa chiếu mệnh, người đó sẽ bị trúng đạn chết tươi trong chiến tranh.

    Một hôm tôi cùng đi với cha tôi lên đồi Vlađimir và được nhìn thấy sao Hỏa qua kính thiên lý.

    Tôi nhìn thấy một cái vực thẳm đen ngòm và một quả cầu đo đỏ thản nhiên lơ lửng giữa cái vực thẳm đó mà không cần tựa vào vật gì. Trong khi tôi còn đang nhìn nó thì quả cầu bắt đầu từ từ tiến ra phía cạnh kính thiên lý và trốn vào sau vành kính bằng đồng. "Nhà chiêm tinh" khẽ quay kính thiên lý lại và lôi sao Hỏa về chỗ cũ. Nhưng nó lại bắt đầu dịch dần về phía vành kính.

    - Thế nào? - cha tôi hỏi. - Con có nhìn thấy gì không?

    - Có - tôi trả lời - Con còn nhìn thấy cả những con sông đào nữa kia.

    Tôi biết rằng trên sao Hỏa có người - dân Hỏa tinh - và biết rằng không hiểu để làm gì mà họ đã đào những con sông rõ to trên thiên thể của họ.

    - Thôi, tôi xin anh đi! - cha tôi nói - Đừng nói dóc! Con chẳng thấy sông đào sông điếc nào hết. Chỉ có một người nhìn thấy chúng, đó là nhà thiên văn Ý tên là Skiaparelli. Mà ông ta cũng phải nhìn bằng kính thiên lý lớn kia.

    Cái tên Skiaparelli của đồng bào "nhà chiêm tinh" chẳng gây được ấn tượng nào cho ông ta.

    - Con còn nhìn thấy một hành tinh nào bên cạnh sao Hỏa về phía bên trái nữa cơ - tôi nói không chắc chắn - Nhưng không hiểu tại sao nó cứ chạy lung tung ở trên trời.

    - Hành tinh quái gì đâu! - "nhà chiêm tinh" hồn hậu kêu lên - Lại một hạt bụi quỷ quái nào rơi vào mắt cháu đấy thôi.

    Ông ta tóm chặt lấy cằm tôi và khéo léo lấy ra một hạt bụi trong mắt.

    Cái cảnh sao Hỏa làm cho tôi lạnh người, khiếp đảm. Tôi thở phào khi rời khỏi cái kính thiên lý. Và đường phố Kiev với ánh đèn mờ, tiếng lộc cộc của những chiếc xe độc mã chở khách, mùi hoa dẻ tàn bụi bặm, trở thành đầm ấm và vững chắc đối với tôi.

    Không, hồi đó tôi không hề có ý muốn bỏ trái đất để bay lên mặt trăng hay sao Hỏa!

    - Tại sao nó lại đỏ thế hả bố? - tôi hỏi cha tôi.

    Cha tôi kể cho tôi nghe rằng sao Hỏa là một hành tinh đang hấp hối, rằng nó xưa kia cũng đẹp như trái đất của chúng ta, nó có biển, có những rặng núi thấp và cây cối um tùm xanh tốt. Nhưng dần dần sông biển khô cạn đi, cây cối chết hết, núi non sụt lở không còn vết tích gì và thế là sao Hỏa biến thành một sa mạc khổng lồ. Chắc hẳn núi ở trên sao Hỏa cấu tạo bởi đá đỏ, vì thế mà cát sao Hỏa cũng có màu đỏ nhạt.

    - Thế ra sao Hỏa là một quả cầu bằng cát? - tôi hỏi.

    - Đúng, có lẽ gọi nó như thế thì đúng hơn. - cha tôi nói - Chuyện đã xảy ra với sao Hỏa rồi sẽ xảy ra với trái đất của chúng ta. Trái đất sẽ biến thành sa mạc. Nhưng điều đó sẽ đến sau hàng triệu triệu năm nữa. Cho nên chẳng việc quái gì mà sợ! Vả lại cuối cùng, đến lúc ấy, người ta sẽ nghĩ ra cách chấm dứt cái trò quái gở nọ.

    Tôi trả lời rằng tôi không sợ. Nhưng quả tình tôi lấy làm bực mình cho trái đất của chúng ta và cũng lo thay cho nó. Hơn nữa, hồi ở nhà anh cả tôi lại còn cho tôi biết thêm rằng ngay giờ đây sa mạc đã chiếm gần nửa diện tích trái đất rồi.

