80 Ngày Vòng Quanh Thế Giới - Juyn Vecnơ

Thảo luận trong 'Văn Học' bắt đầu bởi Cute pikachu, 1 Tháng năm 2022.

  1. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,903
    Chương 20 – Fix bắt đầu giao du trực tiếp với Fogg

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Dù cảnh tượng có thể đe dọa tương lai mình nghiêm trọng đến thế, ông Fogg vẫn đưa bà Aouda đi dạo chơi các phố trong thành phố Anh. Từ khi bà Aouda nhận lời để ông đưa bà đến Châu Âu, ông đã phải chăm lo đến mọi chi tiết cần cho một cuộc hành trình dài như vậy. Một người Anh như ông đi vòng quanh thế giới với cái xắc cầm tay còn tạm được; nhưng một phụ nữ không thể cùng đi một cuộc hành trình như thế trong điều kiện ấy. Do đó đẻ ra nhu cầu phải sắm những quần áo và vật dụng cần thiết cho cuộc viễn du. Ông Fogg làm tròn nhiệm vụ với vẻ điềm tĩnh vốn có của ông, và đáp lại mọi lời xin lỗi hoặc phản đối của người quả phụ trẻ tuổi sượng sùng trước những ân cần như thế, ông chỉ một mực nói:

    "Đó là vì lợi ích cuộc viễn du của tôi, cái đó nằm trong chương trình của tôi".

    Sắm sửa xong, ông Fogg cùng người thiếu phụ trở về khách sạn và ăn tối ở bàn ăn khách sạn, phục vụ rất sang trọng. Rồi bà Aouda, người hơi mệt, lui về buồng riêng, sau khi đã bắt tay "theo kiểu Anh" vị ân nhân trơ như đá của mình.

    Còn nhà quý phái đáng kính thì mải mê suốt buổi tối với tờ Thời báo và tờ

    Báo ảnh Tin Luân Đôn .

    Nếu ông là người dễ ngạc hiên, hẳn ông phải lấy làm lạ không thấy người hầu có mặt vào giờ đi ngủ. Nhưng vì đã biết là tàu đi Yokohama chỉ sáng hôm sau mới rời Hồng Kông, ông hoàn toàn yên trí không bận tâm cái gì khác nữa. Ngày hôm sau, khi ông Fogg bấm chuông gọi, thì Vạn Năng không thấy đến trình diện.

    Nhà quý phái đáng kính này nghĩ gì khi được tin người hầu của ông chưa trở về khách sạn, điều đó chẳng ai biết được. Ông Fogg chỉ cầm lấy cái xắc, bảo bà Aouda chuẩn bị, và cho gọi một cái kiệu.

    Lúc đấy tám giờ, theo kế hoạch thì đến chín giờ rưỡi tàu Carnatic sẽ lợi dụng nước triều lên để ra khỏi các eo lạch.

    Khi kiệu đỗ trước khách sạn. Ông Fogg và bà Aouda ngồi lên cái phương tiện vận chuyển an nhàn đấy, còn hành lý thì một cái xe cútkít chở theo sau.

    Nửa giờ sau, họ xuống bến tàu, và tại đây. Ông Fogg được biết tàu Carnatic đã đi từ hôm trước.

    Ông Fogg cứ tưởng được thấy cùng một lúc cả tàu thủy với người hầu củamình, té ra mất cả chì lẫn chài. Nhưng không một dấu hiệu thất vọng nào lộ ra trên mặt ông, và khi bà Aouda lo lắng nhìn ông, ông chỉ đáp lại:

    "Đó là một sự cố, thưa bà, không có gì hơn".

    Lúc ấy, một người vẫn chăm chú quan sát ông tiến lại gần. Đó là viên thanh tra Fix, ông ta chào ông và nói:

    – Thưa ngài, có phải ngài cũng như tôi là một trong những hành khách của tàu Rangoon đến đêm qua.

    – Thưa ông, vâng, – Ông Fogg lạnh nhạt đáp lại, – nhưng tôi không có hân hạnh..

    – Xin lỗi ngài, nhưng tôi cứ tưởng được thấy anh hầu của ngài ở đây.

    – Ông có biết anh ấy ở đâu không, thưa ông? – người thiếu phụ cuống quýt hỏi.

    – Sao kia! – Fix giả bộ ngạc nhiên đáp – anh ấy không đi với bà hay sao?

    – Không. – Bà Aouda đáp. – Tối hôm qua không thấy anh ấy quay về. Hay là anh ta đã không đợi chúng tôi và xuống tàu Carnatic trước rồi?

    – Không đợi ông bà ư, thưa bà? – viên thanh tra đáp. – Nhưng, bà thứ lỗi cho câu hỏi của tôi, vậy ra ông bà cũng định đi chuyến tàu này?

    – Thưa ông, vâng.

    – Tôi cũng vậy, thưa bà, và bà cũng thấy tôi hết sức thất vọng. Tàu Carnatic chữa xong đã rời Hồng Kông sớm hơn hai tiếng đồng hồ mà không báo cho ai biết, và bây giờ thì phải đợi tám ngày mới đến chuyến sau!

    Khi nói lên những tiếng "tám ngày" Fix cảm thấy trong lòng sướng rơn. Tám ngày! Fogg nán lại tám ngày ở Hồng Kông! Thừa đủ giờ để nhận được lệnh bắt. Rốt cuộc, thì số phận may mắn vẫn đứng về phía người đại diện cho pháp luật.

    Cho nên ta thử tưởng tượng cái đòn sét đánh giáng xuống đầu Fix, khi ông nghe Phileas Fogg nói với giọng điềm tĩnh của ông ta.

    – Nhưng theo tôi thì ngoài tàu Carnatic ra, ở cảng Hồng Kông vẫn còn nhiều tàu khác nữa.

    Và ông Fogg, đưa tay dìu bà Aouda, họ đến các bến tàu để tìm một cái tàu sắp chạy.

    Fix bàng hoàng, bước theo ông. Dường như có một sợi dây vô hình đã buộc Fix vào với người đàn ông này.

    Tuy vậy, vận may có vẻ thật sự từ biệt con người mà cho tới nay nó đãphục vụ tận tình đến thế. Trong ba giờ, Phileas Fogg chạy ngược chạy xuôi khắp cảng, nhất quyết nếu cần sẽ phải thuê hẳn một cái tàu chở ông đến Yokohama; nhưng ông chỉ thấy những tàu đang lấy hàng hoặc đang dỡ hàng, và do đó chưa thể sẵn sàng đi được, Fix lại bắt đầu hy vọng.

    Nhưng ông Fogg không hề bối rối và lại tiếp tục đi tìm, dù có đến tận Ma cao, nhưng vừa lúc đó tại cảng ngoài, một người thủy thủ đến bên ông.

    – Thưa Tôn ông cần một cái tàu ạ – người thủy thủ ngả mũ nói với ông.

    – Bác có sẵn tàu chạy à! – Ông Fogg hỏi.

    – Thưa Tôn ông, vâng, một cái tàu hoa tiêu, số hiệu 43, cái tốt nhất trong đội tàu.

    – Chạy nhanh không?

    – Vào khoảng giữa tám và chín hải lý. Mời Tôn ông đến xem.

    – Được.

    – Tôn ông sẽ hài lòng. Tôn ông muốn đi chơi biển ạ?

    – Không. Một chuyến đi xa.

    – Đi xa?

    – Bác có nhận đưa tôi đến Yokohama không?

    Người thủy thủ nghe nói đứng sững sờ, tay buông thõng, mắt tròn xoe.

    – Tôn ông nói đùa đấy chứ ạ? – ông ta nói.

    – Không! Tôi nhỡ tàu Carnatic, và chậm nhất ngày 14 phải có mặt ở Yokohama, để kịp tàu đi San Francisco.

    – Rất đáng tiếc, người hoa tiêu đáp, – nhưng không thể được.

    – Tôi trả bác một trăm livrơ (2.500 phật lăng) mỗi ngày, và một khoản tiền thưởng hai trăm livrơ nếu đến kịp.

    – Thưa có thật thế không ạ? – người hoa tiêu hỏi.

    – Rất thật. – Ông Fogg đáp.

    Người hoa tiêu đứng lánh ra một chỗ. Ông nhìn mặt biển, rõ ràng ông đang bị giằng xé giữa lòng ham muốn kiếm được món tiền kếch xù và nỗi sợ phải mạo hiểm đi xa đến thế. Fix thì phấp phỏng như ngồi trên đống lửa.

    Trong thời gian ấy, ông Fogg quay lại nói với bà Aouda.

    – Thưa bà, bà không sợ chứ? – ông hỏi.

    – Đi với ông, tôi không sợ gì hết, ông Fogg ạ. – người thiếu phụ đáp.

    Bác hoa tiêu lại đến gặp nhà quý phái, vần vần cái mũ trong tay.

    – Thế nào, bác hoa tiêu? – ông Fogg nói.

    – Dạ, thưa Tôn ông, – người hoa tiêu đáp, tôi không thể hy sinh cả đội thủy thủ của tôi, cả tôi, cả bản thân Tôn ông trong một chuyến vượt biển dài đến thế trên một cái tàu chưa đầy hai mươi tonnô và vào mùa này trong năm. Vả chăng, chúng ta sẽ không đến kịp, vì từ Hồng Kông đi Yokohama những một nghìn sáu trăm năm mươi hải lý.

    – Một nghìn sáu trăm thôi. – ông Fogg nói.

    – Thì cũng vậy.

    Fix hít vào một hơi khoan khoái.

    – Nhưng, – người hoa tiêu nói thêm, – cũng có thể có cách khác. Fix nín thở.

    – Cách nào? – Phileas Fogg hỏi.

    – Cách đi Nagasaki, mỏm cực Nam nước Nhật, một nghìn năm trăm hải lý, hoặc chỉ đi Thượng Hải thôi, cách Hồng Kông tám trăm hải lý. Nếu đi Thượng Hải, ta không ra xa bờ biển Trung Quốc, đó sẽ là một thuận lợi lớn, nhất là những dòng hải lưu ở đây lại chạy ngược lên phía bắc.

    – Bác hoa tiêu này – Phileas Fogg đáp – chính là ở Yokohama tôi mới có tàu đi Mỹ, chứ không phải ở Thượng Hải hay Nagasaki.

    – Sao lại không ạ? – người hoa tiêu đáp. – Tàu đi San Francisco không xuất phát từ Yokohama. Nó ghé qua Yokohama và Nagasaki nhưng bến xuất phát của nó là Thượng Hải.

    – Bác dám chắc về những điều bác nói chứ?

    – Chắc chắn.

    – Vậy khi nào thì tàu ấy rời Thượng Hải?

    – Ngày 11, bảy giờ tối. Như vậy chúng ta có bốn ngày. Bốn ngày, tức chín mươi sáu giờ, và tốc độ trung bình tám hải lý một giờ, nếu chuẩn bị tốt, nếu gió cứ giữa hướng đông nam, nếu biển lặng, thì chúng ta có thể vượt ngon lành tám trăm hải lý ngăn cách ta với Thượng Hải.

    – Vậy khi nào bác đi được?

    – Một giờ nữa. Thời gian để mua lương thực và sửa soạn đi.

    – Vậy là thỏa thuận.. bác là chủ tàu?

    – Vâng. John Bunsby, chủ tàu Tankadère.

    – Bác có cần tiền đặt trước không?

    – Nếu điều đó không làm phiền Tôn ông.

    – Đây là hai trăm livrơ tạm ứng.. Thưa ông, – Phileas Fogg quay lại nói thêm với Fix, – nếu ông muốn nhân cơ hội này..

    – Thưa ngài, – Fix quả quyết đáp lại, – tôi đang muốn xin ngài cái đặc ân đó.

    – Tốt. Nửa giờ nữa chúng ta xuống tàu.

    – Nhưng còn anh chàng khốn khổ kia.. – bà Aouda nói, hết sức băn khoăn về sự mất tích của Vạn Năng.

    – Tôi sẽ vì anh ta làm tất cả những gì tôi có thể làm được – Phileas Fogg đáp lại.

    Và trong khi Fix nóng nảy, hăm hở, giận giữ đi đến tàu hoa tiêu, thì cả hai ông bà cùng đến sở cảnh sát Hồng Kông. Tại đây, Phileas Fogg trình báo hình dạng của Vạn Năng, và để lại một số tiền đủ cho anh ta về nước; thủ tục ấy cũng được thực hiện tại lãnh sự quán Pháp, và cái kiệu, sau khi đã đỗ ở lại khách sạn để các hành khách lấy hành lý, lại đưa họ ra cảng ngoài.

    Ba giờ vừa điểm, tàu hoa tiêu số 4, với đầy đủ đội thủy thủ và lương thực dự trữ trên tàu, và sẵn sàng lên đường.

    Tàu Tankadère là một loại tàu nhẹ và nhỏ cỡ hai cột buồm, sức chứa hai mươi tonnô, thân tàu chẽn lại về đằng trước, dáng rất thanh thoát, thon thon rẽ nước. Người ta tưởng như đây là một chiếc thuyền đua. Những đồ đồng bóng lộn của nó, những đồ sắt mạ thiếc của nó, boong tàu trắng như ngà của của nó chứng tỏ người chủ tàu John Bunsby biết giữ gìn cẩn thận. Hai cột buồm của nó hơi ngả về phía sau. Nó có đủ những lá buồm hình thang ở cột buồm sau, buồm tam giác ở cột trước, buồm nhỏ ở trên cột buồm thượng, và có thể giương cả một lá buồm vuông phụ thêm nếu chạy xuôi gió. Nó hẳn phải chạy rất tốt, và trên thực tế, nó đã đoạt giải nhiều lần trong các cuộc thi tàu hoa tiêu.

    Đội thủy thủ tàu Tankadère gồm có ông chủ tàu John Bunsby và bốn người nữa. Đó là những thủy thủ gan dạ, bất kể thời tiết nào cũng sẵn sàng xông pha đi tìm kiếm tàu bè và thuộc các biển vùng này như lòng bàn tay, John Bunsby, một người trạc bốn lăm, tráng kiện, da đen rám nắng, mắt sáng, khuôn mặt cương nghị, cơ thể cân đối, rất thạo việc, có thể làm yên lòng những người yếu bóng vía nhất.

    Phileas Fogg và bà Aouda xuống tàu, Fix đã ở đó. Qua một nắp cửa phía sau tàu, họ đi xuống một căn phòng hình vuông có hốc tường bốn bên tạo thành một đivăng quanh phòng. Ở giữa phòng kê một cái bàn có ngọn đènchiếu sáng. Căn phòng nhỏ bé nhưng sạch sẽ.

    "Tôi lấy làm tiếc đã không thể mời ông chỗ ở tốt hơn" – Ông Fogg nói với Fix, Fix lẳng lặng nghiêng mình đáp lễ.

    Viên thanh tra cảm thấy có gì nhục nhã trong việc lợi dụng như thế những sự giúp đỡ ân cần của tên Fogg.

    "Khỏi nói, – ông ta nghĩ, – hắn là một tên vô lại hết sức lịch sự, nhưng vẫn cứ là một tên vô lại!".

    Ba giờ mười phút, giương buồm. Lá cờ Anh phấp phới trên ngọn cột buồm cao nhất của tàu. Các hành khách ngồi trên boong. Ông Fogg và bà Aouda nhìn lần cuối lên bến, xem có thấy Vạn Năng hiện ra không.

    Fix quả tình rất lo sợ nếu anh đầy tớ khốn khổ mà ông đã xử tệ đến thế lại tình cờ dẫn xác đến chỗ này, và khi ấy một cuôc đối chất sẽ nổ ra không lợi gì cho ông cả. Nhưng anh chàng Pháp ta không thấy ló mặt và chắc hẳn anh còn đang chết lịm đi vì chất ma túy làm u mê con người.

    Cuối cùng, ông chủ tàu John Bunsby đã đưa tàu ra đến biển khơi, và chiếc Tankadère, hứng gió vào những cánh buồm hình thang và hình tam giác của nó, chồm lên trên các con sóng.
     
    Heo Bảo Bảotatsuno jin thích bài này.
  2. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,903
    Chương 21 – Suýt nữa mất toi món tiền thưởng hai trăm livrơ

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Cuộc vượt biển tám trăm hải lý, trên một con tàu hai mươi tonnô, và nhất là vào mùa này trong năm, quả là một cuộc ra đi mạo hiểm. Vùng biển Trung Quốc thường hay động, vì nó phơi ra dưới những trận gió khủng khiếp, nhất là trong những thời kỳ ngày đêm bằng nhau, và bây giờ thì người ta đang còn ở những ngày đầu tháng mười một.

    Tất nhiên, người hoa tiêu được lợi nếu đưa các hành khách của mình đến tận Yokohama, vì được trả theo ngày. Nhưng nếu cứ liều làm cuộc vượt biển trong những điều kiện như thế thì thật quá kinh suất, và ngay cái việc lên đến Thượng Hải thôi cũng đã là một hành động táo bạo, nếu không phải là liều lĩnh.

    Nhưng John Bunsby tin ở tàu Tankadère của mình, nó chồm trên sóng biển như một con mãnh thú, và có lẽ ông đã không lầm.

    Nhưng giờ phút cuối cùng của ngày hôm ấy, tàu Tankadère chạy trong những eo lạch ngoắt ngoéo của Hồng Kông, và dù đi kiểu nào, ngang gió hay xuôi gió, nó cũng chạy rất tốt.

    – Bác hoa tiêu này, – Phileas Fogg nói khi tàu đã ra khơi, – tôi không cần dặn bác làm sao cho tàu chạy càng nhanh càng tốt.

    – Tôn ông cứ tin cậy ở tôi, – John Bunsby đáp, – gió căng buồm được đến đâu, chúng tôi đã cho căng hết. Những lá buồm thượng chẳng có tác dụng gì lúc này đâu, chỉ làm cho con tàu thêm rày rà chạy chậm lại thôi.

    – Đó là nghề của bác, không phải nghề của tôi, bác hoa tiêu ạ, và tôi tin ở bác.

    Phileas Fogg, người đứng thẳng, chân dạng ra, vững chãi như một thủy thủ, im lặng nhìn mặt biển nổi sóng. Người thiếu phụ ngồi phía sau, cảm thấy trong lòng xao xuyến ngắm nhìn đại dương đã sẫm đi trong bóng hoàng hôn mà bà đang mạo hiểm lao vào trên một con tàu mảnh khảnh. Trên đầu bà, những lá buồm trắng căng phồng như những đôi cánh khổng lồ chở bà lao đi trong không trung. Con tàu, được gió xốc lên, dường như bay trên không.

    Đêm ập xuống, mặt trăng bắt đầu bước vào thượng tuần, và ánh sáng yếu ớt của nó chẳng mấy chốc đã tắt đi trong dải sương mù ở chân trời. Những đám mây ùn lên từ phương đông và đã tràn ra chiếm hết một khoảng trời.

    Người hoa tiêu cho thắp lửa hiệu, một sự phòng bị cần thiết trong những vùng biển gần bờ rất lắm tàu qua lại này. Tai nạn đụng tàu ở đây không ít, vàvới tốc độ như nó đang lao đi, một chút va chạm cũng đủ làm con tàu phải tan tành.

    Fix ngồi mũi tàu mơ mộng. Ông lánh mình một chố, vì biết bản tính Fogg là người ít nói. Vả chăng ông ghê tởm cái việc mình phải nói chuyện với con người mà ông đã chịu ơn giúp đỡ. Ông nghĩ đến cả chuyện sau này. Ông cảm thấy tên Fogg chắc chắn không dừng lại ở Yokohama, mà sẽ xuống ngay tàu bể đi San Francisco để tới Châu Mỹ, nơi có dải đất mênh mông che chở cho hắn tránh đòn trừng phạt của sở cảnh sát. Ông thấy kế hoạch của Phileas Fogg thật là đơn giản đến hết nước.

    Đáng lẽ ở Anh xuống tàu bể đi Hòa Kỳ, như một tên vô lại tầm thường, tên Fogg này đã theo một đường vòng ghê gớm vượt qua ba phần tư quả địa cầu để tới được lục địa Châu Mỹ một cách chắc chắn hơn, ở đó hắn sẽ yên ổn ngồi xơi bạc triệu của ngân hàng, sau khi đã đánh lạc hướng sở cảnh sát. Nhưng khi đã đến Hoa Kỳ thì Fix sẽ làm gì? Buông tha thằng này chăng? Không, một trăm lần không! Và ông sẽ không rời hắn nửa bước cho đến khi nhận được công văn dẫn độ. Đó là bổn phận của ông và ông sẽ thi hành nó đến cùng. Dẫu sao thì hoàn cảnh cũng đã thuận lợi hơn: Vạn Năng không còn ở với chủ của hắn nữa, và nhất là sau những chuyện thầm kín Fix đã thổ lộ, thì càng phải làm sao cho tớ thầy chúng không bao giờ còn thấy được nhau.

    Phileas Fogg, về phần mình, cũng không phải không nghĩ đến người hầu biến đi một cách kỳ lạ đến thế. Suy đi tính lại, ông cho rằng rất có thể do một sự hiểu lầm, anh đầy tớ khốn khổ đến phút cuối cũng đã xuống tàu Carnatic. Bà Aouda cũng nghĩ như vậy, bà nhớ tiếc sâu sắc người đầy tớ trung hậu ấy, mà bà đã phải chịu ơn biết bao nhiêu. Vậy thời rất có thể bà lại tìm thấy anh ở Yokohama, và nếu tàu Carnatic đã chở anh đến đó thì cũng dễ hỏi ra thôi.

    Khoảng mười gờ, gió mỗi lúc một thổi mạnh. Có lẽ thu bớt buồm lại thì cẩn thận hơn, nhưng người hoa tiêu, sau khi đã quan sát kỹ bầu trời, vẫn để nguyên buồm căng ra như thế. Vả lại, tàu Tankadère, vì có một lườn tàu ngập nước khá sâu nên mang buồm rất tốt, và tất cả đã được chuẩn bị sẵn sàng để thu lại nhanh chóng khi có giông bão.

