Không Gia Đình - Hector Malot

Thảo luận trong 'Văn Học' bắt đầu bởi Cute pikachu, 23 Tháng mười hai 2021.

  1. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,892
    Chương 20: Tôi làm vườn

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Người ta định sáng hôm sau thì chôn cất cụ Vitali và ông bố Lidơ hứa sẽ dắt tôi đi đưa đám cụ.

    Nhưng ngày hôm sau, thật ức quá! Tôi không dậy được vì trong đêm tối đã lên một cơn sốt nặng. Thoạt đầu tôi rùng mình ớn lạnh trong người, sau đó thấy nóng bừng. Tôi cảm thấy như có lửa nung trong ngực. Tôi nghĩ rằng tôi đã mắc bệnh y như con Giôlicơ sau cái đêm nó ngủ trên cây, dưới mưa tuyết.

    Thật vậy, tôi sưng phổi nặng do bị cảm lạnh trong cái đêm mà cụ chủ đáng thương của tôi bỏ mạng. Chính trận sưng phổi ấy làm cho tôi nhận rõ lòng tử tế của gia đình ông Acanh, nhất là sự tận tâm của Êchiênnét.

    Mặc dù thường thường những người nghèo không ưa mời thầy thuốc mấy, nhưng vì tôi lên cơn kịch liệt quá, khủng khiếp quá, nên lần này nhà bác Acanh phải phá bỏ lệ cũ. Người thầy thuốc được mời đến không phải mất công khám nghiệm lâu, không cần hỏi triệu chứng chi tiết, cũng nhận ra chứng bệnh tôi. Ông bảo ngay là phải đưa tôi đi bệnh viện. Cách đó thì tiện lợi và đỡ phiền phức. Tuy vậy ông Acanh không đồng ý. Ông nói:

    Thằng bé đã đến ngã trước cửa nhà chúng tôi chứ có phải trước cửa nhà thương làm phúc đâu. Bởi vậy chúng tôi phải giữ nó ở đây để chạy chữa cho nó.

    Ông thầy thuốc dùng nhiều lời lẽ ân cần để đánh đổ cách lập luận theo thuyết tiền định ấy; nhưng những lời lẽ ấy không làm cho ông chủ vườn lung lay. Ông bảo nhất định phải giữ tôi ở nhà và ông đã giữ tôi ở nhà. Thế là ngoài công việc thường ngày, Êchiênnét lại nhận thêm cái việc chăm sóc người bệnh. Chị dịu dàng và chăm sóc có phương pháp, luôn luôn kiên nhẫn và chu đáo. Khi chị phải rời giường tôi để làm việc nhà thì Lidơ thay thế cho chị; lắm khi trong lúc sốt tôi trông thấy em ngồi ở cuối giường mở đôi mắt to nhìn tôi lo ngại. Tinh thần hoảng loạn vì mê sảng; tôi tưởng em là thần hộ mệnh của tôi. Tôi nói với em những ước mơ, những ham muốn của tôi như nói với thiên thần. Cũng từ lúc ấy mà đi, tôi quen coi em như một nhân vật thần kỳ, rạng ánh hào quang; tôi lấy làm ngạc nhiên thấy emsống như chúng tôi, ở giữa chúng tôi và tôi chờ cái phút mà em bay bổng lên với đôi cánh trắng to rộng.

    Bệnh tình của tôi kéo dài và làm cho tôi đau đớn vật vã đêm ngày, đôi lúc lại đột ngột trở nặng. Cứ tình hình ấy dù là cha mẹ đẻ đi nữa cũng phải ngã lòng. Thế mà chị Êchiênnét thì không hề bớt kiên nhẫn, bớt tận tâm. Nhiều đêm người nhà phải thức trông tôi bởi vì ngực tôi nặng đến nỗi lúc nào cũng tưởng sắp bị nghẹt thở. Những lúc ấy, Alơxi và Bănggiamanh thay phiên nhau ngồi bên giường.

    Cuối cùng tôi cũng bước vào giai đoạn bình phục. Nhưng vì bệnh kéo dài và hay trở chứng cho nên phải chờ cho đến khi mùa xuân trở về làm xanh những đồng cỏ khu Gơlaxixe, tôi mới dám bước chân ra khỏi nhà. Bấy giờ thì em Lidơ thay thế cho chị Êchiênnét, vì em không phải làm lụng. Chính em đưa tôi đi dạo trên bờ sông Bievơrơ. Khoảng trưa, khi mặt trời ấm nhất thì chúng tôi ra đi. Tay nắm tay, Lidơ và tôi thong thả đi bước một, con Capi theo sau. Năm ấy mùa xuân êm đềm và đẹp đẽ lạ. Cũng có lẽ sự thật không hoàn toàn như thế, nhưng cái cảm tưởng mà tôi giữ lại về mùa xuân ấy là thế thì có khác gì.

    Cái khu nằm giữa tòa Nhà trắng và đồng Gơlaxie người Pari ít biết đến. Người ta chỉ biết mơ màng đâu ở chốn ấy có một thung lũng nhỏ mà thôi. Vì con sông chảy qua thung lũng là sông Bievơrơ ở đoạn nó chảy qua khu công nghiệp Xanh Mácxen chứ không phải trên bộ mặt tự nhiên của nó, khi nó chảy qua Varie hay Rongít.

    Không biết bây giờ thì thế nào chứ thưở ấy thì sông Bievơrơ chảy dưới hai hàng liễu và bạch dương rậm rạp. Ở hai bên bờ, những đồng cỏ xanh trải ra thoai thoải cho đến tận chân mấy ngọn đồi nhỏ đằng xa, trên ấy nhà cửa chen với vườn tược. Mùa xuân cỏ tươi lên ngồn ngộn, và đây đó trên tấm thảm bích ngọc, hoa cúc dại điểm những nụ trắng hình sao. Trên những cành liễu đương trổ lá, trong các cây bạch dương đầy lộc ứ nhựa dẻo, lũ chim sáo, chim bạc má, chim mai hoa bay liệng chập chờn. Tiếng hát líu lo của chim chóc chứng tỏ rằng đây còn ở thôn quê chứ chưa vào thành thị.

    Đấy, tôi nhìn thấy cái thung lũng ấy như thế đây, và hình ảnh ấy mãi mãi về sau trong ký ức tôi vẫn còn tươi mới như thưở ban đầu. Nếu tôi là họa sĩ, tôi sẽ vẽ cho các bạn xem rặng bạch dương không sót một cây nào, cùng với những cây liễu to có những cây phúc bồn tử gai góc, rễ bám vào thân liễu cỗi, lá vườn xanh rờn trên đầu ngọn liễu. Tôi sẽ vẽ những bờ nghiêng của mấy công sự, trên ấy chúng tôi co một chân và trượt một cách say sưa.

    Tôi sẽ vẽ cái Đồi chim giẽ với chiếc cối xay gió, cái sân Xanhtêlen với các chị thợ giặt, những xưởng thuộc đã làm hôi bẩn nước sông và cái trại tá điền Xanhtannơ; những người điên dại đáng thương trồng trọt ở trại này thường đi qua một bên chúng tôi với nụ cười ngớ ngẩn, đôi tay buông xuôi, mặt mày nhăn nhó, đầu lưỡi thò ra ngoài cái miệng để hở.

    Trong những cuộc đi chơi ấy, Lidơ không nói năng gì, dĩ nhiên. Cái lạ là đến tôi cũng đâm ra không nói gì nốt, vì chúng tôi không cần nói nên lời, chỉ đọc trong mắt nhau thôi cũng đủ hiểu nhau, lâu dần thành quen.

    Sức khỏe của tôi dần dần hồi phục, và đã đến lúc tôi làm vườn được. Bấy nay tôi sốt ruột trông cho mau đến cái ngày đó bởi vì tôi muốn mau chóng được làm bù lại cho người ta những cái người ta đã làm cho mình! Tôi muốn làm việc cho họ, cố gắng làm được chừng nào hay chừng ấy để đền đáp những cái họ đã cho tôi. Từ trước tới nay tôi chưa lao động bao giờ. Đi những đoạn đường dài cũng thật là mệt nhọc đấy, nhưng đó không phải là một thứ công việc liên tục đòi hỏi người ta phải bền bỉ và chăm chỉ. Tuy thế tôi vẫn tin rằng tôi sẽ lao động giỏi, hay ít nhất cũng dũng cảm lao động như những người chung quanh tôi.

    Tiết này là tiết hoa yên chi bắt đầu được bày bán ở các chợ trong thành phố Pari. Bác Acanh tiết này cũng trồng yên chi đầy vườn; thứ thì hoa đỏ, thứ hoa trắng, thứ hoa tím. Mỗi loại cùng nhau trồng thành từng khoảng cách dưới lồng kính, thành thử có những luống trắng lốp bên cạnh những luống đỏ rực trông rất đẹp mắt. Buổi chiều, khi chưa đậy lồng kính thì không khí ngan ngát mùi hoa.

    Người ta đã liệu cắt cho tôi một công việc vừa với sức yếu của tôi. Đó là việc giở những tấm cửa kính lên, buổi sớm khi sương giá đã tan, đậy lại buổi chiều khi sương giá sắp xuống, và khi nắng lên thì lấy rơm rải lên mặt kính để che cho yên chi khỏi bị nắng hun. Cái công việc ấy không khó, cũng không nhọc lắm, duy mất nhiều thời giờ vì có những mấy trăm tấm cửa phải đóng mở hàng ngày và phải coi chừng luôn để che cho mát hay dỡ cho quang tùy lúc nắng gắt hay dịu.

    Trong khi tôi làm những việc ấy thì Lidơ ở bên cái guồng múc nước tưới: Con ngựa già Côcốt mang mặt nạ da che mắt đi vòng quanh mãi cũng có lúc đâm chán, nên bước chậm lại; mỗi lần như thế thì Lidơ vút cây roi da dê giục nó. Một trong hai anh của Lidơ nghiêng gàu trút nước, những gàu nước do guồng máy kéo lên, còn anh kia thì giúp bố. Như vậy mỗi người đều có một phần việc và không ai để uổng phí thì giờ.

    Tôi đã thấy người nông dân ở làng tôi làm việc nhưng tôi chưa hề tưởng tượng những người làm vườn vùng lân cận Pari dũng cảm và cần mẫn như thế nào. Họ thức dậy trước khi mặt trời mọc, đi ngủ sau khi mặt trời lặn rất lâu, cả một ngày dài đằng đẵng như thế, họ luôn luôn làm việc không tiếc sức, còn làm được chừng nào thì cứ làm. Tôi cũng từng thấy người ta trồng trọt từ lâu rồi, nhưng rồi tôi chưa hề lường được sản lượng của đất đai khi người ta làm việc không ngừng tay, không để cho đất nghỉ. Ở với bác Acanh tôi học tập được những điều ấy.

    Người ta không bắt tôi phải mãi mãi chăm lo các lồng kính. Càng ngày tôi càng khỏe ra. Đã đến lúc tôi cũng được gieo trồng một cái gì xuống đất, điều ấy làm cho tôi rất vui sướng, càng vui sướng hơn nữa khi thấy những cây tôi gieo mọc lên. Cây ấy là công trình, là sự nghiệp, là kết quả sáng tạo của tôi, tôi kiêu hãnh vì nó. Thế là tôi cũng được việc đấy chứ, tôi cũng có ích đấy chứ! Tôi đã chứng thực điều ấy, hơn nữa tôi cảm thấy như thế, và tôi tự hào lạ! Đúng thế các bạn ạ, cái cảm giác ấy làm cho mình quên hết bao nỗi khó nhọc.

    Cách sống mới này tuy có nhọc nhằn hơn trước, tôi cũng chóng quen. Cảnh sống bây giờ khác hẳn với cái đời lang thang của người xiếc rong ngày trước. Ngày trước tôi chạy nhảy tự do không phải làm lụng khó nhọc gì ngoài việc xăm xăm đi tới phía trước, trên các nẻo đường dài. Bây giờ phải ở trong vườn giữa bốn bức tường, phải làm việc vất vả từ sáng đến tối, áo đẫm mồ hôi, hai tay xách hai thùng tưới nặng, chân giẫm trên các lối đi nhầy nhụa những bùn lầy. Nhưng mà xung quanh tôi, ai cũng làm việc vất vả như thế cả. Thùng tưới của ông bố nặng hơn thùng tôi, áo ông cũng ướt mồ hôi hơn áo chúng tôi. Gian khổ mà cùng chung chịu thì cũng thấy đỡ gian khổ đi nhiều, vả lại ở đây, tôi được sống cái không khí gia đình êm ấm đã tưởng không bao giờ được hưởng. Tôi không còn lẻ loi, không phải là đứa trẻ bị vứt bỏ nữa. Tôi có giường riêng của tôi, tôi có chỗ ngồi của tôi ở bàn ăn gia đình. Cũng có đôi khi trong lúc làm việc, Alơxi hay Bănggiamanh bớp tôi một cái. Tay chúng buông xuống thì tôi cũng quên ngay, không giận gì chúng, cũng như chúng nó, chúng nó không nhớ không thù những cú đánh trả. Và buổi tối chung quanh nồi xúp nóng, chúng tôi lại là bạn, là anh em.

    Nói cho đúng thì không phải lúc nào cũng chỉ có lao động vất vả. Chúng tôi cũng có những giờ phút nghỉ ngơi và giải trí, ngắn thì quả là ngắn, nhưng càng ngắn càng thú vị.

    Ngày chủ nhật, xế trưa, chúng tôi quây quần dưới giàn nho kế tiếp hiên nhà. Tôi đi lấy cây đàn treo trên đanh và đánh cho bốn chị em Lidơ nhảy, cả bốn người đều không học khiêu vũ. Nhưng Alơxi và Bănggiamanh đã dự một buổi dạ vũ sau lễ cưới ở khách sạn Thiên Trụ và nhớ lõm bõm mấy bước. Chúng dựa trên trí nhớ, mày mò dựng lại bài vũ. Nhảy chán thì chúng yêu cầu tôi hát những bài hát quen thuộc của tôi. Khi ấy, khúc hát miền Naplơ lại làm cho Lidơ cảm xúc, trăm lần như một.

    Cửa sổ thấp.. mà chủ lầu khắc nghiệt.

    Không bao giờ tôi hát đến đoạn cuối cùng mà Lidơ không ứa nước mắt. Thế là tôi diễn một hài kịch với con Capi để làm cho em khuây khỏa. Đối với con Capi cũng thế, những ngày chủ nhật ấy là những ngày hội. Những ngày ấy đưa nó trở về cái thời hoạt động năm xưa, cho nên khi đóng xong vai trò của nó một lần rồi thì nó chỉ chực đóng lại lần nữa.

    Đối với tôi, những ngày chủ nhật ấy cũng là những ngày tưởng nhớ tới cụ Vitali. Tôi đánh đàn tôi hát y như có cụ ở bên tôi. Ôi! Cụ Vitali kính yêu! Tôi càng lớn lên càng kính mộ vong linh cụ, càng hiểu rõ công ơn của cụ đối với tôi.

    Hai năm tròn đã trôi qua như thế. Bác Acanh thường dẫn tôi đi chợ, đi bến Hàng Hoa, nhà thờ Mađờlen, lầu chứa nước, hoặc đi lại các cửa hàng của những chị hàng hoa trong thành phố để mang cây cảnh đến cho họ, dần dà tôi biết Pari. Tôi thấy rằng Pari không phải là thành phố vàng và cẩm thạch như tôi tưởng tượng khi chưa đến, nhưng nó cũng không phải là một thành phố bùn lầy như tôi đã vội hình dung ra khi đi vào từ phía Sarăngtông, qua khu phố Muphơta. Tôi trông thấy nhiều công trình kiến trúc. Tôi đã đi vào xem một số những lâu đài ấy. Tôi đi chơi dọc bờ sông, trên các đại lộ, trong vườn Luyxăngbua; và vườn của cung điện Tuylơri ở quảng trường Săng Êlydê. Tôi được xem nhiều pho tượng. Thấy dòng người cuồn cuộn như thác chảy, tôi khôn xiết kính phục. Tôi bắt đầu cố ý niệm về cuộc sống của một thủ đô lớn.

    Tôi học bằng mắt trong lúc có công việc cần phải đi hay trong những cuộc đi chơi phiếm. Nhưng việc giáo dục của tôi, may thay, không phải chỉ có thế.

    Trước khi tự mình làm cái vườn của mình, - bác Acanh đã làm việc ở khu ươm cây vườn bách thảo. Ở đấy bác được tiếp xúc với nhiều nhà khoa học, nhiều người nghiên cứu. Sự gần gũi ấy làm cho bác cũng hóa ra có chí ham đọc sách, ham học hỏi. Năm này qua năm khác, bác dành tiền để mua sách và dùng thì giờ rỗi rãi để đọc sách. Khi bác lập gia đình và sinh con đẻ cái, cái thời giờ rảnh rang trở nên hiếm lắm. Trước hết phải lo chạy bữa cho vợ con. Bởi vậy bác không đọc sách nữa, nhưng không để mất cũng không bán đi. Bác cất lại trong một cái tủ. Mùa đông đầu tiên của tôi trong gia đình ấy dài lắm; mùa này công việc vườn tược trong vòng mấy tháng tuy không gác hẳn nhưng cũng thưa đi. Để dùng thì giờ những buổi tối ngồi quanh lò sưởi, bác Acanh rút những quyển sách ngày xưa ở trong tủ ra, đem phân phát cho chúng tôi. Sách ấy phần lớn là sách về thực vật học, về lịch sử cây cỏ, cùng với dăm ba quyển du ký.

    Alơxi và Bănggiamanh không nối trí ham học của bố. Tối nào cũng vậy, giở đọc đến trang thứ ba thứ tư là các cậu ngủ gà ngủ gật trên trang sách bỏ dở. Phần tôi, ít mê ngủ hơn và cũng ham hiểu biết hơn, tôi đọc mãi cho đến giờ cả nhà đi ngủ. Những bài vỡ lòng tôi học với cụ Vitali thật đã không uổng phí, tôi tự nhủ như thế khi ngã lưng xuống giường và tôi nghĩ đến cụ với lòng trìu mến vô hạn.

    Thấy tôi ham học như thế, bác Acanh tưởng nhớ lại thời bác bớt hai xu vào tiền bữa ăn trưa để mua sách. Bởi vậy, thêm vào số sách sẵn có trong tủ, thỉnh thoảng bác mua một vài quyền trên phố mang về cho tôi. Gặp dịp, hoặc thấy tên sách hay hay thì bác mua chứbác cũng chả lựa chọn gì. Tuy vậy, nó vẫn là sách và dù thưở ấy có nó làm cho đầu óc không phương hướng của tôi ngổn ngang bề bộn đi nữa, thì sau này sự bề bộn cũng mất đi, và những cái hay cái tốt trong sách thì còn lại và còn mãi tới nay. Đúng đọc sách là bao giờ cũng có lợi.

    Lidơ không biết đọc. Nhưng thấy tôi rảnh giờ nào là cặm cụi đọc sách giờ ấy, em tò mò muốn biết cái gì trong sách làm cho tôi thích thú đến thế. Ban đầu, em muốn thu mấy quyển sách ấy, vì nó không để cho tôi chơi đùa với em. Nhưng thấy làm thế nào tôi cũng trở lại với sách, em bảo tôi đọc cho em nghe, rồi bày cho em đọc. Em bị câm, nhưng được cái thông minh, nhờ vậy tôi có thể dùng mắt thay thế cho tai để kiểm tra em và cũng đi đến kết quả. Tuy thế em vẫn thích tôi lên tiếng đọc to, làm cho cả hai người cùng làm việc. Thế là thêm một sợi dây ràng buộc chúng tôi với nhau. Tư tưởng mải quay vào cuộc sống bên trong, trí óc luôn luôn chờ làm việc, không vướng bận những cái phù phiếm trong đời, những sự chuyện trò lăng nhăng nhảm nhí, Lidơ hẳn đã tìm thấy một cách giải trí, một món ăn tinh thần.

    Chúng tôi đã sống với nhau bao nhiêu thời khắc như vậy: Tôi thì đọc còn em thì ngồi trước mặt tôi nghe, mắt không rời tôi. Nhiều khi gặp những chữ, những đoạn tôi không hiểu thì tôi dừng lại nhìn em. Thế là cả hai chúng tôi cố sức tìm hiểu, một đôi khi mất khá nhiều thì giờ.

    Khi nào tìm mãi vẫn không hiểu ra thì em lấy tay ra hiệu bảo tôi đọc tiếp và cố ý nói:

    "Sau này hẵng hay".

    Tôi cũng dạy cho em học vẽ nữa, hay nói cho đúng, làm cái việc mà tôi gọi là vẽ. Việc ấy mất nhiều thì giờ và khá gay go nhưng rồi cũng đạt kết quả. Đành rằng cái anh thầy này chả ra vẻ thầy gì, nhưng bù lại thì thầy và trò hiểu nhau sâu sắc: Sự ăn ý giữa thầy và trò nhiều khi lại được việc gấp mấy tài năng. Thật vui biết bao nhiêu khi qua mấy nét quệt ra, mọi người nhận được em muốn hình dung cái gì! Bác Acanh ôm tôi vào lòng, cười và nói: "Này, này bác nhận cháu thế mà hóa ra khôn đấy! Thôi để sau này em Lidơ sẽ đền ơn cháu".

    "Sau này" có nghĩa là lúc Lidơ nói được, bởi vì trong nhà không hề bỏ cái ý định chữa chạy cho em nói được. Duy thầy thuốc họ nói rằng hiện nay thì còn đành phải chịu và đợi đến lúc có xảy ra một sự biến động nào đó ở nơi con bệnh.

    "Sau này" cũng là cái ý mà bàn tay Lidơ rầu rầu bảo với tôi những lúc tôi hát cho em nghe. Lidơ muốn học đánh thụ cầm và mấy ngón tay em bắt chước tay tôi một cách mau chóng. Em lại muốn học hát nữa, nhưng dĩ nhiên là không được, vì thế em uất ức lắm. Đã bao lần thấy mắt em ứa lệ, tôi biết là em buồn khổ. Nhưng bản tính em thuần hậu, dịu dàng nên em không sầu não triền miên. Em gạt nước mắt mỉm cười nhẫn nại và đưa tay ra hiệu bảo: Sau này.

    Được làm con nuôi bác Acanh, được con cái bác coi như anh em ruột, hẳn tôi đã ở đấy mãi mãi nếu không xảy ra một tai họa làm cho cuộc đời của tôi phải thay đổi một lần nữa. Lúc tôi đã chắc mẩm là được bình yên hơn hết thì cũng là lúc mà tôi sắp bị ném trả trở lại cuộc đời phiêu lưu vô định, bởi những biến cố ở ngoài ý chí tôi.
     
  2. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,892
    Chương 21: Gia đình tan tác

    Bấm để xem
    Đóng lại
    .. Tôi đã nói là bác Acanh giồng hoa yên chi. Giồng thứ hoa ấy không khó lắm, những người giồng hoa quanh Pari đều giồng hoa yên chi rất tốt, bằng chứng là mỗi năm cứ đếntháng ba tháng tư, họ mang ra chợ những cây cảnh sum xuê phủ đầy hoa từ gốc đến ngọn. Người giồng vườn chỉ cần nắm cho được kỹ thuật chọn cây hoa kép, vì khách hàng không mua hoa đơn. Hạt giống gieo xuống thường thường một nửa mọc cây hoa kép, một nửa mọc cây hoa đơn, cho nên nếu biết giữ lại rất những cây sẽ trổ hoa kép thì có lợi lớn. Không thế thì đành phải phí công của chăm nom cho một số cây bằng nữa tổng số, rồi đến khi cây bắt đầu trổ hoa thì phải vứt đi, nghĩa là sau một năm trời chăm bón. Người ta phân biệt cây hoa kép và cây hoa đơn bằng cách quan sát mấy đặc tính trên lá và trên dáng cây, ít người chủ vườn biết cách chọn lọc ấy; hơn thế, đó là một bí quyết lưu truyền riêng trong một số gia đình. Khi người làm vườn cần lọc cây hoa kép thì họ nhờ những bạn đồng nghiệp có nắm bí quyết ấy giúp đỡ, vì thế, đến tiết lọc yên chi thì những bác này được chỗ này mời, chỗ kia rước đèn để hỏi ý kiến, y như một bác sĩ hay một chuyên viên.

    Bác Acanh là một trong những người lọc yên chi sành nhất thành Pari. Bởi vậy, đến mùa lọc hoa, bác đi cả ngày. Những ngày ấy là những ngày buồn của chúng tôi, nhất là đối với chị Êchiênnét. Giữa bạn đồng nghiệp làm vườn, không bao giờ người ta đi đến với nhau mà không cùng nhau đánh cạn một chai lít, có khi cả hai ba chai nữa kia. Thành thử khi ông bố đã đến nhà vài ba ông bạn thì y như là lúc về, mặt ông đỏ gay, tay run rẩy, giọng nói lè nhè.

    Đêm đêm, hễ ông bố chưa về thì chị Êchiênnét chưa đi ngủ, dù có khuya đến mấy cũng thế. Lúc ấy, nếu tôi còn thức, hay tôi tỉnh giấc dậy vì tiếng khua động của ông, thì nằm trong buồng tôi nghe rõ tiếng hai cha con họ nói chuyện với nhau. Ông bố hỏi:

    Sao con chưa đi ngủ đi con?

    Con chờ xem bố có cần gì không!

    À, ra cô cảnh sát theo dõi tôi đấy!

    Con không thức đợi bố thì bố biết chuyện trò với ai?

    Con muốn coi thử bố đi đứng có thẳng người không chứ gì? Thế thì coi đây này! Bố cược với con rằng bố đi từ đây lại buồng lũ nhỏ mà không bước chệch ra ngoài hàng gạch lát kia cho mà xem.

    Tôi nghe có tiếng giày khập khiễng bước cao bước thấp vang lên ở phía nhà bếp, và sau đó thì yên lặng. Rồi tiếng ông bố lại hỏi:

    Em Lidơ có chơi không?

    Có! Em ngủ ngon. Bố chịu khó đừng làm ồn, em nó giật mình!

    Bố có làm ồn đầu, bố đi ngay ngắn thế mà! Bố phải đi bước đi ngay ngắn chứ, vì mấy đứa con gái bố chỉ chực buộc tội bố thôi mà! Khi thấy bố không về ăn cơm tối thì bé Lidơ bảo gì nào?

    Không bảo gì cả! Em nó chỉ nhìn cái ghế bỏ trống của bố!

    A! Nó nhìn cái ghế của bố?

    Vâng.

    Nhiều lần à? Nó có nhìn ghế của bố nhiều lần không?

    Nhiều.

    Rồi nó nói thế nào?

    Đôi mắt em nói rằng bố không về.

    Rồi thì em nó hỏi con vì sao bố không về và con nói với nó rằng bố ở chơi nhà mấy ông bạn, phải không?

    Không, em nó không hỏi gì con hết, và con cũng không nói gì với em hết! Em nó biết rõ là bố ở đâu.

    Nó biết ư? Nó biết rằng.. Bé đã vào buồng ngủ ngoan chứ?

    Không đâu! Mãi nó mới ngủ, cách đây mười lăm phút thôi! Nó cứ muốn thức đợi bố.

    Còn con, con muốn gì?

    Con muốn em nó đừng thấy cái lúc bố về.

    Êchiênnét, con có hiếu lắm! Này nhé, mai bố đến bác Luidơ, để rồi con xem! Bố hứa với con, con nghe chưa? Bố hứa từ nay bố sẽ về ăn tối với các con. Bố không muốn con phải chờ bố nữa, và bố cũng không muốn em Lidơ của con vật vã khi ngủ.

    Nhưng những lời nguyền lời hứa không phải lúc nào cũng có hiệu lực và ông Acanh lại cứ về muộn mỗi khi ông nhận uống một cốc vang; ở nhà thì ông chiều Lidơ nhất nhất, rađi thì ông quên nó. Ông nói:

    "Con biết không, không tiện từ chối bè bạn, người ta uống một cốc, không lấy làm nhiều cho lắm. Đã uống cốc thứ nhất thì lại uống cốc thứ hai, và lúc ấy bố đã kiên quyết không uống cốc thứ ba, nhưng chén trong kéo chén ngoài, đã uống thì càng thấy khát, vả lại rượu bốc lên đầu, đã ngà ngà thì quên hết ưu phiền, quên cả chủ nó. Mọi việc đều sáng sủa. Người ta thoát xác để đi chơi ở một thế giới khác, thế giới mong muốn. Và thế là người ta lại uống. Nó thế đấy."

    Cũng phải nói rằng chuyện ấy không xảy ra thường xuyên. Vả lại mùa lọc yên chi cũng ngắn thôi, mùa qua rồi thì bác Acanh không vắng nhà nữa vì không có chuyện gì phải

    Đi. Ông không phải là người la cà quán rượu, lười biếng tìm cách giết thời giờ.

    Mãn mùa yên chi thì chúng tôi chuẩn bị những loại hoa khác. Lệ của người làm vườn là không để một tấc đất trống: Thứ cây này vừa đánh lên bán thì cây khác phải thay ngay vào.

    Cái thuật của người trồng hoa bán chợ là ở chỗ mang hoa đến chợ đúng lúc cao giá nhất. Đó là lúc có những ngày lễ lớn trong năm: Lễ Thánh Pie, lễ Thánh Mari, lễ Thánh Lui. Những người đặt tên là Pie, là Mari, là Lui hay Luidơ thì nhiều lắm, cho nên số bó hoa, chậu hoa bán trong những ngày lễ đó để cho người ta mang đi chúc mừng bạn bè thân thuộc cũng không kể xiết. Mọi người đều thấy hôm trước ngày lễ trên các đường phố Pari tràn ngập những hoa, không những ở hàng hoa, ở chợ, mà còn ở vỉa hè, ở góc phố, ở bậc tam cấp các thềm nhà, ở nơi nào có thể bày bán được.

    Sau mùa yên chi thì chúng tôi lo hoa cho các ngày lễ tháng bảy và tháng tám, nhất là tháng tám, trong đó có lễ thánh Mari và Thánh Lui. Chúng tôi sửa soạn hàng nghìn gốc cúc đại đóa, lục lạc, trúc đào, hễ lồng kính vườn nhà chứa được bao nhiêu thì trồng bấy nhiêu. Những gốc cây ấy phải ra hoa đúng hạn, nếu sớm quá thì tàn trước khi bán, muộn quá thì không nở kịp ngày lễ. Vì thế mà nghề trồng hoa đòi hỏi người ta phải có tài, bởi vì ai làm chủ được thời tiết nắng mưa? Bác Acanh là bậc thầy trong nghề hoa: Không bao giờ hoa của bác nở trước hay nở sau dịp lễ. Nhưng muốn được thế, phải tốn biết bao công sức và mồ hôi!

    Năm ấy, mùa hoa xem chừng thuận lắm. Bấy giờ là ngày mùng năm tháng tám, các loại hoa của chúng tôi đều đã đến kỹ. Ở giữa trời, cúc đại đóa hé nụ để chực nở và dưới các mặt kính đã quét vôi rất đều để làm dịu bớt ánh sáng, lục lạc cũng bắt đầu trổ hoa. Nom các cây ấy giống như những bụi rậm hay những hình tháp điểm đầy nụ từ trên xuống dưới: Cảnh tượng trông đến đẹp mắt. Chốc chốc ông bố lại xoa tay đắc ý. Ông nói với hai cậu con: "Mùa hoa này tốt ra phết!" Và vừa mỉm cười ông vừa tính nhẩm số tiền bán lứa hoa kia.

    Để đạt kết quả như vậy, chúng tôi đã phải vất vả bao nhiêu, phải làm việc luôn tay, không nghĩ một giờ một khắc nào, kể cả ngày chủ nhật. Bây giờ thì mọi việc đều làm đến nơi

    Đến chốn, đâu vào đấy cả rồi. Để thưởng công cho chúng tôi bác Acanh quyết định ngày chủ nhật mồng năm tháng tám ấy thì cho cả nhà đi chơi và ăn tối ở nhà ông bạn của bác cũng làm vườn ở Áccơi. Cả con Capi cũng được dự. Chúng tôi sẽ làm việc đến ba bốn giờ chiều, xong đâu đấy thì chúng tôi sẽ khóa trái cửa cổng lại và vui vẻ lên đường. Như thế khoảng năm sáu giờ chiều, chúng tôi đến Áccơi. Ăn cơm xong sẽ quay về ngay để khỏi phải đi ngủ quá khuya. Vì ngày thứ hai phải dậy sớm, phải tươi tỉnh bắt tay vào công việc.

    Vui này còn vui nào hơn?

    Mọi việc tiến hành như đã định và đến bốn giờ kém vài phút thì ông bố khóa cửa lớn, phởn phơ nói:

    Nào tất cả chúng ta! Lên đường đi thôi.

    Capi tiến lên.

    Tôi hô thế rồi dắt tay Lidơ chạy lên, con Capi chạy theo nhảy nhót quanh chúng tôi vừa sủa oang oang đắc chí. Có lẽ nó tưởng rằng chúng tôi sẽ đi lang thang lâu dài, nó thích cái đó hơn là cứ ở nhà mãi. Ở nhà, nó chán, nó buồn, bởi vì tôi không thể săn sóc nó luôn, mà nó thì ưng được săn sóc hơn hết.

    Cả bọn chúng tôi đểu ăn mặc như ngày hội, đều bảnh bao trong những bộ quần áo đi ăn cỗ. Khách qua đường có kẻ ngoảnh đầu lại nhìn theo. Tôi thì tôi không biết hình dáng mình như thế nào, chứ còn Lidơ đội mũ rơm, mặc áo dài xanh, mang giày vải xám, Lidơ quả thật là cô bé đẹp nhất, linh hoạt nhất trên đời này. Đôi mắt, cái mũi phập phồng, hai vai, hai tay tất cả người em đều nói lên sự vui sướng.

    Thì giờ đi qua nhanh đến nỗi tôi không thấy nó trôi qua. Chỉ biết rằng cuối bữa tiệc, một đứa trong bọn chúng tôi nhận thấy về phía tây, trời ùn lên nhiều đám mây đen. Vì bàn ăn bày giữa trời dưới tán là một cây dứt, chúng tôi nhận thấy ngay là có cơn dông sắp kéo tới. Bác Acanh bảo:

    Các con, nhanh lên để về khu Gờlaxie. Nghe thế, cả bọn chúng tôi buột miệng:

    Phải về rồi ư?

    Lidơ không nói được nhưng ra hiệu chối từ và phản kháng. Ông bố nói:

    - Gió mà thổi mạnh lên nữa thì có thể làm đổ cửa kính mất. Về đi thôi.

    Rõ ràng là không có cách gì khự nự lôi thôi nữa. Chúng tôi đều biết rằng cửa kính là tất cả gia sản của người chủ vườn, nếu gió làm vỡ cửa kính thì sạt nghiệp. Bác Acanh nói:

    Bố đi trước. Bănggiamanh, con đi với bố, và cả con nữa, Alơxi. Bố con mình phải rảo bước đi nhanh. Rêmi và Êchiênnét thì đi sau với Lidơ.

    Rồi không nói thêm gì nữa, cha con họ ba chân bốn cẳng rảo bước đi. Còn chúng tôi thì đi theo sau, chậm hơn, vì chị Êchiênnét và tôi phải bước thong thả để Lidơ theo kịp. Chuyện này đâu phải là chuyện đùa, bởi vậy chúng tôi không chạy nhảy tung tăng nữa.

    Trời mỗi lúc một mờ mịt thêm. Gió mỗi lúc một mạnh, cuốn bụi lên mù mịt, báo hiệu cơn dông đương đến rất nhanh. Mỗi khi bị cuốn vào một đám bụi lốc ấy, chúng tôi phải dừng lại, quay lưng về phía gió, lấy hai bàn tay bịt mắt vì bụi làm mờ cả mắt; cũng phải nín thở nữa, nếu thở thì trong miệng thấy như có cả cát. Sấm rền từng hồi ở nơi xa và chuyển đến gần nhanh lắm, tiếng rền lẫn với những tiếng nổ inh tai.

    Chị Êchiênnét và tôi nắm tay Lidơ kéo đi. Nhưng em phải khó nhọc lắm mới theo kịp cho nên chúng tôi không đi nhanh được như ý muốn.