    Từ ngày ấy nỗi sợ hãi sa mạc (mặc dầu tôi chưa hề trông thấy nó) cứ ám ảnh tôi mãi. Và mặc dầu tôi thường xuyên đọc trong tạp chí "Vòng quanh thế giới" những truyện ngắn hấp dẫn về sa mạc Sahara, về những trận bão cát và những "con tàu sa mạc", tức là những con lạc đà, nhưng những cái đó vẫn không cám dỗ nổi tôi.

    Chẳng bao lâu sau tôi đã được làm quen lần đầu với sa mạc. Nhưng cái đó chỉ làm cho tôi thêm sợ nó.

    Cả gia đình tôi đi nghỉ hè ở quê nhà, về với ông nội Maksim Grigorevich.

    Mùa hè năm ấy ấm và nhiều mưa. Cỏ mọc rậm rịt. Đám tầm ma bên hàng rào cao bằng đầu người. Trên đồng, lúa mạch đang trổ bông. Từ những mảnh vườn rau bên nhà xông lên mùi thìa là. Mọi cái đều báo trước một vụ mùa tốt đẹp.

    Nhưng một hôm, tôi đang ngồi bên cạnh ông tôi trên bờ sông câu cá bống, bỗng ông tôi đứng phắt dậy, lấy tay che nắng, chăm chú nhìn sang những cánh đồng bên kia sông hồi lâu, rồi giận dữ nhổ toẹt một bãi nước bọt và nói:

    - Nó lại kéo đến rồi kìa, đồ quỷ! Chết tiệt cái giống ấy đi cho rồi!

    Tôi nhìn theo ông tôi, nhưng tôi không thấy gì hết ngoài một đợt sóng đục và dài.

    Nó tiến lại phía chúng tôi rất nhanh. Tôi tưởng sắp có giông, nhưng ông tôi bảo:

    - Không phải đâu, cháu ơi, đấy là gió nóng đấy! Cái hỏa lò khốn kiếp! Gió từ Bukhara, từ sa mạc thổi lại đấy. Rồi nó thiêu sạch cho mà xem! Tai hại quá, nó đang đến đấy, Kostik ạ. Rồi ta còn không thở được với nó nữa kia.

    Đợt nóng hung tợn lao nhanh trên mặt đất, tiến thẳng về phía chúng tôi. Ông tôi vội vã quấn sợi dây câu dài làm bằng xơ bồ đào lại và bảo:

    - Chạy ngay về nhà kẻo bụi vào đầy mắt bây giờ. Ông sẽ lết theo cháu. Chạy đi!

    Tôi hộc tốc chạy về nhà, nhưng gió nóng đã đuổi kịp tôi giữa đường. Những cơn lốc xào xạc cát, lao nhanh, cuốn lông gà lông chim với những vỏ bào nhẹ lên trời. Chung quanh tôi là cả một sự mù mịt nặng nề. Mặt trời tự dưng trở thành rũ rượi và đỏ như máu, không khác gì sao Hỏa. Những cây liễu nghiêng ngả, rú rít. Đằng sau tôi gió thổi tới nóng đến nỗi tưởng chừng áo sơ-mi bắt đầu âm ỉ cháy trên lưng. Bụi lạo xạo ở răng và phả vào mặt.

    Cô tôi - bà Feodosya Maksimovna - đứng ở ngưỡng cửa, tay cầm ảnh Chúa bọc trong một cái khăn thêu.

    - Lạy Chúa tôi, xin Chúa tha tội cho chúng tôi và cứu vớt chúng tôi cùng - cô tôi sợ hãi lẩm nhẩm - Lạy Đức Mẹ Maria đồng trinh, xin Mẹ hãy ban phúc lành cho chúng con được tai qua nạn khỏi.

    Một cơn lốc xoáy ào vào nhà, quay cuồng. Những tấm kính gắn mát tít không kỹ kêu loảng xoảng. Rơm ở đầu mái tranh dựng ngược lên. Từ dưới mái nhà những con sẻ bay vụt ra như thể những viên đạn màu đen.

    Lúc đó cha tôi không có mặt ở đấy, Người còn ở lạiKiev. Mẹ tôi lo sợ ra mặt.

    Tôi còn nhớ: Cái nóng mỗi lúc một tăng vào lúc đó mới thật đáng sợ hơn hết. Tưởng chừng chỉ một hai tiếng đồng hồ nữa thôi, rơm trên mái sẽ bốc cháy rồi sau đó sẽ đến lượt tóc và quần áo trên người chúng tôi. Vì thế, tôi òa khóc.

