Chương 30: Má Bácbơranh Bấm để xem Nằm trên sàn gỗ, chúng tôi ngủ cũng khá ngon. Chúng tôi đã nhiều đêm ngủ giữa trời khó chịu hơn. Sang ra Mátchia nói: Tớ mơ thấy đám rước bò. Tớ cũng thế. Tám giờ sáng cửa mở, ông dự thẩm bước vào, có ông bạn thú y cửa chúng tôi theo sau; ông ta muốn đích thân đến giải phóng cho chúng tôi. Về phần ông dự thẩm thì không phải ông chỉ ân cần với chúng tôi ở bữa ăn hôm qua, ông còn trao cho tôi một tờ giấy đẹp có đóng dấu. Ông thân mật bảo: Các em tay không mà đi tứ xứ như thế thì thật là liều lĩnh. Ta đã nói với ông xã trưởng cấp cho các em tờ giấy thông hành này, nó sẽ là bùa hộ mệnh của các em. Chúc các em lên đường bình yên. Ông dự thẩm bắt tay chúng tôi, còn ông thú y thì ôm hôn chúng tôi. Chúng tôi vào làng khốn khổ, nay chúng tôi ra đi vinh quang, tay nắm thừng dắt bò, đầu ngẩng cao. Những người nông dân đứng ở ngưỡng cửa nhìn chúng tôi với đôi mắt cảm mến. Mátchia nói: Tao chỉ tiếc có một điều là tại sao cái lão cảnh sát đã bắt chúng mình hôm nay không có mặt ở đây để nhìn chúng mình diễu qua. Lão cảnh sát đó làm sai. Nhưng chúng ta cũng không đúng ở chỗ không bao giờ nghĩ đến việc xin đủ giấy chứng minh lý lịch của mình, để cho người ta biết. Ở Pari thì việc ấy dễ thôi. Chúng tôi đã nhận được một bài học quá đích đáng, đến mức không bao giờ còn tơ tưởng đến thả dây buộc bò nữa. Con bò cái của chúng tôi thì hiền lành đấy nhưng phải cái cũng nhút nhát. Không bao lâu chúng tôi đã tới cái làng tôi ngủ trọ cùng cụ Vitali ngày xưa, Từ đây đến cái dốc đổ xuống làng Savanông chỉ còn phải qua một cánh đồng hoang lớn. Đi vào làng, ngay trước cửa hiệu mà Décbinô đã đánh cắp chiếc bánh, tôi bỗng nảy một ý kiến và vội vàng trao đổi với Mátchia: Cậu có nhớ rằng tớ có hứa đãi cậu ăn bánh kẹp ở nhà má Bácbơranh không? Muốn làm bánh kẹp, phải có bơ, bột, trứng. Chắc là ngon lắm. Còn phải nói! Để rồi cậu xem. Cái món ấy cuộn lại và ta cứ việc tọng đầy mồm. Nhưng có lẽ má Bácbơranh không có bơ, cũng không có bột, vì má nghèo. Hay là ta mang Đến cho má? Ý kiến đó hay đấy! Thế thì cậu coi bò, nhất là đừng buông thừng ra nhé! Tớ vào hiệu này mua bơ, bột. Còn trứng, nếu má không có thì má sẽ đi vay tạm, chứ chúng mình mang trứng đi e dọc đường vỡ mất. Tôi vào ngay hiệu ấy mua một cân bơ, hai cân bột rồi tiếp tục đi. Tôi không muốn thúc con bò đi nhanh, nhưng vì nôn nóng đến nhà, tôi sải những bước dài mà không biết. Còn mười cây số nữa, còn tám. Rồi còn sáu. Lạ chửa! Về đến gần má Bácbơranh, con đường như càng dài ra, dài hơn cái ngày mà tôi đi xa má, mặc dù hôm ấy trời mưa rét đến nỗi bây giờ tôi vẫn còn như thấy thấm da thịt. Tôi hết sức xúc động, hết sức xốn xang, cứ chốc chốc lại nhìn đồng hồ, Tồi nói với Mátchia: Cậu thấy cảnh có đẹp không? Cây cối có làm vướng tầm mắt đâu! Khi chúng mình xuống dốc Savanông thì cậu sẽ thấy cây cối, cây to, đẹp, cây sồi này, cây dẻ này. Có quả dẻ chứ? Sao lại không? Và ở sân nhà má Bácbơranh thì có cây lê với cái cành uốn cong, mình thường leo lên cưỡi ngựa. Nó ra quả to như thế này này, và ngon nữa, rồi cậu xem. Tả cái gì, tôi cũng nói "rồi cậu xem" như một điệp khúc. Tôi thành thật tin rằng tôi đưa Mátchia đi vào cõi tiên. Suy cho cùng thì đối với tôi, đó không phải là cảnh tiên hay sao? Đó, mắt tôi được mở ra nhìn ánh sáng, ở đó tôi mới có cảm giác là được sống, ở đó tôi được sung sướng. Được mến yêu. Những kỷ niệm đau khổ trong cuộc sống phiêu lưu sau này làm cho những niềm vui ban đầu ấy càng thêm thắm thiết. Tôi càng đi đến gần làng quê thì những cảm giác ngây thơ càng như đổ xô về xôn xao, dồn dập trong tim, trong trí. Tuồng như trong bầu trời quê hương có một mùi hương làm tỏi ngây ngất: Cái gì tôi cũng thấy đẹp cả. Lây cái say sưa ấy, Mátchia cũng quay về quê hương, nhưng tội nghiệp, chỉ bằng tưởng tượng. Nó nói: Nếu cậu đến Lúcca thì tớ cũng sẽ chỉ cho cậu bao cái đẹp. Rồi cậu xem! Ừ thì chúng mình sẽ về Lúcca sau khi gặp Êchiênnét, Lidơ và Bănggiamanh. Cậu cũng vui lòng đi Lúcca chứ? Cậu cùng đi với tớ về nhà má Bácbơranh thì tớ sẽ cùng đi với cậu về thăm mẹ và em Crítxtina của cậu. Nêu nó không quá lớn thì tớ sẽ bế nó. Nó cũng là em tớ. Ồ! Rêmi! Nó chỉ nói được bấy nhiêu vì xúc động quá. Vừa nói chuyện, vừa rảo bước đi nhanh, chúng tôi đã đến đỉnh đồi, nơi bắt đầu cái dốc ngoằn ngoèo dẫn đến thôn Savanông. Cái dốc đi qua trước nhà má Bácbơranh. Đi mấy bước nữa, chúng tôi đến cái lũy mà tôi xin phép cụ Vitali ngồi lại để nhìn về nhà má, ngôi nhà mà tôi tưởng như không bao giờ được trông thấy nữa. Tôi bảo Mátchia: "Cầm hộ thừng cho tao!" rồi tôi nhảy phắt lên lũy cỏ: Cái thung lũng của tôi vẫn giữ dáng cũ, không có gì thay đổi; giữa hai lùm cây, mái nhà má Bácbơranh hiện ra. Cậu làm sao thế? -Mátchia hỏi? Xem kìa, xem. Nó đến bên tôi nhưng không leo lên lũy, con bò thì gặm cỏ ở bờ lũy. Tôi nói: Nhìn theo tay tớ đây. Đây là nhà má Bácbơranh, kia là cây lê, và chỗ này là mảnh vườn của tớ. Mátchia chỉ nhìn với con mắt trần, không có ký ức giúp đỡ như tôi, nên không thấy gì lắm, nhưng nó không nói. Lúc bây giờ, một cuộn khói nhỏ màu vàng thoát lên từ ống khói. Trời lặng gió, cuộn khói bay thẳng lên men theo triền đồi, Tôi nói: "Má Bácbơranh ở nhà!" Một luồng gió nhẹ thổi qua hàng cây, bẻ gãy cuộn khói và phả khói vào mặt chúng tôi. Trong khói có mùi lá sồi. Bỗng chốc, tôi cảm thấy nước mắt trào ra và tôi nhảy xuống, ôm hôn Mátchia. Capi: Nhảy lên lòng tôi, tôi đưa tay ôm nó và cũng hôn nó. Còn Mátchia thì đến hôn trán con bò. Tôi bảo: Ta đi xuống mau đi. Nếu má Bácbơranh ở nhà thì làm sao chúng tôi bố trí cái chuyện bất ngờ được? Cậu đi vào một mình: Cậu bảo là cậu nhân danh hoàng tử, mang bò đến cho má, và khi má hỏi hoàng tử nào, thì tớ hiện ra. Rõ tiếc là ta không tổ chức được một đám rước có nhạc tấu! Mátchia, chớ có vớ vẩn! Cậu yên trí, tớ không buồn diễn lại cái trò ấy đâu! Giá như cô gái hoang dã này mà ưa âm nhạc để ta tấu một khúc quân nhạc thì hay biết bao nhiêu! Chúng tôi vừa đến một khúc ngoặt ngang tầm nhà má Bácbơranh thì thấy một cái khăn trùm trắng hiện ra trong sân: Đó là má Bácbơranh. Má mở cổng, ra đường và đi về phía thôn xóm. Chúng tôi dừng lại và tôi chỉ cho Mátchia. Nó nói: Má đi thì làm sao thực hiện được cái trò bất ngờ của chúng ta. Ta sẽ bày một trò khác. Trò gì? Tớ chưa nghĩ ra. Hay là cậu gọi má? Tôi rất muốn gọi, nhưng rồi nén được. Đã bao lâu nay, tôi say sưa với cái ý nghĩ chơi một trò bất ngờ, bây giờ không dễ gì trong khoảnh khắc mà từ bỏ được ý định ấy. Lát sau, đã đến cổng nhà, chúng tôi đi vào tự nhiên như xưa kia tôi vẫn ra vào. Tôi biết má Bácbơranh có thói quen chỉ kéo chốt ngoài, cho nên chúng tôi có thể vào nhà ngay được, nhưng trước hết phải nhốt con bò vào chuồng cái đã. Tôi đi xem chuồng, thấy nó vẫn như cũ, duy vướng những củi. Tôi gọi Mátchia lại. Buộc con bò trước máng xong, chúng tôi xếp củi vào một xó. Công việc này làm không mất nhiều thì giờ lắm vì chỗ củi dự trữ của má cũng chả là bao. Tôi bảo Mátchia: Bây giờ thì chúng mình vào nhà đi! Tớ ngồi vào xó bếp để cho má bắt gặp tớ ở đấy. Còn cậu, vì cái cổng kêu cót két khi má đẩy, cho nên cậu sẽ có đủ thì giờ để trốn ra saugiường với con Capi. Như thế, mả chỉ bắt gặp mỗi mình tớ. Cậu tưởng tượng xem má sẽ ngạc nhiên chừng nào! Công việc được xếp đặt như tôi nói. Chúng tôi đi vào nhà, tôi đến bên lò sưởi, ở chỗ tôi đã ngồi những mùa đông năm xưa. Không thể hớt mớ tóc dài, tôi bỏ nó vào trong cổ áo, tôi thu hình lại, cho giống Rêmi, bé Rêmi của má Bácbơranh ngày trước. Từ chỗ ấy, tôi nhìn thấy cổng, không sợ gì má hiện về đột ngột. Ngồi ở chỗ đó, tôi nhìn ra chung quanh. Dường như tôi mới rời nhà ngày hôm qua thôi, bởi vì không có cái gì thay đổi cả. Mọi vật đều ở nguyên chỗ cũ cho đến miếng giấy dán tấm kính mà tôi đánh vỡ đã ám khói vàng cả đi mà cũng không được thay. Nếu đứng dậy mà đi đi lại lại để nhìn tận mắt từng vật thì thú đấy, nhưng má có thể về bất thình lình, cho nên tôi đành phải ngồi mà quan sát. Bỗng tôi thấy chiếc khăn trùm trắng hiện ra, đồng thời cánh cổng rít lên. Tôi nói: - Mátchia, mau mau trốn đi! Và tôi càng thu mình lại. Cửa mở. Từ ngưỡng cửa, má Bácbơranh trông thấy tôi. Má Hỏi: Ai đấy? Tôi nhìn má, không đáp. Má cũng nhìn tôi. Đột nhiên hai tay má run lẩy bẩy, má kêu Khẽ: Trời ơi! Trời ơi! Thật thế sao? Rêmi đó sao? Tôi đứng lên, chạy xổ đến ôm má: Má! Con! Con tôi đây mà! Hẳn thế, nếu má không ngày đêm nhớ con thì có đâu mà nhận ra con ngay: Con đã thay đổi nhiều, lớn thổi lên, khỏera! Một tiếng khịt mũi nén lạí nhắc tôi nhớ rằng có Mát- chi-a núp đằng sau giường. Tôi gọi nó, nó đứng lên. Đây là Mátchia, em con. Ồ! - Má reo lên. - Con đã tìm ra bố mẹ ư? Không. Con muốn nói đó là bạn nghề nghiệp của con, bạn chí thiết của con. Và đây là Capi, cũng là bạn nghề nghiệp, là bạn chí thiết của con. Capi, chào bà mẹ của chủ mày đi. Capi đứng lên trên hai chân sau, đặt một chân trước ngực và cúi chào trịnh trọng, làm má Bácbơranh cười và ráo cả nước mắt. Mátchia không bị một lý do nào làm cho quên cái trò bất ngờ như tôi, cho nên nó ra hiệu nhắc tôi. Tôi bảo má: Nếu má vui lòng thì má con ta ra sân một lát. Con muốn xem cây lê quý mà đã nhiều lần con khoe với Mátchia. Ta cũng nên đi xem mảnh vườn của con, vì má vẫn giữ nguyên như con xếp đặt, để khi con trở về thì sẽ tìm thấy cảnh xưa. Bao giờ má cũng tin rằng con sẽ trở vể, mặc dù thiên hạ nói này nói nọ. Những củ cúc vu con trồng, má có thấy ngon không? Hóa ra cái bất ngờ là cửa con đấy à? Má cũng đoán như vậy. Lúc nào con cũng ưng chơi trò bất ngờ. Đã đến lúc rồi! Tôi nói: Còn cái chuồng bò, từ khi vắng con Rútxét tội nghiệp thì có gì thay đổi không? Con Rútxét, cũng như con, nó chả muốn đi. Không có gì thay đổi, hẳn thế. Má chất củi ở đó. Lúc bấy giờ chúng tôi vừa đến đứng trước chuồng bò. Má Bácbơranh đẩy cửa. Con bò đang đói, chắc nghĩ người ta đến cho ăn, nên rống lên tức khắc. Má Bácbơranh hét: - Bò! Chao ôi! Trong chuồng có bò! Không nén được nữa, Mátchia và tôi cười vang. Má Bácbơranh kinh ngạc nhìn chúng tôi. Nhưng chuyện con bò bị nhốt sẵn trong chuồng này là chuyện quá hoang đường, chúng tôi có reo cười bao nhiêu, má cũng không vỡ lẽ. Tôi nói: Đây là một điều bất ngờ chúng con biếu má, nó cũng xứng với củ cúc vu má không ước mà có, phải không má. Một trò bất ngờ, một trò bất ngờ! - Má lặp đi lặp lại. Con không muốn trở về nhà má Bácbơranh hai tay không, bà má đã tốt đến thế với bé Rêmi cù bơ cù bất. Nghĩ mãi xem món quà gì có ích cho má hơn hết con thấy không gì hay hơn là có một con bò sữa má nuôi thay con Rútxét. Chúng con mua con bò này ở chợ phiên Uýtxen với số tiền anh em chúng con kiếm được! Má Bácbơranh ôm tôi vào lòng, kêu lên: Ôi, thằng con quý hóa, thằng bé mến yêu! Thế rồi chúng tôi vào chuồng bò để má nhìn cho kỹ con bò sữa đã trở thành bò của má. Mỗi khi tìm thấy một dấu hiệu gì tốt trên con bò, má reo lên sung sướng, khâm phục: "Con bò tốt làm sao!". Bỗng má ngưng lại, nhìn tôi: Này! Thế là con đã trỏ nên giàu có chăng? Có lẽ thế! - Mátchia vừa cười vừa nói. - Anh em chúng con còn những năm mươi Tám xu. Má Bácbơranh lặp lại điệp khúc trước, nhưng có thay đổi: "Hai thằng bé mến yêu!". Tôi sung sướng thấy má nghĩ đến Mátchia và gộp cả hai đứa vào một mối tình yêu mến. Con bò vẫn kêu rống lên. Mátchia nói: Nó đòi người ta vắt sữa cho nó đấy. Không để ý nghe ngóng gì nữa, tôi chạy vào trong nhà tìm cái thùng thiếc đem kỳ cọ thật sạch. Cái thùng này trước kia vẫn dùng để vắt sữa con Rútxét và vẫn treo ở chỗ cũ, mặc dầu đã từ lâu chẳng còn bóng dáng bò bê gì trong chuồng của má Bácbơranh cả. Tôi múc đầy thùng nước rửa sạch vú bò bám đầy bụi đường. Thấy đến ba phần tư thùng đầy một thứ sữa đẹp mỡ màng, má Bácbơranh vui sướng vô cùng. Má nhận xét: Có lẽ nó mọng sữa hơn con Rútxét! Mátchia nói: Lại còn ngon nữa chứ! Ngửi như mùi hoa cam. Má Bácbơranh ngạc nhiên nhìn Mátchia; hẳn là má đương nghiệm xem cái mùi hoa cam là mùi gì. (1) Mátchia không bao giờ giữ riêng cho mình những điều hiểu biết. Nó nói tiếp: Đó là món sữa tuyệt ngon cháu được uống ở bệnh viện khi ốm phải nằm ở đó. Vắt sữa xong, sau khi thả bò giữa sân để cho nó ăn cỏ, chúng tôi trở vào nhà. Trên chiếc bàn giữa nhà, trong khi vào lấy thùng đựng sữa, tôi đã bày biện bơ và bột ra. Khi má Bácbơranh trông thấy những món không ước mà có này nữa, thì má lại kêu lên. Nhưng lòng thành thật buộc tôi phải ngăn má: Chỗ quà này sắm ra là để cả cho chúng con nữa chứ không phải dành riêng cho má. Chúng con đói đến suýt chết đây và chúng con muốn ăn bánh kẹp. Má có nhớ cái ngày thứ ba ngả mặn cuối cùng mà con còn ở nhà này không? Cái ngày ấy, má con ta bị cản trở, chỗbơ má vay để làm bánh kẹp cho con lại bị dùng để phi hành trong chảo. Lần này thì chúng ta không bị quấy rầy đâu. Con biết ông Bácbơranh hiện ở Pari à? Vâng. Thế con có biết ông ấy đi Pari làm gì không? Không, má ạ. Cái này quan hệ đến con đó, con ạ. Quan hệ đến con? - Tôi kêu lên, sợ hãi. Ồ! Má cứ nói trưỡc mặt Mátchia đi! Con đã bảo nó là anh em với con mà, cái gì quan hệ đến con thì cũng quan hệ đến nó. À, cái việc này nói ra thì cũng dài lắm.. Ông Bácbơranh sắp về chăng? Ồ! Không. Thế thì không việc gì phải vội, ta hãy lo cái khoản bánh kẹp cái đã, rồi sau má hãy bảo cho con biết việc ông Bácbơranh đi Pari có lý thú gì đối với con. Không sợ ông ta về phi hành trong chảo của mình nữa thì không vội gì. Má có trứng không? Không, má không còn gà. Chúng con không mua trứng về cho má vì sợ mang đi vỡ. Má có thể đi vay không? Má có vẻ lúng túng. Tôi mới vỡ lẽ rằng má vay quá nhiều bận rồi, bây giờ khó nói vay Thêm. Tôi nói: Thôi, để con đi mua thì hơn, còn má ở nhà nhào bột với sữa. Mua trứng đằng lão Xôkê phải không má? Con chạy đi đây. Má bảo Mátchia bổ củi, nó bổ giỏi lắm. Đến quán lão Xôkê, tôi mua một tá trứng, lại mua thêm một thẻo mỡ. Về nhà thì bột Đã nhào sữa, chỉ còn có việc đánh trứng vào mà thôi. Đành rằng bột sẽ không kịp dậy, nhưng chúng tôi đói quá, chờ sao được. Dù bánh làm như thế ăn có hơi nặng bụng, hai cái dạ dày khá khỏe của chúng tôi cũng phớt đều. Má Bácbơranh vừa đánh bột vừa nói: Này, con ngoan như vậy mà cớ sao chẳng bao giờ con nhắn tin về cho má cả? Con có biết rằng nhiều khi má tưởng con chết rồi không, vì má tự nhủ: Nếu Rêmi còn sống thì chắc thế nào nó cũng viết thư về cho má Bácbơranh của nó chứ? Nhưng má Bácbơranh của con không ở một mình. Con biết má sẽ không tự đọcđược những bức thư con viết mà bên cạnh má có ông bố Bácbơranh mà con rất sợ. Ông ấy là ông chủ duy nhất trong nhà, ông đã tỏ quyền hành của ông ta khi bán con với giá bốn mươi phờrăng cho một ông cụ nhạc sĩ. Rêmi, đừng có nhắc làm gì những chuyện ấy con! Con nhắc không phải để mà ca thán mà để cho má hiểu vì sao con không dám viết thư cho má thôi. Con sợ để người ta tìm thấy thì sẽ bị bán đi lần nữa, mà con thì chẳng muốn bán đi tí nào. Chính vì thế mà khi con mất ông chủ già của con, ông ấy là một người tốt, con cũng không viết thư cho má. Ồ! Ồng nhạc sĩ già ấy chết rồi à? Vâng, và con khóc ông cụ rất nhiều, bởi vì con biết những gì ngày nay và con tự kiếm sống được là nhờ ông ấy. Sau khi ông cụ qua đời, con cũng được những người tốt cưu mang và con làm với họ. Nhưng nếu con viết thư nói với má: "Con làm vườn ở khu Glaxie" Thì e ông Bácbơranh đến bắt con mất! Hoặc là ông sẽ đến đòi tiền công ở những người tốt bụng ấy, cả hai việc ấy con đều không muốn. Ừ, má hiểu rồi. Dù thế nào, con vẫn nhớ má và một đôi khi gặp chuyện buồn khổ, con vẫn thầm kêu cứu má. Đến khi con được tự do muốn làm gì thì làm thì con về hôn má đây. Không về ngay, đành thế, vì có phải muốn cái gì là người ta làm được cái đấy đâu, vả lại con có một ý định không dễ gì thực hiện. Phải kiếm đủ tiền tậu bò thì mới có bò đem về cho má chứ, mà tiền thì nó không rơi lộp bộp vào túi chúng con thành những đồng năm phờrăng tươi tốt. Phải đánh bao nhiêu bản đàn dọc đường, bản vui có, bản buồn có, phải đi nhiều, phải đổ mồ hôi, chịu thương chịu khó, chịu thiếu thốn mọi bề! Nhưng càng vất vả bao nhiêu lại càng sung sướng bấy nhiêu, phải thế không Mátchia? Mỗi tối lại đem tiền ra đếm, không những đếm chỗ làm ra ngày hôm đó, lại đếm cả số đã có từ trước để xem nó gấp đôi chưa! Chao ôi! Hai thằng con quý hóa! Hai thằng bé mới ngoan làm sao! Má Bácbơranh quấy bột đổ làm bánh, Mátchia bổ củi, còn tôi vừa kể chuyện vừa bày cốc đĩa trên bàn. Rồi tôi ra giếng múc nước. Lúc trở vào thì chậu đã đầy một thứ bột sền sệt, màu vàng óng ả, còn má thì đang cọ chảo bằng một nùi rơm. Mátchia bỏ từng que củi vào bếp để nuôi ngọn lửa hồng rất đượm trong lò. Ngồi xổm bên bếp, con Capi theo dõi mọi việc với đôi mắt cảm kích; nó bị nóng quá, thỉnh thoảng giơ một chân lên, rồi lại đổi chân khác, mồm kêu khe khẽ. Ánh lửa chói chang len vào những xó tối, mấy hình nhân in trên vải màn nổi lên nhảy múa, những hình nhân xưa kia bao lần làm tôi khiếp sợ những khi tỉnh giấc dưới ánh trăng. Má Bácbơranh đặt chảo lên bếp, lấy dao xén một lát bơ gảy vào chảo, bơ tan ngay. Mátchia bất chấp nóng bỏng cúi sát trên chảo reo: "Thơm quá!". Bơ reo líu ríu, Mátchia hét: "Nó hát kìa! Chao ôi! Tớ phải đệm đàn cho nó mới được". Đối với Mátchia thì làm cái gì cũng phải có nhạc. Nó lấy chiếc vĩ cầm ra và nhẹ nhàng, tỉ tê nó đệm đàn cho khúc ca của cái chảo, khiến má Bácbơranh cười vang. Tuy nhiên giây phút này nghiêm trọng quá, không phải là lúc vui đùa. Má Bácbơranh vục chiếc môi vào chậu bột, múc một môi: Bột tràn chảy xuống thành những sợi chỉ bạc. Má đổ bột vào chảo; bột loang thành một vạt trắng, còn bơ thì tản ra chung quanh viền một dường màu hung. Đến lượt tôi chồm tới. Má Bácbơranh vỗ vào cán chảo rồi trở tay một cái, má đã hắt cái bánh lên cao, làm Mátchia hoảng hốt. Nhưng không can gì! Ngao du trên không trung một thoáng, cái bánh lại rơi vào chảo, lật trái lại, phơi mặt vàng lên trên. Tôi vừa kịp cầm cái đĩa lên thì bánh đã trượt vào đĩa. Chiếc này dành cho Mátchia. Nó bị nóng bỏng cả tay, môi, lưỡi, họng, nhưng hề gì! Nó chẳng thèm nghĩ tới chuyện bỏng. Bánh đầy cả mồm, nó nói: "Chao ôi! Ngon quá!". Đến lượt tôi chìa đĩa ra, rồi cũng bị nóng bỏng mồm bỏng miệng. Nhưng cũng giống như Mátchia tôi phớt lạnh. Cái bánh thứ ba đã vàng và Mátchia chìa tay ra, nhưng con Capi sủa một tiếng dữ dội: Nó đòi phần nó. Thế là công bằng, cho nên Mátchia trao bánh cho nó, khiến má Bácbơranh không bằng lòng, vì sao lại cho chó ăn như người? Để an ủi má, tôi giải thích cho má rõ con Capi là một con chó biết diễn trò, vả lại nó cũng có đóng góp vào số tiền mua bò. Ngoài ra, nó là bạn nghề nghiệp của chúng tôi, nó phải ăn như chúng tôi, cùng với chúng tôi mới hợp lẽ. Vảlại má đã nói rằng má không động tới bánh kẹp chừng nào cơn đói của chúng tôi chưa dịu đi. Phải lâu lắm, cơn đói nhất là sự háu ăn của chúng tôi mới dịu đi. Nhưng mãi rồi cũng đến lúc hai chúng tôi đồng thanh tuyên bố nếu má không ăn vài miếng thì chúng tôi cũng kiên quyết không ăn thêm một chiếc nào. Và thế là đến lượt tôi, rồi Mátchia muốn tự mình làm bánh kẹp. Bỏ bơ, đổ bột vào chảo không khó, chỉ có cái khoản hắt chảo để cho bánh nhảy lên thì chúng tôi vung tay quá. Tôi đưa một chiếc vào tro, còn Mátchia hắt một chiếc nóng bỏng lên tay nó. Cuối cùng, khi đã vét hết chậu bột thì Mátchia muốn ra sân xem con bò ăn uống ra sao. Và thế là không nghe bàn tới bàn lui gì hết, nó đi ra, để má Bácbơranh và tôi ở lại với nhau: Nó đã nhận thấy má Bácbơranh không muốn nói đến "cái việc có quan hệ với tôi" ở trước mặt nó. Còn tôi, chờ được đến lúc này, không phải là không nóng ruột, và đúng là cái việc làm bánh kẹp nó hấp dẫn quá nên tôi mới gác được chuyện kia. Nếu lão Bácbơranh đang ở Pari thì, theo tôi đoán, là để tìm cụ Vitali đòi tiền thuê tôi những năm quá hạn. Tôi thì chẳng dính dáng gì vào chuyện ấy. Cụ Vitali chết rồi, còn trả được gì cho lão ta. Còn tôi thì lão đâu có quyển đòi gì ở tôi. Nhưng nếu không thể moi được tiền ở tôi thì lão có thể đòi tôi phải trả cái con người tôi cho lão. Tóm được tôi, lão lại đem cho mướn, ai mướn cũng được, miễn cứ trả cho lão một món tiền. Chính là tôi phải quan tâm đến điều đó và có thể phải quan tâm rất nhiều bởi vì tôi quyết tâm làm đủ mọi cách cho đến cùng mới chịu khuất phục uy quyền lão Bácbơranh ghê tởm! Nếu cần, tôi sẽ đi ra khỏi đất Pháp, tôi có thể sang Italia với Mátchia, mà cũng có thể sang châu Mỹ, đi đến tận cùng thế giới! Suy nghĩ như thế tôi tự dặn mình phải thận trọng với má Bácbơranh. Không phải là tôi nghi ngờ má, má thân yêu. Tôi biết rằng má yêu quý tôi biết bao nhiêu, má hết lòng với tôi bao nhiêu! Nhưng má vốn sợ ông chồng, tôi đã rõ! Nếu tôi thổ lộ quá đà với má, tất vô tình má có thế nhắc lại với lão Bácbơranh, khiến lão có thể đuổi theo tôi và tóm cổ tôi. Nếu xảy ra như vậy thì rõ ràng là cũng vì tôi một phần! Bởi thế, tôi phải giữ ý. Mátchia đi khỏi rồi, tôi hỏi má Bácbơranh: Bây giờ chỉ còn má với con, má hãy cho con biết việc ông Bácbơranh đi Pari vì sao lại liên quan đến con? Hẳn chứ, má vui lòng nói lắm. Vui lòng nói? - Tôi thẳng thắn hỏi. Má không nói tiếp mà ra cửa nhìn. Khi đã yên lòng, má trở lại và nụ cười trên môi, má hạ giọng: Hình như gia đình con tìm con! Gia đình con! Ừ, gia đình con, Rêmi ạ. Con có gia đình ư? Con có gia đình, má ơi, con, cái thằng bị bỏ rơi này mà cũng có gia đình? Chắc người ta không cố ý bỏ con đâu, vì giờ đây người ta đi tìm con mà lị! Ai tìm con? Ôi! Má Bácbơranh ơi! Má nói đi nói đi, con van má!.. Nhưng không, không có thể như thế. Chỉ có ông Bácbơranh ông ấy tìm con mà thôi. Ừ, đúng là ông Bácbơranh đi tìm đấy, nhưng tìm cho gia đình con. Không, ông ấy tìm cho ông ấy đấy, tìm để bắt con lại, để bán con lần nữa. Nhưng Ông ta không bắt con được đâu. Chao ôi! Rêmi con, sao con nỡ nghĩ là má nhúng tay vào công việc ấy? Ông ta muốn đánh lừa má đấy! Nào Rêmi, hãy tỏ ra biết điều đi con! Con nghe những điều má nói con đây và đừng có sợ bóng sợ gió như vậy. Con đâu có quên được! Con hãy nghe má kể những điều chính tai má nghe thấy đây và chắc con sẽ tin, phải không? Tính tới ngày thứ hai tới đây là vừa tròn một tháng, hôm ấy má đương lục đục trong bếp thì một ngài tử tế vào nhà, lúc đó có ông Bácbơranh ở nhà. Ông khách hỏi với giọng một người có lẽ không ở vùng ta: "Ông phải chăng là ông Bácbơranh? - Phải, chính tôi. - Có phải ông đã bắt được một đứa trẻ ở Pari, phố Brơtơi, và ông đã nhận nuôi nó? - Phải. - Thế bây giờ đứa bé ở đâu, mong ông cho biết. - Ngài cần biết để làm gì thưa ngài?". Giá tôi có nghi má Bácbơranh nói rõ thì đến đây, nghe câu trả lời sốt sắng của lão Bácbơranh, tất tôi cũng tỉnh ngộ rằng má nghe cái gì thì kể nguyên lại cái ấy. Má nói tiếp: Con biết rằng ở trong bếp, có thể nghe hết những gì người ta nói với nhau ngoài nhà. Vả lại vì là việc của con nên má muốn lắng tai nghe. Lúc bấy giờ, má nhích lại gần và giẫm phải một cành củi làm nó gãy rắc. Ông khách hỏi: "Thế không phải chỉ có hai ta? - Đó là vợ tôi. Ở đây bức quá! Nếu ông vui lòng thì chúng ta đi chơi để nói chuyện". Cả hai ông đi ra và đến ba bốn tiếng đồng hồ sau, ông Bácbơranh mới trở về một mình. Con tưởng tượng xem má tò mò muốn biết đến thế nào câu chuyện ông Bácbơranh và cái ngài, có lẽ là bố con đã nói với nhau. Nhưng ông Bácbơranh không chịu nói hết. Ông chỉ bảo ông kia không phải là bố con, nhưng ông ta tìm con vì gia đình con. Thế gia đình con ở đâu? Nó thế nào? Con có bố không? Có mẹ không? Cũng như con, má hỏi ông Bácbơranh những điều đó. Ông ấy bảo ông không biết gì sất. Rồi ông nói tiếp là ông sẽ đi Pari để tìm cái ông nghệ sĩ đã mướn con, ông này để địa chỉ Phố Luốcxin, tại nhà một nghệ sĩ khác tên là Garôphôli. Má nhớ rõ cái tên ấy, con cũng phải nhớ lấy! Con đã biết, má cứ yên lòng. Từ ngày ra đi đến nay, ông Bácbơranh không tin cho má biết gì thêm nữa sao? Không, chắc là ông ấy còn đang tìm. Ông khách đã cho ông ấy năm đồng Lui vàng, tức là một trăm phờrăng. Món tiền đó, cùng với những tã xinh đẹp đùm bọc con lúc bắt Được con, chứng tỏ cha mẹ con giàu sang. Khi má thấy con ngồi ở chỗ kia, bên cạnh bệ sưởi, má ngỡ rằng con đã gặp cha mẹ, vì thế mà tưởng chú bạn của con đây là em con. Vừa lúc ấy, Mátchia đi qua trước cửa, tôi gọi nó: Mátchia! Bố mẹ tao đi tìm tao. Tao có gia đình, một gia đình thực sự, mày ạ! Nhưng, lạ chưa! Mátchia không có vẻ gì tỏ ra chia nỗi vui sướng về niềm phấn khởi của tôi cả. Bởi vậy, tôi thuật cho nó nghe câu chuyện má Bácbơranh đã kể với tôi.