    Đến nửa đêm, Phileas Fogg và bà Aouda lui về phòng, Fix đã về đây trước họ, và nằm dài trên một trong những cái khung thụt sâu trong vách. Còn người hoa tiêu và các nhân viên của ông thì ở suốt đêm trên boong tàu.

    Ngày hôm sau, mồng 8 tháng mười một, lúc mặt trời mọc, con tàu đã đi được trên một trăm hải lý. Máy đo tốc độ cho thấy tốc độ trung bình của nó giữa tám và chín hải lý. Tàu Tankadère được gió thổi căng tất cả các cánh buồm, và đi như vậy, nó đạt tốc độ tối đa của nó. Nếu gió cứ thế này thì thật may mắn.

    Trong cả ngày hôm ấy, tàu Tankadère không ra xa bờ biển vì những luồngnước gần bờ thuận lợi cho nó. Mạn tàu bên trái cách bờ năm hải lý là nhiều nhất và bờ biển nhấp nhô thỉnh thoảng hiện ra qua những lúc trời hửng. Gió thổi từ đất liền, vì thế biển đỡ động; một hoàn cảnh may mắn cho con tàu, vì những tàu trọng tải nhỏ sợ nhất con sóng dữ phá vỡ tốc độ của chúng, "giết chúng" theo cách nói của các nhà hàng hải.

    Vào khoảng giữa trưa, gió biển dịu đi một chút và thổi từ hướng đông nam lại. Viên hoa tiêu cho giương các buồm thượng, nhưng chỉ được hai giờ đã phải thu về, vì gió lại càng ngày càng mạnh.

    Ông Fogg và cả người thiếu phụ may thay, chịu được biển không say sóng, họ ăn ngon lành những đồ hộp và bánh bích quy mang lên tàu. Fix được mời cùng ăn và phải nhận lời, vì ông ta thừa hiểu là ăn cho chắc dạ cũng cần như chất hàng cho đằm tàu, nhưng điều đó làm ông ta khó chịu! Du lịch bằng tiền phí tổn của con người này, ăn bằng lương thực của bản thân hắn, ông thấy ở đây có cái gì không ngay thẳng. Tuy vậy ông vẫn ăn, – quả thật là ăn quấy quá, – nhưng rốt cuộc ông vẫn ăn.

    Tuy vậy, sau bữa ăn ấy, ông tự thấy cần phải mời riêng "tên Fogg" ra một nơi, và nói với hắn:

    "Thưa ông.."

    Cái tiếng "ông" ấy làm miệng ông đau nhức, và ông cố ghìm để không đưa tay chộp lấy cổ áo cái "ông" ấy!

    – Thưa ông, ông đã hết sức tốt bụng với tôi cùng đi trên tàu của ông. Nhưng mặc dầu khả năng của tôi không cho phép tôi xử sự hào phóng như ông, tôi cũng muốn được trả phần tôi..

    – Đừng nói chuyện ấy làm gì, ông ạ, – ông Fogg đáp.

    – Phải nói chứ, tôi muốn..

    – Không, thưa ông, – Fogg nhắc lại bằng một giọng không cho phép cãi. – Đây là những khoản tiền đằng nào tôi cũng phải chi.

    Fix nghiêng mình chào, ông ta nghẹn thở, và đến nằm dài đằng mũi tàu, không nói một lời nào nữa trong cả ngày hôm ấy.

    Trong khi ấy con tàu vẫn lao nhanh, John Bunsby tràn trề hy vọng. Nhiều lần ông nói với ông Fogg là tàu sẽ đến Thượng Hải đúng giờ mong muốn. Ông Fogg chỉ đáp lại là ông tin ở điều đó. Vả chăng, toàn đội thủy thủ của cái tàu nhỏ bé đều đã dốc toàn lực. Món tiền thưởng động viên những con người tốt bụng này. Cho nên, không một dây lèo nào không được căng thật cứng! Không một lá buồm nào không được giương thật rộng! Không một lần chạy xiên xẹo nào lỡ xảy ra để có thể trách cứ người bẻ lái! Trong một cuộc đua thuyền của Câu lạc bộ Du thuyền Hoàng gia có lẽ cũng không thể thao tácchặt chẽ hơn.

    Đến chiều, viên hoa tiêu xem máy ghi tốc độ tính ra quãng đường đã đi được từ Hồng Kông là hai trăm hai mươi hải lý, và Phileas Fogg có thể hy vọng đến Yokohama, ông không phải ghi vào chương trình của ông một khoản chậm trễ nào. Thế nghĩa là cái trắc trở nghiêm trọng đầu tiên từ buổi ra đi ở Luân Đôn chắc hẳn không làm ông phải thiệt hại gì.

    Ban đêm, vào những giờ bắt đầu của ngày mới, tàu Tankadère tiến thẳng vào eo biển Phúc Kiến ngăn cách hòn đảo lớn Đài Loan với bờ biển Trung Quốc, và nó xuyên qua bắc chí tuyến. Biển rất dữ tại eo biển này, nơi đầy dẫy xoáy nước tạo nên bởi những dòng nước đối lưu. Con tàu đánh vật với sóng nước vất vả. Những con sóng ngắn cản trở bước đi của nó. Đứng được trên boong tàu lúc này rất khó.

    Trời rạng sáng, gió thổi càng mạnh. Trên trời có dấu hiệu một cơn gió lốc. Vả lại, phong vũ biểu báo bầu không khí sắp có thay đổi; tốc độ chạy ban ngày của con tàu không đều, và cột thủy ngân thăng giáng thất thường. Người ta cũng thấy mặt biển phía đông nam cuộn lên những đợt sóng dài "có dấu hiệu bão". Ngày hôm trước, mặt trời lặn trong một bầu sương mù đỏ ối, giữa những chấm lân tinh sáng nhấp nháy của đại dương.

    Viên hoa tiêu xem xét hồi lâu cái cảnh tượng không lành ấy của bầu trời và lẩm bẩm những lời gì khó hiểu. Có một lúc, đứng bên vị khách của mình, bác ta thấp giọng hỏi ông:

    – Chúng tôi có thể nói hết không dấu gì Tôn ông chứ?

    – Được. – Phileas Fogg đáp.

    – Thế thì, ta sắp bị một trận gió mạnh.

    – Từ bắc hay nam? – Ông Fogg bình thản hỏi lại.

    – Từ Nam, Tôn ông xem kìa. Có phải một cơn bão sắp nổ ra không?

    – Cơn bão phía nam càng tốt, nó sẽ đẩy ta đi. – Ông Fogg đáp.

    – Nếu Tôn ông đã nhìn thấy vấn đề như vậy! – Viên hoa tiêu đáp lại. – thì tôi không còn gì phải nói nữa.

    Những linh cảm của John Bunsby không đánh lừa ông ta. Nếu vào một mùa sớm hơn trong năm thì cơn bão, theo lời một nhà khí tượng học nổi tiếng, sẽ trôi qua như một cái thác sáng rực lửa điện, nhưng vào thời kỳ đông phân, cũng đáng ngại là nó có thể nổ ra dữ dội.

    Viên hoa tiêu chuẩn bị những biện pháp đề phòng. Ông cho cuộn chặt tất cả các buồm trên tàu lại và ngả cột buồm lên boong. Những cột buồm thượng được hạ xuống. Các con xỏ trên trục buồm được thu lại. Những nắp cửa đượcchốt chặt. Bây giờ thì không một giọt nước nào có thể lọt vào bên trong vỏ tàu. Chỉ một lá buồm tam giác bằng thứ vải bền là còn kéo lên cột buồm trước để giữ cho tàu đi xuôi gió. Rồi người ta đợi.

    John Bunsby đề nghị các hành khách của mình xuống khoang; nhưng trong một khoảng chật hẹp, gần như thiếu không khí, lại bị sóng biển lắc mạnh, sự giam cầm này chẳng có gì thú vị. Cả ông Fogg, cả bà Aouda, và cả Fix đều không chịu rời boong tàu.

    Vào khoảng tám giờ, gió mưa bão táp giội xuống tàu. Chỉ với một mẩu vải nhỏ của mình, tàu Tankadère bị cuốn đi như một cái lông bởi cơn gió mà người ta không thể hình dung được chính xác khi nó đã thành cơn bão. So sánh tốc độ của nó với bốn lần tốc độ một đầu tàu xe lửa lao nhanh hết sức cũng còn là dưới sự thật.

    Suốt ban ngày hôm ấy, con tàu cứ thế chạy lên hướng bắc, bị những con sóng khổng lồ cuốn đi, mà may thay vẫn giữ được tốc độ nhanh bằng tốc độ của những làn sóng ấy. Hằng chục lần nó suýt bị úp chụp bởi một trong những quả núi nước dựng lên đằng sau nó; nhưng một động tác bẻ lái khéo léo của người hoa tiêu đã tránh được tai họa. Các hành khách đôi khi ướt sũng vì bụi nước, nhưng họ nhận lấy cảnh ngộ ấy tỉnh khô như những nhà triết học. Fix có càu nhàu thật, nhưng bà Aouda gan dạ, hai mắt dán chặt vào người bạn mà chỉ có thể thán phục sự bình bĩnh, đã tỏ ra xứng đáng với ông và sát cánh bên ông đương đầu với cơn giông tố. Còn Phileas Fogg, thì dường như cơn bão này đã ghi sẵn trong chương trình của ông.

    Cho đến lúc này, tàu Tankadère luôn luôn đi theo hướng bắc, nhưng về chiều, như người ta có thể lo ngại, cơn gió xoay lại gần thành gió ngược, thổi từ tây bắc. Con tàu liền bị phơi sườn trước sóng, chòng chành một cách khủng khiếp. Biển quật con tàu dữ dội đến nỗi người ta hẳn phải kinh sợ nếu không biết tất cả các bộ phận của một con tàu đã được gắn nối với nhau chắc chắn như thế nào.

    Đến đêm, bão càng ác liệt. Nhìn trời tối dần, và cùng với bóng tối cơn giông tố chỉ có tăng lên, John Bunsby cảm thấy lo thắt ruột. Ông tự hỏi phải chăng đã đến lúc nên ghé tàu lại, và ông trưng cầu ý kiến đội thủy thủ của mình.

    Lấy ý kiến xong, John Bunsby đến bên ông Fogg nói với ông:

    – Thưa Tôn ông, tôi cho rằng có lẽ chúng ta nên vào một bến cảng nào đó bên bờ biển thì hơn.

    – Tôi cũng nghĩ vậy. – Phileas Fogg

    – A! – viên hoa tiêu reo lên, – nhưng bến cảng nào đây?

    – Tôi chỉ biết có một – ông Fogg thản nhiên đáp lại.

    – Thưa là?

    – Thượng Hải.

    Thoạt đầu viên hoa tiêu phải mất một lúc lâu không rõ câu trả lời ấy có nghĩa thế nào, và ông hiểu những gì ngoan cường, bên bỉ chứa đựng trong đó. Rồi ông kêu lên:

    "Dạ, đúng! Tôn ông nói chí phải. Đi Thượng Hải!".

    Và hướng chạy của tàu Tankadère cứ giữ nguyên không thay đổi.

    Một đêm thật là dài khủng khiếp! Cái tàu nhỏ bé ấy mà không bị lật úp thì quả là một sự phi thường. Hai lần nó bị dúi vào sóng biển, và tất cả trên tàu có lẽ bị bốc đi hết nếu không có dây chằng. Bà Aouda mệt nhừ nhưng bà không hề một lời than thở. Nhiều lần ông Fogg phải lao về phía bà để che đỡ cho bà chống lại những con sóng dữ.

    Trời trở sáng. Cơn bão vẫn nổ ra hết sức ác liệt. Thế nhưng gió thổi chiều thổi từ hướng đông nam. Một thay đổi thuận lợi, và tàu Tankadère lại phóng lên trên cái biển bão táp ấy, những con sóng biển lúc này xô vào những con sóng do hướng gió mới gây ra. Do đó một cuộc xung đột của những con sóng nghịch chiều, và một con tàu kém chắc chắn có thể đã bị nghiền nát.

    Thỉnh thoảng người ta nhìn thấy bờ biển qua những dải sương mù bị xé rách, nhưng không thấy bóng một cái tàu nào. Tàu Tankadère là tàu duy nhất đương đầu với bão biển.

    Đến trưa, có vài triệu chứng gió lặng, dấu hiệu cho triệu chứng ấy mỗi lúc một rõ hơn khi mặt biển tiếp giao mặt trời ở phía cuối đường chân trời.

    Cơn bão không kéo dài chính là do cường độ mãnh liệt của nó. Các hành khách mệt rã rời, bây giờ có thể ăn uống và nghỉ ngơi một chút.

    Ban đêm tương đối yên ổn. Viên hoa tiêu lại cho giương một nửa buồm lên. Tốc độ con tàu đã rất lớn. Ngày hôm sau 11, khi trời vừa sáng, sau khi quan sát bờ biển, John Bunsby đã có thể khẳng định con tàu còn cách Thượng Hải không đầy một trăm hải lý.

    Một trăm hải lý! Và chỉ còn có hôm nay nữa để vượt qua. Ông Fogg phải ngay chiều tối nay rời Thượng Hải nếu không muốn nhỡ chuyến tàu đi Yokohama. Giả không có trận bão làm mất của ông bao nhiêu thời gian thì lúc này hẳn ông chỉ còn cách hải cảng không đầy ba mươi hải lý.

    Gió dịu đi trông thấy, nhưng may thay biển cũng lặng theo. Con tàu giương hết buồm, và mặt biển sủi bọt nước dưới mũi tàu.

    Đến trưa, tàu Tankadère cách Thượng Hải ba hải lý. Một tiếng rủa ghê gớm bật ra từ miệng hoa tiêu.. Món tiền thưởng hai trăm livrơ hiển nhiên là sắp tuột khỏi tay ông. Ông nhìn ông Fogg, ông Fogg vẫn trơ trơ, vậy mà tất cả tài sản của ông đang được quyết định trong lúc này đây..

    Và cũng vào lúc đó, một hình thoi dài và đen, với làn khói cuồn cuộn bên trên, hiện ra sát mặt nước. Đó là chiếc tàu bể Mỹ vừa khởi hành đúng giờ quy định.

    – Mẹ kiếp! – John Bunsby kêu lên, ẩy tay lái ra với một cử chỉ thất vọng.

    – Nổi hiệu! – Phileas Fogg bình thản nói.

    Một khẩu đại bác nhỏ bằng đồng đen vươn dài đằng mũi tàu Tankadère.

    Nó dùng để bắn pháo hiệu khi trời sương mù.

    Khẩu đại bác được nạp đầy ắp thuốc súng, nhưng khi viên hoa tiêu sắp đặt vào mồi một hòn than đỏ rực, thì ông Fogg nói:

    "Treo cờ rủ!"

    Lá cờ được kéo lên đến nửa cột buồm. Đó là hiệu xin cấp cứu, và người ta có thể hy vọng rằng chiếc tàu bể Mỹ trông thấy, nó sẽ tạm thời đổi hướng đến thu nhận con tàu này.

    "Bắn!" – Ông Fogg nói.

    Và tiếng nổ của khẩu đại bác nhỏ bằng đồng đen vang lên trong không trung.
     
    Heo Bảo Bảotatsuno jin thích bài này.
  3. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,903
    Chương 22 –Vẫn nên cẩn thận có ít tiền trong túi

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Sau khi rời Hồng Kông, tàu Carnatic, ngày 7 tháng mười một, sáu giờ rưỡi tối, mở hết tốc lực hướng về đất Nhật. Nó trở đầy hàng hóa và hành khách. Hai căn buồng cuối của tàu vẫn để trống. Đó là những căn buồng dành cho ông Phileas Fogg đã trả tiền trước.

    Sáng hôm sau, các người ở đằng mũi tàu có nhìn thấy, không phải không chút ngạc nhiên, một hành khách con mắt đờ đẫn, dáng đi lảo đảo, đầu tóc rối bù, từ khu vé hạng nhì chui ra và thất thểu ngồi trên một cây gỗ.

    Người hành khách đó chính là đích thân Vạn Năng, câu chuyện thế này. Sau khi Fix rời tiệm hút được một lúc, hai người hầu bàn đến khiêng Vạn

    Năng ngủ say mê mệt, và đặt anh nằm trên cái giường dành cho những người say thuốc. Nhưng ba giờ sau, Vạn Năng do một ý nghĩ bền chặt ám ảnh tận cơn ác mộng, bừng tỉnh dậy và đấu tranh chống lại tác dụng của chất ma túy. Ý thức về bổn phận không tròn giật anh ra khỏi cơn mê mẩn. Anh rời bỏ cái giường những người say ấy và bước đi loạng choạng, tựa vào tường, ngã xuống rồi lại đứng lên, nhưng luôn luôn bị thúc đẩy không cưỡng được bởi một thứ bản năng, anh bước ra khỏi tiệm hút, miệng kêu như chiêm bao: Tàu Carnatic! Tàu Carnatic!

    Con tàu đỗ kia đang phả khói, sẵn sàng lên đường. Vạn Năng chỉ còn phải dấn thêm vài bước. Anh lao lên cái cầu đang cất khỏi bờ, nhảy qua chỗ lên xuống mạn tàu, và ngã lăn ra, bất tỉnh nhân sự ở mũi tàu, đúng vào lúc tàu Carnatic nhổ neo.

    Vài người lính thủy đã quen với những cảnh tượng này, khiêng anh chàng khốn khổ xuống căn buồng của khu vé hạng nhì, và chỉ sáng hôm sau Vạn Năng mới thức dậy, cách đất Trung Quốc một trăm năm mươi hải lý.

    Đó là nguyên nhân tại sao buổi sáng hôm ấy Vạn Năng lại ở trên boong tàu tàu Carnatic và ra hít thở đầy lồng ngực những làn gió biển mát rượi. Bầu không khí trong lành làm anh tỉnh cơn say. Anh bắt đầu tập hợp những ý nghĩ của mình và làm được việc ấy không phải dễ gì. Nhưng cuối cùng anh cũng nhớ lại những cảnh tượng ngày hôm trước, những lời tâm sự của Fix, tiệm hút, v. V..

    "Thật rõ ràng. – anh tự nghĩ, – ta đã say một cách thảm hại! Ông Fogg sẽ nói ta thế nào đây? Dẫu sao thì ta đã không nhỡ tàu, và đó là điều chủ yếu".

    Rồi anh nghĩ đến Fix.

    "Đối với thằng cha này, – anh nghĩ bụng – rất mong là chúng ta đã rũ được cái của nợ ấy đi, và sau khi đã đề nghị với ta những điều như vậy thì hắn còn mặt mũi nào dám bám theo chúng ta lên tàu Carnatic nữa. Một tên thanh tra cảnh sát, một tên mật thám theo dõi ông chủ ta, bị kết tội về vụ mất cắp ở Ngân hàng Anh! Thôi đi! Ông Fogg mà là một tên ăn cắp thì cũng như ta là một đứa giết người!".

    Vạn Năng có nên kể lại những chuyện này với ông chủ của mình không? Anh có nên cho ông biết vai trò của Fix trong vụ này không? Hay tốt hơn là nên đợi đến khi về Luân Đôn hãy kể ông nghe câu chuyện một nhân viên sở cảnh sát chính quốc đã theo hút ông đi vòng quanh thế giới, và cùng với ông cười một mẻ? Phải, tất nhiên là thế. Dẫu sao thì vấn đề còn phải xem đã. Việc cấp bách nhất bây giờ là gặp lại ông Fogg và mong ông nhận cho những xin lỗi của mình về cái hành vi không ra gì ấy.

    Thế là Vạn Năng đứng dậy. Biển động và con tàu lắc mạnh. Anh đầy tớ trung hậu, hai chân còn chưa thật vững cố lê đến mạn cuối con tàu.

    Anh không thấy trên boong tàu người nào giống như ông chủ anh, cũng không thấy người nào giống bà Aouda,

    "Được, – anh nói. – Bà Aouda vào giờ này còn đang ngủ. Còn ông Fogg thì chắc đã vớ được một bạn chơi bài" uýt "rồi, và theo thói quen thường lệ của ông thì..".

    Nói rồi Vạn Năng xuống phòng khách. Ông Fogg không có đấy, Vạn Năng chỉ còn một việc: Hỏi ông quản lý trên tàu xem ông Fogg ở buồng nào. Ông quản lý trả lời là không biết một hành khách nào có tên như thế.

    – Xin lỗi ngài, – Vạn Năng năm nỉ, – Đây là một nhà quý phái, cao lớn, lạnh lùng, ít cởi mở, có một bà thiếu phụ đi cùng..

    – Chúng tôi không có bà thiếu phụ nào trên tàu, – ông quản lý đáp. – Vả lại đây là bản danh sách hành khách. Ông có thể tra xét.

    Vạn Năng tìm trong bảng danh sách.. Không có tên ông chủ anh trong đó.

    Anh như bị choáng. Rồi một ý nghĩ vụt qua đầu anh.

    – Ơ mà! Có thật tôi đang ở trên tàu Carnatic đây không? – anh kêu lên.

    – Phải. – ông quản lý đáp.

    – Trên đường đi Yokohama?

    – Hoàn toàn đúng.

    Vạn Năng đã có lúc sợ mình nhầm tàu! Nhưng nếu anh đã ở trên tàu Carnatic thật, thì chắc chắn ông chủ anh không có ở tàu này.

    Vạn Năng buông mình xuống một ghế bành. Thật là một đòn sét đánh. Vàmột tia sáng bỗng lóe lên trong đầu anh. Anh nhớ ra là giờ khởi hành của tàu Carnatic đã đổi sớm hơn, anh phải báo cho ông chủ anh, và anh đã không làm việc ấy. Vậy thời chính là do lỗi của anh mà ông Fogg và bà Aouda đã lỡ chuyến tàu này!

    Lỗi của anh, phải, nhưng tệ hơn nữa là lỗi của tên gian hùng đã chuốc cho anh say rượu để chia lìa anh khỏi ông chủ anh, để giữ chân ông lại ở Hồng Kông! Vì rốt cuộc anh đã hiểu ra cái thủ đoạn của viên thanh ra cảnh sát. Và bây giờ thì, ông Fogg chắc chắn là lui lại, thua cuộc, bị bắt, bị bỏ tù nữa cũng nên!.. Nghĩ đến đây, Vạn Năng vò đầu bứt tóc. Chà! Tên Fix mà rơi vào tay anh, hắn sẽ được thanh toán đến nơi đến chốn.