    Đến tối, lá trên những cây liễu sum suê héo quắt lại, rũ xuống như những mảnh giẻ xám. Ở chân mọi hàng rào gió dồn lại từng đống bụi đen nhờ nhờ, mịn như bột mì.

    Sáng ngày ra, những cái lá héo khô đét lại. Có thể lấy tay bóp những cái lá rụng vụn như cám. Gió thổi mạnh thêm. Nó bắt đầu vặt đi những tán lá chết bẩn thỉu và rất nhiều cây đã trở thành trần trụi, đen đủi như trong tiết thu tàn.

    Ông tôi ra thăm đồng rồi trở về, vẻ mặt bối rối và thảm hại. Ông không sao thắt được cái nơ đỏ trên cổ chiếc áo sơ-mi vải thô. Tay run run, ông nói:

    - Qua đêm nay mà gió không lặng thì cứ là chết khô tuốt. Cả vườn cây lẫn vườn rau.

    Nhưng gió không dịu đi. Nó thổi suốt hai tuần, sau đó ngưng một chút rồi lại mạnh lên. Đất biến thành tro xám ngay trước mắt.

    Phụ nữ kêu khóc trong các nhà. Đàn ông buồn bã ngồi gục ở đầu hồi tránh gió. Họ lấy gậy chọc chọc xuống đất, chốc chốc lại than:

    - Đá chứ không phải là đất nữa! Cứ như thể thần chết tóm chặt gáy mình, thật không còn biết chạy đâu cho thoát.

    Cha tôi từ Kiev tới và đưa chúng tôi trở về thành phố. Khi tôi hỏi cha tôi về gió nóng thì người trả lời miễn cưỡng:

    - Mùa màng thế là mất trắng. Sa mạc đang tiến dần về Ukraina.

    - Thế có làm cách nào tránh được cái đó không, bố? - tôi hỏi.

    - Không có cách gì hết. Làm thế nào xây nổi một bức tường đá dài hai nghìn dặm.

    - Tại sao không? - tôi nói - Người Trung Hoa chả xây được Vạn lý trường thành là gì.

    - Nhưng họ là người Trung Hoa - cha tôi trả lời - Họ là những người thợ bậc thầy.

    Cùng với năm tháng những ấn tượng lúc thiếu thời tưởng đã quên đi. Nhưng, tất nhiên, nó vẫn tiếp tục sống trong đáy sâu ký ức, và thỉnh thoảng lại trồi ra ngoài. Nhất là trong những lúc hạn hán. Chúng bao giờ cũng dấy lên trong lòng tôi một nỗi lo lắng khó hiểu.

    Đến lúc trưởng thành thì tôi đã đem lòng yêu mến miền Trung Nga. Có thể là cái tươi mát của thiên nhiên vùng này, sự trù phú, những sông hồ trong và mát, những khu rừng ẩm ướt, những cơn mưa bụi ảm đạm, đã dẫn tôi tới tình yêu ấy.

    Vì thế mà khi hạn hán tràn đến vùng Trung Nga, như một mũi dao nhọn nóng đỏ đâm vào nó, thì nỗi lo lắng của tôi đã biến thành cơn giận dữ bất lực trước sa mạc.
     
  10. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,898
    Chương 9: Đá vôi kỷ Devon

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Rất nhiều thời gian trôi qua, nhưng rồi sa mạc lại nhắc tôi nhớ tới nó.

    Năm 1931 tôi tới thị trấn Lipny, thuộc tỉnh Oriol, để nghỉ hè. Hồi ấy tôi đang viết cuốn tiểu thuyết đầu tay và vì thế tôi muốn tới một tỉnh lỵ nhỏ bé nào đó, nơi không có một ai quen biết, để có thể tập trung tư tưởng và không bị bất cứ ai, bất cứ việc gì cản trở tôi sáng tác.

    Tôi chưa đến Lipny lần nào. Tôi thích thị trấn này vì nó sạch sẽ, vì ở đó có rất nhiều hoa quỳ đang nở, vì ở đó có những con đường lát bằng đá nguyên phiến và con sông "Cây thông nhanh", con sông đã đục vào trong tầng đá vôi vàng kỷ Devon thành một khe núi.

    Tôi thuê một căn phòng ngoại ô trong một ngôi nhà gỗ ọp ẹp. Ngôi nhà ở ngay trên bờ vực đổ xuống sông. Đằng sau nhà là một khu vườn héo quay héo quắt, nó chạy dài tới những bụi cây ở bờ sông và lẫn vào những bụi cây ấy.