    Chúng tôi có kịp về đến nhà trước cơn mưa hay không? Nhất là ông bố và Bănggiamanh, Alơxi có về kịp hay không? Đối với họ vấn đề có về kịp hay không quan trọng

    Hơn đối với chúng tôi nhiều. Đối với chúng tôi, về kịp thì chỉ là khỏi ướt. Đối với họ, về kịp là cứu lồng kính khỏi bị hủy hoại. Vấn đề là chỗ đóng các cửa kính lại để gió khỏi luồn vào phía dưới và lật đổ các lồng.

    Bấy giờ, sấm sét nổ liên hồi, và mây kéo dày đến nỗi trông như trời đã tối. Thỉnh thoảng gió xé mây đi để lộ ra đây đó vài mảnh trời sâu thẫm màu đồng đỏ giữa các đám mây đen. Rõ ràng là những đám mây ấy sắp vỡ toạc ra trong giây lát.

    Có một điều rất lạ: Giữa tiếng sấm sét, chúng tôi nhận thấy có tiếng ầm ầm không rõ là tiếng gì đương xô về phía chúng tôi, nghe như tiếng vó ngựa của cả một trung đoàn kị binh chạy cơn dông. Nhưng đoán thế thì vô lý quá: Kị binh kéo đến khu phố này làm gì chứ!

    Thình lình mưa đổ xuống. Thoạt đầu, vài hạt nhỏ đập vào mặt chúng tôi, rồi hầu như tiếp ngay theo đó là cả một trận rào rào như đá chạy. Chúng tôi ù té núp vào dưới một cái cửa lớn.

    Trận mưa đá rào rào này kinh khủng không thể tưởng tượng. Chỉ trong chốc lát đường phố bị phủ trắng như giữa mùa đông. Đá to như trứng bồ câu, rơi xuống ào ào nghe choáng cả tai; giữa tiếng ào ào ấy thỉnh thoảng chen những tiếng kính vỡ loảng xoảng. Những hòn đá rơi trên mái nhà rồi mới tuột xuống thì mang theo đủ thứ linh tinh, nào là mảnh ngói, mảnh gạch, vôi vữa vụn, nào là mảnh đá lợp vỡ, nhất là đá lợp vỡ, làm thành từng đống đen sì trên mặt trắng của những hạt mưa đá. Chị Êchiênnét kêu:

    - Thôi rồi! Còn gì lồng kính!

    Tôi cũng nghĩ đến điều đó. Tôi nói:

    Có lẽ bố đã về kịp.

    Có về đến nhà trước khi mưa xuống thì cũng không đủ thì giờ mang tranh ra đậy các lồng kính. Phen này thì không còn gì nữa.

    Người ta nói mưa đá chỉ rơi trong từng khoảng.

    Nhà ta gần đây quá, chắc không thoát khỏi. Nếu ở vườn nhà mà cũng có mưa nặng như ở đây thì bố chúng ta sạt nghiệp mất. Ôi, trời ơi! Bố trông ở món tiền bán hoa biết chừng nào, bố cần số tiền đó lắm.

    Tôi không biết rõ giá trị các thứ, nhưng tôi có nghe nói rằng mỗi một trăm cửa kính phải mua mất nghìn rưỡi hay nghìn tám trăm phờrăng.

    Vì vậy tôi hiểu ngay rằng nếu mưa đá làm vỡ hết năm hay sáu trăm cửa kính của chúng tôi thì đó là một tai họa ghê gớm khó lòng cứu vãn, chưa kể những khung lồng và số cây hoa. Tôi muốn hỏi chị Êchiênnét, nhưng tiếng đá rơi ầm ầm inh tai, nghe được nhau rất khó, vả lại hình như chị Êchiênnét cũng không còn bụng dạ nào để chuyện trò. Chị nhìn mưa rơi vẻ mặt rầu rầu thất vọng, như người cháy nhà đương trông thấy nhà cửa của mình bị thiêu ra tro.

    Cơn mưa rào khủng khiếp ấy đâu chỉ trong năm sáu phút thôi chứ không kéo dài. Nó dứt cũng đột ngột như nó đến. Mây bay về phía thành phố. Chúng tôi rời bỏ chỗ núp. Trên

    Đường về, những hạt đá còn cứng lăn sào sạo dưới chân như đá cuội ở bờ bể. Lớp đá dày quá đến nỗi chân đi ngập đến mắt cá. Lidơ mang giày vải nên không đi trên những hòn đá lạnh ngắt ấy được, tôi phải cõng em. Gương mặt em lúc đi tươi vui là thế mà bây giờ thì trông ảo não, nước mắt ứa đầy tròng.

    Một lát sau, chúng tôi về đến nhà, cổng vẫn để ngỏ. Chúng tôi chạy ngay vào vườn. Quang cảnh mới thảm hại làm sao! Cái gì cũng vỡ hết, nát hết. Nào là cửa kính, nàohoa, nào mảnh thuỷ tinh, nào hạt mưa đá, tất cả làm thành một bãi những thứ hỗn hợptrông ngổn ngang, không ra hình thù gì cả. Cái vườn buổi sớm nay phong phú, đẹp đẽ là như thế mà bây giờ chỉ còn là những thứ đổ nát không biết gọi là gì.

    Còn bác Acanh thì ở đâu nhỉ?

    Không thấy bác, chúng tôi chạy đi tìm và đến bên cái cổng lớn không còn một miếng kính nào nguyên vẹn. Bác ngồi ủ rũ trên một chiếc ghế đẩu, giữa cảnh vườn đổ nát. Alơxi và Bănggiamanh đứng bên cạnh, lặng yên. Nghe tiếng kính vụn kêu rào rào dưới gót giày, biết là chúng tôi đến, bác ngẩng đầu lên. Bác kêu:

    Chao ôi! Các con ôi! Chao ôi! Các con đáng thương của ta ơi! Rồi bác ôm em Lidơ mà khóc sướt mướt không nói gì nữa.

    Nói gì bây giờ? Rõ ràng đây là một tai họa. Nhưng tai họa trước mắt dù thế nào cũng

    Chưa khủng khiếp bằng hậu quả của nó.

    Chị Êchiênnét và các cậu em nói ngay cho tôi biết rõ vì sao ông bố tuyệt vọng đến thế. Ông đã mua khu vườn và dựng ngôi nhà này mười năm về trước. Chủ vườn đã cho ông vay vốn để mua công cụ trồng hoa. Tiền mua vườn cũng như tiền vay phải trả góp trong mười lăm năm. Cho tới lúc này, nhờ làm nhiều mà ăn tiêu dè xẻn, năm nào ông cũng trả đủ và đúng kỳ hạn. Điều đó hết sức cần, là vì chủ nợ chỉ chờ một cơ hội, nghĩa là chờ ông chậm trả để lấy luôn vườn, nhà, công cụ, và tất nhiên vẫn giữ số tiền trả mười năm qua. Chắc hẳn đó là thủ đoạn làm tiền của hắn: Hắn tính rằng trong mười lăm năm đằng đẵng, ắt cũng có một năm nào đó bác Acanh không thanh toán nổi, nên hắn mới bỏ vốn ra như thế. Trong sự mua bán này, tên chủ nợ nắm chắc đằng chuôi, còn người khách nợ bị đe dọa luôn luôn.

    Cái ngày mà tên chủ nợ ao ước đã đến với trận mưa đá. Sự việc rồi sẽ ra như thế nàođây?

    Chúng tôi không phải mất thì giờ băn khoăn cho lắm. Sau cái ngày kỳ hạn trả nợ một hôm thì một ông vận đồ đen đến nhà chúng tôi. Tôi trông ông không ra vẻ người thanh nhã lắm. Ông đem ra một tờ giấy có dán tem, viết mấy chữ trên dòng còn để trống rồi đưa ra cho chúng tôi.

    Đó là một viên mõ tòa.

    Tối hôm đó mà đi, ông ấy cứ đến mãi, đến nỗi biết hết cả tên chúng tôi. Mỗi lần đến, ông ta nói: "Chào chú Rêmi, chào chú Alơxi. Mạnh khỏe chứ cô Êchiênnét?" Rồi ông ta đưa tờ giấy có dấu và mỉm cười như đối với người bạn:

    Thôi chào các cô chú!

    Mời ông.. xéo đi!

    Bác Acanh không hay ở nhà nữa. Bác đi phố luôn. Đi đâu, tôi không biết, vì khác với trước kia bác thường cởi mở, bây giờ bác chẳng nói nửa lời. Có lẽ bác đi tìm những người thừa biện, hay là ra tòa án.

    Nghĩ đến ra tòa mà tôi phát sợ. Cụ Vitali cũng đã từng ra tòa và tôi đã được biết hậu quả thế nào rồi.

    Đối với bác Acanh thì kết quả phải chờ lâu hơn nhiều. Một phần mùa đông đã trôi qua trong tình cảnh ấy. Tất nhiên là chúng tôi không chữa lồng, chữa khung, lắp mặt kính mới được; vì thế chúng tôi trồng rau củ và những thứ hoa không cần che đậy. Những thứ hoa ấy bán chả được mấy đồng. Nhưng làm thế cũng còn hơn ngồi không. Vả lại có công việc động tay động chân là tốt rồi.

    Một tối nọ, bác Acanh về nhà, trông vẻ người lại càng buồn nản hơn những hôm trước. Bác nói:

    - Các con! Thế là hết.

    Tôi toan bước ra ngoài, vì tôi biết sắp có việc nghiêm trọng mà ông bố đã gọi con mà nói, thì có lẽ tôi không nên nghe. Nhưng ông đã đưa tay giữ tôi lại:

    Cháu không phải là người nhà à? Kể ra thì cháu còn bé quá chưa đáng nghe việc này, nhưng cháu đã nếm đủ mùi cay đắng, chắc cháu đã hiểu. Các con ạ, bố sắp xa các con đây!

    Cả bọn chúng tôi đều buột miệng kêu lên một tiếng đau đớn. Lidơ nhảy vào lòng bố, vừa hôn ông vừa khóc.

    Chao ôi! Các con hẳn biết rằng không phải tự ý bố muốn rời bỏ những đứa con ngoan như các con đây, rời bỏ đứa con cưng như Lidơ của bố.

    Ông nói đến đó thì ôm chặt Lidơ vào lòng.

    Tòa xử bố phải trả nợ, nhưng vì bố không có tiền nên người ta sắp phát mại tất. Thế cũng chưa đủ nên người ta sẽ bỏ tù bố.

    Bố phải ngồi tù năm năm. Không có tiền để trả nợ thì phải đem thân bố, đem sự tự do của bố mà trả.

    Chúng tôi khóc ầm lên.

    Ừ, cái việc ấy đáng buồn thật, nhưng biết làm sao bây giờ? Đó là luật pháp. Năm năm! Trong năm năm ấy thì các con sẽ ra sao? Ấy, đó là điều đáng lo nhất!

    Yên lặng. Sau đó ông nói tiếp:

    Các con chắc cũng đoán biết rằng bố hằng nghĩ đến điều đó. Bởi vậy đây là điều bố

    Định làm để cho các con khỏi bị bơ vơ thất thểu sau khi bố bị bắt. Nghe thế tôi thấy lóe lên một chút hy vọng.

    Rêmi sẽ viết thư cho cô của các con, cô Catơrin Xuyriô ở Đơrơđi, quận Nievơrơ. Nó sẽ trình bày tình cảnh chúng ta và yêu cầu cô đến. Cô Catơrin của các con đầu óc tỉnh táo lắm và cô thạo việc, bố và cô ấy sẽ bàn cách giải quyết ổn nhất cho các con.

    Tôi viết thư lần này là lần đầu; lần đầu tiên viết thư mà phải viết những chuyện buồn như thế này thì khổ tâm thật.

    Mặc dù ông bố nói mập mờ, chúng tôi cũng thấy có hy vọng. Trong tình cảnh chúng tôi mà còn có hy vọng thì cũng đã là nhiều lắm. Hy vọng gì? Chúng tôi chả biết, nhưng chúng tôi có hy vọng. Cô Catơrin sắp đến, cô Catơrin tính toán công việc giỏi, thế là đủ để hy vọng. Có cần gì hơn đối với những đứa trẻ dại dột, dốt nát như chúng tôi. Đối với những người tháo vát như cô Catơrin thì ở đời này có gì là khó?

    Tuy vậy, cô Catơrin không đến sớm như chúng tôi tưởng, và bọn lính tòa án thương mại, nghĩa là bọn đi bắt con nợ, đã đến trước cô.

    Hôm đó, bác Acanh định đến nhà một ông bạn. Tôi theo bác. Vừa ra đường thì gặp ngay bọn lính tòa, chúng vây quanh chúng tôi tức khắc. Bác Acanh không có ý định chạy trốn. Bác tái mặt đi, y như sắp chết. Giọng yếu ớt, bác yêu cầu bọn lính để cho bác hôn con. Một tên lính nói:

    Đừng có sầu thảm qua đi như thế, ông bạn ạ. Ở tù nợ thì cũng chẳng đến nỗi khổ tâm lắm đâu! Ở đấy có những người tốt đấy!

    Chúng tôi quay lại, có bọn lính đi kèm. Tôi ra gọi hai anh con trai của bác Acanh lúcấy đang ở ngoài vườn. Khi ba chúng tôi vào nhà thì thấy ông bố đã ôm Lidơ trong lòng và em khóc sướt mướt.

    Bấy giờ một người lính ghé miệng vào tai ông nói cái gì tôi không nghe rõ. Chỉ thấyông bô đáp: "Vâng, ông nói đúng. Đành phải thế!"

    Đột nhiên ông đứng lên và nhấc em Lidơ để xuống. Lidơ bám chặt lấy ông, không chịu buông tay ông. Ông hôn Êchiênnét, Alơxi, và Bănggiamanh. Tôi đứng trong một góc phòng, mắt nhòa lệ. Ông gọi tôi: "Còn cháu Rêmi, sao cháu không lại hôn bác? Cháu không là con bác à?"

    Cả mấy đứa chúng tôi đều như mất hồn. Giọng cứng rắn, báo Acanh nói:

    Cứ ở yên đấy! Lệnh của ông bố là như thế đấy!

    Thế rồi bác gỡ bàn tay Lidơ đặt vào tay chị Êchiênnét và bước nhanh ra cửa. Tôi định đi theo bác nên bước lại phía cửa, nhưng chị Êchiênnét khoát tay bảo tôi dừng lại.

    Theo bác để đi đâu? Và rồi để làm gì?

    Chúng tôi đứng ngẩn người giữa nhà bếp, cả mấy đứa đều khóc, không đứa nào nói lên một lời.

    Nói lời gì nữa chứ?

    Chúng tôi đều biết sớm muộn ông Acanh cũng bị bắt, nhưng chúng tôi tưởng lúc đó thì đã có cô Catơrin. Cô Catơrin là sự chở che, sự đùm bọc. Nhưng cô không đến.

    Ông Acanh đi độ một tiếng đồng hồ, cô mới đến. Cô tìm thấy chúng tôi tụm hết dưới nhà bếp, không nói không rằng. Cái người bấy lâu nay nâng đỡ chúng tôi giờ đây cũng tê liệt rồi: Chị Êchiênnét cứng cỏi, kiên cường là thế mà giờ phút này cũng trở nên yếu đuối như chúng tôi. Chị không cổ vũ chúng tôi nữa. Yếu mềm không phương hướng, chìm đắm trong đau thương, chị chỉ gắng gượng để vỗ về em Lidơ thôi. Người hoa tiêu đã ngã xuống biển, con tàu không người lái, không hải đăng chỉ đường, không có gì để đưa vào bến. Mà biết có bến không? Chúng tôi là một lũ bé con lạc lối giữa biển đời bát ngát, lênh đênh theo chiều gió, không biết hành động thế nào, không có một ý định gì, trí hoang mang, lòng tuyệt vọng.

    Cô Catơrin quả là một người đàn bà cừ, một người đầy sáng kiến và nghị lực. Cô đã từng làm vú sữa ở Pari năm lần. Cô biết các khó khăn trong cuộc sống, và cô cũng biết chống đỡ như cô nói.

    Được cô chỉ huy, được làm theo lệnh cô, chúng tôi có phần nào yên dạ. Chúng tôi đã có người dìu dắt, đầu gối hết khuỵu.

    Đối với một phụ nữ nông dân nghèo vô học thì đây là một trách nhiệm nặng nề có thể làm sờn gan những người quả cảm nhất. Một tốp trẻ mồ côi đứa đầu chưa tới mười bảy, đứa út thì câm! Xếp đặt chúng nó thế nào đây? Làm sao nuôi chúng nổi khi chính mình cũng phải vất vả bao nhiêu mới kiếm đủ cái sống hàng ngày.

    Cô đã từng nuôi con cho một viên quản khế. Cô đến hỏi ý kiến ông ta và bàn bạc cùng ông ta để định đoạt về chúng tôi. Sau đó, cô đến bàn với bác Acanh ở nhà lao. Đến Pari tám hôm mà cô không hề nói với chúng tôi ý định và hoạt động của cô. Đến hôm thứ chín, cô cho chúng tôi biết những điều đã quyết định.

    Vì chúng tôi còn bé quá không thể tự làm ăn một mình nên mỗi đứa phải đi về ở với những cô, bác nào sẵn lòng cáng đáng. Lidơ sẽ về ở với cô Catơrin ở miền Moócvăng. Alơxi về nơi ông chú làm thợ mỏ ở Vácxơ trong vùng núi Xêven. Bănggiamanh thì về với một ông chú làm vườn ở Xanh Căngtanh. Chị Êchiênnét đến ở với bà cô có chồng ở vùng biển tỉnh Sarăngtơ, làng Étxơnăng. Tôi chăm chú nghe nói về những sự xếp đặt ấy, đợi đến lượt mình. Nhưng vì cô Catơrin không nói nữa, tôi bước tới hỏi:

    Còn cháu thì thế nào, thưa cô?

    Cháu à, cháu có phải là người trong gia đình đâu!

    Cháu sẽ đi làm cho cô.

    Cháu không phải là con cái trong nhà.

    Cô thử hỏi Alơxi, hỏi Bănggiamanh xem cháu làm việc có hăng không?

    Và ăn cũng hăng đúng không?

    Đúng, đúng. - Tất cả các anh chị Lidơ đồng thanh nói. - Rêmi là anh em trong nhà.

    Lidơ bước tới trước mặt cô Catơrin, chắp tay lại. Cái chắp tay ấy hùng hồn hơn bao

    Nhiêu lời van xin kể lể.

    Cháu bé tội nghiệp của cô ơi, - cô Catơrin nói, - cô hiểu ý cháu lắm, cháu muốn anhấy đi với cháu. Nhưng cháu biết không, ở đời đâu có dễ muốn thế nào thì làm được thế ấy. Cháu là cháu ruột của cô, khi về nhà nếu chú ấy có nói tiếng gì không phải, hoặc có sa mày sa mặt lúc ngồi vào bàn ăn thì cô nói: "Nó là ruột rà của tôi, nếu vợ chồng mình không thương thì ai thương?" Đó, chỉ nói một câu ấy là đủ. Và cái chuyện đó giữa vợ chồng nhà cô thì ở ông chú tại Xanh Căngtanh, ông chú tại Vácxơ hay bà cô tại Étxơnăng cũng y hệt. Người ta nhận con cháu, người ta không nhận người dưng. Nội gia đình nhà người ta thôi cái ăn cũng đã khó khăn lắm rồi có đâu để cho mọi người.

    Tôi cảm thấy rằng không có cách gì, không nói thêm được gì nữa. Cái việc cô ấy nóiđúng quá. Tôi không phải ruột thịt trong nhà, tôi không có quyền đòi hỏi gì! Vật nài nữa chẳng hóa ra ăn xin ư? Tuy nhiên, dù có là ruột thịt chăng nữa, dễ tôi có thể thương yêu họ hơn thế này hay sao? Alơxi, Bănggiamanh dễ không là anh em ruột của tôi ư? Còn Êchiênnét và Lidơ chưa phải là chị và em ruột tôi sao? Tôi chưa yêu họ đúng mức chăng? Hay là Lidơ chưa yêu quý tôi ngang với Bănggiamanh và Alơxi?

    Hễ đã quyết định cái gì thì cô Catơrin thi hành ngay, không để trì hoãn. Cô báo cho chúng tôi biết là ngay ngày hôm sau chúng tôi phải chia tay nhau, thế rồi cô bảo chúng tôi đi ngủ. Vừa về tới phòng riêng của chúng tôi thì mọi người xúm xít quanh tôi, còn Lidơ bá cổ tôi mà khóc. Tôi hiểu rằng tuy họ buồn sắp phải xa nhau, nhưng họ nghĩ đến tôi hơn hết, họ ái ngại vì tôi. Điều đó làm cho tôi cảm thấy rằng họ coi tôi là anh em trong gia đình. Bấy giờ, trong đầu óc rối ren của tôi bỗng nảy ra một sáng kiến. Nói cho đúng - hay dở gì thì cũng đều nên nói ra - vì sáng kiến ấy xuất phát từ con tim rồi mới dâng lên khối óc. Tôi nói:

    Này, các anh chị ơi, tôi biết rõ rồi, tôi biết rằng mặc dù các cô chú không bằng lòng nhận tôi, các anh chị vẫn coi tôi như ruột thịt.

    Đúng rồi, - Cả ba đều nói một lượt, - Rêmi mãi mãi là anh em của chúng tôi.

    Lidơ không nói được thì siết chặt tay tôi tỏ ý đồng tình và nhìn tôi bằng đôi mắt vời vợi làm cho tôi cảm động tràn nước mắt.

    Thế thì vâng! Tôi sẽ làm em của các anh các chị, và tôi sẽ chứng tỏ điều đó.

    Cậu định xin làm ở đâu? - Bănggiamanh hỏi.

    Ở đằng ông Pécnuy có một chân khuyết. - Chị Êchiênnét nói. - Em có muốn, sáng mai chị đến xin chỗ ấy cho em không?

    Em không muốn làm mướn. Có chỗ làm thì phải ở lại Pari, không gặp mấy anh chị và em Lidơ nữa. Em định lấy chiếc thụ cầm xuống, khoác lại tấm áo da cừu, đi từ Xanh

    Căngtanh đến Vácxơ, rồi từ Vácxơ đến Étxơnăng và từ Étxơnăng đi Đơrơđi. Thế là em sẽ

    Được gặp lại tất cả các anh chị, lần lượt hết người này đến người khác, và qua em anh chị cũng như là sum họp với nhau. Em vẫn chưa quên những bài hát, những điệu nhảy. Thế là em sinh sống được rồi.

    Nhìn thấy vẻ mặt hân hoan của mọi người, tôi biết rằng sáng kiến của tôi thể hiện cả mơ ước của họ nữa, và trong cảnh buồn rầu tôi vẫn cảm thấy phấn khởi.

    Chúng tôi nói chuyện với nhau mãi về dự định ấy, chuyện chia phôi, sum họp, về dĩ vãng, về tương lai. Rồi chị Êchiênnét buộc mọi người đi ngủ. Nhưng đêm ấy không ai ngủ yên cả, ai cũng thao thức, tôi lại càng thao thức hơn.

    Ngày hôm sau, vừa tang tảng sáng, Lidơ đã rủ tôi ra vườn. Tôi biết em muốn nói gì.

    Em muốn nói chuyện với anh à?

    Lidơ gật đầu.

    Em buồn vì chúng ta phải xa nhau chứ gì? Điều ấy Lidơ không cần nói, anh đã đọc thấy mắt em và cũng nghe thấy trong tim anh.

    Em ra hiệu bảo rằng không phải em muốn nói điều ấy.

    Chỉ nửa tháng nữa sẽ có anh ở Đơrơđi.

    Lidơ không muốn anh về Đơrơđi à?

    Thường thường tôi mò ý em bằng câu hỏi và em trả lời bằng cách ra hiệu, đúng thì ra hiệu bảo đúng, sai thì bảo sai.

    Lidơ ra hiệu rằng em thích tôi đến Đơrơđi. Nhưng lại chỉ tay về ba hướng khác nhau, em cho tôi biết rằng, tôi phải đến ba anh chị của em trước.

    Em muốn anh đi Vácxơ, Étnăngxơ và Xanh Căngtanh trước? Em cười sung sướng vì tôi đã hiểu được ý em.

    Tại sao vậy? Anh, anh muốn đi thăm em trước.

    Tức thời em dùng tay, dùng môi, nhất là dùng đôi mắt hùng biện, em đã làm cho tôi hiểu lý do tại sao em lại yêu cầu như thế. Tôi xin thuật lại lời giải thích của em như thế này:

    Để em được biết tin tức của chị Êchiênnét, anh Alơxi, và anh Bănggiamanh, thì anh hãy đi thăm các anh chị ấy trước. Sau đó anh sẽ đến Đơrơđi để thuật lại cho em nghe những

    Điều anh trông thấy và những điều các anh chị ấy nói với anh.

    Ôi! Lidơ yêu quý!

    Cô Catơrin định tám giờ sáng thì chị em Êchiênnét lên đường. Cô đã thuê một cỗ xe ngựa lớn để đưa họ cùng đi chào ông bố một lượt ở nhà lao. Sau đó, xe sẽ đưa từng người một cùng hành lý đến nhà ga nào cần phải đến để lên tàu về nơi dự định.

    Lúc bảy giờ sáng chị Êchiênnét cũng gọi tôi ra vườn. Chị nói:

    Chị em ta sắp phải xa nhau. Chị muốn tặng em một vật kỉ niệm. Em hãy giữ cái hộp khâu này trong ấy có kim, chỉ và một cái kéo của chị do người cha đỡ đầu của chị cho. Dọc

    Đường, em cần các thứ đó bởi vì em có toạc một miếng quần hay đứt một cái cúc thì cũng không có chị ở đó để vá lại, đính lại cho em đâu. Em dùng kéo của chị, em sẽ nhớ đến mấy chị em nhà này.

    Trong khi chị Êchiênnét nói chuyện với tôi thì Alơxi lảng vảng quanh đấy. Chị ấy vào nhà rồi, tôi còn dừng lại ngoài vườn chưa hết cảm động thì Alơxi đã đến bên tôi, nói:

    Mình có hai đồng năm phờrăng, nếu cậu vui lòng nhận lấy một thì mình thú lắm.

    Trong năm đứa chúng tôi, chỉ có Alơxi là chú ý tới tiền bạc, chúng tôi luôn chế nhạoanh ấy về tật ky cóp.

    Anh chắt chiu từng xu và coi việc dành dụm được những đồng hào mới tinh là một hạnh phúc. Anh cứ mang theo những đồng hào mới của anh ra đếm đi đếm lại trong bàn tay để cho nó lấp lánh dưới ánh mặt trời, để nghe những tiếng leng keng một cách lý thú.

    Đề nghị của Alơxi làm cho tôi xúc động lạ thường. Tôi muốn từ chối nhưng anh năn nỉ mãi và giúi vào tay tôi một đồng năm phờrăng sáng loáng. Qua cử chỉ ấy tôi biết rằng cảmtình của Alơxi đối với tôi rất sâu sắc bởi vì nó đã thắng sự thiết tha của anh đối với cái kho của nho nhỏ kia.

    Bănggiamanh cũng không quên tôi. Anh ấy cũng muốn cho tôi một món quà. Anh cho tôi con dao của anh nhưng bắt tôi phải trả một xu để cho có vẻ mua bán, bởi vì bạn bè không tặng dao cho nhau, sợ "dao cắt đứt tình bạn".

    Thời gian đi nhanh quá! Chỉ còn mười lăm phút nữa thôi! Rồi thì năm phút. Chỉ còn năm phút nữa là chúng tôi chia tay nhau. Rồi ra Lidơ còn có nhớ đến tôi không?

    Lúc nghe thấy tiếng xe ngựa ầm ầm chạy tôi thì Lidơ ở trong buồng cô Catơrin chạy ra và ra hiệu cho tôi theo em ra vườn.

    Lidơ! - Cô Catơrin gọi.

    Lidơ không đáp. Em cứ việc đi nhưng bước nhanh hơn.

    Trong vườn những người trồng hoa, trồng rau củ, cái gì cũng không bằng cái ích lợi thực tế: Người ta không chừa chỗ cho cây cảnh đâu!

    Tuy vậy trong vườn chúng tôi có một cây hồng bănggan không bị nhổ đi vì mọc ở một xó.

    Lidơ xăm xăm đi tới cây hồng cắt lấy một cành rồi quay lại tôi, em cắt cành ấy làm hai nhánh mỗi bên có một nụ hoa hàm tiếu và đưa cho tôi một.

    Ôi! Cái thứ ngôn ngữ của miệng lưỡi có nghĩa lý gì đâu bên cạnh cái ngôn ngữ của khóe mắt! Ôi! Những lời những tiếng so với cái trông cái nhìn bây giờ tôi mới thấy nó nhạt nhẽo, trống rỗng làm sao?

    Bà cô gọi: "Lidơ ơi! Lidơ!"

    Hành lý đã đưa lên xe cả rồi.

    Tôi với lấy cây đàn và gọi con Capi. Con Capi mừng rỡ nhảy cỡn lên khí thấy cây đàn và bộ đồ nghệ sĩ du phương của tôi ngày xưa. Bộ đồ ấy đối với nó quen thuộc lắm. Có lẽ nó hiểu rằng nó với tôi sẽ lên đường đi lang thang trở lại và như thế là nó được chạy nhảy tự do, cái ấy thích hơn là ở lỳ trong bốn bức tường.

    Giờ phút chia tay đã đến. Cô Catơrin không để cho nó kéo dài. Cô bảo chị Êchiênnét lên xe rồi Alơxi, Bănggiamanh. Đến lượt Lidơ, cô bảo tôi đỡ em lên đùi cô.

    Rồi, vì tôi đứng ngẩn người, cô ấy nhẹ tôi và đóng cửa xe.

    Tôi thét:

    Các anh chị hãy hôn bác hộ cho tôi với, vì..

    Nói đến đó tôi ấm ức nghẹn lời. Cô Catơrin bảo:

    Ta đi đi thôi.

    Và cỗ xe chạy đi.

    Cửa kính hạ thấp. Qua màn nước mắt, tôi nhìn thấy Lidơ thò đầu ra ngoài vừa đưa tay gửi cho tôi một cái hôn. Thế rồi cỗ xe nhanh chóng rẽ vào con đường ngoặt và tôi chỉ còn thấy một đám bụi tung trời.

    Thế là hết.

    Tựa vào cây đàn, con chó Capi ở bên chân, tôi thẫn thờ nhìn làn bụi từ từ rơi xuống đường.

    Một người hàng xóm đến nhận chìa khóa, đóng cửa nhà lại và giữ chìa khóa hộ chủ nhà. Người ấy kéo tôi ra khỏi tình trạng thẫn thờ, đưa tôi về với thực tại.

    Ông ta hỏi:

    Chú bé định đứng đây mãi à?

    Không, tôi đi đây.

    Đi đâu?

    Cứ đi tới phía trước, đến đâu hay đó.

    Nếu chú muốn ở lại đây thì tôi sẽ nuôi chú, nhưng không tiền công bởi vì chú hãy còn chưa đủ sức. Sau này thì khác.

    Tôi từ chối. Ông nói:

    Tùy thích chú. Tôi nói đó là vì muốn giúp ích cho chú thôi. Thôi chú lên đường mạnh khoẻ.

    Rồi ông ta đi mất.

    Xe đi rồi. Nhà cũng đóng cửa.

    Tôi choàng cái dây đeo đàn qua vai, cử chỉ ấy, ngày xưa con Capi trông đã quen mắt lắm nên bây giờ nó chú ý. Nó đứng lên đưa cặp mắt sáng ngời nhìn tôi.

    "Ta đi đi thôi! Capi!"

    Capi đã hiểu. Nó vừa nhảy lên, vừa sủa oang oang trước mặt tôi.

    Tôi quay mặt đi để khỏi nhìn cái nhà tôi đã ở hai năm và tưởng là sẽ ở mãi. Tôi trông thẳng về phía trước.

    Mặt trời đã lên cao. Trời rất trong, thời tiết nắng ấm. Cảnh này khác xa cái đêm giá buốt mà tôi ngã xuống kiệt sức và đói lả ở chính chân tường kia.

    Hóa ra hai năm qua chỉ là một chặng thời gian đỗ tạm. Bây giờ lại đến lúc lên đường. Nhưng thời gian đỗ tạm này đã có ích cho tôi. Nhờ nó tôi đã khỏe lên. Và có cái đáng

    Quý hơn sự rắn chắc của chân tay nữa, đó là cái tình yêu thương tôi cảm thấy ở trong lòng. Tôi không lẻ loi ở trên đời nữa.

    Đời tôi đã có mục đích: Giúp ích những người yêu thương mình và được mình yêu thương và làm vui lòng họ.

    Một cuộc đời mới mẻ đang mở ra trước mắt tôi. Tôi hồi tưởng hình ảnh cụ Vitali và tôi tự nhủ: "Nào! Hãy tiến lên!".
     
  3. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,892
    Chương 22: Tiến lên

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tiến lên!

    Thế giới mở rộng trước mắt tôi, tôi có thể dời chân xuống Nam hay lên Bắc, sang Đông hay qua Đoài tùy lòng.

    Tôi chỉ là một đứa trẻ con, thế mà tôi đã làm chủ cuộc đời của tôi.

    Than ôi! Chính cái chỗ ấy lại là chỗ đáng buồn trong cảnh ngộ tôi.

    Biết bao nhiêu đứa trẻ tự nhủ: "Ôi chao! Giá ta được tự ý làm cái gì thì làm tùy thích! Giá ta được tự do! Giá ta làm chủ lấy ta!". Biết bao nhiêu đứa sốt ruột trông cho mau tới cái ngày tuyệt sướng ấy, cái ngày mà nó được tự do, làm những điều dại dột!

    Tôi thì tôi lại tự bảo: "Chao ôi! Ước gì có người để chỉ bảo ta, hướng dẫn ta!" Là vì giữa những đứa trẻ ấy với tôi có một sự khác nhau ghê gớm.

    Nếu là đứa trẻ ấy làm điều dại dột thì sau lưng chúng có người đưa tay ra cho chúng níu khi chúng trượt, đỡ chúng khi chúng ngã. Còn tôi, dằng sau tôi không có ai cả. Nếu tôi ngã thì nhất định tôi phải lăn tuồn tuột đến cuối dốc rồi lúc đó mới lóp ngóp bò dậy một mình, nếu may mà chưa gãy xương. Mà việc gãy xương rất dễ xảy ra cho tôi. Tôi có đủ kinh nghiệm để nói như vậv. Mặc dù còn nhỏ, tôi đã qua nhiều thủ thách trong hoạn nạn, bởi vậy tôi thận trọng và khôn ngoan hơn phần nhiều đứa trẻ cùng lứa tuổi tôi. Cái phần hơn ấy tôi đã mua bằng một giá khá đắt.

    Trước khi lao vào con đựờng rộng mở trước mắt. Tôi định hỏi ý kiến bác Acanh là người đã coi tôi như con đẻ mấy năm lại đây. Dù cô Catơrin không đem tôi cùng đi với các anh chị ấy đến chào bác, thì một mình tôi cũng có thể, và có bổn phận đến hôn bác.

    Tôi chưa hề đến nhà lao giam con nợ, nhưng lâu nay nghe nói đến nó nhiều quá, tôi tin rằng thế nào cũng tìm ra.

    Tôi sẽ đến nhà thờ Mađơlen, con đường ấy tôi biết quá rõ, đến nhà thờ tôi sẽ hỏi thăm đường đến nhà lao. Cô Catơrin và mấy anh chị ấy đã vào thăm ông bố được thì chắc họ cũng cho phép tôi vào. Tôi có gì khác họ, tôi đã làm con ông ấy, và ông ấy đã từng yêu quý tôi như con.

    Tôi không dám đi suốt Pari với con chó Capi lơn tơn bên gót, bởi vì nếu các ông cảnh sát hỏi thì tôi biết trả lời làm sao? Trong mọi nỗi sợ hãi mà tôi đã trải qua, sợ cảnh sát là nỗi sợ lớn hơn cả. Tôi không quên vụ Tuludơ. Tôi kiếm chiếc dây đai buộc cổ con chó. Nó ức về việc ấy lắm bởi vì nó có lòng tự ái của một con chó thông thái được giáo dục. Tôi dòng dây dắt nó theo để đi tìm nhà lao Cơlisi. Trên đời này có những cái buồn lắm hễ trông thấy là phải có ý nghĩ u ám. Tôi chưa từng biết thứ gì xấu xí và buồn hơn cái cửa ngục.

    Tôi đứng lại một lát không dám vào nhà ngục ngay, hình như sợ rằng sẽ bị nhốt lại trong đó và cái cửa gớm ghiếc kia một khi đã khép ập lại sau lưng tôi thì sẽ không mở ra nữa.