Chương 31: Gia đình cũ và gia đình mới Bấm để xem Đêm hôm ấy tôi ngủ ít. Vậy mà trong những năm gần đây, biết bao lần tôi đã sướng rơn lên mỗi khi nghĩ tới được ngủ trên cái giường hồi nhỏ của mình. Trước kia tôi đã được nằm trên đó bao nhiêu tối, nép vào một góc, đánh một giấc dài đến sáng, chăn phủ tận cằm. Và cũng đã biết bao phen bắt buộc phải ngủ ngoài trời. Mà than ôi! Có phải lúc nào trời cũng tốt đâu. Biết bao phen co quắp vì rét cóng ban đêm hoặc lạnh buốt trong sương sớm, tôi đã nhớ tiếc tấm chăn ấm áp ấy! Đặt lưng xuống, tôi ngủ ngay, thấm mệt sau ngày đi đường và cả sau cái đêm trong nhà giam nữa! Nhưng chẳng mấy chốc tôi đã thức giấc và thế là chong mắt suốt sáng: Tôi bồn chồn quá, tôi nôn nóng quá. Ôi! Gia đình tôi! Trong giấc ngủ, tôi cũng nghĩ đến cái gia đình ấy của tôi. Khoảnh khắc ngắn được yên giấc, tôi đã nằm mơ thấy gia đình, bố mẹ, anh chị em. Vẻn vẹn mấy phút đồng hồ, tôi đã thấy mình cùng sống với những người mình chưa từng biết, bây giờ mới gặp lần đầu. Một điều lạ, Mátchia, Lidơ, má Bácbơranh, bà Miligơn, Áctơ, đều là trong gia đình tôi, mà bố tôi là cụ Vitali, cụ đã sống lại và rất giàu có. Trong thời gian xa cách, cụ đã tìm thấy con Décbinô và con Đônxơ, chứ không phải chúng đã vào miệng sói. Tôi nghĩ rằng chẳng ai lại không có lần thấy những ảo ảnh qua đó chỉ trong khoảnh khắc mình đã sống hàng năm trời và đi hàng vạn dặm. Ai ai cũng nhận thấy rằng sau khi tỉnh dậy, những cảm giác trong giấc mơ vẫn được giữ mãnh liệt và nồng nàn. Tôi tỉnh giấc.. Và thế là tôi không ngủ lại được nữa. Rồi những cảm giác của ảo ảnh cũng mờ nhạt dần; thực tại lại xâm chiếm tâm trí tôi và khiến tôi càng khắc khoải thao thức. Gia đình tôi tìm tôi. Nhưng muốn gặp gia đình, tôi phải tìm tới chính cái lão Bácbơranh mà hỏi! Chỉ một ý nghĩ đó cũng đủ giảm niềm vui của tôi. Tôi thì cứ muốn rằng lão Bácbơranh đừng có can dự vào hạnh phúc của tôi. Tôi có bao giờ quên những lời lão bảo cụ Vitali khi lão bán đứng tôi cho cụ. Và tôi luôn luôn nhắc lại cho mình cái câu: "Những kẻ nào nuôi thằng bé này nhất định được hưởng một món bổng lớn. Nếu tôi không tính toán điều đó thì dại gì giữ lấy nó". Điều đó, từ dạo ấy, đã làm cho tôi thêm ghét lão Bácbơranh. Đâu có phải vì từ tâm mà lão Bácbơranh đã nhặt tôi ngoài đường phố. Cũng lại không phải vì từ tâm mà lão nhận nuôi tôi, mà đơn giản chỉ vì tôi được bọc trong những tấm tã đẹp, chỉ vì một ngày nào đó lão sẽ được hưởng lợi khi lão trả tôi cho bố mẹ tôi. Cái ngày ấy lại không đến sớm như lão mong, lão bèn bán tôi cho cụ Vitali. Bây giờ lão lại muốn đem tôi cho bố tôi chuộc. Vợ chồng sao khác nhau đến thế! Má Bácbơranh đâu phải vì tiền của mà yêu quý tôi! Ôi! Tôi chỉ muốn tìm được cách nào để chính má, chứ không phải lão Bácbơranh, được hưởng lợi! Nhưng trăn trở mãi vẫn chẳng nghĩ ra được cách nào, tôi cứ luôn luôn luẩn quẩn với cái ý nghĩ tuyệt vọng là rồi đây chính cái lão Bácbơranh ấy sẽ dẫn tôi đến với bố mẹ tôi, chính lão ta sẽ được cảm ơn, tặng thưởng! Nhưng cũng đành phải qua con đường ấy thôi! Chẳng còn cách nào khác! Chỉ còn là ở chính tôi, sau này, khi đã giàu có, tôi sẽ tỏ rõ tình cảm của mình đối với người vợ và người chồng đó khác nhau như thế nào. Rồi đây chính tôi sẽ đích thân trả ơn má Bácbơranh. Giờ đây thì tôi cứ phải nghĩ đến lão Bácbơranh, nghĩa là phải đi tìm lão và kiếm cho ra lão! Lão không thuộc vào loại những ông chồng mỗi bước ra khỏi nhà cũng nói cho vợ biết mình đi đâu và nếu cần có thể tìm ở đâu. Má Bácbơranh chỉ biết là chồng bà hiện nay đang ở Pari. Từ ngày lão ra đi, lão chưa hề gửi một chữ, cũng chưa hề nhắn nhủ gì qua một vài người thợ nề quay về làng. Lão đâu có quen giữ nghĩa tình như thế! Lão ở đâu! Lão trú ngụ nơi nào? Má chẳng biết chút gì để có thể gửi thư cho lão. Tuy nhiên cũng chỉ cần tìm đến vài ba quán trọ ở khu phố Mutơpha mà má nhớ rõ tên, không quán này thì quán kia, là có thể gặp được lão. Vậy thì tôi phải đi ngay Pari và tự tôi tìm lấy con người đương đi tìm tôi. Tất nhiên gia đình quả là một niềm vui lớn, nhưng trong những điều kiện và hoàn cảnh mà nó đến với tôi, niềm vui ấy đâu đã trọn vẹn. Tưởng rằng chúng tôi sẽ được sống một thời gian yên tĩnh vui sướng bên cạnh má Bácbơranh, cùng Mátchia chơi những trò chơi hồi thơ ấu, thế mà ngay sáng mai, chúng tôi đã phải lên đường! Từ nhà má Bácbơranh, đáng ra tôi đi về phía bờ biển, tới Étnăngxơ thăm chị Êchiênnét. Bây giờ đành hoãn chuyến đi ấy và không còn được ôm hôn chị Êchiênnét tội nghiệp trước kia tốt với tôi và trìu mến tôi biết bao! Và lẽ ra sau khi gặp chị Êchiênnét, tôi phải đến Đrơdy, trong vùng Nievơrơ, để nói cho Lidơ biết tin anh và chị của em rồi. Bây giờ cũng đành hoãn việc đến Lidơ cũng như hoãn việc đến thăm chị Êchiênnét. Tôi thao thức gần suốt đêm, loay hoay với tất cả những ý nghĩ trên, lúc thì lòng tự nhủ không thể mặc kệ chị Êchiênnét và em Lidơ, lúc trái lại nghĩ rằng mình phải đi gấp đến Pari, càng sớm càng tốt, để tìm gia đình. Cuối cùng thì tôi ngủ thiếp đi, chẳng dứt khoát được gì. Cái đêm ấy, lẽ ra là một đêm sướng nhất, thì lại là một đêm trằn trọc nhất, kém vui nhất trong hồi ức của mình. Sáng hôm sau, cả ba chúng tôi, má Bácbơranh, Mátchia và tôi, ngồi bàn công việc bên lò sưởi quanh ngọn lửa trong sáng trên đó chúng tôi hâm sữa bò. Tôi phải làm thế nào bây giờ đây? Thế là tôi kể lại những nỗi thấp thỏm, những niềm băn khoăn tối hôm qua. Má Bácbơranh nói: Con phải đi Pari ngay. Cha mẹ con đang tìm con. Con đừng nên bắt người ta nay chờ mai đợi, phải mau mang niềm vui về cho cha mẹ con. Má trở đi trở lại với ý kiến ấy, đưa ra nhiều lý lẽ để bênh vực nó. Nghe má giải thích, tôi thấy lý lẽ nào cũng xác đáng như lý lẽ nào. Tôi nói: Thế thì chúng con đi Pari, đồng ý như vậy. Nhưng mà ngược lại Mátchia không tán thành cách giải quyết đó tí nào cả. Tôi bảonó: Cậu cho là chúng mình không nên đi Pari, thế sao cậu không đưa ra lý lẽ, như má Bácbơranh? Nó lắc đầu. Tôi tiếp: Cậu thấy mình khổ tâm thế này thì còn do dự gì nữa mà không giúp đỡ mình? Mình nhận thấy rằng có mới nới cũ là không nên. Cho tới nay, gia đình của cậu là Lidơ, Êchiênnét, Alơxi và Bănggiamanh. Chúng nó đều là anh chị em của cậu và yêu thương cậu. Thế rồi một gia đình mà cậu chưa biết bao giờ, một gia đình mới xuất hiện. Gia đình đó chưa làm được cái gì cho cậu, trừ cái việc vứt bỏ cậu ngoài đường phố. Thế mà đột nhiên cậu lại bỏ những người đã ăn ở tốt với cậu để chạy theo những người chưa có vẻ gì là tốt với cậu cả. Mình thấy như vậy không công bằng! Không nên nói rằng bố mẹ Rêmi đã bỏ nói. - Má Bácbơranh ngắt lời Mátchia. - Có lẽ người ta đã bắt mất con của họ, họ vẫn thương nhớ nó, chờ đợi nó và tìm kiếm nó lâu nay thì đúng hơn. Cháu không biết cái đó! Cháu chỉ biết rằng ông Acanh đã nhặt được Rêmi ngắc ngoải ở xó cửa nhà ông. Rồi ông đã chăm nom nó như con đẻ. Và Alơxi, Bănggiamanh, Êchiênnét, Lidơ đã thương yêu nó như anh em ruột thịt. Cháu cho rằng những người đón nó về nuôi cũng có quyền được nó quyến luyến như những người dù hữu ý hay vô tình đã để mất nó. Ở ông Acanh và các con ông, tình quyến cố là do tự lòng họ. Họ chẳng hề chịu ơn gì của Rêmi cả. Mátchia nói những câu ấy mà không nhìn tôi, không nhìn má Bácbơranh, như có vẻ giận tôi. Tôi khổ tâm. Nhưng dù có buồn lòng vì chê trách đi nữa, tôi vẫn cảm thấy lý lẽ của nó vững chắc. Vả lại, tôi đang ở vào tình trạng những người thiếu quyết đoán, thường ngả về phía ai nói sau cùng. Tôi đáp: Mátchia nói phải đấy! Chưa gặp được chị Êchiênnét và Lidơ mà đã định đi Pari thì lòng con không khỏi áy náy. Thế còn bố mẹ con! - Má Bácbơranh năn nỉ. Chúng ta sẽ không đến thăm chị Êchiênnét, vì đường vòng như thế xa quá! Vả lại chị Êchiênnét biết đọc và biết viết, chúng ta có thể viết thư cho chị ấy. Nhưng trước khi đi Pari chúng ta sẽ tạt qua Đrơdy thăm Lidơ. Như thế sẽ chậm đi một chút ít, nhưng không là bao. Vả lại em Lidơ không biết viết và chính là vì em trước hết mà hồi nọ mình đã vạch hành trình này. Mình sẽ nói chuyện Alơxi với em. Còn chị Êchiênnét thì mình sẽ bảo chị gửi thư về Đrơdy cho mình. Nhận được thư, mình sẽ đọc cho Lidơ nghe. Tốt lắm. - Mátchia mỉm cười đáp lại. Chúng tôi quyết định sáng ngày mai sẽ lên đường và tôi đã dành gần một buổi trọn viết thư dài cho chị Êchiênnét nói rõ vì sao không thể đến thăm chị như đã dự định. Và hôm sau, lại một lần nữa tôi phải chịu đựng những nỗi buồn của buổi chia ly. Tuy nhiên, lần này tôi không từ giã Savanông như lần trước, hồi đi theo cụ Vitali. Tôi được ôm hôn má Bácbơranh đàng hoàng và hẹn sẽ trở lại thăm má cùng với bố mẹ tôi.. Chúng tôi cũng phải từ giã cả con bò cái đáng yêu. Mátchia ôm cổ nó, hôn vào cái mõm nó đến mươi lần chứ không ít. Có lẽ con bò thích lắm: Mỗi lần được hôn, nó lại thè cái lưỡi dài của nó ra. Thế là chúng tôi lại ra đi trên con đường vạn dặm, lưng đeo xắc, con Capi chạy trước lơn tơn. Chúng tôi rảo bước thật nhanh, hay nói cho đúng thì riêng tôi nhiều khi sải những bước dài, không nghĩ rằng chính vì mình quá mong muốn chóng tới Pari. Theo tôi được một lúc, Mátchia bảo nếu cứ đà ấy thì chẳng mấy chốc sẽ kiệt sức. Tôi bèn đi chậm lại. Nhưng chẳng bao lâu chân tôi lại thoăn thoắt bước dồn. Sao cậu vội thế? Đúng đấy! Đáng lẽ ra cậu cũng phải vội lên chứ, vì gia đình mình cũng là gia đình cậu thôi! Nó lắc đầu. Tôi tủi thân và buồn rầu trước cái cử chỉ ấy mà tôi đã nhận thấy nhiều lần từ khi nói đến gia đình tôi. Thế chúng mình không phải là anh em ruột thịt sao? Ồ, giữa chúng mình với nhau thì nhất định là thế rồi! Mình không nghi ngờ gì cậu hết! Mình là anh em ruột của cậu ngày hôm nay cũng như ngày mai. Điều đó mình tin, mình cảm thấy rõ. Thế thì còn gì nữa? Này nhé, tại sao cậu lại muốn tớ là anh em với anh em của cậu, nếu cậu có anh em? Tại sao cậu muốn tớ cũng là con của bố mẹ cậu? Giả sử chúng ta về Lúcca thì tớ chẳng phải là anh của Cơrítxtina, em gái của cậu haysao? Ồ, cái đó thì hẳn rồi. Vậy sao cậu lại không có thể là anh em của những anh chị em của tớ, nếu tớ có anh Chị em? Vì sự việc không giống nhau! Nhất định không phải như nhau! Không phải như nhau ở chỗ nào? Tớ không được bọc trong những chiếc tã sang trọng! Cái đó có làm sao! Làm sao lắm chứ! Nó quyết định tất cả, cậu cũng hiểu như tớ thôi! Bây giờ thì tớ dám chắc không bao giờ cậu đến Lúcca, nhưng giá lúc này mà cậu đến đó thì cậu sẽ được bố mẹ tớ là dân nghèo đón tiếp. Bố mẹ tớ sẽ không có điều gì phiền trách cậu vì bố mẹ tớ có lẽ còn nghèo hơn cậu. Nhưng nếu những chiếc tã sang trọng nói đúng, như má Bácbơranh nghĩ và chắc hẳn là thế, thì bố mẹ cậu là người giàu có, có lẽ là người quyền quý cũng nên! Đã thế thì làm sao họ rước một đứa trẻ khống khổ như tớ được! Thế bản thân tớ là gì nếu chẳng phải là một thằng khốn khổ? Bây giờ thì thế, nhưng mai đây cậu sẽ là con của bố mẹ cậu! Còn tớ mãi mãi vẫn chỉ là thằng khốn khổ như ngày hôm nay thôi! Bố mẹ cậu sẽ cho cậu đi học, sẽ tìm thầy cho cậu. Còn tớ thì chỉ còn biết một mình một bóng lủi thủi trên đường và nhớ tới cậu cũng như cậu sẽ không quên tớ, tớ mong thế! Chao ôi! Mátchia thương mến ơi, sao cậu lại nói như vậy được nhỉ? Tớ nghĩ sao nói vậy, anh bạn ạ! Do đó tớ không thể vui trọn vẹn với niềm vui của cậu được. Vì thế này và cũng chỉ thế này mà thôi, là chúng mình sắp phải xa lìa nhau, mà tớ thì trước đây tớ cứ nghĩ, cứ hình dung, hơn nữa, cứ mơ thấy rằng chúng mình luôn luôn ở bên nhau, bao giờ cũng như bao giờ. Ồ! Không phải trong tình cảnh như hiện nay là những nhạc sĩ đầu đường xó chợ đâu, mà hai đứa mình sẽ cùng học tập, sẽ trở thành những nghệ sĩ thực sự, biểu diễn trược một công chúng đàng hoàng, không bao giờ phải rời nhau. Việc đó sẽ thực hiện được, Mátchia ạ! Nếu bố mẹ tớ giàu thì bố mẹ sẽ giàu cả cho cậu cũng như cho tớ. Bố mẹ tớ sẽ cho tớ vào trường trung học thì cậu sẽ đi với tớ. Chúng ta sẽ không xa rời nhau, chúng ta cùng học với nhau; chúng ta sẽ cùng sống với nhau như cậu mong muốn, mong muốn tha thiết không kém cậu, cậu nên tin thế! Tớ biết cậu mong muốn thế, nhưng lúc đó cậu sẽ không quyết định được công việc của cậu như bây giờ! Này hãy nghe tớ nói đây: Bố mẹ tớ tìm kiếm tớ có nghĩa là bố mẹ tớ quan tâm đến tớ, có phải không? Như thế là bố mẹ tớ sẽ thương yêu tớ hoặc rồi sẽ thương yêu tớ. Đã thương yêu tớ thì tất không từ chối những điều tớ xin, và sẽ làm cho những người ăn ở tốt với tớ được sung sướng, những người đã thương yêu tớ khi tớ bơ vơ trên đường đời, như má Bácbơranh, ông Acanh chúng ta sẽ lo liệu cho ông ra khỏi nhà lao - mẹ tớ sẽ đem Lidơ về, cho đi học, chữa khỏi bệnh. Còn cậu, cậu sẽ vào trường trung học với tớ, nếu bố mẹ tớcho tớ vào đấy học. Mọi việc sẽ diễn ra như thế đấy nếu bố mẹ giàu có. Cậu nên hiểu là vì cả hai đứa chúng mình mà tớ sẽ rất vui sướng nếu được bố mẹ giàu sang. Còn tờ thì tớ rất vui mừng nếu bố mẹ cậu nghèo! Cậu ngốc lắm! Có lẽ thế! Không nói gì thêm nữa, Mátchia gọi Capi. Đã đến giờ chúng tôi nghỉ chân để ăn sáng. Nó ôm con chó và nói như nói với một người có thể hiểu nó và trả lời nó: Này bạn Capi ơi, có phải là bạn cũng mong cho bố mẹ Rêmi nghèo, phải không? Nghe thấy tên tôi, như thường lệ, con Capi sủa mấy tiếng vui vẻ và đặt chân lên ngực. Với bố mẹ nghèo thì cả ba chúng ta lại tiếp tục tự do, muốn đi đâu thì đi. Chẳng có mối lo âu gì khác ngoài việc làm hài lòng "chư vị khán giả". Gâu, gâu! Với bố mẹ giàu thì ngược lại, Capi sẽ bị xua đuổi ra khỏi sân, ở cũi, có lẽ còn bị xích nữa. Xích rất đẹp bằng thép, những vẫn là xích, vì chó không được vào trong các phòng lịch sự. Tôi cả giận Mátchia chút ít vì nó đã mong cho bố mẹ tôi nghèo, nó không tán thành cái điều mơ ước mà má Bácbơranh đã khêu gợi cho tôi và tôi đã hứng lấy vội vàng, quá trọn vẹn. Nhưng mặt khác, tôi sung sướng nhận ra và hiểu rõ cái điều đã làm cho nó buồn: Vì tình bạn bè, vì sợ phải xa cách, chỉ có thế thôi. Giá không cần phải kiếm ăn hàng ngày thì dù có trái với ý muốn của Mátchia, tôi vẫn tiếp tục đi mau. Nhưng phải biểu diễn ở những làng lớn trên đường đi để có cái ăn! Trong khi chờ đợi những người cha mẹ giàu sang chia của cho thì hãy bằng lòng với những đồng xu nhỏ cóp nhặt đây đó tùy may rủi! Bởi thế, chúng tôi đã mất nhiều thì giờ hơn là tôi mong muốn, để đi từ sông Crơdơ đến sông Nievơrơ, tức là từ Savanông đến Đơrơdy. Vả chăng, ngoài cái ăn ra, còn có một lý do khác bắt buộc chúng tôi phải kiếm được càng nhiều tiền càng tốt. Tôi không quên lời má Bácbơranh, khi má đinh ninh rằng sau này giàu sang tôi có đem bao nhiêu của cải làm cho má sung sướng cho bằng cái việc tôi làm vừa qua, trong cảnh nghèo nàn. Tôi muốn em Lidơ cũng được vui lòng như má Bácbơranh vậy. Chắc chắn là tôi sẽ chia cảnh giàu sang với Lidơ, điều đó không nghi ngờ gì nữa. Nhưng trước khi giàu sang, tôi muốn biếu Lidơ một món quà bằng tiền tôi làm ra, một món quà của bạn nghèo. Tôi đã mua một con búp bê và một bộ đồ làm bếp. May sao những thứ này không tốn nhiều tiền quà như con bò sữa biếu má Bácbơranh. Từ Đơxidơ đến Đơrơdy, chỉ còn việc rảo chân bước mà thôi. Và chúng tôi đã rảo chân bước, bởi vì, trừ thị trấn Satiông, chúng tôi chỉ có đi qua những thôn xóm nghèo, ở đó người dân quê không thể bớt miệng để chiếu cố tới những nhạc công không cần để ý tới. Từ Satiông, chúng tôi đi dọc kênh đào. Bờ cây xanh tốt, dòng nước lững lờ, những chiếc tam bản có ngựa kéo từ từ lướt nhẹ trên mặt nước. Tất cả những cái đó gợi lại cho tôi cái thời sung sướng hồi xưa, khi cùng bà Miligơn và Áctơ trên chiếc thuyền Thiên Nga, tôi cũng đã dạo trên một con kênh như vậy. Thuyền Thiên Nga hiện nay ở đâu? Biết bao lần, mỗi khi đi qua hoặc đi dọc một con kênh, tôi đều hỏi thăm xem có ai gặp một chiếc du thuyền có cái mái hiên đặc biệt, do sự sắp xếp rất lịch sự của nó, không thể nhầm với bất cứ chiếc thuyền nào khác. Rất có thể bà Miligơn đã trở về nước Anh cùng với chú bé Áctơ đã khỏi bệnh. Đó là điều chắc chắn, điều đó đáng tin cậy hơn cả, vậy mà vẫn cứ mỗi lần, mentheo bờ kênh Nievơrơ này, hễ thấy từ xa thấp thoáng bóng một con thuyền có ngựa kéo, tôi lại lòng hỏi phải chăng là thuyền Thiên Nga đương tiến về phía chúng tôi. Trời đương tiết thu, ngày đi đường của chúng tôi không đến nỗi dài lắm như về hè. Chúng tôi thường tính toán để kịp đến những xóm làng có chỗ ăn chỗ ngủ trước khi trời tối hẳn. Tuy thế, và mặc dù chúng tôi rảo bước đi gấp, nhất là vào cuối độ đường, khi chúng tôi đến Đrơdy thì trời đã tối mịt. Để đến nhà bà cô của Lidơ, chúng tôi chỉ việc đi theo con sông đào. Vì ông chồng cô Catơrin làm nghề coi cống nên ông ở nếp nhà ngay cạnh cống. Như vậy chúng tôi không phải mất thì giờ tìm kiếm. Chẳng mấy chốc, chúng tôi đã tìm thấy nếp nhà ấy ở cuối làng, giữa cánh đồng cỏ có những cây cao, đứng xa trông lơ lửng trong sương mù. Đi đến gần nhà thì tim tôi đập mạnh. Ngọn lửa rực trong lò sưởi soi sáng cái cửa sổ và thỉnh thoảng lại bùng lên, ném từng mảnh ánh hồng ra ngoài, chiếu sáng đường đi. Đến sát ngôi nhà thì thấy cửa ra vào và cửa sổ đều đóng. Nhưng qua khung cửa sổ không có cánh gỗ, cũng không có rèm, tôi nhìn thấy Lidơ ngồi bên bàn ăn, bên cạnh cô em. Trước mặt em một người đàn ông, chắc là chú em, ngồi quay lưng lại phía chúng tôi. Mátchia nói: Người ta ăn bữa tối, mình đến đúng lúc quá! Tôi không nói, chỉ lấy tay cản nó, còn tay kia thì khoát bảo Capi đứng im lặng đằng sau chúng tôi. Rồi tôi cởi cây thụ cầm ra, sửa soạn đánh. Mátchia thầm thì: Ừ, ừ! Một bản dạ tấu, ý kiến hay đấy! Không mày đừng! Để mình tao! Thế rồi tôi bật lên những nốt đầu tiên của bài dân ca vùng Naplơ, nhưng không hát, để cho khỏi lộ. Tôi vừa đánh đàn vừa nhìn Lidơ. Nghe đàn, Lidơ ngẩng phắt đầu lên, mắt em sáng quắc. Tôi cất tiếng hát. Tức thời Lidơ từ ghế nhảy xuống và chạy bổ ra cửa. Tôi vừa kịp trao cây đàn cho Mátchia thì Lidơ đã nằm gọn trong tay tôi. Vợ chồng cô Catơrin đón chúng tôi vào nhà. Cô ôm hôn tôi rồi đặt hai bộ thìa dĩa lên bàn. Tôi yêu cầu cô sửa soạn thêm một bộ nữa: - Nếu cô cho phép thì còn một cô bạn gái nhỏ cùng đi với chúng cháu.. Nói xong tôi mở xắc lấy con búp bê ra, đặt ngồi trên chiếc ghế cạnh ghế Lidơ. Lidơ đưa mắt nhìn tôi, cái nhìn lúc ấy, tôi không bao giờ quên và bây giờ vẫn còn trông thấy.
Chương 32: Lão Bácbơranh Bấm để xem Nếu tôi không vội đi Pari thì tôi đã ở lại lâu, thật lâu với Lidơ rồi. Chúng tôi có bao nhiêu chuyện để nói với nhau nhưng cái ngôn ngữ chúng tôi dùng thì quả là nói với nhau được quá ít. Lidơ cần kể cho tôi nghe chuyện em về ở Đơrơdy và về sự trìu mến của cô em và chú em; cô em đã sinh đẻ năm bận và bây giờ chẳng còn được mụn con nào. Đó là cái nạn chung của các gia đình tỉnh Nievơrơ; ở đó người mẹ phải bỏ con mình lại nhà để lên Pari ở vú, và tả cách em ăn ở trong nhà với công việc của em, trò chơi và thú vui của em. Chỉ những đi câu cá, bơi thuyền và chạy nhởn trong rừng mà hết thì giờ, vì em không đi học được. Về phần tôi, tôi cần hỏi em có tin tức gì của bố không và tôi phải kể cho em nghe những gì xảy đến cho tôi từ lúc chia tay nhau. Tôi kể chuyện tôi suýt chết trong hầm mỏ chỗ Alơxi làm việc, chuyện khi về nhà tìm mẹ nuôi thì nghe nói gia đình đang tìm tôi và vì thế mà tôi không đi thăm chị Êchiênnét được như mong muốn. Dĩ nhiên là tôi nói nhiều hơn hết về gia đình tôi, cái gia đình giàu sang của tôi. Tôi nhắc lại với Lidơ những điều tôi đã nói với Mátchia, nhấn mạnh về cái triển vọng giàu sang của tôi: Cái triển vọng ấy mà thực hiện thì mọi người sẽ sung sướng, bố em, các anh em và em - nhất là em - sẽ được sung sướng. Lidơ đâu đã được sớm từng trải việc đời như Mátchia, và cũng là may mắn cho em, cũng không xuất thân từ cái trường học Garôphôli. Em rất sẵn sàng tin rằng những kẻ giàu sang thì chỉ có mỗi việc là sống sung sướng, và tiền bạc là một lá bùa, giống như trong truyện thần tiên, có phép làm ngay ra những gì người ta ao ước. Chẳng phải là vì nghèo thiếu mà bố em đã phải nằm ở nhà giam và gia đình em đã tan tác đó sao! Dù tôi giàu hay em giàu, điều đó có quan hệ gì! Cuối cùng thì cũng như nhau thôi! Tất cả chúng ta sẽ được sung sướng, và em cũng chỉ mong muốn như vậy! Mọi người đoàn tụ, tất cả sung sướng. Ngoài những buổi chuyện trò trên cống, giữa tiếng nước chảy xiết qua các cửa tháo nước, ba chúng tôi Lidơ, Mátchia và tôi còn đi dạo chơi đây đó. Nói cho đúng thì năm chứ không phải ba vì ông Capi và cô búp bê lúc nào cũng có mặt. Chu du nước Pháp mấy năm trời với cụ Vitali và mấy tháng gần đây với Mátchia, tôi đã đặt chân đến nhiều quê xa cảnh lạ, nhưng tôi chưa hề trông thấy cảnh vật nào lạ mắt như cảnh vật đang bày ra trước mắt chúng tôi. Những cánh rừng bao la, những đồng cỏ xanh rợn chân trời, rồi những núi đá, những đồi, những hang động, những thác tung bọc, những đầm nước phẳng lỳ và, trong thung lũng chật hẹp, con sông đào uốn lượn chảy đi êm ả giữa hai dãy đồi dựng dốc. Thật là đẹp đẽ. Chỉ có tiếng nước chảy rì rầm, tiếng chim hót và tiếng gió than vãn trên cành lá. Thực ra thì mấy năm trước đây, tôi cũng cho thung lũng sông Nievơrơ là đẹp. Kể ra cũng không nên tin tôi một cách máy móc. Tôi chỉ muốn nói rằng ở đâu mà có Lidơ cùng đi với tôi, cùng nô đùa với tôi thì ở đó có những nét đẹp, những vẻ quyến rũ mà tôi không nhận thấy ở nơi khác, dù những nơi này có được thiên nhiên tô vẽ hơn nhiều. Tối đến, nếu trời khô ráo thì chúng tôi ngồi trước nhà, hoặc bên lò sưởi nếu sa mù dày đặc, và tôi gảy thụ cầm cho Lidơ nghe. Em thích thú lắm. Mátchia cũng kéo vĩ cầm hoặc thổi kèn đẩy. Nhưng Lidơ ưa thụ cầm hơn, điều này làm tôi đắc ý không phải là ít. Trước khi chia tay đi ngủ, Lidơ đòi nghe dân ca vùng Naplơ, và tôi hát cho em nghe. Nhưng, dù sao tôi cũng phải từ giã Lidơ và phong cảnh nơi này để lên giường. Cảnh biệt ly đối với tôi lần này không đến nỗi buồn quá. Luôn luôn say sưa với mộng giàu sang, tôi hầu như không còn tin là mình sẽ giàu mà cứ tưởng rằng mình đã giàu rồi, ước gì được nấy, không nay thì mai là có thể giàu ngay tức khắc. Câu nói cuối cùng của tôi với Lidơ trước khi chia tay, hơn là nghìn lời giải thích, chứng tỏ tôi thật thà sống trong ảo mộng. Tôi nói: Anh sẽ đến đón em trên cỗ xe tứ mã! Và Lidơ tin tôi đến nỗi em vẫy tay ra hiệu vung roi quất ngựa. Chắc hẳn em trông thấy cỗ xe, cũng như tôi vậy. Tuy nhiên, trước khi xe tứ mã từ Pari đi Đrơdy thì phải lết bộ từ Đrơdy đến Pari cái đã. Nếu không có Mátchia thì tôi chỉ có mỗi một mối lo là vượt đường cho mau tới, ngoài ra, kiếm đủ bữa thì thôi. Bây giờ thì cần gì phải vất vả nữa! Bò mua rồi, búp bê cũng sắm rồi, miễn kiếm ăn qua ngày là được chứ bố mẹ tôi cần gì tôi mang của về! Nhưng, những lý lẽ tôi đưa ra chẳng lay chuyển được Mátchia tí nào. Nó bắt tôi cứ phải đánh thụ cầm và nói: Kiếm được chừng nào thì hãy cứ kiếm! Chắc đâu ta đã tìm thấy lão Bácbơranhngay! Trưa không tìm thấy thì xế chiều cũng tìm thấy! Phố Muphơta có phải là vô tận đâu! Thế ngộ lão không ở phố Muphơta nữa? Thì ta đến chỗ ở mới của lão! Ngộ nhỡ lão trở về Savanông thì sao? Tất phải viết thư cho lão và chờ lão trả lời. Trong lúc đó thì chúng ta lấy gì mà ăn nếu không có đồng nào trong túi? Đúng là cậu chưa hiểu biết Pari. Đến nhà bố mẹ tới rồi thì chúng mình sẽ ăn tối tươi hơn. Không phải mình không màng ăn tối khi đã ăn sáng đủ. Nhưng khi không ăn sáng và cũng không được ăn tối thì mình không chịu được, mình không thích thế. Thôi hãy cứ làm việc đi, y như là phải mua một con bò sữa cho bố mẹ cậu. Ý kiến của Mátchia khôn ngoan đáo để! Tuy vậy, phải thú nhận rằng tôi vẫn không ca hát nhiệt tình như khi cần nhặt nhạnh từng xu để mua bò cho má Bácbơranh hay búp bê cho Lidơ. Mátchia than thở: "Sau này giàu sang thì mày lười phải biết!". Đến Coócbây thì chúng tôi gặp lại con đường mà chúng tôi đã đi sáu tháng trước, khi từ Pari chúng tôi cất bước về Savanông. Chúng tôi vào cái nông trang mà gánh chúng tôi đã diễn buổi hợp tấu đầu tiên cho khách dự lễ cưới khiêu vũ. Đôi vợ chồng mới cưới nhận ra chúng tôi và yêu cầu chúng tôi đánh đàn cho họ khiêu vũ lần nữa. Họ mời chúng tôi ăn tối và cho ngủ lại. Sáng hôm sau, chúng tôi khởi hành từ đó để trở về Pari. Tính ra, kể từ khi ở Pari ra đi cho đến nay vừa đúng sáu tháng mười bốn ngày. Nhưng ngày trở về chẳng giống ngày ra đi tí nào. Trời hôm nay u ám và lạnh ngắt. Trên cao không có mặt trời, hai bên lề đường không hoa, không lá. Mặt trời mùa hạ đã làm xong nhiệm vụ và sương mù mùa thu bắt đầu kéo về; từ trên chóp tường hoa đinh hương không rơi lên đầu chúng tôi nữa, chỉ có lá khô trên cây úa vàng lìa cành rụng xuống. Nhưng có hề gì cái cảnh đất trời ảm đạm! Chúng tôi có một niềm vui sướng bên trong không cần ngoại cảnh kích thích. Nói chúng tôi thì không đúng, thật ra chỉ có mỗi mình tôi là có sự hoan hỉ trong lòng. Nghĩ đến cảnh được ngã vào lòng một bà mẹ, đích là mẹ đẻ của mình, và một ông cha gọi mình bằng con, tôi sung sướng đến phát sốt lên. Về phần Mátchia, thì càng tiến gần đến Pari, nó càng có vẻ âu sầu, nhiều khi lùi lũi đi hàng giờ không hé răng nói nửa tiếng. Nó không nói vì sao nó buồn, cho nên tôi cứ ngỡ là vì nó sợ phải xa nhau. Bởi thế, tôi không muốn nhắc lại lần nữa cái điều mà tôi đã nhiều lần giải thích, nghĩa là cha mẹ tôi không thể nào có ý định chia rẽ hai đứa tôi. Cho đến khi gần tới vùng những pháo đài ngoại vi, dừng lại ăn trưa, nó mới thổ lộ nỗi lo âu của nó. Nó ngồi trên một tảng đá, vừa ăn bánh mì vừa nói: Sắp đặt chân vào Pari, cậu có biết tớ nghĩ đến ai không? Đến ai à? Ừ, đến ai? Đến Garôphôli! Lão đã mãn hạn tù thì mới rắc rối! Khi người ta bảo lão đi tù, tớ quên không hỏi là tù bao lâu. Cho nên giờ phút này, có thể là lão đã được tự do rồi, và lão đã trở về chỗ trọ của lão ở phố Luốcxin rồi cũng nên. Chúng mình cần tìm Bácbơranh ở phố Muphơta, nghĩa là ở chính khu phố của Garôphôli, ngay cạnh nhà lão. Gì sẽ xảy đến nếu tình cờ lão gặp chúng mình? Lão là chủ tớ, là cậu tớ, lão có quyền bắt tớ lại mà tớ thì không có cách nào thoát tay lão. Cậu đã từng sợ rơi trở vào tay lão Bácbơranh, hẳn cậu hiểu tớ cũng sợ rơi trở vào tay Garôphôli dường nào. Chao ôi! Thương hại cho cái đầu của tớ! Ấy nhưng đau đầu thì đã thấm vào đâu bên cạnh cái đau ly biệt. Anh em ta sẽ không được gặpnhau. Sự chia rẽ vì gia đình tớ sẽ còn tàn nhẫn hơn sự chia rẽ bởi gia đình cậu biết mấy! Chắc hẳn Garôphôli cũng muốn giữ cậu và giáo dục cậu theo kiểu lão dạy học trò lão, nghĩa là có kèm roi vọt. Nhưng chắc cậu không ở, mà tớ, tớ cũng không muốn cậu làm bạn với tớ trong cảnh ấy. Cậu có bị đánh đập bao giờ đâu! Lao theo ước vọng của mình, tôi chưa hề nghĩ đến Garôphôli. Nhưng mấy điều Mátchia vừa nói có thể xảy ra được quá! Không cần giải thích, tôi cũng hiểu chúng tôi bị đe dọa như thế nào. Tôi hỏi: Thế cậu muốn thế nào? Hay là cậu đừng vào Pari vậy? Tớ tưởng rằng nếu tớ không đi đến phố Muphơta thì cũng đủ tránh được cái rủi ro bị lão Garôphôli bắt gặp. Ồ, thế thì cậu đừng đến phố Muphơta, để tớ đi một mình thôi. Chúng mình hẹn bảy giờ tối sẽ lại gặp nhau ở một nơi nào đó! Cái nơi chúng tôi hẹn nhau là ở đầu cầu Đại giám mục, về phía Nhà thờ Đức Bà. Xếp đặt xong, chúng tôi lại lên đường vào thành phố. Đến quảng trường Italia, chúng tôi chia tay nhau, bùi ngùi như thể sẽ không bao giờ gặp nhau nữa. Mátchia và Capi đi về phía vườn Bách Thảo, còn tôi thì xăm xăm đến phố Muphơta, không cách quảng trường là mấy. Từ sáu tháng nay, lần đầu tiên đi một mình không có Mátchia và Capi bên cạnh, tôi thấy lòng nao nao khó chịu. Tôi tự nhủ không nên để cho cảm giác ấy làm nản lòng nhụt chí. Không phải tôi đang đi tìm Bácbơranh, để rồi qua lão, tìm thấy gia đình của tôi là gì? Tôi đã ghi tên và chỗ ở những chủ trọ của lão Bácbơranh vào một mảnh giấy. Kể ra cũng là thừa! Tôi không quên chút nào, tên cũng như chỗ ở, và tôi cũng chẳng phải ngó vào giấy: Pagiô, Barabô và Sôphinê. Vào phố Muphơta, người đầu tiên tôi gặp là Pagiô, trong cái quán khổ chiếm tầng dước một ngôi nhà khi thuê. Tôi vào quán khá mạnh dạn nhưng lại hỏi thăm ông Bácbơranh với giọng run run. Bácbơranh nào? - Chủ quán hỏi. Ông Bácbơranh người ở Savanông. Tôi tả hình dáng Bácbơranh, nói cho đúng hơn là hình dáng mà tôi trông thấy khi lão mới ở Pari về: Mặt mũi cộc cằn, vẻ người khắc nghiệt, đầu vẹo trên vai phải. Không biết! Ở đây không có cái của ấy! Tôi cảm ơn y và đi thêm một quãng đường nữa, đến nhà Barabô. Ngoài nghề chứa trọ, anh này còn kiêm nghề bán hoa quả. Tôi cũng hỏi như trước. Vất vả lắm họ mới chịu để Đến tôi. Hai vợ chồng đều bận. Chồng thì đang dùng một cái gì như cái bay thợ nề xén bột dọn cho khách, một thứ bột nhão màu xanh, mà anh ta gọi là "rau diếp". Vợ thì mải cãi cọ với khách hàng về một đồng xu trả thiếu. Tôi hỏi đi hỏi lại ba lần cuối cùng họ mới trả lời: À phải! Bácbơranh.. Hắn ở đây ngày trước, lâu rồi, cách đây bốn năm là ít! Năm chứ! - Chị vợ ngắt lời. - Tôi nhớ cả hắn còn nợ ta một tuần tiền trọ. Cái lão chết tiệt ấy bây giờ ở đâu? Thì tôi cũng chỉ hỏi có thế! Tôi đi ra, ngán ngẩm và có phần nào lo ngại. Chỉ có Sôpinê nữa thôi. Nếu hắn ta không biết gì ráo thì hỏi ai bây giờ? Tìm Bácbơranh ở đâu? Cũng như Pagiô, Sôpinê là chủ quán. Khi tôi bước chân vào gian phòng ở đấy ông ta nấu nướng và dọn ăn cho khách thi có nhiều người ngồi ở bàn ăn. Sôpinê đang cầm môi chan xúp vào bánh mì cho khách hàng. Tôi hỏi ông ta. Bácbơranh. - Ông ta đáp. - Hắn không ở đây nữa! Tôi run rẩy hỏi tiếp: Thế ông ấy ở đâu? Ồ, cái đó ta không biết! Bây giờ cháu phải tìm ông ta nơi nào? Lão ta không để địa chỉ lại! Chắc là nỗi thất vọng đã hiện lên trên mặt tôi một cách rõ ràng và cảm động đến nỗi có một ông khách đang ăn ở bàn cạnh bếp gọi tôi hỏi: Cháu bé hỏi Bácbơranh làm gì? Cháu ở làng bên, làng ông ta, Savanông ấy! Cháu mang tin của bà Bácbơranh lên cho ông ta. Bà ấy bảo cháu đến gặp ông ta ở đây. Ông chủ quán nói với người vừa hỏi tên tôi: Nếu ông bạn biết