    Ông chủ nhà của tôi đã đứng tuổi, tính rụt rè, làm nghề bán báo ở quán sách ngoài ga. Ông có một bà vợ gầy còm, ủ ê và hai cô con gái: Cô lớn tên là Anfisa, cô nhỏ tên là Polina.

    Polina người yếu đuối và xanh xao. Khi nói chuyện với tôi, cô cứ bối rối hết gỡ ra lại tết vào cái bím tóc màu hạt dẻ xám. Polina mười bảy tuổi.

    Anfisa là một thiếu nữ có thân hình cân đối, trạc mười chín. Cô có gương mặt xanh xao, đôi mắt xám cương nghị và giọng nói trầm. Anfisa vận đồ đen như một nữ tu và hầu như chẳng làm việc gì trong nhà, chỉ nằm hàng giờ ngoài vườn trên cỏ khô và đọc sách.

    Trên gác xép của ông chủ ngổn ngang rất nhiều sách bị chuột gặm, phần lớn là những tác phẩm cổ điển của các nhà văn nước ngoài do nhà xuất bản Soikin ấn hành. Tôi cũng lên gác xép lấy những cuốn sách nọ ra đọc.

    Một vài lần đứng trên vườn nhìn xuống, tôi bắt gặp Anfisa trên bờ sông "Cây thông nhanh". Cô ngồi bên dưới bờ sông dựng đứng, gần một bụi sơn trà. Bên cạnh cô là một chú bé ốm yếu ít nói, trạc mười sáu, có bộ tóc vàng và đôi mắt to, chăm chú.

    Anfisa giấu giếm mang thức ăn ra bờ sông cho cậu ta. Cậu ta ăn, còn Anfisa thì dịu dàng nhìn nó và đôi khi lấy tay vuốt tóc nó.

    Một lần tôi trông thấy cô ta đột nhiên lấy tay ôm mặt và toàn thân run lên vì nức nở. Cậu bé thôi không ăn nữa, sợ hãi nhìn Anfisa. Tôi lặng lẽ bỏ đi, cố không nghĩ đến Anfisa và thằng bé trong một thời gian dài.

    Thế mà tôi đã ngây thơ cho rằng ở thị trấn Lipny vắng vẻ này không ai có thể lôi tôi ra khỏi đám người và việc mà tôi sẽ viết trong cuốn tiểu thuyết của mình! Nhưng cuộc đời đã phá tan tức khắc những hy vọng ngây thơ của tôi. Tất nhiên, khi tôi còn chưa dò ra được chuyện gì đã xảy ra với Anfisa thì đừng nói chi đến tập trung tư tưởng, đến yên tĩnh để làm việc.

    Ngay từ trước, khi tôi nhìn thấy cô và thằng bé, nhìn đôi mắt mệt mỏi của cô, tôi đã đoán rằng trong đời cô này hẳn có chuyện gì bí mật và đau khổ đây.

    Đúng như vậy.

    Sau đó vài hôm, đang đêm, những tràng sấm làm tôi thức giấc. Ở Lipny luôn có giông. Người ở đây giải thích rằng do dưới lòng đất thị trấn có những dải quặng sắt và quặng đã "hút" giông bão tới.

    Đêm tối lồng lộn ngoài cửa sổ, lúc thì toác hoác thành một ngọn lửa trắng ào ạt, lúc thì khép lại thành bóng tối đen kịt, đến nỗi không còn trông thấy gì nữa. Ở bên kia tường vọng đến những giọng nói xúc động. Sau đó tôi nghe thấy Anfisa giận dữ kêu lên:

    - Ai đã nghĩ ra chuyện đó? Điều luật nào viết rằng con không được yêu người ta? Đưa đây cho con xem cái luật ấy? Đã đẻ con ra, xin bố mẹ hãy để cho con sống. Bố mẹ ác độc vừa vừa chứ! Anh ấy mỗi ngày một tàn lụi như ngọn nến. Như một ngọn nến! - cô kêu lên và nghẹn lời.

    - Thôi, bà ơi, bà hãy bình tâm lại đi nào - ông chủ nhà quát vợ bằng một giọng thiếu tin tưởng - Mặc cho cái con ngốc ấy nó muốn sống thế nào tùy nó. Không thể nào bảo nó được đâu. Còn tiền, Anfisa ạ, bất kể là thế nào tao cũng không thí cho mày đâu!