    Trước đây tôi chỉ hình dung ra khỏi một nhà ngục thì khó khăn lắm, nhưng tôi không nghĩ rằng vào ngục cũng không dễ. Bây giờ thì tôi đã rõ, nhưng biết được điều ấy phải khó nhọc bao nhiêu.

    Tuy vậy, vì tôi không nản lòng, không chịu về không, cho nên cũng đến được với người tôi muốn thăm.

    Người ta đưa tôi vào một cái phòng khách không có cửa sắt, không có chấn song sắt như tôi hằng tưởng tượng và giây lát sau thì bác Acanh đến, cũng không bị xích tay xiềng chân. Bác nói:

    - Bác mong cháu đến, Rêmi ạ, và bác đã trách cô Catơrin sao không đưa cháu đến với mấy anh chị em nó.

    Từ sớm nay tôi buồn bã, ỉu xìu, câu nói của bác làm tôi phấn khởi. - Cô Catơrin không muốn đem cháu theo.

    - Tội nghiệp cháu tôi. Nhưng cái ấy khó quá cháu ạ. Ở đời có phải muốn gì thì làmđược nấy đâu! Bác tin chắc rằng được về đấy thì cháu hết lòng làm lụng để bảo đảm cơm áo cho cháu. Nhưng cái không giải quyết được là chú Xuyriô chồng cô Catơrin không thể tìm ra công việc làm cho cháu. Chú ấy coi cống ở sông đào Nivécne, mà cháu biết, những người thợ cống thì mướn người trồng hoa làm gì! Lũ trẻ nói cháu muốn trở lại cái nghề hát rong. Vậy ra cháu quên rằng năm xưa cháu suýt chết rét, chết đói ở cổng nhà bác rồi hay sao?

    - Không, cháu không quên!

    Thế mà lúc ấy cháu không phải một thân một mình, cháu có một ông chủ dìu dắt cháu kia đấy. Cháu à, cái việc cháu định làm nó nguy hiểm lắm: Bé bỏng như cháu mà một mình lang thang trên con đường ngàn dặm!

    Cháu có con Capi.

    Như thường lệ, con Capi nghe đến tên nó thì sủa lên một tiếng như để bảo: "Có mặt! Nếu các ngài cần tới thì có tôi đây!"

    Ừ! Capi là một con chó có nghĩa, nhưng dầu sao nó cũng chỉ là một con chó thôi. Cháu sẽ sinh sống bằng cách nào?

    Cháu đi hát, còn con Capi thì diễn trò.

    Capi làm sao diễn trò một mình được?

    Cháu sẽ tập cho nó làm xiếc. Chú sẽ tập được những trò tôi muốn, phải không chú

    Capi?

    Capi để tay lên ngực.

    Tóm lại, cháu ạ. Cháu đi làm thuê là khôn hơn hết. Cháu đã là một người thợ giỏi, đi làm lang thang đây đó, cái nghề lang thang ấy là nghề của bọn lười biếng.

    Cháu không phải là đứa lười, cái đó thì bác biết. Tất bác chưa bao giờ nghe thấy cháu phàn nàn công việc quá nhiều. Nếu làm với bác thì bao nhiêu cháu cũng làm. Và sẽ ở mãi với bác. Nhưng cháu không muốn làm thuê cho người khác.

    Hình như tôi nói mấy câu này một cách khác biệt thế nào ấy. Bác Acanh nhìn tôi không nói. Cuối cùng bác bảo:

    Cháu có kể lại rằng lúc cháu chưa biết tông tích ông cụ Vitali thì cũng đã nhiều lần cháu ngạc nhiên về cách ông cụ nhìn người ta, về cái tư thế của ông cụ, nó hầu như nói lên rằng ông cụ là người sang trọng. Cháu có biết rằng cháu cũng có cái dáng điệu ấy không? Cháu không muốn làm thuê cho người ta? Thôi thì cũng tùy cháu. Bác nói những cái ấy vì lợi ích của cháu, không vì gì khác đâu, cháu nên tin thế. Bác nghĩ rằng bác có bổn phận phải phân giải điều hơn lẽ thiệt cho cháu nghe, thế thỏi. Còn tự cháu làm chủ cuộc đòi của cháu, vì cháu không có cha mẹ và bác cũng không làm bố cháu được nữa rồi. Một người khốn khổ đáng thương như bác đâu có quyền khiến bảo ai?

    Những điều bác Acanh nói làm tôi băn khoăn lo nghĩ hết sức, nhất là vì tôi cũng đã tự nhủ như thế, nếu không y nguyên văn thì cũng gần gần.

    Phải, một thân một mình thui thủi khắp đó đây là một điều rất nguy hiểm. Tôi cảm thấy cái đó, thấy rất rõ. Tôi đã sống cuộc đời nay đây mai đó, đã sống những đêm như đêm mấy con chó của chúng tôi bị sói bắt ăn thịt hay là đêm đi tìm mỏ đá Giăngtili. Tôi đã sống những ngày vừa đói vửa rét. Tôi đã bị xua đuổi hết làng này qua làng khác, một xu cũng không kiếm nổi trong cái thời gian cụ Vitali bị bỏ tù. Tôi biết rất rõ những nỗi hiếm nghèo, những cảnh khốn khổ trong cuộc sống phiêu lưu ấy, một cuộc sống không phải chỉ có ngày mai là bấp bênh mà cả đến ngày hôm nay cũng không có gì bảo đảm.

    Nếu tôi từ bỏ cuộc sống ấy, thì tôi chỉ có một con đường: Đi làm mướn như bác Acanh đã chỉ cho. Nhưng từ bỏ cuộc sống giang hồ thì không giữ được lời hứa với chị Êchiênnét, với Alơxi, Bănggiamanh và Lidơ, nghĩa là bỏ mặc chị em họ. Nói cho đúng thì chị Êchiênnét, Alơxi và Bănggiamanh cũng không cần tôi cho lắm vì họ có thể viết thư cho nhau. Nhưng còn Lidơ? Lidơ không biết viết, cả bà cô Catơrin cũng vậy. Nếu tôi mặc Lidơ, thì nó sẽ bị quạnh hiu. Rồi nó sẽ nghĩ về tôi như thế nào? Chắc nó chỉ nghĩ một điều là tôi không yêu nó nữa, nó, cái cô bé đã tỏ ra tha thiết bao nhiêu với tôi và đã khiến cho tôi khôn xiết vui sướng. Cái đó không thể được.

    Thế bác không muốn cháu đem tin các anh chị và em Lidơ đến cho bác ư?

    Chúng nó có nói với bác chuyện ấy. Bác không nghĩ tới gia đình nhà bác khi khuyên cháu từ bỏ cái nghề hát rong. Không bao giờ nên nghĩ đến mình trước khi nghĩ đến người khác.

    Thưa bác chính thế, và chắc bây giờ bác thấy rằng chính bác đã chỉ cho cháu cáiđiều phải làm: Nếu cháu xóa bỏ lời cam kết của cháu vì sợ những sự hiểm nghèo mà bác nói thì ra cháu chỉ nghĩ đến mình, chứ không nghĩ đến bác, đến các anh chị và em Lidơ.

    Bác Acanh lại nhìn tôi, lần này lâu hơn. Rồi đột nhiên bác nắm hai tay tôi:

    Này cháu ạ, bác phải hôn cháu một cái mới được, vì câu nói ấy. Cháu là người có tình có nghĩa. Đúng là cái đó không cần phải lớn tuổi mới có.

    Chỉ có bác và tôi ở trong phòng khách ngồi bên cạnh nhau trên chiếc ghế dài. Tôi ngả vào tay bác. Bác lại nói:

    Bác chỉ nói với cháu một lời này nữa thôi, là "Cầu trời phù hộ cho cháu, cháu thân

    Mến!"

    Cả hai chúng tôi ngồi im lặng một lúc. Nhưng thì giờ trôi qua, và sắp đến lúc phải chia tay.

    Bỗng bác Acanh móc trong túi áo gilê ra một chiếc đồng hồ quả quýt lớn có sợi dây da mỏng đính vào khuyết áo. Bác nói:

    Không thể nào bác cháu chúng ta xa nhau mà cháu không nhận của bác một vật kỷ niệm gì. Cái đồng hồ của bác đây, bác biếu cháu. Nó không phải là của quý vì cháu cũng biết, nếu là vật có giá trị thì bác đã bán lâu rồi chứ còn đâu nữa. Nó chạy cũng không tốt lắm nữa, thỉnh thoảng phải vặn lại. Dẫu sao đó cùng là tất cả gia tài của bác hiện nay, vì vậy bác biếu cháu.

    Bác nói thế rồi đặt đồng hồ vào tay tôi. Thấy tôi tỏ ý không muốn nhận món quà quý giá ấy, bác buồn rầu nói thêm:

    Cháu thừa hiểu rằng ở đây bác có cần xem giờ làm gì đâu. Xem giờ càng thấy thời giờ đi chậm. Nếu ngồi đếm từng phút từng giờ thì bác chết mất. Thôi chào cháu, cháu bé Rêmi. Nào, hôn bác lần nữa đi. Cháu là một chú bé tốt. Cháu nhớ giữ cho được mãi mãi như thế.

    Việc gì đã xảy ra trong giờ phút ấy? Bác cháu chúng tôi đã nói với nhau những gì, tôi không nhớ rõ, bởi vì tôi xúc động quá. Tôi nhớ mang máng ràng bác đã cầm tay tôi dắt ra cửa.

    Bây giờ hồi tưởng lại cái phút chia tay ấy, tôi chỉ nhớ cái cảm giác ngẩn ngơ trống trải trong tâm hồn.

    Hình như tôi đứng lâu, rất lâu trên đường phố trước cổng nhà lao, mãi không biết đi chiều này hay chiều kia. Có lẽ tôi đứng đó đến tối mất nếu tay tôi không vô tình chạm phái một vật gì tròn và cứng trong túi áo.

    Tự nhiên như cái máy và cũng chẳng biết mình làm gì, tôi sờ soạng vật ấy. Hóa ra cái đồng hồ của tôi.

    Cái đồng hồ của tôi! Buồn bã, lo ngại, hãi hùng đều tiêu tan tức khắc, cái thằng trẻ con ở trong tôi chỉ còn nghĩ đến chiếc đồng hồ. Tôi có một cái đồng hồ, một cái dồng hồ của riêng tôi, đang nằm trong túi áo tôi, tôi muốn xem giờ lúc nào cũng được! Tôi rút dồng hồ ra xem giờ đây: Đúng trưa. Đúng trưa hay là mười giờ, hay là ba giờ chiều đi nữa, cái đó đối với tôi có ích gì. Nhưng tôi vẫn cứ sung sướng vì biết là đúng trưa. Tại sao thế? Hỏi thì chắc tôi lúng túng không biết trả lời ra sao. Nhưng nó cứ như thế đấy! Ồ! Đúng trưa, đã đúng trưarồi! Tôi biết là đúng trưa rồi đấy! Chính cái đồng hồ của tôi đã mách tôi là đúng trưa, ghê không? Tôi cảm thấy rằng đồng hồ là một người bạn tâm phúc: Của mình, mình có thể hỏi ý kiến nó, nó có thể trò chuyện với mình:

    Mấy giờ rồi, bạn đồng hồ nhỉ?

    Đúng trưa rồi đấy, anh Rêmi thân mến ạ.

    Ồ! Đúng trưa. Thế thì ta phải làm việc này, và việc này, phải không?

    Hẳn chứ lị!

    Cậu nhắc mình thế là tốt đấy! Không có cậu thì mình quên mất.

    Tôi theo anh là để nhắc nhở anh mà!

    Có con chó Capi và cái đồng hồ, thế là tôi có bạn để chuyện trò rồi.

    Đồng hồ tôi! Đó là ba tiếng nói lên nghe rất lý thú. Tôi đã từng vô cùng ao ước được có một chiếc đồng hồ và tôi cũng đã yên trí rằng mình sẽ không bao giờ có nổi! Thế mà giờ đây có một chiếc nằm trong túi áo tôi, kêu tích tắc. Ông bố nói nó chạy không đúng lắm. Cái đó không hề gì. Miễn nó chạy, thế là đủ. Nó cần được lên dây à? Tôi sẽ lên dây, sẽ vặn mạnh chứ, có hà tiện gì cái vặn! Và nếu vặn cũng chưa đủ thì tôi sẽ mở nó, tháo máy nó ra. Cái ấy thì phải biết là thú! Tôi sẽ xem có những gì trong lòng nó và cái gì đẩy nó chạy. Nó phải liệu mà cư xử cho đúng dắn. Tôi sẽ điều khiển nó một cách nghiêm khắc.

    Tôi vui mừng quá đỗi nên không để ý rằng con Capi cũng vui sướng như tôi. Nó cứ kéo ống quần tôi và chốc chốc lại sủa dồn. Cuối cùng nó sủa to quá làm tôi bừng tỉnh cơn mơ mộng.

    Capi đòi gì thế?

    Nó nhìn tôi, nhưng tôi đương rộn niềm vui sướng nên không đoán ra ý nó. Đợi một phút không được, nó đứng thẳng lên áp vào người tôi và đặt một chân lên túi tôi, cái túi có chiếc đồng hồ. Thì ra nó muốn xem giờ "để báo cho chư vị khán giả" như thuở nó còn làm trò với cụ Vitali.

    Tôi đưa đồng hồ cho nó xem. Nó nhìn lâu lắm tuồng như đang cố nhớ, rồi vẫy đuôi, sủa mười hai tiếng. Thế là nó không quên. A ha! Thế thì tôi có thể kiếm tiền với chiếc đồng hồ này chứ phải chơi đâu! Như vậy là thêm được một trò mà trước đây tôi không tính đến.

    Câu chuyện vừa rồi diễn ra ở ngoài đường, ngay trước cổng nhà lao cho nên có những khách qua đường tò mò nhìn chúng tôi, hơn nữa, họ dừng lại. Nếu tôi bạo dạn thì tôi có thể biểu diễn ngay cho họ xem, nhưng tôi không có gan, tôi sợ cảnh sát.

    Vả lại đã đúng trưa, tôi cần lên đường.

    Tiến lên!

    Tôi đưa mắt từ biệt nhà tù lần cuối cùng, cái nhà tù trong đó bác Acanh tội nghiệp bị giam hãm, trong khi tôi tung tăng khắp bốn phương trời. Cuối cùng chúng tôi lên đường.

    Đối với cái nghề nghiệp của tôi, bản đồ nước Pháp là một vật có ích nhất. Tôi biết rằng thứ ấy ở bến tàu thủy thường có bán. Tôi định mua một tấm, nên tôi đi về phía bờ sông.

    Tìm cho ra một bản đồ vừa ý cũng mất nhiều thì giờ. Bản đồ vừa ý tôi phải là một bản đồ bồi vải gấp lại được, mà giá không quá một phờrăng, vì một phờrăng đối với tôi đã là một số tiền to lắm. Nhưng rồi tôi cũng tìm được một tấm vàng ố, cũ kỹ đến nỗi người chủ quầy chỉ đòi tôi có bảy mươi nhăm xăngtim (1).

    Bây giờ thì tôi có thể rời thành phố Pari được rồi. Tôi định đi ngay, không trì hoãn. Tôi có thể đi một trong hai con đường này: Hoặc là đường Phôngtenơbơlô qua cửa ô Italia, hoặc là đường Oóclêăng qua Mông Rugiơ. Đi đường nào cũng được thôi, tôi không thích đường nào hơn đường nào. Thật là ngẫu nhiên mà tôi đi con đường Phôngtenơbơlô.

    Tôi vào phố Muphơta. Vừa đọc cái tên phố trên tấm bảng xanh xong thì cả một loạt chuyện cũ hiện lại trong trí óc: Nào là Garôphôli, nào là Mátchia, nào là Ricácđô, rồi cái nồi khóa vung, cái roi da và cuối cùng là cụ Vitali. Ông chủ tội nghiệp, ông chủ rất tốt của tôi, cái người đã chết vì không để thằng cha bầu trẻ con ở phố Luốcxin mướn tôi.

    Tới nhà thờ Xanh Mêđa thì tôi thấy có một chú bé đứng tựa vào tường, nom hình như là thằng bé Mátchia: Rõ ràng cái đầu quá to ấy, cặp mắt ươn ướt, đôi môi mấp máy, cái vẻ hiền lành nhẫn nhục, cái dáng điệu buồn cười của thằng Mátchia. Nhưng lạ chưa? Nếu phải thằng Mátchia thì sao lâu nay nó vẫn thế, không lớn lên tí nào?

    Tôi tiến đến gần để nhìn kỹ. Thôi không còn nghi ngờ gì nữa, chính nó. Nó cũng nhận ra tôi và gương mặt nhợt nhạt của nó sáng lên một nụ cười. Nó hỏi:

    Có phải anh đã đến chỗ Garôphôli với ông cụ râu bạc, trước khi tôi vào bệnh viện không? Ôi chao! Cái ngày hôm đó sao mà tôi đau đầu thế!

    Garôphôli vẫn là chủ của anh à?

    Garôphôli đi tù rồi. Người ta tóm cổ nó bởi vì nó đánh đập thằng Oóclăngđơ tàn nhẫn quá đến nỗi thằng đó ốm chết.

    Nghe nói thằng Garôphôli đi tù, tôi sướng lắm. Lần này là lần đầu tôi nghĩ rằng những nhà tù ghê gớm kia cũng có ích. Tôi hỏi:

    Còn lũ trẻ?

    Ồ! Tôi không biết. Lúc Garôphôli bị bắt thì không có tôi ở đó. Khi tôi ra viện, thằng Garôphôli thấy rằng hễ đánh đập tôi thì tôi đổ ốm nên muốn gạt tôi đi. Nó cho gánh xiếc Gátxô mướn tôi hai năm và nó nhận tiền trước. Anh biết gánh xiếc Gátxô chứ? Không à? Đó không phải là một gánh xiếc lớn nhưng cũng là một gánh xiếc. Họ cần một đứa bé để diễn trò uốn dẻo, cho nên bác Gátxô mới mướn tôi. Tôi làm với bác ấy cho đến hôm thứ hai vừa qua. Người ta thải tôi ra bởi vì bây giờ đầu tôi to quá rồi, không thể chui vào hộp được nữa, và nó cũng nhạy đau quá. Bởi vậy tôi đã đi từ Ghidô là nơi gánh xiếc đang diễn trò để về Pari tìm Garôphôli. Nhưng tôi không tìm thấy ai cả. Nhà thì đóng kín mít. Một ông láng giềng đã thuật lại cho tôi nghe cái việc tôi vừa nói với anh, là Garôphôli đi tù rồi. Thế là tôi đến đây vì không biết đi đâu, không biết làm gì bây giờ.

    Sao anh không trở về Ghiđô?

    Bởi vì cái hôm ở Ghidô tôi lên đường đi bộ về Pari thì gánh xiếc cũng khởi hành đi Ruăng. Anh tính tôi làm thế nào mà đi Ruăng cho được? Xa quá, mà tôi không có tiền. Từ trưa hôm qua đến nay tôi đã có gì vào bụng đâu!

    Tôi không giàu, nhưng tôi có đủ để cứu thằng bé đáng thương ấy khỏi chết đói. Ngày tôi lang thang quanh vùng Tuludơ, đói khát như thằng Mátchia hôm nay, mà có ai chìa cho tôi một mẩu bánh mì thì tôi đã cảm tạ người ấy bao nhiêu! Tôi bảo thằng Mátchia:

    Anh hãy đứng đó!

    Rồi tôi chạy đến hiệu bánh mì ở góc phố. Trong giây lát, tôi trở lại, mang theo một chiếc bánh và tôi đưa biếu nó. Nó vồ lấy, ăn ngốn ngấu hết ngay.

    Bây giờ thì anh định làm gì?

    Tôi không biết.

    Phải làm cái gì mới được chứ?

    Tôi đương cố dạm bán cây vĩ cầm của tôi thì anh đến. Giá tôi không quyến luyến nó thì tôi đã bán được rồi. Cây đàn ấy là nguồn vui, là niềm an ủi của tôi. Khi nào buồn quá, tôi tìm một chỗ khuất, một mình kéo cho mình nghe. Lúc ấy thì tôi thấy không biết bao nhiêu làđiều tốt đẹp hiện lên giữa trời. Ôi! Còn đẹp hơn trong mơ nhiều! Nó cứ nối tiếp nhau không dứt..

    Thế thì tại sao anh không kéo vĩ cầm ở đường phố cho người ta nghe?

    Tôi đã làm thử. Không ai cho tiền cả!

    Tôi cũng đã trải qua cái cảnh biểu diễn cho người ta xem mà không ai thò tay vào túi.

    Mátchia hỏi:

    - Còn anh? Lúc này anh làm gì?

    Tôi bỗng nổi máu khoác lác trẻ con lên. Tôi nói:

    - Mình ấy à? Mình là chủ gánh.

    Chao ôi! Thực ra thì cũng đúng, bơi vì tôi làm chủ một gánh xiếc mà con Capi làm diễn viên. Nhưng cái thực ấy cũng không xa cái dối là mấy. Mátchia nói:

    Chao ôi! Nếu anh vui lòng!

    Vui lòng gì cơ?

    Nhận tôi vào gánh của anh.

    Tất cả gánh của mình chỉ có thế.

    Cũng chẳng sao! Nó với tôi là hai vậy. Chao ôi! Tôi van anh, anh đừng bỏ tôi! Anh bỏ tôi thì tôi sẽ thế nào? Chỉ còn nước chết đói mà thôi.

    Chết đói! Cái tiếng kêu ấy, không phải ai nghe nó cũng hiểu nó như nhau, và ở mỗi người nó cũng không dội vào cùng một chỗ. Với tôi thì nó dội vào đúng tim. Tôi đã hiểu thế nào là chết đói.

    Tôi diễn được. -Mátchia tiếp. - Trước hết tôi biết chơi vĩ cầm. Và tôi uốn dẻo, tôi nhảy dây, tôi lộn vòng, tôi hát. Rồi anh xem, anh báo gì tôi làm nấy. Tôi sẽ là đứa ở của anh, tôi vâng lời anh. Tôi không đòi tiền công ở anh đâu, chỉ cần có ăn thôi. Nếu tôi làm ăn tồi thì anh đánh tôi, ta giao ước với nhau như vậy. Tôi chỉ yêu cầu một điều là đừng đánh vào đầu, cũng phải giao ước thêm điều đó, bởi vì đầu tôi rất kém chịu đau, từ ngày thằng tha Garôphôli cứ nện bừa lên đó.

    Nghe cái thằng bé tội nghiệp ấy nói như thế, tôi suýt ứa nước mắt. Làm sao nói cho nó hiểu rằng tôi không thể nhận nó vào gánh của tôi? Chết đói ư? Một mình nó, nó có thể chết đói, đối với tôi, nó cũng không thiếu cơ hội chết đói đâu! Tôi giải thích điều ấy cho nó, nhưng nó không chịu nghe. Nó nói:

    Không, hai đứa thì không chết đói được. Chúng mình sẽ nương tựa nhau, giúp đỡ lẫn nhau, đứa có chia xẻ với đứa không có, như anh đã làm vừa rồi.

    Câu ấy làm cho tôi hết do dự. Tôi đã có thì tôi phải giúp nó. Tôi nói:

    Thôi được, đồng ý!

    Tức khắc nó cầm tay tôi mà hôn, khiến lòng tôi rung động một cách êm ái, nước mắt trào ra. Tôi nói:

    Anh hãy đi với tôi, nhưng không phải như một đứa ở mà như một người bạn. Rồi kéo quai dây đàn lên vai, tôi bảo:

    Ta đi thôi!

    Mười lăm phút sau, chúng tôi ra khỏi thành Pari.

    Nắng hanh tháng ba đã làm cho đường sá khô ráo nên bây giờ chúng tôi đi lại dễ dàng trên đất rắn. Không khí mát mẻ, mặt trời tháng tư rạng rõ, nền trời xanh không một gợn mây. Thật là khác biết bao nhiêu với cái ngày mưa tuyết mà tôi vào Pari năm nọ, Pari - cái thành phố mà tôi ước ao từ lâu như ước ao đất thánh.

    Trên bờ hào ở hai bên đường, cỏ bắt đầu mọc; đó đây lấm tấm những bông hoa cúc dại và hoa dâu tây, cánh hoa hướng về mặt trời. Khi hai bên đường có vườn thì chúng tôi thấy những búp đinh hương tía nhú đỏ giữa màu xanh mơn mởn của lá non. Một ngọn gió thổi qua, từ trên chóp mấy bức tường cổ, những cánh đinh hương vàng lác đác rơi xuống đầu chúng tôi. Trong vườn, trong các bụi cây nhỏ và trên những cây lớn, đâu đâu cũng nghe tiếng chim kêu ríu rít, còn trước mặt thì chim én bay là là mặt đất để đuổi theo những con ruồi, con nhặng mà mắt ta chẳng nhìn thấy đâu cả.

    Cuộc hành trình của chúng tôi bắt đầu tốt đẹp như thế, cho nên tôi rảo bước trên con đường vang dội tiếng chân, lòng đầy tin tưởng. Con Capi được thả lỏng chạy tung tăng quanh chân chúng tôi, sủa theo mấy chiếc xe, sủa vào mấy đống đá, sủa khắp nơi, sủa không vì cái gì cả ngoài thú được sủa; có lẽ nó có cái thú ấy cũng như con người ta có cái thú hát ca.

    Mátchia đi bên cạnh tôi lặng lẽ. Có lẽ nó bận suy nghĩ cái gì, tôi cũng không bắt chuyện, phần sợ làm rầy nó, phần chính mình cũng có việc phải suy nghĩ. Chúng tôi dấn bước trên con đường có vẻ hăng hái như vậy, để đi đến đâu đây? Nói cho đúng thì tôi không biết cho rõ lắm, hơn thế, phải nói rằng tôi không biết gì cả. Cứ xăm xăm đi tới. Nhưng rồi sau đó? Tôi có hứa với Lidơ rằng sẽ đến thăm chị Êchiênnét và hai anh trước khi đến em, nhưng đến ai trước, Bănggiamanh, Alơxi hay Êchiênnét, thì tôi không giao hẹn gì. Tôi có thể đến người này hay người kia trước tùy ý, nghĩa là có thể bắt đầu bằng vùng núi Xêven, hay miền Srăng hoặc miền Picácđi.

    Tôi đã ra khỏi Pari về phía Nam thì tất nhiên là tôi không đến Bănggiamanh trước.

    Chỉ còn phải chọn giữa chị Êchiênnét và Alơxi nên đến thăm ai trước.

    Sở dĩ tôi quvết định đi về phía Nam trước chứ không đi về phía Bắc là vì tôi có ý muốn ghé thăm má Bácbơranh.

    Lâu nay tôi không nói đến má không phải vì tôi đã quên má như một thằng vong ơn bội nghĩa.

    Cũng không nên kết luận tôi là thằng bội nghĩa vì lẽ tôi không gửi thư từ gì cho má từ cái ngày rời má ra đi. Đã bao lần tôi định viết thư cho má để nói: "Con nhớ má và con vẫn yêu má hết sức". Nhưng tôi biết rằng má không xem thư được, và tôi hãy còn sợ lão Bácbơranh. Nếu nhờ có thư mà lão tìm lại được tôi thì làm thế nào? Hoặc lão bắt tôi về? Hoặc lão lại bán tôi cho một ông Vitali nào khác không giống cụ Vitali của tôi tí nào? Hẳn lão có quyền làm những việc ấy. Nghĩ đến đó tôi chẳng còn lòng dạ nào mà viết thư, thà rằng bị má coi là bội bạc còn hơn là nỡ bị lão ta bắt vào tròng lần nũa. Hoặc lão bán tôi, hoặc lão sai bảo tôi làm việc, đằng nào cũng không xong cả. Thà rằng chết - chết đói - còn hơn là đưa đầu vào cảnh hiểm nghèo như vậy.

    Tôi không dám viết thư cho má Bácbơranh, nhưng có lẽ tôi có thể về thăm má được, bởi vì ngày nay tôi muốn đi đâu thì đi, không ai cấm. Không những có thể, tôi lại thấy không khó, từ khi tôi thu nhận Mátchia vào "gánh". Tôi sẽ cho Mátchia đi trước, còn tôi thì sẽ cẩn thận trốn lại sau. Nó vào nhà má Bácbơranh kiếm chuyện nói với má. Nếu chỉ có mình má ở nhà thì Mátchia sẽ nói thật, rồi đến báo cho tôi biết, thế là tôi trở về cái nhà tôi đã sống tuổi thơ, để ngã vào lòng bà mẹ nuôi của tôi. Nếu trái lại, lão Bácbơranh có ở làng, thì Mátchia sẽ nói với má đến một chỗ nào đó đã hẹn, để tôi gặp má và hôn má.

    Đó là kế hoạch của tôi đã nghĩ ra trong khi đi đường và vì thế mà tôi đăm chiêu yên lặng: Xét một vấn đề quan trọng như thế, dù tập trung tư tưởng, chăm chú hết sức cũng không thừa.

    Quả vậy, không những tôi phải tính xem tôi có thể vế thăm má Bácbơranh được không, mà tôi còn phải cố tìm thử trên đường đi của chúng tôi có những làng mạc, những thị trấn nào có cơ kiếm tiền được. Muốn thế, tốt hơn hết là xem bản đồ.

    Đúng vào lúc đó, chúng tôi ở giữa đồng. Chúng tôi có thể nghỉ chân trên đống sỏi kia, không ngại bị quấy phá. Tôi nói:

    Mátchia, nếu anh đồng ý thì chúng mình nghỉ một lát.

    Anh có vui lòng chuyện vãn không?

    Anh muốn nói gì với tôi chăng?

    Tôi muốn yêu cầu anh gọi tôi bằng "cậu".

    Được lắm. Chúng mình sẽ "cậu, tớ" với nhau.

    Anh thì "cậu, tớ" với tôi là phải chứ tôi thì sao được!

    Cậu cũng như tớ, nghe chưa? Tớ ra lệnh cho cậu thế đấy, nếu không nghe, tớ choảng cho đấy!

    Choảng thì cứ choảng, nhưng chớ choảng lên đầu. - Thằng Mátchia nói thế rồi cười một cách hiền lành, chân thật, nhe cả hai hàm răng trắng bóng trên khuôn mặt rám nắng.

    Chúng tôi ngồi xuống, rồi tôi rút tấm bản đồ trong xắc, đem trải lên cỏ. Tôi tìm mất khá nhiều thì giờ. Nhưng nhờ nhớ lại cách làm của cụ Vitali, cuối cùng tôi đã vạch xong hành trình sắp tới của chúng tôi. Chúng tôi có thể đi Savanông được và nếu không gặp rủi ro quá thì cũng không đến nỗi chết đói dọc đường. Mátchia chỉ tấm bản đồ hỏi:

    Cái này là cái gì thế?

    Tôi giải thích cho nó biết thế nào là một tấm bản đồ và bản đồ dùng để làm gì. Tôi lặp lại hầu như nguyên văn những lời cụ Vitali giảng bài địa lý đầu tiên cho tôi. Nó chăm chú nghe, mắt dán vào mắt tôi. Nó hỏi:

    Thế thì phải biết chữ chứ?

    Hẳn rồi. Cậu không biết chữ à?

    Không.

    Cậu muốn học không?

    Ồ! Muốn lắm.

    Thế thì tớ sẽ bảo cho cậu học.

    Này, coi trên bản đồ, có thể tìm được con đường từ Ghidô đến Pari hay không?

    Hẳn chứ! Cái đó dễ lắm.

    Tôi chỉ cho nó. Thoạt đầu nó chẳng thèm tin tôi, khi tôi lấy ngón tay kéo một đường từ Ghidô đến Pari. Nó nói:

    Tớ đi bộ, thấy xa hơn thế nhiều.

    Tôi bèn cố sức giảng giải cách ghi độ xa gần trên bản đồ, cố sức, nghĩa là lúng túng, chẳng có gì rõ ràng. Nó nghe nhưng có vẻ không tin lắm ở trình độ hiểu biết của tôi.

    Vì cái xắc đương để hở, tôi bỗng nảy ý kiểm soát lại những đồ vật trong ấy, và nhân dịp khoe với Mátchia những của cải của mình. Tôi lấy ra, xếp tất cả trên cỏ. Tôi có ba cái sơmi vải, ba đôi bít tất, năm chiếc khăn tay, tất cả đều còn tốt, và một đôi giày hơi sờn, thằng Mátchia choáng mắt. Tôi hỏi nó:

    Còn cậu, cậu có những gì?

    Tớ có cây đàn này, với bộ quần áo đang mặc trên người đây.

    Ồ, thế thì ta chia nhau những món này, có thế mới là bạn: Cậu lĩnh hai cái sơmi, hai đôi tất và ba cái khăn tay. Nhưng đã chia thì phải chia tất cả cho công bằng, vì vậy tớ mang cái xắc này một tiếng đồng hồ, cậu lại mang một tiếng.

    Mátchia muốn từ chối phần đầu trong đề nghị của tôi. Nhưng tôi đã quen thói chỉ huy rồi, và phải nói rằng tôi lấy làm thú vị điều đó, cho nên tôi cấm nó nói lôi thôi. Trên mấy chiếc sơmi, tôi đã bày cái hộp khâu của Êchiênnét và cái hộp con đựng đóa hồng của Lidơ.

    Mátchia muốn mở cái hộp con ấy xem. Nhưng tôi không cho mở và tôi bỏ luôn hộp vào xắc, không mở ra. Tôi nói:

    Nếu cậu không muốn làm phiền lòng tớ thì đừng động tới cái hộp ấy, đừng bao giờ.

    Đó là một vật lưu niệm.

    Được rồi. Tớ hứa sẽ không bao giờ động tới.

    Từ khi tôi khoác lại tấm da cừu và đeo cây đàn lên thì có một điều làm cho tôi khó chịu mãi, đó là cái quần dài. Ra giữa công chúng, người nghệ sĩ phải mặc quần cộc và mang bít tất dài quấn dây băng ngũ sắc. Quần dài chỉ thích hợp với người làm vườn còn tôi bây giờ là một nghệ sĩ..

    Đã có quvền tự chủ thì khi người ta có một dự định người ta thực hiện không trì hoãn. Tôi mở cái hộp của chị Êchiênnét lấy kéo. Tôi nói:

    Trong khi tớ chữa lại cái quần thì cậu nên kéo đàn đế tớ xem thử cậu chơi ra sao.

    Ồ! Được chứ!

    Trong lúc đó, tôi mạnh dạn chọc kéo vào ống quần, và cắt nghiến vải dạ. Phải thấy là cái quần ấy rất đẹp và cũng may bằng dạ xám như cái áo gilê và cái áo vét tôi đang mặc. Khi bác Acanh cho tôi bộ quần áo ấy, tôi mừng lắm. Tôi nghĩ rằng hớt như thế không làm quần hỏng đi mà trái lại.

    Lúc đầu tôi vừa nghe Mátchia vừa cắt. Dần dần, tôi ngừng tay kéo, vểnh cả hai tai lên.

    Mátchia kéo đàn hay không kém cụ Vitali mấy. Tôi vỗ tay hoan hô nó và hỏi:

    Thế ai dạy cho cậu đàn như vậy?

    Không ai cả, mỗi người bảo một chút, nhất là tự tớ vừa làm việc vừa tập.

    Ai dạy nhạc lý cho cậu.

    Tớ có biết nhạc lý gì đâu! Tớ nghe người ta đàn thế nào thì tập theo thế ấy.

    Tớ sẽ dạy nhạc lý cho cậu.

    Thế cái gì cậu cũng biết cả sao?

    Tất nhiên là thế, vì tớ là chủ gánh kia mà.

    Đã là nghệ sĩ thì người ta không khỏi có lòng hiếu thắng. Tôi muốn tỏ cho Mátchia biết tôi cũng là nhạc sĩ. Tôi cầm thụ cầm lên và muốn đánh ngay một đòn oanh liệt, tôi hát bài hát tủ của tôi.. Và thế là Mátchia vỗ tay hoan hô, để đáp lại những lời khen tặng của tôi lúc nãy. Nó là một bậc tài hoa, tôi cũng là một bậc tài hoa, rõ ràng là anh hùng tương ngộ (2). Nhưng có thể đâu chúng tôi cứ ngồi lì ở đó mà tán tụng nhau không ngớt! Sau khi đánh đàn cho nhau nghe vì hứng thú, còn phải đánh đàn cho người ta nghe vì bữa ăn chiều, vì chỗ ngủ trọ nữa chứ! Tôi nịt xắc lại và đến lượt thằng Mátchia mang lên vai. Đi lên, ta đi lên thôi trên đường gió bụi! Rồi thì ta sẽ dừng lại ở cái làng đầu tiên ta gặp trên đường cái, để tổ chức mừng buổi "diễn mở màn của gánh Rêmi".