Bácbơranh ở đâu thì hãy mách hộ thằng bé. Chắc là nó không có ý gì làm hại lão ta đâu, phải không chú bé? Ồ, thưa ông, không ạ! Bácbơranh, hiện giờ hắn đang trọ ở khách sạn Căngtan, ở ngõ Ốtxtéclíc. Cách đây ba tuần lão còn ở đó. Tôi cảm ơn và ra đi. Trước khi đến ngõ Ốtxtéclíc, tôi muốn biết tin tức Garôphôli để về thuật lại với Mátchia. Chỗ này ở ngay phố Luốcxin. Chỉ cần đi mấy bước là đến cái nhà tôi Đã đến với cụ Vitali. Cũng như lần đầu tôi đến, một cụ già, vẫn cụ già ngày nọ, đang mắc những tã rách lên bức tường xanh bẩn trong sân. Hẳn là từ độ ấy đến này, ông không ngừng mắc tã kia lên tường nọ. Ông Garôphôli đã về chưa, thưa cụ? - Tôi hỏi. Ông lão nhìn tôi không trả lời và bắt đầu ho. Tôi thấy phải tỏ ra mình biết Garôphôli Đâu rồi, chứ không thì chả moi được gì ở cái ông lão nhặt giẻ ấy. Tôi lấy vẻ thông thạo, hỏi: Hắn ta vẫn còn ở đấy chứ? Chắc là hắn ta chán ngấy ra rồi! Có lẽ, nhưng rồi ngày giờ cũng trôi qua thôi! Trôi như thế nào hắn cũng cứ thấy chậm, chứ không thấy nhanh như ta! Câu bông đùa làm ông cụ cười, và thế là lại nổi một cơn ho dữ dội. Chờ ông hết ho, tôi hỏi: Cụ có biết bao giờ hắn ta về không? Ba tháng nữa. Garôphôli còn ở tù ba tháng, Mátchia có thể thở phào! Trong vòng ba tháng, thế nào bố mẹ tôi cũng tìm được cách không cho lão bầu ghê gớm này có hành động gì hại đến cháu lão.. Nếu tôi đã bị thất vọng cay đắng ở nhà Sôphinê thì bây giờ tôi lại tràn trề hy vọng, tôi đi tìm ngay lão Bácbơranh tại khách sạn Căngtan. Không thể chậm một phút, tôi xăm xăm đi về hướng ngõ Ốtxtéclíc, lòng tràn đầy hân hoan và hy vọng. Có lẽ vì tin vì vui mà tôi trở nên khoan dung đối với Bácbơranh. Suy cho cùng thì có lẽ lão ta cũng không đến nỗi độc ác như người ta tưởng! Không có lão, nhất định tôi sẽ chết vì đói rét ở phố Brơtơi. Ừ thì đúng là lão ta đã cướp sống tôi trên tay má Bácbơranh đem bán cho cụ Vitali nhưng thật tình lão có thể trìu mến một đứa trẻ mà tới lúc đó lão chưa hề nhìn thấy, và lão lại rơi vào cảnh túng thiếu nó thường dễ khuyên người ta làm bậy! Lão đương tìm tôi, lão chú ý đến tôi, và nếu tôi được gặp bố mẹthì chính cũng là nhờ lão! Điều đó đáng được tính đến hơn là cái nỗi oán hờn nuôi mãi trong lòng tôi từ ngày từ biết Savanông, cổ tay bị bàn tay cụ Vitali nắm chặt. Thế thì tôi vẫn phải biết ơn lão: Nếu không thể quí yêu trìu mến như đối với má Bácbơranh thì ít ra cũng phải coi như một trách nhiệm theo lương tâm chứ! Đi băng qua vườn Bách thảo thì từ phố Luốcxin đến ngõ Ốtxtéclíc cũng nhanh thôi. Chẳng mấy chốc tôi đã đến trước khách sạn mà thực ra chỉ là một cái nhà trọ tồi tàn. Chủ nhà là một bà cụ, đầu lắc lư, tai nghễnh ngãng. Tôi hỏi câu hỏi quen thuộc. Bà cụ lấy tay loa ra sau tai và bảo tôi nhắc lại. Bà nói khẽ: Già hơi nặng tai. Cháu tìm ông Bácbơranh, ông Bácbơranh người Savanông ấy mà! Ông ấy trọ ở nhà cụ, có phải không? Bà cụ không đáp, đột ngột đưa hai tay lên trời, khiến con mèo đang ngủ trong lòng bà ta kinh hãi nhảy choàng xuống đất. Bà kêu: "Ôi thôi! Ôi thôi", rồi nhìn tôi, đầu càng lắc lư tợn. Bà hỏi: Anh là thằng bé chăng? Thằng bé nào? Thằng bé xưa ông ta tìm. Thằng bé xưa ông ta tìm. Nghe tiếng ấy, tim tôi đau thắt. Tôi kêu to lên: Ông Bácbơranh! Mồ ma ông Bácbơranh, phải nói mồ ma ông Bácbơranh. Tôi tựa vào cây thụ cầm cho khỏi ngã. Tôi nói to lên cho bà cụ nghe thấy nhưng giọng tôi đã nghẹn đi vì xúc động: Vậy ra ông ấy chết rồi ư? Đã tám hôm rồi, ở bệnh việc Xanh Ăngtoan. Tôi chết điếng người, Bácbơranh chết rồi! Thế thì gia đình tôi, bây giờ tôi làm sao tìm ra được? Mà tìm kiếm ở đâu chứ? Bà cụ lại hỏi tiếp: Thế anh là thằng bé? Thằng bé mà ông ta tìm để trao trả lại gia đình giàu có của nó? Tôi lại thấy có hy vọng. Tôi bám riết câu ấy. Tôi hỏi: Thế ra cụ biết? Già biết những cái gì mà mồ ma ông ấy hồi còn sống kể cho già nghe: Ông ta bắt Được một thằng bé và nuôi nấng nó, bây giờ cái gia đình mất con muốn tìm con, và ông ta đi Pari là để lùng kiếm nó. Nhưng còn cái gia đình đó bây giờ ở đâu rồi? Cái gia đình của tôi đó? Thế ra đúng anh là thằng ấy rồi, có phải không? Ừ! Đúng là anh rồi! Đích thị là anh! Vừa lắc lư cái đầu, bà cụ vừa nhìn tôi, tận mắt. Tôi không thể để cho bà cụ nhìn ngằmnữa. Van cụ, xin cụ nói hết cho cháu nghe. Thì già còn biết gì nữa ngoài những cái già đã nói với anh.. à, với cậu. Cụ nói cho cháu nghe những gì ông Bácbơranh nói với cụ về gia đình cháu. Thưa cụ, cụ đã thấy cháu buồn, cháu lo, cháu bối rối như thế đấy, cụ hãy thương cháu! Bà không đáp lại và lại đưa tay lên trời lần nữa. Bà kêu: "Rõ oái ăm chưa!" Lúc ấy có một người đàn bà, có vẻ là người giúp việc, đi vào phòng. Tức thời bà chủ khách sạn bỏ tôi để kể lể với người ấy: Rõ oái ăm chưa! Cái anh bé này, cái cậu mà chị thấy đó, là người mà mồ ma ông Bácbơranh nói chuyện. Cậu ấy đến mà Bácbơranh thì lại không còn nữa. Rõ oái ăm chưa! Ông Bácbơranh không hề nói gì với cụ về gia đình cháu ư? Nói nhiều, hàng chục lần, hàng trăm lần ấy chứ! Một gia đình giàu có. Gia đình ấy ở đâu? Tên họ là gì? Ấy đấy! Bácbơranh không hề nói những cái ấy với tôi. Cậu hiểu chứ, ông ta giữ bí mật. Ông ta muốn một mình lĩnh thưởng, cái đó đúng thôi. Chả ông ta là một anh láu cá mà! Chao ôi! Phải, tôi hiểu lắm, tôi hiểu cái điều bà cụ nói quá đi chứ! Tôi hiểu rằng sống Để dạ chết mang đi, Bácbơranh đã mang theo xuống mồ cái điều bí mật về gia đình dòng họ tôi. Tôi đi gần tới đích như thế chỉ để mà hỏng tuột. Hỡi ôi, những mộng đẹp, những niềm tin! Tôi lại hỏi bà cụ: Thế cụ có biết có người nào được Bácbơranh nói cho biết nhiều hơn cụ không? Bácbơranh có dại gì mà thổ lộ với ai! Ông ta đa nghi lắm. Cụ có thấy người nào trong nhà cháu đến tìm ông ấy không? Không hề thấy! Hoặc cụ có biết một vài ông bạn thân của ông ta được nghe ông ta kể chuyện gia Đình cháu không? Ông ta không có bạn bè! Tôi ôm đầu suy nghĩ. Nhưng nghĩ mãi cũng không thấy có dấu hiệu gì có thể mách bảo cho mình. Vả chăng tôi xúc động quá, bối rối quá nên không thể nào suy nghĩ có mạch lạc. Bà cụ cũng nghĩ ngợi một hồi lâu rồi nói: Có lần ông ta nhận được một phong thư bảo đảm. Thư từ đâu đến thưa cụ? Tôi không biết! Người phát thư trao thẳng cho ông ấy, tôi không trông thấy con Dấu! Chắc chúng ta có thể tìm lại được bức thư ấy chứ nhỉ? Sau khi ông ta chết, chúng tôi có lục trong đồ đạc ông ta để lại. Ồ! Không phải vì tọc mạch đâu, mà chỉ cốt để báo tin cho bà vợ. Chúng tôi không tìm thấy gì cả. Ở bệnh viện cũng vậy, người ta không tìm thấy giấy tờ gì trong áo quần của ông ta cả! Giá mà trước kia ông ta không nói mình ở Savanông thì hẳn người ta không thể báo tin cho bà vợ ông ta biết. Thế má Bácbơranh đã được biết? Hẳn thế! Tôi đứng lặng hồi lâu, không nói năng gì. Nói gì, hỏi gì bây giờ? Có biết cái gì, họ đều nói cả với tôi rồi. Mà họ có biết gì đâu! Lẽ thường, họ đã làm đủ mọi cách để tìm hiểu cái điều mà Bácbơranh cố giấu họ. Tôi chào bà cụ rồi tiến ra cửa. Bà cụ hỏi: Thế cậu đi đâu đấy? Đi về với bạn cháu. À, cậu có một người bạn à? Vâng. Cậu ấy ở Pari? Chúng cháu mới đến Pari sáng nay. Thế thì, này cậu, nếu cậu chưa giữ chỗ ở khách sạn nào thì cậu cứ việc lại đây. Cậu ở đây rất tốt, tôi có thể nói khoe như vậy không ngoa. Cái nhà trọ này là một nhà lương thiện. Nên chú ý là thân nhân cậu đang tìm cậu, cho nên khi chờ mãi không được tin tức gì của Bácbơranh, tất thế nào họ cũng đến hỏi ở đây chứ còn chạy đâu! Như vậy thì cậu sẽ có mặt Đây để đón tiếp gia đình cậu. Tiện như thế đấy! Còn nếu cậu không ở đây thì người ta biết tìm đâu cho ra cậu! Tôi nói thế là vì cậu thôi! Bạn cậu bao nhiêu tuổi? Nó bé hơn cháu chút ít! Thử nghĩ xem! Hai thiếu niên như thế đấy lạc lõng giữa Pari đô hội. Tránh sao khỏi gặp nhiều người xấu! Có những khách sạn có nhiều người không tốt lui tới! Không phải như đây đâu, ở đây thì thật yên tĩnh! Cái khu phố này bó buộc phải thế! Tôi cũng chẳng tin hẳn là khu phố này ưa yên tĩnh. Dù sao thì khách sạn Căngtan cũng là một khách sạn thuộc loại bẩn nhất và tồi nhất trần gian. Tuy vậy, đề nghị của bà cụ cũng đáng chú ý. Vả lại kén chọn lúc này là không phải lúc.. Ở khách sạn Căngtan thì không phải trả nhiều tiền mà hiện nay chính chúng tôi cần ăn tiêu dè xẻn. Ồ! Cái thằng Mátchia thế mà nó nói chí phải! Nó muốn kiếm tiền trên con đường Đrơdy đi Pari. Nếu không có mười bảy phờrăng trong lưng thì nay biết xoay sở ra sao! Tôi hỏi: Cho hai anh em chúng cháu thuê một cái phòng, cụ lấy bao nhiêu? Mỗi ngày mười xu. Có đắt không nào? Thế thì tối nay chúng cháu sẽ trở lại! Hãy về sớm nhé, Pari ban đêm nguy hiểm đấy! Trước khi trở về, tôi phải đến nơi hẹn để gặp Mátchia nhưng còn lâu mới đến giờ hẹn. Không có việc gì làm tôi buồn rầu đi về phía vường Bách thảo, tìm một cái ghế ở nơi vắng vẻ mà ngồi! Phải chăng cứ hết nạn nọ đến nạn kia, tôi phải nếm cho đủ mùi đau khổ? Phải chăng mỗi khi tôi vừa với tay nắm cành cây để có thể ngồi vững chãi thì cành cây gãy rắc dưới tay, làm cho tôi ngã xuống? Cứ mãi như thế! Lão Bácbơranh chết đúng cái lúc tôi cần đến lão thì quả là do cái số kiếp của tôi nó xui nên. Và cũng do số kiếp của tôi xui khiến cho nên gặp phải lão là con người hám lợi, lão giấu biệt tên họ và chỗ ở của người đã ủy thác cho lão lùng kiếm tôi, người đó có lẽ là cha tôi. Tôi đang ngồi ở một xó dưới bóng mát của một cây xanh tốt, ứa nước mắt mà suy nghĩ như vậy, thì có một gia đình nhỏ đi đến: Một ông và một bà, theo sau là thằng bé kéo chiếc xe con, đến ngồi ở một chiếc ghế trước mặt tôi. Họ gọi đứa bé. Đứa bé bỏ xe ra, dang hai tay chạy đến với bố mẹ. Người cha ôm nó vào lòng, đặt những cái hôn rất kêu lên tóc nó. Xong ông trao nó qua cho bà mẹ, bà cũng hôn nó nhiều lần, cùng hôn ở một chỗ. Đứa bé cười giòn tan, khum khum đôi bàn tay xinh xẻo bụ bẫm vỗ vỗ vào má bố mẹ nó. Trước cảnh hạnh phúc gia đình ấy, bất giác nước mắt tôi tuôn rơi. Tôi chưa được hôn hít như thế bao giờ và liệu tôi có hy vọng được hôn hít như thế bao giờ không? Tôi bỗng nảy ra ý định. Tôi lấy thụ cầm gảy nhè nhẹ một bài "van" cho thằng bé nghe. Nó nhịp nhịp đôi chân bé xíu của nó. Người bố đến bên tôi, đưa cho tôi một đồng bạc. Tôi lễ phép từ chối: Thưa ông, không, cháu không lấy, xin ông vui lòng. Ông để cho cháu cái thú được làm vui giây lát cho em bé con ông, em kháu quá! Ông khách chăm chú nhìn tôi. Nhưng giữa lúc ấy một người gác vườn đến. Mặc những lời phản kháng của ông khách, người gác vườn ra lệnh cho tôi đi ra ngay, nếu không muốn ngồi tù vì tội chơi nhạc trong công viên. Tôi quàng đàn lên vai rồi ra đi, thỉnh thoảng lại ngoái cổ nhìn hai ông bà ấy. Họ trông theo tôi, bùi ngùi. Cũng vẫn chưa tới giờ hẹn đến cầu Đại giám mục để gặp Mátchia, tôi thẫn thờ trên bờ sông, ngắm dòng nước chảy. Đêm đến, đèn khi sáng lên. Bấy giờ tôi mới đi về phía Nhà thờ Đức Bà có hai ngọn tháp in bóng sẫm trên nền trời đỏ rực đằng Tây. Đến đó, tôi tìm được một chỗ và ngồi xuống khoan khoái, vì hai chân tôi rời rã như đã đi một độ đường quá xa, và tôi trở lại với những suy nghĩ phiền não. Chưa bao giờ tôi cảm thấy mình rã rời, mệt mỏi như thế này. Ở tôi, chung quanh tôi, thảy đều ảm đạm. Trong cái đô thành Pari bát ngát, sáng trưng, ồn àovà hối hả này, tôi lại càng cảm thấy bơ vơ hơn bất cứ lúc nào ngày giữa đồng không mông quạnh hoặc trong rừng rậm âm u. Khách qua đường thỉnh thoảng ngoảnh lại nhìn tôi. Những đối với tôi, sự tò mò hoặc lòng thương cảm của họ nào có nghĩa lý gì! Tôi đâu có trông chờ sự cám cảnh của những kẻ bàng quan! Chỉ còn một cách giải phiền là nhẩm đếm những tiếng chuông buông rơi quanh tôi. Thế là tôi lại tính toán xem còn phải chờ đợi bao lâu nữa mới lấy lại sức lực và dũng khí từ tình bạn của Mátchia! Nghĩ rằng mình sắp được gặp đôi mắt dễ thương, dịu hiền và tươi vui của nó, tôi phấn chấn lên nhiều. Vào khoảng gần bảy giờ, tôi nghe thấy một tiếng sủa mừng rỡ. Ngay sau đó một vật trắng từ trong bóng tối lao đến phía tôi. Tôi chưa kịp nghĩ ra thì con Capi đã nhảy lên đùi tôi, liếm lấy liếm để hai bàn tay tôi. Tôi ôm nó, hôn lên mũi nó. Phút sau, Mátchia xuất hiện. Từ xa, nó đã kêu lên: Thế nào? Bácbơranh chết rồi! Nó rảo chân chạy lên để chóng đến bên tôi. Bằng mấy lời vội vã, tôi kể cho nó nghe tôi đã làm gì và biết được những gì. Nó buồn lắm, điều đó khiến tôi cảm thấy dễ chịu: Tôi nghiệm rằng mặc dù Mátchia lo nếu tôi tìm thấy gia đình tôi thì nó chẳng gặp hay gì cả, mặc dù thế, nó vẫn thành tâm mong muốn tôi tìm gặp được bố mẹ. Âu yếm và trìu mến, nó cố an ủi tôi, nhất là thuyết phục tôi không nên nản chí: Bố mẹ cậu đã tìm được ra Bácbơranh thì nay sẽ lo ngại khi không thấy tin tức gì về lão ta nữa. Cho nên họ sẽ tìm hiểu xem có việc gì xảy đến với lão và tất nhiên họ sẽ đến khách sạn Căngtan. Thôi, ta tới khách sạn Căngtan đi thôi. Bất quá chậm mấy ngày, thế thôi! Bà cụ có cái đầu lắc lư cũng nói với tôi như thế, nhưng cũng vẫn những lời ấy mà Máchia nói thì tác dụng hẳn. Hiển nhiên đây chỉ là vấn đề chậm trễ chút ít thôi. Thế mà mìnhđã đâm phiền muộn và chán nản, thật là trẻ con! Thấy trong người bình tĩnh hơn, tôi bèn thuật cho Mátchia nghe điều tôi biết được về Garôphôli. Nó reo lên: Còn ba tháng nữa! Thế là nó nhảy một điệu vũ ở giữa đường phố, vừa nhảy vừa hát. Bỗng dưng nó dừng lại và đến bên tôi: Rõ thật là gia đình đằng này và gia đình đằng ấy khác nhau quá lắm! Cậu mất gia đình, cậu rầu rĩ. Mình mất gia đình, mình hát vang. Một ông cậu, đâu đã là gia đình! Ý mình muốn nói một ông cậu như Garôphôli. Chứ giả thử cậu mất em Crítxtina của cậu thì cậu có nhảy múa không nào? Chao ôi! Đừng nói dại! Đấy, thấy chưa! Chúng tôi men theo bờ sông để đi đến phố Ốtxtéclíc. Không mờ mắt vì xúc động nữa, bây giờ tôi mới thấy sông Xen ban đêm có ánh trăng thật là đẹp: Trăng rằm rọi ánh sáng xuống mặt nước sáng rõ như một tấm gương mênh mông và di động, rắc những vảy bạc sóng sánh đó đây. Khách sạn Căngtan là một khách sạn lương thiện, nhưng không phải là một khách sạn đẹp. Chúng tôi được xếp vào một buồng con áp mái, chật đến nỗi khi một đứa đứng thì một đứa phải ngồi trên giường. Tôi không thể không nghĩ rằng đâu phải trong một gian phòng thế này mà tôi hy vọng được nghỉ lưng! Và những tấm chăn trải giường bằng vải thôi đã ngả màu cháo lòng, sánh sao được những tấm tã đẹp, biết bao lần má Bácbơranh đã tảcho tôi biết! Miếng bánh mì trát phomát Italia, mà người ta dọn cho chúng tôi ăn tối, thật khác xa với bữa tiệc thịnh soạn tôi dự định thết Mátchia. Nhưng đã mất đi đâu! Chỉ cần chờ ít lâu thôi. Tôi ngủ thiếp đi với ý nghĩ ấy.
Chương 33: Tìm kiếm Bấm để xem Sáng hôm sau, việc đầu tiên của tôi là viết thư cho má Bácbơranh tin cho má rõ những điều tôi mới được biết. Đối với sức của tôi, đây không phải là một công việc nhỏ. Ai đành lòng nói cộc lốc với má rằng chồng má đã qua đời. Má yêu mến "anh Giêrôm" của má. Má với ông ấy đã ăn ở với nhau mấy chục năm nay, nếu mình không chia sẽ nỗi đau buồn với má thì sẽ phiền lòng má. Hì hục mãi, cuối cùng tôi cũng viết xong lá thư. Suốt thư, tôi cứ nhắc đi nhắc lại là tôi thương má. Tất nhiên tôi có kể cho má nghe sự thất vọng vừa qua và những hy vọng hiện nay của tôi. Nói cho đúng thì chỉ việc này là tôi nói đến nhiều nhất. Tôi nhờ má tin ngay cho tôi biết nếu má được thư của gia đình tôi gửi hỏi tin tức ông Bácbơranh, nhất là cần nhớ gửi địa chỉ đến cho tôi: Gửi đến khách sạn Căngtan, ở Pari. Xong nhiệm vụ ấy, còn một nhiệm vụ thứ hai nữa đối với ông bố Lidơ. Nhiệm vụ này cũng khó khăn không kém. Khi ở Đrơdy, tôi nói với Lidơ rằng hễ đến Pari, lần đi phố đầu tiên của tôi là đi thăm ông bố em ở nhà lao. Tôi giải thích là nếu cha mẹ tôi mà giàu có như tôi tin tưởng, thì tôi sẽ xin tiền trả nợ cho bác Acanh; như vậy, tôi đến nhà lao chỉ để giải phóng cho bác và đưa bác đi với tôi thôi. Việc này nằm trong chương trình những niềm vui tôi đã vạch sẵn cho mình. Trước tiên là bác Acanh, sau đến má Bácbơranh, rồi lần lượt đến Lidơ, Êchiênnét, Alơxi, Bănggiamanh. Về phần Mátchia thì tất nhiên tôi được cái gì, nó được cái ấy, và hạnh phúc của tôi sẽ làm nên hạnh phúc của nó. Thế mà nay phải tay không mà đến nhà lao mới chán nản làm sao! Đến gặp bác Acanh mà vẫn bó tay như ngày từ giã bác, không giúp được gì, không đền ơn đáp nghĩa. Cũng may là tôi có những lời âu yếm và những cái hôn mà Lidơ và Alơxi trao gửi để mang đến cho bác. Niềm vui sướng của người cha chắc sẽ xoa dịu nỗi ân hận trong lòng tôi và tôi cũng được hởi dạ vì đã giúp ông được nhiều ít, trong khi chờ cơ hội làm hơn. Mátchia thích xem nhà tù quá nên đi theo tôi, vả lại tôi cũng muốn cho nó biết mặt người trong hai năm trời đã coi tôi như con. Bây giờ tôi đã biết cái mẹo làm thế nào để vào nhà lao Clisy, nên chúng tôi không phải đứng trơ ra và chờ đợi rất lâu trước cổng lớn như lần trước nữa. Người ta cho chúng tôi vào phòng đợi và lát sau thì bác Acanh đến. Từ bục cửa, bác đã dang tay ra đón tôi. Bác vừa ôm vừa nói: - Ôi! Cái thằng bé ngoan! Thằng cháu Rêmi trung hậu! Tôi báo tin về Lidơ và Alơxi ngay. Rôi khi tôi muốn bày tỏ vì sao tôi không thể đến chị Êchiênnét thì ông nói: Thế bố mẹ cháu? Bác biết chuyện rồi sao? Lão ta chết rồi. - Tôi nói. Tai hại chưa! Bác nói cho tôi biết vì sao Bácbơranh đến tìm bác để hỏi tin tức tôi: Đến Pari thì Bácbơranh tới nhà Garôphôli và tất nhiên là không gặp hắn ta. Lão bèn đi rất xa, về tận tỉnh Có cái nhà lao đang giam hắn, để hỏi về tôi. Tên này cho lão biết sau khi cụ Vitali mất đi, thì tôi được một ngươi trồng vườn tên là Acanh đem về nuôi. Bácbơranh bèn trở về Pari đến khu Glaxie, ở đấy người ta cho lão biết người trồng vườn ấy hiện đang bị giam giữ ở Clisy. Lão đến nhà lao và bác Acanh nói cho lão biết tôi đi chu du nước Pháp như thế nào, cho nên, dù bây giờ không biết rõ tôi ở đâu, nhưng đến một lúc nào đó, nhất định tôi sẽ ghé lại thăm một trong những đứa con bác ấy. Bởi thế, chính tay bác Acanh đã viết mấy lá thư cho tôi và gửi đến Đrơdy, Vácxơ, Étxnăngđơ và Xanh Căngtăng cùng một lúc. Tôi không nhận được thư bác gửi đến Đrơdy chắc là vì tôi đi rồi thư mới đến. Tôi hỏi: Thế Bácbơranh có nói gì với bác về cha mẹ cháu không? Không! Chỉ nói tí chút, chả có ích lợi mấy. Lão nói cha mẹ cháu đã dò hỏi phòng cảnh sát khu Anh Valiđơ và biết rằng đứa bé bị vứt bỏ ở phố Bơrơtơi đã được một người thợ nề nhặt về nuôi. Họ đến tìm cháu ở nhà lão Bácbơranh. Không thấy cháu họ đã nhờ lão lùng kiếm giúp họ. Lão không nói tên của cha mẹ cháu, không nói gì về quê quán cháu hay sao? Bác hỏi thì lão bảo để rồi sẽ nói chuyện. Bác chẳng buồn nhắc lại. Bác hiểu rằng lão ta giấu kỹ tên tuổi bố mẹ cháu chỉ vì lão sợ không được hưởng một mình tất cả món thù lao lớn như lão mong muốn: Chẳng là bác cũng có nuôi nấng cháu nên cái lão Bácbơranh ấy tưởng là bác muốn được đền công. Vì thế, bác tiễn lão ra ngay và từ đó không thấy tăm hơi lão đâu nữa. Bác không ngờ lão đã qua đời. Hóa ra có cha mẹ mà vì sự tính toán của lão keo bẩn ấy thành ra cháu chẳng biết cha mẹ cháu là ai, ở đâu! Tôi bày tỏ niềm hy vọng của chúng tôi. Bác cho rằng tin tưởng như thế là phải và viện ra nhiều lý lẽ xác đáng để khuyến khích tôi: Bố mẹ cháu đã moi lão Bácbơranh ở tận Savanông ra, rồi Bácbơranh lại truy ra Garôphôli và tìm ra được cả bác ở đây nữa, thì tất người ta sẽ tìm thấy cháu ở khách sạn Căngtan thôi! Hãy ở đấy mà chờ! Những lời lẽ ấy khiến tôi cảm thấy dễ chịu và trở lại vui vẻ. Tôi nói chuyện Lidơ, Alơxi và chuyện tôi bị vùi trong hầm mỏ. Khi tôi kể hết, bác than thở: Cái nghề sao mà hiểm nghèo thế! Mà thằng Alơxi lại làm cái nghề ấy mới tội chứ! Chà! Hồi nó trồng yên chi thì sung sướng hơn biết bao nhiêu. Thời ấy rồi sẽ trở lại, bác ạ! Ơn trời mà được như cháu nói, cháu Rêmi yêu mến ạ! Lưỡi tôi ngọ nguậy muốn nói rằng không lâu nữa bố mẹ tôi sẽ vận động cho bác ra tù. Nhưng tôi kịp nghĩ rằng không nên khoe trước những điều tốt mình định mang lại cho người ta. Tôi chỉ nói không bao lâu nữa bác sẽ ra khỏi nhà tù và con cái sẽ quây quần bên bác. Khi ra đường, Mátchia nói: Trong khi chờ đợi cái giờ phút tốt đẹp ấy, mình có ý kiến là chúng ta không nên bỏ phí thời gian. Phải kiếm tiền đi! Giá thử mấy hôm trước, dọc đường chúng ta không dành nhiều thì giờ kiếm tiền như thế thì hẳn chúng ta đã đến Pari kịp cho gặp lão Bácbơranh. Cái đó đúng! Làm cho cậu đến chậm, tớ đã tự trách mình bao nhiêu rồi, cậu đừng trách tớ nữa! Tớ có trách móc gì cậu đâu, Mátchia thân mến ạ! Tớ cam đoan với cậu như thế. Không có cậu, làm sao tớ mua được con búp bê cho Lidơ? Không có cậu, hẳn lúc này chúng mình phải vất vưởng trên vỉa hè thành phố Pari, không có một đồng xu nào để nuôi miệng. Đã thế thì thế này nhé: Cậu đã cho cái việc tớ muốn làm cho có tiền là phải thì giờ Đây ta hẵng cứ coi là phải. Vả chăng, chúng mình có việc gì đáng làm hơn là ca hát và biểu diễn cái chương trình của đoàn ta. Còn như dạo chơi đây đó, thì ta hãy chờ khi cậu có xe ngựa, đỡ mệt hơn. Gì chứ, ở Pari thì tớ coi như ở nhà vậy, tớ biết rõ chỗ nào là chỗ hời. Mátchia quả biết rõ những chỗ kiếm ra tiền, những quảng trường, những sân họp Đặc biệt, những hiệu cà phê, cho nên tối hôm đó, trước khi đi ngủ chúng tôi đếm lại số tiền thu được thì thấy những mười bốn phờrăng. Thế là khi sắp đi ngủ, tôi nhớ lại một câu quen thuộc của cụ Vitali nói rằng của cải chỉ đến với người không cần đến nó. Thu được khá thế này hẳn là dấu hiệu bố mẹ tôi sắp đến, chỉ ngày một ngày hai, vì chính tôi không cần tiền nữa, tiền mới đổ xô về như vậy. Tôi tin chắc ở linh tính của tôi nên hôm sau, tôi sẵn sàng nằm ỳ ở khách sạn, nếu Mátchia không thúc ép tôi dậy đi. Nó lại bắt tôi đàn, tôi hát, và ngày hôm đó, chúng tôi lại thu mười một phờrăng, Mátchia vừa cười, vừa nói: Ta không trở nên giàu có nhờ của cải của bố mẹ cậu thì tự tay ta, với sức ta, ta cũng sẽ làm nên giàu có được đấy! Mà như thế thì tuyệt! Ba ngày trôi qua như thế mà vẫn không có gì mới lạ xảy đến. Ngày nào chị giúp việc Khách sạn cũng chỉ trả lời tôi một câu, như một điệp khúc bất diệt: "Không có ai hỏi ông Bácbơranh cả và tôi cũng không nhận được thư nào gửi cho cậu hoặc cho ông ta". Mãi đến ngày thứ tư chị ta mối đưa cho tôi một phong thư. Đó là thư trả lời của má Bácbơranh do má nhờ người ta viết. Thư má nói rằng má đã được báo tin chồng má mất và trước đó ít lâu, má có nhận được thư của ông ấy. Cái thư đó có nói đến tung tích gia đình tôi, má nghĩ rằng nó có thể giúp ích cho tôi nên mới chuyển theo tôi. Mátchia reo: Mau lên, mau lên. Mau xem thư của lão Bácbơranh đi! Tôi mở phong bì, tay run run, lòng như thắt lại: "Tôi đang nằm viện, ốm nặng lắm, có lẽ không qua khỏi. Giá tôi có đủ sức thì tôi kể cho u nó nghe tôi lâm bệnh như thế nào. Nhưng kể chẳng chả ích gì, tốt hơn là đi ngay vào công việc gấp rút này. Tôi viết thư cho u nó cốt để dặn dò u nó, nếu chẳng may tôi có mệnh hệ nào thì u nó phải viết thư cho các ông Gơrét và Gơli, công viên Grin, quán trọ Linhcôn, ở Lơnđơn. Họ là những người thừa biện được ủy nhiệm lùng tìm Rêmi. U nó nói với họ rằng chỉ có u nó là biết tung tích thằng bé và u nó nhớ đòi tiền công cho xứng đáng để u nó có chút dư dật mà sống no ấm trong lúc tuổi già. Muốn biết Rêmi bây giờ thế nào thì u nó cứ việc gửi thư hỏi lão Acanh, trước làm nghề trồng vườn, bây giờ bị tù tại nhà lao Clisy ở Pari. Thư từ, u nó nhờ cha xứ viết tất, chứ trong công việc này đừng có tin ai. Khi nào u nó biết chắc tôi đã chết rồi thì chừng đó, làm gì hãy làm. Tôi hôn u nó lần cuối cùng đây. " Bácbơranh " Tôi chưa đọc hết câu cuối thì Mátchia đã nhảy choàng lên, hét: Đi Lơnđơn đi thôi! Tôi đang còn ngạc nhiên về những điều tôi vừa đọc nên chỉ đưa mắt nhìn Mátchia, không hiểu nó nói gì. Nó tiếp: Trong thư, lão Bácbơranh chẳng bảo rằng những người thừa biện ngươi Anh được ủy nhiệm lùng tìm cậu là gì! Cái đó có nghĩa là bố mẹ cậu cũng là người Anh, phải không nào? Cậu không thích là người Anh à? Giá tớ là người Pháp, cùng một Tổ quốc với Lidơ và lũ trẻ nhà ấy thì thích hơn. Tớ thì lại muốn cho cậu là người Italia kia! Nếu tớ là người Anh thì tớ sẽ là đồng bào của Áctơ và bà Miligơn. Thế nào? Nếu cậu là người Anh à? Cái đó chắc chắn rồi chứ còn nếu niếc gì nữa! Nếu bố mẹ cậu là người Pháp thì có đâu lại đi nhờ cậy bọn thừa biện Anh lùng kiếm đứa con đánh mất, ở nước Pháp? Cậu đã là người Anh thì phải sang Anh đi. Đó là cách tốt nhất để cậu nhích gần đến bố mẹ. Hay là ta viết thư cho các lão thừa biện ấy? Viết làm gì? Gặp nhau nói thẳng với nhau dễ ăn ý hơn là dùng thư từ. Khi chúng mình đến Pari, chúng mình còn mười bảy phờrăng. Một hôm sau chúng mình kiếm được mười bốn, hôm khác mười một, hôm sau nữa chín, thế là cộng được năm mươi mốt phờrăng. Chúng mình đã tiêu hết tám, thế là còn bốn mươi ba. Đi Lơnđơn thừa đi ấy chứ! Chúng mình đến Bulônhơ xuống tàu đi Lơnđơn, chả tốn là bao! Cậu chưa ở thành phố Lơnđơn chứ? Cậu thừa biết là chưa. Thế nhưng ở gánh xiếc Gátxô có hai anh hề người Anh. Họ hay nói chuyện thành phố Lơnđơn với tớ. Họ còn dạy tớ một số tiếng Anh đủ dể trò chuyện với nhau thế nào cho bà lão Gátxô, tò mò như một con vọ, không nghe ra gì hết. Tớ sẽ đưa cậu đi Lơnđơn. Tớ cũng vậy, tớ có học tiếng Anh với cụ Vitali. Ừ, nhưng đã ba năm rồi, chắc cậu quên hết, chứ còn tớ thì tớ nhớ. Rồi cậu xem. Với lại tớ ưng đi Lơndơn không phải chỉ vì muốn giúp cậu mà thôi. Nói thật với nhau, tớ còn một lí do nữa. Lý do gì? Nếu bố mẹ cậu đến đón cậu ở Pari thì có thể người ta không mang tớ đi với cậu. Còn như tớ mà sang Anh thì người ta không nỡ đuổi tớ về. Phỏng đoán như vậy có phần xúc phạm đến bố mẹ tôi đấy nhưng xét cho cùng thì cũng không hẳn là không có lý. Dù muốn một điều gì đó có thể xảy ra đi nữa thì tôi cùng phải ngăn chặn, tức là phải đồng ý đi Lơnđơn ngay với Mátchia. Tôi nói: Ta đi chứ? Cậu bằng lòng chứ? Trong dăm phút, chúng tôi đã soạn xong xắc và xuống dưới nhà, sẵn sàng để ra đi. Trông thấy chúng tôi đóng bộ như thế, bà chủ khách sạn Căngtan phản kháng: Coi cái cậu cả kìa! (cậu cả là tôi) Cậu không đợi ông bà nhà ta à? Đợi lại thì hơn đấy, cậu ạ! Với lại, để cho ông bà nhà ta đến sẽ thấy cậu quý tử được chăm sóc tử tế như thế nào chứ! Nhưng cái tài hùng biện ấy không giữ chân tôi được. Trả tiền trọ xong, tôi đi ra đường. Mátchia và Capi đã ra trước, đứng đó đợi tôi. Bà cụ hỏi: Thế thì cậu nên để địa chỉ lại đây! Ở Lơnđơn! Bà cụ kêu. - Hai thiếu niên thế này mà vào giữa Lơnđơn! Lại băng đường trường! Lại vượt biển khơi nữa chứ! Trước khi lên đường đi Bulônhơ, phải đến chào tạm biệt ông bố đã chứ! Nhưng buổi chào tạm biệt này không buồn thảm! Bố Acanh sung sướng được biết là tôi sắp gặp gia đình, và tôi cũng rất vui mừng được nhắc lại với ông rằng nhất định tôi sẽ cùng bố mẹ trở lại ngay đây để cám ơn ông. Thôi, chào con, chúc con may mắn, ta sẽ gặp nhau! Nếu vì một lý do nào đó mà con chưa trở lại được như ý muốn, con cứ viết thư cho ta cũng được! - Nhất định con sẽ trở lại! Ngày hôm ấy, chúng tôi đi một mạch đến Moátxen và xin ngủ nhờ ở một trang trại vì cần phải ăn tiêu dè xẻn để dành tiền mua vé tàu vượt biển. Mátchia nói chả tốn bao nhiêu, nhưng chả tốn" bao nhiêu "là từng nào mới được chứ? Vừa đi đường, tôi vừa học tiếng Anh với Mátchia. Tôi hết sức băn khoăn về một ý nghĩ nó làm cho tôi mất tươi vui hỉ hả: Chẳng hay bố mẹ tôi có nghe được tiếng Pháp hay tiếng Italia không nhỉ? Làm thế nào trò chuyện với nhau nếu như bố mẹ tôi chỉ nói tiếng Anh thôi? Nếu mà thế thì bất tiện biết bao nhiêu! Nếu có anh chị em thì tôi sẽ nói gì với họ cho được? Chưa nói chuyện được với anh chị em thì chắc anh chị em coi như người ngoài thôi! Từ khi ở Savanông ra đi, tôi đã nhiều lần hình dung trước cái cảnh đoàn tụ, và chưa bao giờ tôi thoáng nghĩ rằng mình có thể bị cụt hứng như thế này. Chắc là còn lâu nữa tôi mớí học thông được tiếng Anh, chừng như nó cũng khó học thật! Từ Pari đến Bulônhơ, chúng tôi đi mất tám ngày vì phải dừng lại ở các thị trấn lớn trên đường đi để biểu diễn gây lại vốn. Tôi Bulônhơ, chúng tôi vẫn còn được ba mươi hai phờrăng thừa mua vé tàu. Đến Bulônhơ, trước hết chúng tôi đi dạo xem cái đập ở cảng, vì Mátchia chưa bao giờ tròng thấy biển bao giờ. Nó đứng sững mấy phút, mắt nhìn đắm vào cõi mù mù, tăm tăm, ở chân trời xa tắp rồi tặc lưỡi bảo là xấu lắm, buồn lắm và bẩn nữa. Thế là chúng tôi tranh luận. Ngày thường chúng tôi vẫn hay nói đến biển và bao giờ tôi cũng nói với nó rằng cảnh biển là cảnh đẹp nhất trên đời. Cho nên tôi bênh vực ý kiến ấy. Mátchia nói: Có lẽ cậu nói có lý khi mặt biển xanh biếc như cậu trông thấy ở Xếttơ và thuật lại với tớ. Nhưng mà khi biển như biển này, vàng kệch và xanh lục, bên trên là trời xám xịt với những đám mây lớn âm u thì biển xấu, xấu lắm, tớ chẳng thích đi trên ấy tí nào.. Thường thường, Mátchia với tôi, chúng tôi vẫn dễ dàng nhất trí với nhau: Hoặc là nó Đồng ý với tôi hoặc là tôi cũng tỏ ra hợp ý với nó. Nhưng lần này tôi cứ khư khư giữ ý mình và tôi cho rằng mặc dầu một màu xanh lục, nhìn xuống thì mờ mờ, nhìn lên thì mây kéo ùa ùn theo gió thổi loạn xạ. Vùng biển này vẫn vô cùng đẹp hơn một cái biển xanh biếc dưới một bầu trời xanh lam. Mátchia đáp lại:" Chỉ vì cậu là người Anh cho nên mới nói như vậy và cậu yêu thích cái biển tồi tệ này chẳng qua vì nó là biển của xứ sở quê hương đấy thôi! " Tàu đi Lơnđơn sẽ nhổ neo vào bốn giờ sáng hôm sau. Mới ba giờ rưỡi, chúng tôi đã lên tàu, cố tìm lấy một chỗ tốt. Chúng tôi nấp sau một đống thùng gỗ để che bớt ngọn gió bấc lạnh và ẩm ướt. Dưới ánh sáng của mấy chiếc đèn lồng um khói, người ta bốc hàng xuống tàu, ròng rọc rít, những két hàng thả xuống hầm tàu kêu răng rắc, thủy thủ chốc chốc lại thét lên vài tiếng với giọng ồ ồ. Át cả mọi tiếng huyên náo là tiếng xì xụp của hơi nước, từ máy bốc lên thành những cuộn trắng. Một hồi chuông réo, dây cáp buông xuống nước và thế là chúng tôi lên đường. Lên đường về quê hương tôi. Tôi thường nói với Mátchia rằng