    Cuối cùng, sau phút tuyệt vọng ban đầu, Vạn Năng lấy lại bình tĩnh và xem xét tình hình. Không có gì đáng phấn khởi cho lắm. Anh chàng Pháp đang trên đường đi Nhật Bản. Đến đó thì chắc rồi, nhưng làm sao để từ đó trở về? Túi rỗng. Không một đồng xu, đồng chinh dính túi! Tuy vậy, vé tàu và tiền ăn uống trên tàu đã được trả trước. Vậy thời anh có năm hoặc sáu ngày trước mắt để giải quyết một phương hướng. Không bút nào tả xiết anh đã ăn và uống trong chuyến này như thế nào. Anh ăn cả phần của ông chủ anh, cả phần bà Aouda, và cả phần bản thân anh. Anh ăn tưởng như nước Nhật, nơi anh sắp đến, là một xứ hoang vắng, không có qua một thứ gì ăn được.

    Ngày 13, lúc thủy triều cuổi sáng, tàu Carnatic tiến vào hải cảng Yokohama.

    Địa điểm này là một bến ghé tàu quan trọng của Thái Bình Dương, ở đó đỗ lại tất cả những tàu thư và tàu chở khách giữa Bắc Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản và quần đảo Mã Lai. Cảng Yokohama nằm ngay trong vịnh Yeddo, ở cách không xa lắm cái thành phố rộng mênh mông ấy, thủ đô thứ hai của đế quốc Nhật, xưa là nơi ngự của lãnh chúa Taïkoun vào thời hãy còn vị hoàng đế dân sự này, và cũng là thành phố kình địch của Meako, một đô thị lớn nơi đóng đô của thiên hoàng Meako, vị hoàng đế của giáo hội, con cháu của các thần.

    Tàu Carnatic đến đậu ở bến Yokohama, gần các kè đá của cảng và các nhà kho, sở hải quan, giữa nhiều tàu đủ mọi nước.

    Vạn Năng đặt chân không chút hào hứng lên cái mảnh đất kỳ lạ ấy của các con cháu Mặt Trời. Anh không biết làm gì hơn là phó mặc cho số phận, và đi lang thang vô định giữa các phố xá trong thành phố.

    Thoạt đầu Vạn Năng đến một khu Âu Châu, với những ngôi nhà mặt trước thấp được tô điểm những hàng hiên có dãy cột tròn thanh nhã, khu đó – với những phố xá, quảng trường, bến tàu kho hàng của nó – bao trùm tất cả cái khoảng từ mỏm đất Hiệp định đến bờ sông. Ở đây, cũng như ở Hồng Kông, cũng như ở Calcutta, sống một cư dân đông đúc và hỗn độn những người đủ mọi chủng tộc, người Mỹ, người Anh, người Trung Quốc, người Hà Lan, những lái buôn sẵn sàng cái gì cũng bán và cái gì cũng mua, ở giữa bọn họ anh chàng Pháp cũng cảm thấy xa lạ chẳng khác gì bị ném vào giữa xứ sở của những người Hottentot.

    Vạn Năng tất nhiên có một biện pháp: Đến tự giới thiệu với lãnh sự Pháp hoặc Anh ở Yokohama; nhưng anh thấy ghê tởm cái việc phải kể lại chuyện mình, có liên quan mật thiết đến câu chuyện của ông chủ anh, và trước khi đến đó, anh muốn tận dụng tất cả các khả năng khác.

    Vậy là khi đã đi khắp khu Âu Châu của thành phố mà không bắt gặp một sự tình cờ may mắn nào, anh bước vào khu người Nhật Bản, quyết tâm nếu cần, tiến mãi đến tận Yeddo.

    Khu vực người bản xứ này ở Yokohama gọi là khu Benten do tên một nữ thần biển được thờ phụng trên những hòn đảo lân cận. Ở đây có những con đường rất đẹp trồng thông và bách hương, những cửa đền chùa kiến trúc kỳ lạ, những cái cầu chìm lấp giữa hàng tre và lau sậy, những ngôi đền ẩn dưới vòm lá bát ngát và buồn bã của những cây bách hương cổ thụ, những am tu hành thâm nghiêm trong đó sống vật vờ các nhà sư đạo Phật và các nho sĩ đạo Khổng, những phố nối nhau vô tận ở đó người ta có thể nhặt được những hàng đàn trẻ con da hồng hào má đỏ thắm, những chú bé tưởng như cắt da từ một bức bình phong nào đó của người bản xứ, đang chơi đùa với những con chó lông xù chân ngắn và những con mèo vàng nhạt không đuôi, rất lười và rất thích vuốt ve.

    Trong các thành phố, chỉ thấy người đông như kiến, đi lại không ngớt; những nhà sư vừa đi vừa gõ đều đều vào cái trống con như đang đi rước, những sĩ quan cận vệ "Yakunin", sĩ quan nhà đoan hoặc cảnh sát, đội những mũ nhọn trát sơn và đeo hai thanh kiếm ở đai lưng, những người lính mặc quần áo vải xanh sọc trắng và mang súng có cò mổ, những vũ sĩ của Thiên hoàng bó mình trong áo chẽn lụa, ngoài đóng áo giáp đan mắt lưới, và nhiều quan nhân khác nữa đủ mọi loại, – bởi vì ở Nhật Bản, cái nghề quân sự cũng được quý trọng như nó bị khinh rẻ bên Trung Quốc. Rồi những thầy tu đi quyên giáo, những khách hành hương bận áo chùng, những người dân thường tóc mượt và đen lánh, đầu to, phần bán thân dài, chân mảnh khảnh, vóc người hơi thấp, nước da thay đổi từ những màu đồng sẫm đến màu trắng đục, nhưng không bao giờ vàng như nước da người Trung Quốc, là những người khác hẳn với người Nhật Bản. Sau cùng, đi giữa xe cộ, những cỗ kiệu, những con ngựa, những phu khiêng vác, những xe có một bánh có căng màn, những "noriông" có thành sơn son, những "cănggô" nằm êm, chẳng khác những giường kiệu đan bằng tre, người ta thấy qua lại, với những bước ngắn của bàn chân nhỏ đi giày vải, dép rơm hoặc guốc gỗ, một vài người đàn bà không được đẹp cholắm, mắt xếch, ngực lép, răng nhuộm đen theo phong tục đương thời, nhưng ăn vận rất duyên dáng bộ quốc phục "Kirimôn", một thứ áo dài mặc nhà có dải lụa bắt chéo ngang vai và đai lưng rộng xòe ra phía sau thành một cái nơ kỳ cục – một kiểu nơ mà những phụ nữ Paris tân thời hình như đã mượn của các bà Nhật Bản.

    Vạn Năng dạo chơi vài tiếng đồng hồ giữa đám đông lòe loẹt ấy, anh ngắm nhìn cả những cửa tiệm kỳ lạ và giàu có, những hiệu buôn ở đó phô bày tất cả sự hào nhoáng của nghề kim hoàn Nhật Bản, những "cửa hiệu đang tu bổ lại" trang trí bằng cờ mà người ta cấm không cho anh vào, và những phòng trà nơi người ta uống từng chén đầy một thứ nước nong thơm, cùng với rượu "xaki", rượu ngon cất tự gạo ủ men, và những tiệm hút lịch sử trong đó người ta hút một thứ thuốc rất ngon, chứ không phải thuốc phiện là thứ hầu như không được biết đến ở Nhật Bản.

    Rồi Vạn Năng ra đến cánh đồng, giữa những thửa ruộng mênh mông. Ở đây, bên những bông hoa cuối mùa tàn hương sắc nở rộ những đóa hải đường rực rỡ không phải trên những thân cây con mà trên những cây to, và trong các khu vườn có hàng rào tre bao bọc là những cây anh đào, cây mận, cây táo, mà dân ở đây trồng để lấy hoa hơn là lấy quả, chúng được những hình bù nhìn nhăn nhó và những cái chong chóng kêu ầm ĩ bảo vệ chống lại chim sẻ, bồ câu, quạ, và những con chim háu ăn khác. Không một cây bách hương uy nghi nào không che chở cho con chim ưng lớn não đó đến trú; không một cây liễu rủ nào không che phủ dưới vòm lá của mình một con diệc nào đó đang sầu muộn đứng một chân; sau cùng, đâu cũng thấy quạ khoang, vịt, diều hâu, ngỗng trời và rất nhiều những con hạc mà người Nhật coi là loài chim của "Vua Chúa" và đối với họ là tượng trưng cho sự sống lâu và hạnh phúc.

    Đi lang thang như thế, Vạn Năng trông thấy một vái bông violét trên cỏ: "Tốt! – anh nói – bữa ăn chiều của ta đây".

    Nhưng khi ngửi chúng anh chẳng thấy hương thơm gì cả. "Đen đủi quá!" – anh nghĩ.

    Tất nhiên chàng trai ngay thật đã cẩn tắc vô áy náy ăn sáng thật no nê đến không ních vào đâu được trước khi rời khỏi tàu Carnatic, nhưng sau một ngày dạo chơi, anh cảm thấy dạ dày rỗng tuếch. Anh đã để ý thấy rõ là thịt cừu, thịt dê hoặc thịt lợn hoàn toàn không có trên các quầy hàng thịt của dân bản xứ, và vì anh biết rằng giết bò là một tội phạm thánh vì bò chỉ được dùng trong công việc canh tác, cho nên anh rút ra kết luận là ở Nhật hiếm thịt. Anh đã không lầm; nhưng nếu không có thịt gia súc thì dạ dày anh cũng sẵn sàng thích nghi ngay với những miếng thịt lợn rừng hay thịt hoẵng, gà gô hoặc chim cun cút, gà vịt hoặc là cá, những thức ăn hầu như duy nhất của người Nhật cùng với sản phẩm đồng ruộng. Nhưng anh phải vui lòng ôm bụng rỗngvà đợi hôm sau sẽ đi kiếm cái gì lót bụng.

    Đêm xuống, Vạn Năng quay lại về khu người bản xứ trong thành phố, và anh đi lang thang các phố giữa những cây đèn lồng muôn sắc, ngắm những tốp hề biểu diễn các tiết mục tài tình, những nhà thiên văn giữa trời tụ tập quần chúng xúm quanh ống kính của họ. Rồi anh lại thấy vũng tàu nhấp nháy lửa chài của những người đánh cá, họ gọi cá đến bằng lửa những ngọn đuốc nhựa cây.

    Cuối cùng phố xá vơi hết người. Thay cho đám đông là những hội tuần tra của các "Yakunin". Những sĩ quan này, trong bộ áo quần và đi giữa đoàn tùy tùng của họ, cứ như những ngài đại sứ, và Vạn Năng lại bông đùa rất thú vị mỗi lần gặp một đội tuần tra choáng lộn "Xem kia, hay không! Lại một sứ bộ Nhật lên đường sang Châu Âu".
     
    Heo Bảo Bảotatsuno jin thích bài này.
  4. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,903
    Chương 23 – Cái mũi được kéo dài quá khổ

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ngày hôm sau, Vạn Năng mệt nhử, đói lả, tự nhủ bằng bất cứ giá nào cũng phải ăn và ăn càng sớm càng tốt. Tất nhiên là anh cũng có một lối thoát bán đồng hồ của anh đi, nhưng anh thà chết đói còn hơn. Bây giờ, hoặc sẽ không bao giờ là lúc chàng trai trung hậu này phải sử dụng đến giọng hát khỏe, nếu không phải là du dương, mà trời đã phú cho anh.

    Anh biết vài khúc hát Pháp và Anh, và anh quyết định thử một cái xem sao. Người Nhật chắc phải mê âm nhạc, vì ở đất nước họ mọi việc đều được cử hành theo tiếng chũm chọe, tiếng chiêng trống, và với tài nghệ của một nghệ sĩ Âu Châu kỳ tài thì họ chỉ có thể tán thưởng mà thôi.

    Nhưng có lẽ tổ chức một cuộc hòa nhạc vào lúc mờ sáng ngày hơi sớm quá, và những người mê nhạc bị khua dậy bất thần sẽ không trả cho nhà ca sĩ những đồng tiền có hình Đức Thiên Hoàng.

    Vậy là Vạn Năng quyết định chờ vài giờ nữa, nhưng anh vừa đi vừa nghĩ mình có vẻ diện quá không phải một nghệ sĩ hát rong, và anh liền nảy ra ý định đổi quần áo lấy bộ cánh tầm thường hợp địa vị mình hơn. Và lại việc đổi chác sẽ làm dôi ra một món tiền các thêm mà anh có thể dùng ngay để thỏa mãn cơn đói của mình.

    Ý đã quyết, chỉ còn thực hiện. Tìm kiếm mãi Vạn Năng mới phát hiện ra một người bản xứ buôn đồ cũ. Bộ quần áo Âu Châu vừa ý ông, và chẳng bao lâu Vạn Năng ra khỏi cửa hàng súng sính trong một cái áo chùng Nhật Bản cũ, đầu đội chiếc khăn vấn đã bạc màu với thời gian. Nhưng để bù lại, vài đồng tiền đã xủng xoẻng trong túi anh.

    "Tốt, – anh nghĩ, – ta tưởng tượng như mình đang dự hội hóa trang vậy!".

    Mối quan tâm đầu tiên của Vạn Năng, khi anh đã "Nhật hóa" như thế, là bước vào một quán trà nom xuềnh xoàng, và tại đây, với vài mẩu thịt gà còn lại và vài nắm cơm, anh ăn sáng như mọi con người mà bữa trưa vẫn còn là vấn đề phải giải quyết.

    "Bây giờ, – anh nghĩ bụng, sau khi đã no nê hồi sức, – vấn đề là không được mất tinh thần. Ta không còn phương kế bán bộ cánh tầm thường này lấy một bộ khác có vẻ Nhật hơn nữa. Vậy thời phải tìm cách rời bỏ càng sớm càng tốt cái nước Mặt Trời này, nơi chỉ để lại cho ta một kỷ niệm thảm hại!".

    Vạn Năng liền nghĩ ngay đến việc thăm dò các tàu bể sắp nhổ neo đi Mỹ. Anh định xin làm đầu bếp hoặc hầu bàn, tất cả công xá chỉ cần đổi lấy cái vé tàu và ăn uống trên tàu. Một khi đã tới San Francisco anh sẽ liệu tính sau.

    Điều quan trọng là vượt qua bốn nghìn bảy trăm hải lý Thái Bình Dương này nằm giữa nước Nhật và Tân thế giới.

    Vạn Năng vốn không phải loại người nghĩ rồi để đấy, bèn tiến về phía cảng Yokohama. Nhưng anh càng đến gần tàu thì ý định của anh khi mới nãy ra thấy đơn giản thế mà bây giờ lại có vẻ không thực hiện được. Người ta cần gì đến cái anh đầu bếp hoặc hầu bàn trên một bể tàu Mỹ, và với kiểu ăn mặc lố lăng như thế này thì anh có thể gây được lòng tin cho ai? Nhờ ai giới thiệu bây giờ? Biết đề trình giấy tờ gì?

    Đang nghĩ miên man như thế mắt anh đụng vào một tấm biển quảng cáo to tướng do một người hề vác diễu đi các phố Yokohama. Tấm biển quảng cáo ấy viết ra tiếng Anh như sau:

    Đoàn xiếc nhào lộn Nhật Bản

    Của

    Ngài William Batulcar đáng kính. Những buổi trình diễn cuối cùng Trước khi lên đường đi Hoa Kỳ Của

    NHỮNG MŨI DÀI – NHỮNG MŨI DÀI

    Dưới sự bảo trợ trực tiếp của Thần Tingou

    Ly kỳ hấp dẫn!

    "Hòa Kỳ! – Vạn Năng kêu lên, – đúng cái ta đang cần đây rồi!.."

    Anh đi theo người treo biển quảng cáo, và cứ theo gót anh ta, chẳng mấy chốc anh lại trở vào thành phố Nhật Bản. Mười lăm phút sau, anh lại đứng trước một cái lều rộng, trên nóc lều cắm phấp phới nhiều chùm cờ nhỏ, và những vách ngoài có vẽ, không theo phép phối cảnh nhưng với màu sắc thật lòe loẹt, cả một đoàn nghệ sĩ làm trò tung hứng.

    Đó là rạp xiếc của ngài Batulcar đáng kính, một thứ "bácnom" người Mỹ, giám đốc một đoàn nghệ sĩ múa rối, tung hứng, hề, nhào lộn, đi thăng bằng trên dây, vận động viên thể dục, mà theo quảng cáo sẽ trình diễn buổi cuối cùng trước khi rời đất nước Mặt Trời đi Hoa Kỳ.

    Vạn Năng bước vào một hành lang có nhiều cột ở phía trước lều, và anh hỏi Batulcar. Ông Batulcar đích thân ra gặp.

    – Anh muốn gì? – ông hỏi Vạn Năng, mà thoạt đầu ông gặp cho là một người dân bản xứ

    – Ngài có cần một người hầu không? – Vạn Năng hỏi.

    – Một người hầu, – ông "bácnom" vừa kêu lên vừa vuốt bộ râu rậm màu xám mọc um tùm dưới cằm, – tôi có hai người hầu, ngoan ngoãn, trung thành không rời tôi nửa bước, và phục vụ tôi không công với điều kiện là tôi nuôi họ.. Và họ đây, – ông vừa nói thêm, chỉ vào hai cánh tay lực lưỡng, chằng chịt những đường gân to như những sợi dây đàn đại hồ cầm.

    – Vậy là tôi không được việc gì cho ngài sao?

    – Đúng thế.

    – Khổ chưa! Tôi mà được đi theo các ngài thì hay quá.

    – Ô này, – ngài Batulcar đáng kính nói, – ông mà là người Nhật thì cũng như tôi là một con khỉ! Vậy cớ chi ông lại ăn mặc thế này?

    – Ai ăn mặc được như thế nào thì ăn mặc như thế!

    – Đúng, đúng đấy. Ông là người Pháp phải không?

    – Phải, một dân Paris chính cống.

    – Vậy ông hẳn biết làm trò nhăn nhó?

    – Quả có thể, – Vạn Năng trả lời, phật ý vì thấy cái lời yêu cầu ấy lại được gợi lên chính từ quốc tịch của mình. – người Pháp chúng tôi, chúng tôi biết làm trò nhăn nhó, đúng thế, nhưng cũng không hơn được người Mỹ!

    – Đúng. Này, nếu tôi không lấy anh làm người hầu, thì tôi có thể lấy anh làm hề. Anh hiểu chứ, anh bạn. Ở Pháp người ta trưng bày ra những anh hề nước ngoài, còn ở nước ngoài thì trưng ra những anh hề Pháp!

    – A!

    – Vả lại anh khỏe mạnh kia mà?

    – Nhất là khi tôi vừa ra khỏi bàn ăn.

    – Và anh biết hát chứ?

    – Biết. – Vạn Năng đáp, xưa kia anh cũng đã từng góp giọng trong vài cuộc hòa nhạc vỉa hè.

    – Nhưng anh có hát được trong tư thế giồng cây chuối, mới một con quay đang quay trên bàn chân trái, và một thanh kiếm đặt thăng bằng trên bàn chân phải không?

    – Hẳn chứ! – Vạn Năng đáp, nhớ lại những bài tập vỡ lòng thời niên thiếu.

    – Anh thấy không, tất cả công việc là thế đó! – ngài Batulcar đáng kính đáp.

    Bản hợp đồng được ký tức khắc và ngay tại chỗ.

    Rốt cuộc thế là Vạn Năng đã kiếm được một chỗ đứng. Anh được nhận vào làm tất cả mọi việc trong cái gánh xiếc Nhật nổi tiếng này. Điều đó không thú vị gì cho lắm, nhưng chưa đầy tám ngày nữa anh đã lên đường đi San Francisco.

    Cuộc biểu diễn, đã được ngài Batulcar đáng kính quảng cáo om sòm, phải bắt đầu vào ba giờ, và chẳng bao lâu những nhạc cụ ghê gớm của một dàn nhạc Nhật, trống, chiêng, đã khua ầm lên ngoài cửa, ta thừa biết Vạn Năng chưa thể tập kịp một trò nào, nhưng anh phải lấy đôi vai chắc nịch của mình làm đế cho đại tiết mục "chồng người" do những Người-Mũi-Dài của thần Tingou biểu diễn. Cái trò "ly kỳ hấp dẫn" ấy của buổi biểu diễn phải kết thúc cả loạt các tiết mục khác.

    Trước ba giờ, các khán giả đã tràn ngập căn lều rộng. Người Châu Âu và người bản xứ, người Trung Quốc và người Nhật Bản, đàn ông, đàn bà, trẻ con đổ xô vào các dãy ghế dài chật hẹp và các hàng ghế lô trước mặt sân khấu. Các nhạc công đã rút vào bên trong, và dàn nhạc đầy đủ, với những cồng, chiêng, phách, sáo, trống nhỏ và trống lớn, điên cuồng tấu lên.

    Cuộc biểu diễn chỉ gồm toàn những tiết mục nhào lộn múa rối đó. Nhưng ta phải thừa nhận người Nhật là những người làm trò thăng bằng giỏi nhất trên đời. Người này, với cái quạt và những mẩu giấy nhỏ, biểu diễn tiết mục bướm và hoa thật đẹp mắt. Người kia, với làn khói thơm từ cái tẩu của mình, thoăn thoắt phác trong không khí một hàng chữ xanh xanh, tạo thành lời chúc mừng cử tọa. Một người tung hứng với những cây nến đang cháy, mà anh lần lượt thổi tắt khi chúng qua trước miệng anh, rồi lại lấy cây khác châm lên mà vẫn không phút ngừng trò tung hứng thần diệu của mình. Người khác, với những con quay đang quay tạo nên đủ kiểu kết hợp kỳ dị nhất; dưới tay anh, những cái máy quay vù vù ấy dường như đóng một đời sống riêng trong cuộc xoay tròn bất tuyệt của chúng; chúng chạy trên những ống tẩu hút thuốc, trên những lưỡi kiếm, trên những sợi dây thép trông đúng như những sợi tóc căng từ đầu sân khấu này đến đầu kia, chúng xoay quanh những bình pha lê lớn, chúng leo những thang tre, chúng chạy toán loạn vào mọi xó xỉnh, tạo nên những hiệu quả hòa âm thật kỳ lạ bằng cách kết hợp những âm độ khác nhau của chúng. Các nghệ sĩ tung hứng chúng, và chúng quay tròn trong không khí; họ quăng chúng đi bằng vợt gỗ như những quả cầu, mà chúng vẫn cứ quay, họ đút chúng vào trong túi của họ, và khi họ lấy ra, chúng vẫn cứ quay, quay cho đến khi một cái lò xo bật ra kiến chúng nở thành những chùm hoa!