    Cậu dạy tớ cái bài hát ấy. - Mátchia nói. - Khi diễn, hai đứa mình sẽ song ca và tớ chắc là nay mai tớ sẽ có thể đệm vĩ cầm nữa, rồi cậu xem, "ác" lắm!

    Phải, nhất định là "ác" lắm. Có họa là tim của "chư vị khán giả' bằng đá thì mới không chịu bỏ những đồng xu lớn đầy đĩa chúng tôi.

    Chúng tôi không bị cái họa" diễn thì có, tiền thì không ". Đi khỏi Vilơduýp, đến một làng kia, chúng tôi định tìm chỗ thuận lợi để biểu diễn. Đi qua trước cổng một nông trang, chúng tôi thấy trong sân đứng đầy những người quần áo lịch sự, mỗi người mang một bó hoa buộc dây băng cuồn cuộn. Đàn ông thì cài hoa ở ve áo, đàn bà thì cài ở ngực. Không cần phải tinh ý cũng đoán ra đây là một đám cưới.

    Tôi nghĩ rằng những người ấy có lẽ sẽ vui lòng nếu được ai đánh đàn cho họ khiêu vũ; tôi tiến vào trong sân, Mátchia và Capi theo sau. Tay cầm mũ, tôi bắt chước cụ Vitali chào trịnh trọng và trình bày đề nghị của tôi với người đầu tiên mà tôi gặp. Đó là một thanh niên béo phị, cái mặt màu gạch non trông như đóng khung giữa chiếc cổ cồn to, cứng, chỉ chực cứa hai mép tai anh ta. Anh có vẻ hiền lành phúc hậu.

    Anh ta không trả lời. Anh quay cả người về đám khách dự lễ - hẳn anh bị vướng víu trong cái áo lễ bằng dạ đẹp và bóng. Anh thọc hai ngón tay vào mồm và dùng thứ nhạc cụ ấy huýt lên một tiếng còi dữ dội, làm cho con Capi phát hoảng. Rồi anh ta thét lên:

    Ồ các bạn! Có chút đỉnh âm nhạc thì các bạn nghĩ thế nào? Có mấy nhạc sĩ vừa đến với chúng ta đây này.

    Ừ, ừ, âm nhạc! Âm nhạc! Âm nhạc! - Nhiều giọng đàn ông và đàn bà thét lên nhưthế.

    Hãy đứng vào để nhảy một bài cađơri đi nào!

    Trong vòng mấy phút thôi, nhiều nhóm tay tư đã tụ họp giữa sân để chờ nhảy, làm cho lũ gà vịt kinh hoảng bay tứ tung. Tôi lo ngại quá, hỏi nhỏ thằng Mátchia bằng tiếng Italia:

    Cậu đã từng đánh điệu nhảy cađơri rồi đấy à?

    Đã.

    Nó dạo thử một bài trên vĩ cầm. Tình cờ tôi cũng biết bài đó. Thế là chúng tôi thoát

    Nạn.

    Người ta kéo một cỗ xe bò từ nhà xe ra. Người ta bắc đòn, kê càng xe lên và bảo chúng tôi lên đấy. Mặc dù chưa khi nào chúng tôi hợp tấu với nhau, lần này chúng tôi xoay xở với bài cađơri cũng không đến nỗi tồi lắm. Cần phải thưa thật rằng thính giả của chúng tôi không khó tính và cũng không tinh về âm nhạc cho lắm. Cái anh chàng béo, mặt đỏ hồi nãy lại hỏi:

    Trong hai chú có chú nào biết chơi kèn đẩy không?

    Có, tôi. - Mátchia nói. - Nhưng tôi không có kèn ấy.

    Để tôi đi kiếm cho chú một cái, bởi vì vĩ cầm thì hay đấy, nhưng cũng nhạt nhẽolắm.

    Cậu cũng chơi được kèn đẩy à? - tôi hỏi thằng Mátchia cũng vẫn bằng tiếng Lalia.

    Cả kèn loa, ống sáo nữa và tất cả những thứ đàn địch nói chung. Mátchia quả là của quý!

    Lát sau, người ta mang kèn đẩy tới và chúng tôi lại chơi cađơri, pônka, vanxơ. Nhất là cađơri.

    Chúng tôi đánh đàn. Thổi kèn mãi cho đến tối mà những người khách nhảy vẫn không để chúng tôi nghỉ ngơi phút nào. Cái đó đối với tôi không hại lắm. Nhưng đối với Mátchia thì thật là nghiêm trọng: Nó gánh phần nặng nhọc hơn hết trong dàn nhạc, vả lại nó đi đường xa và ăn uống thiếu thốn lâu nay nên suy nhược. Chốc chốc nó tái người đi nhưsắp ngất. Tuy vậy nó vẫn tiếp tục, vẫn ráng hết sức thổi kèn. May làm sao không riêng tôi nhìn thấy vẻ nhợt nhạt của nó, cô dâu cũng nhìn thấy, cô nói:

    Thôi, thôi! Chú bé này đuối sức rồi. Bây giờ thì nào, mở túi ra để thù lao cho các bạn nhạc sĩ nào!

    Tôi nhảy xuống xe và nói:

    Nếu quý vị đồng ý tôi sẽ cho viên thủ quỹ của chúng tôi đi một vòng nhận tiền.

    Tôi nói thế rồi ném cái mũ cho con Capi. Nó ngoạm vào mồm. Người ta tán thương điệu chào duyên dáng của nó mỗi khi nó nhận tiền người ta cho và, quý hóa hơn nữa người ta cho nhiều lắm. Tôi đi sau nó nên tôi thấy những đồng hào trắng rơi tới tấp vào mũ. Chú rể bỏ tiền sau cùng. Chú bỏ một đồng năm phờrăng. Thật là dịp may hiếm có! Thế mà đã hết đâu: Người ta mời chúng tôi vào ăn uống trong nhà bếp và người ta cho chúng tôi ngủ lại ở kho vựa. Sáng hôm sau, khi chúng tôi rời mái nhà hiếu khách đó ra đi, thì chúng tôi đã có một cái vốn hai mươi tám phờrăng. Tôi nói với Mátchia:

    Chúng ta có được số tiền này là nhờ công cậu đấy, Mátchia ạ. Mình tớ thì làm gì thành một dàn nhạc.

    Và cái câu bác Acanh nói khi tôi bắt đầu dạy cho em Lidơ học lại hiện về trong ký ức tôi để xác nhận rằng người ta làm điều lành thì bao giờ cũng được đền bù xứng đáng. Tôi nói:

    Tớ nhận cậu thế mà hóa khôn đấy!

    Với hai mươi tám phờrăng trong túi, chúng tôi quả là những ông hoàng. Với số tiền ấy, đến Coócbây, tôi đã mua sắm vài thứ cần thiết, không ngại tiêu phí quá tay: Trước hết là một cây kèn đẩy giá ba phờrăng, mua ở một cửa hàng sắt cũ; còn bán giá ấy thì tất nhiên không phải kèn mới, kèn đẹp, nhưng rồi mình lau chùi, sửa soạn thì cũng tươm tất. Rồi ít cuộn dây băng đỏ dể quấn bít tất và cuối cùng là một cái xắc lính cũ cho Mátchia. Mang lâu dài trên vai một cái xác nhẹ vẫn hơn là thỉnh thoảng mang một cái xắc nặng, cho nên chúng tôi sẽ chia đều đồ đạc. Và như thế, sẽ đi lại nhanh nhẹn, nhẹ nhàng hơn.

    Ra khỏi Coócbây thì chúng tôi có vẻ tươm tất lắm. Những buổi biểu diễn của chúng tôi đều thu khá, nên sau khi mua sắm rồi, chúng tôi vẫn còn ba mươi phờrăng trong túi. Chúng tôi có thể sắp xếp tiết mục biểu diễn thế nào để có thể ở lâu tại một nơi mà khỏi phải diễn đi diễn lại nhiều lần độc có mỗi một chương trình. Máthia và tôi lúc nào cũng ăn ý nhau, chúng tôi sống với nhau chưa bao lâu mà cứ như anh em ruột. Đôi khi nó vừa cười vừa nói:

    - Cậu biết không? Một ông chủ gánh mà không đánh đập kẻ tay chân thì quả là tuyệtdiệu.

    Thế cậu có thích không?

    Từ khi tớ bỏ xứ sở ra đi, lần này là lần đầu tiên tớ không tiếc cái thời nằm bệnhviện.

    Cảnh làm ăn phát đạt ấy làm cho tôi nảy ra nhiều tham vọng.

    Sau khi rồi Coócbây, chúng tôi đi về phía Môngtácgi; Môngtácgi nằm trên đường về nhà má Bácbơranh.

    Về thăm má để hôn má, đó là trả ơn cho má, nhưng trả ơn như thế thì ít quá và dễ dàng quá. Hay là ta mang cho má một cái gì nhỉ? Bây giờ mình đã giàu rồi thì phải tặng má một món quà chứ! Quà gì đây?

    Tôi không mất nhiều thì giờ suy nghĩ. Có một món quà sẽ làm má sung sướng, không những sung sướng lúc này, mà còn sung sướng cả cái tuổi già của má: Món quà đó là mộtcon bò sữa để thay cho con Rútxét. Má Bácbơranh sẽ vui sướng biết bao nhiêu nếu ta biếu má một con bò sữa! Và cả ta nữa, ta sẽ vui mừng bao nhiêu!

    Tôi tính thế này: Trước khi về tới Savanông thì tôi mua một con bò sữa, rồi Mátchia dòng dây dắt nó, đưa vào sân nhà má. Tất nhiên phải không có lão Bácbơranh ở nhà. Mátchia sẽ nói:" Bà Bácbơranh ạ, cháu dắt con bò sữa đến cho bà "." Con bò sữa à? Cháu ơi, cháu nhầm rồi "(và má thở dài). " Không đâu. Thưa bà, đúng bà là bà Bácbơranh ở thôn Savanông chứ? Thế thì hoàng tử (như trong chuyện cổ tích ấy), hoàng tử truyền cho cháu đưa con bò này đến để biếu bà "." Hoàng tử nào? ". Lúc đó thì tôi hiện ra. Tôi xông vào lòng má Bácbơranh, và sau khi mẹ con hôn nhau phỉ sức, chúng tôi đi làm bánh rán và bánh kẹp; làm để ba mẹ con cùng ăn với nhau chứ không phải để cho lão Bácbơranh nuốt chửng, như cái ngày thứ ba ngả mặn mà lão ở đâu mò về lật chảo và trút tất cả chỗ bơ của chúng tôi vào món xúp hành của lão. Ôi! Giấc mơ đẹp quá! Duy muốn thực hiện thì phải mua cho được một con bò sữa. Bao nhiêu tiền một con bò sữa? Cái khoản này thì tôi không tưởng tượng được. Đắt tiền thì chắc đắt lắm nhưng bao nhiêu kia?

    Con bò tôi định mua sẽ không phải là một con bò to béo dềnh dàng quá. Bỏi vì, trước hết bò càng béo thì giá càng đắt; rồi thì bò càng to thì càng cần nhiều thức ăn, mà tôi không muốn cái món quà tôi tặng lại làm cho má Bácbơranh của tôi phải lúng túng. Cái thiết yếu trước mắt là phải tìm hiểu giá bò sữa, hay nói cho đúng, giá một con bò sữa theo cỡ mà tôi muốn mua.

    Cũng may là việc ấy đối với tôi không khó. Khi đi trên đường thiên lý, khi nghỉ lại ở quán trọ buổi tối, chúng tôi thường tiếp xúc với những người chăn bò, những người lái gia súc. Chỉ cần hỏi họ thôi, dễ lắm. Tôi nhằm một người chăn bò có vẻ cởi mở, dễ gần gũi mà hỏi. Vừa nghe xong thì anh cười phì vào mặt tôi. Rồi anh ta nằm ngả người trên ghế, chốc chốc lại đấm thình thình xuống bàn và gọi ông chủ quán mà hỏi:

    Bác có biết cái chú nhạc sĩ bé con này hỏi tôi gì không? Giá bao nhiêu một con bò sữa? Một con bò sữa không to lắm, không béo lắm, tóm lại là một con bò sữa tốt. Nó có cần biết làm trò không hở?

    Rồi anh ta lại cười nữa. Nhưng tôi đâu có chịu lép! Tôi nói:

    Nó phải có sữa tốt và không ăn uống nhiều quá!

    Có cần nó chịu cho các chú dòng dây dắt đi trên đường thiên lý như con chó kia

    Không?

    Sau khi dốc cạn kho bông đùa và trổ hết tài hóm hỉnh, anh ta chịu nói chuyện nghiêm chỉnh, hơn thế, chịu trao đổi giá cả với tôi nữa. Anh ta nói anh ta có đúng cái món tôi cần: Một con bò cái rất hiền, vắt được nhiều sữa, sữa sền sệt như kem, thế mà lại chẳng ăn uống mấy tí. Nếu tôi xỉa ra giữa bàn mười lăm pítxtôn hay năm mươi êquy thì con bò ấy sẽ về tôi.

    Trước tôi vất vả bao nhiêu để làm cho anh ta nói, thì bây giờ tôi vất vả bao nhiêu để làm cho anh ta im mồm đi, khi anh ta đương đà tán hươu tán vượn. Nhưng rồi cuối cùng, anh em chúng tôi cũng đi ngủ được. Nằm trên giường, tôi cứ mơ màng nghĩ đến những điều người ta vừa nói. Mười lăm pítxtôn hay năm mươi êquy, tức là một trăm năm mươi phờrăng, cái vốn của tôi còn xa con số ấy quá!

    Số tiền ấy có quá sức chúng tôi làm ra hay không? Có lẽ không! Tôi tưởng nếu cái vận đỏ buổi đầu này không bỏ chúng tôi thì dành dụm từng xu một, chúng tôi sẻ góp đủ số tiềnđó. Duy phải có thì giờ. Nghĩ đến đó thì một sáng kiến mới chợt lóe ra trong đầu óc tôi. Tôi tự bảo:" Nếu ta không đi thẳng một mạch đến Savanông mà đi Vácxơ trước thì có lẽ có đủ thì giờ kiếm được số tiền lớn ấy, vậy phải đi Vácxơ cái đã, đến lượt về sẽ ghé lại má

    Bácbơranh. Như thế thì chắc chắn lúc ấy ta sẽ có đủ số tiền một trăm năm mươi phờrăng và hai đứa ta có thể diễn cái trò cổ tích: "Con bò sữa của" hoàng tử "được".

    Rạng ngày hôm sau, tôi bày tỏ ý kiến ấy với Mátchia. Nó tán thành dễ dàng. Nó nói:

    Thế thì ta đi thôi. Vùng mỏ có lẽ hay đấy, được xem một hầm mỏ thì tớ khoái lắm.
     
  4. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,892
    Chương 23: Một thành phố đen

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Đường từ Môngtácgi đến Vácxơ quả là dài; Vácxơ ở chính giữa miền Xêvennơ, trên triền núi xuôi về phía Địa Trung Hải. Năm, sáu trăm kilômét theo đường thẳng, nhưng với chúng tôi thì phải đến trên một ngàn kilômét vì lối sống của chúng tôi bắt buộc phải tạt ngang rẽ ngửa đó đây: Phải tìm đến những thành phố và những thị trấn lớn mà biểu diễn để thu được kha khá! Chúng tôi đi ròng rã gần ba tháng trời mới vượt được cái chặng trên ngàn kilômét ấy; nhưng tới gần Vácxơ, đếm lại tiền, tôi sung sướng thấy đã dùng thì giờ rất có ích: Trong túi da của tôi đã để dành được một trăm hai mươi tám phờrăng; chỉ còn thiếu hai mươi hai phờrăng là có thể mua được con bò sữa cho má Bácbơranh.

    Mátchia cũng thích thú không kém và cũng khá tự hào vì đã góp phần mình để kiếm ra số tiền như thế. Đúng là phần ấy rất lớn: Không có nó, trước hết là không có chiếc kèn đồng của nó, chỉ một mình tôi với Capi thì đừng có hòng thu góp được một trăm hai mươi tám phờrăng.

    Từ Vácxơ dến Savanông làm gì chẳng kiếm thêm được cái món hai mươi hai phờrăng đương thiếu!

    Chúng tôi đến Vácxơ. Nơi đây, độ trăm năm trước, là một làng nhỏ xơ xác, nằm heo hút trong núi; sở dĩ được người ta biết đến là nhờ nó thường là nơi trú quân của "Những đứa con của Chúa" do Giăng Cavaliê chỉ huy. Nằm giữa núi non trùng điệp, nó trở thành một vị trí quan trọng trong cuộc chiến tranh của những người Camida (1) ; nhưng mặt khác cũng chính cái vị trí đó đã làm cho nó đói nghèo.

    Vào khoảng năm 1750, một nhà quí tộc đã có tuổi, vẫn rất say mê thăm dò địa chất đã phát hiện ở Vácxơ những mỏ than đá. Từ ngày ấy, Vácxơ trở thành một vùng than cùng với một số khu vực khác, cung cấp than cho miền Nam và có cơ giành giật thị trường Địa Trung Hải với than của người Anh. Khi ông ta bắt đầu đào bới, mọi người đều chế nhạo. Đến khi ông đào sâu tới một trăm rưỡi mét mà vẫn không thấy gì thì mọi người hối hả tìm mọi cách để nhốt giữ ông ta như một người điên, vì gia sản của ông có cơ bị chôn vùi vào những cuộc khảo sát vớ vẩn đó. Vácxơ có mỏ sắt nhưng làm gì có mỏ than đá! Im lặng và để tránh những tiếng thị phi, ông quí tộc già ấy bèn ở luôn trong giếng đào, không ra nữa. Ông ăn ngủ ngay tại chỗ, và như vậy cũng chỉ còn phải chịu đựng sự ngờ vực của những người thợ làm việc với ông. Cứ mỗi nhát cuốc bổ xuống, họ lại nhún vai. Nhưng được động viên vì nhiệt tình của ông, họ lại bổ thêm một nhát nữa và cứ thế giếng thăm dò cứ sâu xuống dần. Tới hai trăm mét thì gặp một vỉa than đá. Ông quí tộc già không còn là một người điên nữa mà là một thiên tài; chỉ hôm trước hôm sau, sự thay bậc đổi ngôi ấy đã trọn vẹn.

    Hiện nay, Vácxơ là một thành phố có mười hai ngàn dân, trước mắt có một triển vọng công nghiệp to lớn có thể cùng Ale và Bécxêgiơ là niềm hy vọng của miền Nam trong lúc này.

    Sự giàu có của Vácxơ, hiện nay cũng như sau này, là cái nằm dưới lòng đất chứ không phải là cái nằm trên mặt đất. Trên mặt đất, quang cảnh đến là buồn tẻ và tiêu điều: Đá vôi, bãi hoang bạc màu, tức là chỉ có khô cằn, không có một cây to. Đây đó lơ thơ vài ba cây dẻ, cây dâu hoặc cây ôliu khẳng khiu, không có đất màu, đâu đâu cũng chỉ một màu đá xám hoặc đá trắng. Lác đác có một vài đám đất trũng may mắn khí ẩm thấm lên được thì mới có chút ít cây cỏ xanh tươi, nổi bật lên mát mắt trên toàn cảnh trơ trọc của núi đá.

    Do tình trạng trơ trọc ấy mà xảy ra những nạn lụt kinh khủng: Trời mưa nước chảy tuột trên những dốc trơ như trên phố lát gạch; rồi những con suối, thường thì khô cạn, lúc ấy vụt cuồn cuộn chảy đổ vào các con sông trong thung lũng, dâng nước lên nhanh như chớp; chỉ mấy phút sau mực nước sông lên cao tới ba, bốn, năm mét và có khi hơn nữa.

    Vácxơ nằm vắt trên một con sông như thế, con sông Đivôn; ngay trong thành phố lại có hai con suối nhỏ để vào đó: Suối Tơruye và suối Xanh Ăngđêôn. Vácxơ không phải là một thành phố đẹp, cũng không sạch mà cũng không cân đối.

    Đây, những toa goòng đầy ắp quặng sắt và than đá đi lại liên miên giữa phố từ sớmđến tối và không ngớt tung ra những thứ bụi đỏ, bụi đen. Ngày mưa, bụi hòa với nước, làm thành một thứ bùn lỏng, ngập sâu như nước bùn ở đầm lầy. Trái lại, những ngày nắng gió, nó cuốn thành những cơn lốc mò mịt, xoáy tròn trong các đường phố rồi bốc lên cao, phủ cả thị trấn. Nhà cửa đều đen thủi đen thui từ trên xuống dưới, đen vì bụi từ mặt đường tung lên, đen vì khói các lò nung, lò bếp hay ở mái nhà xuống. Cái gì cũng đen, đất đen, trời đen, cả nước sông Đivôn cũng đen nốt. Ngựa đen, xe đen, lá cây đen, thế mà người đi trong phố xá lại còn đen hơn nữa. Tưởng như có một đám mây bồ hóng đã phủ xuống thành phố suốt cả một ngày trời, hoặc là một trận lụt hắc ín đã dâng lên ngập nhà cửa đến tận nóc. Ở đây đường sá không phải đắp ra để cho người và xe ngựa đi lại, mà là để cho đầu tàu và toa goòng của khu mỏ chạy. Đâu đâu trên mặt đất cũng thấy đường ray và ghi quay. Những cầu tự hành, những dây cuaroa, những cây trục chuyền quay động trên đầu và rú lên đinh tai nhức óc. Đi cạnh mấy ngôi nhà lớn ta thấy chúng rung chuyển đến tận móng, nhòm vào trong nhà qua các cửa ta thấy có những khối gang to di động như những khối tinh thạch khổng lồ, những búa máy làm tóe lửa như mưa, và ở khắp mọi nơi, những chiếc píttông chạy bằng hơi nước lên xuống đều đều không ngớt. Không có công viên, không có tượng ở các quảng trường, không có công trình kiến trúc. Cái gì cũng giống nhau, cái gì cũng xây dựng trên một kiểu hình khối đục nhiều hay ít cửa sổ tùy theo sự cần thiết.

    Chúng tôi đến gần thành phố lúc hai, ba giờ chiều, mặt trời rực rỡ, vòm trời trong sáng. Nhưng càng đi tối, trời càng sẫm dần: Giữa trời với đất, có một đám khói dày nặng nề kéo qua, thủng toạc ở những chỗ có ống khói cao vứt. Đã từ hơn một tiếng đồng hồ rồi, chúng tôi nghe thấy những tiếng rền mạnh, một thứ tiếng gầm giống như tiếng sóng biển, lẫn với những tiếng nện thình thình. Tiếng rền đó là tiếng quạt máy, còn tiếng nện thình thình là tiếng búa và chày (2) chạy bằng hơi nước.

    Tôi biết ông chú của Alơxi là thợ mỏ ở Vácxơ, làm ở mỏ Tơruye, nhưng cũng chỉ biết có thế. Đến Vácxơ, tôi hỏi mỏ Tơruye thì người ta chỉ cho tôi sang tả ngạn sông Đivôn, trong một thung lũng nhỏ có một con suối chảy qua: Cái mỏ đã mang tên của chính dòng suối ấy. Thành phố đã không có gì hấp dẫn, mà đến phong cảnh thung lũng này thì lại hết sức ảm đạm: Một vành đồi trọc không cây, không cỏ, chỉ có đây đó những dãy đá xám xịt và một vàivạch đất đỏ cắt ngang những dãy đá kia. Đi vào thung lũng thì có những ngôi nhà lớn của sở mỏ, những nhà xe, chuồng ngựa, nhà kho, phòng giấy, những ống khói của nhà máy hơi nước.

    Xung quanh là những đống than, đống đá. Chúng tôi vừa đến khu nhà cửa thì bị một thiếu phụ chặn lại. Dáng chị bơ phờ tóc chị phất phơ trên vai, tay chị dắt một em bé. Chị bảo:

    Các người làm ơn chỉ cho tôi một con đường mát mẻ. Tôi sửng sốt nhìn chị. Chị tiếp:

    Một con đường cây to, bóng mát, bên cạnh có dòng suối róc rách trên đá cuội và chim hót líu lo trên cành.

    Chị nói thế rồi huýt một điệu sáo vui. Thấy tôi không trả lời, mà hình như cũng không nhìn thấy vẻ kinh ngạc của tôi, chị lại nói:

    Các người không gặp con đường ấy ư? Đáng tiếc! Không gặp chắc là vì còn xa lắm. Ở bên phải hay bên trái, em hãy bảo chị đi em! Chị tìm mà có thấy đâu!

    Chị nói thao thao, vừa nói vừa đưa tay vung vẩy, còn tay kia thì âu yếm xoa đầu đứacon.

    Chị hỏi em con đường ấy, vì chị biết chắc là sẽ gặp được Mariuýt? Em biết Mariuýt chứ? Không à? Ấy, Mariuýt là bố của con chị đây. Khi Mariuýt bị khí nổ Gờridu (3) thiêu đốt thì anh trốn vào con đường ấy. Bây giờ thì anh chỉ đi dạo trên những con đường mát mẻ mà thôi, để cho những vết bỏng đỡ nóng rát. Mariuýt biết tìm ra những con đường ấy. Chị thì chị không biết. Bởi thế mà đã sáu tháng nay chị không gặp Mariuýt của chị. Sáu tháng thì lâu quá khi người ta yêu nhau. Sáu tháng, ôi sáu tháng đằng đẵng!

    Chị quay về phía các tòa nhà lớn của sở mỏ, vung tay dữ dội chỉ những cuộn ông khói nhà máy đang phun khói cuồn cuộn và thét lên:

    Công việc dưới hầm mỏ, công việc của quỷ sứ. Trả Mariuýt của tao cho tao!

    Em không phải là người ở đây, phải không? Trông tấm da cừu và cái mũ của em thì biết em từ xa đến. Em hãy đến nghĩa địa mà xem và đếm những nấm mộ: Một, hai, ba.. toàn là chết trong hầm mỏ.

    Thế rồi chị ẵm con lên, siết chặt vào lòng và bảo:

    Mỏ, mày không cướp được bé Pie của tao đâu, không bao giờ! Nước ngọt lắm, mát lắm. Con đường mát ở đâu? Mày không biết con đường ấy thì mày cũng ngu ngốc chẳng kém bọn người kia, chúng cười cợt chế giễu tao. Không biết thì còn giữ tao lại làm gì?

    Mariuýt đang chờ tao mà!

    Chị quay lưng và vừa đi những bước dài vừa huýt điệu sáo vui khi nãy.

    Tôi hiểu đây là một thiếu phụ đã hóa rồ sau khi chồng bị khí gridu nổ giết chết trong hầm mỏ. Chúng tôi đã gặp gỡ người thiếu phụ đáng thương vì quá đau khổ mà phát điên kia trong khung cảnh ảm đạm này, ngay khi mới đặt chân đến vùng mỏ, cuộc gặp gõ ấy làm chúng tôi buồn nẫu ruột.

    Chúng tôi hỏi được nhà chú Gátxpa: Chú ở gần mỏ, trong một đường phố ngoằn ngoèo và dốc, chạy từ đồi xuống bến sông. Đến nơi, tôi gặp một người đàn bà tựa lưng vào cửa nói chuyện với một chị hàng xóm cũng đứng tựa cửa: Tôi hỏi ông Gátxpa thì bà ta trả lời rằng sau giờ tan tầm ông mới về. Bà hỏi:

    Các anh hỏi ông Gátxpa có việc gì?

    Cháu muốn tìm Alơxi.

    Thế là bà nhìn tôi từ đầu đến chân, rồi nhìn con Capi và nói:

    Anh là Rêmi đấy à? Alơxi có nóí chuyện anh với chúng tôi. Nó chờ anh đấy. Anh này là ai? - Vừa nói bà vừa trỏ Mátchia.

    Bạn cháu.

    Người ấy là bà thím của Alơxi. Tôi tưởng bà sẽ mời chúng tôi vào nhà để nghỉ ngơi, bởi vì đôi châu và gương mặt rám nắng của chúng tôi nói lên rõ ràng là chúng tôi mệt mỏi. Nhưng bà chẳng mời qua một tiếng; bà chỉ nhắc lại rằng Alơxi hiện đang ở trong mỏ, đến sáu giờ trở lại nhà thì sẽ gặp nó.

    Tôi vốn không có gan đòi hỏi những cái mà người ta không mời. Tôi đành cảm ơn bà ta về những điều bà cho biết, và thế là chúng tôi trở ra phố, đi lùng ngay một hàng bánh mì vì đói quá: Từ sáng sớm chúng tôi chỉ ăn có mỗi một mẩu bánh mì tối hôm qua còn lại. Tôi lấy làm hổ thẹn về sự đón tiếp đó; tôi cảm thấy Mátchia đang băn khoăn tự hỏi như thế nghĩa là thế nào, và chúng tôi cất công đi bao nhiêu dặm đường vừa qua để làm gì? Tôi đoán rằng Mátchia sẽ không có ý nghĩ tốt đẹp về những người bạn của tôi, và nếu tôi có nói chuyện Lidơ thì nó sẽ không để tai nghe với mối thiện cảm như trước nữa. Mà tôi thì hết sức mong muốn Mátchia có sẵn thiện cảm và tinh thần đối với Lidơ trước khi gặp em.

    Bị tiếp đón lạnh nhạt như thế, chúng tôi không buồn quay trở lại nữa. Gần sáu giờ thì chúng tôi đến chờ Alơxi ở cửa hầm mỏ. Người ta đào ba lò giếng để lấy than mỏ Tơruye. Thợ mỏ không lên xuống trong khu làm việc theo những giếng ấy; họ lên xuống theo một đường hầm dài bắt đầu bên cạnh kho đèn, thông tới tầng khai thác thứ nhất, từ đó tỏa ra khắp nơi trong mỏ. Bố trí như thế để tránh cho thợ những tai nạn thường vẫn xảy ra trong các giếng khi dây cáp đứt, hoặc một cái thùng chở bị vướng mà hất những người trong thùng xuống dưới sâu hàng hai ba trăm mét; lại cũng để tránh cho họ những thay đổi đột ngột khi từ dưới sâu quãng hai trăm mét, nhiệt độ đều và cao, bỗng nhiên vì lên bằng máy mà chuyển ngay vào một nơi nhiệt độ không đều dễ bị sưng phổi, sưng màng phổi.

    Được biết trước thợ mỏ ra lò theo đường hầm ấy, tôi và Mátchia đứng sẵn trước cửa và khi chuông sáu giờ đổ xong, qua mấy phút thì bắt đầu thấy nhiều đốm sáng chập chờn trong hầm tối om. Những chấm ấy lớn dần lên nhanh chóng. Đó là những người thợ đã làm xong công việc trong hầm tối, bây giờ xách đèn đi lên mặt đất sáng sủa. Họ đi chậm chạp, nặng nề, có vẻ như đầu gối họ bị đau làm sao ấy, điều này thì về sau, khi chính mình cũng đã leo hết những thang bậc xuống đến tầng cuối, tôi mới hiểu. Mặt mày họ đen đủi như mặt những người thợ thông ống khói, áo mũ họ dính đầy bụi than và bết nhiều mảnh bùn ướt. Đi đến kho đèn, ai nấy mắc đòn của mình lên một chiếc đanh riêng. Tôi hết sức chú ý, nhưng cũng không thấy Alơxi đi ra, và nếu anh ấy không nhảy tới ôm choàng cổ tôi thì có lẽ tôi cũng đã để anh đi qua mất mà không nhận ra, bây giờ anh đen thủi đen thui từ đầu đến chân, chẳng còn giống cái thằng bạn ngày nào chạy đi chạy lại trong vườn, áo sơmi sạch sẽ xắn tận khuỷu tay, da trắng lồ lộ dưới cổ áo để hở. Anh ấy quay lại với một người trạc bốn mươi đi bên cạnh: "Rêmi đây!". Người đó có gương mặt trung hậu hiền lành cũng như bác Acanh. Điều này chắng có gì lạ, bởi vì họ là anh em ruột. Tôi biết đó là chú Gátxpa. Chú ân cần bảo:

    Hai chú cháu tôi đợi anh đã lâu lắm!

    Từ Pari đi Vácxơ đường dài quá!

    Mà chân anh thì ngắn, có phải không? - Chú vừa bảo thế, vừa cười.

    Được gặp lại Alơxi, Capi có vẻ sung sướng; nó ngoạm tay áo Alơxi mà lôi để tỏ bộ mừng rỡ. Trong lúc đó, tôi giới thiệu cho chú Gátxpa biết Mátchia là bạn và là người cộng sựvới tôi, một chú bé trung thực tôi quen biết từ trước, sau này mới gặp lại, chú ta thổi kèn đẩy thì không ai bì. Chú Gátxpa tiếp lời tôi:

    Còn kia là "ông" Capi. Mai là chủ nhật, sau khi nghỉ ngơi đã lại sức, các anh biểu diễn cho chúng tôi xem với! Alơxi bảo cái anh Capi này thông thái hơn một thầy giáo, lành nghề hơn một diễn viên.

    Đứng trước bà thím, tôi lúng túng bao nhiêu, thì giờ đây, với ông chú, tôi thấy thoải mái bấy nhiêu. Ông đúng là em "bố" Acanh. Ông bảo:

    Hai cháu nói chuyện với nhau đi, chắc là có nhiều tâm sự để giãi bày với nhau. Phần chú, để chú chuyện trò với cái anh thanh niên nghệ sĩ kèn đẩy này.

    Chuyện của chúng tôi đủ nói trong một tuần lễ, mà e một tuần lễ cũng còn ít quá! Alơxi muốn biết tôi đã đi đường như thế nào, còn tôi, tôi vội muốn nghe xem anh ấy đã làm quen với cuộc sống mới như thế nào. Hai đứa mải lo hỏi han nhau hóa ra không đứa nào chú ý trả lời cho đứa nào cả. Chúng tôi đi từ từ, những người thợ mỏ trên đường về lần lượt vượt chúng tôi, họ đi thành một hàng dài, choán hết cả đường phố, người nào người nấyđều dính đầy bụi đen, cũng thứ bụi đã đóng thành lốp dày trên mặt đất. Đi gần tới nhà thì chú Gátxpa đến bên chúng tôi, bảo:

    Các chú bé này, các chú ăn bữa tối với chúng tôi nhé!

    Trong khi đi đường, tôi nghĩ thầm rằng thái độ của bà thím đã không hứa hẹn gì tốt đẹp thì khi đến nhà e có lẽ phải chia tay với nhau. Cho nên lời mời của chú Gátxpa làm cho tôi sung sướng hơn bất cứ lời mời nào khác. Bước vào nhà, chú nói ngay:

    Đây là Rêmi, và đây là bạn của chú ta.

    Tôi cũng vừa gặp các chú ấy.

    Càng hay! Vậy thì coi như đã quen nhau. Hai chú ăn tối với chúng ta đây.

    Ăn tối với Alơxi nghĩa là được ở lại đêm với anh ấy, điều ấy đành rằng làm cho tôi sướng rơn đi, nhưng thực tình mà nói thì tôi phải thú thực rằng chỉ riêng cái việc được ăn bữa tối cũng đủ làm cho tôi sung sướng rồi. Từ khi ở Pari cất bước ra đi, hai chúng tôi ăn uống thất thường, gặp đâu ăn đó, đây một mảnh cùi nhỏ, kia một mẩu bánh con, chứ có mấy khi được ngồi ghế tựa dùng bữa đàng hoàng, ăn xúp trong đĩa. Thực ra chúng tôi đã kiếm được khá tiền, đủ sức để tự thết mình những bữa chén ra trò trong các quán ăn. Nhưng còn phải dành dụm để tậu con bò của hoàng tử, và Mátchia thì tốt bụng đến nỗi nghĩ đến việc mua bò, nó cũng sung sướng chẳng kém gì tôi.