không có gì lý thú bằng đi chơi trên tàu thủy. Mình lướt êm ru trên mặt nước, không hề biết đã đi mấy đỗi đường. Thật là mê ly - như một giấc mơ. Nói như vậy là tôi nghĩ đến thuyền Thiên Nga và cuộc du hành trên kênh Nam. Nhưng biển không giống sông đào. Vừa đi khỏi đập thì con tàu hình như đâm sâu xuống rốn nước lần nữa, cứ thế liên tục bốn năm bận, chẳng khác những chuyển động ấy, hơi nước từ ống khói thoát ra với tiếng rít chát tai rồi đột ngột lặng im. Bấy giờ chỉ còn nghe tiếng guồng Gạt nước (1) lúc ở mạn bên này, lúc ở mạn bên kia tùy con tàu nghiêng bên nào. Mátchia nói:" Lướt êm quá nhỉ! "Tôi không biết đáp thế nào vì lúc bâv giờ tôi có biết sóng ngang ở cửa biển là thế nào đâu! Thật ra thì không phải chỉ có sóng ngang (2) làm cho tàu tròng trành; hôm ấy ngoài khơi, biển cũng động nữa. Mátchia lặng thinh đã lâu bỗng nhiên vùng dậy. Tôi hỏi: Cậu làm sao thế? Tớ thấy nó nhảy nhót nhiều quá, ruột gan tớ lộn lên đây! Say sóng đấy! Hẳn rồi! Mình cảm thấy rõ quá! Mấy phút sau, nó chạy lên mạn tàu vịn vào be. Tội nghiệp! Nó mệt quá! Tôi cố ôm nó vào lòng, ấp đầu nó trong ngực tôi, nó cũng không khỏi. Nó rên rỉ và chốc chốc nó vùng dậy, khập khiễng đi lại chống tay chồm qua be tàu. Mấy phút sau nó mới trở lại nép vào người tôi. Cứ mỗi lần trở về nó lại giơ quả đấm ra với tôi và nửa cười cợt, nửa cáu gắt, nó bảo: Chà! Cái bọn Ănglê (3) này, chúng không có ruột gan! Cũng may đây. Trời hửng sáng thì chúng tôi nhìn thấy những ghềnh đá trắng cao ở bờ biển và đây đó vài chiếc tàu im lìm, không kéo buồm. Dần dần tàu bớt tròng trành rồi lướt đi trên mặt nước phẳng lặng, nhẹ nhàng không kém gì đi trên kênh. Bây giờ tàu không ở biển khơi nữa, và chúng tôi nhìn thấy - nói cho đúng hơn là đoán thấy - qua màn sương sớm, bóng cây thấp thoáng ở hai bên bờ xa, xa tít. Chúng tôi đã đi vào sông Tamidơ. Tôi bảo Mátchia: Chúng mình đến đất Anh rồi! Mátchia không hoan nghênh cái tin mừng này. Nó nằm dài trên boong, đáp: - Để yên cho tao ngủ! Tôi không bị say sóng khi vượt biển nên không buồn ngủ. Tôi sắp xếp cho Mátchia nằm thoải mái chừng nào hay chừng ấy, rồi tôi leo lên đống thùng gỗ, chọn chồng cao nhất để ngồi và đặt con Capi ở giữa hai chân. Con Capi đã vượt sóng gió một cách can đảm. Biết đâu! Biết đâu Capi không là một dân biển lão luyện! Ở với cụ Vitali, cái gì mà nó không biết! Từ chỗ ngồi cao ấy, mắt tôi bao quát con sông, tôi nhìn thấy được dòng sông chảy ở hai bên bờ, nhìn ngược dòng, lại nhìn được cả về xuôi, đằng sau lái. Bên phải chạy dài một cồn cát lớn, mép viền bọt trắng. Bèn trái xanh mù như lại sắp đi vào biển nữa. Nhưng không, đó chỉ là ảo giác: Chẳng mấy chốc bờ sông xanh xanh dịch lại gần rồi hiện lên rõ là những bãi lầy lội, màu sắc vàng. Cả một hạm đội thả neo đỗ ở giữa sông. Len giữa đám tàu ấy, những tàu chạy hơi nước, tàu kéo đi đi lại lại. Và biết cơ man nào là buồm! Tôi chưa hề nghĩ rằng một con sông lại có thể đông đúc đến thế. Sông Garon đã khiến tôi ngạc nhiên, thì sông Tamidơ giờ đây khiến tôi thán phục. Nhiều tàu sửa soạn để nhổ neo. Trên giàn buồm, các thủy thủ chạy đây chạy đó trên những chiếc thang dây trông xa mỏng mảnh như tơ nhện. Con tàu của chúng tôi để lại sau lái một làn bọt trắng trên mặt nước vàng. Vô khối những thứ rêu rác trôi nổi lềnh bềnh trên mặt sông: Nào là ván, nào là đầu đày gỗ, nào là cỏ rác, nút chai, nào là xác súc vật trương sình lên. Chốc chốc một con chim có đôi cánh lớn sà xuống đám rác rểu ấy để rồi tức khắc kêu lên một tiếng xé tai mà bay lên, mỏ đã quắp mồi rồi. Sao Mátchia lại muốn ngủ nhỉ? Nó thức dậy có hơn không? Cảnh tượng này kỳ thú, đáng xem lắm mà! Tàu càng ngược sông, lại càng kỳ thú, càng đẹp. Bây giờ, cái đáng xem Không chỉ có thuyền buồm hay tàu chạy hơi nước, hoặc những chiếc tàu ba buồm to lớn, những thuyền đi biển khổng lồ từ phương xa về, những tàu than đen đủi, những thuyền chất rạ và cỏ khô trông như những đụn rơm cuốn theo dòng nước, những phao nổi to tướng sơn đen, trắng, đỏ bị dòng nước xô quay tròn. Còn đáng chú ý nữa là những việc xảy ra, những điều ta trông thấy ở hai bên bờ bây giờ hiện rõ mồn một. Những ngôi nhà quét sơn màu duyên dáng, những đám cỏ xanh, những cây sum suê cành lá chưa hề chạm lưỡi (4) dao tiện, và đây đó những chiếc cầu tàu nhô ra giữa bãi bùn đen, những tín hiệu thủy triều, những cọc xanh xanh, nhơn nhớt. Tôi ngồi như thế lâu lắm, đôi mắt mở to chỉ để mà trông, mà phục. Nhưng đến đây thì bỗng nhiên nhà ở hai bên bờ sông dồn đống lại, chen chúc thành từng hàng dài đỏ ngòm. Trời trở nên mù mịt. Khói và sương mù quyện lại với nhau, khó mà nói được sương dày hơn hay khói. Rồi thì giữa các đồng cỏ, đáng lẽ có cây cối và gia súc thì đột nhiên xuất hiện một rừng cột buồm: Tàu bè đỗ trên đồng cỏ. Không nhịn được nữa, tôi tụt từ" đài quan sát "xuống đi tìm Mátchia. Nó đã thức giấc. Hết say sóng rồi, nó không cáu kỉnh nữa và vui lòng leo lên đống thùng gỗ với tôi. Nó cũng thấy choáng và đưa tay dụi mắt. Đây đó, từ các đồng cỏ, có những con sông đào chảy ra sông lớn, các sông ấy cũng đầy tàu bè. Khốn thay, sương mù và khói cứ càng lâu càng dày đặc. Chúng tôi thì chỉ nhìn thấy cảnh vật quanh mình từng quãng và cứ càng đi sâu vào nội địa càng lờ mờ. Cuối cùng, con tàu đi chậm lại, tắt máy, và thủy thủ ném dây cáp lên bờ. Thế là chúng tôi đã ở thành phố Lơnđơn. Chúng tôi bước chân lên bờ giữa đám người chỉ nhìn chúng tôi mà không nói gì với chúng tôi." Này, Mátchia thân mến, lúc này là lúc cậu cần giở cái vốn liếng tiếng Anh của cậu ra mà dùng đấy!". Không chút e ngại, Mátchia đến gần một ông to béo, có chòm râu màu hung, và cầm mũ ở tay, nó lễ phép hỏi đường đi công viên Gờrin. Hình như Mátchia phải mất nhiều thì giờ lắm mới làm cho người đó hiểu mình và người đó đã bắt hắn nhắc đi nhắc lại mãi mấy tiếng. Nhưng tôi không muốn tỏ vẻ hoài nghi sự thông thái của bạn tôi. Mãi rồi nó cũng trở về chỗ. Nó nói: Dễ lắm! Cứ việc đi dọc sông Tamidơ. Chúng mình sẽ lần theo bờ kè mà đi. Nhưng ở Lơnđơn hồi đó không có bờ kè, nhà cửa cứ việc nhô ra tận sông. Cho nên chúng tôi phải đi theo những đường phố đoán chừng là chạy dọc theo dòng sông. Những đường phố đó tối tăm lầy lội quá sức và ngổn ngang những xe cộ, những hòm xiểng, những kiện hàng, gói bọc đủ loại. Những thứ ấy, hết đây lại đó, cứ vướng chân vướng cẳng, chúng tôi len lỏi đi lên cho được rất khó khăn. Tôi buộc con Capi vào một sợi dây thừng và kéo nó theo sát bên tôi. Mới một giờ trưa mà đèn khí đã thắp trong các cửa hàng. Nhìn thấy Lơnđơn như vậy, chúng tôi không có cảm tình như đối với sông Tamidơ. Chúng tôi cứ đi lên và chốc chốc Mátchia lại hỏi thăm xem chúng tôi còn cách quán Trọ Linhcôn bao xa. Rồi chúng tôi không còn đi trên đường phố ồn ào, nhộn nhịp nữa. Chúng tôi vào những con phố vắng vẻ, chằng chịt, ở đấy chúng tôi có cảm giác là cứ đi quẩn đi quanh tại chỗ như trong một trận đồ bát quái (5) chứ không tiến lên được bước nào. Bỗng nhiên, giữa lúc tưởng đã lạc đường thì chúng tôi đến một nghĩa địa nhỏ đầy mồ mả, bia mộ đen sì như thể quét bồ hóng hay đánh xi đen: Đó là công viên Gờrin. Trong lúc Mátchia đón một bóng người qua đường để hỏi han thì tôi đứng lại để tim khỏi đập mạnh. Tôi không thở được nữa, người tôi run lên. Rồi tôi bước theo Mátchia và dừng lại trước một tấm biển đồng đọc thấy mấy chữ: Gơrét và Gơli. Mátchia bước lên định kéo chuông thì tôi ngăn tay nó. Nó hỏi: Cậu làm sao thế? Mặt tái đi thế kia! Hượm tí đã, đợi mình bớt hồi hộp! Mátchia giật chuông và chúng tôi bước vào nhà. Tôi bối rối quá, không trông rõ quanh mình: Chừng như đây là một phòng giấy, có hai người đang gò lưng viết trên bàn, dưới mấy ngọn đèn khí vừa cháy, vừa reo sè sè. Mátchia đến nói với một trong mấy người đó vì dĩ nhiên là tôi đã cậy nó đỡ lời. Trong khi nó nói, tôi nghe mấy tiếng family, boy (6), Bácbơranh trở đi trở lại; tôi hiểu là nó trình bày rằng tôi là chú bé mà gia đình đã cậy Bácbơranh tìm kiếm. Cái tên Bácbơranh có tác dụng: Mọi người nhìn chúng tôi và người kia đứng lên mở cửa cho chúng tôi vào một căn phòng đầy giấy tờ, sách vở. Một ông đang ngồi trước bàn giấy, một ông khác mặc áo dài, đầu chụp tóc giả, tay xách nhiều túi vải xanh, đang nói chuyện với ông kia. Người đưa chúng tôi vào báo cáo vắn tắt chúng tôi là ai, tức thời hai ông ấy nhìn chúng tôi từ đầu đến chân. Cái ông ngồi bàn giấy hỏi bằng tiếng Pháp: Anh nào là đứa bé Bácbơranh nuôi? Thưa ông, tôi đây! Bácbơranh đâu? Ông ta chết rồi? Hai ông nhìn nhau một lát rồi ông có tóc giả xách mấy chiếc túi đi ra. Ông vừa hỏi tôi lại tiếp: Thế anh đến đây bằng cách nào? Đi bộ đến Bulônhơ, rồi từ Bulônhơ, đáp tàu thủy đi Lơnđơn. Chúng tôi vừa lên bộxong. Bácbơranh có cấp tiền cho anh chứ? Chúng tôi không gặp ông Bácbơranh. Thế thì làm sao các anh biết tìm đến đây? Tôi thuật lại rất vắn tắt câu chuyện mà ông ấy hỏi. Tôi nôn nóng muốn đến lượt mình hỏi một đôi câu, trước hết là một câu cháy lưỡi. Nhưng tôi không kịp hỏi. Người ta cứ bắt tôi kể vì sao mà tôi được Bácbơranh nuôi, vì sao mà lão bán tôi cho cụ Vitali; rồi khi cụ chủ tôi chết, tôi được gia đình bác Acanh cứu mạng như thế nào và cuối cùng, khi bác Acanh bị bỏ tù vì thiếu nợ, tôi trở lại làm nghề nhạc sĩ lang thang như thế nào. Tôi nói đến đâu thì ông ta ghi lại đến đó và nhìn tôi với con mắt thế nào ấy, nó làm tôi khó chịu. Quả là ông ta có vẻ khắc nghiệt và nụ cười có ẩn cái gì man trá. Thế còn chú bé này là ai? - Ông ta vừa hỏi vừa đưa cây bút sắt chỉ vào Mátchia như muốn bắn một mũi tên vào người nó. Là bạn thân, bạn nghề nghiệp, một người anh em ruột thịt của tôi. Tốt lắm! Chỗ quen biết gặp nhau trên bước giang hồ, chắc thế? Một người anh em ruột thịt âu yếm và thân tình nhất! Ồ! Ta có nói khác đâu! Tôi nghĩ đã đến lúc đặt cái câu hỏi làm tôi ấm ức trong lòng từ khi bắt đầu câu chuyện: Thưa ông, có phải gia đình tôi ở nước Anh không? Hẳn là ở Anh rồi, ít nhất là trong lúc này! Thế tôi sắp được gặp chưa? Lát nữa anh sẽ về gia đình anh. Tôi sẽ bảo người đưa anh đi. Ông bấm chuông gọi. Khó khăn lắm tôi mới thốt được mấy tiếng sau đây: Ông cho phép tôi hỏi một câu nữa thôi! Tôi có bố không? Không những bố, anh có một bà mẹ và nhiều anh chị em nữa. Chao ôi! Ông ơi! Cánh cửa mở ra chặn đứng sự cảm khái của tôi. Tôi chỉ biết đưa mắt trào lệ nhìn Mátchia. Ông kia nói tiếng Anh với người mới vào. Tôi hiểu chừng như ông ấy bảo người ấy đưa chúng tôi đi. Tôi đứng dậy. Ông nói tiếp: Ồ! Tí nữa thì quên. Tên họ anh là Đơrixcơn. Đó là tên bố anh. Mặc dù với vẻ mặt bất lương của ông ta, tôi cũng muốn nhảy lên ôm cổ ông ta mà hôn, nếu ông để cho tôi đủ thì giờ. Nhưng ông ta đưa tay trỏ ra phía cửa và chúng tôi đi ra.
Chương 34: Gia đình Đơrixcơn Bấm để xem Viên thư lại đưa tôi đi tìm gia đình là một lão già nhỏ bé, củ củ rù rù, cứng đờ, da dẻ nhăn nheo, mặc áo dài đen đã bợt và bóng, cổ đeo cà vạt trắng. Ra đến ngoài đường, lão ta xoa rối rít hai bàn tay, bẻ ngón tay và cườm tay "cục cục", đá đá chân như muốn hất tung ra xa đôi ủng đã vẹt gót và nghếch mũi lên trời, lão hít mạnh sương mù luôn mấy nhịp, bộ điệu khoái trá của một người đã tù cẳng trong phòng. Mátchiaa bảo tôi bằng mấy tiếng Italia: "Lão ta hít hít có vẻ thích thú lắm nhỉ?" Lão già nhìn chúng tôi không nói một lời, lão chỉ "sịt, sịt" như xuýt chó, như thế nghĩa là chúng tôi phải bám sát gót lão, đừng có để bị lạc. Chẳng mấy chốc chúng tôi đã lọt vào một dãy phố nườm nượp xe cộ. Lão ta chặn một chiếc xe lại. Đây là một thứ xe lạ kiểu ở chỗ người đánh xe đáng lẽ ngồi trên ghế ngay sau ngựa thì lại vắt vẻo trên cao sau một thứ mui vải. Lão già bảo chúng tôi lên xe, phía trước thì trống hoác. Lão trõ qua một lỗ hổng nói chuyện với người đánh xe. Nhiều lần tiếng "Bétnơn Gờrin" được nhắc đến và tôi đã ngờ rằng đó là tên cái khu phố bố mẹ tôi ở. Tôi cũng hiểu rằng "Gờrin" tiếng Anh có nghĩa là "xanh" và nó gợi cho tôi nghĩ rằng ở đó chắc là trồng nhiều cây cối xanh tươi, điều này xưa nay tôi rất thích thú. Như thế thì khác hẳn những phố xá tồi tàn ở Lơnđơn, vừa tối tăm vừa buồn tẻ mà chúng tôi đã đi qua khi mới đến. Hẳn là một ngôi nhà rất xinh trong đô thành lớn, chung quanh trồng cây. Câu chuyện trao đổi khá lâu giữa hai người, khi thì người ngồi bên dưới phải dướn người lên tới lỗ hổng để giải thích cho người ngồi trên, khi thì bác đánh xe muốn từ trên caotụt xuống qua lỗ hổng để nói cho rõ rằng mình chẳng biết chút gì về điều mà người khách đang nói. Mátchia và tôi ngồi dồn vào một góc, con Capi ngồi giữa hai chân tôi. Nghe cãi cọ thế ấy, tôi ngạc nhiên cớ sao một người đánh xe chở thuê như vậy lại có thể không biết cái nơi tươi mát như là "Bétnơn Gờrin" ấy? Ở Lơnđơn có nhiều khu phố xanh tươi chăng? Cũng khá lạ đấy! Cứ như chúng tôi đã thấy, có lẽ nhiều bồ hóng hơn thì phải! Chúng tôi đi khá nhanh trong những đường phố rộng, rồi vào những phố hẹp, rồi đến những phố rộng nhưng hầu như chẳng thấy rõ gì chung quanh mình, sương mù dày đặc che phủ tất cả. Trời đã chuyển lạnh, vậy mà chúng tôi cảm thấy khó thở như bị nghẹt. Đó là Mátchia với tôi thôi, còn viên thư lại dẫn đường thì trái lại lão tỏ ra rất khoan khoái. Rõ ràng lão ta hít mạnh khí trời, miệng há to, mũi phồng lên hít lấy hít để. Dường như lão ta cố sống cố chết tích lấy một khối lượng lớn khí trời vào trong phổi. Thế rồi, thỉnh thoảng lão lại tiếp tục bẻ tay cục cục và duỗi chân duỗi cẳng; cứ như lão ta phải ngồi yên hàng bao nhiêu năm trời, không được cử động và không được thở! Cứ nghĩ rằng chỉ trong chốc lát, vài giây đồng hồ chưa chừng, tôi sẽ được ôm hôn bố mẹ tôi, anh chị tôi, mối xúc cảm lại khiến tôi phát điên lên được! Thế nhưng tôi vẫn rất muốn được nhìn cái thành phố chúng tôi đi qua. Chẳng phải là thành phố của tôi, quê cha đất tổ của tôi ư? Nhưng dù đã hoài công mở to đôi mắt, tôi vẫn chẳng thấy gì hoặc hầu như chẳng thấy được chút gì ngoài mấy đốm lửa đỏ của ngọn đèn khí lập lòe trong sương mù tựa như trong một đám khói dày đặc. Ngay những chiếc đèn ló ở xe cộ qua lại cũng thấy rất lờ mờ. Thỉnh thoảng xe chúng tôi dừng đứng ngay lại để khỏi vướng phải, hoặc cán phải những người qua lại rất đông trên đường phố. Xe vẫn chạy. Chúng tôi rời nhà Gơrét và Gơli đã rất lâu rồi; như thế, theo suy nghĩ của tôi, lại càng rõ là bố mẹ tôi ở tại miền thôn quê. Nhất định chỉ trong khoảnh khắc, chúng tôi sẽ đi ra khỏi đường phố chật chội để đi vào miền đồng nội. Mátchia và tôi vẫn nắm tay nhau. Niềm tin sắp được gặp gia đình khiến tôi nắm tay nó thật chặt. Hình như chính trong lúc này, hơn tất cả lúc nào hết, tôi cần tỏ rõ cho nó biết rằng tôi là bạn chí thân, bạn suốt đời của nó. Nhưng đáng lẽ phải tới miền đồng quê, chúng tôi lại lọt vào những đường phố chật hẹp hơn, và nghe có cả tiếng còi xe lửa. Thế là tôi nhờ Mátchia hỏi hộ người đưa đường xem chúng tôi đã sắp đến chỗ bố mẹ tôi chưa? Câu trả lời của Mátchia thật là ngán ngẩm: Nó nghĩ rằng viên thơ lại nhà Gơrét và Gơli đáp là lão chưa hề đặt chân đến khu tụ tập của quân trộm cắp. Chắc là Mátchia nghe nhầm; nó không hiểu rõ câu trả lời của lão ấy. Nhưng nó vẫn khăng khăng cái từ thieves, từ Anh mà viên thơ lại dùng để trả lời nó, rõ ràng có nghĩa là quân trộm cắp, chắc chắn thế. Tôi bàng hoàng một chút nhưng rồi lại nghĩ thầm rằng viên thư lại kia sợ quân trộm cắp, chính vì chúng tôi đi vào miền đồng quê vắng vẻ và cái từ Gờrin đặt sau từ Bétnơn, có nghĩa rõ ràng là cây cối hoặc nội cỏ. Tôi nói ý nghĩ ấy với Mátchia và thế là cái điều lo sợ của lão cứ khiến chúng tôi cười mãi. Những kẻ không bao giờ ra khỏi thành phố đúng là ngốc ngếch. Nhưng vẫn chưa có vẻ nông thôn tí nào! Phải chăng cái nước Anh chỉ là một thành phố đầy những đá và bùn tên gọi Lơnđơn? Cái thứ bùn này nó tràn ngập cả vào trong xe, nó bắn lên tận chúng tôi từng mảng đen ngòm; một mùi nhạt thếch bao quanh chúng tôi đã khá lâu rồi! Tất cả những cái đó chứng tỏ rằng chúng tôi hiện đương ở trong khu phố tồi tàn, có lẽ là khu phố cuối cùng, trước khi tới những nội cỏ của Bétnơn Gờrin. Tôi cảm thấy như chúng tôi đương xoay quanh và thỉnh thoảng người lái xe lại cho xe đi chậm lại, hình như anh ta cũng ngập ngừng, không hiểu là đương ở nơi nào! Thình lình, anh ta dừng ngay xe lại và cái lỗ cửa phía trên chúng tôi mở ra. Thế là một cuộc trao đổi, đúng hơn là một cuộc đôi co, nổ ra. Mátchia bảo tôi rằng theo như nó nghe được thì hình như người đánh xe không muốn đi xa hơn nữa vì anh ta không biết đường nữa rồi. Anh ta đòi phải chỉ dẫn kỹ hơn. Còn viên thư lại của Gơrét và Gơli vẫn trả lời một mực rằng chưa bao giờ lão ta đặt chân tới khu phố của bọn trộm cắp. Tôi nghe rõ cái từ thieves. Nhất định nơi đó không phải là Bétnơn Gờrin được. Vậy thì điều gì đã xảy ra? Cuộc đấu khẩu lại tiếp tục qua lỗ cửa nhỏ và hai bên đều phát cáu ngang nhau trong lời qua tiếng lại qua cái lỗ cửa ấy. Cuối cùng, viên thư lại trả tiền cho người đánh xe đương lẩm bà lẩm bẩm, rồi bây giờ xuống xe, và lại "sịt, sịt, sịt" với chúng tôi. Rõ ràng chúng tôi phải xuống xe theo lão. Bây giờ thì chúng tôi đi trong một đường phố lầy lội. Một cửa hàng thắp đèn sáng choang; từ những tấm gương lớn, những mảng thiếp vàng và những cái chai vuông mặt, ánh sáng đèn khi phản chiếu sáng lòa ra ngoài đường phố, rồi xuyên qua đám sương dày ra tận con ngòi. Đó là một tiệm rượu mạnh, một ngôi nhà lầu trong đó bán rượu mạnh đủ loại, chế biến bằng chất rượu cất từ các thứ hạt hoặc từ củ cải đỏ. Người đưa đường lại "sịt sịt". Chúng tôi theo lão ta vào hiệu. Đúng là chúng tôi đã nhầm mà ngỡ rằng mình đương ở trong một khu phố tồi tàn; tôi chưa bao giờ được thấy một chốn nào lịch sự hơn: Đâu đâu cũng là những tấm gương và những mảng thiếp vàng; quầy hàng thì dát bạc. Ấy vậy mà những người đứng trước quầy hàng, hoặc tựa vai vào tường hay là vào những thùng rượu, thì lại ăn mặc rách rưới. Có thể không đi giày, và cặp chân trần của họ, vì lội trong những bãi phân nhão nhoẹt, cũng đen xỉn như thể bôi xi đánh giày chưa kịp để cho khô. Trên cái quầy dát bạc ấy, người đưa đường chúng tôi mua một cốc nước trăng trắng thơm thơm, khoái trá uống cạn một hơi cũng như trước đó một chút, lão ta đã hít lấy hít để sương mù. Sau đó, lão nói chuyện với người bán hàng mặc áo xắn tay đến khuỷu. Nhất định lão ta hỏi đường, và tôi cũng không cần phải hỏi đến Mátchia nữa. Chúng tôi lại ra đi, bám gót lão ta. Đến đây đường phố hẹp lắm, cho nên dù có sương mù, chúng tôi vẫn trông thấy nhà cửa hai bên. Nhiều dây thừng chăng từ nhà nọ qua nhà kia, trên đó áo quần và tã rách vắt lòng thòng, chắc là không phải để phơi. Mình đi đâu đây? Tôi bắt đầu băn khoăn. Chốc chốc Mátchia liếc nhìn tôi, nhưng nó không hỏi chuyện. Từ đường phố, chúng tôi đi vào một ngõ hẹp, qua một cái sân lại đến một ngõ phố nữa. Nhà cửa quãng này tồi tàn quá, tồi hơn cả những làng tồi tàn nhất bên nước Pháp. Một số lớn làm bằng ván gỗ như nhà xe hay chuồng bò vậy, nhưng chính lại là nhà ở. Ở các thềm nhà lố nhố những người đàn bà để đầu trần và trẻ con. Khi có chút ít ánh sáng để nom rõ quanh mình thì tôi nhận thấy những người đàn bà này nước da tái, tóc vàng nhạt buông xõa xuống vai; trẻ con hầu như trần truồng, có chút ít quần áo gì trên người thì đều rách bươm. Ở ngõ phố nọ, lợn ủi trong một rãnh nước đọng lại hôi thối. Người đưa đường cho chúng tôi dừng lại. Chắc là ông ta mất phương hướng rồi. May lúc ấy có một người đi tới chỗ chúng tôi. Ông ta mặc áo khoác xanh, đội mủ da bóng; tay ông ta đeo lon nửa đen, nửa trắng, bao súng nịt ở thắt lưng. Đó là một viên cảnh sát của Thành phố Lơnđơn. Hai người nói chuyện với nhau, sau đó, chúng tôi lại đi qua nhiều ngóc ngách, sân nhà, đường phố khúc khuỷu. Hình như đây đó, có những nhà đổ nát. Cuối cùng, chúng tôi đến một cái sân, giữa có ao nước nhỏ. Người cảnh sát nói: "Sân Sư tử đỏ!" Sao lại dừng lại ở đây? Ồ đây không thể là Bétnơn Gờrin. Bố mẹ ta đâu lại ở cái sân này cơ chứ! Thế thì tại sao? Tôi không có thì giờ suy nghĩ về những nỗi băn khoăn ấy. Viên cảnh sát gõ cửa một thứ nhà xe bằng gỗ ván và người đưa đường cho chúng tôi cảm ơn ông ta. Chúng tôi đến nơi rồi sao? Mátchia siết tay tôi, - nó vẫn giữ tay tôi từ đầu, - và tôi siết tay nó. Chúng tôi cảm thông với nhau. Nỗi khắc khoải trong lòng tôi cũng bóp thắt trái tim nó. Quá xúc động, tôi không biết người ta mở cửa đón chúng tôi như thế nào sau khi viên cảnh sát gõ cửa. Chỉ từ khi vào cái buồng lớn có ánh đèn, có lửa sưởi đốt bằng than đá sau tấm lưới sắt, chỉ từ khi ấy, sự việc mới được tôi ghi nhớ. Trước bếp lửa, trong một chiếc ghế bành rơm, trông như cái bệ thờ thánh khoét lõm vào tường, có một ông cụ già ngồi im lìm như một pho tượng, râu bạc trắng, đầu đội mũ chụp đen. Một người đàn ông và một người đàn bà ngồi đối diện nhau, ở hai bên một chiếc bàn. Người đàn ông trạc bốn mươi, mặc quần áo bằng nhưng màu xám, vẻ mặt thông minh nhưng khắc nghiệt; người đàn bà trẻ hơn chừng năm sáu tuổi, tóc vàng rủ xuống chiếc khăn kẻ ô đen trắng choàng qua trước ngực. Mắt bà mơ màng vô định, và trên gương mặt, ngày xưa chắc là đẹp, cũng như trên cử chỉ uể oải người ta thấy dáng của một người hờ hững, vô tình. Trong phòng còn có bốn đứa trẻ, hai trai, hai gái, đều tóc vàng, một màu vàng nhạt như mẹ. Đứa lớn nhất khoảng mười một, mười hai, hai đứa sau là trai, đứa bé nhất chưa đầy ba tuổi, nó lê la dưới đất. Thoáng một cái, tôi đã thấy hết tất cả cảnh đó, trước khi viên thư lại của Gơrét và Gơli nói chuyện với tôi. Lão ta nói cái gì? Tôi chỉ nghe loáng thoáng và chẳng hiểu gì hết, trừ cái tên Đơrixcơn, cái tên của tôi mà người chức việc đã bảo cho biết là tôi nghe được mà thôi. Tất cả các con mắt đều quay nhìn về phía Mátchia và tôi, kể cả mắt của cụ già ngồi im. Chỉ có đứa bé gái là chú ý đến Capi. Người đàn ông mặc đồ nhung xám hỏi bằng tiếng Pháp. Trong hai chú, chú nào là Rêmi? Tôi bước lên một bước nói: Tôi! Thế thì lại hôn cha đi, con! Trước đây, khi nghĩ tới phút đoàn viên này, tôi cứ hình dung rằng tôi sẽ cảm thấy có một sức bật bên trong nó đẩy tôi vào lòng bố tôi. Nhưng bây giờ tôi không cảm thấy sự phấn chấn đó. Tuy vậy tôi vẫn bước đến ôm hôn bố tôi. Bố tôi nói: Và đây là ông con và kia là mẹ con và các em con. Trước hết tôi đến bên mẹ tôi và ôm mẹ. Mẹ tôi để cho tôi ôm hôn nhưng không hôn trả; mẹ chỉ nói vài câu mà tôi không hiểu. Bố bảo tôi: Bắt tay ông đi con, và nhè nhẹ đó! Ông bị bại liệt. Tôi lại bắt tay hai em trai và em gái lớn. Tôi định bế em bé, nhưng vì mải vuốt ve con Capi, em xô tôi ra. Tôi vừa đi từ người này qua người khác như thế, vừa lấy làm bất mãn với mình. Sao thế chứ? Sao mà được trở về giữa cha mẹ anh em như thế này, tôi không cảm thấy vui sướng hơn trước? Tôi có cha, có mẹ, có em trai, em gái, lại có ông, tôi được đoàn tụ với người thân thế này mà sao tôi lạnh nhạt! Tôi đã chờ mong cái phút này thiếu điều phátsốt lên; tôi sung sướng như điên như dại khi nghĩ rằng tôi cũng sắp có một gia đình như ai, cũng có cha mẹ để yêu thương và được yêu thương. Thế mà giờ đây tôi lúng ta lúng túng, ngắm nhìn cha mẹ tôi một cách tò mò, không tìm thấy trong lòng mình một chút gì, một lời trìu mến chẳng hạn, để bày tỏ với người thân. Tôi là một con yêu, con quái chăng? Tôi không xứng đáng có gia đình chăng? Ví thử tôi tìm thấy cha mẹ tôi ở trong một tòa lâu đài chứ không phải ở một nhà chứa xe như thế này thì những niềm trìu mến yêu thương đã dậy lên trong lòng tôi chăng? Ý nghĩ ấy làm cho tôi nghẹn ngào vì xấu hổ. Tôi lại đến trước mẹ tôi, ôm hôn mẹ lần nữa, hôn bằng cả hai môi không dè dặt. Chắc là mẹ tôi không hiểu nguyên do gì khiến tôi trở nên cuồng nhiệt như thế, cho nên đáng lẽ ra hôn lại tôi thì bà nhìn tôi cũng với cái vẻ hững hờ uể oải lúc trước. Rồi bà nhún vai nhè nhẹ, nói với bố tôi mấy câu làm cho bố tôi cười mà tôi không hiểu. Thái độ ghẻ lạnh của mẹ và tiếng cười của cha làm tôi nát lòng. Tôi cho rằng đối xử như thế đáp lại sự bộc lộ tình cảm của tôi là không thỏa đáng. Nhưng tôi không có thì giờ suy tưởng miên man vì bố tôi đã trỏ tay vào Mátchia mà hỏi: - Còn chú này là ai? Tôi bày tỏ những mối liên hệ đã buộc tôi với Mátchia; tôi cố đưa tình bạn của tôi vào lời lẽ và cố nói lên cái ơn của nó đối với tôi. Ừ, nó muốn đi cho biết đó biết đây! Tôi toan trả lời thì Mátchia nói hớt: Thưa ông, đúng đấy! Thế còn lão Bácbơranh? - Bố tôi hỏi. - Sao lão không đến? Tôi nói Bácbơranh đã chết rồi và đó là điều thất vọng lớn nhất của tôi lúc đến Pari khi được nghe má Bácbơranh bảo cho biết bố mẹ tìm tôi. Bố tôi dịch lại cho mẹ nghe. Tôi thấy chừng như mẹ tôi đáp là hay lắm hoặc tốt lắm gì đó. Điều chắc chắn là mẹ tôi nói đi nói lại nhiều lần những tiếng "well" và "good" mà tôi biết. Tại sao Bácbơranh chết đi lại là hay, là tốt nhỉ? Đó là điều tôi tự hỏi mà không trả lời được. Bố tôi lại hỏi: Con không biết tiếng Anh? Không. Con chỉ biết tiếng Pháp và cũng biết tiếng Italia nữa vì có học với ông chủ đã mướn con nơi ông Bácbơranh. Ông Vitali. Bố đã biết.. Bácbơranh nói cho bố biết tên ông ta, cách đây ít lâu bố sang Pháp để tìm con. Chắc con cũng tò mò muốn biết vì sao đã mười ba năm, bố mẹ không lùng kiếm con mà đùng một cái lại nảy ra cái ý đi tìm Bácbơranh! Chao ôi! Vâng, tò mò lắm! Thật tình là con muốn được biết lắm! Ừ thì lại bên bếp lửa đây, bố sẽ thuật lại cho con nghe. Khi vào nhà thì tôi đã cởi đàn dựng tựa vách. Bây giờ thì cởi xắc ra và ngồi vào chỗ bố tôi chỉ. Nhưng khi tôi duỗi chân lấm ướt ra trước bếp lửa thì ông tôi không nói năng gì cả, phun khạc về phía tôi như một con mèo già nổi nóng. Tôi biết là tôi quấy ông cụ, nên co chân lại. Bố tôi nói: Con chẳng cần bận lòng! Ông cụ không thích người ta đến sưởi lửa của ông cụ, nhưng nếu con thấy rét thì cứ việc sưởi, không cần phải nể nang gì ông cả. Tôi lấy kinh ngạc khi nghe nói như thế về ông già râu trắng phau phau kia. Tôi tưởng rằng nếu có một người cần được nể nang thì chính là ông cụ. Vì thế, tôi cứ để chân dưới ghế. Bố tôi nói: Con là con lớn của bố mẹ. Lúc bố cưới mẹ thì có một người con gái trước đó cứ tưởng rằng bố sẽ lấy cô ta. Bởi vậy cô ta coi mẹ là người tình địch và căm thù mẹ dữ dội. Để báo thù, đúng cái ngày con được sáu tháng, cô ấy đánh cắp con, mang con sang Pháp, đến Pari vứt con ở đường phố. Bố mẹ đã hết sức tìm kiếm, nhưng không đến tận Pari vì không ngờ rằng người ta mang con đi xa như thế. Bố mẹ không tìm thấy con, đã tưởng con chết rồi và mất hẳn, thì cách đây ba tháng, người đàn bà ấy lâm bệnh ngặt nghèo đã thổ lộ hết sự thật trước khi nhắm mắt. Lúc bấy giờ, bố tức tốc sang Pháp, tìm đến ông cẩm ở khu phố mà người ta vứt con. Ở đấy người ta cho biết rằng một người thợ nề tỉnh Cơrơdơ đã nhận con về nuôi, và đó chính là người đã nhặt được con. Tức thời bố đi Savanông hỏi Bácbơranh. Lão nói lão đã cho Vitali thuê con, Vitali là một nhạc sĩ rong, cho nên con đang dạo nước Pháp với ông già ấy. Vì bố không thể ở lại bên Pháp để đuổi theo Vitali nên bố cậy Bácbơranh và đưa tiền cho lão ta để khi tìm được con thì cho những người thừa biện lo việc cho bố biết. Bố không để địa chỉ ở đây cho lão là vì chúng ta chỉ ở Lơnđơn trong mùa đông thôi. Mùa nóng ấm thì chúng ta đi khắp nơi trên đất Anh và đất Êcốtxơ để bán hàng rong mang theo xe cộ và cả gia đình. Thế đấy, con ạ, ta đã tìm lại được con và sau mười ba năm cách biệt, con đã trở về vị trí của con trong gia dinh như thế đây. Bố biết rằng tất thế nào con cũng còn sợ sệt khó gần, vì con chưa hề biết những người thân trong nhà ta và hai bên lại chưa hiểu được tiếng nhau. Nhưng bố hy vọng rằng con sẽ chóng sống quen trong nhà này. Đúng, tôi sẽ chóng quen thôi. Cái đó dĩ nhiên quá bởi vì tôi trở về giữa gia đình tôi, và những người chung sống với tôi là cha tôi, mẹ tôi, các em trai, em gái tôi. Những chiếc tã đẹp mách bảo sai rồi. Đối với má Bácbơranh, em Lidơ và bác Acanh, đối với những ai chở che đùm bọc tôi thì đây là điều không may. Tôi không thể giúp đỡ họ như tôi mơ ước. Bán hàng rong, mà lại ở trong cái nhà chứa xe như thế này thì có đâu phải là người lắm tiền nhiều của! Nhưng đối với tôi thì nghĩ cho kỹ, chẳng có hề gì! Tôi có gia Đình, thế là đủ, còn cái việc tưởng tượng rằng mình là con nhà giàu thì chẳng qua là một giấc mơ con trẻ, có xá gì. Tình ở bên trên tiền, tôi không cần tiền bạc, tôi chỉ cần trìu mến yêu thương. Trong khi tôi chăm chăm chú chú nghe chuyện bố tôi thì bữa cơm tối đã dọn lên: Những chiếc đĩa nhỏ hoa xanh bày quanh một đĩa sắt lớn đựng một tảng thịt bò bỏ lò, chung quanh xếp đầy khoai tây. Bố tôi hướng về Mátchia và tôi mà hỏi: Hai đứa nhỏ có đói không? Mátchia không đáp, nhe hàm răng trắng nõn ra. - Thế thì chúng ta dùng bữa đi thôi. - Bố tôi nói. Trước khi ngồi vào bàn ăn, bố tôi đẩy chiếc ghế bành của ông tôi đến bên bàn. Rồi bố ngồi xuống, quay lưng lại bếp và bắt đầu cắt miếng thịt thăn bò quay; ông xé cho chúng tôi mỗi người một lát lớn, kèm với khoai tây. Tôi không nuôi dạy theo phép lịch sự xã giao, nói cho đúng thì tôi không được giáo dục gì cả. Nhưng tôi cũng nhận thấy rằng các em tôi thường thường lấy tay bốc thức ăn, nhúng cả ngón tay vào nước xốt rồi đưa lên miệng liếm mà hình như bố mẹ tôi không để ý. Còn ông tôi thì chỉ chăm chú vào cái đĩa của mình: Bàn tay duy nhất dùng được của ông cụ cứ luôn luôn đưa từ đĩa lên mồm. Khi những ngón tay run rẩy làm sẩy ra một miếng thì mấy em trai tôi chế nhạo ông cụ. Bữa tối xong, tôi ngỡ gia đình sẽ quây quần chung quanh ngọn lửa. Nhưng bố tôi bảo sắp phải tiếp mấy người bạn cho nên chúng tôi phải đi ngủ. Rồi ông cầm một cây nến đưachúng tôi đến một buồng xép tiếp với buồng ăn, ở đấy có hai cỗ xe lớn thuộc loại những người buôn bán rong thường dùng. Bố tôi mở cửa một chiếc xe, trên ấy có hai cái giường đặt chồng lên nhau. Ông nói: Giường của các anh đâv. Ngủ ngon giấc nhé! Tôi được gia đình tôi, - gia đình Đơrixcơn, - đón tiếp như thế đấy!