    Chẳng cần miêu tả ra đây những tiết mục kỳ diệu của các nghệ sĩ nhào lộn

    Và vận động viên thể dục. Những trò nhào lộn trên thang, trên sào, trên quả cầu, trên các thùng lăn, v. V.. được thực hiện với một sự chính xác tuyệt diệu. Nhưng cái đỉnh của biểu diễn là tiết mục của những "Người-Mũi-Dài", những nghệ sĩ thăng bằng kỳ lạ mà Châu Âu chưa từng biết đến.

    Những Người-Mũi-Dài ấy hợp thành một tập đoàn đặc biệt dưới sự bảo trợ trực tiếp của Thần Tingou. Ăn bận như những anh hùng thời trung cổ, họ mang một cặp cánh lộng lẫy hai bên vai. Nhưng nét đặc trưng nhất là công dụng của cái mũi ấy. Những cái mũi ấy không có gì khác hơn là những thanh tre dài năm, sau, mười piê, cái này thẳng, cái kia cong, cái nhẵn thín, cái sần sùi. Vậy mà, chính là trên những bộ phận được chắp vào mặt một cách chắc chắn ấy đã diễn ra tất cả những động tác thăng bằng của họ. Một tá những tín đồ của thần Tingou nằm ngửa ra, và các bạn họ đến nô đùa trên những cái mũi của họ dựng đứng lên như những ống thu lôi, nhảy nhót, bay đi bay lại từ mũi này sang mũi khác, và thực hiện những trò nhào lộn khó tin nhất.

    Tiết mục cuối cùng đã được báo trước với công chúng là tiết mục chồng người, trong đó chừng năm chục Người-Mũi-Dài kết thành "Xa giá của thần Jaggernaut". Nhưng đáng lẽ chồng người bằng cách lấy vai làm điểm tựa, các nghệ sĩ của ngài Batulcar đáng kính chỉ được lắp vào nhau bằng mũi của họ. Nhưng một trong những người ghép thành cái bệ của xa giá đã bỏ đoàn, và Vạn Năng được chọn thay anh ta, vì chỉ cần khỏe mạnh và khéo léo là đủ.

    Tất nhiên, chàng trai đứng đắn tự cảm thấy rất đỗi sượng sùng khi gợi lại một kỷ niệm đáng buồn thời trẻ, anh phải khoác bộ áo trung cổ, được trang điểm bộ cánh sặc sỡ, và đội một cái mũi dài sáu piê gắn vào giữa mặt! Nhưng rốt cuộc thì cái mũi này, đó là cần câu cơm của anh, và anh đành nhận nó.

    Vạn Năng bước vào sân khấu, và đến xếp hàng bên những người phải ghép thành cái bệ của Xa giá thần Jaggernaut. Tất cả nằm dài xuống đất, mũi chồng lên trời. Một tốp diễn viên thăng bằng thứ hai đến nằm trên những mũi dài, một tốp thứ ba chồng lên trên, rồi một tốp thứ tư, và trên những cái mũi chỉ đỡ ở đầu nhọn của nó ấy, một lâu đài người chẳng mấy chốc dựng lên đến tận tấm màn vẽ da trời trên nóc rạp.

    Thế nhưng, giữa những tiếng vỗ tay rào rào, và tiếng kèn trống của dàn nhạc vang ầm như sấm, chồng người bỗng rung chuyển, mất thăng bằng, một trong những cái mũi của bện tụt đi, và cả công trình đổ sập xuống như một lâu đài bằng giấy..

    Đó là lỗi của Vạn Năng lúc ấy đã bỏ vị trí của mình, băng qua hàng rào không cần sự hỗ trợ của đôi cánh, và trèo lên dãy lan can bên phải, anh phục xuống chân của một khán giả kêu lên:

    – Ôi! Ông chủ! Ông chủ!

    – Anh đấy à?

    – Tôi đây!

    – Thôi được! Thế thì ra tàu bể ngay thôi, anh bạn!..

    Ông Fogg, bà Aouda cùng đi với ông, và Vạn Năng vội vã qua các hành lang ngoài lều. Nhưng ở đây họ gặp ngài Batulcar đáng kính điên khùng đòi những khoản bồi thường về sự "vỡ" tiết mục. Phileas Fogg làm dịu cơn giận dữ của ông bằng một nắm bạc giấy. Và, đến sáu giờ rưỡi, đúng vào lúc tàu sắp chạy. Ông Fogg và bà Aouda đặt chân lên chiếc tàu bể Mỹ, theo sau còn có Vạn Năng, với cặp cánh trên lưng, và trên mặt vẫn còn cái mũi dài sáu "piê" mà anh chưa kịp vứt ra!
     
    Heo Bảo Bảotatsuno jin thích bài này.
  5. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,903
    Chương 24 – Cuộc vượt biển Thái Bình Dương

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Những chuyện xảy ra ở gần Thượng Hải, ta đã hiểu. Tín hiệu xin cấp cứu của tàu Tankadère được chiếc tàu bể đi Yokohama trông thấy. Viên thuyền trưởng khi nhìn thấy một lá cờ rủ, đã cho tàu tiến lại cái tàu nhỏ. Vài phút sau, Phileas Fogg trả tiền thuyền theo giá thỏa thuận, đặt vào túi ông chủ tàu John Bunsby năm trăm năm mươi livrơ (13, 750 phơ răng). Rồi nhà quý phái đáng kính, bà Aouda và Fix sang tàu lên đường, ngay đi Nagasaki và Yokohama.

    Đến Yokohama ngay sáng ngày 14 tháng mười một đúng giờ đã định. Phileas Fogg để mặc Fix chạy công việc của ông ta, đi đến tàu Carnatic, và ở đấy ông được biết, trong niềm vui vô hạn của bà Aouda, – và có lẽ của cả ông nữa, nhưng ít ra ông không để lộ gì ra mặt – rằng anh chàng người Pháp quả đã đến Yokohama ngay hôm trước.

    Vì phải đi San Francisco ngay chiều hôm ấy; Phileas Fogg lập tức bắt tay vào tìm kiếm người hầu của mình. Ông tới hỏi các lãnh sự Pháp và Anh không được kết quả gì, và sau khi đã mất công vô ích đi khắp các phố Yokohama, ông hết hy vọng tìm lại được Vạn Năng, thì sự ngẫu nhiên, hoặc có lẽ là một thứ linh tính xui khiến ông bước vào lều rạp ngài Batulcar đáng kính. Tất nhiên ông không thể nhận ra người hầu của mình trong bộ quần áo nhố nhăng của vị sứ giả thần linh ấy, nhưng anh chàng này, trong tư thế năm ngửa, lại nhìn thấy ông chủ của mình ở hàng ghế lan can. Anh không thể ghìm được một cử động của cái mũi anh. Do đó mà thăng bằng bị phá vỡ, và những hậu quả xảy tiếp.

    Thế là Vạn Năng được biết, từ chính cái miệng bà Aouda kể lại với anh, cuộc vượt biển từ Hồng Kông đi Yokohama đã điễn ra như thế nào, có cả một ông Fix nào đó cùng đi, trên chiếc tàu nhỏ hai cột buồm Tankadère.

    Nghe đến tên Fix, Vạn Năng không đổi sắc mặt. Anh cho rằng chưa đến lúc nói với ông chủ mình những chuyện xảy ra giữa viên thanh tra cảnh sát với anh. Cho nên, trong câu chuyện Vạn Năng kể lại về những cuộc phiêu lưu của mình, anh chỉ tự kết tội và xin lỗi vì đã bị một cơn say thuốc phiện đột ngột trong tiệm hút ở Hồng Kông.

    Ông Fogg nghe chuyện với thái độ lãnh đạm, không đáp lại nửa lời; rồi ông cho người hầu của mình một khoản tiền để anh có thể mua trên tàu những quần áo tử tế hơn. Vậy là thật, chưa đầy một giờ sau, anh đầy tớ ngay thật, sau khi đã cắt mũi và xén cánh đi, không còn gì trên mình có thể gợi nhớ đến vị tín đồ của thần Tingou nữa.

    Chiếc tàu biển từ Yokohama đi San Francisco thuộc công ty "Tàu biển Bưu điện Thái Bình Dương", và tên gọi là Đại tướng Grant. Đó là tàu biển lớn có bánh xe, trọng tải hai nghìn năm trăm tấn, được tổ chức khoa học và có tốc độ lớn. Một quả lắc khổng lồ lần lượt nhấc lên và hạ xuống trên boong tàu; ở một đầu quả lắc có lắp cái trục píttông, và ở đầu kia cái cầu một then chuyền để đổi chuyển động theo đường thẳng thành chuyển động vòng tròn, then chuyền này trực tiếp áp vào trục các bánh xe. Tàu Đại tướng Grant dựng ba cột buồm, và diện tích những cánh buồm của nó trợ lực mạnh mẽ cho hơi nước. Với tốc độ mười hai hải lý một giờ, nó vượt Thái Bình Dương không quá hai mươi mốt ngày. Cho nên Phileas Fogg có cơ sở để tin rằng, đến San Francisco ngày 2 tháng chạp, ông sẽ ở Nữu Ước ngày 11 và ở Luân Đôn ngày 20, như thế về trước vài giờ trong cái ngày 21 tháng chạp đã được số phận quyết định ấy.

    Hành khách trên tàu khá đông, gồm những người Anh, nhiều người Mỹ, một cuộc di cư thật sự những culi sang Châu Mỹ, và một số sĩ quan quân đội Ấn Độ tranh thủ kỳ nghỉ phép của mình đi chơi vòng quanh thế giới.

    Trong cuộc vượt biển này không xảy ra sự cố nào. Chiếc tàu biển được đỡ trên những bánh xe rộng, được tựa vào bộ buồm to lớn, cho nên ít chòng chành. Thái Bình Dương chứng thực khá đúng tên gọi của nó. Ông Fogg cũng vẫn bình tĩnh, vẫn ít cởi mở, như thường lệ. Bà bạn trẻ của ông càng ngày càng gắn bó với con người này bởi nhiều mối dây khác nữa ngoài lòng biết ơn. Cái bản tính lặng lẽ mà rất cao thượng ấy đã xúc động bà nhiều hơn bà tưởng, và gần như không tự biết, bà đã buông thả tình cảm của mình mà vẫn không có vẻ gì động được đến trái tim ông Fogg bí hiểm này.

    Mặt khác, bà Aouda hết sức quan tâm đến những kế hoạch của nhà quý phái. Bà lo ngại những trở lực có thể làm cuộc viễn du phải thất bại. Bà thường hay nói chuyện với Vạn Năng, và anh không phải không đọc được những điều thầm kín trong lòng bà Aouda. Anh đầy tớ trung hậu này giờ đây mang một ít lòng tin thật hồn nhiên đối với chủ của anh; anh hết lời ca ngợi tấm lòng ngay thẳng, cao thượng, hy sinh của Phileas Fogg; rồi anh nói cho bà Aouda yên tâm về kết quả cuộc viễn du, nhắc đi nhắc lại rằng cái điều khó nhất đã xong; rằng họ đã ra khỏi những nước Trung Quốc hay Nhật Bản kỳ quái ấy, rằng họ đang trở về xứ sở văn minh, và cuối cùng một chuyến xe lửa từ San Francisco đi Nữu Ước và một chuyến tàu bể xuyên Đại Tây Dương từ Nữu Ước đi Luân Đôn chắc hẳn cũng đủ để hoàn thành các chuyến đi vòng quanh thế giới vô cùng khó khăn này trong những thời hạn đã định.

    Chín ngày sau khi rời khỏi Yokohama, Phileas Fogg đã đi được đúng một nửa vòng quả địa cầu.

    Thật vậy, ngày 23 tháng mười một, tàu Đại tướng Grant đi qua kinh tuyến một trăm tám mươi, kinh tuyến có điểm đối chân của Luân Đôn ở nam báncầu. Trong số tám mươi ngày được sử dụng, quả thật, ông Fogg đã dùng hết năm mươi hai, và chỉ còn hai mươi tám ngày nữa thôi. Nhưng ta phải để ý rằng nếu nhà quý phái chỉ mới đi được nửa đường về mặt "hiệu số kinh tuyến", thì trên thực tế ông đã hiện được trên hai phần ba toàn bộ cuộc hành trình. Thật vậy, ông đã phải qua biết bao chặng đường quanh co để đi từ Luân Đôn đến Aden, từ Aden đến Bombay, từ Calcutta đến Singapore, từ Singapore đến Yokohama! Nếu cứ đi theo vĩ tuyến năm mươi, là vĩ tuyến của Luân Đôn, quãng đường chỉ vào khoảng một vạn hai nghìn hải lý, nhưng do những rắc rối của phương tiện giao thông, Phileas Fogg bắt buộc phải vượt hai vạn sáu nghìn hải lý, và đến ngày 23 tháng mười một này ông đã đi được khoảng một vạn bảy nghìn năm trăm. Nhưng từ đây đã là đường thẳng, và Fix cũng không còn đó để chồng chất thêm những trở ngại nữa!

    Cũng vào ngày 23 tháng mười một ấy, Vạn Năng cảm thấy một niềm vui lớn. Ta hãy nhớ lại anh chàng ngoan cố cứ khăng khăng giữ cái đồng hồ gia truyền trứ danh của mình theo giờ Luân Đôn xem tất cả những giờ ở các nước anh đi qua là sai tuốt. Nhưng vào ngày hôm ấy, mặc dầu anh không bao giờ vặn giờ lên hoặc vặn xuống, đồng hồ của anh lại thấy phù hợp với những đồng hồ thật đúng trên tàu.

    Nếu Vạn Năng có đắc chí, đó cũng là điều dễ hiểu. Anh rất muốn biết Fix có thể nói điều gì, nếu hắn ta có mặt lúc này, "Cái thằng xỏ lá ấy nó kể lể với ta hàng đống chuyện về những kinh tuyến, về mặt trời, về mặt trăng! – Vạn Năng nói đi nói lại. – Chà! Cái bọn ấy! Nếu nghe theo chúng, người ta sẽ làm ra những đồng hồ chỉ đáng vứt vào xọt rác hết! Ta đã tin chắc đến ngày nào đó mặt trời cũng phải tự điều chỉnh theo đồng hồ của ta!..".

    Vạn Năng không biết đến điều này; nếu mặt đồng hồ của anh chia làm hai mươi bốn giờ như các đồng hồ Ý, anh sẽ không có lý do gì để đắc chí cả, bởi vì vào chín giờ sáng trên tàu, kim đồng hồ của anh sẽ chỉ chín giờ tối; nghĩa là giờ thứ hai mươi mốt kể từ nửa đêm; – một sự khác biệt giữa Luân Đôn và kinh tuyến một trăm tám mươi.

    Nhưng nếu Fix có thể giải thích cái hiệu quả hoàn toàn vật lý ấy, thì Vạn Năng chắc hẳn đến ngay việc thừa nhận nó cũng không đủ khả năng, còn nói gì đến hiểu nó. Và dẫu sao mặc lòng, nếu thử đặt một giả thiết không thể có là viên thanh tra cảnh sát bất thần xuất hiện trên tàu lúc này, thì chắc hẳn, Vạn Năng, vẫn ôm một mối hận thù chính đáng, sẽ giải quyết với ông ta một vấn đề khác hẳn và theo một cách khác hẳn.

    Vậy Fix lúc này đang ở đâu?

    Fix chính là đang ở trên tàu Đại tướng Grant.

    Thật vậy, vừa tới Yokohama, viên thanh tra đã bỏ mặc ông Fogg mà ông ta dự tính sẽ gặp lại trong ngày và đến ngay lãnh sự quán Anh. Tại đây, rốt cuộc ông ta đã thấy lệnh bắt, nó chạy theo sau ông ta từ Bombay, và đến nay đã được bốn mươi ngày, lệnh ấy gửi cho ông từ Hồng Kông bằng chính tàu Carnatic, vì người ta vẫn tưởng ông ta đáp tàu đó. Ta thử hình dung sự thất vọng của viên thám tử! Các lệnh bắt đã thành vô dụng! Tên Fogg đã ra khỏi các thuộc địa Anh. Bây giờ thì phải có một công văn dẫn độ mới bắt được hắn.

    "Được – Fix nghĩ bụng, sau phút giận dữ ban đầu, – cái lệnh bắt của ta không được việc gì ở đây, nó sẽ được việc ở Anh. Tên vô lại này hoàn toàn có vẻ muốn trở về Tổ quốc, hắn tưởng đã đánh lạc hướng sở cảnh sát. Được. Ta sẽ theo hắn về đến đó. Còn số tiền, cầu trời cho nó vẫn còn! Nhưng với các khoản chi phí đi đường, tiền treo thưởng, kiện tụng, nộp phạt, mua voi, và đủ mọi thứ chi tiêu khác, tên trộm của ta đã rắc dọc đường trên năm nghìn livrơ. Dẫu sao thì Ngân hàng vẫn cứ giàu!".

    Kế hoạch đã định, ông ta xuống ngay tàu Đại tướng Grant. Ông ta đang ở trên tàu thì ông Fogg và bà Aouda đến. Ông ta vô cùng kinh ngạc khi nhận ra Vạn Năng trong bộ quần áo vị sứ giả thần linh của anh. Ông ta vội trốn về buồng, để tránh một sự đôi co có thể làm hỏng hết mọi việc, và, nhờ tàu đông, ông ta hy vọng có thể không bị kẻ thù trông thấy, thì đúng ngay hôm ấy ông lại chạm trán với anh ta ở mũi tàu.

    Vạn Năng không lôi thôi gì cả xông vào túm lấy cổ Fix, và trước sự khoái trá của một số người Mỹ lúc ấy đã đánh cuộc là anh được, anh giáng cho viên thanh tra khốn khổ một cú đấm bay người thật đẹp mắt, nó chứng minh sự hơn hẳn của môn quyền Pháp đôi với môn quyền Anh.

    Đấm xong, Vạn Năng thấy trong lòng yên tĩnh hơn và như đã trút đi được một gánh nặng. Fix lồm cồm bò dậy khá thảm hại, và nhìn đối thủ của mình, ông ta lạnh lùng nói:

    – Xong chưa?

    – Hiện nay thì tạm xong.

    – Thế thì lại đây nói chuyện với tôi.

    – Tao mà..

    – Vì lợi ích của ông chủ anh.

    Vạn Năng như bị chinh phục bởi sự bình tĩnh đó, đi theo viên thanh tra cảnh sát, và hai người ngồi ở đằng mũi tàu.

    – Anh đã nện tôi, – Fix nói, – Được. Bây giờ thì anh hãy nghe tôi nói. Cho đến nay tôi đã là địch thủ của ông Fogg, nhưng bây giờ tôi ủng hộ công việc

    Của ông ta.

    – Thế chứ! – Vạn Năng kêu lên, – anh đã thấy ông ấy là người tử tế rồi hả?

    – Không, – Fix lạnh lùng đáp lại. – Tôi cho rằng hắn là một tên vô lại.. Yên! Anh cứ ngồi yên để tôi nói. Chừng nào ông Fogg còn ở trên các thuộc địa Anh, lợi ích của tôi là giữ chân ông ta lại để đợi lệnh bắt. Tôi đã làm tất cả vì việc đó. Tôi đã đẩy bọn giáo sĩ ở Bombay ra chống lai ông ta; tôi đã chuốc cho anh say ở Hồng Kông, tôi đã chia lìa anh với ông chủ của anh, tôi đã làm ông ta phải nhỡ chuyến tàu biển đi Yokohama..

    Vạn Năng nghe, hai bàn tay nắm chặt lại.

    "Bây giờ, – Fix lại nói, – ông Fogg có vẻ như đang trở về nước Anh? Được, tôi sẽ theo ông ta. Nhưng, từ nay trở đi, tôi sẽ gạt bỏ mọi trở ngại trên đường đi của ông, cũng với tất cả sự quan tâm và tích cực như trước kia tôi đã chồng chất những trở ngại ấy. Anh thấy đấy, nước cờ của tôi đã thay đổi, và nó thay đổi vì lợi ích của tôi đòi hỏi như thế. Tôi nói thêm rằng lợi ích của anh cũng giống của tôi, bởi vì chỉ ở nước Anh thôi anh mới biết được anh làm việc cho một tên tội phạm hay một người lương thiện!"

    Vạn Năng rất chăm chú nghe Fix, và anh tin chắc rằng Fix hoàn toàn nói thật lòng.

    – Chúng ta là bạn với nhau chăng? – Fix hỏi.

    – Bạn à, không, – Vạn Năng đáp. – Đồng minh, được, nhưng cũng còn phải xét kỹ xem đã, vì chỉ cần một chút dấu hiệu phản bội là tôi sẽ vặn cổ anh ngay.

    – Đồng ý, – viên thanh tra cảnh sát điềm tĩnh nói.

    Mười một ngày sau, ngày 3 tháng chạp, tàu Đại tướng Grant tiến vào vịnh Cửa Vàng và đến San Francisco.

    Ông Fogg vẫn còn chưa được lợi hoặc bị thiệt một ngày nào.
     