    - Con không cần đến đồng tiền khốn nạn của các người! - Anfisa hét lên - Tự con sẽ kiếm lấy, con sẽ mang anh ấy đi Krym. May chăng anh ấy có thể sống thêm được năm nữa. Dù sao con cũng sẽ bỏ nhà con đi. Các người sẽ đẹp mặt lắm đấy. Hãy nhớ lấy lời con.

    Tôi cố đoán xem chuyện gì đang xảy ra. Ở ngoài hành lang nhỏ bên kia cửa ra vào có người nào đó cũng đang khóc sụt sịt.

    Tôi mở cửa và trong ánh chớp lóe lên vụng trộm, tôi nhìn thấy Polina. Trong chiếc khăn san dài, cô đứng gục đầu vào tường.

    Tôi khẽ gọi. Một tiếng sét phá tan bầu trời, tưởng chừng nó chỉ cần giáng xuống một cái là cả ngôi nhà nhỏ bé sẽ bị nhận xuống đất đến tận mái. Polina sợ hãi nắm lấy tay tôi.

    - Trời ơi! - cô thì thào - Rồi cơ sự sẽ ra sao đây? Mà trời thì giông bão thế này.

    Polina thì thào kể cho tôi nghe chuyện Anfisa. Thì ra Anfisa yêu say đắm Kolya, con trai bà quả phụ Karpovna. Bà Karpovna sống bằng nghề giặt quần áo thuê cho mọi nhà. Đó là một người đàn bà hiền lành, ít nói. Còn Kolya thì ốm yếu, nó bị lao. Anfisa thì cứng đầu cứng cổ, nóng nẩy, không ai bảo được. Cô ta chỉ một mực hoặc là làm theo ý mình, hoặc là tự tử.

    Bỗng nhiên tiếng lao xao bên kia tường bặt hẳn, Polina chạy về phòng. Tôi đi nằm nhưng vẫn chú ý lắng nghe, mãi không ngủ được. Ở bên phòng nhà chủ vẫn yên lặng. Lúc ấy tôi mới bắt đầu thiêm thiếp. Trong cơn mơ mơ màng màng - tôi nghe thấy sấm rền lười biếng và tiếng chó sủa. Rồi tôi ngủ hẳn.

    Tôi ngủ chắc chỉ được một lát. Tiếng đập cửa mạnh làm tôi thức dậy. Đó là ông chủ.

    - Tai vạ cho chúng tôi rồi, ông ơi! - ông đứng ngoài cửa, nói bằng giọng hấp hối. - Xin ông bỏ qua cho việc chúng tôi làm phiền ông.

    - Có chuyện gì xảy ra vậy, ông?

    - Con Anfisa nhà tôi bỏ trốn rồi. Nó mặc nguyên quần áo ngủ. Tôi đi Slobodka, đến bà Karpovna đây. Có lẽ nó chạy đến đàng ấy. Còn ông, xin phiền ông đến với chúng tôi một lát. Nhà tôi đang bị ngất.

    Tôi vội vã mặc quần áo, mang thuốc an thần cho bà lão. Polina gọi tôi và tôi đi ra thềm cùng với cô. Tôi không thể giải thích vì sao, nhưng tôi biết là điều bất hạnh sẽ xảy ra ngay lúc ấy.

    Polina nói khẽ:

    - Ta đi ra bờ sông đi.

    - Có đèn không?

    - Có.

    - Đưa mau ra đây.

    Polina mang ra một cây đèn mờ và chúng tôi trượt theo cái bờ lở trơn tuột dẫn ra sông.

    Tôi tin chắc rằng Anfisa đang ở đâu đây, ngay bên cạnh chúng tôi.

    - Anfis.. a.. a.. a!

    Bất thần Polina tuyệt vọng gào lên. Không hiểu sao tiếng gào ấy làm cho tôi sợ. "Cô ta kêu gào vô ích! - tôi nghĩ - Vô ích"!

    Những tia chớp lấp loáng bên kia sông, kiệt lực và lặng lẽ. Sấm rền xa xa. Mưa lộp độp trong những bụi cây bên bờ lở.

    Chúng tôi đi xuôi dòng sông. Ngọn đèn tỏa ánh sáng mờ mờ. Rồi ở ngay trên đầu chúng tôi, một tia chớp đến chậm làm bầu trời sáng rực lên và trong ánh chớp tôi nhìn thấy một vật gì trăng trắng phía trước.
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...