Chương 35: Thờ kính cha mẹ Bấm để xem Khi lui ra, bố tôi không mang nến đi. Nhưng ông đã đóng cửa kéo chốt ngoài. Như thế thì chỉ còn có việc đi ngủ thôi. Chúng tôi lên giường ngay, không chuyện vãn với nhau như bình thường chúng tôi có thói quen trước khi đi ngủ, cũng không kể lể với nhau những cảm tưởng trong cái ngày lắm việc này. Rêmi ngủ ngon nhé! - Mátchia nói. Chúc Mátchia ngủ ngon! Mátchia không thích trò chuyện, cũng như tôi không thích. Sự im lặng của Mátchia làm tôi nhẹ người. Nhưng không thích nói chuyện không có nghĩa là thích ngủ. Nến tắt rồi mà tôi vẫn không chợp mắt, cứ trăn trở trên chiếc giường nhỏ hẹp mà nghĩ ngợi về những việc đã xảy ra. Nghĩ ngợi phần mình đã đành, tôi lại nghe thấy Mátchia nằm ở giường trên cũng động đậy, cũng trăn trở, nghĩa là nó cũng thao thức như tôi. Tôi hỏi khe khẽ: Cậu không ngủ sao? Không, chưa ngủ được! Chỗ nằm không tốt à? Cảm ơn! Không đâu! Trái lại chỗ tớ tốt lắm! Có điều là quanh tớ, cái gì cũng quay quay, y như là còn ở giữa biển và cái xe này thì cứ nhô lên hụp xuống và tròng trành bốn phía hai bên. Có phải chỉ vì say sóng mà Mátchia trằn trọc không ngủ? Hay nó cũng mải nghĩ ngợi về những điều như tôi? Nó yêu mến tôi, tâm hồn trí óc chúng tôi hòa hợp với nhau đến mức tôi cảm thấy thế nào thì nó cảm thấy thế ấy. Giấc ngủ vẫn không đến và đêm càng về khuya càng làm tôi sợ sệt thêm, sợ sệt vô cớ. Sợ gì? Tôi không biết, nhưng rõ ràng là tôi sợ. Không phải sợ vì nằm trong chiếc xe này ở giữa cái khu phố Bétnơn Gờrin nghèo khổ này. Đã bao nhiêu lần trong quãng đời lưu lạc, tôi phải ngủ đêm với màn trời chiếu đất chứ đâu được yên ổn như chỗ này! Tôi biết rằng ở đây không có gì nguy hiểm hết mà sao tôi vẫn hãi hùng. Càng cố làm gan trấn tĩnh, tôi lại càng hoang mang tợn. Thời khắc trôi qua nhưng tôi không biết đêm đã khuya chừng nào vì chung quanh không có đồng hồ điểm canh. Thình lình tôi nghe có tiếng động khá mạnh ở cửa buồng xép, cái cửa này trông ra một đường phố khác chứ không ở phía sân Sư tử đỏ. Rồi sau nhiều tiếng gõ gọi cách quãng đều đều thì có ánh đèn lọt vào trong xe. Tôi lấy làm lạ. Vội nhìn quanh mình, còn con Capi ngủ bên cạnh thì choàng dậy định sủa. Tôi thấy ánh đèn lọt vào chỗ tôi qua một cửa sổ nhỏ trên thành xe. Giường của chúng tôi kê sát thành xe ấy, nhưng lúc đi nằm chúng tôi không để ý đến cái cửa sổ vì có màn che cửa lại. Nửa trên cửa sổ nằm đứng ngang giường Mátchia, nửa dưới trông vào giường tôi. Tôi để tay lên mõm con Capi để cho nó khỏi sủa vang làm thức giấc mọi người trong nhà và tôi nhìn ra ngoài. Bố tôi đã vào trong buồng xép; nhanh chóng và lặng lẽ, ông mở cái cửa trông ra đường. Hai người đàn ông vác những bọc nặng bước vào và bố tôi lại nhanh chóng và lặng lẽ đóng cửa lại. Rồi ông đặt một ngón tay lên môi và đưa tay kia đang xách đèn lên chỉ cái xe có chúng tôi nằm. Cái đèn của ông là một thứ đèn lồng có nắp, có thể che ánh sáng tùy ý. Và cái cử chỉ của ông tỏ ý bảo người ta không nên gây tiếng động làm chúng tôi thức giấc. Sự quan tâm của bố tôi khiến tôi cảm động. Tôi toan kêu lên bảo bố cứ mặc tôi vì tôi vẫn thức giấc. Nhưng rồi tôi lặng thinh vì sợ gọi toáng lên thì làm mất giấc ngủ của Mátchia. Bố tôi đỡ cho hai người đàn ông đặt các bọc đồ xuống. Rồi ông đi một lát và trở lại cùng với mẹ tôi. Trong lúc vắng bố tôi, hai người đàn ông đã mở các bọc hàng. Một bao đựng đầy những súc vải, bít tất, găng tay. Lúc đó tôi mới hiểu cái việc thoạt đầu làm cho tôi ngạc nhiên: Những người này đến bán hàng cho bố mẹ tôi. Bố tôi cầm từng món đồ hàng lên, đưa ra ánh đèn xem xét rồi trao cho mẹ tôi. Mẹ tôi cầm chiếc kéo con cắt nhãn hiệu bỏ vào túi. Cái việc này kỳ quặc, cũng như việc mua bán giữa đêm khuya thế này xem ra cũng thật lạ lùng. Bố tôi vừa xem hàng vừa nói khe khẽ mấy câu với hai người đưa hàng tối. Nếu tôi biết tiếng Anh thì hẳn tôi đã nghe đủ, nhưng không hiểu tiếng thì nghe rõ làm sao được. Chỉ có hai tiếng bob và policeman (1), thì lặp lại nhiều lần là tôi nghe rõ. Khi đã xem xét cẩn thận tất cả những món hàng chứa trong mấy cái bao, bố mẹ tôi và hai người khách ra khỏi buồng xép để vào nhà. Buồng lại tối. Rõ ràng là họ đi tính toán tiền nong. Tôi muốn tự bảo rằng những việc mắt thấy vừa rồi là bình thường thôi, không có gì lạ. Nhưng dù cố gắng bao nhiêu, tôi cũng không tự mình tin được. Những người đó đến nhà bố mẹ tôi sao không đi qua sân Sư tử đỏ? Tại sao khi nói về cảnh sát, họ lại thì thầm với nhau như tuồng sợ người ngoài nghe thấy. Tại sao mẹ tôi cắt các nhãn hiệu đính vào các thứ hàng bà mua? Mải loay hoay với những câu hỏi đó, tôi không ngủ được và tôi cố xua đuổi chúng nó vì không tìm ra lời giải đáp. Nhưng không tài nào xua đuổi được. Lát sau lại có ánh sáng rọi vào xe tôi và tôi lại nhìn qua khe màn. Lần này tôi không muốn nhìn mà cứ phải nhìn, khác với lần trước, tôi nhìn một cách tự nhiên để thấy, để biết. Bây giờ thì tôi tự nhủ không nên nhìn ra, vậy mà tôi vẫn cứ nhìn ra. Tôi cũng tự nhủ rằng có lẽ tốt hơn hết là không nên biết, vậy mà tôi vẫn cứ muốn biết. Bây giờ chỉ có bố mẹ tôi thôi. Trong khi mẹ tôi nhanh chóng gói các món hàng thành hai kiện, thì bố tôi quét một góc buồng. Dưới lớp cát khô mà ông quét bạt đi, hiện ra một nắp hầm. Ông nhấc nắp và đưa xuống hầm hai kiện hàng mẹ tôi vừa gói xong. Mẹ tôi cầm đèn soi cho bố tôi. Cái hầm sâu bao nhiêu, tôi không nhìn thấy. Làm xong, bố tôi leo lên, đậy nắp hầm lại và lấy chổi quét cát phủ lên. Trên mặt cát, bố mẹ tôi rắc mấy cọng rơm cho giống các nơi khác trên nền buồng. Công việc xong xuôi, bây giờ không tài nào trông thấy chỗ nắp hầm được. Rồi bố mẹ tôi đi ra. Khi bố mẹ tôi nhẹ tay đóng cửa lại thì tôi nghe thấy Mátchia động đậy trên giường, tuồng như nó kê đầu lên gối thì phải! Nó đã nhìn thấy sự việc xảy ra chăng? Tôi không dám hỏi. Bây giờ có một cái gì còn nghiêm trọng hơn là một sự lo sợ mơ hồ đang đè nặng ngực tôi. Tôi biết vì sao tôi sợ rồi. Từ đầu đến chân, cơ thể tôi đẫm mồ hôi lạnh toát. Suốt đêm tôi cứ như thế. Một con gà ở nhà bên gáy lên, báo hiệu trời sắp sáng. Bấy giờ tôi mới thiếp đi, thiếp đi trong một giấc ngủ nặng nhọc, chập chờn, đầy những mộng mị hãi hùng làm tôi nghẹt thở. Tiếng ổ khóa cót két làm tôi tỉnh giấc và cửa buồng mở ra. Tưởng bố tôi gọi chúng tôi dậy, tôi nhắm mắt lại để đừng nhìn thấy ông. Mátchia nói: Em cậu đến mở cửa cho chúng ta đó! Nó đi rồi. Chúng tôi đứng lên. Mátchia không hỏi tôi có ngủ ngon không và tôi cũng không nói gì với nó hết. Có một lúc nào đó, nó nhìn tôi thì tôi quay nhìn chỗ khác. Chúng tôi đi vào nhà bếp, ở đấy không có bố tôi, cũng không có mẹ tôi. Ông tôi thì vẫn ngồi trong ghế trước lò sưởi y như là từ tối hôm qua ông không hề rời khỏi chỗ. Em gái lớn của tôi là Anni đang lau bàn, còn em trai lớn là Alơn thì quét rác. Tôi đến bắt tay chúng, nhưng chúng không đáp. Tôi bèn đến ông tôi. Ông tôi không để cho tôi lại gần và cũng như tối hôm qua, ông khạc nhổ về phía tôi. Cử chỉ đó làm tôi cụt hứng. Tôi bảo Mátchia: Cậu hỏi giúp tớ xem trong buổi sớm nay, lúc nào thì tớ gặp được bố mẹ tớ? Mátchia hỏi. Nghe nói tiếng Anh, mặt ông cụ có co giãn ra một chút, bớt cái vẻ bất động đáng Khiếp đi. Ông chịu khó trả lời. Tôi hỏi: Ông cụ nói gì? Nói bố cậu đi vắng suốt cả ngày hôm nay, mẹ cậu ngủ, anh em chúng mình có thể đi dạo chơi được. Ông cụ chỉ nói thế thôi à? - Tôi hỏi như vậy vì thấy lời dịch của Mátchia ngắn quá. Mátchia có vẻ lúng túng, nó nói: Tớ không biết đoạn sau tớ hiểu có đúng hay không? Thì cứ thử nói cậu hiểu như thế nào để xem! Hình như ông cụ nói nếu chúng ta đi ra phố mà gặp cơ hội tốt thì không nên bỏ lỡ. Rồi ông cụ nói thêm, và câu này thì tớ tin chắc là tớ hiểu rõ: "Hãy nhớ lấy lời tao, phải biết sống trên lưng những đứa dại". Chắc là ông cụ đoán Mátchia đang giải nghĩa những lời ông cụ nói cho tôi hiểu, vì nghe đến câu sau cùng này, thì ông dùng cái bàn tay không bị bại của ông làm cái cử chỉ bỏ một vật gì vào túi. Cùng lúc ấy, ông nheo mắt lại. Chúng ta đi chơi đi. - Tôi bảo Mátchia. Trong hai hay ba tiếng đồng hồ, hai đứa tôi đi dạo quanh quẩn gần sân Sư tử đỏ. Chúng tôi không dám đi xa ra vì sợ lạc đường. Ban ngày khu Bétnơn Gờrin này hiện ra còn xấu xí tồi tệ hơn ban đêm nữa, cảnh bần cùng bày ra khắp nơi; từ nhà cửa đến người ngợm, Đâu cũng thấy sự nghèo khổ não lòng nhất. Mátchia và tôi chỉ trông thấy, chứ không nói năng gì cả. Quay trở lại thì vừa đến đầu sân, chúng tôi đi vào nhà. Mẹ tôi đã ra khỏi buồng ngủ. Từ cửa, tôi đã nhìn thấy mẹ áp đầu trên mặt bàn. Ngỡ mẹ ốm, tôi chạy đến để hôn mẹ, vì tôi không nói chuyện với mẹ được. Tôi đưa tay ôm mẹ. Mẹ tôi ngẩng đầu lên, cái đầu cứ lắc lư, rồi mẹ nhìn tôi nhưng chắc là không trông thấy. Lúc Ấy từ hơi thở nóng hổi của mẹ tôi toát ra mùi rượu mạnh. Tôi lùi lại. Mẹ tôi lại gục đầu bên hai cánh tay duỗi thẳng trên mặt bàn. Ông tôi nói "gin" (2) rồi nhìn tôi mà cười gằn và nói mấy tiếng gì nữa tôi không hiểu. Lúc đầu, tôi đứng sững như mất hồn. Giây phút sau, tôi nhìn Mátchia, Mátchia cũng nhìn tôi, ứa nước mắt. Tôi ra hiệu cho nó, rồi hai đứa tôi trở ra. Vai kề vai, tay nắm tay, chúng tôi đi mãi, không nói với nhau một lời, cứ nhìn thẳng trước mặt mà đi tới, không biết là đi đâu. Mátchia có hơi lo ngại, hỏi: Chúng mình đi đâu thế này? Không biết, đi chỗ nào nói chuyện với nhau được thì đi. Mình cần nói với cậu điều này, nhưng ở đây, giữa đám đông này, mình không nói được. Chính như thế đấy! Trong cuộc đời nay đây mai đó, qua nội qua rừng, theo kiểu cụ Vitali, tôi đã có thói quen không bao giờ nói chuyện quan trọng giữa đường phố, hoặc trong làng, và khi nói có người qua lại là tôi quên ngay những ý định nói. Vậy mà lúc này tôi lại muốn nói chuyện quan trọng với Mátchia và tôi hiếu rõ là tôi sẽ nói gì với nó. Lúc ấy, chúng tôi đã vượt qua những ngõ hẹp đến một đường phố rộng hơn, ở cuối đường hình như có cây cối. Có lẽ ở đầu ấy là thôn quê rồi, chúng tôi đi theo hướng ấy. Nhưng không phải là thôn quê mà là một công viên bao la, có những bồn cỏ rộng xanh mướt và những lùm cây tơ đây đó. Chỗ này quả là chỗ lý tưởng để tâm sự. Tôi đã có chủ định, tôi biết rõ tôi muốn gì. Khi đã ngồi yên ở một xó cách bức và kín đáo, tôi nói với bạn tôi: Mátchia thân mến, cậu biết là mình yêu thương cậu và chắc cậu cũng biết là chỉ vì tình bạn mà mình bảo cậu đi theo mình về nhà bố mẹ mình chứ? Bây giờ mình yêu cầu cậu làm gì thì cậu cũng chả nghi ngờ gì cái tình bạn của mình, phải không? Cậu ngu lạ! - Mátchia đáp và gượng cười. Cậu cười để cho mình khỏi mủi lòng. Nhưng mủi lòng cũng chả việc gì. Mình còn khóc được với ai nếu không là với cậu? Nói đến đây, tôi ngã vào lòng Mátchia khóc òa lên. Những lúc một thân một bóng, thất thểu trên mặt đường mênh mông, tôi cũng chưa bao giờ thấy khổ sở như hôm nay. Tôi nấc lên một hồi rồi cố trấn tĩnh: Tôi đưa Mátchia đến vườn này có phải để cho nó than thở vì tôi đâu! Không phải vì tôi, chỉ vì nó! Tôi nói: Mátchia ơi, cậu phải đi thôi. Cậu trở về Pháp đi! Kìa cậu à? Không đời nào! Mình biết trước thế nào cậu cũng trả lời mình như vậy, và cậu hãy tin rằng mình lấy làm sung sướng, rất sung sướng được nghe cậu nói không đời nào cậu rời mình. Tuy vậy, cậu phải rời bỏ mình đi, cậu trở về Pháp hay đi Italia tùy cậu, về đâu không quan trọng, miễn là cậu không ở trên đất nước Anh nữa. Thế còn cậu, cậu định đi đâu? Cậu tính cho chúng ta đi đâu đây? Mình ấy à? Mình thì phải ở lại đây, ở Lơnđơn đây với gia đình mình chứ! Bổn phận của mình không phải ở bên cạnh bố mẹ mình thì là gì? Còn lại bao nhiêu tiền, cậu lấy mà đi đi! Đừng nói thế, Rêmi! Nếu có một người cần đi thì người ấy là cậu mới đúng! Tại sao? Tại vì.. Mátchia này, cậu hãy trả lời tớ thẳng thắn, thành thực, không nể nang, không e sợ, tối hôm qua, cậu thức? Và cậu có trông thấy, phải không? Mátchia không ngước mắt lên, đáp khe khẽ: Mình thức. Cậu thấy gì? Tất cả. Và cậu hiểu? Là những món hàng bọn kia đem tới bán không phải là hàng buôn. Bố cậu rầy chúng sao không gõ cửa trước mà lại gõ cửa buồng xép. Chúng bảo chúng bị cảnh sát rình mò, theo dõi. Đã thế thì cậu phải thấy cậu đi là đúng. Nếu tớ cần phải đi thì cậu cũng phải đi. Chả ai cần hơn ai. Khi mình yêu cầu cậu đi với mình thì mình ngỡ là gia đình mình sẽ cho cả hai đứa đi học và chúng ta sẻ ở gần nhau. Sở dĩ mình tin thế vì nghe má Bácbơranh nói và cũng vì mình mơ tưởng thế. Nhưng sự việc đã không như thế và chiêm bao vẫn hoàn là chiêm bao. Cho nên chúng ta phải chia tay nhau. Không khi nào. Hãy nghe mình cho kỹ, hãy thông cảm với mình đi, Mátchia! Đừng làm mình buồn bực thêm mà! Ví như chúng mình gặp lão Garôphôli ở Pari và lão bắt cậu về thì có phải là cậu không muốn cho mình ở lại với cậu, phải không nào? Ấy đấy, cái điều mình nói với cậu bây giờ đây, tất cậu cũng nói với mình nếu gặp trường hợp ấy. Có đúng thế không? Cậu hãy nói cho mình biết có đúng thế không? Bây giờ đến lượt cậu phải nghe tớ nói, cậu nghe cho rõ đây. Khi ở Savanông, nghe cậu bảo gia đình cậu đi tìm cậu thì mình buồn lắm. Đáng lẽ phải vui thì mình lại bực mình. Mình đã không nghĩ tới hạnh phúc của cậu, mình chỉ nghĩ tới mình. Mình tự nhủ là cậu sẽ có anh chị em trai gái mà cậu sẽ yêu thương như yêu thương mình, có lẽ còn hơn mình nữa. Những người ấy là những người giàu sang, thông thái, lịch sự, những cậu ấm, cô chiêu xinh trai đẹp gái. Mình nghĩ thế rồi hóa ra ghen tị. Đó là điều cậu cần biết, đó là sự thật mà mình cần thú nhận với cậu để cậu tha thứ cho mình, nếu cậu có thế tha thứ cái loại tình cảm xấu xa như vậy. Chao ôi! Mátchia! Nói đi, nói là cậu tha thứ cho mình đi! Sẵn lòng! Mình có thấy nỗi buồn phiền của cậu. Mình có bao giờ thù hằn cậu đâu! Bởi vì cậu là con bò. Và là con bò lành quá! Còn mình thì ác. Cậu tha thứ cho mình vì cậu tốt bụng, chứ mình thì mình không tự tha thứ đâu, vì mình không lành như cậu. Cậu chưa biết hết đâu. Mình tự bảo: Ta đi với hắn sang Anh để xem sao; rồi khi hắn đã sung sướng, thật sung sướng rồi, khi hắn không có thì giờ nghĩ đến ta nữa thì ta cút, và cút thẳng; ta sẽ đi một mạch về Lúcca hôn em Crítxtina của ta. Nhưng đáng lẽ giàu sang và sung sướng như chúng mình tưởng thì cậu không giàu và cậu.. nghĩa là cậu không như chúng mình tưởng trước đâu. Bởi vậy, mình không nên xéo, và cái người cần ôm vào lòng không phải là Crítxtina, em gái mình; cái người cần ôm vào lòng là người bạn nghề nghiệp, người bạn thiết cốt, người anh em của mình, cái người đó là Rêmi. Mátchia nói thế và cầm lấy tay tôi mà hôn. Bấy giờ nước mắt tôi tuôn trào, nhưng nước mắt này không đắng cay, không nóng bỏng như trước nữa. Tuy hết sức cảm động, tôi vẫn không từ bỏ ý định: Cậu phải đi đi! Cậu phải trở về Pháp, phải gặp Lidơ, bác Acanh, má Bácbơranh, gặp tất cả những người thân của tớ và nói cho họ biết vì sao tớ không giúp được họ như tớ mong muốn, tớ mơ tưởng và hứa hẹn. Cậu sẽ phân trần là bố mẹ tớ không giàu có như chúng mình tưởng, thế cũng đủ để họ tha thứ cho mình. Cậu hiểu chứ? Gia đình tớ nghèo, cái đó giải thích tất! Nghèo khó không phải là điều đáng xấu hổ! Không phải vì nghèo mà cậu muốn cho mình xéo. Bởi vậy mình không đi. Mátchia ơi, mình van cậu. Cậu đừng làm cho mình khổ thêm. Cậu thấy mình đã khổ quá rồi mà! Ồ! Tớ không muốn ép cậu nói cái điều mà cậu sợ xấu hổ không nói trắng ra. Tớ không linh lợi, không tinh ý, không hiểu hết những cái dội vào đầu - Nó đập đập trên đầu - Nhưng tớ cảm thấy hết những cái xói vào chỗ này - Nó đặt tay lên ngực - Không phải vì cha mẹ cậu nghèo mà cậu muốn cho tớ bước! Không phải vì họ không nuôi nổi tớ, vì tớ có ăn báo cô người ta đâu, tớ sẽ làm lụng cho người ta chứ! Cậu muốn mình đi nơi khác bởi cậu đã thấy những việc đêm qua và cậu sợ cho mình. Đừng nói thế, Mátchia! Cậu sợ rồi đến lúc mình phải cắt nhãn hiệu những món hàng không mua mà có! Ôi chao ôi! Mátchia, Mátchia thân mến ơi, cậu im đi mà! Lấy cái gì dám chắc rằng không thể có hai đứa bé bị vứt bỏ ở đại lộ Brơtơi cùng một hôm? Và tại sao viên cẩm lại không có thể nhầm lẫn khi chỉ cho ông Đơrixcơn về Savanông? Có thể lắm chứ! Cái đó thì phi lý quá. Cũng có lẽ! Điều tớ nói, tớ giải thích nghe ra phi lý. Chẳng qua là tớ nói kém, tớ giải thích không ra trò, bởi cái đầu óc khốn nạn của tớ. Người khác sẽ giải thích hay hơn, và nó sẽ trở nên có lý. Chỉ có tớ mới là phi lý, thế thôi! Chao ôi, không! Chưa phải thế là thôi đâu! Cuối cùng, cậu phải chú ý rằng cậu không giống bố cậu, cũng không giống mẹ cậu, và cậu không có mái tóc vàng như các em cậu. Tóc tất cả lũ chúng - tất cả, cậu nghe rõ chưa? - đều một màu vàng như nhau. Nếu là anh em thì sao tóc cậu lại không thế? Mặt khác, có điều này cũng lạ, rất lạ: Tại sao người ta nghèo như thế mà bỏ ra được nhiều tiền như thế để tìm lại một đứa con? Vì các lẽ ấy, theo tớ thì cậu không phải là một người họ Đơrixcơn. Tớ biết rằng tớ chỉ là một con bò thôi, người ta luôn luôn mắng tớ như vậy, lỗi ở cái đầu óc kém thông minh này. Nhưng tớ cũng cứ tin chắc rằng cậu không phải là một chú bé Đơrixcơn và cậu không nên ở gia đình Đơrixcơn. Nếu bất chấp tất cả, cậu muốn ở lại thì mình cũng ở lại với cậu. Nhưng cậu cũng phải cố gắng viết cho má Bácbơranh một lá thư để hỏi thật rõ xem những tã lót và áo xống của cậu lúc bấy giờ như thế nào! Khi được thư trả lời, cậu sẽ hỏi thử người mà cậu gọi là bố, và lúc ấy có lẽ chúng ta sẽ hiểu rõ hơn ít nhiều. Từ nay đến đó, mình sẽ không đi đâu hết, mình ở đây với cậu, ra sao thì ra! Cần làm việc thì chúng mình cùng làm với nhau. Nhưng nếu rủi một ngày kia, người ta choảng lên đầu chú Mátchia? Cái đó không phải là cái khổ nhất: Vì bạn mà nhận đòn thì đòn có đau đâu!
Chương 36: Capi hư nết Bấm để xem Đến đêm chúng tôi mới về đến sân Sư tử đỏ. Suốt ngày, chúng tôi chỉ đi dạo trong công viên xinh đẹp vừa đi vừa trò chuyện, sau khi mua một miếng bánh mì ăn lót dạ. Lúc bấy giờ bố tôi đã về và mẹ tôi cũng tỉnh rượu rồi, cả bố lẫn mẹ không trách mắng chúng tôi về việc đi chơi quá lâu. Sau bữa tôi, bố tôi bảo cần nói chuyện với hai đứa tôi. Bố đưa chúngtôi đến trưởc lò sưởi khiến ông tôi buông một tiếng gầm gừ: Quả là ông tôi bảo vệ chỗ sưởi của mình một cách dữ tợn thật. Bố tôi hỏi: Ở bên Pháp, các anh sinh nhai như thế nào? Nói cho tôi nghe thử xem. Tôi kể lại công việc làm ăn của chúng tôi, như ông đã bảo. Như thế thì các anh không bao giờ lo chết đói, có phải không? Không bao giờ. - Mátchia đầy tự tin. - Chẳng những chúng tôi sinh sống được, mà chúng tôi còn kiếm ra tiền để tậu một con bò sữa nữa. Và đến lượt Mátchia thuật lại chuvện mua bò. Thế thì các anh cũng lắm tài đấy! Hãy cho tôi xem các anh làm được những gì nào! Tôi lấy thụ cầm làm một bản, nhưng không phải là bài dân ca xứ Naplơ của tôi. Khá đấy, khá đấy. - Bố tôi nói. - Còn Mátchia thì làm được gì? Mátchia chơi một bài vĩ cầm và một bài kèn đẩy. Bản sau này làm cho lũ nhỏ vỗ tay rầm rộ; chúng đứng thành vòng tròn chung quanh chúng tôi để nghe. Còn con Capi? Nó biết làm trò gì? Thiết tưởng các anh mang con chó theo không phải để cho vui mà thôi. Chắc ít nhất nó cũng kiếm đủ ăn phần nó chứ! Tôi tự hào về tài nghệ của con Capi. Thật ra không phải vì nó mà thôi, mà còn vì cụ Vitali nữa. Tôi muốn nó diễn một đôi tiết mục trong pho trò của nó. Capi được lũ nhỏ hoan nghênh nhiệt liệt, như thường lệ. Bố tôi nói: Ồ! Con chó này là cả một gia tài đây! Tôi đáp lời khen đó bằng những lời ca tụng con Capi. Tôi cam đoan rằng nó có thế học tập nhanh chóng tất cả những gì người ta vui lòng dạy nó, kể cả những ngón mà thường thường chó không làm được. Bố tôi dịch những lời tôi nói ra tiếng Anh. Hình như ông có thêm thắt đôi câu mà tôi không hiểu nhưng làm mọi người cười ầm. Ông tôi cũng cười và nheo mắt nhiều lần kêu fine dog, nghĩa là chó đẹp. Con Capi không lấy thế làm vinh hạnh. Bố tôi lại nói: Đã thế thì ta đề nghị với hai anh thế này.. Nhưng trước hết Mátchia phải cho biết chú ở trên đất Anh có tiện không và chú có muốn ở đây với chúng tôi không? Tôi muốn ở lại với Rêmi. -Mátchia đáp. -Rêmi đi đâu thì tôi đi đó. Mátchia tự cho là ngu, nhưng thật ra là nó láu, nó tinh ý hơn nó nói ra nhiều, hơn cả là nó tưởng. Bố tôi lấy làm vừa lòng về câu trả lời của nó vì không hiểu ẩn ý trong đó. Ông nói: Đã thế thì tôi trở lại với đề nghị của tôi: Nhà ta nghèo cho nên ai cũng phải làm việc cả mới có cái sống. Mùa hè, ta đi rong trên đất Anh và các con ta đưa hàng tới bán tận nhà những người không chịu bỏ công đi mua. Mùa đông, ta không có việc gì làm cho lắm. Chừng nào chúng ta còn ở Lơnđơn thì Rêmi và Mátchia có thể đi đánh đàn ở các phố. Chác chắn là hai chú sẽ đạt những khoản thu hàng ngày khá lắm, nhất là vào khoảng gần đến ngày lễ Nôen. Nhưng ở đời không nên phung phí, cho nên con Capi thì phải để cho nó đi diễn trò với thằng Alơn và thằng Nét. Tôi vội vã nói: Chỉ có đi với con thì con Capi mới diễn trò tốt. Bắt con rời nó thì không tiện chocon. Nó sẽ tập làm việc với Alơn và Nét. Con cứ yên lòng. Chia toán của con ra như vậy sẽ thu được nhiều tiền hơn. Nhưng mà nó đi riêng thì chẳng làm nên cơm cháo gì, con cam đoan là thế! Vả lại số thu của Mátchia và con sẽ sụt đi. Biểu diễn với con Capi, chúng con sẽ thu nhiều hơn. Chuyện! Thế là đủ rồi. - Bố tôi nói. - Khi ta đã quyết định một điều thì ta muốn điều đó phải được thực hiện, và thực hiện tức khắc. Đó là gia pháp ở nhà này. Ta muốn anh phục tùng gia pháp đó như mọi người. Biết không thể rằng một rằng hai gì được, tôi không nói nữa. Nhưng tôi nghĩ thầm rằng những điều tôi mơ ước cho con Capi cũng diễn ra một cách đen tối như những mơ ước của bản thân tôi. Thế là chúng tôi sắp xa nhau. Nó sẽ buồn và tôi cũng buồn biết bao nhiêu! Chúng tôi trở về chiếc xe hôm qua đi ngủ. Hôm nay bố tôi không đẩy chốt cửa nhốt chúng tôi. Tôi vừa nằm xuống thì Mátchia chưa cởi áo xong đã lại ghé tai tôi nói thầm: Mày thấy không, cái người mà mày gọi là bố đó không những bắt con làm việc cho ông ta. Lại bắt cả chó cũng phải làm. Cái việc này đã làm sáng mắt mày ra rồi chứ? Đến mai chúng mình viết thư cho má Bácbơranh nhé! Nhưng sáng hôm sau thì phải dặn bảo con Capi đã. Tôi ôm nó trên tay. Vừa hôn lên mũi nó nhiều lần, tôi vừa nhẹ nhàng, êm ái giải thích cho nó hiểu tôi muốn nó làm gì. Tội nghiệp con chó! Nó nhìn tôi quyến luyến, nó nghe tôi chăm chú làm sao! Khi tôi trao chiếc dây dắt cho Alơn, tôi giải thích với nó lần nữa. Con chó mới thông minh, dễ bảo làm sao! Nó Đi theo hai em tôi. Dáng buồn rầu, nhưng không phản kháng. Về phần Mátchia và tôi thì bố tôi đã hạ cố đưa chúng tôi đến một khu phố, ở đấy có cơ kiếm được nhiều tiền. Chúng tôi đi xuyên qua thành phố Lơnđơn để đến những ngôi nhà tráng lệ với những cổng nguy nga trong những đường phố đồ sộ hai bên có vườn tược, ở mấy con đường đẹp đẽ rộng lề ấy, không có những người nghèo khổ rách rưỡi và đói xo: Chỉ có những bà phu nhân xinh đẹp, áo xiêm sặc sỡ, những cỗ xe ván cửa bóng loáng như gương, những người xà ích to béo, tóc rắc phấn thơm, dong những con ngựa quý giá. Đường đi khá dài, chúng tôi trở về sân Sư tử đỏ hơi chậm. Tôi rất sung sướng lại được thấy con Capi, lấm lem nhưng hí hửng. Tôi sung sướng được gặp lại nó đến nỗi sau khi lấy rơm khô kỳ cọ thật sạch cho nó. Tôi bọc nó trong tấm da cừu và ủ nó trên giường tôi. Trong hai đứa, nó và tôi, đứa nào sung sướng hơn, kể cũng khó nói. Mọi việc cứ qua đi như thế trong nhiều hôm liền. Chúng tôi đi từ sáng, diễn hết pho trò ở khu phố này thì đi đến khu phố khác, mãiđến tối mới về nhà. Trong lúc đó thì Alơn và Nét dẫn con Capi đi biểu diễn. Nhưng một hôm, bố tôi bảo hôm sau tôi có thể mang con Capi theo bởi vì ông giữ Alơn và Nét ở nhà. Chúng tôi thích quá. Chúng tôi quyết nỗ lực thu một món tiền lớn với Capi, sao cho từ nay về sau người giao hẳn nó cho chúng tôi. Vấn đề là phải thu hồi con Capi, cho nên cả Mátchia lẫn tôi đều không tiếc công sức. Thế là sáng hôm đó, chúng tôi chăm chút tắm rửa, chải chuốt cho nó thật kỹ. Rồi chúng tôi lên đường, tìm đến khu phố mà kinh nghiệm cho chúng tôi biết là "chư vị khán giả" ở đây móc túi chi tiền một cách dễ dàng. Muốn vậy, chúng tôi phải đi suốt Lơnđơn từ Đông sang Tây. Không may cho kế hoạch chúng tôi dự định là từ hai hôm rồi sương mù không tan. Trời lúc này là một tầng mây mầu da cam và trong các đường phố lửng lơ một màn khói xám xám cách ít bước đã không còn trông rõ hình người. Thế này thì người ta ít đi ra đường đây, và từ sau các cửa sổ, người ta nghe chúng tôi đàn hát chứ không nhìn thấy con Capi, đó là một điều không lợi cho khoản thu nhập. Bởi thế Mátchia cứ nguyền rủa cái màn sương chết tiệt, không ngờ rằng lát sau nó giúp ích cho cả ba chúng tôi. Chúng tôi rảo bước đi nhanh; để giữ con Capi bên gót, chốc chốc tôi bảo nó một câu, đối với nó câu nói đó có tác dụng hơn một cái xích chắc nhất. Chúng tôi đi qua một phố đông đúc nhất và buôn bán thịnh vượng nhất của thành phố Lơnđơn. Thình lình tôi thấy vắng con Capi. Nó ra sao rồi? Lạ thật! Tôi rẽ vào đầu một ngõ phố, đứng lại chờ nó. Tôi huýt sáo khe khẽ vì tôi không trông được xa. Tôi bắt đầu lo có kẻ bắt trộm nó, thì thấy nó phi đến, mồm ngoạm một đôi tất len, đuôi ve vẩy mừng rỡ. Nó chồm lên, đặt hai chân trước lên người tôi và đưa đôi tất để tôi cầm lấy. Trông dáng nó đắc ý lắm như những khi vừa hoàn thành một tiết mục khó khăn nhất, nó đến đòi tôi ban khen. Sự việc xảy ra trong nháy mắt. Tôi còn đương kinh ngạc thì đột nhiên Mátchia một tay chụp đôi tất, một tay lôi tôi đi sâu vào trong ngõ. Nó nói: Đi nhanh lên, nhưng mà đừng chạy! Tớ cũng như cậu, đang ngẩn ngơ tự hỏi đôi tất này từ đâu ra thì tớ nghe thấy một người nói: "Thằng kẻ cắp đâu rồi?". Thằng kẻ cắp là con Capi đó, chắc cậu hiểu. Nếu không có sương mù thì người ta đã tóm cổ chúng mình vì tội ăn cắp rồi. Tôi hiểu quá chứ! Tôi uất ức đến nghẹn thở. Chúng nó đã biến con Capi hiền lành, lương thiện thành một tên kẻ cắp. Tôi bảo Mátchia: Đi về thôi! Cậu cầm dây dắt lấy con Capi! Mátchia không nói gì cả. Chúng tôi đi nhanh về tới sân Sư tử đỏ. Bố mẹ và mấy em tôi đang gấp vải quanh bàn. Tôi ném đôi tất lên bàn, làm thằng Alơn và thằng Nét bật cười. Tôi nói: Đây là một đôi tất con Capi vừa đánh cắp, vì người ta đã biến con Capi thành một tên kẻ cắp. Tôi muốn tin rằng đây chỉ là một trò đùa thôi! Tôi vừa nói vừa run, nhưng chưa bao giờ thấy mình cương quyết như thế. Bố tôi hỏi: Nếu không phải là trò đùa thì mày làm cái gì, thử nói xem? Tôi sẽ buộc dây vào cổ con Capi rồi đem dìm xuống sông Tamidơ, mặc dù tôi yêu quý nó. Tôi không muốn con Capi trở thành một tên trộm cắp, cũng như không muốn mình trở thành một tên trộm cắp. Nếu tôi nghĩ rằng một ngày kia tôi sẽ phải thế thì ngay tức khắc tôi đâm đầu xuống sông tự tử cùng nó. Bố tôi nhìn thẳng vào mặt tôi, vung tay giận dữ như muốn quật chết tôi. Đôi mắt ông thiêu đốt tôi. Nhưng tôi không nhìn xuống. Dần dần, mặt ông giãn ra. Ông nói: Mày cho đó là một trò đùa thì đúng, đấy là một trò đùa. Để cho cái trò đùa ấy đừng diễn lại, từ nay con Capi chỉ đi với mày thôi.