    Heo Bảo Bảotatsuno jin thích bài này.
  6. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,903
    Chương 25 – San Francisco trong một ngày mít tinh

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Bảy giờ sáng, Phileas Fogg, bà Aouda, và Vạn Năng đặt chân lên lục địa Châu Mỹ, nếu người ta vẫn có thể dùng tên ấy để gọi cái bến nổi họ bước từ dưới tàu lên. Những cái bến này, dâng lên và hạ xuống theo nước thủy triều, giúp cho việc bốc hàng và dỡ hàng của tàu bể được dễ dàng hơn. Tại đây, cập bến những tàu buồm đủ mọi cỡ, những tàu biển đủ mọi quốc tịch, và những tàu thủy nhiều tầng phục vụ trên sông Sacramento và các chi lưu của nó. Tại đây, cũng chất đầy những sản vật của một nền thương mại mở rộng đến tận Mexique, Pérou, Chili, Brésil, Châu Âu, Châu Á và tất cả các hòn đảo của Thái Bình Dương.

    Trong niềm vui vì cuối cùng cũng đã được đặt chân lên đất Mỹ, Vạn Năng tự thấy phải thực hiện cuộc đổ bộ của mình bằng một cái nhảy lộn tùng phèo theo kiểu đẹp mắt nhất. Nhưng khi rơi xuống cái bến mà sàn gỗ đã mọt, anh suýt nữa bị thụt. Mắc cỡ về cái cách "đặt chân" lên tân-đại-lục, chàng trai ngay thật kêu lên một tiếng ghê gớm làm bay vù cả một bầy đông nhung nhúc chim cốc và chim bồ nông, những vị khách quen thuộc của các bến di động.

    Ông Fogg vừa lên bờ đã hỏi ngay giờ khởi hành của chuyến xe lửa đầu tiên đi Nữu Ước. Đó là sáu giờ chiều. Như vậy ông Fogg có cả một ngày trọn vẹn ở thủ đô bang Californie. Ông gọi một cái xe cho bà Aouda và cho ông, Vạn Năng trèo lên ghế đằng trước, và cái xe, với giá thuê ba đôla một chuyến, tiến về khách sạn Quốc Tế.

    Từ chỗ ngồi cao của mình, Vạn Năng tò mò quan sát cái thành phố lớn nước Mỹ; những phố rộng, nhưng ngôi nhà thấp thẳng hàng tăm tắp, những nhà thờ và đền dài kiểu gô tích "Anglê – Xaxông" những bến tàu rộng bao la, những nhà kho như những lâu đài này bằng gỗ, cái kia bằng gạch; trong các phố xe cộ đông đúc, nào ô tô chở khách, nào tàu điện, và trên các vỉa hè thì chen chúc không chỉ người Mỹ và người Châu Âu mà cả người Trung Quốc và Ấn Độ, tóm lại tất cả những gì để tạo nên một dân số trên hai mươi vạn người.

    Vạn Năng khá ngạc nhiên trước những điều mắt thấy. Anh vẫn còn vương vấn hình ảnh một thành phố truyền thuyết của năm 1894, một thành phố của những tên tướng cướp, những tên đốt nhà và giết người lao vào cuộc chiếm đoạt những thỏi vàng sống, một nơi mênh mông chứa tất cả những kẻ lang bạt kỳ hồ, ở đó người ta đánh bạc bằng vàng bột, khẩu súng lục tay này và con dao tay kia. Nhưng "cái thời hoàng kim" ấy đã qua rồi. San Francisco mang cảnh tượng một thành phố thương mại lớn. Cái tháp cao của tòa thị chính, trênđó những lính cảnh vệ đứng canh gác, vượt lên tất cả các phố xá và đại lộ chạy ngang dọc theo đường vuông góc, ở giữa các góc ấy xanh rờn những công viên, rồi một thành phố Trung Quốc hình như đã được nhập cảng từ vương quốc Thiên triều về đây trong hộp đồ chơi trẻ con. Không còn những mũ rộng vành, không còn những sơ mi đỏ theo mốt của những kẻ đi săn tìm mỏ vàng, không còn những người dân da đỏ cắm lông trên đầu, mà là những mũ lụa và áo quần đen của nhiều nhà quý phái luôn sôi lên một hoạt động háo hức. Một vài phố, trong đó có phố Montgommery, cũng như phố Regent ở Luân Đôn, đại lộ những người Ý ở Paris, đường Quảng Lộ ở Nữu Ước, có những cửa hàng lộng lẫy bày trên quầy hàng những sản vật của toàn thế giới.

    Đến khách sạn Quốc Tế, Vạn Năng thấy như mình vẫn đang ở nước Anh.

    Tầng dưới của khách sạn dành cho một quán rượu rộng mênh mông, một thứ quán ăn không mất tiền mở ra cho mọi khách qua lại. Thịt khô, xúp trai, bánh bích-quy và pho-mát được dùng ở đây không phải trả tiền. Khách ăn chỉ trả tiền uống rượu, rượu bia Anh, rượu vang Bồ Đào Nha, rượu vang hảo hạng Tây Ban Nha, nếu anh ta cao hứng lên muốn uống. Điều này Vạn Năng thấy có vẻ "rất Mỹ".

    Nhà ăn của khách sạn khá sang trọng, ông Fogg và bà Aouda ngồi vào bàn ăn, món ăn ê hề bày trong những đĩa nhỏ xinh được phục vụ bởi người da đen có màu da đen nhánh.

    Ăn sáng xong, ông Phileas Fogg với bà Aouda cùng đi, rời khách sạn để đến lãnh sự quán Anh xin thị thực vào giấy hộ chiếu. Vừa ra đến hè đường ông gặp người hầu của ông, anh hỏi ông trước khi đi lên xe lửa tuyến đường sắt Thái Bình Dương, có nên cẩn thận mua lấy vài tá súng cácbin Enfield hoặc súng lục Colt không. Vạn Năng đã nghe nói đến chuyện những người Sioux và Pawnee chặn cướp các đoàn tàu như những kẻ cắp Tây Ban Nha bình thường. Ông Fogg trả lời đó là một sự phòng bị vô ích, nhưng ông để anh tự do hành động như anh muốn. Rồi ông đến lãnh sự quán.

    Phileas Fogg chưa đi được hai trăm bước thì, "do một sự tình cờ kỳ lạ nhất trên đời", ông gặp Fix, viên thanh tra tỏ vẻ vô cùng kinh ngạc. Ô hay! Ông Fogg và ông đã đi cùng với nhau một chuyến vượt biển Thái Bình Dương mà sao không gặp nhau trên tàu! Dẫu sao thì Fix chỉ có thể lấy làm vinh dự được gặp lại nhà quý phái mà ông đội ơn biết bao nhiêu, và, do công việc gọi về Châu Âu, ông sẽ vô cùng sung sướng được tiếp tục cuộc hành trình với một người bạn đồng hành dễ thương đến thế.

    Ông Fogg đáp lại chính ông là người được vinh dự, thế là Fix – vốn không muốn mất hút ông ta – xin phép được cùng đi với ông thăm thành phố San Francisco kỳ lạ. Phileas Fogg nhận lời.

    Vậy là bà Aouda, Phileas Fogg và Fix dạo chơi các phố. Chẳng mấy chốchọ đến phố Montgommery, theo làn sóng khổng lồ của quần chúng đổ xô đến phố này. Trên hè, giữa đường, trên đường tàu điện, xe ngựa và ô tô chở khách vẫn qua lại không ngừng, nhưng ở bậc các cửa hàng, ở cửa sổ tất cả mọi ngôi nhà, và thậm chí trên cả các mái nhà, người đông vô kể. Những người đeo biển quảng cáo đi đi lại lại giữa các tốp người tụ họp. Cờ và băng phấp phới trước gió. Những tiếng hô vang khắp nơi.

    – Hoan hô Kamerfield!

    – Hoan hô Mandiboy!

    Một cuộc mít tinh. Ít ra đó là ý nghĩ của Fix, ông trao đổi ý nghĩ ấy với ông Fogg và nói thêm:

    – Thưa ông có lẽ chúng ta không nên dính dáng đến cái đám nhốn nháo này. Kẻo không lại tai bay vạ gió.

    – Đúng thế. – Phileas Fogg đáp, – và những quả đấm, dù làm chính trị, vẫn cứ là những quả đấm!

    Fix tự thấy cũng nên mỉm cười khi nghe lời nhận xét đó, và để xem được mà không bị lôi cuốn vào đám đông hỗn độn, Bà Aouda, Phileas Fogg và ông trèo lên bậc trên cùng của một thềm tam cấp đi lên một bãi đất cao ở đầu phố Montgommery. Trước mắt họ, bên kia đường phố, giữa cái sân của một nhà buôn than và cửa hàng một nhà buôn dầu hỏa dựng lên một văn phòng bề thế ngay giữa trời, những dòng người từ các hướng khác nhau hình như đổ dồn cả về đây.

    Tại sao có cuộc mít tinh này? Nó được tổ chức nhân dịp nào? Phileas Fogg hoàn toàn không biết. Có phải nhân sự bổ dụng một công chức cao cấp quân sự, một thống đốc bang hoặc một nghị sĩ Quốc hội? Có thể như vậy lắm, cho nên mới thấy cảnh náo nhiệt khác thường đang sôi sục trong thành phố như thế.

    Lúc này đám đông rùng rùng chuyển động. Mọi cánh tay đều giơ lên trời. Một vài bàn tay nắm chặt, hình như vung lên hạ xuống thật nhanh giữa những tiếng hò hét – đây hẳn là một cách kiến nghị để biểu quyết. Đám đông xô đẩy nhau như nước xoáy, cuốn lên rồi lùi xuống. Những lá cờ ngả nghiêng, biến đi một lúc rồi lại hiện ra rách tơi tả. Làn sóng người tràn ra đến tận bậc tam cấp, trong khi tất cả mọi cái đầu cùng nhấp nhô như một mặt biển đột nhiên cuộn lên trong cơn giông tố. Con số những mũ đen giảm đi trông thấy, và phần lớn hình như không còn giữ được chiều cao bình thường của chúng.

    "Đây hẳn là một cuộc mít tinh. – Fix nói – và vấn đề của nó chắc phải hết sức thú vị. Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu đây vẫn còn là chuyện Alabama. Mặc dầu vụ nầy đã giải quyết xong rồi.

    – Có thể, – Ông Fogg bình thản nói.

    – Dẫu sao đi nữa. – Fix lại nói, ở đây cũng có hai tuyển thủ đối mặt nhau, ngài Kamerfield đáng kính và ngài Mandiboy đáng kính."

    Bà Aouda, bám vào cánh tay Phileas Fogg, kinh ngạc nhìn cảnh tượng hỗn loạn ấy, và Fix sắp hỏi một người đứng canh vì sao lòng dân sôi sục như thế, thì cuộc xô xát lại diễn ra kịch liệt hơn nữa. Tiếng hoan hô lẫn tiếng chửi rủa tăng lên gấp bội. Cán cờ biến thành vũ khí tấn công. Không còn những bàn tay, mà khắp nơi là nắm đấm. Từ trên nóc những xe vận tải và ô tô chở khách đang chạy bị chặn lại giữa đường, người ta đấm đá nhau dữ dội. Cái gì cũng dùng làm đạn được. Những chiếc giầy ống và giầy ngắn cổ vẽ trên không những đường đạn rất căng, và hình như có cả vài khẩu súng lục hòa giọng vào những lời gào thét của đám đông.

    Đám người hỗn loạn tràn đến gần bậc tam cấp và dồn tới nhũng bậc đầu tiên. Rõ ràng một trong hai phe đã bị đẩy lùi, nhưng các khán giả bình thường vẫn chưa thể nhận ra phần thắng về phía Mandiboy hay Kamerfield.

    "Tôi thấy ta nên cẩn thận rút lui là hơn. – Fix nói, không muốn để" người của ông "bị đòn đau hoặc dính vào một chuyện chẳng lành. – Nếu cây là một vấn đề về nước Anh và họ lại nhận ra chúng ta là người Anh, ta sẽ bị lôi thôi to trong cái vụ hỗn độn này!

    – Một công dân Anh.." Phileas Fogg đáp.

    Nhưng nhà quý phái chưa kịp nói hết câu. Phía sau ông từ cái sân bãi liền ngay bậc tam cấp vang lên những tiếng la thét khủng khiếp. Người ta gào lên: "Hoan hô! Híp! Híp! Mandiboy!" Đó là một tốp cử tri đến tiếp viện, đánh ngang sườn phe Kamerfield.

    Ông Fogg, bà Aouda, Fix bị kẹp giữa hai làn đạn. Muốn thoát ra cũng muộn quá rồi. Cái thác người ấy, vũ trang bằng những gậy bịt chì và chùy, không có sức gì cản nổi. Để bảo vệ người thiếu phụ, bị xô đẩy ghê gớm. Ông Fogg. Vẫn lạnh như tiền chẳng kém gì thường lệ, muốn chống đỡ bằng những vũ khí tự nhiên được trời đặt vào đầu cánh tay mọi người Anh, nhưng vô hiệu. Một anh chàng hộ pháp có chòm râu cằm đỏ, nước da hồng hào, vai rộng, hình như là tay đầu đảng, giơ cao nắm đấm khủng khiếp của anh ta giáng xuống đầu ông Fogg, và anh ta hẳn đã làm nhà quý phái khốn to nếu Fix không hy sinh nhận lấy cú đấm thay ông. Một cái bướu to tướng lập tức sưng vù lên dưới mũ viên thám tử, và cái mũ đã biến thành thứ mũ không vành như của các vị quan tòa và trạng sư vẫn đội.

    – Đồ Yankee! – ông Fogg nói, ném vào mặt địch thủ của ông một cái nhìn khinh bỉ.

    – Thằng Anh Cát Lợi! – người kia đáp lại.

    – Ta sẽ còn gặp nhau!

    – Khi nào anh muốn. Tên anh?

    – Phileas Fogg. Còn anh?

    – Đại tá Stamp W. Proctor.

    Vừa nói xong, thì biển người tràn qua. Fix bị xô ngã rồi lại chồm dậy, quần áo rách nhưng không có thương tích nào nặng nề. Chiếc áo bành tô đi đường của ông bị xé toạc làm hai mảnh không đều, và quần ông giống như thứ quần của một số người da đỏ – "mốt" của họ – chỉ mặc sau khi đã khoét đũng quần đi. Nhưng rốt cuộc thì Bà Aouda vẫn yên lành, và duy chỉ có Fix là đã xơi ngon quả đấm.

    "Cám ơn ông, – ông Fogg nói với viên thanh tra, sau khi họ đã ra khỏi đám đông.

    – Có gì đâu. – Fix đáp, – nhưng ông đi với tôi.

    – Đi đâu bây giờ?

    – Đến một cửa hàng may mặc."

    Thật vậy, đến đó là phải. Áo quần Phileas Fogg và Fix rách tả tơi. Cứ như hai nhà quý phái này đã chiến đấu cho các vị Kamerfield và Mandiboy đáng kính vậy.

    Một giờ sau, họ đã quần áo mũ mãng chỉnh tề. Rồi trở về Khách sạn Quốctế.

    Tại đây. Vạn Năng đang đợi ông chủ anh, anh đã sắm được nửa tá súng lục

    Có lắp dao găm, bắn sáu phát và phát hỏa ở giữa. Khi thấy Fix cùng đi với ông Fogg, anh sầm mặt lại. Nhưng Bà Aouda kể vắn tắt câu chuyện vừa xảy ra. Vạn Năng lại tươi tỉnh lên. Rõ ràng Fix không phải là kẻ thù nữa, mà là bạn đồng minh. Ông ta đã giữ đúng lời hứa.

    Ăn tối xong, một xe ngựa đến chở các hành khách cùng hành lý ra ga. Lúc lên xe, ông Fogg nói với Fix:

    – Ông không gặp lại tên đại tá Proctor đó ư?

    – Không. – Fix đáp.

    – Tôi sẽ quay lại Châu Mỹ tìm hắn, – Phileas Fogg lạnh lùng nói. – Một công dân Anh không thể để người ta đối xử với mình như thế được.

    Viên thanh tra mỉm cười không đáp lại. Nhưng, như ta thấy, ông Fogg thuộc loại những người Anh không dung thứ chuyện quyết đấu trong nước họ, nhưng lại quyết đấu ở nước ngoài khi cần phải bảo vệ danh dự của mình.

    Sáu giờ kém mười lăm, các hành khách tới ga và tàu đã sẵn sàng chuyển bánh.

    Lúc sắp lên tàu, ông Fogg tiến theo một viên chức hỏi:

    – Ông bạn này, hôm nay có vụ biến loạn gì ở San Francisco thế?

    – Thưa, đó là một cuộc mít tinh, – người viên chức đáp.

    – Thế mà phố xá cứ nhốn nháo thế nào ấy.

    – Cũng chỉ là một cuộc mít tinh vận động bầu cử thôi ạ.

    – Chắc là bầu một vị đại tướng tổng tư lệnh? – Ông Fogg hỏi.

    – Thưa không ạ, một quan tòa hòa giải.

    Nghe xong câu trả lời. Phileas Fogg lên tàu, và đoàn tàu băng mình hết tốc lực.
     
    Heo Bảo Bảotatsuno jin thích bài này.
  7. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,903
    Chương 26 – Trên đoàn tàu tốc hành tuyến đường sắt Thái Bình Dương

    Bấm để xem
    Đóng lại
    "Từ Đại dương đến Đại dương", những người Mỹ vẫn nói như thế, và mấy tiếng ấy đáng lẽ phải là tên gọi chung của "trục đường lớn" xuyên qua nước Hoa Kỳ theo bề ngang rộng nhất của nó. Nhưng trên thực tế, con "Đường sắt Thái Bình Dương" chia làm hai phần tách biệt: "Thái Bình Dương Trung tâm" ở giữa San Francisco và Ogden, và "Thái Bình Dương Liên hợp" ở giữa Ogden và Omaha. Nơi đây là đầu mối của năm tuyến đường đặc biệt, đặt Omaha trong mối liên lạc thường xuyên với Nữu Ước.

    Như vậy, Nữu Ước và San Francisco hiện nay được nối liền với nhau bởi một dải đường sắt liên tục không dưới ba nghìn bảy trăm tám mươi sáu dặm. Giữa Omaha và Thái Bình Dương, con đường sắt băng qua một miền còn dân da đỏ và thú dữ, – một lãnh thổ rộng lớn do những người Mormon bắt đầu khai khẩn vào khoảng 1845, sau khi đã bị xua đuổi khỏi bang Illinois.

    Xưa kia, trong những hoàn cảnh thuận lợi nhất, người ta phải mất sáu tháng để đi từ Nữu Ước đến San Francisco. Bây giờ chỉ mất có bảy ngày.

    Chính là vào năm 1862, mặc dầu sự phản đối của các nghị sĩ miền Nam muốn có một tuyến đường thiên xuống phía Nam hơn, lối đi của con đường sắt đã được quyết định giữa vĩ tuyến bốn mươi mốt và vĩ tuyến bốn mươi hai. Tổng thống Lincoln, con người mà cái chết để lại biết bao thương tiếc, đã đích thân ấn định khởi điểm của hệ thống đường sắt mới là ở thành phố Omaha, trong bang Nebraska. Công việc lập tức được khai triển với tinh thần tích cực của người Mỹ vốn rất xa lạ với thói giấy tờ quan liêu. Sự khẩn trương của thi công không hại gì đến chất lượng con đường. Ở đồng bằng mỗi ngày đặt một dặm rưởi. Một đầu tàu hỏa lăn bánh trên đường ray của ngày hôm trước, đem đến đường ray cho ngày hôm sau, và những đường ray này đặt đến đâu thì đầu tàu chạy ngay đến đó.

    Trên dọc đường của nó, con đường sắt Thái Bình Dương chẽ ra nhiều nhánh ở các bang Iowa, Kansas, Colorado và Oregon. Rời khỏi Omaha, nó chạy dọc tả ngạn sông Platte đến tận cửa sông của nhánh sông phía bắc, đi theo nhánh sông phía nam, băng qua miền Laramie và dãy núi Wahsatch, vòng quanh bờ Hồ Mặn, đến thành phố Hồ Mặn, thủ đô của những người Mormon, dấn sâu vào lưu vực sông Tuilla, đi dọc sa mạc Châu Mỹ, những ngọn núi Cédar và Humboldt, sông Humboldt, sông Sierra Nevada, rồi lại xuôi theo sông Sacramento xuống tận Thái Bình Dương, mà con đường sắt ấy không vì độ dốc mà dài thêm quá một trăm mười dặm hai piê trên một dặm ngay cả khi qua vùng Núi Đá.

    Tuyến đại lộ mà các đoàn tàu phải đi trong bảy ngày là như thế, và nó sắp cho phép ngài Phileas Fogg đáng kính tới kịp – ít ra ông cũng hy vọng như vậy – chuyến tàu bể đi Liverpool vào ngày 11 ở Nữu Ước.

    Toa tàu ông Phileas Fogg ngồi như một thứ ô tô chở khách dài đặt trên hai bệ, mỗi bệ bốn bánh xe, sự cơ động ấy cho phép qua được những khúc đường cong có bán kính nhỏ. Bên trong toa tàu không chia thành từng ngăn; hai dãy ghế đặt hai bên, thẳng góc với trục bánh xe, giữa để một lối đi dẫn đến những buồng rửa mặt và các buồng khác mà toa nào cũng có. Suốt dọc con tàu, các toa thông với nhau bằng những cầu nối, và các hành khách có thể đi lại từ đầu đến cuối đoàn tàu, tới những toa phòng khách, toa trần, toa ăn, toa giải khát. Chỉ còn thiếu toa rạp hát. Nhưng một ngày mai những toa này rồi cũng có.

    Trên các cầu nối toa đi lại không ngớt những người bán sách báo và người bán rượu, bán thực phẩm, bán thuốc lá, mà khách mua lúc nào cũng sẵn.

    Hành khách ra đi từ ga Oakland lúc sáu giờ chiều. Bây giờ đã là đêm, một đêm lạnh, tối mù mịt; bầu trời u ám với những đám mây muốn tan ra thành tuyết. Con tàu chạy không nhanh lắm. Kể cả lúc tàu đỗ, nó không đi được quá hai mươi dặm một giờ, tuy vậy tốc độ này vẫn cho phép nó băng qua nước Hoa Kỳ trong thời gian quy định.