    Nhưng diễm phúc dự một bữa tiệc, tối hôm ấy chúng tôi nào có được hưởng! Tôi cũng ngồi trước bàn ăn, trên ghế tựa, nhưng người ta không dọn xúp cho chúng tôi xơi. Những công ty mỏ hầu hết đều có mở những cửa hàng bán theo giá vốn cho thợ tất cả những gì cần thiết cho đời sống của họ. Quả là có lợi rõ ràng: Người thợ được mua những thứ tốt và rẻ mà đến kì lương mới phải trừ tiền, tránh được nạn mua chịu của bọn con buôn nhỏ chúng rỉa ráy họ đến nghèo đói. Họ cũng tránh được nợ nần (4). Tuy nhiên cũng như nhiều chuyện tốt khác, cái điều này cũng có mặt xấu của nó. Ở Vácxơ, vợ những người thợ mỏ không có thói quen làm việc trong khi chồng xuống hầm. Họ dọn dẹp quét tước xong thì tụm nhau khi ở nhà này, khi ở nhà nọ để uống cà phê, hay sôcôla mua chịu ở cửa hàng tiếp phẩm. Họ nói chuyện, họ ngồi lê đôi mách cho đến khi chiều xuống, tức là lúc người chồng ở hầm mỏ ra, trở về nhà để ăn tối, thì họ không còn có thì giờ để nấu nướng gì nữa. Lúc ấy họ bèn chạy đến cửa hàng mua về những món thịt nguội. Tình trạng này không phải đều khắp nhưng cũng khá phổ biến. Cũng vì bà thím Gátxpa mải la cà tán gẫu mà chúng tôi không được ăn xúp. Đó là thói quen của bà ta, về sau tôi thấy tài khoản của bà ở cửa hàng gồm

    Nhiều nhất là khoản cà phê với sôcôla và khoản thịt lợn chế biến sẵn. Ông chú là người dễ dãi vô sự, ông cứ việc xơi những món thịt này không một tiếng phàn nàn, hoặc có nói một lời nhận xét nào thì cũng là hết sức nhẹ nhàng. Ông chìa cốc nói:

    Tôi không trở thành một đứa nát rượu vì tôi là người đạo đức. Vậy thì ngày mai nhà hãy cố gắng nấu cho một món xúp.

    Thì giờ đâu?

    Ngày giờ ở trên mặt đất ngắn hơn ở dưới mặt đất ư?

    Thế thì ai khâu vá cho các người? Các người phá hoại quần áo khiếp lắm!

    Bấy giờ chú Gátxpa nhìn lại áo quần vấy bẩn bụi than và thủng rách đây đó của mình:

    Ừ, quả là chúng tôi ăn mặc như những ông hoàng thật!

    Bữa ăn tối của chúng tôi chóng xong thôi! Lúc đứng lên chú Gátxpa bảo tôi:

    - Chú bé, chú ngủ với Alơxi.

    Rồi chú quay sang nói với Mátchia:

    Còn chú, chú xuống nhà bếp, ta sẽ lót cho chú một ổ rơm và cỏ ấm áp. Suốt buổi tối và mãi đến quá nửa đêm, Alơxi và tôi thức nói chuyện.

    Nhờ Alơxi, tôi được biết chú Gátxpa là thợ cuốc, nghĩa là chú dùng cuốc chim mà lấythan ra, Alơxi là thợ đun xe của chú, nghĩa là anh ấy đẩy, đun một toa goòng đầy than mới khao (5) chạy trên đường ray trong hầm, từ nơi lấy than cho đến lò giếng. Đến đó, goòng được móc vào một dây cáp và kéo lên trên mặt đất bằng máy.

    Tuy Alơxi mới vào làm thợ mỏ chưa được bao lâu nhưng anh đã yêu mỏ và tự hào về mỏ: Theo anh thì đây là cái mỏ đẹp nhất xứ, kỳ lạ nhất xứ. Anh diễn tả với cái vẻ quan trọng của một nhà du lịch từ nơi xa lạ về, thấy người ta chăm chú nghe mình.

    Trước hết, người ta đi theo một con đường ngầm đào sâu trong núi đá, chừng mười phút thì đến một bậc thang đá thẳng và dốc; dưới chân thang đá là chiếc thang bắc, rồi lại thang bậc đá, rồi thang bắc nữa và thế là đến tầng thứ nhất, sau chừng năm mươi mét. Muốn xuống tới tầng hai, sâu chín mươi mét, và tầng ba, sâu hai trăm mét, cũng lại theo một hệ thống thang bậc đá và thang bắc như thế, Alơxi làrn việc ở chính cái tầng ba này và muốn xuống tới đó, anh phải lên xuống con đường dài gấp ba lần trèo lên đỉnh tháp nhà thờ Đức Bà Pari.

    Thế nhưng lên xuống tháp nhà thờ Đức Bà vẫn dễ dàng hơn; ở đó, thang bậc đều nhau và sáng sủa; còn ở đây, trong mỏ đâu có được như thế. Bậc thang nằm vào những chỗ gồ ghề trên vách đá, thì khi cao khi thấp, chỗ rộng chỗ hẹp. Chẳng có ánh sáng nào ngoài cái đèn cầm trên tay. Trên mặt đường, thuần một thứ bùn trơn nhẫy, luôn luôn ướt sũng vì những giọt nước nhỏ xuống đều đều, có khi rơi lên mặt lạnh buốt.

    Xuống sâu hai trăm mét đã là lâu nhưng đâu đã xong, lại còn phải theo các đường hầm mà đi đến những lớp khác nhau mới tới chỗ làm việc. Tất cả hệ thống đường ngầm mỏ Tơruye ước độ ba mươi nhăm đến bốn mươi kilômét. Tất nhiên không phải đi hết cả bốn chục kilômét ấy, nhưng vẫn mệt lắm vì có những quãng phải lội trong nước thấm qua những kẽ hở trên vách đá chảy lênh láng về những giếng chứa, ở đó có máy bơm hút lên tống ra ngoài.

    Những quãng đường ngầm xuyên qua những vỉa đá cứng thì chỉ là địa đạo bình thường, nhưng qua những lớp đất lổn nhốn hoặc dễ thụt thì phải chống đứng và chống ngang bằng những đoạn gỗ thông phạt bằng búa, bởi vì những vết cắt bằng cưa dễ làm cho gỗ sớm bị mủn. Tuy đã sắp đặt một cách riêng thích hợp để chống lại sức ép của lớp đất, nhiều khi sức ép quá mạnh cùng uốn cong gỗ khiến đường hầm hẹp vào hoặc thấp xuốngđến mức phải bò mà chui qua. Trên những đoạn gỗ ấy, nấm mọc nhiều lại có những nắm lông tơ nhẹ và xốp như bông, màu trắng như tuyết nổi bật trên đất đen, gỗ đương mục tỏa mùi nhựa cây; trên những mũ nấm, trên những cây cỏ lạ, trên rêu trắng, có những con ruồi, những con nhện, những con bướm, nhưng chúng không giống đồng loại trên mặt đất. Cũng có cả chuột cống chạy loăng quăng và những con dơi bám chặt vào thân gỗ, đầu lộn xuống dưới.

    Những đường hầm ấy thường giao nhau, và đây đó, như ở Pari, cũng có những "quảng trường" và những ngã tư, cũng có con đường ngầm đẹp và rộng như đường phố lớn, hoặc hẹp và thấp như những phố nhỏ. Điều khác nhau là tất cả thành phố ngầm ấy không được sáng sủa, kém xa cái thành phố trên mặt đất ban đêm, vì thiếu những cây đèn dầu hoặc đèn khí lớn, mà chỉ có những cây đèn nhỏ người thợ mang theo. Ánh sáng không đủ đấy, nhưng tiếng động lại luôn luôn nhắc cho biết ở đây không phải là âm phủ: Trong những công trường khai phá, thường có tiếng thuốc nổ và mùi thuốc cùng với khói theo gió bay ra; trong đường ngầm, tiếng bánh xe lăn; trong lò giếng, tiếng thang kéo than cọ vào dây dịnh hướng, và át tất cả là tiếng máy hơi nước ở tầng hai chạy ầm ầm.

    Nhưng quang cảnh lạ mắt hơn cả là những ngách ngược, tức là những đường ngầm đào trong dốc vỉa than. Những người thợ cuốc làm việc trong đó, cởi trần ra khao than; nằm nghiêng hoặc ngồi xổm. Từ ngách ngược, than đá trôi xuống các tầng, để chuyển từng goòng ra lò giếng khai thác.

    Đó là quang cảnh hầm mỏ những ngày làm việc bình thường, nhưng cũng có những ngày xảy ra tai nạn. Đến Vốcxơ được hai tuần lễ, Alơxi đã chứng kiến một tai nạn kiểu đó và thiếu chút nữa thì anh ta cũng là một nạn nhân: Hơi Gờridu nổ. Gờridu là một thứ khí tự nhiên trong các mỏ than hễ gặp lửa là nổ ngay. Không gì ghê gớm hơn cơn nổ ấy: Nó đốt sạch, phá sạch tất cả chung quanh. Chỉ có thể ví với sức nổ của một thùng thuốc súng lèn đầy. Ngọn lửa đèn hoặc lửa diêm vừa bắt vào khí Gờridu, tức thì đám cháy bùng lên như chớp nhoáng trong khắp đường hầm, phá tan mọi thứ trong hầm mỏ; kể cả những lò giếng thông hơi, đều bị nó hắt tung mãi đi. Nhiệt độ có lúc lên cao đến nỗi than thường trong mỏ nóng lên biến thành than cốc.

    Một vụ nổ khí Gờridu đã xảy ra sáu tuần lễ trước, giết mất chừng một chục người thợ. Vợ góa của một người thợ ấy đã hóa điên. Tôi hiểu đó là người đàn bà dắt con đi tìm "một con đường mát mẻ" mà tôi gặp khi mới tới đây.

    Chống lại những vụ nổ ấy, người ta dùng nhiều cách để phòng: Cấm hút thuốc, và thường thường các kỹ sư, trong khi tuần tra, bắt buộc thợ phải hà hơi ngay vào mũi họ để xét xem có ai đã vi phạm điều cấm. Và cũng để đề phòng tai nạn kinh khủng ấy, người ta dùng loại đèn Đêvi, mang tên nhà bác học người Anh đã sáng chế ra nó. Những chiếc đèn ấy có một mạng lưới làm bằng những sợi kim khí đan khá dầy bao bọc, lửa cháy không lọt qua những lỗ đan được. Khi gặp khí Gờridu, chất khí sẽ bắt lửa nhưng chỉ cháy ngay bên trong đèn, không nổ lan ra ngoài.

    Mới đến Vácxơ, tôi đã tò mò muốn xuống hầm mỏ một chuyến thử xem sao. Những chuyện Alơxi kể càng kích thích tính tò mò ấy đến cao độ. Nhưng ngày hôm sau, khi tôi nói với chú Gátxpa thì chú bảo rằng không thể được, vì chỉ những người làm trong mỏ mới được xuống mỏ mà thôi. Chú cười và nói thêm:

    Nếu chú muốn làm thợ mỏ - cái đó dễ thôi - thì điều chú mong ước sẽ được thỏa mãn. Nói cho đúng thì cái nghề này cũng chả phải là khổ hơn nhiều nghề khác, và nếu chú sợ mưa, sợ sấm thì cái nghề này thích hợp với chú đấy. Dẫu sao nó cũng còn đỡ hơn cáinghề hát rong trên đường thiên lý. Chú ở lại với Alơxi nhé! Đồng ý chưa, chú bé. Rồi người ta cũng sẽ dùng Mátchia nhưng không phải để thổi kèn đẩy đâu nhá!

    Tôi đi tới Vácxơ không phải là để ở lại đó. Tôi đã dự định cho tôi một nhiệm vụ, một mục đích khác hơn là suốt ngày đẩy một xe goòng ở tầng hai hay tầng ba tại mỏ Tơruye. Bởi thế, tôi đành nén cái tính tò mò của tôi xuống. Tôi tưởng rồi cho đến khi lên đường, tôi cũng chả biết gì hơn ngoài những điều Alơxi kể hoặc những câu giải đáp khi được khi mất ở chú Gátxpa. Thế mà tình cờ tôi lại được biết tất cả những ghê rợn, được cảm thấy tất cả những kinh hoàng của một tai nạn mà đôi khi người thợ mỏ gặp phải.
     
  5. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,892
    Chương 24: Thợ đun xe

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Nghề mỏ không phải là một nghề hại sức khỏe. Ngoài vài thứ bệnh hoạn do sự thiếu không khí kéo dài làm giảm hồng huyết cầu trong máu, thì người thợ mỏ cũng khỏe mạnh như người nông dân ở vùng khí hậu tốt. Người thợ mỏ còn hơn người nông dân ở chỗ tránh được những thay đổi của thời tiết, tránh được mưa, rét, nóng bức quá độ. Đối với anh ta thì cái hại lớn nhất là ở những vụ sụt hầm, những vụ nổ và những trận lụt, sau nữa là ở những tai nạn lao động xảy đến do bất cẩn hoặc vụng về.

    Một ngày trước hôm tôi định lên đường thì Alơxi bị giập bàn tay phải khá nặng vì anh đã vụng về để cho một tảng than to đè lên: Cả bàn tay thâm tím với nửa ngón tay bị giập. Thầy thuốc của sở mỏ đến khám và băng bó cho anh. Bệnh tình cũng không đến nỗi trầm trọng, bàn tay sẽ lành, cả ngón tay giập nữa. Nhưng cần phải nghỉ ngơi mới được.

    Chú Gátxpa vốn dễ tính, sự đời diễn ra thế nào thế ấy, không buồn phiền cũng không giận dữ. Chỉ có mỗi một điều có thể làm chú mất vui, đó là công ăn việc làm bị trở ngại. Khi chú nghe nói Alơxi phải nghỉ nhiều ngày thì chú la lối lên. Trong những ngày đó, ai đẩy xe cho chú? Không có ai thay Alơxi cả. Nếu thay hẳn đi thì chú tìm được người đấy, nhưng ngay trong mấy ngày thôi thì lúc này không thu xếp được, người ta đang thiếu người làm, nhất là thiếu trẻ con.

    Tuy thế, chú cũng vẫn chạy ngược chạy xuôi cố tìm một người đun xe. Nhưng chú không tìm được. Chú lại than thở. Trông chú quả thật khổ tâm, vì chú thấy mình bắt buộc cũng phải nghỉ việc, mà túi tiền của chú không cho phép chú nghỉ.

    Tôi nhận thấy thế và hiểu rõ nỗi khổ tâm của chú; mặt khác cảm thấy trong hoàn cảnh như thế này, mình hầu như có bổn phận phải đền đáp sự tiếp đãi của người ta theo cách của mình, tôi hỏi chú xem cái công việc đẩy xe than có khó không. Chú trả lời:

    Còn gì dễ bằng! Chỉ việc đẩy một cái gòng cho nó lăn trên đường sắt.

    Gòng chắc là nặng?

    Không nặng lắm, thằng Alơxi đẩy được kia mà.

    Ờ nhỉ! Vậy, nếu Alơxi đẩy được thì cháu cũng đẩy được.

    Cháu ấy à?

    Hẳn là cháu làm được, nếu cháu muốn.

    Cháu muốn, vì cái đó giúp ích cho chú.

    Cháu là một chú bé tốt. Thế là quyết định rồi đấy! Mai cháu xuống mỏ với chú. Đúng là cháu giúp ích cho chú đấy! Nhưng có lẽ cũng sẽ có ích cho cháu một ngày kia. Nếu làm nghề này mà cháu thấy ưa thích thì còn hơn là đi lang thang trên đường thiên lý. Trong mỏ chẳng sợ đói đâu!

    Mátchia sẽ làm gì trong khi tôi ở dưới mỏ nhỉ? Tôi không thề bắt chú Gátxpa nuôi nó. Tôi hỏi xem nó có muốn đi biểu diễn một mình với con Capi ở các vùng lân cận không. Nó nhận lời ngay. Nó vừa cười vừa nói:

    Một mình tớ mà cũng làm ra tiền để thêm vào khoản tậu bò thì tớ thú lắm.

    Ba tháng sống chung với tôi, sống ở ngoài trời, Mátchia không còn giống cái thằng bé gầy còm, buồn bực mà tôi đã gặp cạnh nhà thờ Xanh Mêđa đúng khi nó đói lả; lại càng không giống thằng nhãi nhóc mà tôi trông thấy lần đầu tiên ở góc nhà tên Garôphôli, đang trông nồi thịt hầm, chốc chốc lại đưa tay lên ôm cái đầu nhức nhối. Bây giờ thì Mátchia không còn bị nhức nhối cái đầu nữa, nó cũng chẳng còn buồn chán mà cũng không gầy còm nữa. Chính cái gác xép ở phố Luốcxin đã làm cho nó rầu rĩ. Bây giờ thì nắng và khí trời đã đem lại sức khỏe cho nó, do đó, cũng đem lại sự vui tươi.

    Trong khi đi đường, nó là tiếng cười, là sự vui tính hiện thân lên; nó nhìn mọi việc ở khía cạnh tốt; trong chuyện rủi nó cũng tìm được thấy cái may; cái gì cũng làm nó vui được, đỉnh đinh gì cũng làm nó sướng rơn lên. Không có nó thì tôi đã ra sao rồi nhỉ? Chắc là đã nhiều lần không chống nổi mệt nhọc và buồn phiền.

    Thế là chúng tôi giao hẹn với nhau, bắt đầu từ ngày hôm sau, trong lúc tôi xuống hầm mỏ làm việc thì Mátchia đi biểu diễn âm nhạc và kịch để gia tài của chúng tôi thêm to. Tôi giải thích cách thu xếp này cho con Capi nghe và chừng như nó cũng hiểu.

    Sáng hôm sau, tôi mặc bộ đồ làm việc của Alơxi. Sau khi đã dặn dò Mátchia và Capi lần cuối, bảo phải hết sức ngoan trong khi biểu diễn, thì tôi theo chú Gátxpa. Lúc đưa cái đèn xách cho tôi, chú bảo:

    Phải cẩn thận đấy! Cứ theo gót chú mà đi. Và lúc xuống thang bắc, cháu nhớ đừng bỏ nấc thang trên khi chưa bám được nấc dưới.

    Chúng tôi đi vào đường hầm, chú đi trước, tôi theo sát chú. Chú nói tiếp:

    Nếu cháu trượt ở cầu thang thì chớ có buông xuôi, phải cố víu vào cái gì đấy mà gượng lại, chứ đáy hầm sâu và rắn lắm đấy!

    Dù không có những lời dặn dò ấy, tôi cũng đủ xúc động lắm rồi. Không thể nào bình tĩnh được khi người ta từ bỏ ánh sáng để đi vào đêm tối, rời bỏ mặt đất để đi xuống hang sâu. Tự nhiên, tôi quay đầu nhìn lại. Nhưng chúng tôi đi đã khá sâu vào trong đường hầm cho nên ở đầu kia cái ống dài ấy, ánh sáng chỉ còn là một quả cầu trắng, tựa như cái mặt

    Trăng ở giữa một vùng trời tăm tối không sao. Tôi lấy làm xấu hổ về cái cử chỉ máy móc ấy của tôi, nó chỉ diễn ra trong một thoáng, và tôi lại bước theo gót chú Gátxpa ngay.

    Lát sau, chú nói: "Cầu thang đây!" và chúng tôi đã đứng trước một cái hang đen ngòm. Trong khoảng sâu mà mắt tôi không ước lượng được, tôi thấy những ánh lửa đu đưa, gần miệng hang thì còn to, càng đi xa càng nhỏ dần, cho đến khi chỉ còn là những đốm. Đó là đèn của những người thợ mỏ đã vào hầm trước chúng tôi. Một luồng không khí hâm hẩm thổi tạt vào mặt, mang đến chúng tôi tiếng thì thào chuyện vãn của họ. Trong không khí ấy có cái mùi mà bây giờ tôi mới hít thở lần đầu, một cái mùi gì như là mùi ête và dầu xăng trộn lẫn.

    Hết cầu thang thì đến cầu thang bắc, hết thang bắc thì đến một cầu thang nữa. Đến cuối cầu thang này, chú Gátxpa nói: "Chúng ta đã đến tầng một".

    Chúng tôi đang ở trong một hầm xây cuốn tò vò, hai bên có tường gạch thẳng đứng. Vòm cuốn hơi cao hơn tầm người một ít. Tuy thế có những đoạn người ta phải cuối xuống mới đi qua được, vì vòm đá sụt xuống, hoặc là vì đất nền đã cồn lên. Chú Gátxpa nói:

    Sức ép của đất như thế đấy! Vì hòn núi bị khoét khắp nơi và trong lòng núi có những chỗ trống cho nên đất cứ muốn sụt xuống và khi đã quá nặng thì nó đè bẹp hầm.

    Trên nền đất có đường ray và dọc theo đường hầm có một dòng nước.

    Dòng nước này sẽ hợp với nhiều dòng khác, chúng đều do những mạch nước rỉ kết lại. Tất cả đều đổ dồn vào một giếng chứa. Thế là máy bơm mỗi ngày phải hút từ một nghìn

    Đến một nghìn hai trăm mét khối nước đổ ra sông Đivôn. Nếu máy nghỉ thì hầm mỏ bị lụt ngay. Với lại, bây giờ thì chúng ta đang ở ngay dưới lòng sông Đivôn đấy.

    Tôi giật mình đánh thót một cái làm cho chú Gátxpa cười vang.

    Ở sâu những năm mươi mét như thế này thì cháu không ngại bị nước đổ xuống đầuđâu!

    Rủi có một cái hang, cái lỗ gì thì sao?

    Ừ phải, một cái lỗ thì đáng sợ đấy! Các đường hầm đi ngang dọc chín mười lần dưới lòng sông. Có những mỏ đáng sợ lụt, nhưng ở đây thì không. Gờridu cháy, hầm sạt, mìn nổ, bấy nhiêu cũng đã quá đủ rồi.

    Đến công trường, chú Gátxpa chỉ bảo công việc cho tôi làm. Khi chiếc xe goòng của tôi đầy than, chú cùng đẩy với tôi để chỉ bảo cho tôi cách đẩy xe cho tới giếng lấy than và cách đỗ xe bên đường tránh khi gặp xe khác đi ngược chiều. Chú nói có lý, cái nghề đẩy xe than này không khó: Vài giờ sau thì tôi đã làm tạm được, nhưng chưa thành thạo. Tôi chưa quen tay, chưa khéo tay, mà thiếu những cái đó thì có nghề gì ta làm tốt được. Tôi đành hì hà hì hục lấy sức thay vào, cho nên mệt nhiều mà hiệu quả thì ít.

    Cũng may là cảnh sống mấy năm qua, nhất là hành trình ba tháng vừa rồi, đã làm cho tôi quen chịu đựng mệt nhọc. Vì thế, tôi không hề kêu rên, và chú Gátxpa tuyên bố tôi là một thằng bé ngoan, sau này tất trở thành một người thợ mỏ giỏi.

    Nhưng tôi chỉ thích xuống mỏ chứ có thích gì ở lại trong mỏ! Tôi chỉ tò mò thôi, tôi không nghe thấy tiếng gọi của nghề nghiệp.

    Muốn sống trong lòng đất, phải có những đức tính đặc biệt mà tôi không có: Phải ưa lặng lẽ, quạnh hiu, trầm tư mặc tưởng. Phải biết sống những khắc, những ngày đằng đẵng, tâm trí lắng xuống với mình, không trao đổi với ai một lời, không có một phút giải trí. Thế mà tôi thì không có cái khiếu ấy, xưa nay tôi quen sống lang thang, luôn chân đi, luôn mồm hát. Những giờ khắc tôi đẩy xe gòng trong đường hầm sao mà lạnh lùng, buồn tẻ thế! Đường hầm âm u, chiếc đèn tay le lói, tiếng ù ù xa xôi của xe gòng lăn trên đường sắt, tiếng róc ráchcủa dòng nước, thỉnh thoảng tiếng mìn nổ lại xé toang sự lặng lẽ cõi âm này và làm cho nó càng nặng nề, ảm đạm thêm.

    Xuống mỏ, lên mỏ mất nhiều công sức cho nên người ta ở luôn dưới mỏ suốt cả ngày mười hai tiếng đồng hồ, không về nhà ăn trưa. Người ta ăn uống ngay ở công trường.

    Gần khu khai thác của chú Gátxpa, có một người đun xe gòng không phải là trẻ con như những người đun gòng khác. Người ấy, ngược lại là một ông già râu bạc. Khi tôi nói râu bạc phải hiểu rằng nó chỉ bạc ngày chủ nhật, ngày tổng vệ sinh, còn trong tuần thì ngày thứ hai nó bắt đầu ngả màu xám để đến thứ bảy thì đen hoàn toàn. Người ấy trên sáu mươi. Ngày còn trẻ, ông ta là thợ chống hầm tức là thợ mộc chuyên việc làm cọc gỗ chống hầm và chăm sóc sửa chữa những cọc ấy. Nhưng trong một vụ sập hầm, ông bị dập nát ba ngón tay, từ đấy ông phải bỏ nghề thợ mộc. Vì ông cứu ba người bạn thợ mà bị nạn cho nên sở mỏ của ông cho ông hưởng một khoản trợ cấp nhỏ. Ông sống bằng khoản trợ cấp ấy được mấy năm, sau đó sở mỏ bị vỡ nợ, ông trở thành không nghề nghiệp, không kế sinh nhai. Lúc ấy ông phải xin vào làm thợ đẩy xe ở mỏ Tơruye. Người ta quen gọi ông là "cụ giáo" bởi vì ông hiểu biết nhiều điều mà những người thợ cuốc, ngay đến thợ cả cũng không biết, và cũng tự hào về những kiến thức đó, lúc nào ông cũng sẵn sáng trình bày.

    Trong các bữa ăn trưa, chúng tôi làm quen với nhau, và ông tỏ ý trìu mến tôi ngay. Tôi là một đứa say sưa nói chuyện, ông là một người vui chuyện, hóa nên chúng tôi trở thành đôi bạn chẳng rời nhau. Thường thường trong mỏ người ta ít nói, nên những người khác bảo chúng tôi là ba hoa.

    Nghe những chuyện Alơxi kể, tôi còn thèm thuồng vì chưa hiểu hết những điều mình muốn biết; những câu trả lời của chú Gátxpa cũng vẫn chưa làm tôi thỏa mãn vì khi tôi hỏi chú chẳng hạn: "Than đá là gì?" thì chú cứ một mực trả lời:

    Đó là than có cái dáng đá.

    Câu giải đáp của chú về than đá cũng như các câu giải đáp tương tự về những việc khác không làm cho tôi vừa ý, bởi vì cụ Vitali đã tập cho tôi cái thói quen không chịu thỏa mãn một cách dễ dàng như vậy. Khi tôi hỏi cụ giáo cái câu ấy thì cụ trả lời khác hẳn. Cụ nói:

    Than đá thì cũng là than củi mà thôi! Khi chúng ta đốt than đá, chúng ta không bỏ vào lò những cây cối ở thời đại chúng ta, do những con người như cháu và bác làm thành than. Chúng ta bỏ vào lò những cây cối từ đời xửa đời xưa do những lực lượng thiên nhiên biến thành than, những lực lượng như cháy rừng, núi lửa, động đất.

    Thấy tôi nhìn cụ một cách kinh ngạc, cụ bảo:

    Hôm nay chúng ta không có thì giờ nói cái chuyện ấy, phải đẩy xe đã! Nhưng mai chủ nhật, cháu đến bác chơi, bác sẽ giải thích cho nghe. Ở nhà bác có những mẫu than, mẫuđá bác nhặt nhạnh được từ ba mươi năm nay, chúng sẽ giúp cháu hễ nghe cái gì thì nhìn thấy và hiểu ngay cái ấy. Người ta cười mà gọi bác là cụ giáo. Nhưng cháu sẽ thấy cũng có

    Ích ít nhiều. Đời sống của con người không phải chỉ ở hai bàn tay, nó còn ở trong đầu nữa. Trạc tuổi cháu, bác cũng ham hiểu biết như cháu bây giờ. Sống trong mỏ bác muốn hiểu biết những điều mình nhìn thấy hằng ngày. Bác hỏi han các kỹ sư những khi họ vui lòng nói chuyện, và lúc đọc sách. Sau khi bị nạn, bác có thì giờ nhàn rỗi và dùng thì giờ ấy để học hỏi. Sách vở là những cặp kính, khi người ta có đôi mắt để trông nhìn mà người ta mang thứ kính ấy lên thì người ta sẽ nhìn thấy được rất nhiều. Bây giờ thì bác không có nhiều thì giờ lắm để đọc sách và bác cũng không có tiền mua sách. Nhưng bác còn cặp mắt luôn mở. Mai cháu tới nhà bác nhé! Được bày vẽ cho cháu, trông nhìn quanh cháu, bác cũng thích lắm. Một lời hay lọt vào một lỗ tai tốt sẽ làm nảy nở những gì, ai biết được? Vì đã đưa đường chomột nhà bác học lớn là Bờrôngnhia (1) đi vào đường hầm mỏ ở Bétxe và nghe ông ta nói chuyện trong lúc nghiên cứu mà bác nảy ra cái ý định muốn học tập. Và cũng nhờ vậy mà ngày nay bác hiểu biết hơn các bạn khác ít nhiều. Thôi mai nhé!

    Sáng hôm sau, tôi báo với chú Gátxpa là tôi đi thăm cụ giáo. Chú cười, bảo tôi:

    À, vậy là thằng bé đã gặp được người để chuyện rồi! Đi đi, cứ đi đi cháu ạ, cháu thích thì cứ đi! Dẫu sao thì tin cái gì, không tin cái gì cũng tùy cháu cả. Có điều là nếu cháu học được gì ở ông cụ ấy, cũng đừng nên tự phụ vì nó. Cái "cụ giáo" ấy mà không tự phụ thì quả là một con người tốt.

    Cụ giáo không ở trong thành phố như phần nhiều những người thợ mỏ. Cụ ở một nơi buồn tẻ, nghèo nàn, trong vùng có những hang hốc tự nhiên khoét sâu vào sườn núi, cách thành phố một quãng ngắn. Cụ ở nhà một bà già vợ góa của một người thợ mỏ chết vì nạn sập hầm. Bà ấy cho cụ thuê cái hầm nhà bà và cụ kê giường nằm ở chỗ khô ráo nhất; nói thế không phải là nó khô ráo lắm đâu, bởi vì nấm vẫn mọc ngay trên chân giường. Nhưng đối với một người thợ mỏ luôn luôn dầm chân dưới nước, suốt ngày bị nước rỏ trên người, thì đây là một điều vụn vặt không đáng kể. Cái vấn đề trọng yếu là được ở gần các hang núi để tìm tòi nghiên cứu, nhất là làm sao có chỗ để tùy ý cắt đặt những mảnh than, những hòn thạch mà cụ tập hợp. Khi tôi bước vào thì cụ ra đón tôi và nói, giọng sảng khoái:

    Bác đã mừng cháu một tiệc hạt dẻ lùi nhắm với vang trắng đây. Ừ, tuổi trẻ có tai có mắt muốn nghe, muốn nhìn thì cũng có họng nữa. Muốn đánh bạn với họ, phải thỏa mãn tất cả các cái ấy cùng một lúc. Sau tiệc hạt dẻ, chúng ta sẽ trò chuyện và bác cũng sẽ chỉ cho cháu xem kho sưu tầm của bác.

    Cụ nói mấy tiếng "kho sưu tầm của bác" với giọng tự hào có lẽ không có ông viện trưởng viện bảo tàng nào tự đắc đến thế. Nói cho đúng thì cái kho sưu tầm ấy cũng khá phong phú, theo sự nhận xét của tôi, và nó chiếm cả gian phòng. Mẫu bé thì xếp trên những tấm ván hoặc trên những chiếc bàn, mẫu lớn thì đặt dưới đất. Đã hai mươi năm nay, trong lúc tìm tòi khảo cứu, cụ góp nhặt tất cả những cái gì đáng chú ý. Các mỏ ở khu vực sông Xerơ và sông Đivôn vốn giàu nhưng cây cỏ hóa thạch, cho nên ở kho tàng của cụ có những mẫu rất quý có thể làm cho một nhà địa chất hay một nhà sinh vật học sung sướng.

    Cụ giáo nôn nóng nói cũng như tôi nôn nóng được nghe cho nên chúng tôi thanh toán nhanh chóng bữa tiệc hạt dẻ. Cụ nói:

    Cháu muốn biết than đá là gì thì hãy nghe đây, bác sẽ giảng cho cháu, đại khái và vắn tắt, để cháu đủ sức xem những vật mẫu của bác. Chúng sẽ giảng giải rõ hơn vì mặc dù người ta gọi bác là cụ giáo, bác đâu có phải là một nhà bác học, không, còn xa lắm.

    Cái quả đất chúng ta ở ngày xưa không phải như thế này nó trải qua nhiều trạng thái sau các cuộc biến động. Đã có những thời kì đất nước ta đây um tùm những cây cỏ ngày nay chỉ mọc ở vùng nhiệt đới, chẳng hạn như các loại phượng vĩ lớn. Rồi xảy ra một cuộc biến động lớn và những loại thực vật khác đã thay chân cho những loài ấy. Thế rồi đến lượt những loại này cũng thay thế bằng những loại mới, và sự việc cứ thế mà tiếp diễn trong có dễ hàng triệu năm. Những thực vật ấy chết chồng chất lên nhau và thối mục ra làm thành các tầng than. Cháu không tin thế à? Lát nữa bác sẽ chỉ cho cháu xem trong loạt mẫu vật của bác có những mẩu than và rất nhiều những mảnh đá lấy ở các vỉa quặng trên trần hầm hoặc thành hầm, còn in dấu vết những cây cỏ ấy. Dấu vết cây cỏ ở đây được giữ lại rõ rệt như những cây cỏ người ta xếp giữa các tờ giấy của một quyển tiêu bản thực vật. Thế là than đá hình thành do cây cỏ dồn chứa lại, như bác đã nói: Đó chỉ là gỗ phân hóa và bị ép xuống.

    Cháu sẽ hỏi: Sự chứa chất ấy diễn ra như thế nào? Điều đó khó giải thích hơn và hình như các nhà bác học cũng chưa giải thích được tường tận, bằng chứng là họ không nhất trí với nhau. Có nhiều người cho là nước đã đưa tất cả cây cỏ ấy ra biển, ở đấy chúng kết thành những bè to lớn bị dòng nước biển xô đi và giạt vào nơi này nơi kia. Có người bảo, những tầng than hình thành do cây cỏ chất chứa lại một cách bình thường, những cây cỏ này nối tiếp nhau chôn vùi ngay ở nơi chúng mọc. Và họ làm những con tính khiến đầu óc ta choáng váng; họ tính ra nếu chặt một hécta rừng xếp trải ra trên diện tích ấy thì chỉ được mộ lớp gỗ dày tám ly là cùng; gỗ ấy thành than thì chỉ còn hai ly. Thế mà ở dưới đất có những tầng than dày đến hai mươi, ba mươi mét. Vậy phải bao nhiêu năm mới hình thành những tầng than như vậy! Chắc cháu cũng biết một rừng cây không phải mọc trong một ngày, mà phải khoảng một trăm năm. Để làm thành một tầng than dày ba mươi mét, phải có năm nghìn rừng kế tiếp nhau mọc ở chỗ ấy, nghĩa là phải năm mươi vạn năm. Con số đó đã kinh khủng lắm phải không? Tuy thế nó vẫn chưa đúng bởi vì cây cối không mọc nói tiếp nhau đều đặn như vậy; phải hơn một trăm năm nó mới mọc lên và chết đi được và khi một loạt mới thay thế một loạt cũ thì cần phải có nhiều sự đổi thay, nhiều cuộc biến động, cái lớp cây mục ấy mới thành thức ăn cho loại cây mới. Ấy đấy, cháu thấy chưa, năm mươi vạn năm đã có nghĩa lý gì, chắc là phải hơn thế nhiều. Nhiều nhưng là bao nhiêu? Bác không biết và cũng không phải là người đủ sức tìm tòi được điều đó. Bác chỉ muốn cho cháu một ý niệm về than đá, để cháu có đủ trình độ xem những vật mẫu của bác. Bây giờ thì mời cháu đi xem nào!

    Tôi ở đến đêm, vì cứ gặp một mảnh đá, mỗi dấu vết cây cỏ, cụ giáo lại giảng giải. Nhờ vậy mà rốt cuộc, tôi cũng tạm tạm hiểu những điều thoạt đầu làm tôi hết sức ngạc nhiên.
     
  6. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,892
    Chương 25: Lụt mỏ

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Sáng hôm say, chúng tôi lại gặp nhau trong mỏ.