Chương 37: Tã đẹp nói dối Bấm để xem Tôi cố gắng làm thân nhưng hai thằng em tôi, Alơn và Nét, chỉ một mực tỏ ác cảm ra mặt. Tất cả những gì tôi muốn làm cho chúng nó đều bị chúng nó hắt hủi. Rõ ràng, đối với chúng, tôi không phải là một người anh. Chuyện con Capi đã dựng nên một sự ngăn cách rõ rệt giữa chúng tôi. Tôi bảo chúng nó rõ không phải bằng lời nói vì tôi nói tiếng Anh còn khó khăn, mà bằng điệu bộ rất sinh động và đầy ý nghĩa, trong đó hai nắm đấm đóng vai trò chính. Tôi dùng hai nắm đấm nói rằng nếu chúng nó còn muốn giở trò gì với con Capi thì sẽ đụng ngay với tôi, tôi sẵn sàng bảo vệ con Capi hoặc trả thù cho nó. Không có em trai nữa, tôi tìm đến em gái. Nhưng Anni, con chị đối xử với tôi cũng chẳng hơn gì mấy đứa em trai nó. Cũng như hai thằng kia, nó ác cảm ra mặt đối với những cố gắng làm thân của tôi. Không ngày nào nó không bày trò cho tôi một vài vố theo kiểu của nó, và con bé quả là giàu sáng kiến về mặt này! Bị Alơn và Nét xa lánh, bị Anni hắt hủi, tôi chỉ còn con bé Két, mới lên ba, còn quá ngây thơ để nhập bọn với các anh chị. Con bé cũng thích để tôi vuốt ve, trước hết bởi vì tôi thường bảo Capi diễn trò cho nó xem. Về sau, khi Capi trở về với chúng tôi thì tôi lại đưa về cho con bé nào kẹo, nào bánh, nào cam; trong khi chúng tôi diễn trò ngoài đường phố, bọn trẻ nhỏ đã mang quà lại và long trọng bảo: "Phần con chó!". Đem cam làm quà cho chó, có lẽ chẳng thích hợp lắm, nhưng tôi cũng nhận và cảm ơn. Những quả cam ấy sẽ giúp tôi giành được thiện cảm của tiểu thư Két. Ấy đó, trong cả cái gia đình mà tôi dành cho biết bao nhiêu trìu mến trong tim tôi khi mới đặt chân lên đất Anh, chỉ còn mỗi con bé Két là còn cho phép tôi được quý mến nó. Ông tôi vẫn cứ khạc nhổ một cách giận dữ về phía tôi mỗi khi tôi đến gần. Bố tôi chỉ chú ý đến tôi mỗi buổi chiều khi hỏi đến số tiền thu được. Mẹ tôi thường vắng mặt; Alơn, Nét và Anni thì ghét bỏ tôi. Chỉ còn Két là còn để cho tôi vuốt ve, nhưng phải chăng chỉ khi nào túi tôi còn đầy quà? Đến là thất vọng! Bởi thế, lúc đầu tuy tôi bác bỏ những điều ức đoán của Mátchia, nhưng trong tâm trạng buồn bực, cũng đã có lúc tôi phải tự hỏi mình rằng nếu tôi đúng là con của nhà này, thì mọi người tất đã bộc lộ những tình cảm khác với cách đối xử khá thô bạo với tôi như hiện nay. Mà tôi đâu đã làm gì đáng phải chịu sự ghẻ lạnh hoặc sự phũ phàng ấy cho cam! Thấy tôi ủ rũ và suy nghĩ buồn phiền, Mátchia hiểu ngay vì sao. Nó bảo tôi, mà cũng như tự nhủ với mình: "Tớ nóng lòng muốn biết má Bácbơranh sẽ trả lời cậu ra sao!". Muốn nhận được bức thư mà chúng tôi đã dặn gửi theo cách "lưu trạm" (1), chúng tôi thay đường đi mọi ngày. Chúng tôi xuống tận nhà bưu điện. Trong nhiều ngày, chẳng có gì, nhưng cuối cùng thì lá thư hằng nóng lòng mong đợi ấy cũng đã được trao tận tay người nhận. Nhà bưu điện không phải là nơi thuận tiện để đọc thư, chúng tôi lại đến con đường nhỏ ở một phố gần đây, cũng là để có thời gian cho cảm xúc lắng xuống chút ít. Ở đó, tôi đã mở bức thư của má Bácbơranh nghĩa là thư mà người cha xứ Savanông viết hộ: "Bé Rêmi yêu mến, Những điều con cho má biết trong thư khiến má ngạc nhiên và bực bội.. Má cứ tưởng bố mẹ con gia tư dư dật, hơn thế, vào hạng giàu sang quyền quý nữa kia.. Con bảo má nói tường tận cho con rõ những chiếc tã bọc con như thế nào. Dễ lắm, vì má đã giữ lại tất cả những vật ấy, để dùng làm tang chứng trong việc nhìn nhận con, cái ngày người ta đến hỏi con. Trước nay má vẫn đinh ninh rằng thế nào rồi cũng có cái ngày ấy. Nhưng trước hết phải nói rằng con không có tã. Đôi lúc má nói đến tã là vì thói quen và cũng vì trẻ em ở xứ má bọc tã. Con thì không bọc tã. Trái lại con mặc quần áo đàng hoàng. Đây là những vật mặc trên người con lúc bấy giờ: Một cái mũ chụp bằng ren, chỉ khác thường Chỗ đẹp và sang quá, một chiếc yếm vải phin viền ren cỡ nhỏ ở cổ và cánh tay; một đôi hài dệt tay màu trắng đính những cái găng tơ; một cái áo dài bằng dạ trắng và cuối cùng là một chiếc áo khoác ngoài trùm cả đầu bằng hàng cátsơmia trắng, lót lụa, thêu thùa rất đẹp.. Sau hết phải nói rằng tất cả những áo xống ấy đều không mang dấu hiệu. Nhưng cái khăn bọc và cái yếm chắc là có đánh dấu, bởi vì cái góc thường thường mang dấu hiệu thì đã bị cắt đi. Việc này chứng tỏ người ta đã tìm đủ mọi cách để đề phòng kẻ đi tìm không theo dấu Vết được. Đó là tất cả những cái má có thế nói rồi đó, bé Rêmi yêu quý ạ. Nếu con thấy cần những vật ấy, con chỉ việc viết thư cho má, má sẽ gửi đến cho con. Con đừng phiền lòng, con yêu quý, đừng phiền lòng là không biếu má được những tặng vật tốt đẹp mà con hứa với má. Con bò sữa, do con nhịn bữa mà mua, đối với má quý hơn tất cả những vật biếu tặng trên đời. Má vui mừng tin cho con biết rằng con bò khỏe, sữa không giảm và nhờ nó ngày nay má sống thư thả. Mỗi khi thấy nó, má không thể không nghĩ tới con và chú bạn nhỏ Mátchia của con. Má sẽ rất vui lòng nhận thư con viết cho má biết tin tức của con. Má mong những tin ấy luôn luôn tốt lành. Con âu yếm, giàu tình cảm là thế, lẽ nào chẳng sung sướng giữa gia đình con, có cha, có mẹ, anh chị em trai gái bên cạnh! Thế nào người ta cũng sẽ yêu con xứng đáng với tấm lòng con. Chào con, con yêu quý, má hôn con âu yếm. Mẹ nuôi của con. Quả phụ BÁCBƠRANH." Đoạn cuối bức thư khiến tim tôi se lại. Tội nghiệp má, má tốt với tôi làm sao! Vì má Yêu tôi nên má ngỡ ai cũng yêu tôi như má. Bà ấy tốt quá. - Mátchia nói. - Bà có nghĩ đến tớ đấy! Mà dù bà không nghĩ đến đi nữa tớ cũng cảm ơn bà. Bà đã tả tỉ mỉ, trọn vẹn như vậy thì ông Đờrixcơn không thể nhầm lần nổi đối với cậu khi kể những áo quần cậu mặc lúc người ta bắt trộm cậu. Ông ấy có thể quên! Đừng nói thế! Ai lại đi quên những bộ quần áo con mình mặc ngày mình mất nó vì chính những bộ quần áo ấy sẽ giúp mình tìm lại nó. Tớ xin cậu đừng có đoán già đoán non, chờ đến khi bố tớ trả lời hẵng hay. Tớ có đoán gì đâu, chỉ có cậu nói là ông ấy có thể quên. Thôi được, để rồi xem. Hỏi bố xem tôi ăn mặc như thế nào cái ngày bị bắt trộm là việc không dễ. Giá tôi hỏi một cách thực thà, không dụng ý thì hết sức đơn giản. Đằng này không phải như thế và chính sự dụng ý khiến tôi rụt rè do dự. Thế rồi một hôm, vì mưa rét quá, phải về sớm, tôi đánh bạo nói về cái vấn đề lâu nay giày vò tôi. Tôi mới bắt đầu hỏi thì bố tôi đã nhìn trừng trừng vào mặt tôi. Ông có thói quen làm thế mỗi khi tôi nói cái gì phật ý ông. Nhưng tôi đương đầu với cái nhìn ấy gan dạ hơn là tôi tưởng trước đây khi nghĩ tới giây phút này. Tôi ngỡ rằng ông sắp nổi giận. Tôi lo lắng liếc mắt về phía Mátchia, nó lắng tai nghe mà vờ không để ý. Tôi muốn phân bua với nó là tại nó nên tôi mới mắc vào cái việc vụng dại này. Nhưng bố tôi không nổi nóng. Qua cơn giận lúc đầu, ông mỉm cười. Thực ra thì trong nụ cười ấy có cái gì tàn ác, nhẫn tâm, nhưng dù sao đó vẫn là một nụ cười. Ông nói: Cái điều giúp bố tìm con đắc lực nhất là sự mô tả những quần áo con mặc ngày con bị bắt trộm: Một mũ chụp bằng ren, một chiếc yếm viền ren, một khăn bọc và một cái áo dài bằng dạ, một đôi tất len, một đôi hài dệt tay, một áo khoác ngoài trùm cả đầu bằng cátsơmia trắng có thêu. Bố rất trông cậy ở hai chữ F. Đ đánh dấu trên khăn yếm; nó là tên con: Phờrăngxi Đơrixcơn. Nhưng dấu hiệu ấy đã bị người phụ nữ bắt trộm con cắt đi, chị ta hy vọng rằng làm thế thì không bao giờ ta tìm lại được con. Bố cũng đã xuất trình tờ khai lễ rửa tội sao lục ở nhà thờ xứ; người ta đã trả lại bố và hình như bố còn cất đâu đây. Ông nói thế và sốt sắng đi tìm trong ngăn kéo, bình thường ông không sốt sắng như thế bao giờ, lát sau ông mang lại một tờ giấy có đóng nhiều con dấu trao cho tôi. Tôi đánh bạo một lần cuối: Nếu bố cho phép, -tôi nói, - con nhờ Mátchia dịch ra cho con nghe. Được chứ! Chữ được chữ mất, Mátchia dịch ra cho tôi biết là tôi sinh ngày thứ năm mồng 2 tháng 8, tôi là con ông Pơtơrích Đơrixcơn và bà Mácgơrít Gơrengiơ, vợ ông ta. Còn đòi hỏi gì nữa kia chứ? Tuy nhiên Mátchia cũng không lấy làm thỏa mãn. Đêm đến, khi chúng tôi đã chui vào chiếc xe của chúng tôi rồi thì nó lại ghé vào tai tôi như khi cần nói một điều bí mật: Tất cả các cái ấy không thể chê được, nhưng rốt cục vẫn không làm sáng tỏ vì sao Ông Đơrixcơn bán hàng rong và bà Gơrengiơ, vợ ông, lại giàu có đến mức sắm cho con những mũ ren, những yếm viền ren, những áo khoác thêu thùa. Những người buôn bán hàng rong đâu có lắm tiền thế! Chính vì người buôn bán cho nên người ta có thể mua sắm những thứ ấy không mất nhiều tiền! Mátchia huýt sáo, lắc đầu. Xong, nó lại rỉ tai tôi: Cậu muốn tớ nói cái điều cứ lởn vởn mãi trong óc tớ không? Là cậu không phải là con của Đơrixcơn tiên sinh mà chính Đơrixcơn tiên sinh đã bắt trộm cậu. Tôi muốn cãi lại, nhưng Mátchia đã lên giường nó. Nếu tôi là Mátchia thì có lẽ tôi cũng giàu tưởng tượng như nó. Nhưng ở vị trí tôi, không thể nghĩ ngợi lung tung bừa bãi được! Đối với Mátchia thì đó là chuyện của Đơrixcơn tiên sinh, như nó nói. Nhưng đối với tôi thì lại là chuyện của bố tôi. Khi trí óc tôi muốn nhảy bừa theo Mátchia, thì tôi đưa tay nắm giữ nó lại, và tôi cố làm cho tay tôi rắn chắc. Về Đơrixcơn tiên sinh, Mátchia có thể suy nghĩ đủ điều. Đối với nó, Đơrixcơn tiên sinh hoàn toàn là người dưng nước lã, chẳng có gì gắn bó. Nhưng trái lại, đối với bố tôi, thì tôi có bổn phận phải tôn kính. Rõ ràng là có điều bất thường trong hoàn cảnh của tôi, nhưng tôi đâu có quyền tự do nhìn cái đó với con mắt của Mátchia. Mátchia có quyền nghi ngờ. Đối với tôi, đó là một điều cấm kị. Khi Mátchia thổ lộ những điều nghi ngờ thì bổn phận của tôi là phải buộc nó im đi. Tôi đã cố gắng làm thế, nhưng Mátchia có ý riêng của nó, không phải lúc nào tôi cũng khuất phục được nó! Nhiều khi đâm tức, nó nói: Mày muốn choảng thì choảng, nhưng phải nghe đã! Và thế là tôi cứ phải nghe những câu nó hỏi: "Tại sao Alơn, Nét, Annơ và Két tóc vàng, còn cậu thì không?" "Tại sao tất cả mọi người trong nhà đều ác cảm với cậu, như đối với một con chó ghẻ, chỉ trừ Két nó đã biết gì đâu?" "Làm thế nào mà những người nghèo như thế lại sắm nổi hàng ren cho con mặc?" Đối với tất cả những cái tại sao, những cái thế nào ấy, tôi chỉ có một câu trả lời thích Đáng, tự nó cũng là một câu hỏi: Gia đình Đờrixơn tìm tôi làm gì nếu tôi không phải là con họ? Và nếu không phải là con thì họ đưa tiền cho Bácbơranh, cho Gơret và Gơli làm gì? Nghe thế, Mátchia bắt buộc phải trả lời rằng nó không giải đáp được. Tuy nhiên nó vẫn không chịu thua. Nó nói: Tớ không thể trả lời được câu hỏi của cậu, chưa hẳn là tớ đã sai khi đặt ra với cậu những điều mà chính cậu cũng không giải đáp được. Một người khác ở địa vị tớ sẽ tìm ra ngay cớ sao Đờrixcơn tiên sinh đã cất công kiếm cậu và nhằm mục đích gì ông ta đã tiêu tiền như thế! Về phần tớ thì tớ chẳng hiểu được vì sao, bởi vì tớ không tinh ranh và cũng chẳng biết cái gì ra cái gì cả! Cậu đừng nói thế, cậu vốn tinh mà lị. À, nếu quả tớ tinh thật, tớ sẽ giải thích ngay lập tức cho cậu cái điều mà tớ không thể giải thích nhưng cảm thấy được. Không đâu! Cậu không phải là con trong gia đình Đơrixcơn đâu! Cậu không phải và không thể là như thế được! Điều này nhất định một ngày kia sẽ rõ như ban ngày. Tuy nhiên, bởi vì cậu cứ ương ngạnh không chịu mở mắt ra, tự cậu làm cho cái ngày đó càng đến chậm. Tớ hiểu rằng cái điều mà cậu gọi là lòng tôn kính đối với gia đình đã níu cậu lại, nhưng mà nhất định nó không thể khiến cậu hoàn toàn tê liệt được. Vậy thì cậu muốn tớ làm thế nào? Tớ muốn rằng chúng ta trở về đất Pháp. Không thể được! Rõ ràng là vì bổn phận gia đình mà cậu nán lại đây! Nhưng nếu gia đình ấy không phải là gia đình cậu thì còn cái gì giữ cậu lại nữa! Những cuộc tranh luận kiểu ấy chỉ đưa đến kết quả là làm cho tôi đã buồn khổ lại càng buồn khổ hơn. Có gì ghê gớm bằng sự hoài nghi? Ấy thế mà mặc dù không muốn, tôi vẫn phải nghi ngờ. Người cha ấy có đích thực là cha tôi không? Người mẹ ấy cứ đích thực là mẹ tôi không? Gia đình ấy có phải là gia đình của tôi không? Cái điều này nói ra thì thật kinh tởm: Khi tôi sống một thân một mình, tôi lại thấy ít dằn vặt, ít khổ sở hơn ngày nay. Lúc ấy, lúc tôi buồn tôi khóc vì không có gia đình, ai có thể nói trước rằng khi tôi có gia đình thì tôi sẽ khóc vì thất vọng? Ánh sáng sẽ từ phương nào đến? Do ai đem lại? Tôi sẽ có ngày tìm thấy chân lý hay không? Tôi đờ đẫn vì cảm thấy bất lực trước những câu hỏi ấy. Tôi tự nghĩ rằng tôi như người giữa đêm tối húc đầu vào một bức tường không có cửa thoát. Ấy thế mà phải ca hát, phải đánh những bản nhạc vũ, phải cười cợt, nhăn nhỏ trong khi lòng mình thấm thía nỗi buồn riêng. Những ngày chủ nhật đối với tôi là ngày dễ chịu nhất vì ở Lơnđơn người ta không chơi nhạc ngoài đường vào ngày chủ nhật. Những hôm ấy tôi đi chơi với Mátchia và con Capi, có thể buồn bực tha hồ, không gò bó. Ôi! Sao mà tôi lại ít giống cái thằng Rêmi mấy tháng trước đây thế! Một chủ nhật nọ, tôi sắp sửa đi chơi với Mátchia thì bố tôi giữ tôi lại. Ông nói ông có việc cần đến tôi ngày hôm đó, và Mátchia cứ đi chơi một mình, ông tôi không ra nhà ngoài; mẹ tôi đã đi vắng cùng với Anni và Két, hai em trai tôi đã đi dạo phố. Thế là ở nhà chỉ có bố con tôi. Chúng tôi ngồi với nhau khoảng một tiếng đồng hồ thì có tiếng gõ cửa. Bố tôi đứng lên đi mở cửa rồi trở vào với một người đàn ông khác với các bạn hữu bố tiếp thường ngày. Người này đúng là một người mà ở Anh người ta gọi là bậc thượng lưu, nghĩa là một người đàng hoàng, áo quần bảnh bao, vẻ hợm hĩnh nhưng vẫn có nét chán chường. Ông ta vào khoảng năm mươi. Cái điều làm tôi chú ý nhất ở ông ấy là cái nụ cười. Khi ông ta cười, hai môi chành ra đe lộ cả hai hàm răng trắng nhởn và nhọn hoắt như răng một con chó tơ. Cáinét này thật đặc biệt. Nhìn ông ấy, người ta phải tự hỏi cái chành môi kia có đúng là một nụ cười không, hay chỉ là một kiểu nhe răng chực cắn. Vừa nói chuyện với bố tôi bằng tiếng Anh, ông vừa luôn luôn liếc mắt về phía tôi. Nhưng gặp luồng mắt tôi thì ông tránh ngay, không quan sát tôi nữa. Nói chuyện được mấy phút thì ông bỏ tiếng Anh, dùng tiếng Pháp. Ông nói tiếng Pháp trôi chảy, hầu như không lẫn cái giọng lơ lớ của người nước ngoài. Ông lấy ngón tay trỏ tôi mà nói với bố tôi: Đây phải chăng là thằng bé mà anh đã nói chuyên với tôi? Nom nó khỏe đấy chứ? Con hãy thưa ông đi, con! - Bố tôi bảo. Sức khỏe anh tốt chứ? - Người khách hỏi tôi. Thưa ông tốt. Anh không bao giờ ốm đau à? Tôi đã có lần sưng phổi. Ồ! Ồ! Vì sao thế? Vì đã ngủ một đêm trên tuyết phải lúc trời rét dữ dội. Chủ tôi cùng ngủ với tôi và đã chết rét. Còn tôi thì tôi bị sưng phổi. Đã lâu chưa? Cách đây ba năm. Từ lúc ấy, anh có cảm thấy di hại gì của bệnh cũ không? Thưa ông không. Không mệt nhọc, không uể oải, không đổ mồ hôi trộm ban đêm? Thưa ông không, không lúc nào như vậy. Có khi tôi mệt nhọc là vì đã đi bộ quá nhiều, nhưng không vì thế mà tôi sinh ốm. Và anh chịu gian lao một cách dễ dàng. Thưa ông, đành phải thế. Ông ta đứng lên, đi lại phía tôi. Ông sờ nắn cánh tay tôi rồi đặt lên bàn tay lên chỗ tim tôi. Cuối cùng ông áp đầu vào ngực tôi, bảo tôi thở mạnh như là đã chạy nhiều: Ông lại bảo tôi ho lên. Làm xong những việc ấy, ông nhìn chăm chú vào mặt tôi một lúc khá lâu. Chính lúc ấy tôi lại nghĩ rằng ông ta ưa cắn, bởi vì nụ cười của ông ta khiếp quá. Ông không nói gì với tôi nữa, tiếp tục nói chuyện với bố tôi bằng tiếng Anh. Mấy phút sau, cả hai người đi ra, không đi qua cái cửa trước nhìn ra phố mà qua cửa buồng xép. Còn lại một mình, tôi suy nghĩ không hiểu những câu hỏi của ông khách có ý nghĩa gì. Ông muốn mướn tôi chăng? Thế thì phải xa Mátchia và con Capi! Với lại tôi đã quyết không làm đầy tỏ của một ai hết thảy, không làm đầy tớ của ông khách thượng lưu này mà tôi ghét, cũng không làm đầy tớ một người nào khác dù tôi ưa. Một lát sau, bố tôi trở về nhà. Ông nói vì phải đi có việc, ông không sai khiến tôi vào công việc dự định trước đây và tôi có thể đi chơi nếu tôi thích. Tôi chả thích đi chơi chút nào, nhưng ở trong cái nhà buồn thiu này thì làm được gì? Thôi, đi dạo chơi còn hơn là ngồi rũ ra buồn chán thế này? Trời mưa, tôi vào xe lấy tấm da cừu. Tôi ngạc nhiên biết bao nhiêu khi gặp Mátchia ở đây. Tôi sắp sửa hỏi thì nó đưa tay bịt miệng tôi, rồi nói thầm: Đi ra mở cửa buồng xép đi! Xong tớ sẽ lặng lẽ chuồn ra sau lưng cậu. Không nên để người ta biết tớ ở trong xe. Ra tới phố rồi, Mátchia mới chịu nói: Cậu biết cái ông khách đến gặp bố cậu hồi nãy là ai không? Đó là ông Giem Miligơn, chú của Áctơ bạn cậu. Tôi đứng ngẩn người ở giữa phố. Nó nắm cánh tay tôi, vừa đi vừa nói tiếp: Tớ đi dạo một mình trong các phố buồn bã vào cái ngày chủ nhật rầu rĩ này cũng chán, bèn về ngủ quách. Tớ nằm lên giường nhưng chưa ngủ. Bố cậu cùng ông khách thượng lưu đi vào trong buồng xép này. Tớ không cố ý xem, nhưng vẫn nghe lọt câu chuyện họ nói với nhau. Ông khách nói: "Vững như quả núi! Lâm vào cảnh nó thì mười đứa chết cả mười, nó thì chỉ trả lời bằng một cơn sưng phổi thôi!" Bấy giờ tớ tưởng là họ nói về cậu nên lắng tai nghe. Nhưng câu chuyện đã chuyển ngay sang đề tài khác. "Thưa, cháu ngài sức khoẻ thế nào?" - Bố cậu hỏi. - "Khá hơn, lần này nữa nó cũng sẽ thoát nạn. Ba tháng trước đây, tất cả thầy thuốc đều chạy. Lần này nữa, người mẹ quý hóa của nó đã chăm sóc nó tận tình và lại cứu được nó! Ôi chao! Bà Miligơn ấy quả là một từ mẫu!" Cậu tưởng tượng xem nghe đến cái tên ấy tớ vểnh tai thế nào! Bố cậu nói: "Nếu cháu ngài khá lên thì thưa ngài, tất cả sự đề phòng của ngài đều hóa ra hoài công sao?"... " Trước mắt thì có lẽ thế! Nhưng tôi không thừa nhận rằng thằng Áctơ sẽ sống được. Nó mà sống thì là một chuyện mầu nhiệm, mà chuyện mầu nhiệm thì không còn xảy ra ở cái thế giới này nữa! Phải làm thế nào để cái ngày nó chết đi, không thể có ai về làm thiệt hại cho tôi, và người thừa kế duy nhất sẽ là tôi, Giem Miligơn"... " Xin ngài cứ yên lòng, thưa ngài, mọi việc sẽ diễn ra đúng như thế, tôi bảo Đảm"... " Tôi trông cậy ở anh". Người khách nói thế. Rồi ông ta nói thêm một câu mà tớ không hiểu rõ cho lắm. Tớ cứ thử dịch ra xem, mặc dù thấy không có nghĩa: "Lúc bấy giờ, chúng ta sẽ xem nên xử trí cái đó như thế nào". Thế rồi ông ta đi. Nghe xong câu chuyện, tôi thoạt có ý nghĩ về ngay nhà hỏi bố tôi chỗ ở của ông Miligơn để được biết tin tức về Áctơ và bà mẹ nó. Nhưng tôi kịp thấy ngay đó là một dự định điên rồ. Ai lại đi hỏi tin cháu ở một ông chú đang nóng đợi giờ phút cháu chết! Lại nữa, về mặt khác, cho ông Miligơn biết là người ta đã nghe hết những lời ông nói, thế có phải là dại dột, nguy hiểm không! Áctơ vẫn sống. Nó khá hơn trước. Lúc này được cái tin lành ấy cũng đủ vui rồi.