    Trong toa người ta ít nói chuyện. Vả chăng các hành khách đều buồn ngủ. Vạn Năng ngồi gần viên thanh tra cảnh sát, nhưng không trò chuyện gì với ông ta. Sau những sự việc gần đây, quan hệ giữa họ lạnh nhạt hẳn đi. Không còn cảm tình, không còn thân mật gì với nhau nữa. Fix trước sau vẫn thế, Vạn Năng, ngược lại, hết sức giữ miệng, sẵn sàng bóp cổ ông bạn cũ vì một chút nghi ngờ nhỏ nhất.

    Đoàn tàu khởi hành được một giờ thì tuyết rơi – một thứ tuyết mỏng, may mắn thay, không thể làm chậm tốc độ con tàu. Qua các cửa sổ chỉ còn thấy một màn trắng mông mênh, trên đó những dải khói tàu cuộn lên xam xám.

    Đến tám giờ, một nhân viên trên tàu bước vào toa và loan báo với các hành khách đã đến giờ đi ngủ. Toa tàu này là một "toa nằm", và chỉ trong vài phút đã biến thành phòng ngủ. Những lưng tựa của các ghế dài được gập lại, những giường nằm gói bọc cẩn thận được trải ra nhờ một cách bố trí rất khéo, toa tàu được ngăn ra ngay thành từng buồng, và mỗi hành khách chẳng mấy chốc đã có một cái giường tiện lợi được những tấm màn dày che kín khỏi mọi con mắt tò mò. Nệm trắng, gối êm. Chỉ còn việc nằm và ngủ – việc ấy mọi người đều làm, chẳng khác gì đang ở trong căn buồng đầy đủ tiện nghi của một tàu bể, – trong khi đó thì con tàu phóng hết tốc lực qua bang Californie.

    Địa hạt nằm giữa San Francisco và Sacramento này tương đối bằng phẳng. Đoạn đường xe lửa mang tên "Đường sắt Thái Bình Dương Trung Tâm" trước tiên xuất phát từ Sacramento, rồi tiến về phía đông gặp con đường sắt từ Omaha lại. Từ San Francisco đến thủ đô bang Californie, con đường sắt chạy thẳng lên đông bắc, dọc theo sông Mỹ Châu, con sông đổ vào vịnh San Pablo. Quãng đường một trăm hai mươi dặm nằm giữa hai thành phố quan trọng này được vượt qua trong sáu giờ, và vào khoảng nửa đêm, khi các hành khách mới chợp mắt được ít lâu, họ đã đi qua Sacramento. Vậy là họ không nhìn được gì ở cái thành phố lớn này, thủ phủ của cơ quan lập pháp bang Californie, không nhìn thấy những bến tàu ngoạn mục của nó. Những đường phố rộng, những khách sạn tráng lệ của nó, những công viên, những đền đài của nó.

    Ra khỏi Sacramento, con tàu, sau khi đã qua các ga Junction, Roclin, Auburn và Colfax, tiến vào dãy núi Sierra Nevada. Bảy giờ sáng thì tàu qua ga Cisco. Một giờ sau, phòng ngủ lại trở thành một toa tàu bình thường, và các hành khách có thể qua cửa kính thoáng nhìn thấy những cảnh ngoạn mục của xứ miền núi này. Tuyến đường sắt uốn theo địa thế gập ghềnh khúc khuỷu của dãy Sierra, chỗ này nó bám vào sườn núi, chỗ kia nó treo trên vực thẳm, khi thì tránh những góc đột ngột bằng những đường "cua" táo bạo, khi thì lao vào các hẻm núi chật hẹp tưởng chừng không lối ra. Cái đầu tàu, lấp lánh như một hòm đựng xương thánh, với cái đèn hiệu lớn hắt ra một ánh sáng đỏ quạch, cái chuông trắng như bạc, cái "gậy đuổi bò" vươn ra như một đinh thúc ngựa, hòa những tiếng rít và tiếng gầm của nó vào tiếng suối chảy xiết và tiếng thác đổ ầm ầm, và quấn làn khói của nó vào vòm lá đen của những cây phong.

    Trên chặng đường này ít có hoặc không có đường hầm và cầu. Con đường sắt chạy vòng quanh các sườn núi, không tìm con đường thẳng ngắn nhất từ điểm này sang điểm khác, và không cưỡng lại địa thế tự nhiên của trời đất.

    Vào khoảng chín giờ, qua thung lũng Carson, con tàu tiến vào bang Nevada, luôn luôn theo hướng đông bắc. Đến trưa, nó rời ga Reno, sau khi các hành khách đã có hai mươi phút nghỉ ăn trưa tại dây.

    Kể từ điểm này, con đường sắt chạy ven sông Humboldt, theo dòng sông ngược lên hướng bắc trong vài dặm. Rồi nó ngả về phía đông, và không rời dòng sông cho đến khi bắt gặp dãy núi Humboldt, nơi bắt nguồn của con sông, ở gần đầu cùng phía đông của bang Nevada.

    Sau bữa ăn trưa, ông Fogg, bà Aouda và các bạn bè của họ lại về chỗ ngồi trong toa tàu. Phileas Fogg, người thiếu phụ, Fix và Vạn Năng ngồi nhàn nhã ngắm cảnh vật thay đổi diễu qua trước mắt mình – những đồng cỏ rộng, những ngọn núi in hình phía chân trời, những vũng nước cuộn sóng bạc đầu. Có khi một đàn bò tót rất đông, tụ tập từ xa, hiện ra như một cái đê di động. Những đội quân di động trùng trùng điệp diệp ấy nhiều khi thành vật chướng ngại mà con tàu không vượt nổi. Người ta từng thấy hàng nghìn con vật ấychen chúc nhau diễu đi hết giờ này qua giờ khác băng qua đường sắt. Khi đó cái đầu tàu bắt buộc phải dừng lại và đợi cho đến khi con đường sắt được giải tỏa.

    Đó chính là điều xảy ra lần này. Vào khoảng ba giờ chiều một đàn từ mười nghìn đến mười hai nghìn con chắn ngang đường ray. Con tàu, sau khi đã giảm bớt tốc độ, cố thử thúc cái "đinh thúc ngựa" của nó vào sườn đội quân lớn mênh mông. Nhưng nó phải dừng lại trước cái khối đặc không xuyên qua được ấy.

    Người ta thấy những con vật nhai lại này – những "con trâu", như người Mỹ vẫn gọi sai đi – thủng thẳng bước đi như thế, thỉnh thoảng rống lên những tiếng ghê gớm. Chúng có một thân hình lớn hơn những con bò mộng châu Âu, chân và đuôi ngắn, vai u lên thành một cái bướu thịt, sừng roãng ra, đầu, cổ và vai phủ một cái bờm dài. Không nên nghĩ đến việc chặn cuộc di cư này lại. Khi những con bò tót đã chọn một hướng đi, không gì ngăn chặn hoặc thay đổi được cuộc diễu hành của chúng. Đó là một dòng thác thịt sống mà không một cái đê nào có thể cản được.

    Hành khách đứng tản mác trên các hiên đầu toa, ngắm nhìn cái cảnh kỳ lạ này. Nhưng con người đáng lẽ phải vội hơn ai hết là Phileas Fogg thì vẫn ngồi nguyên tại chỗ và chờ đợi như một nhà triết học những con trâu ấy vui lòng nhường đường cho ông. Vạn Năng giận điên lên vì sự chậm trễ do khối quần tụ súc vật này gây ra. Anh hẳn muốn bắn sả vào chúng bằng cả cái kho súng lục của anh.

    "Cái xứ quái gở! – anh kêu lên! – chỉ bò mà cũng chặn được tàu, và xem chúng đi kia, dẫn rượu, chẳng vội vã gì hơn khi chúng không cản trở giao thông! Mẹ kiếp! Không biết ông Fogg có dự kiến cái trở ngại này trong chương trình của ông không! Và thợ máy gì mà chẳng dám lao tàu qua cái đám súc vật chướng ách ấy!"

    Người thợ máy không cố lật đổ vật chướng ngại, và anh ta làm thế là khôn ngoan. Chắc hẳn anh ta có thể nghiền nát những con trâu đầu tiên bị cái "đinh thúc ngựa" của đầu tàu đánh ngã, nhưng dù con tàu có khoẻ đến đâu chẳng mấy chốc cũng sẽ bị chặn lại, không tránh khỏi trật bánh và lâm nạn.

    Vậy thời tốt hơn hết là kiên tâm chờ đợi, rồi sau sẽ gỡ lại thời gian đã mất bằng cách tăng tốc nhanh tốc độ con tàu. Cuộc diễu hành của đàn bò lót kéo dài ba giờ đằng đẵng, và con đường sắt chỉ được giải phóng vào chập tối. Lúc này, những hàng cuối cùng của đàn bò vượt qua đường ray, trong khi những hàng đầu đã mất hút dưới đường chân trời phương nam.

    Vậy là vào tám giờ, đoàn tàu vượt qua những đường hẻm núi của dãy núi Humboldt, và chín giờ rưỡi nó tiến vào địa hạt Utah, vùng Hồ Mặn rộng lớn, xứ sở kỳ lạ của những người Mormon.
     
    Heo Bảo Bảotatsuno jin thích bài này.
  8. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,903
    Chương 27 – Học giáo trình lịch sử Mormon với tốc độ hai mươi dặm một giờ

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Đêm mồng 5 rạng ngày mồng 6 tháng Chạp, đoàn tàu chạy về đông nam trên một quãng đường khoảng năm mươi dặm: Rồi nó ngược lên đông bắc cũng với chừng ấy đường dài, tiến tới Hồ Mặn rộng lớn.

    Vào khoáng chín giờ sáng. Vạn Năng đến hóng gió ở các hiên đầu toa. Trời lạnh, bầu trời xám, nhưng tuyết không rơi nữa. Vầng kim ô nở to vì sương mù, hiện ra như một đồng tiền vàng khổng lồ, và Vạn Năng đang thử tính toán giá trị của nó ra đồng bảng Anh, thì sự xuất hiện một nhân vật khá kỳ quặc làm anh lãng quên cái công việc bổ ích ấy.

    Nhân vật này lên tàu từ ga Elko, là một người cao lớn, da nâu sẫm, ria mép đen, chân đi bít tất dài đen, đầu đội mũ lụa đen, mặc áo ghi lê đen, quần dài đen, cà vạt trắng, tay đeo găng da chó. Người ta có thể đoán là một giáo sĩ. Ông ta đi từ đầu tàu đến cuối tàu, và trên cánh cửa mỗi toa tàu, ông dán một bản thông cáo viết tay.

    Vạn Năng bước tới đọc bản thông cáo và được biết rằng vị "lão trượng" đáng kính William Hitch, giáo sĩ Mormon, nhân dịp ngài có mặt trên tàu số 48, sẽ tiến hành, từ 11 giờ đến giữa trưa, trong toa số 117, một cuộc diễn thuyết về đạo giáo Mormon, ngài mời đến dự cuộc diễn thuyết tất cả các nhà quý phái muốn quan tâm tìm hiểu những bí ẩn của tôn giáo các "Vị Thánh những ngày tận thế".

    "Thế nào ta cũng đến". – Vạn Năng nghĩ bụng, về đạo giáo Mormon anh mới chỉ biết cái tục đa thê của nó. Nền tảng của xã hội người Mormon.

    Tin này truyền đi nhanh chóng trong đoàn tàu có khoảng một trăm hành khách. Trong số đó chỉ ba mươi người là cùng, hào hứng vì thấy cuộc diễn thuyết có vẻ hứa hẹn lắm điều lý thú, đã đến từ 11 giờ chiếm những hàng ghế dài của toa tàu 117. Vạn Năng có mặt trên hàng đầu của các tín đồ. Còn ông chủ anh và Fix đều thấy không cần phải bận mình với chuyện này.

    Đến giờ đã định, lão trượng William Hitch đứng lên. Và bằng một giọng khá gay gắt cứ như chưa nói đã bị người ta cãi lại, ông kêu lên:

    "Tôi đây, tôi xin nói với các ngài rằng Joe Smyth là một người tử vì đạo, em ông là Hvram là một người tử vì đạo, và những sự ngược đãi của chính phủ Liên bang chống lại các nhà tiên tri cũng sắp biến Brigham lang thành một người tử vì đạo! Ai dám phản đối lời tôi nào?"

    Không ai dám liều cãi lại nhà truyền giáo, mà vẻ phấn khích thật trái ngược với khuôn mặt vốn điềm tĩnh của ông. Nhưng chắc hẳn cơn giận của ông là do đạo giáo Mormon hiện nay đang phải chịu nhiều nỗi gian truân. Và thật vậy, chính phủ Hoa Kỳ đã vừa mới dẹp tan được, không phải không khó khăn, những con người cuồng tín độc lập ấy. Chính phủ đã làm chủ miền Utah, và đặt nó vào luật pháp Liên bang, sau khi đã bắt giam Brigham lang bị ghép vào tội nổi loạn và đa thê. Từ khi ấy, các đệ tử của nhà tiên tri càng tăng cường hoạt động, và, trong khi chỉ đợi hành sự, họ kháng cự lại bằng lời nói những yêu sách của Nghị viện.

    Như ta thấy, lão trượng William Hitch đã lên cả xe lửa để tuyên truyền đạo giáo.

    Và thế là, bằng một giọng nói to và những cử chỉ mạnh mẽ khiến câu chuyện càng thêm kích động, ông kể lại lịch sử đạo giáo Mormon từ những thời hết sức xa xưa: "Ở Israël, một nhà tiên tri Mormon trong bộ lạc của Joseph đã công bố cuốn lịch sử của đạo giáo mới và truyền lại cuốn đó cho con ông ta là Morom như thế nào: Hàng bao nhiêu thế kỷ sau, cuốn sách quý viết bằng chữ Ai Cập đó được dịch ra như thế nào bởi ngài Joseph Smyth em, một chủ trại bang Vermont từ năm 1825 đã tỏ ra là một nhà tiên tri thần bí: Cuối cùng, một sứ giả của Thiên đình đã hiện ra trong một khu rừng sáng chói và trao cha ông cuốn lịch sử của Thượng đế như thế nào.."

    Lúc này, một vài thính giả, không hứng thú gì lắm với câu chuyện quá khứ của nhà truyền giáo, rời khỏi toa tàu: Nhưng William Hitch tiếp tục kể "Smyth em, tụ tập cha, hai anh trai cùng vài đệ tử lập nên đạo giáo, của các Vị Thánh những ngày tận thế như thế nào, – một đạo giáo không chỉ truyền bá ở Châu Mỹ, mà ở cả Anh, Na Uy, Thuỵ Điển, Đức, trong số tín đồ của nó có những nhà tiểu công nghệ và cả nhiều người làm nghề tự do: Một quần thể dân cư được lập nên ở Ohio như thế nào; một ngôi đền được cất lên với giá hai mươi vạn đô la và một thành phố được xây dựng ở Kirkland như thế nào, làm thế nào Smyth trở thành ông chủ ngân hàng táo bạo và nhận được của một kẻ làm trò biểu diễn xác ướp tờ giấy có ghi một câu chuyện do tự tay Abraham và nhiều danh nhân Ai Cập khác viết ra".

    Câu chuyện kéo hơi dài, các hàng thính giả lại càng thưa đi, và cử tọa chỉ còn chừng hai chục người.

    Nhưng vị lão trượng, không bận tâm gì đến cảnh đào ngũ đó, vẫn kể lể một cách chi tiết "Joe Smyth bị vỡ nợ như thế nào năm 1837; các cổ phần viên của ông bị phá sản đã lấy hắc ín trát đầy người ông và lăn ông trong đống lông chim như thế nào; làm thế nào người ta lại thấy ông mấy năm sau, vinh hiển và được kính trọng hơn bao giờ hết, ở bang Độc lập, trong lưu vực sông Missouri, và đứng đầu một giáo đoàn thịnh vượng không dưới ba nghìn môn đệ, và khi đã bị truy nã bởi lòng hận thù của những người dị giáo, ông phảitrốn tránh sang miền viễn Tây nước Mỹ".

    Mười thính giả vẫn còn ngồi đây, và trong số đó có anh Vạn Năng ngay thật vểnh cả hai tai lên nghe. Nhờ thế mà anh được biết "sau những vụ hành hạ liên miên. Smyth lại xuất hiện trong bang Illinois, và lập ra năm 1839, bên bờ sông Mississippi, thị trấn Nauvoo xinh đẹp, mà dân số lên đến hai vạn rưởi người: Smyth đã thở thành ngài thị trưởng, quan tránh án tối cao, và vị tướng tổng tư lệnh của thị trấn đó như thế nào: Và cuối cùng rơi vào một cuộc phục kích ở Carthage, ông bị bỏ tù và bị một tốp người đeo mặt nạ sát hại như thế nào".

    Lúc ấy, chỉ còn lại đúng một mình Vạn Năng trong toa tàu, và vị lão trượng, nhìn thẳng vào mặt anh, mê hoặc anh bằng những lời nói của mình, nhắc cho anh biết rằng, hai năm sau vụ giết hại Smyth, người kế nghiệp ông, nhà tiên tri thần cảm Brigham lang, rời bỏ thị trấn Nauvoo đến lập nghiệp bên bờ Hồ Mặn, và ở đây, trên mảnh đất tuyệt diệu này, giữa vùng đất đai màu mỡ ấy, trên con đường của những người di cư đi qua Utah để đến Californie, cái quần thể mới nhờ chế độ đa thê của đạo giáo Mormon đã phát triển vô cùng mạnh mẽ.

    "Thế đấy, – William Hitch nói tiếp, – đó là lý do tại sao lòng ghen ghét của Nghị viện đã chĩa vào chúng tôi! Tại sao quân lính của Liên bang đã giày xéo lên mảnh đất Utah! Tại sao thủ lĩnh của chúng tôi, nhà tiên tri Brigham Lang, đã bị cầm tù bất chấp mọi công lý! Chúng tôi có chịu khuất phục trước sức mạnh không! Không bao giờ! Bị xua đuổi khỏi Vermont, xua đuổi khỏi Illinois, xua đuổi khỏi Ohio, xua đuổi khỏi Missouri, xua đuổi khỏi Utah, chúng tôi sẽ lại tìm thấy một lãnh thổ độc lập nào đó để cắm lều chúng tôi lên đấy.. Còn anh, anh tín đồ ngoan đạo của tôi, – ông già nói tiếp, đôi mắt giận dữ trừng trừng nhìn vị thính giả độc nhất của mình, – anh có cắm lều dưới bóng cờ của chúng tôi không?

    – Không." – Vạn Năng dũng cảm đáp và bỏ chạy nốt, để mặc con người hóa dại đứng đó truyền đạo giữa khoảng trống không.

    Nhưng trong thời gian cuộc diễn thuyết ấy, con tàu đã phóng nhanh, và vào khoảng mười hai giờ rưỡi trưa, nó tới mỏm Tây Bắc của Hồ Mặn rộng lớn. Từ điểm này, người ta có thể nhìn bao quát, trên một chu vi rộng, quang cảnh biển nội địa ấy. Một biển cũng có tên là Biển Chết và có một dòng sông Jourdain của Châu Mỹ chảy vào. Cái hồ tuyệt thế, bốn bề bao phủ tảng đá hoang dại, rất đẹp, đáy hồ chất những lớp đá to với thời gian đã đóng vẩy muối trắng, bầu nước nguy nga xưa kia chiếm một khoảng rộng hơn nhiều: Nhưng với thời gian, bờ của nó cao dần lên. Khiến mặt hồ nhỏ bớt đi mà hồ lại sâu thêm.

    Hồ Mặn dài ước chừng bảy mươi dặm, rộng ba mươi dặm, ở độ cao trênmặt biển ba nghìn tám trăm piê. Khác xa với hồ Asphaltite, là một cái hồ trũng xuống một nghìn hai trăm piê dưới mặt biển, nó có độ mặn lớn và trọng lượng chất rắn hòa tan trong nước bằng một phần tư trọng lượng khối nước hồ. Tỷ trọng khối nước ấy là 1170, ta biết tỷ trọng nước cất là 1000. Cho dòng sông Jourdain, sông Weber và các vũng nước khác đổ vào hồ chẳng bao lâu cũng chết trong hồ: Nhưng không phải tỷ trọng nước hồ lớn đến nỗi một người không thể chìm trong đó.

    Chung quanh hồ, những cánh đồng được trồng trọt đẹp mắt, vì dân Mormon thạo việc đồng áng: Những trại ấp có khu nuôi gia súc. Những cánh đồng lúa mì, ngô, lúa miến, những đồng có tươi tốt, những hàng rào hoa hồng dại khắp nơi, những bụi xiêm gai và xưrơng rồng, đó là quang cảnh vùng này sáu tháng sau; nhưng lúc này thì mặt đất bị lấp dưới một lượt tuyết mỏng như phấn rắc.

    Hai giờ, hành khách xuống ga Ogden. Con tàu chỉ đến sáu giờ mới lại đi, như vậy ông Fogg, bà Aouda và hai người bạn của họ có thời gian đến thăm thành phố các Thánh theo một nhánh đường xe lửa tách ra từ ga Ogden. Hai tiếng đồng hồ đủ để đi thăm cái thành phố hoàn toàn Mỹ ấy, được xây dựng theo kiểu mẫu tất cả các thành phố của Liên bang, chúng như những bàn cờ rộng bao la với những đường thẳng dài lạnh lùng mang "nỗi buồn ảm đạm của những góc vuông", theo cách nói của Victor Hugo. Người sáng lập ra thành phố các Thánh không thể thoát khỏi nhu cầu đối xứng ấy nó là đặc điểm của dân Anglo-Saxon. Ở cái đất nước kỳ dị này, mà những con người tất nhiên không có trình độ của các học viện, tất cả đều được thực hiện một cách "thẳng thừng", những thành phố, những nhà cửa, và những điều ngu xuẩn.