    Này cụ giáo! - Chú Gátxpa nói. - Cụ có hài lòng về thằng bé không đấy?

    Có chứ! Nó biết lắng tai nghe và tôi tưởng rồi đây nó cũng sẽ biết mở mắt nhìn.

    Trong khi chờ đợi, nó phải biết vung tay làm cái đã!

    Chú Gátxpa đùa thế, rồi đưa cho tôi một cái nêm để giúp chú cậy một tảng than đã đục xoi ở dưới. Những người thợ cuốc thường bảo thợ đun xe giúp mình như vậy.

    Tôi đẩy xe goòng của tôi đến giếng xúc lần ấy là lần thứ ba. Thình lình tôi nghe từ phía giếng vang lại một tiếng động dữ dội, một tiếng rền kinh khủng. Tôi chưa bao giờ nghe một tiếng như thế từ khi tôi vào làm trong mỏ. Một vụ sạt hầm chăng, hay là tất cả mỏ sụp đổ? Tôi lắng nghe. Tiếng ầm ầm kéo dài và dội đi tứ phía. Cái gì thế này nhỉ? Thoạt tiên tôi hoảng sợ, và tôi toan chạy lại thang bắc để thoát thân. Nhưng người ta đã nhiều lần chế nhạo tôi về những chuyện sợ sệt hão huyền, nên lúc ấy tôi thấy xấu hổ và dừng lại. Chắc là vụ nổ mìn, hoặc là một cái thùng xúc rơi xuống giếng mà thôi; hoặc có lẽ chỉ là tiếng đất đá vữa vụn đổ xuống theo các hành lang.

    Bỗng một đàn chuột cống chạy đâm sầm qua chân tôi, y như một đội kị binh rút chạy thoát thân. Rồi tôi nghe như có tiếng cọ xát vào nền đất và tường hầm, một thứ tiếng cọ xátlạ lùng, trong ấy có tiếng nước vỗ. Chỗ tôi đứng hoàn toàn khô ráo, cái tiếng ấy từ đâu mà ra không thể hiểu được.

    Tôi cầm đèn để soi thử và hạ xuống gần mặt đất: Đúng là có nước. Nước về từ giếng và đi ngược đường hầm. Cái tiếng ầm ầm dữ dội, cái tiếng rền đó là tiếng nước đổ vào mỏ. Tôi bỏ xe lại, chạy về công trường.

    Chú Gátxpa ơi, nước đổ vào mỏ!

    Lại chuyện vớ vẩn!

    Đáy sông Đivôn bị thủng, ta chạy trốn đi thôi!

    Đừng quấy chú mà!

    Chú nghe thử coi!

    Giọng của tôi xúc động quá nên chú Gátxpa ngừng tay cuốc để nghe ngóng. Vẫn cái tiếng ấy tiếp tục, càng to hơn, càng khủng khiếp hơn. Không còn nghi ngờ gì nữa, đó là tiếng nước xô đến. Chú Gátxpa thét:

    Chạy nhanh đi, nước vào mỏ rồi!

    Vừa thét "nước vào mỏ rồi" chú vừa vớ chiếc đèn vì đó là cử chỉ đầu tiên của người thợ mỏ, và chui tuột xuống đường hầm. Tôi đi chưa được mười bước thì trông thấy cụ giáo cũng xuống đường hầm để tìm hiểu cái tiếng động đã làm cụ chú ý. Chú Gátxpa kêu:

    Nước ở trong mỏ!

    Sông Đivôn thủng đáy! - Tôi nói.

    Mày cứ nói nhảm!

    Chạy đi cháu! - Cụ giáo thét.

    Mực nước trong hầm lên rất mau, lúc đó đã đến đầu gối chúng tôi, cho nên không chạy nhanh được. Cụ giáo cũng chạy theo chúng tôi và cả ba chúng tôi mỗi khi chạy qua một hốc lấy than đều gọi chõ vào:

    Chạy đi các anh! Nước vào mỏ rồi!

    Nước dâng lên với tốc độ điên cuồng. May sao, chúng tôi ở gần chân thang, nếu không thì không tài nào tới kịp. Cụ giáo đến chân thang trước, nhưng cụ dừng lại và nói:

    - Lên trước đi! Tôi là người già nhất, vả lại tôi không có gì ân hận.

    Trong hoàn cảnh đó, nhường nhịn lễ nghĩa lại là không phải lúc, cho nên chú Gátxpa lên trước, thứ đến tôi, rồi đến cụ giáo và đằng sau cụ cách một quãng khá xa, có mấy người thợ chạy theo chúng tôi. Không bao giờ người ta vượt cái quãng bốn mươi mét giữa tầng hai và tầng một như vậy. Nhưng trước khi lên đến nấc cuối cùng thì một mảng nước đổ ập xuống đầu chúng tôi và dội tắt mấy cái đèn. Quả là một cái thác lũ.

    Chú Gátxpa thét: - Cố bám nhé!

    Chú ấy, cụ giáo và tôi bám riết vào mấy nấc thang và chống giữ được. Nhưng những người lên sau bị cuốn đi hết. Nếu chúng tôi cũng còn mươi bậc thang nữa mới lên tới thì chắc chắn cũng đã bị xô xuống như họ, bởi vì cái thác nước trong nháy mắt đã trở thành như một cơn lũ.

    Đến tầng một cũng không phải là đã thoát nạn vì còn phải leo những năm chục mét nữa mới thoát ra khỏi mỏ, mà ở tầng ấy cũng có nước, đèn chúng tôi lại tắt hết, chẳng còn nhìn thấy gì. Giọng cụ giáo nói, khá bình tĩnh:

    - Nguy mất rồi!

    Vừa lúc ấy thì bảy tám ngọn đèn hiện ra trong đường hầm, đi về phía chúng tôi.

    Nước đã đến gối, không cần cúi xuống, bàn tay chúng tôi cũng mó phải. Không phải thứnước lặng mà là một dòng thác lũ gặp vật gì cũng cuốn đi cả và làm cho những thớt gỗ quay cuồng như những chiếc lồng chim. Những người xách đèn đi ngược phía chúng tôi đi theo đường hầm để đến thang gần đấy. Nhưng trước một dòng thác lũ như thế thì không thể được: Làm sao đẩy nó lùi, làm sao chống lại sức cuốn của nó, làm sao chống lại được những thớt gỗ nó lùa đi?

    Cái câu cụ giáo buột miệng kêu, những người này cũng buột miệng kêu: "Nguy mấtrồi!".

    Họ đã đến chỗ chúng tôi. Cụ giáo là người duy nhất còn ít nhiều tỉnh táo. Cụ thét:

    Đi tới chỗ đó, ừ chỗ công trình cũ là nơi duy nhất có thể tránh nạn được.

    Khu công trình cũ là một khu vực mỏ đã bỏ từ lâu, không ai tới đó, trừ cụ giáo, cụ thường lui tới để tìm tòi những vật quý lạ. Cụ nói lớn:

    - Hãy quay trở lại ngay! Cho tôi một cái đèn, tôi sẽ đưa các người đi.

    Ngày thường, khi cụ nói người ta cười phì hoặc nhún vai mà quay lưng lại. Nhưng bây giờ thì những tay khỏe nhất và tự phụ nhất vào sức khỏe của mình cũng đã bủn rủn tay chân. Và tất cả đều răm rắp theo lời cái ông già ngây ngô mà năm phút trước họ còn chế giễu. Tự nhiên cả mấy chiếc đèn đều chìa lại phía cụ. Cụ vội vàng xách một chiếc, còn tay kia thì kéo tôi, cụ dẫn đầu đoàn chúng tôi đi lên. Vì xuôi chiều nước nên chúng tôi đi được khá nhanh. Tôi không biết là đi đâu, nhưng tôi đã có hy vọng. Chúng tôi đi dọc theo đường hầm một lúc, trong mấy phút hay mấy giây không biết, vì chúng tôi chẳng có ý niệm gì về thời gian nữa. Rồi cụ giáo dừng lại. Cụ kêu lên:

    - Không kịp rồi, nước lên mau quá!

    Quả thật nước lên nhanh như vọt, từ đầu gối nó lên hông, rồi đến ngực tôi.

    Chúng ta phải chui vào một ngách ngược. - Cụ giáo nói.

    Rồi sau đó?

    Ngách ngược không có lối thoát.

    Chui vào một cái ngách ngược thì đúng là chui vào một cái ngõ cụt. Nhưng không phải lúc chờ đợi hay kén chọn: Một là phải chui vào ngách ngược và như thế là còn lợi được dăm ba phút nghĩa là còn hy vọng thoát nạn, hay là phải tiếp tục đi dọc theo đường hầm để chắc chắn bị ngập đầu chìm nghỉm trong mấy giây nữa.

    Vậy nên theo sau cụ giáo, chúng tôi chui vào ngách ngược. Có hai người khác cứ thế tiếp tục đi sâu vào ngách hầm, hai người này về sau không bao giờ chúng tôi gặp lại. Vào đây, hoàn hồn, chúng tôi mới nghe rõ cái tiếng ầm ầm làm choáng tai chúng tôi từ khi bắt đầu chạy trốn. Đó là tiếng đất lở, tiếng nước xoáy, nước đổ, tiếng gỗ chống gãy, tiếng nổ của không khí bị ép. Tất cả làm thành một tiếng náo động khủng khiếp khiến chúng tôi mất vía mất hồn.

    Đúng là cơn hồng thủy (1).

    Tận thế đến nơi!

    Lạy chúa! Hãy thương lấy chúng con!

    Từ khi vào ngách ngược, cụ giáo không nói gì cả, cụ không thèm than thở vô ích. Bây giờ cụ nói:

    Các chú ạ, các chú đừng phí sức. Nếu chúng ta cứ dùng tay chân mà bấu víu thế này thì chả bao lâu chúng ta sẽ mệt lả đi. Phải khoét đá làm chỗ tựa mới được.

    Lời khuyên đúng, nhưng khó thực hiện, vì không ai mang cuốc chim theo cả. Ai cũng có đèn, không ai có dụng cụ. Cụ giáo tiếp:

    Dùng cái móc đèn mà đào.

    Thế là người nào cũng lấy móc đèn mà moi đất. Công việc khó khăn lắm, vì ngách dốc quá và trơn, nhưng biết rằng hễ trượt chân một cái là tụt thẳng đến chỗ chết, nên người ta khỏe ra và khéo tay khéo chân hơn. Chỉ trong mấy phút, mỗi chúng tôi đã khoét được một cái hốc để đặt bàn chân. Xong việc đó, chúng tôi nghỉ một chút và nhận mặt nhau. Có bảy người: Cụ giáo, đến tôi ở cạnh cụ, rồi chú Gátxpa, tiếp đó ba người thợ cuốc là Pagiét, Côngpêru, Bécgunu và một thợ đun xe là Carôry. Những người khác đã mất tích trong đường hầm.

    Tiếng động trong hầm mỏ vẫn vang lên dữ dội chứ không giảm đi chút nào. Âm vang của sự náo động ghê rợn ấy mãnh liệt như thế nào, quả không có chữ gì diễn tả được. Đại bác bắn, sét nổ, núi sạt cùng một lúc e cũng không gây tiếng động lớn như vậy. Đờ đẫn, hoảng hồn vì khiếp sợ, chúng tôi nhìn nhau, mỗi người cố tìm trong mắt người bạn bên cạnh sự giải thích mà mình không tìm ra được. Người này nói:

    Nạn hồng thủy. Người kia:

    Ngày tận thế. Rồi:

    Động đất.

    Lụt do nước đọng ở khu công trình cũ.

    Chắc là sông Đivôn bị thủng đáy.

    Lời ước đoán sau cùng này là của tôi. Tôi không thể từ bỏ ý nghĩ đáy sông Đivôn bị thẩm lậu một chỗ. Cụ giáo không nói gì cả. Cụ nhìn hết người này đến người khác, nhún vai, bình tĩnh y như là đang thảo luận ở giữa trời, dưới bóng một cây dâu, trong lúc ăn một củ hành. Cuối cùng, khi mỗi người đã phát biểu ý kiến của mình, cụ nói:

    Lụt thì đây hẳn là một trận lụt..

    Do động đất mà ra.

    Ở khu công trình cũ tràn đến.

    Qua một lỗ thủng ở đáy sông Đivôn.

    Đây là một trận lụt.

    Rồi sao nữa? Lụt ở đâu đến? - Nhiều người nổi lên hỏi cùng một lúc.

    Tôi không biết. Nếu chỉ riêng có tầng ba bị lụt mà bảo là lụt từ công trình cũ thì còn có thể tin, đằng này cả tầng hai và tầng một cũng bị. Các anh biết rằng nước chảy xuống mãi chứ không bao giờ chảy lên mà!

    Cái lỗ thủng?

    Tự nhiên thì không thể sinh ra những lỗ thủng như vậy!

    Chắc là động đất.

    Tôi không biết.

    Không biết thì đừng nói!

    Tôi biết là lụt, và thế là có biết ít nhiều rồi, lụt từ trên xuống.

    Gớm chửa! Cái đó ai không thấy, nước đuổi theo ta mà!

    Từ khi vào chỗ khô ráo, người ta cảm thấy an toàn nên không cần nghe cụ giáo nữa.

    Thôi, đừng có làm bộ thông thái nữa, anh có biết gì hơn chúng tôi đâu!

    Trong lúc nguy nan, sự quyết đoán của cụ giáo đã gây nên uy tín cho cụ. Uy tín ấy bây giờ mất rồi. Cụ lặng yên, không cãi lại.

    Để cho át tiếng động, chúng tôi nói như gào thét, thế nhưng tiếng chúng tôi cứ như thì thầm. Cụ giáo bảo tôi:

    Cháu thử nói lên xem.

    Nói gì bây giờ?

    Nói gì cũng được, miễn là có nói, nói những tiếng thoạt tiên cháu nghĩ đến. Tôi nói một vài câu.

    Được. Bây giờ nói khẽ hơn. Được rồi. Tốt.

    Này cụ giáo, cụ loạn óc rồi đấy à? - Pagiét nói.

    Cụ sợ quá mà hóa điên rồi chăng?

    Cụ tưởng cụ đã chết rồi phỏng?

    Tôi tưởng rằng nước sẽ không lên đến chỗ chúng ta và nếu phải chết thì chúng ta sẽ không chết đuối.

    Thế nghĩa là thế nào, cụ giáo?

    Anh nhìn đèn của anh xem.

    Thì nó vẫn cháy.

    Có giống như thường ngày không?

    Ngọn đèn sáng chói hơn nhưng ngắn hơn.

    Có Gờridu à?

    Không. - Cụ giáo nói. - Cả cái đó cũng không đáng sợ. Sự nguy hiểm không ở khí Gờridu, cũng không ở nước; nước từ bây giờ sẽ không dâng lên tấc nào nữa.

    Thôi đừng có bí mật như làm trò phù thủy.

    Tôi không làm trò phù thủy, chúng ta đang như ở trong một cái chuông không khí (2), và chính không khí bị ép cản nước lại không cho lên. Cái ngách này bịt bùng ở trên có tác dụng như cái chuông của người thợ lặn. Không khí bị nước dồn lại đã tụ cả ở đây và bây giờ nó chống lại nước, ngăn nước không cho lên thêm nữa.

    Nghe cụ giáo giải thích rằng chúng tôi đang ở trong một thứ chuông thợ lặn, ở đó nước không lên tới chúng tôi, có người bàn tán, không tin.

    Nhảm chưa, không phải nước mạnh hơn tất cả à?

    Đúng thế, khi nó tự do ở ngoài trời. Nhưng khi anh áp cái cốc xuống thùng nước, nước có lên đến đáy cốc không? Không chứ? Cứ còn một khoảng trống. Ấy đấy! Có khoảng trống ấy là vì có không khí. Ở đây cũng thế; chúng ta đang ở trong đáy cốc, nước có luôn luôn lên tới chúng ta đâu!

    Cái đó tôi hiểu. - Chú Gátxpa nói. - Và bây giờ, các bác ạ, tôi thiết tưởng các bác hay chế nhạo cụ giáo là không đúng. Cụ biết những cái chúng ta không biết.

    Thế là chúng ta thoát nạn. - Carôry kêu.

    Thoát nạn? Tôi không nói vậy. Ta không chết đuối, đó là điều tôi bảo đảm. Cái nó cứu chúng ta là ở chỗ ngách này bịt bùng, không khí không thoát ra được. Nhưng chính cái cứu ta cũng là cái hại ta. Không khí không thoát ra được, nó bị giam hãm, nhưng chúng ta cũng bị giam hãm, chúng ta không thoát ra được.

    Khi nước xuống..

    Nó có xuống không? Cái đó tôi không biết. Muốn biết cái đó phải biết do đâu mà nó lên, và ai trả lời được?

    Cụ đã bảo là lụt mà?

    Ừ, rồi sao nữa? Lụt thì chắc chắn là lụt rồi. Nhưng do đâu mà lụt? Sông Đivôn đã dâng tràn đến giếng mỏ chăng? Mưa dông chăng? Một con suối lở bờ? Hay là một trận động

    Đất? Phải ở ngoài mới nói được, khốn thay chúng ta lại ở trong.

    Có lẽ thành phố bị cuốn đi rồi?

    Có lẽ..

    Một phút yên lặng và hãi hùng.

    Nước không đổ ầm ầm nữa, duy thỉnh thoảng từ trong lòng đất dội tới những tiếng nổ không âm vang, và người ta cảm thấy hình như đất rung chuyển. Cụ giáo bảo:

    Cả hầm mỏ này chắc là đầy ắp rồi, bởi vì nước không lên nữa.

    Ôi thằng Pie! - Bác Pagiét kêu thất vọng.

    Pie là con bác ấy, cũng là thợ cuốc như bác. Pie làm việc ở tầng ba. Nãy giờ bản năng sinh tồn quá mạnh át đi tất cả, khiến bác không nhớ đến con. Nhưng cái câu "mỏ này đầy ắp rồi" của cụ giáo đã lôi bác tỉnh dậy. Bác kêu lên những tiếng xé ruột: "Pie! Pie! Pie!". Không ai đáp, cả tiếng dội lại cũng không có: Tiếng gọi trầm đi và tắc lại trong cái chuông kín. Cụ giáo nói:

    Nó cũng tìm được một ngách ngược thôi! Không có lý do nào mà đến trăm rưởi con người chết đuối một lần! Như thế thì gớm ghiếc quá!

    Cụ giáo nói thế, nhưng qua giọng nói cụ tôi thấy hình như cụ cũng không tin tưởng cho lắm. Sớm nay ít ra là một trăm năm mươi người xuống mỏ. Trong số đó có bao nhiêu đã leo giếng lên khỏi mỏ, bao nhiêu đã tìm được chỗ lánh nạn như chúng tôi? Tất cả những người bạn thợ mỏ của chúng tôi nguy rồi, chìm rồi, chết rồi! Không ai nỡ mở miệng nói một tiếng.

    Tuy nhiên trong tình huống bấy giờ, lòng thương cảm không điều khiển con người. Sau mấy phút im lặng, Bécgunu hỏi:

    Này! Thế chúng ta phải làm gì bây giờ?

    Làm gì?

    Chỉ có việc chờ. - Cụ giáo nói.

    Chờ gì?

    Chờ thôi. Hay là anh muốn xoi thông cái khoảng cách bốn năm chục mét giữa mặt

    Đất với chúng ta bằng cái móc đèn của anh?

    Thế thì chúng ta đến chết đói mất!

    Đó không phải là một đe dọa lớn nhất!

    Nào nào, cụ giáo, cụ nói đi. Cụ làm chúng tôi sợ quá! Mối họa ở đâu, mối họa lớn nhất ở đâu mà ra nào?

    Đói còn có thể chịu được. Tôi đã xem sách thấy có những người thợ cũng bị bí trong mỏ vì nước lụt như chúng ta đây, họ nhịn đói đến hai mươi bốn ngày đêm mà không chết. Việc này xảy ra đã lâu lắm, mà dù có xảy ra hôm qua cũng chỉ thế thôi! Không, cái đói thì ta không sợ lắm!

    Thế cái gì làm cụ lo ngại nào? Cụ đã nói rằng nước không dễ dâng lên thêm nữa mà?

    Các anh có thấy váng đầu, ù tai không? Các anh thấy có dễ thở không? Tôi thì

    Không?

    Tôi ấy à, tôi đau đầu.

    Tôi thì thấy người xao xuyến, buồn nôn.

    Thái dương tôi giật giật.

    Tôi thì tôi đờ đẫn cả người đi.

    Ấy đấy! Cái nguy cơ lúc này là ở chỗ đó! Ở trong bầu không khí này, chúng ta có thể sống được bao lâu? Tôi không biết. Vì tôi dốt nát, chứ nếu tôi là một nhà bác học thì tôi đã nói được rồi. Ta ở cách mặt đất khoảng bốn chục mét và ở bên dưới có lẽ độ ba mươi lăm hoặc bốn mươi mét nước. Thế có nghĩa là không khí ở đây bị một sức ép khoảng từ bốn đến năm átmốtphe. Trong không khí bị ép đó, con người sống như thế nào? Đó là điều cần biết, và chúng ta sắp biết đây, duy phải đánh đổi sự hiểu biết ấy bằng những tổn thương, có lẽ thế!

    Tôi không hiểu không khí bị ép là như thế nào hết, chính vì đó mà những lời cụ giáo nói khiến tôi rất đỗi kinh hãi. Những người bạn thợ khác cũng xúc động không kém: Họ có hiểu biết gì hơn tôi đâu! Cái điều mình không hiểu là điều làm mình hãi hùng. Còn cụ giáo thì cũng không phút nào quên hoàn cảnh tuyệt vọng của anh em, và tuy nhìn thấy rất rõ cả sự rùng rợn của nó, cụ chỉ nghĩ đến những việc cần làm để chống với tai ương. Cụ bảo:

    Bây giờ thì hãy xếp đặt thế nào cho khỏi lăn tõm xuống nước.

    Có hốc rồi mà.

    Các anh tưởng cứ đứng mãi một điệu như thế này mà không mỏi rã ra à?

    Thế cụ cho rằng chúng mình còn phải ở đây lâu lắm ư?

    Nào tôi có biết!

    Người ta sẽ đến cứu chúng mình.

    Cái đó đã hẳn, nhưng khi nào cứu được mới cứu chứ? Còn bao nhiêu lâu nữa người ta mới bắt đầu tổ chức cứu ta? Chỉ có những người ở trên kia mới nói được, còn chúng ta ở dưới này thì phải thu xếp thế nào cho đỡ khốn khổ nhất, bởi vì người nào trượt chân là người ấy đi đứt!

    Chúng mình phải buộc nhau lại làm một khối.

    Dây đâu?

    Hay là nắm chặt tay nhau?

    Tôi nghĩ rằng chúng ta đào thành những bậc như ở một cầu thang là tốt nhất. Chúng ta có bảy người, đào hai bậc là đủ: Bốn sẽ ngồi ở bậc trên, ba ở bậc dưới.

    Đào bằng gì?

    Chúng ta không có cuốc chim.

    Ở chỗ đất bở thì lấy móc đèn mà đào, ở chỗ cứng thì dùng dao.

    Không thể nào làm được!

    Đừng nói thế, bác Pagiét! Ở cảnh ngộ chúng ta, gì mà chúng ta không làm được để thoát chết. Đứng như thế này, ai ngủ gà ngủ gật thì chết toi!

    Nhờ bình tĩnh và quyết đoán, uy tín của cụ giáo càng lâu càng lớn lên trước mắt chúng tôi. Cái lớn lao, cái đẹp đẽ của sự dũng cảm là ở đó: Nó chinh phục người ta. Tự nhiên tôi cảm thấy cụ đang đem nghị lực của cụ chống chọi với cái tai họa đã làm tinh thần chúng tôi sụp đổ, và chúng tôi trông chờ cái sức mạnh đó giải thoát cho chúng tôi. Việc phải làm trước hết hiển nhiên là khoét hai bậc thang đó, cho nên chúng tôi bắt tay vào việc. Phải cho có chỗ ngồi, nếu không được thoải mái thì ít nhất cũng phải vững vàng, để đừng lăn tõm xuống cái vực thẳm ở dưới chân. Chúng tôi thắp bốn cây đèn, đủ để ánh sáng làm việc. Cụ giáo bảo:

    Hãy chọn chỗ để đào.

    Này các bạn. - Chú Gátxpa lên tiếng. - Tôi có đề nghị này. Giữa chúng ta, chỉ có một người không quẫn trí là cụ giáo. Khi chúng ta cuống cuồng thì cụ vẫn tỉnh táo. Thế mới là một con người. Mà tâm địa cụ cũng tốt nữa. Cụ cũng đã từng là thợ cuốc như chúng ta, và về

    Nhiều mặt, cụ hiểu biết hơn chúng ta nhiều. Tôi đề nghị ta cử cụ làm chỉ huy và nhờ cụ điều khiển công việc.

    Cụ giáo à? - Thằng Carôry ngắt lời, thằng này là một thằng ngu độn, chỉ có trí khôn vừa đủ để đẩy chiếc goòng. - Sao lại không cử tôi? Nếu lấy một tay đẩy goòng thì tôi cũng là tay đẩy goòng như cụ ấy.

    Con bò! Người ta đâu có cần người đẩy goòng, người ta cần một con người, mà giữa chúng ta thì cụ ấy là con người trọn vẹn hơn cả.

    Mấy hôm trước tao cũng ngu như mày và tao cũng nhạo báng cụ giáo như những người khác, nhạo báng để đánh trống lảng cái việc mình dốt hơn người ta. Nào cụ giáo, cụ cắt cho tôi công việc gì đây? Hai tay tôi chắc, cái đó cụ biết rồi. Còn các anh kia, ý kiến các anh như thế nào?

    Ấy, cụ giáo, chúng tôi tuân lệnh cụ.

    Và sẽ còn tuân lệnh cụ.

    Này, các bạn đã muốn tôi chỉ huy thì tôi cũng sẵn lòng làm, nhưng với điều kiện là tôi nói gì thì làm nấy. Có thể chúng ta sẽ phải ở đây lâu, nhiều ngày đấy. Tôi không biết rồi sẽ ra sao. Chúng ta rồi cũng như những hành khách đắm tàu ở trên một cái bè giữa biển khơi. Hơn thế, tình cảnh chúng ta sẽ còn ghê gớm hơn nhiều, bởi vì ở trên bè, người ta còn có khí trời và ánh sáng, người ta thở được và trông nhìn được. Ở đây, nếu tôi là chỉ huy thì bất kỳ trường hợp nào, các anh cũng phải tuân lời tôi.

    Chúng tôi tuân lệnh cụ. - Tất cả đều nói một lượt.

    Khi các anh cho cái điều tôi bảo là đúng thì các anh vâng lời đấy, nhưng khi các anh không tin là đúng thì sao?

    Chúng tôi sẽ tin.

    Ai cũng biết cụ là người trung hậu, cụ giáo ạ!

    Và là người dũng cảm.

    Lại là người hiểu biết nhiều.

    Cụ giáo nên bỏ qua những lời chế nhạo xưa kia cho chúng tôi.

    Lúc bấy giờ tôi chưa từng trải việc đời. Trông thấy những người buổi trước đây vừa tuôn lên đầu cụ giáo không biết cơ man nào là câu giễu cợt, đến bây giờ lại thừa nhận cụ có những đức tính đáng quý, tôi lấy làm lạ lùng hết sức. Tôi có biết đâu là có một số người hễ hoàn cảnh thay đổi thì ý kiến, cảm tình cũng thay đổi. Cụ giáo hỏi:

    Các anh có thề là sẽ vâng lời tôi không?

    Xin thề. - Chúng tôi đồng thanh đáp.

    Thế rồi chúng tôi bắt tay vào việc. Mọi người đều có dao trong túi áo, những con dao tốt, cán chắc, lưỡi cứng. Cụ giáo ra lệnh:

    Ba người đào đất, ba người khỏe nhất. Những người yếu hơn: Rêmi, Carôry, Pagiét và tôi thì chúng ta dọn đất vụn đã được đào bới ra.

    Côngpêru cao to như một người khổng lồ, nói:

    Cụ đừng. Cụ không nên làm, cụ không đủ sức đâu!

    Người ta nhận thấy vai trò điều khiển của cụ giáo rất cần thiết, đến mức sẵn sàng ủ cụ vào chăn bông để tránh cho cụ mọi tai nạn và nguy hiểm. Cụ là người hoa tiêu của chúng tôi.

    Giá như có công cụ thì công việc của chúng tôi dễ như bỡn, nhưng chỉ có dao không thôi nên vất vả quá và cố nhiên là phải lâu. Cần phải khoét đá "sít" làm thành hai bậc thang

    Để tránh nguy cơ rơi xuống vực, và bậc thang đó phải đủ rộng để đủ chỗ, một bậc cho bốn người, một bậc cho ba người ngồi. Chúng tôi tiến hành công việc đào bới để đạt kết quả đó.

    Mỗi nơi làm việc, có hai người chuyên đào và một người lo đưa những mảnh đá "sít" xuống. Cụ giáo xách đèn đi lại giữa hai "công trường". Trong khi đào, chúng tôi tìm thấy một

    Đôi khúc gỗ chống bị vùi lấp dưới đất, những khúc gỗ ấy rất có ích vì chúng giữ đất đá vụn không cho chảy xuống dưới. Sau ba tiếng đồng hồ làm liên miên không nghỉ tay, chúng tôi đã đào được những bậc vừa ngồi. Cụ giáo ra lệnh:

    Trước mắt, thế cũng đủ rồi. Sau này chúng ta sẽ mở rộng để có đủ chỗ nằm được. Không nên phí sức một cách vô ích vì chúng ta sẽ còn cần sức khỏe đấy!

    Chúng tôi xếp chỗ ngồi: Cụ giáo, chú Gátxpa, Carôry và tôi ngồi ở bậc dưới, ba người thợ cuốc ở bậc trên.

    Phải tiết kiệm đèn dầu. - Cụ giáo nói. - Các anh tắt hết đi, chỉ để đỏ một ngọn thôi.

    Mệnh lệnh truyền ra được thi hành ngay. Anh em sắp tắt hết những cây đèn không cần thiết thì cụ giáo ra hiệu cho họ ngừng tay. Cụ nói:

    Hượm tí đã! Một luồng gió có thể làm tắt chiếc đèn mà chúng ta chong. Điều này có lẽ cũng không xảy ra, nhưng biết đâu đấy, phải đề phòng cả những cái vô lý. Lúc đó thì ai có diêm để thắp lại nào?

    Mặc dầu người ta nghiêm cấm việc đánh lửa trong mỏ, hầu hết anh em thợ đều mang diêm trong túi áo. Vì ở đây không có kỹ sư để bắt những sự vi phạm nội quy, cho nên khi nghe hỏi: "Ai có diêm?" thì bốn người trả lời: "Tôi!". Cụ giáo nói tiếp:

    Tôi cũng có nhưng nó ngấm nước hết.

    Những người khác cũng bị như thế vì người nào cũng bỏ diêm ở túi quần mà trót dầm nước đến ngực hoặc đến tận vai. Thằng Carôry hiểu chậm, trả lời càng chậm, đến lúc ấy mới nói:

    Tôi cũng có diêm đây!

    Ướt!

    Không biết! Tôi để trong mũ.

    Thế thì đưa cái mũ đây!

    Cái mũ không vành của Carôry là một cái mũ da rái, to như cái khăn xếp của một anh Thổ Nhĩ Kỳ ở chợ phiên. Đáng lẽ đưa mũ như người ta bảo thì nó lại đưa bao diêm. Bao diêm không ngấm nước nhờ ở vị trí đặc biệt của nó trong lúc người chúng tôi ngâm dưới nước.

    - Bây giờ thì thổi đèn đi. - Cụ giáo ra lệnh.

    Thế là chỉ có ngọn đèn le lói, rọi mờ mờ cái chuồng nhốt chúng tôi.
     
  7. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,892
    Chương 26: Trong ngách ngược

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Im lặng đã trở lại trong mỏ. Không có tiếng động nhỏ nào vang đến chúng tôi. Dưới chân, nước nằm phẳng lặng, không một tí gợn, không một tiếng rì rào. Như cụ giáo nói, nước đầy ắp cả mỏ và sau khi tràn ngập các đường hầm từ nền đến nóc, nước vít chúng tôi lại trong cái nhà tù này, vít kín hơn, chắc chắn hơn một bức vách đá. Cái im lặng nặng nề, bí hiểm, cái im lặng ở cõi âm này còn ghê gớm, còn kinh hồn hơn cái náo động gớm ghiếc khi nước tràn lên. Giờ đây, chúng tôi bị chôn sống dưới mồ và trên tim chúng tôi có ba bốn mươi thước đất đè xuống nặng trĩu. Khi lao động thì chúng tôi lãng khuây. Bây giờ rỗi rãi, chúng tôi thật thấm thía cảnh ngộ của mình. Người nào cũng có lúc rời rã chán chường, kể cả cụ giáo.

    Thình lình tôi cảm thấy có những giọt gì nóng nóng rỏ lên bàn tay tôi. Đó là thằng

    Carôry đang khóc thầm. Cùng một lúc có nhiều tiếng thở dài và tiếng rên rỉ ở tầng trên: "Pie,

    Pie con ơi!". Đấy là tiếng bác Pagiét nhớ đến con mà than vãn..

    Không khí nặng nề khó thở. Tôi thấy tức ngực và ù tai. Cụ giáo thì không có vẻ phờ phạc, rã rời một cách quá đáng như chúng tôi, hoặc là cụ muốn chống trạng thái ấy và tránh không cho chúng tôi buông xuôi trong tuyệt vọng. Cụ lên tiếng nói:

    Bây giờ chúng ta hãy xem còn bao nhiêu lương thực.

    Cụ cho rằng. - Chú Gátxpa nói. - Chúng ta sẽ bị giam lâu dài ở dưới này chăng?

    Không, nhưng phải đề phòng. Ai có bánh mì?

    Cháu còn một mẩu trong túi.

    Túi nào?

    Túi quần.

    Thế thì bánh của cháu thành cháo rồi. Hẵng cứ đưa ra.

    Lúc sáng, tôi có cất trong túi một miếng vỏ bánh mì vàng ửng và giòn tan, bây giờ tôi móc túi ra một thứ cháo nhão nhoét. Thất vọng, tôi định vứt đi thì cụ giáo cản tay tôi. Cụ nói:

    Cứ giữ món cháo của cháu lại! Bây giờ thì dở đấy, nhưng ít nữa rồi cháu thấy ngon cho mà coi.

    Lời dự đoán ấy đáng làm chúng tôi lo ngại, nhưng chúng tôi không để ý. Sau này, tôi mới nhớ lại và biết rằng ngay từ lúc bấy giờ, cụ giáo đã nhìn thấy đầy đủ tình cảnh nguy khốn của chúng tôi. Nếu cụ không thấy trước một cách chi tiết những nỗi đau khổ ghê gớm mà chúng tôi sẽ phải chịu, thì ít ra cụ cũng không có ảo tưởng là người ta sẽ cứu được chúng tôi một cách dễ dàng.

    Không còn ai còn bánh nữa à? - Cụ hỏi.

    Thế thì phiền đấy!

    Cụ đói à? - Côngpêru ngắt lời.

    Tôi không hỏi cho tôi, mà cho Rêmi và Carôry. Nếu có bánh mì thì phải để cho chúng nó.

    Bécgunu hỏi:

    Sao không chia đều cho tất cả chúng ta? Như vậy là không công bằng! Ai thì cũng đói như nhau cả thôi!

    À à, ra thế đấy! Giá có bánh mì, thì chắc hẳn đã xảy ra xích mích rồi đấy. Vậy mà các bạn đã hứa nghe theo tôi! Thực ra các bạn chỉ nghe theo tôi sau khi đã cãi vã chán chê và chịu nhận tôi nói đúng!

    Thế tất anh ta phải tuân lệnh thôi!

    Nghĩa là cũng sau khi có lẽ xảy ra xung đột! Vậy thì muốn khỏi có xung đột, tôi xin nói rõ vì sao bánh mì phải dành cho Rêmi và Carôry. Tự tôi không đề ra cái lệ ấy đâu! Đó là luật pháp: Luật pháp chỉ rõ là khi nhiều người cỡ dưới sáu mươi tuổi cùng chết trong một tai nạn nào đó thì người cao tuổi nhất thường là người sống dai nhất. Như thế cũng có nghĩa làRêmi và Carôry, còn ít tuổi, tất nhiên sức chịu đựng kém hơn so với Pagiét và Côngpêru.