Chương 38: Những đêm Nôen Bấm để xem Từ bấy giờ, chúng tôi chỉ nói đến Áctơ, bà Miligơn và ông Giem Miligơn. Áctơ và bà mẹ nó hiện ở đâu? Tìm chỗ nào thì thấy được người ta? Việc ông Giem Miligơn đến đây gợi ra cho chúng tôi một ý định và giúp chúng tôi nghĩ ra một kế hoạch mà chúng tôi tin chắc rằng sẽ thành công: Ông Giem Miligơn đã tới sân Sư tử đỏ một lần thì thế nào ông cũng đến lần thứ hai, lần thứ ba. Ông ấy không có việc với bố tôi là gì! Cho nên lần sau, lúc ông về thì Mátchia sẽ đi theo ông, vốn ông không biết mặt Mátchia mà! Thế là ta biết chỗ ở của ông. Rồi thì ta gợi chuyện với kẻ ăn người ở trong nhà và có lẽ những điều họ cho biết sẽ đưa chúng ta đến bên cạnh Áctơ. Chứ không sao? Trí tưởng tượng của chúng tôi cho là việc này nhất định sẽ thực hiện. Cái kế hoạch tốt đẹp ấy không những có thể giúp chúng tôi tìm Áctơ vào một lúc nhất định nào đó, mà bây giờ đây nó lại gỡ cho tôi khỏi nỗi lo âu. Từ sự việc con Capi và từ khi có thư trả lời của má Bácbơranh. Mátchia luôn luôn nhắc tôi bằng mọi cách: "Chúng ta trở về đất Pháp thôi!" Điệp khúc ấy mỗi ngày lại được nó tô vẽ thêm tình tiết mới. Đáp lại, tôi đưa ra một điệp khúc khác, cũng luôn luôn lặp đi lặp lại một giọng. "Tớ có bổn phận không được từ bỏ gia đình". Và chúng tôi không nhất trí được với nhau là ở cái vấn đề bổn phận ấy. Liên tiếp nổ ra những cuộc tranh cãi không đi đến đâu bởi vì bên nào cũng khư khư giữ chặt cái ý mình. "Phải đi thôi"... " Tớ phải ở lại". Những khi tôi thêm "để tìm cho được Áctơ" vào cái điệp khúc muôn thuở "Tớ phải ở lại" thì Mátchia không còn đường cãi nữa! Nó không thể chống lại vấn đề Áctơ: Cần phải cho và Miligơn biết rõ ý đồ của em chồng bà chứ! Nếu chờ ông Miligơn đến mà cứ ngày đi vắng từ sớm đến tối như từ khi chúng tôi đến Lơnđơn đến nay thì thật là ngu xuẩn. Nhưng cũng đã gần đến lúc chúng tôi không đi biểu diễn ngoài phố ban ngày nữa. Chúng tôi sắp đi diễn đêm vì những cuộc hợp tấu trong dịp lễ Nôen tiến hành vào khoảng giữa đêm. Như thế thì ban ngày nằm nhà, cắt một đứa canh phòng nghiêm ngặt, chắc chắn chúng tôi sẽ gặp ông chú của Áctơ. Một hôm Mátchia nói với tôi: Giá cậu biết tớ mong cậu tìm thấy bà Miligơn chừng nào! Tại sao mới được chứ? Tại vì bà ấy tốt với cậu quá! Rồi nó lại thêm: Và cũng vì có lẽ bà ấy có thể làm cho cậu gặp được bố mẹ. Mátchia! Cậu không muốn tớ nói rõ cái điều ấy? Tớ không cố ý nghĩ như vậy nhưng hiểu sao mà không một phút nào tớ có thể chấp nhận rằng cậu lại là con trong nhà Đơrixcơn này. Hãy nhìn kỹ tất cả những người trong gia đình ấy và hãy nhìn lại cậu một chút. Không phải tớ chỉ muốn nói đến những món tóc chổi rễ đâu! Thử hỏi xem, cậu có cái kiểu giơ bàn tay như cái ông cụ nội ấy, và cái cười giả tạo của cụ ta không! Rõ ràng cậu phải là người thượng lưu và nhất định là như thế khi nào chúng ta tìm gặp được bà Miligơn. Vì sao vậy? Tớ nghĩ một điều. Hãy nói xem sao! Ồ! Không! Vì sao mà không? Vì nếu ý nghĩ đó ngu xuẩn.. Thì? Nếu nó không đúng thì ngu xuẩn quá! Không nên mừng trước về những việc chưa thực hiện! Ta phải rút bài học ở cái chuyện cây lá xanh tươi trong khu Bétnơn chứ! Chúng ta đã trông thấy nhiều đồng cỏ tươi tốt trong thực tế chỉ là những ao đầm lầy lội rồi mà. Tôi không vật nài vì tôi cũng có một ý nghĩ. Thực ra thì ý nghĩa của tôi lờ mờ, phiếm ảo, rụt rè lắm, chắc là còn ngu xuẩn hơn của Mátchia nhiều, tôi tin thế. Chính vì vậy mà tôi không gạn hỏi thêm Mátchia. Ví thử ý nghĩ của nó lại giống ý nghĩ đang phảng phất trong đầu tôi như một giác chiêm bao thì tôi biết trả lời thế nào! Tôi đã không dám diễn đạt ra rõ ràng thì sao tôi lại có gan tranh cãi với nóđược. Chỉ có việc chờ đợi thôi, và chúng tôi chờ đợi. Trong khi chờ đợi thì chúng tôi tiếp tục chạy ngang chạy dọc giữa thành phố Lơnđơn, bởi vì chúng tôi không thuộc hạng những nhạc sĩ có ưu thế, làm chủ một khu phố có công chúng riêng của mình. Chúng tôi bé bỏng quá, mới mẻ quá, không thể làm vương làm tướng một nơi nào. Chúng tôi bắt buộc phải nhường chỗ cho những người biết chứng minh quyền sở hữu của mình bằng những luận cứ mà chúng tôi không đủ sức bác bỏ. Đã bao lần, sau khi trổ tài nghệ chơi những bài tủ, sắp được thu tiền thì phải vội vàng cuốn gói trước một anh chàng Êcốtxe (1) hộ pháp, chân không đi tất, váy xòe, áo khoác kẻ ô, mũ cắm lông chim. Chỉ nghe tiếng kèn bị của anh ta thôi, chúng tôi cũng đủ chạy đi rồi. Chiếc kèn đẩy của Mátchia có thể át tiếng kèn bị ấy, nhưng sức chúng tôi thì không đương nổi sức con người thổi kèn bị kia. Chúng tôi cũng không đủ sức cự địch những toán nghệ sĩ da đen đương dạo khắp phố phường.. Những người da đen giả hiệu ấy ăn mặc một cách lố bịch: Họ mặc những chiếc áo hình đuôi cá, họ đóng những cổ áo rộng thênh thang, nó bọc cái đầu họ lại như tờ giấy bọc bó hoa. Bọn này làm chúng tôi khủng khiếp hơn cả bọn đàn hát Êcốtxe. Thoạt thấy họ đến, hay chỉ mới nghe tiếng đàn bănggiô của họ thôi, chúng tôi cũng đã kính cẩn im lặng và rút lui khỏi chỗ đó, đến một khu vực có hy vọng không gặp một toán nào khác. Hoặc là chúng tôi xem họ và chờ họ dứt những tiết mục ầm ĩ của họ rồi mới biểu diễn. Một hôm đang đứng làm khán giả của họ, tôi chợt nhận thấy một người trong bọn họ, người kỳ quặc nhất, ra hiệu cho Mátchia. Thoạt tiên tôi tưởng anh ta muốn chế giễu chúng tôi, đưa chúng tôi làm trò cười cho khán giả. Nhưng tôi hết sức ngạc nhiên khi thấy Mátchia trả lời anh ta một cách thân thiện. Cậu quen với anh ấy à? -Tôi hỏi nó. Anh Bốp đấy! Bốp nào nhỉ? Anh bạn Bốp của tớ trong gánh xiếc Gátxô, một trong hai vai hề tớ đã nói chuyện với cậu ấy mà. Tớ biết chút ít tiếng Anh là nhờ anh ấy nhiều hơn cả. Lúc đầu, cậu không nhận ra anh ta à? Đành rồi! Ở đàng Gátxô, anh ấy đầu xoa bột trắng ở đây thì lại trát xi. Khi toán nhạc sĩ da đen ấy biểu diễn xong, anh Bốp đến chỗ chúng tôi. Có nhìn thấy anh ấy chào hỏi Mátchia mới biết chú bạn tôi biết ăn ở cho người ta yêu mến đến như thế nào. Một người anh ruột gặp em chưa chắc đã có cái ánh mắt và cái giọng nói vui mừng như thế. Anh hề xiếc xưa kia bảo "vì thời buổi khó khăn, anh ta phải đi làm nhạc sĩ du phương để kiếm bữa". Chúng tôi không thể đứng với nhau lâu: Anh ấy phải đi theo toán của anh ấy, còn hai chúng tôi thì phải tìm đến một khu phố mà toán anh không đến. Hai người hẹn nhau đến chủ nhật sẽ hưởng cái thú kể cho nhau nghe những việc mỗi người đã làm từ khi chia tay nhau. Hẳn là do tình bạn đối với Mátchia, anh Bốp cũng muốn tỏ thiện cảm với tôi và chẳng mấy chốc chúng tôi đã có một người bạn thân. Những kinh nghiệm và những lời khuyên bảo của anh đã giúp chúng tôi biết cách kiếm sống ở Lơnđơn dễ dàng hơn trước. Anh Bốp cũng rất mến con Capi và thường vẫn nói một cách thèm thuồng rằng nếu anh có được một con chó như thế thì làm giàu chẳng mấy chốc! Đã nhiều lần, anh bàn với chúng tôi nên hùn sức tay ba, đúng là tay tư, anh Bốp, Mátchia, Capi và tôi. Nhưng tôi không muốn từ bỏ gia đình trở về đất Pháp tìm gặp em Lidơ và các bạn cũ thì tôi càng không tha thiết lang thang cùng anh Bốp khắp nước Anh. Chúng tôi nhích dần đến ngày lễ Nôen như thế đấy! Bây giờ thì chúng tôi không ra đi từ sáng nữa. Chúng tôi chờ đến tám chín giờ đêm mới lên đường để đến những khu vực chọn trước. Chúng tôi bắt đầu ở những công viên và đường phố đã vắng bóng xe cộ. Những khúc hợp tấu của chúng tôi cần có sự thanh vắng nhất định để luồn vào cửa kính, đánh thức trẻ con trên giường ngủ, báo cho các em biết Nôen sắp đến. Nôen, ngày lễ chí thân của tất cả những người Anh. Đêm càng về khuya thì chúng tôi xuống dần các phố lớn: Bây giờ những chiếc xe cuối cùng chở người đi xem hát về đã đi qua, sự yên tĩnh đến thay cho cảnh huyên náo đinh tai trong ngày. Thế là chúng tôi đánh những bản đàn tình cảm nhất, êm đềm nhất, những bản đàn có tính chất sầu thương hay tín mộ. Cây vĩ cầm của Mátchia than khóc, cây thụ cầm của tôi rên rỉ. Buổi hợp tấu của chúng tôi đã xong: "Chúc quý ông quý bà ngon giấc và vui lễ Nôen!". Rồi chúng tôi đi đến một nơi khác diễn lại buổi hợp tấu. Giữa đêm khuya nằm trong giường chăn ấm gối êm mà nghe âm nhạc thì hẳn là thú vị tuyệt vời. Nhưng chúng tôi ở ngoài đường thì không có chăn, cũng chả có gối. Thế mà lại phải đánh đàn, mặc dù mấy ngón tay đã tê, lạnh cóng. Có hôm trời đùn mây, sương mù thấm da thịt, ẩm ướt; có hôm trời vừa xanh vừa vàng, thăm thẳm, gió bấc thổi, rét đến buốt xương. Không có hôm nào khí hậu ôn hòa dễ chịu cả. Thời tiết Nôen khắc nghiệt với chúng tôi như thế, mà suốt ba tuần lễ chúng tôi chẳng ở nhà tối nào. Biết bao nhiêu lần, các cửa hiệu đóng cửa hết, chúng tôi dừng lại trước hàng gà vịt, hàng hoa quả, hàng tạp phẩm, hàng bánh mứt! Chao ôi! Những con ngỗng béo tròn! Những con gà tây núng nính! Những con gà mái tơ trắng nõn! Và đây là những núi cam, táo, những đống quả dẻ, mận khô! Những quả ướp lạnh ấy trông mới thèm làm sao! Nhất định sẽ có những đứa trẻ, hí hửng vì thấy nhiều quà bánh, sung sướng ngả vào lòng bố mẹ. Là những kẻ khốn khổ lang thang trên phố, chúng tôi vẫn hình dung cảnh ngày lễ gia đình êm đẹp này ở lâu dài người quyền quý cũng như trong lều cỏ kẻ nghèo hèn. Chúc một đêm Nôen vui vẻ cho những ai được yêu thương! Sau những ngày Nôen, phải đi làm ban ngày, cho nên chúng tôi càng ít hy vọng gặp ông Giem Miligơn. Chúng tôi chỉ còn trông mong ở ngày chủ nhật, ngày đó là ngày tự do, có thể là ngày giải trí, đáng lẽ đi dạo chơi thì thường chúng tôi ở lì nhà. Chúng tôi chờ đợi. Không đả động gì đến những điều đương ám ảnh chúng tôi, Mátchia thành khẩn hỏi anh bạn Bốp có cách tìm được địa chỉ của bà Miligơn, có một đứa con trai bị bệnh bại liệt, hoặc là đơn giản hơn thì địa chỉ của ông Giem Miligơn. Nhưng anh Bốp đã trả lời rằng cần phải biết rõ cái bà Miligơn ấy thế nào và cũng phải biết rõ nghề nghiệp hoặc địa vị xã hội của ông Giem Miligơn ấy. Bởi vì ở ngay Lơnđơn đã có một số người mang cái tên Miligơn ấy huống hồ ở trong nước Anh thì lại còn nhiều người mang tên ấy hơn nữa. Chúng tôi đâu có nghĩ đến điều đó. Đối với chúng tôi, chỉ có một bà Miligơn, đó là mẹ của Áctơ, và chỉ có mỗi một ông Giem Miligơn, đó là ông chú của Áctơ. Mátchia lại bảo nên trở về Pháp và chúng tôi tranh luận lại càng hăng. Tôi nói: Cậu từ bỏ cái ý định tìm gặp bà Miligơn rồi à? Hẳn là không! Nhưng không gì chứng tỏ bà ấy còn ở Anh. Cũng không có gì chứng tỏ bà ấy hiện ở Pháp. Có phần chắc là bà ấy đã sang Pháp. Áctơ đã ốm thì mẹ nó tất phải đưa nó đến một vùng khí hậu tốt, người ốm dễ bình phục. Không phải chỉ ở Pháp mới có khí hậu tốt cho sức khỏe. Ở Pháp, thằng Áctơ đã lành bệnh một lần rồi, thì tất bà mẹ nó lại đưa nó sang Pháp lần nữa. Vả lại tớ muốn cậu đi khỏi nơi này! Tôi ở vào cái cảnh ngộ gay cấn đến nỗi không dám hỏi Mátchia vì sao nó muốn tôi đi khỏi nơi này. Tôi ngại nó trả lời đúng chính cái điều mà tôi không muốn nghe thấy! Nó nói tiếp: Tớ sợ quá! Đi đi thôi, Rêmi ạ! Rồi cậu sẽ thấy tai vạ giáng xuống đầu chúng ta cho mà xem. Ta đi đi thôi.. Tuy thế, tôi vẫn không đành nghe theo lời khuyên của Mátchia, mặc dầu thái độ của gia đình tôi đối với tôi vẫn như cũ, ông tôi vẫn cứ khạc nhổ một cách giận dữ về phía tôi, bố tôi vẫn chỉ có ra lệnh, mẹ tôi vẫn không bao giờ để mắt đến tôi, hai thằng em luôn giở đủ trò ác độc, hòng làm hại tôi, còn Anni vẫn ra mặt ghét bỏ tôi, bé Két vẫn chỉ mến tôi vì kẹo bánh Đem về cho nó. Mà tôi cũng không thể nào tin được khi Mátchia cứ một mực nói rằng tôi không phải là "cậu ấm của Đơrixcơn tiên sinh". Ngờ vực, đúng tôi có thể ngờ vực lắm lắm, nhưng bảo tôi tin quả quyết rằng mình đúng là dòng máu Đơrixcơn hay không phải thế thì tôi không thể làm nổi. Thời gian trôi đi chậm chạp, rất chậm, nhưng rồi ngày nối ngày, tuần tiếp tuần, cũng đã đến lúc gia đình tôi rời Lơnđơn để đi khắp chốn trên đất nước Anh. Hai chiếc xe đã được sơn lại và đã chất đầy ắp đủ thứ hàng hóa đem bán trong mùa khô ráo. Cơ man nào là hàng hóa đã được chất trong xe đến là tài tình: Vải, áo sợi, mũ nồi, khăn quàng, khăn tay, bít tất, quần đùi, áo gilê, cúc áo, chỉ khâu, vải bông, vải len, len sợi, kim, kéo, dao cạo, hoa tai, nhẫn, xà phòng, thuốc mỡ, xi đánh giầy, bàn là bằng đá, thuốc bột chữa bệnh ngựa, bệnh chó, thuốc tinh dầu để tẩy vết bẩn, thuốc nước chữa răng, thuốc làm mọc tóc hoặc nhuộm tóc! Chúng tôi đứng đó và thấy rõ ràng là những kiện hàng ấy đều chuyển từ dân Sư tử đỏ ra, chứ không phải thẳng từ những của hàng bình thường vẫn bán. Cuối cùng, xe chất đầy, ngựa cũng đã mua, mua ở đâu, mua cách nào, tôi không biết! Chỉ thấy dắt ngựa về và mọi việc xếp đặt xong xuôi để lên đường. Còn chúng tôi thì sẽ làm gì? Ở Lơnđơn với ông già không hề rời sân Sư tử đỏ hay sao? Hay là sẽ đi bán hàng như Alơn và Nét? Cũng có thể cùng đi theo xe của gia đình, tiếp tục cái nghề nhạc sĩ rong, biểu diễn tiết mục tại những làng mạc, thành phố xe đi qua? Bố tôi thấy chúng tôi kiếm được khá tiền với cây vĩ cầm và cây thụ cầm, bèn quyết định chúng tôi Đi với ông, nhưng vẫn làm cái nghề nhạc sĩ. Trước ngày lên đường ông nói ý định của ông. Mátchia bảo tôi: Về Pháp nhé! Ta rình cơ hội đầu tiên để trốn đi. Sao không chu du nước Anh một chuyến cho hay? Vì chúng mình sẽ gặp họa, tớ nói cho cậu biết đấy! Chúng ta có cơ hội gặp bà Miligơn trên đất Anh. Tớ thì tớ tin rằng chúng ta có nhiều hy vọng thấy bà ấy trên đất Pháp hơn. Thôi được, chúng ta hãy cứ thử tìm trên đất Anh. Sau này sẽ hay! Cậu biết cậu đáng gì không? Không! Đáng cho tớ bỏ mặc cậu, tớ cút một mình sang Pháp! Cậu nói có lý đấy! Vì vậy tớ khuyên cậu cứ làm thế đi! Tớ biết tớ không có quyền giữ cậu, tớ biết cậu ở với tớ thế này là cậu tốt bụng quá. Vậy thì cậu hãy đi đi, rồi cậu tìm Đến Lidơ, nói với em.. Rằng cậu là một thằng ngu, một thằng xấu cho nên mới nghĩ rằng tớ có thể bỏ cậu mà đi trong lúc cậu đương khốn khổ thế này. Cậu khổ, phải, cậu khổ lắm. Thì tớ làm gì cậu mà cậu có những ý nghĩ thế kia cơ chứ? Hãy nói đi nào, nói tớ đã làm gì cậu? Không làm gì hết, phải không? Thế thì chúng ta lên đường với họ đi thôi! Chúng tôi lại ra đi trên đường thiên lý. Nhưng lần này, tôi không được tự do muốn đi đâu thì đi, tự ý muốn làm gì thì làm. Chúng tôi đi theo gia đình Đơrixcơn. Tuy nhiên, tôi rời bỏ thành phố Lơnđơn với cái cảm giác là được giải phóng. Tôi phải nhìn thấy cái sân Sư tử đỏ và cái miệng hầm, nó luôn luôn thu hút mắt tôi mặc dù tôi cố cưỡng lại. Đã bao nhiêu lần đương đêm tôi giật mình tỉnh giấc, vì mơ thấy ánh sáng đèn soi vào cửa chỗ tôi nằm. Đó là một ám ảnh, một cơn mê, nhưng vẫn đáng sợ. Tôi đã nhìn thấy cái ánh đèn ấy một lần, thế là đủ để cho tôi cảm thấy nó ở mãi trước con mắt tôi như một ngọn lửa nóng bỏng. Hai đứa tôi đi theo sau xe. Chúng tôi không phải ngửi mùi hôi thối ở Bétnơn Gờrin nữa, mà hít thở khí trời trong sạch ở những cánh đồng chúng tôi đi qua.. Những cánh đồng ấy không mang cái từ "Gờrin" trong tên, nhưng lại có màu xanh cho đôi mắt ngắm và tiếng chim hót cho đôi tai nghe. Ngay trong hôm đầu ra đi, tôi đã thấy người ta bán những hàng hóa không mất tiền mua ấy như thế nào. Đoàn chúng tôi đến một thôn lớn, đỗ xe ngay giữa chợ, người ta hạ một bên thành xe xuống và thế là cả gian hàng phơi bày dưới con mắt tọc mạch của người mua. Bố tôi rao: Các ông các bà hãy xem giá hàng, xem giá hàng đi! Không đâu người ta bán giá như thế cả! Vì không bao giờ xỉa tiền mua cho nên tôi có thể bán rẻ. Bán ấy à? Không, bán thế cũng bằng cho không mà thôi! Hãy xem giá hàng! Mời các ông các bà hãy xem giá hàng. Có những người tới xem giá hàng; lúc đi, tôi nghe thấy họ nói: Hàng hóa này chắc là đồ trộm cắp! Tự hắn nói rồi đó chứ còn gì! Giá như họ nhìn qua phía tôi, họ thấy mặt tôi đỏ bừng lên thì chắc họ biết rằng những lời ức đoán của họ rất có căn cứ. Mátchia thì nó thấy và ngay tối hôm đó, nó nói thêm về chuyện ấy, mặc dù từ trước tới nay nó tránh không đi thẳng vào vấn đề. Cậu chị mãi được sự sỉ nhục này chăng? Van cậu đừng có nhắc đến nếu cậu không muốn làm khổ tớ hơn nữa. Tớ có muốn thế đâu! Tớ muốn chúng mình trở về Pháp. Tớ nói mãi với cậu rằng thế nào cũng xảy ra tai vạ. Bây giờ tớ nhắc lại lần nữa và tớ cảm thấy tai vạ sắp giáng xuống rồi. Cậu phải hiểu rằng không chóng thì chầy, rồi cũng có ngày bọn cảnh sát muốn biết làm thế nào mà tiên sinh Đơrixcơn bán hàng của mình rẻ đến thế. Lúc bấy giờ sự thể sẽ ra sao? Mátchia tớ van cậu! Cậu đã không muốn mở mắt ra cho thấy, thì tớ phải nhìn thấy hộ cậu! Sẽ có ngày người ta tóm cổ ráo, cả cậu, cả tớ nữa, mặc dù chúng mình không làm gì nên tội. Làm sao chứng minh được rằng chúng ta không can dự vào? Làm sao tự bào chữa cho được! Không phải mình ăn thứ bánh mua bằng tiền bán những món hàng ấy hay sao? Tôi chưa hề nghĩ đến điều đó. Nó đạp vào tâm trí tôi như một nhát búa tạ ai nện lên óc. Tôi gắng gượng chống chế, không phải chống chế với Mátchia mà chống chế với cái ý nghĩ ấy. Tôi nói: Đúng đấy, - Mátchia đáp. - Nhưng có điều này cũng đúng tức là chúng ta hợp tác với những người ăn cái thứ họ không làm ra. Người ta sẽ vạch ra điều đó và người ta cũng chỉ vạch đến điều đó mà thôi. Chúng ta sẽ bị tù tội cũng như họ. Điều đó nhất định làm cho tớ đau khổ vô cùng vì bị cầm tù do tội trộm cắp, nhưng tớ còn đau khổ hơn nhiều nếu chính cậu bị như thế. Tớ, tớ chỉ là một đứa trẻ cùng khốn nghèo hèn, và rồi tớ cũng đến thế mà thôi, còn cậu. Khi tìm thấy gia đình, gia đình thật sự của cậu, gia đình cậu sẽ buồn tủi biết bao, cậu sẽ xấu hổ biết bao, nếu cậu đã bị tù tội! Vả lại, bị tù thì không có cách nào báo cho bà Miligơn hay cái việc ông Giem Miligơn mưu hại thằng Áctơ. Thôi thì chúng ta hãy chuồn đi trong khi còn kịp. Cậu chuồn đi! Cậu cứ nhai mãi cái chuyện dại dột ấy! Chuồn thì chúng ta cùng chuồn, hoặc bị tóm thì chúng ta cùng bị tóm. Chừng nào chúng mình bị tóm rồi - sắp đấy, không phải chờ đợi lâu đâu - chừng ấy, cậu sẽ chịu trách nhiệm làm liên lụy đến tớ. Rồi cậu xem cái trách nhiệm ấy có nặng nề không! Cậu khăng khăng đòi ở lại bên cạnh người ta mà có ích lợi gì cho người ta thì sự cứng đầu của cậu, tớ còn hiểu được. Đó là một cử chỉ đẹp đẽ. Đằng này, cậu chả cần thiết gì cho họ: Không có cậu, ngày trước họ vẫn sống, sau này họ cũng sẽ sống. Ta Đi mau mau đi thôi! Thế thì cậu hãy thư thư cho tớ vài ngày để tớ suy nghĩ rồi hãy hay. Phải nhanh lên! Yêu quái đánh hơi thấy thịt tươi, tớ đánh hơi thấy tai vạ. Chưa bao giờ lời lẽ và sự van nài của Mátchia làm tôi xúc động sâu sắc đến thế. Mỗi khi nghĩ đến thì tôi tự nhủ rằng thái độ do dự của tôi là hèn nhát, rằng bề nào thì tôi cũng phải quyết định đi, phải biết mình muốn gì mới được. Sự việc xảy ra đến về sau đã làm hộ tôi cái việc tự tôi không dám làm. Chúng tôi rời bỏ thành phố Lơnđơn đã mấy tuần rồi. Bây giờ chúng tôi đến một đô thị sắp mở hội đua ngựa. Đua ngựa ở Anh không giống như ở Pháp; ở Pháp đua ngựa là một trò giải trí cho kẻ giàu sang, họ đến để xem ba bốn con ngựa chạy thi, để cho người ta xem mình và để đánh cá dăm ba đồng bạc. Ở đây đua ngựa là một ngày hội dân gian của cả một vùng mà người ta đến không chỉ để xem ngựa chạy. Trên đồng hoang hay trên động cát dùng làm bãi quần, tự mấy ngày trước những đoàn xiếc, những người bói toán du phương, nhưng người bán hàng rong đã đến họp chợ. Mátchia và tôi với tư cách là nhạc sĩ, gia đình Đơrixcơn với tư cách là người buôn bán. Tuy nhiên, bố tôi không đến bãi quần, mà lại dọn hàng ngay trong thành phố. Có lẽ ông nghĩ ở đó hàng bán chạy hơn. Đến sớm và không bận vào công việc bày hàng, hai chúng tôi đi dạo xem bãi quần ở một cánh đồng cói gần thành phố. Nhiều lều vải đã được dựng lên, từ xa trông thấy những cột khói mỏng thì biết ngay địa điểm và ranh giới của bãi quần. Chúng tôi đi vào một con đường trũng, trong giây lát thì ra tới cánh đồng. Cánh đồng ngày thường cằn cỗi và trống hoang, chiều hôm nay lô nhô những nhà ván dùng làm quán rượu, quán ăn, những lều, những xe, có khi chỉ là những bếp lửa trại giữa trời, chung quanh đó chen chúc những người mặc quần áo đẹp lắm hình nhiều sắc. Chúng tôi vừa đi ngang một bếp lửa trại trên đó lủng lẳng một chiếc nồi, thì nhận thấy anh Bốp. Gặp chúng tôi, anh mừng rỡ khôn xiết. Anh đến hội đua với hai người bạnđồng nghiệp để biểu diễn tài nghệ và thể lực. Nhưng mấy nhạc sĩ đã hẹn với các anh ấy lại không giữ lời hứa, thành thử cái khoản thu hôm nay sẽ chả ra gì chứ không hời như các anh hy vọng. Anh bảo chúng tôi có thể giúp ích cho các anh nhiều lắm nếu chúng tôi vui lòng thay thế bọn nhạc sĩ kia: Tiền thu sẽ chia năm, lại có phần cho con Capi nữa. Mátchia liếc mắt sang tôi. Thấy con mắt nó, tôi biết rằng nhận lời anh Bốp thì nó sẽ khoái lắm. Vì chúng tôi được tự do muốn làm gì tùy thích, miễn là đem nhiều tiền về, nên tôi nhận lời. Hai bên giao hẹn sáng hôm sau đến cho các anh ấy bố trí công việc. Khi về, tôi báo cáo về việc thu xếp này với bố tôi thì xảy ra một trở ngại. Bố tôi bảo. Ngày mai tôi cần con Capi. Các anh không được mang nó theo! Nghe thấy thế, tôi đâm lo. Người ta muốn dùng con Capi vào một chuyện xấu xa đây chăng? Nhưng bố tôi đánh tan ngay sự lo lắng ấy: Con Capi thính lắm. - Ông nói. - Tiếng động nhỏ nào nó cũng nghe và nó biết giữ của giỏi. Nó giúp chúng ta coi xe rất tốt vì trong cảnh lộn xộn lắm kẻ lại người qua, ta có thể bị lấy trộm hàng. Vậy chỉ hai anh đi đánh đàn cùng với Bốp thôi. Nếu biểu diễn quá khuya - chắc là thế - thì các anh đến tìm tôi ở quán Cây Sồi Lớn; gia đình sẽ ngủ ở đó vì tôi định tối mai rời khỏi nơi đây. Quán Cây Sồi Lớn mà chúng tôi trọ đêm trước ở cách nơi này chừng một dặm (2). Quán dựng ở giữa cánh đồng trống, tại một nơi vắng vẻ, rùng rợn. Vợ chồng chủ quán có một vẻ khả nghi. Đường thẳng băng, tìm đến quán rất dễ, duy phiền một nỗi là sau một ngày làm việc mệt nhọc, đi thế cũng hơi xa. Nhưng đó không phải là một điều đáng lưu ý bố tôi: Ông không chịu để cho người ta cãi lại, ông đã bảo thì phải vâng, không được đối đáp. Sáng hôm sau, tôi dắt con Capi đi dạo một vòng, cho nó ăn uống để chắc chắn là nó không thiếu thốn gì. Xong tôi tự tay buộc nó vào trục bánh xe mà nó có bổn phận canh giữ, rồi hai đứa tôi đi đến bãi quần. Đến nơi thì chúng tôi vào chơi nhạc liền, và chơi suốt đến tối, không nghỉ ngơi. Mấy đầu ngón tay tôi đau buốt như bị châm ngàn mũi gai. Mátchia thì thổi kèn đẩy đến không thở ra hơi. Tuy thế vẫn cứ phải đánh đàn, phải thổi kèn: Anh Bốp và các bạn anh diễn xiếc không biết mệt, thì chúng tôi cũng phải chơi nhạc không biết mỏi. Đêm đến, tôi tưởng được nghỉ hóa ra vẫn chưa! Chúng tôi rời lều vải, đến một quán bằng gỗ ván, và ở đấy xiếc nhạc diễn lại càng hăng. Cứ thế cho đến quá nửa đêm. Tôi vẫn cào thụ cầm ầm ĩ, nhưng chẳng biết là mình đánh bản gì; Mátchia cũng không hơn gì tôi. Hàng chục lần, anh Bốp rao đây là biểu diễn cuối cùng, hàng chục lần chúng tôi diễn lại. Chúng tôi chỉ mới mệt mỏi, còn các anh ấy thì đã rã rời vì họ dùng sức nhiều hơn. Họ đã diễn hỏng vài tiết mục. Một lần cây gậy làm trò của họ đổ xuống bàn chân Mátchia. Đau quá, nó kêu thét lên. Tôi tưởng nó giập chân rồi. Anh Bốp và tôi xúm lại quanh nó. May quá, vết thương không đến nỗi nặng như tôi tưởng: Có bầm nát, rách da thịt, nhưng xương không bị giập. Tuy vậy Mátchia không đứng được. Làm thế nào bây giờ? Chúng tôi giải quyết là Mátchia thì cứ nằm ở lại xe anh Bốp, để một mình tôi về quán Cây Sồi Lớn. Tôi cần phải biết gia đình Đơrixcơn hôm sau đi đâu. Mátchia bảo: Đừng đi, Rêmi ạ! Mai chúng ta sẽ cùng đi với nhau! Nhỡ mai không tìm thấy người ta ở quán Cây Sồi Lớn thì thế nào? Càng hay! Chúng ta được giải phóng! Nếu tớ rời bỏ gia đình Đơrixcơn thì không phải bằng cách ấy! Vả lại, cậu tưởng họ không tìm thấy chúng ta ngay à? Cậu còn đi đâu được với bàn chân ấy? Ừ thì đi! Cậu đã muốn thế thì mai chúng ta đi. Nhưng đêm nay hượm đã, tớ sợ lắm! Sợ gì? Không biết. Tớ sợ cho cậu! Để tớ đi, Mátchia ạ! Tớ hứa với cậu mai sẽ trở lại! Lỡ ra họ giữ cậu lại thì sao? Để họ không giữ tớ được thì tớ gửi đàn cho cậu. Như thế tất họ phải để tớ trở lại lấyđàn. Và thế là mặc dù Mátchia lo ngại, tôi vẫn ra đi không chút e sợ. Sợ ai, sợ cái gì kia chứ? Ai người ta đòi gì, hỏi gì ở cái thằng cầu bơ cầu bất này! Tuy không chút sợ hãi, tôi vẫn thấy xúc động nhiều. Lần này là lần đầu tiên tôi thực sự cô đơn, không có con Capi, không có Mátchia bên mình. Tôi thấy khó chịu vì cô độc, tôi bàng hoàng khi nghe tiếng kêu huyền bí của đêm khuya. Nhìn lên gương trăng nhàn nhạt, tôi cũng thấy buồn. Tôi đi nhanh, mặc dù đương mệt, và cuối cùng đến quán Cây Sồi Lớn. Tôi kiếm mỏi mắt không thấy chiếc xe của gia đình tôi. Có hai, ba chiếc xe mui vải tồi tàn, một nhà gỗ ván và hai cỗ xe thấp, bên trong ấy vang ra tiếng thú dữ khi tôi đến gần. Nhưng hai chiếc xe xinh đẹp, sơn màu sắc lộng lẫy của gia đình Đơrixcơn thì không thấy đâu cả. Đi quanh quán, tôi thấy có ánh sáng ở một vòm cửa sổ gắn kính. Nghĩ rằng trong nhà còn có người thức, tôi gõ cửa. Người chủ quán có vẻ mặt gian giảo mà tôi để ý hôm trước đích thân mở cửa cho tôi. Hắn soi đèn thẳng vào mặt tôi. Hắn nhận ra tôi. Nhưng hắn không nhường lối cho tôi vào, mà cắp đèn đi sau lưng, hắn nhìn chung quanh nghe ngóng mấy giây rồi mới nói: Xe nhà anh đi rồi! Bố anh dặn đến gặp ông ta ở Lúitxơ, không được trì hoãn và phải đi suốt đêm. Thôi anh đi mạnh giỏi! Thế rồi hắn bỏ mặc tôi, đóng ngay cửa lại. Từ khi đến Anh, tôi đã học tiếng nước này Đủ để hiểu các câu ngắn đó. Tuy nhiên, có một tiếng không gợi cho tôi ý niệm nào cả, mà đó là tiếng quan trọng nhất. Lão chủ quán nói: Lúitxơ. Lúitxơ là nơi nào cơ chứ? Tôi chẳng biết mô tả ra sao cả, bởi vì tôi không hiểu ra rằng Lúitxơ là cách đọc theo tiếng Anh của Lewes, tên một thị xã có ghi trên bản đồ. Vả lại, có biết Lúitxơ ở đâu chăng nữa thì tôi cũng không thể bỏ Mátchia mà đến đó ngay. Bởi vì tôi phải trở lại bãi quần, dù đã mệt mỏi lắm. Tôi quay lại và một tiếng rưỡi đồng hồ sau thì tôi nằm trong xe anh Bốp trên một cái ổ rơm ấm, bên cạnh Mátchia. Tôi thuật lại sự việc vắn tắt cho nó nghe rồi ngủ thiếp đi vì mệt mỏi. Đánh một giấc mấy tiếng đồng hồ lại sức, sáng hôm sau tôi tươi tỉnh, sẵn sàng đi Lúitxơ nếu Mátchia - nó còn đương ngủ - có thể đi theo tôi. Tôi ra khỏi xe, lại chỗ anh Bốp. Anh dậy trước tôi, đương nhóm bếp. Tôi đương nhìn anh bò rạp xuống đất, phùng má thổi dưới nồi, thì thoáng thấy viên cảnh sát nắm dây con Capi dắt đi. Tôi sửng sốt đứng im, nghĩ thầm không biết có chuyện gì lạ vậy. Nhưng con Capi nhận ra tôi; nó đã giằng mạnh, làm dây tuột khỏi tay viên cảnh sát. Tức thời nó nhảy mấy nhảy đến bên tôi và vọt lên tay tôi. Viên cảnh sát đi đến, nói: Con chó này của anh phải không? Phải! Thế thì tôi bắt anh! Bàn tay hắn chộp lên cánh tay tôi, siết chặt. Lời nói và cử chỉ của viên cảnh sát khiến anh Bốp đứng lên. Anh bước tới, hỏi: Này! Vì cớ gì ông bắt em này! Anh là anh nó à? Không. Là bạn! Đêm qua, một người đàn ông và một thằng bé đã bắc thang leo qua một cửa sổ cao, vào trong nhà thờ Xanh GioócGiơ. Chúng đem theo con chó này để nó báo hiệu cho chúng, nếu có người đến phá đám. Sự việc quả đã xảy ra như thế. Bị bất ngờ chúng nhảy qua cửa sổ chạy trốn, không kịp mang con chó theo. Con chó không chạy theo chủ được bị bắt lại ở ngay nhà thờ. Dắt con chó đi, tôi biết chắc thế nào cũng bắt được bọn trộm, và tôi đã bắt được một đứa. Thằng bố giờ ở đâu? Tôi không biết viên cảnh sát hỏi anh Bốp hay hỏi tôi. Tôi không đáp, tâm thần thảng thốt. Tuy nhiên, tôi hiểu sự việc xảy ra như thế nào rồi. Dù không đúng tôi cũng nghiệm ra: Người ta bảo tôi trao con Capi cho người ta không phải để giữ xe hàng, mà để báo động cho những người vào lấy trộm trong nhà thờ, vì tai nó thính. Rồi cũng không phải chỉ để đến ngủ ở quán Cây Sồi Lớn cho khoái mà người ta cho xe khởi hành lúc chập choạng tối. Sau đó, xe không nghỉ lại ở quán là vì vụ trộm bị bại lộ, phải mau mau xa chạy cao bay. Tuy nhiên tôi thấy không nên nghĩ đến những kẻ phạm tội mà chỉ nên nghĩ đến mình. Họ có là ai thì tôi cũng vẫn tự bào chữa được và chứng minh được sự trong trắng của mình, không cần tố giác họ. Tôi chỉ cần báo cáo công việc làm từng giờ của tôi trong đêm ấy là rõ. Tôi lý luận thế. Trong khi đó Mátchia không biết vì viên cảnh sát nói hay nghe tiếng ồn ào mà thức dậy. Nó ra khỏi xe, đi tập tễnh đến bên tôi. Tôi nói với anh Bốp: Anh giải thích hộ cho ông ấy rõ tôi không phải là kẻ phạm tội vì tôi đã làm việc bên cạnh anh đến một giờ đêm. Sau đó, tôi đến quán Cây Sồi Lớn gặp ông chủ quán nói vài câu rồi đi ngay trở về đây. Anh Bốp dịch mấy lời tôi nói cho viên cảnh sát nghe. Nhưng viên cảnh sát không chấp nhận như tôi hy vọng, trái lại. Hắn ta nói: Chúng vào nhà thờ lúc một giờ một khắc. Thằng bé này xưng là nó ở đây lúc một giờ đúng hay kém mấy phút. Như thế nó có thể ở nhà thờ lúc một giờ một khắc, cùng với bọn trộm. Từ đây đi vào thành phố phải đi hơn một khắc - anh Bốp nói. Ồ! Chạy thì kịp. - Viện cảnh sát đáp. - Với lại ai chứng thực với tôi rằng nó đi lúc một Giờ? Tôi, tôi thề đấy! À, anh? Còn phải xem sự chứng thực của anh có giá trị như thế nào đã! Tôi lưu ý ông: Tôi là một công dân Anh. Viên cảnh sát nhún vai. Nếu ông lăng mạ tôi thì tôi viết bài đăng tờ Thời báo. Trong khi chờ đợi, tôi hẵng mang thằng bé này đi đã! Nó sẽ trình bày với quan tòa! Mátchia ôm lấy tôi, tôi tưởng để hôn. Nhưng không, nó thường lo chuyện thực tếtrước chuyện tình cảm. Nó rỉ tai tôi: - Hãy vững tâm! Chúng tớ không bỏ cậu đâu! Xong, nó mới hôn tôi. Tôi nói với nó bằng tiếng Pháp: "Hãy giữ con Capi lại!". Nhưng viên cảnh sát hiểu. Hắn nói: Không, không! Ta giữ con chó! Nó đã giúp ta bắt được chú mày, nó sẽ giúp ta tóm cổ những tên kia. Tôi bị bắt lần này là lần thứ hai, nhưng tôi cảm thấy nhục nhã ê chề hơn trước nhiều. Lần này không phải là một sự buộc tội vô nghĩa lý như vụ con bò sữa dù sau này người ta có xét thấy tôi vô tội và tha bổng đi nữa, để tôi không đau đớn thấy những người kia kết án đúng hay sao? Tôi phải đi qua giữa hai hàng rào người tò mò đến xem. Nhưng người ta không la ó, không hăm dọa chúng tôi như ở bên Pháp. Nhưng người đến xem đây không phải là nông dân mà toàn là những người dù ít dù nhiều đều đã có chuyện với cảnh sát. Đó là dân xiếc rong, dân