    Vậy là lúc ba giờ, các du khách dạo chơi trong thành phố xây dựng giữa tả ngạn sông Jourdain và những dải lô nhô đầu tiên của dãy núi Wahsatch. Họ nhận thấy ở đây không có hoặc ít có nhà thờ, nhưng dinh thự thì có ngôi nhà của đấng tiên tri, tòa án và xưởng đóng tàu, rồi những nhà gạch xanh nhạt có hiên và hành lang, có vườn tược chung quanh, được bao bọc bởi những cây xiêm gai, cây cọ và cây đậu. Một bức thành bằng đất sét và sỏi, xây năm 1853, bao quanh thành phố. Ở phố chính, là phố có chợ, nổi lên một vài khách sạn có treo cờ, trong đó có Khách sạn Hồ Mặn!

    Ông Fogg và bè bạn của ông thấy thành phố không đông dân cho lắm. Phố xá hầu như vắng tanh, trừ khu vực Thánh đường, mà họ chỉ đến được sau khi đã qua nhiều khu phố có rào giậu vây bọc, phụ nữ có chồng thấy khá nhiều, nguyên nhân là do kết cấu đặc biệt của các gia đình Mormon. Tuy vậy không nên cho rằng tất cả mọi người Mormon đều theo chế độ đa thê. Họ được tự do, nhưng phải thấy rằng chính những nữ công dân ở Utah muốn được lấy chồng hơn ai hết, bởi vì, theo đạo giáo của nước này, bầu trời Mormon không thu nhận trong thế giới hạnh phúc của mình những phụ nữ độc thân. Nhữngngười đàn bà khốn khổ ấy không có vẻ gì phong lưu hoặc sung sướng. Một vài người, chắc hẳn những người giàu nhất, bận áo dài lụa đen có xẻ tà, đội mũ trùm đầu hoặc quàng khăn choàng cổ rất nhã nhặn. Những người khác chỉ mặc áo vải hoa bình thường.

    Vạn Năng, với tư cách một anh con trai quyết sống độc thân, ngắm nhìn không phải không với chút kinh hãi những người đàn bà Mormon có nhiệm vụ làm sao cùng đem lại hạnh phúc cho một ông chồng chung. Với lương tri anh, chính người chồng là người anh ái ngại nhất. Thật là một điều khủng khiếp cho anh nếu phải dìu dắt chừng nấy bà một lúc vượt qua những bước thăng trầm của cuộc sống, phải dẫn đưa các bà cả đàn như thế đến tận thiên đường Mormon với cái viễn cảnh được vĩnh viễn thấy lại các bà ở đây cùng với ngài Smyth quang vinh là con người phải làm vẻ vang cho nơi cực lạc này. Tất nhiên anh không có chí hướng ấy, và anh thấy – chỗ này thì có lẽ anh lầm – rằng các nữ công dân thành phố Đại Hồ nhìn anh với những cái nhìn cũng hơi đáng ngại.

    Rất may là thời gian anh ở thành phố các Thánh không phải kéo dài. Lúc bốn giờ kém vài phút, các hành khách lại có mặt ở ga và về chỗ trong toa tàu.

    Còi tàu rú lên: Nhưng vào lúc các bánh xe khởi động của đầu tàu vừa quay tại chỗ trên đường ray vừa bắt đầu chuyển cho đoàn tàu một chút tốc độ nào đó, thì những tiếng kêu: "Dừng lại! Dừng lại!" vang lên.

    Người ta không hãm lại một con tàu đang chạy. Con người sang trọng thốt lên những tiếng kêu ấy chắc hẳn là một người Mormon bị nhỡ tàu. Ông ta chạy muốn đứt hơi. May cho ông, nhà ga không có cửa cũng không có rào ngăn. Thế là ông lao theo đường sắt, nhảy lên bậc toa cuối cùng và hổn hển ngã lăn vào một cái ghế dài trên toa.

    Vạn Năng, vẫn hồi hộp theo dõi những tình tiết của trò thể dục ấy, đến ngắm vị khách nhỡ tàu này mà anh đặc biệt quan tâm, và được biết người công dân xứ Utah đã phải chạy trốn như thế sau một cuộc vợ chồng xô xát.

    Khi người Mormon đã hồi sức. Vạn Năng đánh bạo đến hỏi thăm thật lễ phép xem ông. Chỉ riêng mình ông thôi, có bao nhiêu vợ, và theo cái cách ông ta vừa trốn chạy, thì anh phỏng đoán ông này ít ra cũng phải có hai chục bà.

    "Một, thưa ngài! – người Mormon đáp lại, hai tay giơ lên trời, – một, và thế là đủ rồi!".
     
    Heo Bảo Bảotatsuno jin thích bài này.
  9. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,903
    Chương 28 – Tiếng nói của lẽ phải

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Rời khỏi Hồ Mặn và ga Ogden, con tàu chạy trong một giờ lên hướng bắc đến tận Weber, như thế là đã đi được chừng chín trăm dặm kể từ San Francisco. Bắt đầu từ đây, nó lại theo hướng đông đi qua vùng núi gập ghềnh của dãy núi Wahsatch. Chính là trong địa hạt này. Nằm giữa dãy núi ấy và dãy Núi Đá, các kỹ sư Mỹ đã đụng phải những khó khăn gay go nhất, cho nên tiền chi của chính phủ Liên bang trong chặng đường này lên đến bốn vạn tám nghìn đô la một dặm, trong khi nó chỉ được một vạn sáu nghìn đô la ở đồng bằng: Nhưng các kỹ sư, như đã nói, không cưỡng bức thiên nhiên, họ dùng mưu với thiên nhiên, né tránh các khó khăn, và để đi đến được vùng lưu vực rộng lớn, trong suốt chặng đường xe lửa chỉ có một, đường hầm duy nhất đào qua một núi dài một vạn bốn nghìn pi-ê.

    Cũng chính tại Hồ Mặn, con đường sắt đã lên tới điểm cao nhất của nó so với mặt biển. Từ điểm này, nó vẽ một đường dốc thoai thoải xuống thung lũng vịnh Bitter. Để rồi lại lên đến cao điểm phân chia hai chiều sông chảy vào Đại Tây Dương và Thái Bình Dương. Ở vùng núi này có nhiều sông ngòi. Con tàu phải vượt trên những cầu nhỏ qua sông Muddy, sông Thanh Giang và nhiều sông khác. Vạn Năng càng gần đến đích càng bồn chồn nóng ruột. Còn Fix thì đã muốn mau mau thoát ngay khỏì cái vùng khó khăn này. Ông ngại những chậm trễ, ông sợ những tai nạn, và ông còn mong hơn cả chính Phileas Fogg được đặt chân lên đất Anh.

    Mười giờ đêm, con tàu dừng lại ở ga Fort-Bridger rồi lại đi ngay, và qua hai mươi dặm nữa nó tiến vào bang Wyoming vùng Dakota cũ chạy suốt thung lũng vịnh Bitter, cái vịnh từ đó chảy ra một phần của khối nước tạo thành hệ thống đường thủy sông Colorado.

    Ngày hôm sau mồng 7 tháng Chạp, tàu đỗ lại mười lăm phút ở ga Thanh Giang. Đêm trước tuyết rơi khá nhiều, nhưng hòa với trời mưa và đang tan ra nửa chừng, nó không thể ngăn trở con tàu chạy. Tuy vậy, tiết trời xấu này không khỏi làm Vạn Năng lo ngại, vì tuyết rơi chồng chất sẽ làm các bánh xe con tàu bị sa lầy, chắc chắn gây khó khăn cho cuộc hành trình.

    "Không biết ông chủ ta nghĩ thế nào, – anh nghĩ bụng, – mà lại đi du lịch vào mùa đông! Sao ông không đợi đến mùa xuân có phải được nhiều may mắn hơn không?"

    Nhưng vào lúc anh đầy tớ trung hậu chỉ bận tâm đến tình trạng bầu trời và nhiệt độ cao thấp, thì hà Aouda lại cảm thấy những nỗi lo ngại ghê gớm hơn, sinh ra từ một nguyên nhân hoàn toàn khác hẳn.

    Thật vậy, một vài hành khách đã xuống tàu và dạo chơi trên sân ga Thanh Giang, trong khi chờ đợi giờ khởi hành của con tàu. Thế nhưng, qua cửa kính, bà thiếu phụ nhận ra trong số đó viên đại tá Stamp W. Proctor, con người Mỹ đã đối xử hết sức thô bạo với Phileas Fogg trong cuộc mít tinh ở San Francisco. Bà Aouda không muốn để ông ta trông thấy, vội né lùi lại.

    Tình huống ấy khiến bà bàng hoàng xúc động. Bà đã gắn bó với con người vẫn hàng ngày bộc lộ với bà, dù với thái độ hết sức lạnh lùng, những biểu hiện của lòng trung thành tuyệt đối nhất. Chắc hẳn bà không hiểu được tất cả chiều sâu của thứ tình cảm mà vị ân nhân của bà đã gợi lên trong lòng bà, và cái tình cảm ấy bà mới chỉ gọi là lòng biết ơn, nhưng còn có cái gì hơn thế nữa mà chính bà cũng không hay biết. Cho nên trái tim bà thắt lại khi bà nhận ra con người thô lỗ mà ông Fogg vẫn muốn sớm muộn hỏi tội. Tất nhiên, viên đại tá Proctor đi trên chuyến tàu này chỉ là chuyện ngẫu nhiên nhưng rốt cuộc thì ông ta đã ở đó, và phải bằng bất cứ giá nào ngăn cản không cho Phileas Fogg nhìn thấy địch thủ của mình.

    Khi con tàu lại lên đường, bà Aouda lợi dụng có một lúc ông Fogg lim dim ngủ nói cho Fix và Vạn Năng biết tình hình.

    – Lão Proctor đang ở trên tàu ư! – Fix kêu lên. – Được, thưa bà, bà cứ yên tâm trước khi hắn cần nói chuyện với tên.. với ông Fogg, hắn phải nói chuyện với tôi đây, tôi thấy hình như trong tất cả vụ này chính tôi mới là người đã phải chịu sỉ nhục nặng nề nhất.

    – Và, hơn thế, – Vạn Năng nói thêm vào, – tôi xin chịu trách nhiệm về hắn dù cho hắn có là đại tá đi nữa.

    – Ông Fix ạ, – Bà Aouda lại nói. – Ông Fogg không để người nào lo việc trả thù hộ cho ông ấy đâu. Ông ta đã nói là sẽ trở lại châu Mỹ để tìm lại cái kẻ đã lăng mạ ông. Vậy nếu như ông ấy trông thấy viên đại tá Proctor, chúng ta sẽ không thể ngăn cản một cuộc đọ súng có thể dẫn đến những kết quả tai hại. Cho nên phải làm sao để ông ta đừng trông thấy hắn.

    – Thưa. Bà dạy chí phải. – Fix đáp, – một cuộc đọ súng có thể làm công việc hỏng hết. Thắng hay bại, ông Fogg cũng sẽ bị chậm trễ và..

    – Và, – Vạn Năng nói tiếp, – điều đó chỉ có lợi cho các ngài quý phái ở Câu lạc bộ Cải cách. Bốn ngày nữa chúng ta sẽ đến Nữu Ước! Được, nếu trong bốn ngày ông chủ tôi không ra khỏi toa tàu, ta có thể hy vọng sự tình cờ sẽ không đẩy ông chạm trán với tên Mỹ khốn kiếp ấy! Không lo, ta sẽ có cách..

    Câu chuyện đang nói nửa chừng thì bỏ dở. Ông Fogg tỉnh giấc và nhìn ra cánh đồng qua cửa kính lấm chấm tuyết. Nhưng, sau đó một lúc, và không để ông chủ mình và Bà Aouda nghe thấy. Vạn Năng nói với viên thanh tra cảnhsát:

    – Có thật ông định đánh nhau để bảo vệ ông chủ tôi không?

    – Tôi sẽ làm tất cả để đưa ông ta sống trở về châu Âu! – Fix đơn giản đáp.

    Trong giọng nói để lộ ra một sự hằn học khôn nguôi.

    Vạn Năng rùng mình cảm thấy khắp người sởn gai ốc, nhưng niềm tin vững chắc đối với ông chủ anh không hề giảm sút.

    Và bây giờ thì liệu có cách gì giữ ông Fogg lại trong toa tàu này để ngăn ngừa mọi cuộc đụng độ giữa viên đại tá và ông? Việc này không khó, vì bản tính nhà quý phái vốn ít hiếu động và ít tò mò. Dẫu sao đi nữa, viên thanh tra cũng cho rằng đã tìm thấy cách ấy, vì một lúc sau, ông nói với Phileas Fogg:

    – Thưa ngài. Những giờ ngồi xe lửa như thế này thật là dài dằng dặc và trôi đi chậm chạp.

    – Thật thế, – nhà quý phái đáp, – nhưng nó vẫn trôi đi.

    – Dưới tàu bể, – viên thanh tra lại nói – có phải ngài vẫn có thói quen chơi bài "uýt"?

    – Vâng. – Philliat Fogg đáp, – nhưng ở đây có lẽ khó. Tôi không có bài cũng không có bạn chơi.

    – Ồ! Bài thì ta mua được ngay. Họ bán đủ thứ trên các toa tàu Mỹ. Còn về bạn chơi, nếu may ra mà được bà đây..

    – Tất nhiên, thưa ông, – người thiếu phụ vội đáp, – tôi biết chơi bài "uýt".

    Cái đó được dạy trong chương trình giáo dục Anh.

    – Còn tôi, – Fix lại nói, – tôi cũng có thể có chút tự hào là biết chơi kha khá. Vậy là chúng ta chơi tay ba, để khuyết một chân.

    – Xin tùy ông, – Phileas Fogg đáp, thích thú trở lại với trò chơi ưa chuộng của mình, ngay cả trên xe lửa.

    Vạn Năng vội vã đi tìm người bồi tàu, và chẳng bao lâu trở về với cỗ bài đầy đủ, các phiếu ghi điểm, thẻ lấy tên và một bàn chơi bọc da. Chẳng thiếu thứ gì. Và họ bắt đầu. Bà Aouda rất am hiểu cách chơi bài "uýt" và thậm chí còn nhận được vài lời khen ngợi ca từ Phileas Fogg khó tính. Còn ông thanh tra thì đúng là một tay chơi sừng sỏ, xứng đáng đương đầu với nhà quý phái.

    "Bây giờ, – Vạn Năng bụng bảo dạ, – chúng ta giữ được ông ấy rồi. Ông ấy sẽ không rời khỏi tàu nửa bước".

    Mười một giờ sáng, con tàu đi tới điểm phân chia hai triền sông chảy vào hai đại dương. Đó là ở Passe-Bridger, tại độ cao bảy nghìn năm trăm hai mươi tư piê trên mặt biển, một trong những điểm cao nhất của đường tàu khi vượtqua dãy Núi Đá. Sau một đoạn đường khoảng hai trăm dặm nữa, cuối cùng các hành khách sẽ đến những miền đồng bằng chạy dài tới Đại Tây Dương, nơi có điều kiện thiên nhiên vô cùng thuận lợi để đặt đường xe lửa.

    Trên sườn núi phía trông ra Đại Tây Dương đã thấy hình thành những dòng sông nhỏ đầu tiên, là những chi lưu hoặc phụ chi lưu của sông Bắc Platte. Tất cả chân trời phía bắc và phía đông bị che khuất bởi một bức thành bao la hình bán nguyệt, nó là đoạn phía bắc của dãy núi Rocky, trong đó có ngọn Laramie cao vượt lên. Giữa đoạn núi cong ấy và con đường sắt, trải dài những bình nguyên rộng tràn trề sông nước. Phía bên phải con đường sắt là những đoạn dốc đầu tiên xếp thành bậc cao dần lên của khối quần sơn càng về phía nam càng tròn lại cho đến tận nguồn sông Arkansas, một trong những chi lưu lớn của sông Missouri.

    Đến mười hai giờ rưỡi trưa, các hành khách thoáng thấy trong một lúc pháo đài Halleck trấn thủ vùng này. Còn vài tiếng đồng hồ nữa là chấm dứt chặng đường qua dãy Núi Đá. Vậy là người ta có thể hy vọng con tàu vượt qua địa hạt khó khăn này không xảy ra tại nạn nào, gấu hay chó sói, xuất hiện trên bình nguyên. Đó là sa mạc trong sự trần trụi mênh mông của nó.

    Sau bữa trưa khá đàng hoàng, phục vụ ngay trong toa tàu, ông Fogg và các bạn vừa mới tiếp tục cuộc chơi bài "uýt" vô tận của họ, thì những tiếng còi tàu dữ dội rúc lên. Đoàn tàu dừng lại.

    Vạn Năng thò đầu ra ngoài cửa toa và không thấy gì có thể là lý do của việc dừng bánh này. Không có một nhà ga nào ở đây cả.

    Bà Aouda và Fix thoáng lo ngại rằng ông Fogg lại nảy ra ý nghĩ bước xuống mặt đường, nhưng nhà quý phái chỉ nói với người hầu của mình: "Anh thử đi xem chuyện gì vậy".

    Vạn Năng lao mình ra ngoài toa. Khoảng bốn chục hành khách đã đổ xuống đường, trong đó có viên đại tá Stamp W. Proctor.

    Đoàn tàu bị chặn lại trước một tín hiệu đỏ ngăn đường. Bác thợ máy và bác xa trưởng đã xuống tàu, đang tranh cãi khá kịch liệt với người gác đường do ông ga trưởng nhà ga Medicine-Bow gần đó phải đi đón trước đoàn tàu. Hành khách lại gần và tham gia cuộc tranh cãi, trong đó có viên đại tá Proctor với giọng nói lớn và những cử chỉ bệ vệ của ông ta.

    Vạn Năng sán lại đám đông, nghe tiếng người gác đường nói:

    "Không! Không có cách nào qua được! Cầu Medicine-Bow đã lung lay và sẽ không chịu nổi sức mạnh của đoàn tàu".

    Cái cầu đang nói đến này là một cầu treo bắc qua một cái thác, cách nơi đoàn tàu đỗ một dặm. Theo lời người gác đường thì nó sắp đổ, nhiều dâychằng đã đứt, và không thể liều mạng đi qua. Thế thì người gác đường cũng chẳng nói ngoa khi quả quyết rằng không thể qua cầu được. Vả lại, với cái tính hay coi thường người Mỹ, ta có thể nói rằng khi họ đã bắt đầu thận trọng, thì có họa là điên rồ mới không chịu thận trọng cùng với họ.

    Vạn năng không dám đi báo ông chủ mình, anh đứng nghe, răng nghiến chặt, người ngay như phỗng đá.

    "Chà chà! – viên đại tá Proctor nói, – thiết tưởng chúng ta sẽ không ở mãi đây mọc rễ vào trong tuyết!

    – Báo cáo ngài đại tá, – bác xa trưởng đáp, – người ta đã điện cho ga Omaha xin một đoàn tàu, nhưng chưa chắc nó đã tới được Medicine-Bow trước sáu giờ.

    – Sáu giờ! – Vạn Năng kêu lên.

    – Hẳn thế, – bác xa trưởng đáp. – Vả chăng, thời gian ấy cần thiết để chúng ta đi bộ đến ga.

    – Đi bộ! – Tất cả hành khách cùng nhao nhao lên.

    – Nhưng cái ga ấy cách đây bao xa? – Một hành khách hỏi bác xa trưởng.

    – Mười hai dặm, bên kia sông.

    – Mười hai dặm lội tuyết!" – Stamp W. Proctor kêu lên.

    Viên đại tá chửi rủa một chập, đổ tội cho công ty, đổ tội cho bác xa trưởng, và Vạn Năng giận điên lên cùng phụ họa ngay với ông ta. Anh thấy ở đây một số trở lực vật chất mà lần này dù có đem hết số bạc giấy của ông chủ anh ra cũng chẳng làm gì được.

    Thêm vào đó nỗi thất vọng đã lan nhanh trong khắp các hành khách, họ chẳng những bị chậm trễ mà còn phải đi bộ ngót mười dặm qua cánh đồng phủ tuyết. Vậy là sinh ra một đám đông ồn ào, với những tiếng kêu than, la hét, chắc chắn sẽ gợi sự chú ý của Phileas Fogg, nếu nhà quý phái này không bị cuốn hút vào cuộc chơi của ông.

    Tuy vậy, Vạn Năng thấy cần phải báo cho ông chủ anh biết, và anh lủi thủi đi về toa tàu, nhưng vừa lúc đó bác thợ máy của đoàn tàu, một chàng Yankee chính cống, tên gọi Forster, cao giọng nói:

    – Thưa các ngài. Cũng có thể có cách đi qua.

    – Trên cầu? – Một hành khách đáp lại.

    – Trên cầu.

    – Với đoàn tàu của ta? – Viên đại tá hỏi.

    – Với đoàn tàu của ta.

    Vạn Năng đứng lại, và nghe như nuốt từng lời của người thợ máy.

    – Nhưng cầu sắp đổ đến nơi rồi kia mà! – bác xa trưởng vặn lại.

    – Hề chi – Forster đáp. – Tôi cho rằng nếu phóng con tàu lao lên với tốc độ tối đa của nó, thì ta có hy vọng qua được.

    – Quái quỷ! – Vạn Năng lẩm bẩm.

    Nhưng một số hàng khách mới nghe đề nghị như thế đã bị cám dỗ ngay. Đặc biệt viên đại tá Proctor rất khoái. Cái đầu óc nóng bỏng ấy thấy chuyện này làm được lắm. Thậm chí ông còn nhắc lại rằng các kỹ sư đã nghĩ cả đến cách qua sông "không cầu" với những con tàu phóng hết tốc lực, v. V.. Và rốt cuộc, tất cả những người có liên quan đến vấn đề đều đứng về ý kiến bác thợ máy.

    – Chúng ta có năm mươi phần trăm khả năng qua cầu, – một người nói.

    – Sáu mươi – một người khác nói.

    – Tám mươi! Chín mươi phần trăm!

    Vạn Năng chết điếng đi, mặc dầu anh sẵn sàng làm đủ mọi chuyện để qua được vùng Medicine, nhưng cái kiểu làm này đối với anh có vẻ hơi "Mỹ" quá.

    "Vả lại, – anh nghĩ, – có một việc đơn giản hơn nhiều, mà họ cũng chẳng thèm nghĩ đến!.. Thưa ông, – anh nói với một hành khách – cái cách thức của bác thợ máy đề nghị xem, tôi xem có vẻ hơi liều lĩnh, nhưng..