    Thế cụ, cụ giáo, cụ trên sáu mươi rồi.

    Ồ, tôi ấy à? Tôi thì kể gì! Vả lại tôi đã có thói quen ăn uống chừng mực.

    Thế thì nếu tôi có bánh, bánh ấy phải dành cho tôi.

    Cho cháu và Rêmi.

    Tôi không muốn chia cho nó thì sao?

    Thì người ta sẽ lấy của mày mà chia. Mày đã không thề là vâng lời hay sao?

    Nó lặng thinh một hồi khá lâu rồi đột ngột móc một chiếc bánh từ trong mũ nó ra.

    Này, có một miếng đây!

    Cái mũ của thằng Carôry là một cái kho vô tận chăng?

    Đưa mũ đây! - Cụ giáo nói.

    Carôry không muốn đưa mũ ra. Anh em giật lấy, trao cho cụ giáo. Cụ giáo bảo đưa đèn cho cụ và cụ vạch viền mũ xem có gì trong ấy. Tuy ở trong hoàn cảnh không vui vẻ gì, lúc bấy giờ chúng tôi cũng đã được một phút giải trí: Trong cái mũ của thằng Carôry có một cái điếu, một ít thuốc lá, một chìa khóa, một chiếc xúc xích, một cái còi làm bằng hạt đào, mấy lóng xương cừu nhỏ làm đồ chơi, ba quả hồ đào tươi, một củ hành. Nghĩa là cái mũ của nó là một cái chạn cất thức ăn, đồng thời là một kho chứa.

    Bánh mì và xúc xích sẽ chia cho Rêmi và cháu tối nay. Thằng Carôry rên rỉ:

    Nhưng mà tôi đói, tôi đương đói đây.

    Tối nay, mày sẽ còn đói hơn!

    Tiếc sao cái thằng bé này không có đồng hồ trong kho chứa của nó. Nếu có thì chúng ta đã biết giờ giấc. Đồng hồ của tôi chết máy rồi.

    Chiếc của tôi cũng thế vì bị ngấm nước.

    Câu chuyện đồng hồ nhắc chúng tôi trở về với thực tại. Mấy giờ rồi? Chúng tôi ở trong ngách ngược này bao lâu rồi nhỉ? Anh em bàn tán nhưng không đi đến nhất trí. Một số anh em cho là mới đúng trưa, một số khác lại bảo là đã sáu giờ chiếu. Nghĩa là đối với những người này, chúng tôi đã bị giam hãm đã hơn mười tiếng liền, đối với những kẻ khác thì chưa đầy năm tiếng. Sự chênh lệch trong ước lượng bắt đầu từ đây: Nó còn diễn ra nhiều lần và đưa đến những khoảng cách lớn.

    Lúc này không phải lúc nói chuyện phiếm, cho nên khi cuộc bàn cãi về giờ giấc chấm dứt thì mọi người lại lặng im và có vẻ đăm chiêu suy nghĩ. Các bạn khác nghĩ những gì, tôi không biết. Nhưng cứ ý nghĩ của tôi mà suy ra thì ý nghĩ của họ chắc không có gì tươi vui cả. Dù ý kiến của cụ giáo có vẻ chắc như đanh đóng cột, tôi cũng không tin rằng sẽ được cứu thoát. Tôi sợ nước, sợ bóng tối, sợ cái chết. Sự lặng lẽ làm tôi tê dại. Vách đá gồ ghề chẹn nghẹt tôi y như là nó đổ xuống đè lên người tôi với tất cả sức nặng của nó. Tôi không được thấy mặt Lidơ nữa ư? Và cũng không thấy chị Êchiênnét, Alơxi, Bănggiamanh? Tôi chết đi, ai nối đường dây liên lạc cho chị em người ta? Tôi sẽ không được gặp Áctơ và bà Miligơn, Mátchia, và Capi? Làm sao nói cho Lidơ hiểu rằng tôi chết vì em đây? Còn má Bácbơranh, má Bácbơranh tội nghiệp! Ý nghĩ của tôi nối tiếp nhau, ý nghĩ nọ kéo theo ý nghĩ kia, ý nàocũng đen tối như ý nào. Tôi nhìn qua anh em khác để cho khuây lãng, nhưng thấy họ cũng buồn rầu, cũng ủ rũ như tôi thì tôi lại quay về với những suy nghĩ của mình, và lại càng buồn rầu, càng thất vọng hơn. Dẫu sao thì họ cũng đã quen sống trong hầm mỏ, do đó họ không khổ vì thiếu không khí, thiếu ánh mặt trời, thiếu tự do, và đất đá cũng không đè nặng lên trên người họ.

    Thình lình, trong im lặng, tiếng chú Gátxpa cất lên:

    Tôi cho rằng người ta chưa làm gì cả để cứu chúng ta.

    Tại sao anh lại nghĩ như vậy?

    Ta có nghe thấy gì đâu nào!

    Cả thành phố bị phá hủy. Đây là một trận động đất.

    Hay là ở trong thành phố người ta tưởng chúng ta đã chết hết, có làm gì nữa cũngvô ích?

    Thế thì chúng ta bị bỏ mặc ở đây rồi! Cụ giáo ngắt lời:

    Tại sao các anh lại nghĩ như vậy về các bạn của chúng ta? Buộc tội họ như vậy là không đúng! Các anh thừa biết rằng khi xảy ra tai nạn, người thợ mỏ không bỏ nhau bao giờ, và thà rằng hy sinh hai mươi người, một trăm người, chứ không đành không cứu một người bạn. Các anh biết điều ấy chứ?

    Quả có thế!

    Đã thế thì tại sao các anh lại bảo là người ta bỏ mặc chúng ta?

    Tại vì chúng tôi không nghe thấy tăm hơi gì cả.

    Đúng là chúng ta không nghe thấy gì. Nhưng ở chỗ này có thể nghe thấy gì không đã chứ? Ai biết được? Tôi thì không biết rồi đó. Với lại nếu chúng ta nghe được và biết rõ rằng người ta không làm việc, thì điều đó có đủ chứng tỏ rằng người ta bỏ rơi chúng ta hay không? Chúng mình có biết tai họa đã xảy ra như thế nào không? Nếu là một cuộc động đất thì những kẻ sống sót có bao nhiêu là công việc phải làm trong thành phố. Nếu chỉ là một cơn lụt, như tôi đoán, thì phải biết tình hình ở các giếng thế nào. Giếng có thể lở mất, đường hầm từ kho đến có thể sụp đổ rồi. Phải có thì giờ mới tổ chức việc cứu tế được. Tôi không dám nói rằng chúng mình sẽ được cứu thoát, nhưng tôi tin chắc rằng người ta đương tiến hành công việc giải cứu cho chúng mình.

    Cụ giáo nói những điều đó với giọng quả quyết có thể thuyết phục những người hoài nghi nhất và làm yên lòng những người khiếp sợ nhất. Tuy thế bác Bécgunu còn có ý kiến:

    Nếu người ta tưởng chúng ta đã chết hết rồi thì sao?

    Người ta cũng cứ tổ chức tiếp cứu. Thế nhưng nếu anh lo ngại cái điều ấy thì chúng ta hãy làm cho họ biết rằng chúng ta còn sống. Chúng ta hãy đập vào vách hết sức mạnh. Các anh biết rằng âm vang truyền đi trong đất, nếu người ta nghe thấy, người ta biết rằng cần phải làm nhanh và tiếng gọi của ta lại còn chỉ hướng cho họ tìm đến.

    Không chần chừ, bác Bécgunu vốn mang giầy bốt rất to, đập mạnh vào vách đá theo cách "gọi thợ mỏ lên khỏi hầm". Cái tiếng động ấy, nhất là những ý nghĩ đó gợi lên đã lôi chúng tôi ra khỏi cơn tê liệt. Anh em có nghe thấy tiếng gọi của chúng mình không? Họ có sắp trả lời cho chúng mình không? Chú Gátxpa hỏi:

    Này, cụ giáo ơi, nếu anh em nghe thấy thì họ có thể làm gì để cứu chúng ta nhỉ?

    Chỉ có hai cách, và tôi tin chắc rằng các ông kỹ sư sẽ dùng cả hai cách song song với nhau: Một là khoét lối xuống để thông với ngách chúng ta, hai là múc cho vơi nước đi.

    Chao ôi! Khoét lối xuống!

    Ái chà! Múc nước đi!

    Ta ở sâu bốn mươi thước phải không? Mỗi ngày đào từ sáu đến tám thước thì bảy tám ngày là tới ta.

    Không thể đào sáu thước mỗi ngày.

    Làm công việc thường ngày thì thế, nhưng khi phải cứu sống những người bạn thợ với nhau thì anh em có thể làm những việc phi thường.

    Tám ngày thì làm thế nào mà sống nổi! Cụ thử nghĩ xem, những tám ngày!

    Này, còn nước thì sao? Làm thế nào cho vơi?

    Nước thì làm thế nào, tôi không biết. Muốn biết điều đó, trước hết phải biết có bao nhiêu nước đã tràn vào trong mỏ: Hai mươi vạn mét khối chăng? Hay ba mươi vạn? Tôi chịu. Tuy nhiên, để tới chỗ ta, không cần thiết phải múc hết cả khối lượng nước đã đổ vào mỏ, bởi vì chúng ta ở tầng một. Vì người ta tổ chức múc luôn ở cả ba giếng một lúc, mỗi giếng hai gàu cho nên mỗi chuyến múc được sáu gàu, mỗi gàu chứa hai nghìn năm trăm lít vị chi là mười lăm nghìn lít tất cả. Như thế cũng là nhanh đấy chứ!

    Một cuộc tranh cãi bí beng nổ ra về các biện pháp tốt nhất để cứu sống chúng tôi. Cuộc tranh cãi không đi đến đâu, nhưng riêng tôi thì rút trong ấy ra được cái kết luận là dù có đủ tất cả mọi thuận lợi, chúng tôi cũng phải ở lại ít nhất là tám ngày trong cái nhà mồ ấy.

    Tám ngày! Cụ giáo có nói về trường hợp những người thợ bị nghẽn dưới hầm hai mươi bốn ngày. Nhưng đó là truyện, còn chúng tôi đây là sự thực. Khi cái ý nghĩ ấy ám ảnh tôi thì tôi không nghe thấy người ta nói gì nữa. Những tám ngày!

    Tôi day dứt vì cái ý nghĩ ấy không biết đã được bao lâu thì bỗng thấy người ta thôi không bàn cãi nữa. Thằng Carôry bảo:

    Nghe kìa!

    Cái gì chứ?

    Có tiếng gì trong nước..

    Có lẽ mày làm lăn một hòn đá.

    Không! Cái tiếng này không dội.

    Chúng tôi lắng nghe. Tai tôi khá thính, nhưng chỉ thính đối với những âm thanh của cuộc sống, của đất bằng. Ở đây, tôi không nghe thấy gì cả. Các bạn của tôi vốn quen những tiếng động dưới mỏ nên may mắn hơn tôi.

    Ừ. - Cụ giáo nói. - Có cái gì động ở dưới nước ấy!

    Cái gì hở cụ giáo?

    Tôi không biết!

    Nước tuôn xuống đó thôi!

    Không phải, tiếng này không liên tục. Nó vang từng lúc và cách quãng đều.

    Từng lúc và cách quãng đều! Thế là chúng ta thoát chết rồi, các cậu ạ! Đó là tiếng của những gàu múc ở giếng!

    Gàu múc..

    Tất cả chúng tôi cùng buột miệng cùng một lúc reo lên, lặp lại hai tiếng ấy. Và như điện giật, chúng tôi đều đứng phắt lên.

    Chúng tôi không ở cách mặt đất bốn mươi thước, không thở không khí bị ép nữa,

    Vách mỏ không đè chúng tôi, tai không ù, hơi thở thoải mái, tim lại đập trong lồng ngực.

    Carôry nắm tay tôi siết mạnh:

    - Mày là một thằng tốt.

    Không, mày ấy chứ!

    Tao bảo là mày.

    Chính mày nghe thấy tiếng gàu múc trước tiên.

    Nó cứ khăng khăng bảo tôi là một thằng bé tốt. Nó say rồi, say như say rượu. Mà thực ra chúng tôi chả say là gì? Chúng tôi say hy vọng ấy! Tuy nhiên, cái hy vọng này không thực hiện được chóng vánh, cũng không thực hiện với đủ tất cả mọi người. Trước khi được nhìn lại ánh nắng ấm áp của mặt trời, trước khi được nghe tiếng gió luồn qua khe đá, chúng tôi còn phải sống những ngày dài ác nghiệt ở chỗ này, còn phải chịu đủ mọi nỗi đau đớn dằn vặt và hoang mang tự hỏi không biết mình có được nhìn lại ánh sáng ấy, nghe lại cái tiếng gió êm như đàn ấy không?

    Nhưng đã kể cho các bạn nghe cái tai nạn khủng khiếp của mỏ Tơruye y như nó diễn ra, thì bây giờ cũng phải nói cho các bạn biết nó đã xảy ra như thế nào và các kỹ sư đã làm những gì để cứu chúng tôi.

    Sớm thứ hai tuần ấy, khi chúng tôi xuống hầm mỏ thì trời đầy những mây sẫm và có hiện tượng của một cơn dông sắp diễn ra. Khoảng bảy giờ sáng thì cơn dông đến thật, kèm theo một cơn mưa xối xả như một trận lụt. Đó là vì những đám mây mù bay là là dưới thấp len vào thung lũng khúc khuỷu của sông Đivôn, đã bị chẹt trong vành đồi, không cất cao lên được. Thế là chúng mang được bao nhiêu nước thì cứ việc trút hết bấy nhiêu xuống thung lũng. Đây không phải là một cơn mưa rào mà là một con thác từ lưng chừng trời đổ xuống một trận hồng thủy. Trong vòng mấy phút, nước sông Đivôn và các chi nhánh lớn phình lên. Điều này dễ hiểu thôi. Trên mặt đất nền đá, nước không thấm xuống được nên cứ theo chiều nghiêng của mặt đất mà chảy ra sông. Bỗng chốc lòng sông Đivôn đầy ắp, còn mấy con suối thì tràn bờ. Sông Đivôn đầy, nước suối Tơruye không chảy xuống được bèn tràn lên đất khu mỏ. Nước dâng chớp nhoáng, nhưng anh em thợ rửa quặng ở trên mặt đất không hề gì, bởi vì họ đã đi trú mưa rồi. Khu mỏ Tơruye này không phải lần đầu bị lụt, nhưng miệng giếng mỏ ở cao, nước không lên tới được, cho nên người ta chỉ lo chạy những đống gỗ đã đẽo xong để chờ dùng chống hầm. Người kỹ sư đang điều khiển công việc đó bỗng thấy nước xoáy điên cuồng và lao vào một cái vực nó vừa xói lên. Cái vực ấy nằm ngay trên một tầng than cạn ở gần mặt đất.

    Viên kỹ sư không cần suy nghĩ nhiều cũng hiểu đầu đuôi sự việc: Nước đã ập vào hầm mỏ và chảy theo mạch than cho nên mực nước ở ngoài rút xuống. Mỏ sắp bị lụt, sắp ngập đầy nước. Thợ trong mỏ sắp chết đuối. Viên kỹ sư chạy đến giếng Xanh Giuyliên, ra lệnh cho người ta dòng ông xuống. Nhưng sắp đặt chân vào thùng goòng để được thả xuống giếng thì ông ngừng lại. Từ trong lòng mỏ vang ra một tiếng náo động kinh khủng: Đó là tiếng dòng nước chảy xiết. Những người đứng xung quanh ông kỹ sư bảo: "Ông đừng xuống" và giữ ông lại. Nhưng ông gỡ họ ra, rút chiếc đồng hồ trong túi gilê đưa cho một bác thợ và nói:

    - Này, nhờ anh đưa chiếc đồng hồ này cho con gái tôi, nếu tôi không trở về.

    Rồi quay lại mấy công nhân coi việc dòng thùng, ông bảo: "Cho xuống!". Chiếc thùng bắt đầu xuống. Bây giờ ông kỹ sư ngẩng đầu lên, hướng về bác thợ ông đã trao đồng hồ, dặn:

    - Anh nói với nó là cha nó hôn nó.

    Chiếc thùng xuống tới hầm mỏ. Ông kỹ sư gọi. Năm công nhân chạy đến. Ông bảo họ vào trong thùng. Trong lúc những người này được kéo lên thì ông lại kêu to gọi thêm nữa. Nhưng không có ích gì. Tiếng gọi của ông bị tiếng nước đổ, tiếng đất sụt át mất đi. Nước đã

    Tràn tới hầm và ngay lúc đấy, ông kỹ sư thấy thấp thoáng có mấy ngọn đèn. Ông lội nước đến gối, chạy xô về phía ấy và đưa về được ba người nữa. Thùng đã trở xuống. Ông bảo ba người ấy vào thùng rồi định quay lại tìm theo những ngọn đèn mà ông mới trông thấy. Nhưng mấy người ông vừa cứu thoát đã dùng sức bế thốc ông vào thùng rồi báo hiệu cho ở trên kéo dây. Vừa vặn kịp vì nước đã ngập tràn khắp nơi.

    Cái cách tiếp cứu này đã không dùng được nữa. Phải dùng phương pháp khác. Nhưng phương pháp gì? Ông nhìn quanh mình thì vắng vẻ quá! Một trăm năm mươi công nhân đã xuống mỏ bởi vì một trăm năm mươi chiếc đèn đã được phát hồi sáng nay. Nhưng chỉ có ba mươi chiếc được mang về trả ở kho đèn, như thế nghĩa là có một trăm hai mươi người còn mắc nghẽn trong mỏ. Những anh em ấy chết rồi chăng? Hay còn sống? Họ có tìm được chỗ trốn không? Những câu hỏi ấy đã được đặt ra trong đầu óc hoang mang ghê rợn của ông.

    Khi ông kỹ sư nghiệm thấy có một trăm hai mươi công nhân bị nghẽn trong mỏ thì ở ngoài tại nhiều nơi đã xảy ra những vụ nổ. Đất, đá bắn tung lên rất cao. Nhà cửa rung rinh như có động đất. Ông kỹ sư hiểu rõ hiện tượng đó: Không khí và các chất hơi khác bị nước dồn vào và nén ở các ngách không có lối thoát, khi khối đất ở trên quá ít, tức là ở những nơi mà ngách lên gần mặt đất, thì các khí bị ép đó làm nổ tung lớp vỏ đất mỏng đó như vỏ nồi súpde. Như thế cũng có nghĩa là mỏ đã đầy những nước và tai họa đã diễn ra rồi.

    Lúc đó cái tin mỏ bị lụt đã truyền đi khắp thành phố. Từ mọi ngả, công chúng đổ về Tơruye, từ người dân lao động cho đến bọn tò mò, và vợ con những người thợ bị nghẽn dưới hầm mỏ. Thân nhân của anh em thợ bị nạn đó dò hỏi, tìm kiếm, yêu cầu. Vì người ta không biết thế nào mà trả lời với họ cho nên họ vừa đau thương vừa phẫn nộ. À, ra người ta giấu sự thật.

    Ông kỹ sư không để ý đến sự náo động bên ngoài; ông đang cúi rạp xuống tấm bản đồ khu mỏ, nghiên cứu xem anh em thợ trong mỏ có thể lánh mình ở nơi nào và phải bắt đầu tiến hành công cuộc cứu nạn từ chỗ nào.

    May thay, các kỹ sư những hầm mỏ lân cận đã dẫn thợ của họ tới, và đi theo những công nhân này, còn có thợ trong thành phố. Thế là có thể ngăn công chúng lại, và nói chuyện với họ. Nhưng nói gì đây cho ổn? Thiếu mất một trăm hai mươi người. Những người này ở đâu?

    "Cha tôi thế nào?" "Chồng tôi đâu?" "Trả con tôi cho tôi!". Giọng người vỡ đi trong nước mắt, câu hỏi nghẹn ở cổ vì tiếng nấc. Biết trả lời làm sao với những người con, những người vợ, những người mẹ ấy?

    Chỉ một câu thôi, câu trả lời của hội đồng các kỹ sư: "Chúng tôi sẽ tìm, chúng tôi sẽ làm hết cách".

    Và thế là công việc cứu nạn bắt đầu.

    Có tìm ra một số người nào sống sót trong số một trăm hai mươi người bị nạn đó không? Nỗi nghi ngại tràn trề mà hy vọng thì chả có mấy. Mặc! Cứ tiến lên!

    Công việc cứu nạn được tổ chức như cụ giáo đã đoán. Người ta đặt thùng múc nước cả ba giếng và từ đó nó hoạt động ròng rã không kể ngày đêm, mãi cho đến khi giọt nước cuối cùng trong mỏ cũng được vét trút ra sông Đivôn mới thôi. Cùng một lúc, người ta bắt đầu đào hầm. Nhằm hướng nào mà đào? Biết sao được! Cũng hú họa thế thôi, nhưng cứ đào. Hội đồng kỹ sư không nhất trí về hiệu quả của những đường hầm đào mò vì không biết chắc chắn chỗ nào là chỗ lánh nạn của những người sống sót. Nhưng ông kỹ sư của mỏ Tơruye hy vọng rằng có người đến ẩn núp ở khu công trình cũ, ở đấy lụt không lên tới. Ông địnhđào một lối thẳng từ mặt đất thông đến khu ấy, vạn nhất không cứu được ai đi nữa thì cũng chẳng tiếc công. Người ta đào chiều ngang hết sức hẹp, để khỏi mất thì giờ. Chỉ có một người thợ cuốc đứng mũi. Anh khao được bao nhiêu than thì những người khác làm dây chuyền dùng giỏ lấy dần đi bấy nhiêu. Người thợ đứng mũi này mệt thì người khác vào thay. Cứ thế, không phút lơi tay, không phút nghỉ, không kể ngày đêm, người ta tiến hành song song hai việc vét nước và khao hầm.

    Những người anh em làm việc ở ngoài kia để cứu chúng tôi thấy thời giờ chậm đi một phần, thì chúng tôi ở trong này thấy nó chậm đi mười phần: Bất lực và tù túng, chúng tôi chỉ biết chờ đợi, chờ đợi mà không biết anh em có đến kịp để cứu sống mình không! Những tiếng gàu dội xuống về sau không nuôi dưỡng được lâu dài cơn phấn khởi sôi nổi của chúng tôi như lúc ban đầu mới nghe thấy. Hễ suy nghĩ là lại lo buồn. Chúng tôi không bị bỏ rơi, anh em đang lo cứu chúng tôi, đó là niềm hy vọng; nhưng họ có vét ráo nước kịp khi chúng tôi còn sống không, đó lại là nỗi hãi hùng. Hơn nữa, trên những đau khổ tinh thần, giờ đây lại chồng lên những đau đớn xác thịt. Phải ngồi ở bậc thang theo một tư thế nhất định, chúng tôi thấy mệt mỏi rã rời quá đỗi: Chúng tôi không thể cử động để cho giãn gân cốt, và càng thấy đầu nhức buốt rất khó chịu.

    Trong bọn chúng tôi có thằng Carôry là ít bị dày vò hơn cả. Chốc chốc nó lại nhắc:

    Tôi đói. Cụ giáo, tôi muốn ăn bánh.

    Mãi rồi cụ giáo cũng chịu đưa cho hai chúng tôi một miếng bánh lấy trong mũ da rái

    Ra.

    Ít quá. - Carôry nói.

    Phải dè xẻn để dùng được lâu.

    Những người khác giá được ăn với chúng tôi thì họ khoái biết bao nhiêu, nhưng họ đã thề tuân theo mệnh lệnh nên họ giữ lời thề. Côngpêru nói:

    Chúng mình bị cấm ăn, nhưng được phép uống.

    Cái đó thì tha hồ, chúng tôi có đủ nước để dùng tùy thích.

    Cậu cố uống cho cạn hầm đi.

    Anh sẽ làm sạt đất đi. Rêmi nhẹ người và nhanh nhẹn hơn, để nó xuống lấy rồi đưa lên cho chúng ta.

    Bằng gì?

    Bằng chiếc ủng của tôi đây!

    Hãy hượm một tí, để bác đưa tay cho cháu nắm!

    Cụ đừng lo, cháu có ngã xuống nước cũng chẳng hề gì! Cháu biết bơi.

    Bác muốn đưa tay cháu nắm mà!

    Không biết có phải cụ giáo đã cúi quá trớn không hay là vì không cử động mà cụ đã hóa tê dại, hoặc là vì than ở dưới chân đã sụt đi dưới sức nặng của người cụ. Chỉ biết rằng khi cụ cúi xuống thì cụ nhào luôn tới trước và đâm đầu vào vực nước đen sì. Chiếc đèn cụ cầm để soi cho tôi cũng lăn theo và chìm nghỉm. Nhoáng một cái, chúng tôi đã ở trong đêm dày đặc và tất cả mọi người buột miệng kêu lên một tiếng. Cũng may tôi đã ở tư thế đi xuống, tôi cứ việc nằm ngửa mà tuột và trong khoảnh khắc tôi đã lao xuống nước theo sau cụ giáo. Trong lúc đi đây đó với cụ Vitali, tôi tập bơi, tập lặn, và đã bơi lặn thạo đến mức xuống nước cũng thoải mái như ở trên cạn. Nhưng ở trong cái hang tối này thì còn biết phương hướng nào? Khi trụt xuống, tôi không nghĩ đến điều đó, tôi chỉ nghĩ rằng cụ giáosắp chết đuối và tôi lao xuống nước theo bản năng. Tìm đâu bây giờ? Đưa tay về phía nào? Làm sao mà lặn xuống? Tôi đang phân vân tự hỏi như thế thì thình lình thấy có một bàn tay bấu riết vai tôi và lôi tôi chìm nghỉm. Tôi đạp mạnh và trồi lên mặt nước. Bàn tay kia vẫn bám chặt vai tôi.

    - Bám chặt cháu, cụ giáo nhé, và cố ngước đầu lên! Cụ thoát chết rồi đó?

    Thoát chết ư? Cả cụ lẫn tôi cũng chưa thoát chết đâu, bởi vì tôi không biết phương hướng nào mà bơi cả. Tôi bỗng nảy ý gọi lên.

    Các bác lên tiếng đi chứ!

    Rêmi, cháu ở chỗ nào?

    Đó là tiếng chú Gátxpa. Nó chỉ hướng cho tôi. Phải bơi về phía trái.

    Thắp đèn lên cho.

    Liền sau đó một ngọn đèn sáng lên. Chỉ cần với tay là tôi níu được bờ, một tay bám vào một tảng than, tay kia tôi kéo cụ giáo. Với cụ, như thế là kịp thời quá, vì cụ đã uống nước và bắt đầu ngạt thở. Tôi nâng đầu cụ lên khỏi mặt nước và cụ hồi tỉnh nhanh chóng. Chú Gátxpa và Carôry cúi xuống đưa tay kéo chúng tôi, còn bác Pagiét rời bỏ bậc thang bác ngồi, xuống bậc chúng tôi, đưa đèn soi cho chúng tôi lên. Chú Gátxpa nắm một tay, Carôry nắm một tay kéo cụ giáo, còn tôi thì đẩy ở dưới, đưa cụ lên bậc thang. Xong phần cụ đến lượt tôi lên. Bây giờ cụ đã tỉnh hẳn. Cụ nói:

    Lại đây cháu, lại đây với bác, để bác hôn cháu mấy cái! Cháu đã cứu mạng bác!

    Bác đã cứu mạng chúng cháu trước!

    Thằng Carôry không phải là một đứa dễ cảm xúc, cũng không dễ quên những thiệt thòi vụn vặt, nó càu nhàu:

    Tại tất cả những cái bí beng này mà tôi mất toi một chiếc giày và cũng chưa được uống nước.

    Giày của mày thì để tao xuống vớt lên!

    Bác cấm cháu!

    Thế thì ai cho tôi mượn một chiếc giày khác! Ít ra tôi cũng phải mang nước lên cho các bác uống mới được.

    Tôi không khát nữa. - Côngpêru nói.

    Uống mừng cụ giáo bình an vô sự.

    Tôi tụt xuống lần nữa, nhưng lần này thì chậm hơn và cẩn thận hơn.

    Cụ giáo và tôi khỏi chết đuối nhưng bực một nỗi là ướt từ đầu đến chân. Lúc đầu, chúng tôi không nghĩ đến, nhưng lâu dần mới thấy áo quần ướt thấm lạnh vào người. Cụ giáo bảo:

    Phải đưa cho Rêmi một cái áo!

    Không ai trả lời vì kêu gọi chung ấy không bắt buộc nhất định một người nào phải thi

    Hành.

    Không ai thưa à?

    Tôi thì tôi thấy rét lắm. - Carôry nói.

    Thế thì chúng tôi đây ướt hết như thế này, chúng tôi thấy nóng à?

    Ai bảo các người ngã xuống nước làm gì?

    Đã thế thì phải rút thăm xem ai phải nhường một phần quần áo của mình. Tôi đã định không dùng cách ấy, nhưng bây giờ thì thấy cần phải công bằng.

    Chúng tôi đều ướt cả; tôi thì đến cổ, còn những người cao lớn nhất cũng đến hông, cho nên được thay quần áo của họ cũng không phải là một ân huệ gì ghê gớm lắm. Tuy thế, cụ giáo cứ buộc phải thay, và nhờ số đỏ, tôi rút trúng cái áo của Côngpêru. Riêng cặp chân của Côngpêru cũng đã cao bằng người tôi, cho nên áo của anh ta không ướt. Được khoác cái áo ấy, tôi thấy ấm người lại ngay.

    Cái việc bực mình vừa xảy ra đó có lay tỉnh chúng tôi trong chốc lát, nhưng sau đó thì chúng tôi lại như người mất hồn lởn vởn mãi với ý nghĩ đen tối về chuyện chết. Chắc hẳn những ý nghĩ ấy dày vò những người khác nặng nề hơn tôi bởi vì họ thì thức mà rã rời ngây dại còn tôi thì dần dần ngủ thiếp đi. Song cái chỗ ngủ này rất không ổn và tôi có cơ lăn tõm xuống nước. Thấy nguy cơ đó, cụ giáo bèn kẹp đầu tôi vào cánh tay cụ. Cụ không kẹp chặt lắm, nhưng đủ để giữ cho tôi khỏi rơi. Tôi nằm trong tay cụ như đứa trẻ nằm trên gối mẹ. Cụ là người không những có đầu óc vững mà còn có tấm lòng tốt. Khi tôi chập chờn tỉnh giấc thì cụ chỉ trở cánh tay cho đỡ tê dại, rồi lại ngồi yên ngay và khe khẽ nựng: "Ngủ đi cháu! Đừng sợ, đã có bác giữ cho. Cứ ngủ yên, bé!".

    Thế là tôi nhắm mắt ngủ lại không chút lo sợ, vì tôi cảm thấy không đời nào cụ buôngtôi ra.

    Thì giờ cứ thế trôi qua, và luôn luôn chúng tôi nghe thấy tiếng gàu đều đều vục xuống nước.
     
  8. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,892
    Chương 27: Công cuộc cứu nạn

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ngồi lên bậc thang quả chật chội không sao chịu nổi, chúng tôi quyết định khoét nới ra và thế là mọi người bắt tay vào việc. Chúng tôi lại dùng dao moi than và đưa than vụn xuống. Đã có chỗ đứng vững chân nên công việc bây giờ dễ dàng hơn trước, nhờ thế chúng tôi khoét được khá nhiều than để mở rộng nhà tù của chúng tôi. Khi không phải ngồi buông thõng chân nữa mà được nằm thì mọi người cảm thấy khoan khoái lạ thường.

    Mặc dù chiếc bánh của Carôry được chia phát từng tí một, nó cũng phải có lúc hết. Miếng cuối cùng phát vừa đúng lúc nên mới đến được tay chúng tôi: Khi cụ giáo đưa miếng bánh ấy thì tôi thấy trong mắt mọi người ánh lên một cái gì khiến cho tôi hiểu ngay rằng nếu còn bánh để phát lần nữa, thì họ không chịu để yên, họ sẽ đòi phần họ, mà nếu không cho thì họ cũng cứ tự tiện lấy phần.

    Lâu dần rồi hầu như người ta không buồn nói năng gì nữa. Trước kia thao thao bao nhiêu thì bây giờ im lặng bấy nhiêu. Có nói thì chỉ nói về hai vấn đề: Người ta dùng phương pháp gì để đến được với chúng tôi và chúng tôi bị giam hãm ở dưới này đã bao lâu rồi.

    Nhưng câu chuyện chẳng sôi nổi như lúc đầu. Có ai nói một lời thì nó cũng rơi tõm đi chứ những người khác không buồn đáp lại, hoặc có thì cũng chỉ đáp nhát gừng. Nói trời, nói đất, nói trắng nói đen gì thì cũng không làm cho ai giận dữ, thậm chí cũng không ai cãi lại. Người ta chỉ nói: "Được, rồi sẽ hay". Chúng ta bị vùi lấp dưới này được hai ngày rồi, hay sáu? Thì cứ để lúc được cứu lên khắc biết.

    Nhưng cái "lúc" ấy có đến không đã chứ? Riêng tôi thì tôi bắt đầu lung lay tợn. Và cũng không phải chỉ một mình tôi; đôi lúc những người bạn khác thốt ra một vài lời nhận xét chứng tỏ họ cũng không tin tưởng mấy. Chẳng hạn như bác Bécgunu:

    Nếu tôi ở lại dưới này thì cái điều an ủi tôi là công ty mỏ sẽ cung cấp cho mẹ nó và các cháu một khoản thực lợi. Ít ra chúng khỏi phải vào nhà tế bần.

    Là chỉ huy thì không những phải vì anh em chống đỡ tai họa, mà còn phải ngăn ngừa sự suy sụp tâm hồn của chính anh em, hẳn cụ giáo nghĩ thế. Cho nên mỗi khi có một bạn nào tỏ vẻ ngao ngán thất vọng thì cụ can thiệp ngay bằng một lời cổ vũ:

    Anh cũng như chúng tôi, không ai ở lại dưới này đâu! Gàu múc đều, nước rút dần.

    Rút ở chỗ nào?

    Ở giếng.

    Còn ở đường hầm?

    Rồi cũng sẽ đến, phải chờ chứ.

    Trong khi nói chuyện, mấy người trong bọn nghĩ rằng vì có kẻ phạm tội nặng nên trời phạt. Côngpêru tự thú là hắn đã ăn cắp một chiếc đồng hồ, để bạn bị xử năm năm tù oan uổng. Mọi người tẩy chay. Côngpêru phát sốt, Rêmi định đi lấy nước cho uống bị mọi người cản. Côngpêru tụt xuống uống, chết đuối.

    Nếu mọi việc không tiến hành trôi chảy và chóng vánh thì đó không phải lỗi tại các kỹ sư và anh em thợ đang làm việc để cứu sống chúng tôi. Con đường hầm để thông xuống chỗ chúng tôi mà anh em đào từ đầu thì nay anh em vẫn đào tiếp không một phút nghỉ ngơi. Nhưng công việc quả thật là khó khăn. Tầng than anh em đang đào khoét là một tầng than rắn; vả lại đường hầm hẹp, chỉ đủ chỗ cho một người làm, mà anh em đào ham lắm nên chóng mệt, cứ phải thay người luôn. Trong lúc đó, việc thông hơi cũng chật vật: Đào tới đâu, người ta đặt ống dẫn không khí tới đó và nối các ống với nhau bằng đất sét; mặc dù vậy và mặc dù luôn luôn quạt không khí vào bằng một chiếc quạt tay mạnh, đèn cũng chỉ cháy ở miệng ống dẫn không khí, xê đi thì tắt. Tất cả những cái ấy làm chậm công việc đào hầm, cho nên đến người thứ bảy thì anh em mới đào được hai mươi mét. Bình thường thì mất một tháng mới đào được xong con đường hầm như thế, nhưng với tất cả mọi phương tiện và khí thế làm việc lúc này, nhất định thời gian được rút ngắn hơn.

    Vả chăng nếu không có sự kiên trì cao cả của ông kỹ sư thì chắc chắn công việc phải bỏ dở. Dư luận đều cho rằng việc này là vô ích vì những anh em thợ bị chôn vùi trong mỏ đã chết hết rồi, chỉ còn việc dùng gàu múc cho hết nước để một ngày kia nhặt xác mà thôi. Đã thế thì sớm hay muộn vài giờ có nghĩa lý gì? Công chúng nói thế, những người am hiểu cũng nghĩ thế. Cho đến thân nhân của những người bị nạn, cả mẹ họ, vợ họ cũng để tang rồi. Không còn ai sống sót mà lên khỏi mỏ Tơruye đâu!