hàng quán, dân bói du phương, tóm lại là dân lang thang. Cái nhà tù họ nhốt tôi không phải là một nhà tù trò chơi như cái trại giam chứa đầy hành năm trước. Cái nhà tù này là một cái nhà tù thực sự có cửa sổ chắn những song sắt lớn, chỉ mới nhìn thấy cũng đủ tiêu tan từ trong trứng mọi ý chí vượt ngục. Trong buồng giam tôi chỉ có một cái ghế dài để ngồi và một cái võng để ngủ. Tôi ngồi phịch xuống ghế, rũ rượi một lúc lâu, tôi nghĩ ngợi về cảnh ngộ của tôi, nghĩ lang bang không mạch lạch vì không tài nào kết ý này với ý kia và chuyển từ ý trước qua ý sau cho được. Hiện tại thật là kinh khiếp mà tương lai còn khôn xiết hãi hùng! Mátchia bảo: "Hãy vững tâm! Chúng tớ không bỏ cậu đâu!" Nhưng thử hỏi một chú bé như Mátchia thì làm nên trò trống gì? Hơn nữa, nếu anh Bốp vui lòng giúp Mátchia thì một người lớn hồ dễ làm được gì? Khi ở tù thì người ta chỉ có một ý định là ra tù. Không bỏ tôi và làm đủ mọi cách để giúp tôi thì Mátchia và anh Bốp có thể làm như thế nào để giúp tôi ra khỏi cái ngục kín này nhỉ? Tôi đến bên cửa sổ, mở ra, sờ mó những song sắt đóng chéo bên ngoài. Song sắt gắn cứng trong đá. Tôi xem xét từng vách tường dày gần một mét. Nền lất những tảng đá lớn. Cửa ra vào bọc một lớp tôn. Tôi lại quay về cửa sổ. Cửa sổ mở nhìn xuống một khoảng sân hẹp và dài, đằng đầu kia có một bức tường lớn bịt kín, ít nhất cũng cao đến bốn mét. Chắc hẳn là không thể trốn thoát cái nhà ngục này dù có được những bạn tận tâm giúp đỡ. Sự tận tình của bạn phá sao nổi cái thực tại gay gắt nơi đây? Sự tận tình không thể chọc thủng tường vách được! Với tôi bây giờ, vấn đề chỉ còn là tìm hiểu xem phải ở bao nhiêu lâu trong ngục này, trước khi ra trước quan tòa để định đoạt số phận. Ra đấy, tôi có thể chứng minh sự trong trắng của mình hay không, mặc dù con Capi bị bắt trong nhà thờ? Liệu tôi có thể tự bào chữa mà không cần phải vạch tội của những người mà tôi không muốn và không thể tố cáo hay không? Tất cả vấn đề của tôi là ở đó. Ở đó, và chỉ có ở đó thôi, là Mátchia và anh bạn Bốp của nó có thể giúp tôi. Vai trò của họ là thu thập những bằng cớ để chứng thực là lúc một giờ một khắc, tôi không thể có mặt ở nhà thờ Xanh Gioócgiơ. Nếu họ đưa được bằng chứng ấy thì tôi thoát nạn, bất chấp cái bằng chứng câm chống lại tôi, là con Capi tội nghiệp. Những bằng chứng ấy tôi cho là không phải tìm được. Chao ôi! Giá mà Mátchia không đau chân thì thế nào nó cũng biết sục sạo, xoay xở. Nhưng nó đau như thế thì có rời khỏi xe được không? Nó không đi lại được thì anh Bốp có sẵn lòng làm thay nó không? Tôi biết nhiều chuyện về những người tù tội, trong đó có một chuyện nói đến cách người bên ngoài dùng để liên lạc với người bị giam giữ: Người ta giấu những mảnh giấy con vào trong thức ăn mang từ ngoài vào. Có lẽ Mátchia và anh Bốp cũng dùng cách ấy. Chợt nghĩ thế tôi bẻ vụn miếng bánh khẩu phần ra. Nhưng tôi không tìm thấy gì cả. Cùng vớibánh, người ta có cho khoai tây. Tôi tán khoai tây ra bột và vẫn không thấy có mẩu giấy nhỏ nào. Chắc Mátchia và anh Bốp không biết nhắn gì với tôi, hoặc là điều này có phần chắc hơn, họ không thể nhắn gì với tôi được cả. Vậy hãy đợi đến mai thôi, đợi mà cố gắng đừng lo phiền quá đáng! Khốn thay! Tôi lại không thể không lo phiền! Tôi dám chắc rằng sau này, dù sống lâu đến bao nhiêu, tôi cũng vẫn nhớ cái đêm khủng khiếp tôi sống trong nhà ngục này như mới hôm qua thôi. Chao ôi! Tôi quả rồ dại đã không tin vào linh tính và sự lo lắng của Mátchia. Sáng hôm sau, viên cai ngục mang đến cho tôi một bô nước và một cái chậu. Lão ta bảo tôi rửa mặt nếu thấy thích, bởi tôi sắp ra trước tòa. Lão nói thêm rằng ăn mặc sạch chỉnh tề đôi khi là cách bào chữa tốt nhất của người bị cáo. Rửa ráy xong, tôi muốn ngồi xuống ghế. Nhưng không tài nào ngồi yên một chỗ được, tôi cứ loanh quanh trong buồng giam như con thú quay quay trong chuồng. Tôi định nghĩ sẵn những câu trả lời và những lý lẽ để bào chữa. Nhưng tôi hốt quá. Tôi không nghĩ đến hiện tại, chỉ vẩn vơ nghĩ đến đủ các thứ chuyện vô lý, chúng nó lần lượt diễu qua trong đầu óc mệt mỏi của tôi như những hình ảnh của một chiếc đèn chiếu. Người cai ngục trở lại, bảo tôi đi theo lão. Tôi đi bên cạnh lão ta, qua nhiều lần hành lang đến một cái cửa sổ nhỏ. Lão mở cửa nói: Vào đi. Một luồng không khí nóng hắt vào mặt tôi cùng với tiếng ồn ào không nghe ra gì cả. Tôi bước vào phòng và thấy mình đứng trước một phòng tòa án! Tôi đương ở trong một cơn mê hoảng, mạch máu ở thái dương đập như sắp vỡ. Tuy thế, nhìn quanh một vòng, tôi cũng trông thấy rõ ràng và đầy đủ cái phòng xử án và những người có mặt ở đấy. Phòng xử án khá rộng, trần cao, cửa sổ lớn. Phòng ngăn làm hai, một nửa dành cho tòa án, một nửa dành cho những người hiếu kỳ đển xem, quan tòa ngồi trên một bục cao. Trước mặt ông, thấp hơn một ít, có ba nhân vật tòa án nữa. Sau này tôi mới biết ba ông này, một ông là lục sự (3), một ông là thủ quỹ để lo về việc phạt tiền, và một quan tòa gọi là công tố viên (4). Trước kệ tôi đứng, có một nhân vật mặc áo thụng cài tóc giả, đó là vị trạng sư của tôi. Sao tôi lại có trạng sư? Ông ấy từ đâu đến với tôi? Ai đem ông ấy đến cho tôi đấy? Mátchia và anh Bốp chăng? Lúc này không phải là lúc xem xét các câu hỏi đó. Chỉ biết rằng tôi có một trạng sư, thế là đủ. Tôi nhìn thấy, trên một kệ khác, chính anh Bốp và hai đồng nghiệp của anh, người chủ quán Cây Sồi Lớn và mấy người khác mà tôi không quen biết. Trên kệ đối diện, tôi nhận ra viên cảnh sát đã bắt tôi; bên cạnh hắn ta có nhiều người khác. Tôi biết đó là những kệ dành cho người làm chứng. Phần dành cho công chúng đã chật người. Trên một bao lơn, tôi trông thấy Mátchia, bốn mắt chúng tôi giao nhau, quấn lấy nhau, thế là tôi tức khắc lại vững lòng. Tôi sẽ được bênh vực, chỉ cần về phần tôi đùng nản chí và phải tự bênh vực lấy mình. Tất cả những tia mắt chĩa vào người tôi bây giờ không đè bẹp được tôi nữa. Viên công tố đọc cáo trạng. Ông ta có vẻ vội vàng. Ông trình bày vắn tắt sự việc: "Một vụ trộm đã xảy ra ở nhà thờ Xanh Gioócgiơ. Bọn kẻ trộm, gồm có một người lớn và một đứa bé, đã dùng thang leo lên phá cửa sổ chui vào nhà, chúng mang theo một con chó để canh giữ và báo động khi có biến. Một khách qua đường khuya muộn - lúc ấy là một giờ một khắc Lấy làm lạ sao có chút ánh sáng le lói trong nhà thờ. Ông ta lắng tai và nghe thấy có tiếng răng rắc, tức thì ông chạy đi đánh thức viên coi nhà thờ. Có đông người đến. Nhưng con chó đã sủa lên và trong khi người ta mở cửa thì bọn trộm hoảng sợ đã nhảy cửa sổ chạy trốn. Chúng đã bỏ con chó lại, con chó không leo thang được. Viên cảnh sát Gierê dắt con chó đến bãi quần. Sự thông minh và mẫn cán của ông ta thì không thể hết lời ca ngợi được. Tại đấy, con chó đã nhận ra được chủ nó, tức là cái người bị cáo đương ngồi ở ghế trên. Còn tên trộm thứ hai thì đương bị truy nã". Viên công tố viên nêu một số lý lẽ để chứng minh rằng tôi phạm tội, rồi chấm dứt cáo trạng. Một giọng the thé thét lên: "Yêu cầu im lặng". Bây giờ, không quay sang phía tôi và như tự nói riêng với mình, quan tòa hỏi tên, tuổi, nghề nghiệp của tôi. Tôi đáp bằng tiếng Anh rằng tôi là Phơrăngxi Đơrixcơn, tôi ở với cha mẹ tôi ở Lơnđơn, khu Bétnơn Gờrin, sân Sư tử đỏ. Xong tôi xin phép được nói bằng tiếng Pháp bởi vì tôi lớn lên ở nước Pháp và mới đến nước Anh được mấy tháng. Quan tòa nghiêm giọng nói: - Đừng có mong lừa dối được bản chức! Bản chức biết tiếng Pháp! Thế là tôi kể câu chuyện của tôi bằng tiếng Pháp và tôi giải thích không thể nào tôi vào trong nhà thờ lúc một giờ đêm vì vào giờ ấy, tôi còn ở bãi quần ngựa và đến hai giờ rưỡi thì tôi đến quán Cây Sồi Lớn rồi. Thế anh ở đâu lúc một giờ một khắc? - Quan tòa hỏi. Đương trên đường đi! Đó là điều phải chứng nghiệm. Anh nói anh đương trên đường đi tới quán Cây Sồi Lớn mà bản cáo trạng thì khẳng định là anh ở trong nhà thờ. Đi từ bãi quần từ một giờ kém mấy phút, hẳn là anh đã đến với tên đồng lõa của anh dưới tường nhà thờ. Tên ấy đợi anh ở Đó với chiếc thang. Khi vụ trộm vỡ lở, anh mới đi đến quán Cây Sồi Lớn. Tôi gắng sức chứng minh rằng sự việc không thể xảy ra như thế được nhưng tôi thấy ông thẩm phán không có gì tin tôi. Ông hỏi: Thế anh giải thích việc con chó của anh có mặt trong nhà thờ như thế nào? Tôi không giải thích được vì chính tôi cũng không hiểu. Hôm qua, con chó của tôi không đi với tôi. Tôi buộc nó ở nhà, dưới gầm xe. Tôi thấy không tiện nói thêm vì tôi không muốn đưa dao cho người ta chém cha tôi. Tôi nhìn Mátchia, nó ra hiệu bảo tôi tiếp nhưng tôi không nói. Người ta gọi một nhân chứng. Người ta bảo người ấy thề trên sách Thánh ước là sẽ nói sự thật, không vì hằn thù mà cũng không vì đắm đuối. Đó là một người đứng tuổi, béo lùn, dáng dấp oai vệ lạ lùng mặc dù mặt ông ta đỏ, mũi ông ta tím. Trước khi thề, ông nhún gối thi lễ tòa án, rồi đứng lên có vẻ trịnh trọng lắm. Đó là viên coi nhà thờ Xanh Gioócgiơ. Ông ta bắt đầu nói rất nhiều về nỗi xúc động và niềm căm phẫn không bờ bến của Ông khi nghe người ta đến đánh thức ông đột ngột để báo rằng có kẻ trộm vào nhà thờ. Thoạt tiên ông ta nghĩ rằng người ta bày trò đùa ông, nhưng rồi nghĩ ai lại bày trò đùa với một người tư cách như ông, cho nên ông hiểu là có việc nghiêm trọng đã xảy ra. Ông vội vàng mặc áo, vội đến nỗi làm đứt phăng hai cúc áo gilê. Cuối cùng, ông chạy đến, ông mở cửa nhà thờ và ông thấy.. ai? Hay nói cho đúng: Gì? Một con chó. Tôi không đối đáp gì về những chuyện ấy, nhưng ông trạng sư của tôi từ đầu không nói gì bây giờ đứng lên. Ông vung đầu tóc, xốc áo và lên tiếng hỏi: Tối hôm trước, ai đóng cửa nhà thờ? Tôi. - Viên coi nhà thờ đáp. - Đó là nhiệm vụ của tôi! Ông có chắc thế không? Khi tôi làm việc gì thì tôi biết chắc là tôi làm việc đó! Còn khi ông không làm? Thì tôi biết chắc là tôi không làm! Tốt lắm! Thế thì ông có thể thề rằng ông không nhốt con chó ấy trong nhà thờ khi ông đóng cửa, hay không? Nếu con chó ở trong nhà thờ, thì tôi đã thấy! Mắt ông có tốt không? Mắt tôi như mắt mọi người. Trước đây sáu tháng, có phải ông đã xông vào một con bê bụng mổ phanh treo trước cửa hàng một anh đồ tể, có phải không? Viên coi nhà thờ tím mặt hét: Tôi không thấy sự quan trọng của một vấn đề như thế đặt ra với một người tư cách Như tôi. Xin ông hết sức chịu khó trả lời y như thể vấn đề đó là quan trọng. Đúng là tôi có đụng phải một con vật treo một cách vụng về ở cửa hàng anh đồ tể! Thế nghĩa là ông không thấy nó? Lúc ấy tôi bận trí. Khi ông đóng cửa nhà thờ, chắc ông đã ăn tối? Hẳn rồi! Thế khi chui vào con bê, ông đã ăn tối chưa? Ái chà.. Ông bảo ông chưa ăn tối à? Ăn rồi chứ? Ông uống bia nhẹ hay bia mạnh? Bia mạnh. Mấy chai lớn. Hai. Không bao giờ nhiều hơn? Có khi ba? Không khi nào bốn? Không khi nào sáu? Họa hoằn thôi! Ông không uống nước đường pha rượu mạnh sau bữa tối? Cũng có một đôi khi.. Ông ưa pha nhiều rượu hay loãng? Không loãng lắm! Mấy cốc? Tùy. Ông có sẵn sàng thề rằng không lúc nào ông uống đến ba hoặc bốn cốc hay không? Vì viên coi nhà thờ cứ mỗi lúc càng tím mặt, không trả lời nữa, ông trạng sư ngồi Xuống. Ông vừa ngồi xuống vừa nói: Cuộc khẩu vấn này tạm đủ để xác minh rằng con chó đó có thể bị ông thủ từ nhốt lại trong nhà thờ, ông ấy sau bữa tối đã từng không nhìn thấy con bê vì bị bận trí. Đó là tất cả điều tôi muốn biết. Nếu tôi bạo gan, hẳn tôi đã ôm ông trạng sư của tôi mà hôn. Tôi được cứu thoát rồi Đây! Sao con Capi lại không bị viên thủ từ nhốt vào nhà thờ kia chứ? Có thể lắm! Mà nếu nóđã bị nhốt theo cách ấy thì hẳn là không do tôi đưa vào. Như vậy, nghĩa là tôi không có tội, vì chỉ có sự kiện ấy buộc tội tôi mà thôi. Sau đó, tòa nghe những người chứng về phía tôi khai. Đó là anh Bốp, hai người bạn và người chủ quán. Ai cũng nói về giờ giấc làm việc của tôi đêm hôm đó. Tuy nhiên vẫn còn một điểm quyết định, ấy là cái giờ chính xác tôi rời bãi quần ra đi. Lấy cung xong, quan tòa hỏi tôi có muốn nói gì không và bảo cho tôi biết là tôi có thể không nói nếu thấy im lặng là hơn. Tôi đáp rằng tôi bị oan, mong nhờ lượng tòa minh xét. Bấy giờ quan tòa cho đọc biên bản những người hỏi cung mà tôi vừa nghe. Rồi ông tuyên bố sẽ cho rời tôi đến nhà lao tỉnh, để đợi đại hội đồng thẩm án quyết định có đưa tôi ra xử trước tòa đại hình hay không? Tòa đại hình ư? Tôi bủn rủn khuỵu xuống ghế. Chao ôi! Sao tôi không sớm nghe lời Mátchia?
Chương 39 Bấm để xem Bị đưa về nhà lao một lúc lâu, tôi mới tìm thấy lý do vì sao tôi không được tha bổng: Đó là vì quan tòa muốn chờ bắt được những người đã vào nhà thờ để xem tôi có đồng lõa với họ không! Ông ủy viên công tố có nói người ta đang theo vết họ. Thế là tôi sẽ đau đớn xấu hổ ngồi bên cạnh họ khi ra phiên tòa đại hình. Bao giờ đây? Khi nào người ta đưa tôi đến nhà lao tỉnh. Nhà lao ấy thế nào? Ở đâu? Nó có buồn thảm hơn nhà lao này không? Trí óc tôi mải bận rộn về những câu hỏi ấy cho nên thì giờ đi nhanh hơn hôm qua. Tôi không còn nôn nóng đến phát sốt lên, đến cháy ruột cháy gan nữa; tôi hiểu rằng phải chờ đợi. Khi thì đi đi lại lại, khi ngồi nghỉ trên ghế dài, tôi đợi. Lúc gần tối, tôi nghe một hồi kèn đẩy và nhận ra đó là lối chơi kèn của Mátchia. Thằng bé tốt quá, nó muốn tin cho tôi biết là nó nghĩ đến tôi và đang rình chờ. Hồi kèn bay qua trên đầu bức tường chắn đằng trước cửa sổ mà vọng đến tôi. Tất nhiên là Mátchia đứng bên kia tường ở ngoài phố và chỉ có một khoảng cách ngắn chừng dăm ba thước, giữa hai chúng tôi. Khốn nạn thay, mắt chúng tôi không xuyên qua tường được. Nhưng mắt không xuyên tường thì tiếng vượt tường. Lẫn với tiếng kèn, có tiếng chân người, tiếng huyên náo. Tôi đoán có lẽ Mátchia và anh Bốp biểu diễn ở đó. Tại sao họ chọn chỗ này nhỉ? Vì đắt khách hay chỉ để nhắn giúp cho tôi? Thình lình tôi nghe một giọng trong trẻo, giọng Mátchia nói lớn bằng tiếng Pháp: "Ngày mai, lúc tảng sáng!". Rồi tức khắc tiếng kèn đẩy lại vang lên, ồn ào hơn nữa. Không cần động não lắm cũng biết rằng Mátchia không nói câu: "Ngày mai, lúc tảng sáng" với công chúng người Anh của nó. Nó nói với tôi đấy! Ngược lại không dễ gì đoán ra ý nghĩa của mấy tiếng ấy! Tôi lại tự đặt mình một loạt câu hỏi mà không tìm được những câu trả lời cho hợp lý. Chỉ có mỗi một điều này là rõ ràng cụ thể: Đó là sáng hôm sau, lúc tinh mơ, tôi phải thức dậy và sẵn sàng. Từ bây giờ cho đến lúc đó, chỉ có việc cố gắng đừng sốt ruột. Trời vừa tối tôi lên võng nằm, cố ngủ. Tôi nghe đồng hồ điểm liên tiếp mấy lần, cuối cùng tôi thiếp đi. Lúc thức dậy thì đêm đang dày đặc sao lấp lánh trên vòm trời mờ mịt, bốn bề lặng ngắt. Chắc là còn lâu mới tới sáng. Tôi đến ngồi trên ghế, chứ không dám đi lại sợ người ta chú ý nếu người ta đi tuần. Tôi ngồi chờ. Lát sau, một tiếng đồng hồ nào đó điểm tuần ba tiếng. Hóa ra tôi đã thức dậy quá sớm. Tuy nhiên tôi không dám ngủ lại, vả lại, dù có muốn ngủ bao nhiêu đi nữa, tôi cũng không thể nào chợp mắt được: Tôi nóng ruột quá, tôi bàng hoàng quá! Công việc độc nhất của tôi lúc đó là đếm những tiếng chuông đồng hồ. Nhưng cái thời gian mười lăm phút từ khi điểm khắc, rồi từ khắc đến giờ, đối với tôi sao nó lâu thế, lâu đến nỗi có lúc tôi tưởng mình đã không nghe thấy tiếng chuông hoặc là đồng hồ bị hỏng. Tôi tựa lưng vào vách, dán mắt lên cửa sổ. Ngôi sao tôi quan sát hình như bớt sáng và da trời đã nhờ nhờ trắng ra. Trời đang sắp sáng rồi, xa xa có tiếng vọng lại. Tôi đứng lên, kiễng gót đi lại mở cửa sổ. Mở cho đừng cót két là một việc tinh vi, nhưng kéo nhẹ tay và thật chậm rốt cục tôi cũng làm xong. May mắn sao, cái hầm giam này lại là một cái phòng thấp cũ, đã từng dùng làm ngục giam và người ta chỉ cần giữ tù bằng song sắt, chứ nếu cửa sổ hầm giam đóng chặt thì tôi không thể nào đáp lại được tiếng gọi của Mátchia. Nhưng mở xong cửa sổ chưa phải là hết. Còn những thanh sắt, còn những bức tường dày và cái cửa bọc tôn! Hy vọng được giải thoát là điên rồ, tuy thế tôi vẫn hy vọng. Sao trời càng mờ nhạt dần và khí lạnh ban mai khiến tôi run lên. Nhưng tôi không rời cửa sổ, cứ đứng đấy trông tìm, nghe ngóng, không biết trông tìm nghe ngóng gì đây. Một bức màn trắng mênh mông kéo lên giữa trời. Trên mặt đất, vạn vật đã hiện lên gần rõ hình rõ dáng. Lúc này đúng là lúc tảng sáng mà Mátchia nói. Tôi nín thở lắng tai nghe, nhưng chỉ nghe thấy tiếng quả tim tôi đập trong lồng ngực. Cuối cùng tôi nghe như có tiếng cọ xát trên tường. Nhưng vì trước đây không có tiếng chân người đi lại, nên tôi ngỡ mình đã nghe nhầm. Tuy vậy, tôi vẫn nghe ngóng. Tiếng cọ xát vẫn vọng lại. Rồi thì một cái đầu người đột ngột nhô lên trên đỉnh tường. Tôi thấy ngay không phải là đầu Mátchia. Dù trời còn tờ mờ tôi cũng nhận đó là đầu anh Bốp. Anh thấy tôi dán chặt người vào song sắt bèn "xuỵt" một tiếng khe khẽ. Rồi anh đưa tay làm hiệu cho tôi đi ra cửa sổ. Không hiểu đầu đuôi gì hết, tôi vẫn làm theo anh bảo. Bấy giờ tôi mới thấy tay kia anh cầm một cái ống dài và sáng loáng như làm bằng thủy tinh. Anh đưa cái ống lên mồm. Tôi hiểu đó là ống xì đồng. Tôi nghe một hơi thổi đồng thời thấy một viên trăng trắng bay vụt đến rơi dưới chân tôi. Cái đầu anh Bốp cũng biến mất ngay tức khắc sau bức tường và tôi không nghe thấy gì nữa. Tôi vồ lấy viên bi. Đó là một tờ giấy mỏng vấn nhiều lớp bọc quanh một viên chì lớn. Hình như có chữ viết trên giấy, nhưng trời còn mờ sáng chưa đọc được. Tôi phải chờ đến sáng. Tôi rón rén đóng cửa sổ lại rồi vội vã nằm lên võng, tay giữ chặt viên giấy. Chậm chạp, rất chậm chạp, càng quá chậm chạp đối với lòng tôi nôn nóng. Bình minh ửng vàng và cuối cùng một ánh sáng hồng nhạt lướt đến trên tường. Tôi mở tờ giấy ra đọc: "Tối mai cậu sẽ bị dời đến nhà lao tỉnh. Cậu sẽ đi tàu hỏa trong một toa hạng nhì, có một viên cảnh sát áp giải. Cậu hãy ngồi gần cái cửa lên xuống của toa tàu. Khi đã chạy được bốn mươi lăm phút (nhớ tính cho đúng) thì tàu đi chậm lại để vượt qua một ngã ba. Bấy giờ Cậu mở cửa ra và mạnh dạn nhảy xuống. Cậu phóng ra, đưa hai tay về phía trước và làm thế nào để chân xuống trước. Tới đất rồi thì leo ngay lên con đê đất bên trái, chúng mình đợi ở đấy với một cỗ xe và một con ngựa tốt để đưa cậu đi. Đừng sợ gì cả. Hai hôm sau thì chúng ta Trên đất Pháp rồi. Hãy tin tưởng và vững lòng. Cần nhớ nhất là phải phóng ra cho xa và rơi xuống đất bằng hai chân". Thoát rồi! Tôi không còn phải ra trước tòa đại hình, tôi không còn phải thấy những gì diễn ra ở đó! Ồ! Cái thằng Mátchia quý hóa! Cái anh Bốp tốt bụng sao! Chắc là anh ấy hào hiệp giúp Mátchia chứ còn gì nữa! "Chúng mình đợi ở đấy với một con ngựa tốt" một mình Mátchia hẳn không bố trí nổi một kế hoạch này. Tôi đọc lại mảnh giấy: Bốn mươi lăm phút sau khi tàu chạy; con đê đất bên trái, hai chân xuống trước, ừ, tôi sẽ mạnh dạn phóng xuống hẳn đi chứ lị, có chết cũng không cần. Thà chết còn hơn bị kết án về tội ăn trộm. Chao ôi! Nghĩ được cái kế hoạch này thì ghê gớm thật: "Hai hôm sau thì chúng ta đã ở trên đất Pháp rồi". Tuy nhiên trong cơn hứng khởi, tôi có một niềm lo buồn: Đó là về khoản con Capi. Nhưng tôi vội xua ngay niềm lo lắng ấy. Không có lý nào Mátchia bỏ con Capi! Nó đã tìm được cách giải thoát cho tôi thì tất cũng tìm được cách cho con Capi. Tôi đọc đi đọc lại mảnh giấy ba bận nữa rồi vò lại, nhai nuốt. Bây giờ thì chỉ có việc ngủ yên. Tôi ngủ kỹ đến nỗi chỉ thức dậy khi người cai ngục mang cơm đến. Thời giờ trôi đi khá nhanh, xế chiều hôm sau, một viên cảnh sát lạ mặt vào buồng giam của tôi, bảo tôi đi theo ông ta. Tôi vui mừng nhận thấy ông ấy vào khoảng năm mươi, trông người không còn nhanh nhẹn nữa. Tôi cố làm đúng theo lời dặn của Mátchia và khi tàu chạy thì tôi ngồi gần cái cửa lên xuống phía ngược hướng tàu chạy. Người cảnh sát ngồi ngay trước mặt tôi. Trong toa chỉ có ông ta và tôi. Ông hỏi: Anh nói được tiếng Anh? Chút ít thôi! Người ta nói, anh nghe hiểu không? Cũng tàm tạm, khi người ta không nói nhanh quá! Thế thì, chú bé ạ, tôi muốn khuyên chú một điều này: Đừng nên gian ngoan với pháp luật, cứ thú tội là tốt nhất: Anh thú tội sẽ được cảm tình của mọi người. Không gì khó chịu bằng những tên cứ chối cãi sự thật hiển nhiên, cho nên những người thú tội thì được hưởng đủ mọi thứ chiếu cố và ân huệ. Nói giả dụ như tôi đây, nếu anh kể sự việc như thế nào cho tôi nghe, tôi sẽ biếu ngay anh một đồng bạc. Và anh sẽ thấy tiền bạc làm cho đời sống của anh trong chỗ tù ngục sẽ dễ chịu hơn chừng nào. Tôi toan nói tôi không có tội gì mà phải thú cả. Nhưng nghĩ lại tốt nhất là nên gây cảm tình với ông ta, như ông ta nói, cho nên tôi không đáp. Ông ta nói tiếp: Chú cứ suy nghĩ, ở trong nhà lao, chừng nào chú đã nhận thấy lời khuyên bảo của tôi là đúng đắn thì chú nhờ người ta gọi tôi đến. Bởi vì không nên bạ ai cũng thú tội mà phải chọn cái người quan tâm tới chú, và tôi, thì chú đã thấy đó, tôi sẵn sàng giúp đỡ chú. Tôi gật đầu. Cứ bảo gọi ông Đơnphin. Chú nhớ tên tôi chứ? Thưa ông, vâng. Tôi tựa vào cửa. Tấm kính đã mở, tôi xin phép ông ta nhìn xem phong cảnh những vùng tàu vừa đi qua. Vì ông muốn "gây cảm tình" với tôi nên ông ta bảo tôi cứ việc trông ngắm tha hồ. Ông ta còn sợ gì chứ? Con tàu chạy nhanh là thế! Được một lát, gió thốc vào mặt khiến ông thấy lạnh bèn rời chỗ cửa đến ngồi giữa toa. Phần tôi thì không thấy lạnh. Tôi nhẹ nhàng luồn tay trái ra ngoài, vặn quả nắm, còn tay phải thì giữ cánh cửa không cho bật ra. Thì giờ trôi qua. Tàu huýt còi và chậm lại. Thời cơ đã đến, tôi xô mạnh cửa, cố sức nhảy ra xa. Tôi rơi xuống cái rãnh bên đường. May thay, hai tay tôi đưa ra trước chạm phải bờ đất phủ cỏ. Tuy vậy, tôi bị ném xuống mạnh quá đến nỗi lăn ra bất tỉnh. Khi tỉnh lại, tôi ngỡ mình còn đi trên tàu hỏa vì cảm thấy vẫn lao nhanh và nghe có tiếng bánh xe lăn. Tôi nằm trên một ổ rơm. Lạ chưa! Mặt tôi ướt át, và có cái gì êm êm, ấm ấm, mơn trớn má tôi, trán tôi. Tôi mở mắt: Một con chó, một con chó vàng xấu xí cúi xuống mặt tôi và liếm. Mắt tôi gặp mắt Mátchia! Nó quỳ bên cạnh tôi. Nó đẩy con chó ra, ôm hôn tôi và nói. Cậu sống rồi! Ta ở đâu đây? Trên xe ngựa! Anh Bốp đánh xe. Thế nào? Có sao không? - Anh Bốp ngoảnh lại hỏi. Em không biết. Có lẽ không việc gì! Co tay, duỗi chân xem. Đang nằm dài trên ổ rơm, tôi làm theo lời anh bảo. Tốt lắm! - Mátchia nói. - Không trật gẫy chỗ nào cả! Nhưng sự việc đã diễn ra như thế nào? Cậu đã nhảy tàu, như tớ dặn, bị ném mạnh cậu ngất đi và lăn xuống cái rãnh bên vệ Đường. Anh Bốp không thấy cậu, bèn tuột khỏi bờ đê xuống tìm, còn tớ thì giữ ngựa. Anh ấy bế thốc cậu lên. Chúng tớ tưởng cậu chết rồi chứ! Sợ quá. Buồn quá! Nhưng bây giờ thì cậu sống rồi! Còn lão cảnh sát! Lão ta đi thẳng với đoàn tàu. Tàu không dừng lại. Tôi đã biết những điều thiết yếu. Trông quanh, tôi thấy con chó vàng nhìn tôi âu yếm; mắt nó giống mắt con Capi, nhưng nó không phải Capi và Capi là con chó trắng. Tôi hỏi: Thế còn con Capi, nó đâu rồi? Mátchia chưa kịp đáp thì con chó vàng đã nhảy lên người tôi, liếm tôi, mặt giàn giụa nước mắt. Nó đấy mà! - Mátchia nói. - Chúng mình nhuộm lông nó đấy! Tôi vuốt ve con chó và hôn nó. Tại sao cậu nhuộm lông nó? Đó là cả một câu chuyện để tớ kể cho cậu nghe. Em đánh ngựa đi, và cố kèm nó. Trong lúc đó thì anh thu xếp cái xe thế nào để đi qua cái cổng gác, người ta không nhận ra. Cái xe này có mui bằng vải phủ lên những chiếc vành hình cánh cung. Anh Bốp giở vành ra xếp vào xe, gấp tư tấm bạt, và bảo tôi che lên người. Đoạn anh bảo Mátchia trốn dưới tấm bạt. Nhờ thế, chiếc xe thay hình đổi dạng hẳn: Nó không có mui nữa và chỉ chở một người chứ không phải ba. Nếu người ta đuổi theo chúng tôi thì chắc người ta phải lạc hướng vì những lời mách bảo của kẻ qua đường. Khi Mátchia đã nằm bên cạnh tôi thì tôi hỏi: Chúng ta đi đâu thế này? Đi Laitơnhemtơn. Đó là một hải cảng nhỏ, ở đấy anh Bốp có người anh làm thuyền trưởng một chiếc thuyền chở bơ, trứng ở xứ Noóc-măng-đi bên Pháp. Chúng mình mà trốn thoát được - mà chắc chắn là thoát - là nhờ công anh Bốp. Anh ấy làm tất cả. Chứ cái thằng tớ thì giúp gì được cho cậu! Chính anh Bốp có sáng kiến xui cậu nhảy tàu, chính anh ấy thổi cái giấy của tớ vào cho cậu và cũng chính anh thuyết phục bạn anh cho chúng ta mượn con ngựa này. Sau hết, cũng chính anh ấy xoay cho ta một chiếc thuyền để sang Pháp vì chắc cậu biết nếu cậu đi tàu máy thì bị tóm ngay. Cậu thấy có bạn tốt có sướng không? Thế còn con Capi, ai có sáng kiến bắt nó đấy? Tớ! Nhưng anh Bốp lại nghĩ ra cái việc nhuộm nó ra màu vàng để người ta không nhận ra. Chúng tớ đã trộm nó ở tay lão cảnh sát Giêre, lão Giêre thông minh, như ông quan tòa đã bảo ấy mà! Nhưng lần này thì lão ta không được thông minh cho lắm, vì lão để chúng tớ cuỗm mất con Capi mà không biết. Thực ra thì chính con Capi đã làm hầu hết mọi việc khi nó đánh hơi thấy tớ, vả lại anh Bốp thì anh ấy biết hết thủ đoạn của bọn bắt trộm chó. Chân cậu ra sao rồi? Khỏi rồi, nghĩa là gần khỏi. Tớ không có thì giờ nghĩ đến nó. Xe cộ đi trên đường sá nước Anh không được tự do như ở nước Pháp, ở đây từng chặng có những trạm gác, muốn đi qua thường phải nộp một món tiền. Đến mỗi trạm, anh Bốp lại bảo chúng tôi lặng im và đừng động đậy, thế là những người gác cổng chỉ thấy chiếc xe trần cùng với một người đánh xe. Anh Bốp nói với họ vài câu pha trò rồi đi qua. Với cái thuật vẽ mặt làm hề, anh đã cải dạng thành một nông dân khéo đến nỗi người quen biết anh nhất cũng không nhận ra khi nói chuyện với anh. Chúng tôi đi khá nhanh vì con ngựa chạy hay và anh Bốp đánh xe giỏi. Tuy nhiên, cũng phải dừng lại để cho con ngựa thở một chút và cho nó ăn ít nhiều. Chúng tôi không nghỉ ở quán. Anh Bốp cho dừng xe giữa rừng, cởi cương giàm cho con ngựa, lấy túi lúa trong xe tròng vào cổ nó. Đêm tối mịt, không lo bị lộ. Bây giờ tôi mới nói chuyện được với anh Bốp và cảm ơn anh bằng vài lời xúc động. Nhưng anh không để nói tôi nói hết những tình cảm tràn ngập trong lòng. Anh siết tay tôi nói: Chú đã giúp tôi, bây giờ đến lượt tôi giúp chú, có đi có lại! Vả lại chú là anh em của Mátchia, đối với cái chú bé ngoan ấy thì gì mà người ta không làm để giúp đỡ chứ! Tôi hỏi anh đã gần đến bến tàu hay chưa. Anh đáp còn phải đi chừng hai tiếng nữa, cho nên phải vội lên; thuyền của anh anh đi ngày thứ bảy, đi sớm vì hình như thủy triều lên sớm, mà hôm nay đã thứ sáu rồi. Chúng tôi lại lên ổ rơm, chui vào dưới tấm bạt và con ngựa đã hồi sức lại tế nước đại vượt lên. Cậu có sợ không? - Mátchia hỏi. Cũng có, nhưng cũng không! Tớ rất sợ bị bắt lại, nhưng chắc là không đâu! Trốn đi không phải là thú nhận có phạm tội hay sao? Đó là điều day dứt tớ nhất. Rồi sẽ chống cãi thế nào chứ? Chúng tớ cũng có nghĩ đến điều đó. Nhưng anh Bốp cho là phải làm tất cả để cậu khỏi phải ra ngồi trên ghế bị cáo trước tòa đại hình. Đã ra đó, dù có được trắng án đi nữa cũng buồn lắm. Tớ thì tớ chẳng dám nói gì cả vì sẵn có ý định đưa cậu về Pháp, tớ chỉ sợ cái Định đó lái tớ làm sai. Cậu làm đúng. Dù xảy ra gì nữa, tớ cũng chỉ biết ơn cậu và anh Bốp. Chẳng xảy ra gì đâu, cậu cứ yên tâm. Khi tàu dừng lại thì viên cảnh sát làm báo cáo. Nhưng họ tổ chức cho xong việc truy nã cũng còn lâu, trong khi đó thì chúng ta đã rông xa, vả lại, họ không thể biết chúng ta rời bến ở Laitơnhemtơn. Nếu người ta không đuổi theo chúng tôi thì đúng là chúng tôi sẽ xuống thuyền một cách yên ổn. Nhưng tôi không dám tin chắc như Mátchia, rằng khi tàu dừng lại, viên cảnh sát còn phải mất thì giờ mới đuổi theo chúng tôi được. Cái nguy là ở đó và có thể nguy lớn. Tuy nhiên dưới bàn tay cứng cáp của anh Bốp, con ngựa vẫn tiếp tục phóng nước đại trên con đường vắng vẻ. Thỉnh thoảng thôi, chúng tôi mới gặp một đôi chiếc đi ngược chiều, chứ không có cái nào vượt chúng tôi. Thôn xóm vắng lặng, họa hoằn mới có một cửa sổ để lọt ánh sáng muộn màng. Chỉ mấy con chó chú ý đến xe chúng tôi và sủa đuổi theo. Lên khỏi một dốc thấp, anh Bốp dừng xe cho ngựa thở; chúng tôi leo xuống, áp tai trên mặt đất nghe ngóng. Ngay Mátchia tai nhạy hơn cả cũng không nghe thấy tiếng động gì khả nghi. Chúng tôi đi trong bóng tối và sự vắng lặng của cảnh đêm. Bây giờ thì hai đứa tôi nằm trong tấm bạt không phải để trốn con mắt thiên hạ nữa, mà vì rét. Gió bấc lạnh đã thổi khá lâu rồi. Đưa lưỡi lên môi thấy có vị mặn: Thế là chúng tôi đã đến gần biển. Lát sau chúng tôi thấy một ánh đèn rất sáng ẩn hiện đều đều. Đó là một ngọn đèn biển, chúng tôi đã đến đích. Anh Bốp dừng ngựa, cho đi bước một vào một con Đường tắt. Rồi anh xuống xe, bảo chúng tôi giữ ngựa, đợi ở đấy. Anh phải đến xem thử anh anh còn ở bến không, và đáp nhờ thuyền như thế có ngại gì không? Anh Bốp vắng mặt sao mà lâu quá, dài dằng dặc! Chúng tôi không nói chuyện. Gần Đâu đây, tiếng sóng vỗ bờ đều đều càng làm chúng tôi xúc động thêm. Mátchia cũng run, y như tôi. Nó thầm thì: Vì rét đấy! Có chắc vì rét không? Cái chắc là khi có một con bò hay một con cừu ở đồng cỏ hai bên đường chạm phải một viên đá hay một hàng giậu, chúng tôi lại thấy rét hơn, nghĩa là run nhiều hơn. Cuối cùng, chúng tôi nghe thấy tiếng chân người trên con đường anh Bốp đã đi. Chắc là anh ấy trở về. Số phận tôi sắp quyết định đây rồi. Anh Bốp không đi một mình. Khi anh đến gần, chúng tôi thấy có người đi với anh. Người đó mặc một chiếc áo varơi bằng vải dầu và đội một cái mũ len không vành. Anh Bốp nói: Anh mình đấy! Anh ấy sẵn lòng cho hai chú đáp nhờ thuyền. Anh ấy sẽ đưa các chú đến bến. Chúng ta chia tay nhau ở đây thôi vì không cần để cho người ta biết là mình có đến đây. Tôi muốn cảm ơn anh Bốp. Nhưng anh bắt tay tôi để ngắt lời tôi. Anh nói: Đừng có nói làm gì cái việc ấy! Phải giúp nhau, khi thì chú, khi thì tôi, thế thôi! Ngày khác chúng ta gặp lại nhau. Giúp được Mátchia là tôi sung sướng rồi! Chúng tôi đi theo người anh anh Bốp. Lát sau, vào những phố vắng lặng trong thị trấn, quanh co một lúc thì đến bờ kè, gió biển phả vào mặt. Anh anh Bốp không nói gì, đưa tay chỉ chiếc thuyền đã kéo buồm. Tôi hiểu đó là thuyền của anh. Mấy phút sau, chúng tôi đã Trên thuyền. Anh đưa chúng tôi xuống một cái buồng con, bảo: Hai tiếng nữa tôi mới nhổ neo. Các chú ở đây và cố giữ im lặng. Khi anh đã khóa cửa buồng, Mát-chi-a im lặng ngả vào lòng tôi và hôn tôi. Nó không run nữa.