    – Khả năng tám mươi phần trăm! – người hành khách đáp lại, và quay lưng đi.

    – Tôi biết lắm. – Vạn Năng đáp khi nói với một nhà quý phái khác, – nhưng xin có một ý kiến nhỏ..

    – Không kiến với cò gì hết, vô ích! – người Mỹ được anh hỏi đến nhún vai đáp lại, – bác thợ máy đã quả quyết là qua được rồi mà!

    – Hẳn thế. – Vạn Năng lại nói, – ta sẽ qua được nhưng có lẽ thế này thì thận trọng hơn..

    – Sao! Thận trọng à! – viên đại tá Proctor lớn tiếng, cái chữ tình cờ nghe được ấy làm ông này chồm lên. – Đã bảo là mở hết tốc lực! Anh hiểu không? Hết tốc lực!

    – Tôi biết.. tôi hiểu.. – Vạn Năng nhắc lại, khổ sở vì không ai để anh nói hết câu, – nhưng nếu không phải là thận trọng hơn, vì cái tiếng này phật ý ngài. Thì ít ra cũng là tự nhiên hơn..

    – Ai? Sao? Anh chàng này muốn gì với cái tự nhiên của anh ta đây?" – những tiếng thét tứ phía nhao nhao lên.

    Chàng trai khốn khổ không còn biết nói cho ai nghe nữa.

    – Anh sợ à? – viên đại tá Proctor hỏi anh.

    – Tôi mà sợ! – Vạn Năng kêu lên. – Được! Tôi sẽ chứng tỏ cho những người này thấy một người Pháp cũng có thể Mỹ bằng họ!

    – Lên tàu! Lên tàu! – bác xa trưởng kêu to.

    – Phải, lên tàu. – Vạn Năng nhắc lại, – lên tàu! Và ngay tức khắc! Nhưng người ta không thể ngăn cấm tôi nghĩ rằng nếu trước hết cho hành khách chúng tôi đi bộ qua cầu, rồi sau mới đến đoàn tàu, thì như vậy tự nhiên hơn!..

    Nhưng chẳng ai thèm nghe cái ý kiến khôn ngoan ấy, và cũng chẳng ai chịu nhận đó là đúng.

    Hành khách đã trở về toa tàu của họ. Vạn Năng ngồi vào chỗ, không hé răng một điều về những việc vừa xảy ra. Các người chơi bài đang chìm đắm trong ván bài "uýt" của họ.

    Cái đầu tàu rúc lên một hồi còi dõng dạc. Bác thợ máy vặn được máy cho tàu lùi lại đến gần một dặm, lùi như một vận động viên muốn ấy đà để nhảy.

    Rồi một hồi còi thứ hai, con tàu lại bắt đầu tiến lên: Nó chạy nhanh dần, tốc độ chẳng mấy chốc đã trở thành kinh khủng: Người ta chỉ còn nghe độc một tiếng rít từ đầu tàu phát ra: Pít-tông dập hai mươi lần một giây, các trục bánh xe bốc khói lên trong những hộp dầu mỡ. Có thể nói người ta cảm thấy như toàn bộ con tàu, chạy nhanh với tốc độ một trăm dặm một giờ, không còn sức nặng đè lên đường ray nữa. Tốc độ đã nuốt chửng trọng lượng.

    Và thế là người ta qua! Và như qua một tia chớp. Người ta không còn nhìn thấy cái cầu là cái gì nữa. Đoàn tàu đã nhảy, có thể nói như vậy, từ bờ bên này sang bờ bên kia, và bác thợ máy chỉ hãm được con tàu cuốn đi quá nhà ga năm dặm.

    Đoàn tàu vừa mới qua sông thì cái cầu hỏng hẳn đổ ầm ầm xuống dòng thác Medicine-Bow.
     
    Heo Bảo Bảotatsuno jin thích bài này.
  10. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,903
    Chương 29 – Các loại sự cố trên những tuyến đường sắt

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ngay trong chiều hôm ấy, đoàn tàu tiếp tục chặng đường của nó mà không gặp trở ngại gì. Nó đi qua pháo đài Sauders, vượt qua lạch sông Cheyenne và đến lạch sông Evans. Tại đây, con đường sắt tới điểm cao nhất trên tuyến đường của nó, tức là tám nghìn chín mươi mốt piê trên mặt đại dương. Hành khách chỉ còn việc xuôi mãi đến tận Đại Tây Dương trên những bình nguyên mênh mông vô tận đã được thiên nhiên san phẳng.

    Tại đây từ "trục đường lớn" tách ra một nhánh đi Denver, thành phố đầu não của bang Colorado. Miền này có nhiều mỏ vàng và mỏ bạc, và hơn năm vạn dân đã định cư tại đó.

    Lúc này, con tàu đã đi được một nghìn ba trăm tám mươi hai dặm kể từ San Francisco. Trong ba ngày và ba đêm. Theo mọi dự tính chỉ bốn đêm và bốn ngày nữa là đủ để đến Nữu Ước. Vậy là Phileas Fogg vẫn đang theo đúng những thời hạn quy định.

    Ban đêm, con tàu đi qua đồn Walbah ở bên trái nó. Vịnh Lodge-pole chạy song song với con đường sắt, đi theo đường biên giới thẳng tắp giữa hai bang Wyoming và Colorado. Đến mười một giờ, con tàu tiến vào bang Nebraska, đi qua gần Sedgwick, và đến Julesburgh, một thành phố xây dựng trên nhánh sông phía nam của sông Platte.

    Chính tại điểm này được khánh thành tuyến đường sắt Thái Bình Dương Liên bang ngày 23 tháng 10 năm 1867, mà tổng công trình sư là tướng J. M. Dodge. Tại đây đã đổ hai đầu tàu thật khoẻ, kéo theo chín toa quan khách, trong đó có phó tổng thống Thomas C. Durant; tại đây đã vang lên những tiếng hoan hô; tại đây những người Sioux và người Pawnee đã biểu diễn trên sân khấu một cuộc tập trận của những người da đỏ; tại đây pháo hoa đã đốt sáng tưng bừng; cuối cùng, tại đây đã được xuất bản một máy in xách tay số báo đầu tiên của tờ nhật báo. Người mở đường của đường sắt. Lễ khánh thành con đường sắt vĩ đại này – một công cụ của tiến bộ và văn minh đặt qua những vùng hoang vắng và có nhiệm vụ nối liền với nhau những thành phố và đô thị hiện còn chưa có – đã được tổ chức như thế đấy. Tiếng đàn của Amphion, chẳng bao lâu sẽ làm những thành phố và đô thị ấy mọc lên trên đất Mỹ.

    Tám giờ sáng, con tàu đã bỏ pháo đài Mac-Pherson lại phía sau. Ba trăm năm mươi bảy dặm ngăn cách điểm này với Omaha. Ở tả ngạn. Con đường sắt chạy theo những đường ngoằn nghèo của nhánh nam sông Platte. Chín giờ, đoàn tàu đến một thành phố quan trọng, Bắc Platte, xây dựng giữa hai nhánhcủa con sông lớn, hai nhánh này bao quanh thành phố rồi nhập vào nhau thành một dòng duy nhất, một chi lưu quan trọng hòa nước của nó vào sông Missouri, ở phía trên Omaha một chút.

    Kinh tuyến một trăm linh một đã vượt qua.

    Ông Fogg và các bạn chơi bài lại tiếp tục ván bài. Không ai trong bọn họ phàn nàn về đường dài. Fix thoạt đầu được vài ghi nê, và bây giờ đang thua lại, nhưng ông cũng tỏ ra cay cú chẳng kém gì ông Fogg. Buổi sáng hôm ấy, vận may ủng hộ nhà quý phái này một cách kỳ lạ. Những quân bài chủ và quân bài to rơi như mưa vào tay ông. Có một lúc, sau khi đã trù tính một bước đi táo bạo, ông đang chuẩn bị đánh quân bích. Thì đằng sau ghế một giọng nói cất lên:

    "Tôi, tôi sẽ đánh ca rô"..

    Ông Fogg, bà Aouda, Fix ngẩng đầu lên. Viên đại tá Proctor đang đứng bên họ.

    Stamp W. Proctor và Phileas Fogg nhận ra nhau ngay.

    – À! Chính là ngài, ông bạn người Anh, – viên đại tá kêu lên. – Chính là ngài muốn đánh bích!

    – Và, đánh bích thật. – Phileas Fogg lạnh lùng đáp, đồng thời hạ xuống một quân mười loại hoa đó.

    – Còn tôi, tôi lại muốn ngài ngài đánh ca rô, – đại tá Proctor đáp lại với một giọng gay gắt.

    Và ông ta làm một cử chỉ giữ lấy quân bài đã đánh, rồi nói thêm:

    – Ông chơi kém lắm.

    – Có lẽ tôi thạo một trò chơi khác hơn. – Phileas Fogg đứng lên nói.

    – Tuỳ đấy, anh muốn thử chơi thì thử, con nhà John Bull ạ! – Con người thô bỉ đáp lại.

    Bà Aouda mặt tái nhợt. Bao nhiêu máu như dồn hết về tim. Bà nắm lấy cánh tay Phileas Fogg, ông nhẹ nhàng gạt tay bà ra. Vạn Năng sẵn sàng xông vào tên Mỹ, hắn đang nhìn đối thủ của mình với cái vẻ lăng nhục nhất. Nhưng Fix đã đứng lên, và bước đến trước mặt viên đại tá Proctor bảo hắn:

    – Ông quên rằng tôi đây mới là người ông phải nói chuyện, thưa ông, tôi là người không những bị ông chửi mà còn đánh đập nữa!

    – Ông Fix, – Ông Fogg nói, – xin ông tha lỗi, nhưng việc này chỉ liên quan đến riêng tôi. Ngài đại tá cho rằng tôi đánh bích là sai lầm, và ông ta lại sỉ nhục tôi lần nữa, vậy ông ấy phải thanh toán với tôi về việc này.

    – Khi nào ông muốn, và ở nơi nào ông muốn, – người Mỹ đáp, – và với thứ vũ khí nào ông thích!

    Bà Aouda cố ghìm Ông Fogg lại mà không được. Viên thanh tra thì muốn giành lấy cuộc cãi lộn về mình, nhưng vô hiệu. Vạn Năng muốn quẳng tên đại tá qua cánh cửa, nhưng một cử chỉ ra hiệu của ông chủ đã chặn anh lại. Phileas Fogg rời toa tàu, và người Mỹ đi theo ông ra đầu toa.

    – Thưa ngài, – Ông Fogg nói với đối thủ của mình, – tôi rất vội trở về Châu Âu, và một sự chậm trễ nào đó sẽ tổn hại rất nhiều cho lợi ích của tôi.

    – Thì sao! Cái đó dính dáng gì đến tôi? – viên đại tá Proctor đáp lại.

    – Thưa ngài, – Ông Fogg lại nói rất lễ phép. – Sau cuộc gặp gỡ của chúng ta ở San Francisco, tôi đã nuôi ý định sẽ tìm lại ngài ở Châu Mỹ, ngay sau khi hoàn thành các công việc hiện đang chờ tôi ở cựu đại lục.

    – Thế cơ đấy!

    – Ngài có sẵn lòng cho tôi hẹn gặp lại trong vòng sáu tháng không?

    – Tại sao không sáu năm?

    – Tôi nói sáu tháng, – ông Fogg đáp, – và tôi sẽ đến đúng ngày hội kiến.

    – Đừng đánh bài lảng! – Stamp W. Proctor kêu lên. – Ngay bây giờ hoặc không bao giờ hết.

    – Được. – Ông Fogg đáp. – Ngài đi Nữu Ước?

    – Không.

    – Đi Chicago?

    – Không.

    – Đi Omaha?

    – Không việc gì đến ông? Ông có biết Vũng Plum không?

    – Không. – Ông Fogg đáp.

    – Đó là ga sắp tới. Một giờ nữa tàu sẽ đến đó. Nó đỗ lại ở đây mười phút.

    Trong mười phút, ta có thể trao đổi với nhau vài phát súng lục.

    – Và tôi còn cho rằng ông sẽ ở lại đây mãi! – tên Mỹ nói thêm với một vẻ láo xược chưa từng thấy.

    – Chưa biết mèo nào cắn mỉu nào, thưa ngài! – Ông Fogg đáp lại, và trở về toa tàu của mình, vẫn lạnh lùng như thường lệ.

    Tại đây nhà quý phái bắt đầu động viên bà Aouda yên tâm, ông nói với bà rằng những kẻ huênh hoang không bao giờ đáng sợ. Rồi ông mời Fix làm

    Người làm chứng cho ông trong cuộc quyết đấu sắp tới. Fix không thể chối từ và Phileas Fogg lại thản nhiên tiếp tục ván bài bị đứt đoạn, ông đánh quân bài bích với một vẻ điềm tĩnh tuyệt đối.

    Mười một giờ tiếng còi tàu báo hiệu sắp tới ga Vũng Plum. Ông Fogg đứng dậy, theo sau có Fix, ông ra đầu toa, Vạn Năng cùng đi với ông, đem theo hai khẩu súng lục. Bà Aouda ở lại trong toa tàu, xanh nhợt như một xác chết.

    Lúc này, cánh cửa toa tàu bên kia mở ra và viên đại tá Proctor cũng xuất hiện ở đầu toa, theo sau có người làm chứng của hắn, một Yankee cũng lực lưỡng như hắn. Nhưng vào lúc hai đấu thủ sắp xuống đường, thì bác xa trưởng chạy đến và kêu lên với họ:

    – Không xuống được đâu, thưa các ngài.

    – Sao vậy? – viên đại tá hỏi.

    – Chúng tôi đã chậm hai mươi phút, và tàu không đỗ lại.

    – Nhưng tôi phải đấu súng với ông này.

    – Thật đáng tiếc, – bác xa trưởng đáp, – nhưng ta phải đi ngay. Đấy, chuông đang réo!

    Đúng là chuông đang réo thật, và con tàu lại lên đường.

    – Tôi cũng rất khổ tâm thưa các ngài, – bác xa trưởng liền nói. – Trong mọi hoàn cảnh nào khác. Tôi đã có thể giúp các ngài được. Nhưng xét cho cùng, nếu các ngài không có thời giờ đấu với nhau ở đây, ai ngăn cấm các ngài đấu dọc đường?

    – Chuyện ấy có lẽ không hợp với ông đấy! – viên đại tá Proctor nói với một vẻ xỏ xiên!

    – Chuyện ấy hoàn toàn hợp với tôi.. – Phileas Fogg đáp lại.

    – Chà, thật đúng là ta đang ở Mỹ! – Vạn Năng nghĩ, – và bác xa trưởng quả là một con người lịch sự của xã hội văn minh nhất!

    Nghĩ thế rồi anh bước theo ông chủ.

    Hai đối thủ với người làm chứng của họ được bác xa trưởng dẫn di chuyển từ toa này sang toa khác đến cuối tàu. Toa cuối cùng chỉ có chừng một chục hành khách. Bác xa trưởng đề nghị họ vui lòng nhường chỗ một lát cho hai nhà quý phái có vấn đề danh dự cần thanh toán.

    Còn phải nói! Các hành khách rất sung sướng được chiều lòng hai nhà quý phái, và họ rút ra đầu toa.

    Toa tàu này dài khoảng năm chục piê rất tiện cho việc đấu súng. Hai đấuthủ có thể bước đi giữa hai hàng ghế dài và bắn nhau thỏa thích. Chưa bao giờ có cuộc quyết đấu nào dễ giải quyết đến thế. Ông Fogg và viên đại tá Proctor. Một người cầm hai khẩu súng sáu, bước vào toa tàu. Những người làm chứng của họ đứng bên ngoài, nhốt họ lại trong đó. Khi còi tàu rúc lên tiếng đầu tiên, họ phải nổ súng. Rồi sau một khoảng thời gian hai phút, người ta sẽ lôi từ trong toa tàu ra những gì còn lại của hai nhà quý phái.

    Quả thật không có gì đơn giản hơn. Thậm chí đơn giản đến nỗi Fix và Vạn Năng cảm thấy trái tim mình đập muốn vỡ ra.

    Vậy là người đang đợi tiếng còi tàu ước hẹn, thì bỗng nhiên rú lên những tiếng kêu man rợ. Kèm theo đó là những phát súng nổ, nhưng không phải đến từ toa tàu dành cho các người quyết đấu. Những tiếng nổ ấy, ngược lại, kéo dài đến tận đầu tàu và suốt dọc con tàu. Những tiếng kêu khiếp sợ vang lên trong các toa tàu.

    Viên đại tá Proctor và ông Fogg, súng lục cầm tay, chạy ngay ra khỏi toa tàu và lao về phía đầu tàu, ở đó những tiếng súng và tiếng kêu nổi lên náo động hơn cả.

    Họ đã hiểu rằng đoàn tàu bị một bọn người Sioux tấn công.

    Những người mọi da đỏ táo tợn này không phải mới thử lần đầu, mà họ đã nhiều phen chặn đánh các đoàn tàu. Theo thói quen của họ, không đợi đoàn tàu dừng lại, họ lao tới các bậc lên xuống đông đến trăm người, họ leo trèo các toa tàu như những anh hề xiếc nhào lộn trên mình ngựa đang phi nước đại.

    Những người Sioux ấy có súng. Cho nên ta nghe thấy những tiếng súng nổ mà các hành khách, hầu hết có vũ trang, kháng cự lại bằng những phát súng lục. Thoạt đầu, những người da đỏ xông vào đầu máy. Bác thợ máy và bác thợ đốt là bị nện gần chết bằng truỳ. Một thủ lĩnh Sioux muốn hãm tàu lại, nhưng không biết sử dụng tay vặn của máy điều tiết, đáng lẽ đóng thì lại mở rộng ra cho hơi nước ùa vào, và cái đầu tàu bị cuốn đi với tốc độ kinh khủng.

    Trong khi ấy, bọn Sioux đã tràn ngập các toa tàu, chúng chạy trên các nóc toa như những con khỉ điên cuồng, chúng đạp tung các cánh cửa, vật lộn với hành khách. Toa hành lý bị đập phá và cướp bóc, những kiện hàng bị lôi ra quẳng xuống đường. Tiếng kêu và tiếng súng liên hồi không ngớt.

    Tuy vậy, các hành khách kháng cự rất dũng cảm. Một vài toa tàu dựng chướng ngại vật chống lại cuộc bao vây, như những pháo đài di động thật sự đang lao đi với tốc độ một trăm dặm một giờ.

    Ngay lúc bắt đầu cuộc tấn công, bà Aouda đã tỏ ra là một phụ nữ can đảm. Khẩu súng lục trong tay, bà chống cự anh dũng, bắn qua những cửa kính vỡ mỗi khi một tên mọi nào đó hiện ra trước mắt bà. Khoảng hai chục tên Sioux bị bắn chết rơi xuống mặt đường, những tên từ trên các cầu nối toa trượt xuống đường ray bị hành xe các toa tàu nghiền nát như những con sâu.

    Nhiều hành khách, bị trúng đạn hoặc trùy đánh trọng thương. Nằm sóng xoài trên các ghế dài.

    Tuy vậy thế nào cũng phải dứt tình trạng này. Cuộc chiến đấu đã kéo dài mười phút, và chỉ có thể kết thúc có lợi cho bọn Sioux nếu con tàu không dừng lại. Thật vậy, nhà ga của pháo đài Kearney còn cách chưa đầy hai dặm nữa. Tại đây, có một đồn binh Mỹ, nhưng khi đồn ấy đã qua thì giữa pháo đài Kearney và ga sau bọn Sioux sẽ làm chủ đoàn tàu.

    Bác xa trưởng đang chiến đấu bên ông Fogg thì một viên đạn bắn trúng bác. Khi ngã xuống con người ấy kêu lên:

    – Năm phút nữa tàu không dừng lại thì chết hết.

    – Nó sẽ dừng lại! – Phileas Fogg nói, định lao ra ngoài toa tàu.

    – Ông cứ ở đây, – Vạn Năng gọi giật ông lại. – Việc ấy có con!

    Phileas Fogg không kịp ngăn anh thanh niên dũng cảm, anh đã mở một cánh cửa không để bọn da đỏ trông thấy và luồn xuống dưới gầm toa. Và rồi, trong khi cuộc chiến đấu vẫn đang tiếp diễn, những viên đạn đan chéo lên đầu anh, anh lại nhanh nhẹn, mềm dẻo như anh hề rạp xiếc năm nào, luồn lách dưới các gầm toa, bám vào các dây xích, lợi dụng các đòn hãm và các thang khung, bò từ toa này sang toa khác với một tài khéo léo kỳ diệu, và cứ thế, anh chuyển đến tận đầu tàu. Anh đã không bị trông thấy, anh không thể bị trông thấy.

    Tại đây, anh một tay bám lủng lẳng giữa toa hành lý và toa chở than, một tay anh tháo những dây xích an toàn; nhưng anh kỳ cục mãi không tháo được cái thanh sắt nối toa đang bị kéo căng, thì may sao một chấn động mạnh của con tàu làm bật thanh sắt ấy ra, và đoàn tàu rời ra dần dần tụt lại đằng sau, còn cái đầu tàu thì chạy lao lên với một tốc độ mới.

    Đoàn tàu theo đà vẫn còn lăn bánh vài phút nữa, nhưng những bộ phận hãm đà hoạt động bên trong các toa, và cuối cùng thì đoàn tàu dừng lại cách ga Kearney chưa đầy trăm bước.

    Tại đây, binh lính pháo đài nghe tiếng súng nổ hối hả ùa ra. Bọn Sioux không đợi họ đến, cả bầy đã chuồn thẳng từ trước khi tàu đỗ hẳn.

    Nhưng khi các hành khách kiểm diện trên sân ga, họ nhận thấy nhiều người vắng mặt lúc điểm danh, và trong đó có anh chàng Pháp dũng cảm vừa hy sinh cứu họ.
     
    Heo Bảo Bảotatsuno jin thích bài này.
Từ Khóa:
Trả lời qua Facebook
Đang tải...