    Vừa đẩy mạnh việc vét nước, công việc này chỉ gián đoạn tạm thời khi máy hư hỏng, ông kỹ sư vẫn cho tiếp tục mở con đường hầm xuống, mặc công chúng bàn tán và bạn bè đồng nghiệp bình phẩm. Ông kỹ sư này có cái đức kiên trì và lòng tin cao quý đã giúp cho Côlông tìm ra Tân thế giới. Ông nói với anh em thợ mỏ:

    Hãy cố gắng một hôm nữa, các bạn ạ, một hôm nữa thôi! Nếu đến mai mà vẫn không thấy tăm hơi gì thì chúng ta sẽ đình lại. Tôi yêu cầu các anh làm việc vì bạn của các anh, cũng như tôi có thể yêu cầu người ta làm việc vì các anh nếu chẳng may chính các anh bị nạn.

    Lòng tin tưởng hừng hực của ông truyền sang anh em thợ, cho nên khi đi thì họ hoang mang vì dư luận của dân thành phố, khi về thì họ tin tưởng vào ông..

    Và nhờ vào một sự đồng lòng, một sự hoạt động tuyệt vời, con đường thông cứ sâu xuống mãi.

    Mặt khác, ông kỹ sư cho chống lại con đường ngầm từ kho đèn đã bị sập nhiều chỗ. Cứ như thế bằng tất cả mọi phương tiện có thể có, ông quyết tâm giành giật với hầm mỏ cái bí mật khủng khiếp và những nạn nhân của nó nếu trong lòng nó còn giấu những người chưa chết.

    Sang ngày thứ bảy, trong khi đổi phiên người thợ mới đến thoáng nghe thấy có tiếng động, như ai gõ nhè nhẹ. Anh ta không bổ cuốc chim mà lại áp tai vào vỉa than. Rồi e mình nhầm, anh gọi lại một người bạn cùng anh nghe ngóng. Cả hai im lặng lắng tai nghe một lúc thì quả thấy có tiếng gõ nhè nhẹ, cách quãng đều nhau, vọng lại.

    Cái tin này truyền miệng đi rất nhanh. Một số người tin, số đông hơn ngờ vực. Rồi nó bay đến tai ông kỹ sư và lập tức ông nhảy xuống đường hầm. Như vậy là rốt cuộc ông đã nghĩ đúng! Trong mỏ vẫn có những người còn sống sót và sẽ được cứu thoát nhờ ở lòng tin tưởng của ông. Rất nhiều người đi theo ông. Ông bảo những người thợ mỏ giãn ra để ông nghe ngóng. Nhưng ông xúc động quá, ông run lên nên chẳng nghe thấy gì. Ông nói một cách thất vọng:

    - Tôi chẳng nghe thấy gì cả!

    Nhưng hai người thợ đầu tiên đã nghe tiếng gõ nói quả quyết rằng họ không nhầm vì chính tai họ đã nghe tiếng gõ trả lời tiếng gõ của họ. Họ là những người thông thạo, từng làm nghề mỏ lâu năm cho nên lời nói của họ có uy tín.

    Ông kỹ sư bảo những người đi theo ông đi ra hết, kể cả những người làm dây chuyền để chuyển than ra ngoài, chỉ giữ lại hai người thợ ấy. Bây giờ họ lấy cuốc chim bổ vào than nhiều nhát rõ mạnh, cách quãng đều nhau, theo lối gọi bạn của những người thợ mỏ. Xong họ nín thở, áp tai vào vỉa than để nghe ngóng.

    Đợi một lúc thì thấy tiếng trả lời yếu ớt, đều đặn. Những tiếng ấy dội mạnh vào tim họ. Ông kỹ sư ra lệnh:

    Cuốc nữa đi, cuốc từng nhát cách quãng nhau xa để cho chắc chắn những tiếng trả lời không phải tiếng vang của những nhát cuốc do các anh bổ xuống.

    Hai người thợ bổ cuốc xuống và ngay sau đó lại nghe những tiếng trả lời đều nhịp như họ đã nghe lúc trước, nghĩa là tiếng gõ theo lối "gọi thợ mỏ". Không nghi ngờ gì nữa, vẫn còn có người sống sót ở dưới ấy và có thể cứu họ.

    Tin này lan nhanh khắp thành phố nhanh như làn thuốc súng cháy. Người ta đổ xô tới mỏ Tơruye đông hơn ngày xảy ra tai nạn và rõ ràng xúc động hơn. Vợ con, bố mẹ của những người bị nạn chạy đến, mặc quần áo tang, run run mà mắt ngời hy vọng. Bao nhiêu người còn sống? Chắc là nhiều lắm! Có thể là chồng chị. Nhất định là con tôi.

    Mọi người muốn ôm hôn ông kỹ sư. Nhưng ông này vẫn điềm tĩnh trước niềm vui cũng như đã điềm tĩnh trước sự nghi ngờ và lời chế giễu. Ông chỉ nghĩ đến việc cấp cứu, và để giãn bớt những kẻ tò mò quấy rối cũng như thân nhân của những người bị nạn đổ xô tới, ông đã phải nhờ binh lính đến giữ trật tự, công việc khỏi bị trở ngại.

    Những tiếng động vọng ra yếu ớt quá đến nỗi không thể nào định rõ được hướng chỗ phát ra. Tuy thế cũng đã đủ cho mọi người hiểu được rằng những người thợ còn sống sót hiện nay đang mắc nghẽn tại một trong ba ngách ngược chỗ hầm phẳng, nơi công trường cũ. Vậy thì không thể chỉ có một đường thông mà phải đào ba đường thông xuống cả ba ngách ngược. Chừng nào nghe rõ ra được thì sẽ bỏ những con đường vô dụng để tập trung sức vào con đường đúng. Thế là công việc lại tiếp tục khẩn trương hơn, phần lớn cũng nhờ có những công ty láng giềng đã gửi những người thợ cuốc giỏi nhất đến giúp. Song songvới hy vọng hoàn thành đường thông còn có hy vọng đi theo đường hầm bởi vì nước trong mấy cái giếng đã thấy rút dần.

    Trong ngách của chúng tôi, khi nghe thấy tiếng cuốc gọi của ông kỹ sư thì chúng tôi cũng xúc động như khi nghe tiếng gàu múc vục xuống giếng. Cả bọn buột mồm reo lên một tiếng hồ hởi: "Sống rồi!" và tưởng chừng như người ta sắp đưa tay kéo mình lên.

    Nhưng cũng như tiếng gàu vục nước, sau hy vọng thì lại thất vọng. Tiếng cuốc chim chứng tỏ những người bạn đào hầm còn cách chúng tôi xa lắm. Hai mươi mét có dễ, ba mươi mét cũng nên. Còn bao nhiêu ngày nữa mới chọc thủng được khối than này? Ước lượng của chúng tôi không thống nhất: Kẻ nói một tháng, người bảo một tuần, hoặc chỉ là sáu hôm thôi. Làm thế nào đợi được một tháng, một tuần, hoặc chỉ sáu hôm thôi? Ai ở đây có thể sống đến ngày thứ bảy? Chúng tôi đã nhịn đói bao nhiêu ngày rồi?

    Còn mỗi một mình cụ giáo là nói năng cứng cáp, nhưng lâu dần rồi sự chán nản của chúng tôi cũng lây đến cụ, lâu dần cơ thể suy nhược cũng làm cho nghị lực cụ suy mòn.

    Nếu như chúng tôi tha hồ uống nước đến vỡ bụng thì lại chẳng có chút gì ăn cho đỡ đói lòng. Cái đói ngày càng hành hạ da diết đến nỗi đã có lúc chúng tôi nhấm cả gỗ mục mủn ra trong nước.

    Thằng Carôry háu đói nhất, đã cắt nhỏ chiếc ủng còn lại của nó và luôn miệng nhá những mẩu da ủng.

    Nhìn thấy cái đói đã đưa các bạn tôi đến cơ sự đó, xin thú thực có lúc tôi rất khiếp sợ. Sự khiếp sợ này cùng với những nỗi kinh hoàng khác khiến tôi bứt rứt không yên. Chẳng là tôi đã từng nghe cụ Vitali kể chuyện về những chuyến tàu gặp bão. Cụ cũng đã chu du trên mặt biển rất nhiều, ít nhất cũng ngang với trên mặt đất. Có một câu chuyện cụ kể cứ ám ảnh tôi không rời, từ khi cái đói hành hạ chúng tôi. Trong chuyện đó, những người thủy thủ bị giạt lên một hòn đảo cát hoang vu, không kiếm được gì ăn, đã giết chú bé tập việc để ăn thịt. Mỗi khi nghe các bạn tôi gào đói, tôi lại kinh hãi lo ngại vớ vẩn số phận ấy sẽ rơi vào tôi. Trên cái đảo than trơ trọi này, liệu tôi có thể cũng bị giết thịt như chú bé kia không? Đành rằng nhất định cụ giáo và chú Gátxpa sẽ bảo vệ tôi, nhưng Pagiét, Bécgunu và Carôry, nhất là Carôry cứ nhe hai hàm răng trắng nhởn nhọn hoắt mài đi mài lại vào những miếng da ủng thế kia thì làm sao tôi có thể yên lòng được!

    Tất nhiên những lo ngại ấy quả là rồ dại. Nhưng trong tình trạng chúng tôi lúc này, rõ ràng không phải là lý trí khôn ngoan và tỉnh táo đã điều khiển suy nghĩ và tưởng tượng.

    Bóng tối lại càng làm tăng nỗi hãi hùng. Lần lượt mấy cái đèn cạn dầu. Khi chỉ còn hai chiếc thì cụ giáo quyết định chỉ thắp đèn khi nào thật cần thiết. Bởi thế cho nên giờ đây lúc nào chúng tôi cũng sống trong đêm tối. Ảm đạm quá! Không những ảm đạm mà lại còn nguy hiểm nữa, bởi vì hễ vụng về sơ suất một tí là lăn tòm xuống nước ngay.

    Chốc chốc, chúng tôi lại gõ vào vách để báo cho những bạn đang lo cứu chúng tôi biết là chúng tôi hãy còn sống. Và chúng tôi nghe tiếng cuốc của họ bổ xuống than liên hồi.

    Nhưng tiếng cuốc của họ cũng không dội mạnh hơn trước là mấy, như thế có nghĩa là họ hãy còn ở xa.

    Khi tôi thắp đèn đi lấy nước thì tôi thấy hình như mực nước có xuống được vài phân. - Nước xuống.

    - Ơn trời!

    Một lần nữa, chúng tôi khấp khởi hy vọng. Anh em muốn chong đèn để theo dõi mực nước, nhưng cụ giáo không đồng ý. Thế là tôi tưởng như sắp có phản kháng. Nhưng cụ giáo có bao giờ đòi hỏi chúng tôi điều gì mà không kèm theo những lời lẽ xác đáng!

    "Chúng ta còn nhiều lúc cần đến đèn! Nếu như động tí là thắp đèn thì làm thế nào khi cần đến có đèn thật sự? Hơn nữa, các bạn tưởng rằng được thấy nước xuống nhưng mà xuống quá chậm, các bạn lại khổ sở vì nóng ruột quá hay sao? Đừng có mong nhìn thấy nước vơi đi rõ ràng! Hãy vững lòng, nhất định sẽ thoát nạn! Ta còn mười ba que diêm, cần thì sẽ dùng ngay lập tức!". Chúng tôi ngồi im lìm hàng giờ, có lẽ hàng ngày, không có gì để tin vào mà sống ngoài tiếng cuốc khoét hầm và tiếng gàu múc nước. Những tiếng ấy càng lâu càng vang to dần, tiến triển này rất chậm vào khó nhận thấy. Nước xuống, những kẻ cứu nạn cũng đến gần, nhưng liệu họ có đến kịp hay không chứ. Nếu công việc của những người cứu nạn mỗi phút một tiến lên thì sự suy nhược của chúng tôi mỗi phút một tăng dần và dằn vặt chúng tôi nhiều hơn: Thể xác kiệt quệ, tinh thần rã rời.

    Từ lúc bắt đầu lụt cho đến nay, các bạn tôi không có chút gì dính bụng. Ghê gớm hơn nữa, chúng tôi chỉ hô hấp một thứ không khí tù hãm cho nên ngày càng uế tạp, càng khó thở. Cũng may là nước càng rút thì áp suất không khí càng giảm đi, chứ nếu nó cứ găng như cũ thì chắc hẳn chúng tôi đã chết ngạt hết. Như vậy rõ ràng là nếu chúng tôi được cứu sống thì cũng do công việc cứu nạn được tổ chức và điều khiển khẩn trương.

    Tiếng cuốc bổ và tiếng gàu múc nước đưa đến đều đặn như tiếng quả lắc đồng hồ. Mỗi khi họ dừng tay thay người thì chúng tôi xúc động đến phát sốt lên. Liệu chúng tôi có bị bỏ rơi không? Hay là lại có những khó khăn không vượt nổi! Trong một khoảng dừng như thế, bỗng nổi lên một tiếng động kinh khủng, một tiếng vù, một tiếng thổi rất mạnh.

    Carôry kêu lên:

    Nước ào xuống mỏ! Cụ giáo nói:

    Không phải nước!

    Thế thì là cái gì?

    Tôi không rõ, nhưng không phải nước!

    Mặc dầu đã nhiều lần cụ giáo tỏ ra sáng suốt và suy đoán vững vàng, chúng tôi vẫn chỉ tin ở cụ khi cụ đưa ra được những lý lẽ rõ ràng xác đáng. Bây giờ cụ đã thú nhận không hiểu nguyên nhân của tiếng động ấy (sau này chúng tôi được biết đó là tiếng quạt máy có bánh xe răng cưa, lắp lên để quạt không khí vào cho những người đào đất), mọi người lại rơi vào trạng thái điên loạn vì nghĩ tới nạn lụt.

    Đốt đèn lên!

    Không cần thiết!

    Đốt đèn lên ngay! Đốt lên ngay!

    Cụ giáo phải làm theo vì tất cả mọi người đều lên tiếng ùa vào. Ánh đèn chiếu sáng.

    Chúng tôi thấy nước không dâng lên mà có lẽ rút xuống.

    Cụ giáo bảo:

    Đấy các bạn xem!

    Nước sẽ lên thôi! Lần này thì chết ráo!

    Nếu thế, thà chết ngay đi còn hơn! Tôi không chịu đựng được nữa!

    Cụ giáo, đưa đèn đây! Tôi muốn viết vài dòng cho vợ con.

    Viết hộ tôi nữa!

    Hộ cả tôi nữa!

    Chính bác Bécgunu đã đòi lấy đèn để viết thư cho vợ con trước khi chết. Trong túi bác ta còn có một mảnh giấy và một mẩu bút chì. Bác chuẩn bị viết.

    - Tôi muốn viết thế này:

    "Chúng tôi, Gátxpa, Pagiét, cụ giáo, Carôry, Rêmi và Bécgunu bị hãm trong ngách ngược, sắp chết".

    "Tôi, Bécgunu, tôi cầu xin Chúa che chở cho vợ góa và các con côi cút của tôi. Tôi ban phúc cho chúng nó".

    - Thế anh Gátxpa muốn nói gì?

    Chú Gátxpa để cho cháu Alơxi tất cả tài sản của chú.

    Bác Pagiét cầu Chúa, Đức Mẹ và nhờ công ty cùng che chở giúp đỡ cho vợ con.

    Thế cụ giáo?

    Tôi không có người thân. - Cụ giáo buồn rầu trả lời. - Chẳng ai sẽ khóc tôi cả!

    Thế Carôry?

    Tôi ấy à? Tôi nhờ ai đó bảo hộ cho đống hạt dẻ trước khi xát vỏ..

    Không thừa giấy để ghi chuyện vớ vẩn!

    Có vớ vẩn đâu!

    Mày không có ai để gửi lại cái hôn ư? Mẹ mày đâu?

    Mẹ tôi ấy à? Mẹ tôi sẽ hưởng tất cả những gì của tôi.

    Thế Rêmi?

    Tôi, Rêmi tặng cho Mátchia con Capi và chiếc thụ cầm, tôi hôn Alơxi và nhờ anh tìm gặp em Lidơ..

    Chúng mình cùng ký tất cả vào đây!

    Tôi chỉ xin gạch một dấu chữ thập. Mọi người ký xong, bác Bécgunu nói:

    Thế là xong. Tôi xin mọi người để cho tôi chết yên tĩnh, đừng có nói năng gì với tôi. Vĩnh biệt các bạn!

    Từ bực trên, bác ta bước xuống bực dưới, ôm hôn tất cả ba chúng tôi, rồi trở lên bực trên, ôm hôn bác Pagiét và Carôry. Sau đó, bác vun lại một đống than vụn, gối đầu lên, nằm dài ra và không động đậy nữa. Xúc động vì bức thư và sự chán ngán của bác Bécgunu, chúng tôi lại càng cảm thấy nản lòng.

    Tuy nhiên, tiếng cuốc chim nghe đã rõ rệt, chắc hẳn là người ta đến gần chúng tôi lắm rồi, sắp gặp chúng tôi cũng nên. Cụ giáo giải thích điều đó để chúng tôi phấn chấn lên đôi chút.

    Nếu quả họ đã đến gần lắm như cụ tưởng thì chúng mình đã nghe thấy họ kêu!

    Đằng này mình không nghe thấy tiếng họ gọi cũng như họ không nghe thấy tiếng chúng mình kêu.

    Có khi ở cách mấy thước mà vẫn không nghe thấy tiếng gọi. Cái đó là do chất đá có truyền tiếng đi hay không.

    Hoặc là do khoảng cách!

    Tuy vậy, nước vẫn cứ rút xuống và không bao lâu, chúng tôi có bằng chứng rõ ràng là nó không còn tràn ngập hầm đến tận nóc nữa. Chúng tôi nghe có tiếng sột soạt trên đá và tiếng nước óc ách như có những mảnh than nhỏ rơi xuống. Thắp đèn lên thì thấy có mấy con chuột cống ở phía dưới. Cũng như chúng tôi, chúng nó đã tìm được một cái chuông không khí và khi nước rút xuống thì chúng rời bỏ chỗ trú ẩn để đi kiếm ăn. Chúng đã đến được đây hẳn là vì nước không còn tràn ngập các con đường hầm từ đây đến trần nữa.

    Những con chuột ấy đến với cái hầm giam chúng tôi khác nào con bồ câu đến với chiếc thuyền của Nôê (1) : Cơn hồng thủy đã dứt.

    Cụ giáo nhướn người lên bậc trên, gọi:

    - Bécgunu, phấn khởi lên!

    Và cụ nói rõ cho anh hiểu rằng lũ chuột đến như thế tức là báo trước cho chúng ta biết sẽ được cứu thoát.

    Nhưng Bécgunu không hề lay chuyển.

    Nếu rồi lại phải chuyển từ hy vọng trở lại thất vọng thì thà đừng có hy vọng hão huyền còn hơn! Tôi cứ chờ chết! Nếu may mắn thoát nạn thì tạ ơn trời!

    Tôi xuống chân ngách để xem rõ nước rút. Nước quả có rút nhanh đấy và bây giờ đã có một khoảng trống khá lớn giữa mặt nước và nóc hầm.

    Thằng Carôry gọi với theo tôi:

    Bắt ít con chuột để chúng mình ăn đi mày.

    Nhưng muốn bắt chuột thì phải nhanh nhẹn hơn tôi kia! Tuy vậy sự hy vọng cũng làm cho tôi hồi tỉnh lại, và cái khoảng trống trong đường hầm làm nảy sinh trong đầu óc tôi một ý nghĩ cứ khiến tôi suy tính băn khoăn.

    Cụ giáo ạ, cháu có ý kiến: Chuột sục sạo trong hầm như thế nghĩa là có thể đi lại

    Được. Cháu sẽ bơi cho đến chỗ thang lên xuống. Đến đây cháu sẽ gọi lên, đánh tiếng cho người ta nghe thấy và giúp cho họ đến cứu chúng ta. Họ sẽ xuống tìm ta, như thế nhanh hơn là cứ khoét đường hầm mà xuống.

    Bác cấm cháu làm việc đó.

    Nhưng cháu bơi lội dưới nước y như cụ đi lại trên bộ. Xuống nước cháu không khác gì con lươn, con chạch.

    Thế còn không khí độc?

    Chuột đi qua được, không khí ấy chúng thở được thì tất cũng không có gì là độc đối với cháu.

    Bác Pagiét to tiếng giục:

    Ừ đi đi, Rêmi! Tao sẽ thưởng cho mày chiếc đồng hồ.

    Anh Gátxpa. - Cụ giáo hỏi. - Ý kiến anh thế nào?

    Tôi không có ý kiến. Nếu nó có thể bơi tới cầu thang được thì nó cứ đi, tôi không có quyền cản nó.

    Nhỡ nó chết đuối thì sao?

    Thế may nó thoát ra được, khỏi phải chờ đợi để rồi chết rũ ở dưới này, thì sao?

    Lòng dạ cháu tốt đó, cháu ạ. Thôi thì cháu cứ làm như ý cháu. Phần bác, bác cho rằng cháu đang cố làm một việc không thể làm được. Nhưng việc không thể làm mà người ta làm được xưa nay cũng không phải là không có. Cháu hôn các bác đi.

    Tôi hôn cụ, hôn chú Gátxpa, rồi cởi quần áo, tuột xuống nước. Trước khi bơi, tôi dặn

    Lại: "Các bác cứ kêu lên đều đều. Tiếng các bác sẽ giúp cháu định phương hướng".

    Khoảng trống dưới mái hầm là bao nhiêu? Có đủ để tôi khỏi vướng vất trong khi bơi lội không? Điều cốt yếu là ở đó. Bơi đi được mấy sải, tôi thấy rằng nếu cứ bơi từ từ thì không đến nỗi phải đụng đầu vào vách đá, như thế thì cái việc tôi làm không phải là phiêu lưu quá. Không biết rồi cuối cùng sẽ được giải phóng hay là chết? Tôi ngoảnh lại thì thấyánh đèn của anh em phản chiếu trên mặt nước đen ngầu: Rõ ràng đó là một ngọn hải đăng chỉ đường rọi lối cho tôi. Tôi vẫn nghe tiếng cụ giáo hỏi:

    - Vẫn bình thường chứ?

    Tôi trả lời: "Vâng" và thận trọng tiến lên. Từ ngách chúng tôi nấp đến chân thang, cái khó là ở phương hướng, vì cách chỗ chúng tôi không xa có một ngã tư, ở đấy các đường hầm gặp nhau. Trong bóng tối phải nhận cho ra lối đi đến chân thang, bằng không thì sẽ lạc đường. Mái hầm, vách hầm không đủ để tôi dựa vào mà tìm lối đi, chỉ có một chỗ dựa đáng tin cậy hơn, đó là đường ray trên mặt đất. Cứ theo đường ray chắc chắn tôi sẽ tìm được thang lên. Chốc chốc, tôi thả cho chân chìm xuống và khi chân đã mò gặp đường sắt rồi thì tôi từ từ trồi lên và bơi đi. Có đường ray ở dưới, có tiếng gọi của các bạn thợ đằng sau, tôi không ngại lạc hướng. Tiếng gọi đằng sau nhỏ dần, tiếng gàu múc phía trước to dần mách cho tôi biết rằng tôi đương tiến lên. Phải chăng tôi sắp được thấy ánh mặt trời? Phải chăng lát nữa các bạn tôi sẽ được cứu sống, nhờ sự cố gắng của tôi? Cứ nghĩ thế là tôi phấn chấn, tìm thấy đủ sức lực để vượt lên.

    Bơi giữa hầm, hễ đứng thẳn người là gặp đường ray, và thường thường tôi chỉ quờ chân mò cũng đủ, lần này quờ chân mà không thấy, tôi lặn xuống lấy tay sờ soạng mãi cũng không tìm ra. Tôi mò từ vách bên này qua vách bên kia cũng không gặp. Tôi nhầm đường rồi. Tôi dừng lại để suy nghĩ và nhận phương hướng. Tiếng gọi của các bạn tôi bây giờ chỉ còn vọng đến như một tiếng thì thầm xa xôi khó nghe thấy.

    Thở một lúc đỡ mệt, tôi hít không khí đầy ngực, rồi hụp xuống lần nữa. Lần này cũng không may mắn hơn lần trước: Vẫn không tìm thấy đường ray. Tôi đã đi nhầm lối mà không biết, cho nên cần phải quay lại. Nhưng làm sao quay trở lại lối cũ được? Các bạn tôi không kêu gọi nữa, hoặc là họ vẫn gọi mà tôi không nghe thấy thì kết quả cũng thế thôi.

    Một lúc, tôi như bị tê liệt đi vì kinh hoàng. Tôi không biết phương hướng nào mà bơi đi cả. Hẳn tôi đành chịu chết giữa cái đen tối mờ mịt ở trong lòng nước lạnh như băng, dưới cái vòm cuốn nặng trình trịch này. Nhưng đột nhiên tiếng gọi lại vang lên và thế là tôi biết phải quay lại theo hướng nào.

    Bơi lui độ hai mươi sải thì tôi lặn xuống và lại tìm thấy đường ray. Đúng lối rẽ ở nơi này đây. Tôi tìm tấm bảng không thấy, tôi tìm các cửa cũng không ra: Bên phải, bên trái, tôi đều gặp vách đá. Đường ray đâu rồi? Tôi lại men theo đường ray bơi cho đến khi không còn đường ray nữa: Đường ray đứt một cách đột ngột. Bấy giờ tôi mới hiểu rằng đường ray đã bị dòng nước cuốn phăng đi và tôi không có gì làm chuẩn để bơi đi nữa. Trong hoàn cảnh này thì dự định của tôi không thể thực hiện, chỉ còn việc quay về mà thôi.

    Đường đã đi một lần rồi, tôi biết là không nguy hiểm vì vậy tôi bơi nhanh theo tiếng gọi, để cho mau đến ngách. Càng đến gần, tôi càng cảm thấy hình như giọng nói của các bạn tôi rắn chắc hơn, tuồng như họ được bồi thêm sức lực. Trong chốc lát, tôi đã đến miệng ngách và đến lượt tôi gọi lên. Cụ giáo bảo:

    Đây nào! Lại đây.

    Cháu không tìm được lối đi đến giếng.

    Không sao! Họ đã xuống gần, họ nghe tiếng ta gọi, ta cũng nghe thấy tiếng họ gọi. Hai bên sắp nói chuyện với nhau đến nơi.

    Tôi nhanh nhẹn leo lên bệ và lắng tai nghe ngóng. Quả nhiên tiếng cuốc bổ dội mạnh hơn trước nhiều và tiếng la tiếng thét của những người thợ đang làm việc ấy vang đến chúng tôi tuy còn yếu ớt nhưng khá rõ ràng. Qua phút mừng rỡ ban đầu, tôi mới nhận thấy người mình lạnh cóng đi. Vì không có quần áo ấm để đưa tôi mặc nên các bác ấy vùi tôi trong than cám đến tận cổ - than cám bao giờ cũng giữ được một chút ít sức ấm - và chú

    Gátxpa cùng với cụ giáo ấp chặt lấy tôi. Bây giờ tôi kể lại cuộc thám hiểm của tôi và chuyện tôi không tìm thấy đường ray như thế nào cho họ nghe.

    Cháu dám lặn xuống à?

    Sao không? Rủi là cháu chẳng tìm thấy gì hết.

    Cũng như cụ giáo đã nói, điều này không có gì là quan trọng nữa: Rõ ràng là nếu chúng tôi không được cứu thoát do con đường hầm cũ thì chúng tôi sẽ được cứu thoát qua con đường hầm sắp thông.

    Lúc này chúng tôi phân biệt tiếng la hét bên trên đã khá rõ nên có thể hy vọng sắp được nghe nói chuyện đến nơi. Được một lát, quả nhiên chúng tôi nghe ba tiếng nói rành rọt: "Có mấy người?". Trong chúng tôi, chú Gátxpa có giọng nói vang dội và rành mạch hơn cả, chúng tôi cử chú trả lời.

    - Sáu!

    Một phút im lặng. Chắc ở trên ấy người ta trót dự đoán một số đông hơn. Chú Gátxpathét:

    Nhanh lên anh em! Chúng tôi kiệt sức rồi.

    Cho biết tên.

    Chú báo tên chúng tôi lên: Bécgunu, Pagiét, cụ giáo, Carôry, Rêmi, Gátxpa.

    Đối với những người trên mặt đất, phút này là phút hồi hộp nhất. Tất cả những người ruột rà thân thích của các bạn thợ bị chôn vùi dưới đáy mỏ đều đã chạy tới, khi biết tin sắp bắt được liên lạc với chúng tôi. Lính gác phải khó nhọc lắm mới giữ được họ ở miệng hầm. Khi ông giáo sư báo tin chỉ có sáu người thì đám đông thất vọng. Tuy vậy trong sự thất vọng chung, mỗi người còn nuôi hy vọng riêng: Trong số sáu người đó tất có người mình mong đợi. Ông kỹ sư nói tên chúng tôi. Hỡi ôi! Trong số một trăm hai mươi bà mẹ và chị vợ chờ mong, chỉ có bốn người được toại nguyện. Kể làm sao xiết những vật vã đau thương, những dòng nước mắt lã chã!

    Về phía chúng tôi, chúng tôi cũng nghĩ đến những người đã được cứu sống. Chú Gátxpa hỏi:

    Có bao nhiêu anh em thoát chết?

    Người ta không đáp. Pagiét bảo:

    Hỏi xem Pie ở đâu?

    Câu hỏi được chuyển lên. Cũng như câu hỏi trước, nó không được trả lời.

    Họ không nghe.

    Phải nói rằng họ không muốn trả lời mới đúng. Có một vấn đề làm tôi bứt rứt. Tôi nói:

    Hỏi xem chúng ta ở dưới đây đã bao lâu rồi.

    Mười bốn hôm!

    Mười bốn hôm! Trong sáu chúng tôi, kẻ ước lượng cao nhất cũng chỉ đến năm sáu hôm mà thôi.

    Bây giờ thì anh em không ở lâu dưới đó nữa đâu, hãy yên tâm! Đừng nói chuyện nữa! Chuyện nhiều làm chậm công việc. Chỉ vài giờ nữa thôi.

    Những giờ khắc cuối cùng này là những giờ khắc dài nhất trong thời gian chúng tôi bị nghẽn. Ít ra, đó cũng là những giờ đau đớn nhất, đau đớn hơn trước nhiều. Mỗi nhát cuốc bổ xuống cứ tưởng là nhát cuốc cuối cùng, ngờ đâu sau nhát ấy, có nhát nữa. Chốc chốc lại nghe hỏi:

    Anh em có đói không?

    Đói, đói lắm.

    Anh em có đợi được không? Nếu anh em đuối sức quá, chúng tôi sẽ khoan một lỗ chuyển nước thịt ninh xuống, nhưng như thế sẽ làm chậm công việc giải thoát anh em. Nếu anh em chờ được thì sẽ chóng được tự do hơn.

    Chúng tôi sẽ chờ. Các bạn làm nhanh lên.

    Các gàu múc không ngừng hoạt động giây phút nào và mực nước cứ xuống đều đều.

    Cụ giáo bảo:

    Báo lên cho trên kia biết là nước đang xuống.

    Chúng tôi biết. Bằng lối mới thông này hoặc là đường hầm cũ, chúng tôi sắp gặp anh em trong.. chốc lát thôi.

    Tiếng cuốc bây giờ nghe nhẹ hơn. Chắc là anh em biết sắp thủng tới nơi, và chúng tôi đã báo cho biết vị trí của chúng tôi rồi, nên anh em sợ làm sụt đất: Đất kia mà sục xuống đầu thì có thể làm bị thương hoặc chết, hoặc xô luôn chúng tôi xuống nước lẫn với đất đá vụn. Cụ giáo cũng giải thích cho chúng tôi thấy rằng còn phải sợ một cơn lùa dữ dội của không khí: Khi có một lỗ thủng thì không khí sẽ tuồn ra như một viên đạn đại bác và quật ngã tất. Bởi thế, phải cẩn thận, phải đề phòng, cũng như anh em cuốc đất ở bên trên phải đề phòng về phần họ.

    Bây giờ mỗi nhát cuốc đã làm chuyển động khối đất trên trần, khiến nhiều mẩu than vụn tách ra lăn theo dốc và rơi xuống nước. Lạ thay, càng gần lúc được cứu thoát, chúng tôi lại càng thấy yếu sức. Chính tôi, tôi cũng không đứng vững được nữa! Nằm dài trên đống than vụn, tôi không chống tay đứng dậy nổi, tôi run cầm cập mặc dù chẳng rét chút nào. Cuối cùng vài hòn than to hơn rã ra, lăn đến giữa chúng tôi.

    Lỗ hổng đã khoét ra trên trần ngách. Ánh sáng đèn vừa làm lóa mắt chúng tôi một thoáng thì vụt tối sầm ngay. Một luồng gió dữ dội, một thứ vòi rồng mang theo bao nhiêu là than và các thứ linh tinh đã thổi đèn tắt phụt.

    Gió lùa đấy, anh em đừng sợ, chúng tôi sẽ đem đèn ra ngoài thắp lại. Anh em chờmột tí.

    Lại chờ! Lại chờ lần nữa! Nhưng trong lúc đó thì dưới nước có tiếng vang động mạnh. Tôi quay lại thì thấy có ánh đèn rất sáng đang lướt trên mặt nước có tiếng vỗ nhẹ lóc bóc. Và có tiếng người kêu:

    Gắng lên! Gắng lên các bạn.

    Cùng lúc đó từ trên lỗ thủng người ta đưa tay kéo các bạn ở bệ trên thì từ đường hầm người ta cũng đến với chúng tôi, những anh em ở bệ dưới. Ông kỹ sư là người đầu tiên leo lên lối ngách. Chưa nói được câu nào, tôi đã nằm gọn trong tay ông. Vừa vặn kịp, tôi sắp ngất đến nơi.

    Tuy lả đi, tôi cũng biết rằng người ta mang tôi đi, và khi ra khỏi đường hầm thì người ta bọc tôi trong chăn. Tôi nhắm mắt lại nhưng chỉ giây lát sau thấy như bị quáng đi nên lại mở ra. Đó là ánh sáng ban ngày. Chúng tôi đã ra ngoài trời.

    Lúc bấy giờ có một vật gì trăng trắng lao vào người tôi: Đó là con Capi, nó nhảy phóc lên tay ông kỹ sư, liếm mặt tôi. Đồng thời tôi cảm thấy ai nắm tay tôi hôn. Rồi nghe một giọng nói yếu ớt: "Rêmi!". Đó là tiếng của Mátchia.

    Tôi nhìn ra chung quanh và thấy ngay một đám đông bị chen chúc hai bên, để trống một lối đi ở giữa. Đám đông ấy rất im lặng. Người ta đã căn dặn đừng có ai kêu lên khiến chúng tôi xúc động; nhưng thái độ và ánh mắt của họ cũng nói thay lời..

    Hai chục cánh tay vươn ra muốn đỡ lấy tôi nhưng ông kỹ sư không có ý nhường tôi cho bất cứ ai. Tự hào về chiến thắng của mình, sung sướng và rạng rỡ, ông bế lấy tôi đem về ngay nhà vực; ở đó đã có những chiếc giường sửa soạn đầy đủ và sẵn sàng, chờ đón chúng tôi.

    Hai ngày sau, tôi đi dạo giữa các đường phố Vácxơ cùng với Mátchia, Alơxi và Capi.

    Đi tới đâu, khách qua đường cũng dừng lại để nhìn.

    Có người lại gần tôi, bắt tay tôi, nước mắt giàn giụa. Cũng có người thấy tôi thì ngoảnh mặt đi. Những người này đang nặng tang tóc và đau xót.

    Alơxi nói:

    Khi tớ nghĩ rằng vì giúp tớ mà cậu hy sinh thì tớ rụng rời chân tay. Đúng thế, tớ cho rằng cậu đã chết rồi.

    Tớ thì tớ chưa lúc nào tin rằng cậu đã chết. - Mátchia nói. - Tớ chưa dám chắc người ta có đến kịp để cứu cậu và cậu có còn sống mà ra khỏi mỏ hay không. Nhưng tớ tin rằng cậu không chịu để chết đuối, và đã thế thì người ta sẽ tìm thấy cậu ở đâu đấy, nếu công việc cứu nạn làm được nhanh chóng. Bởi vậy, trong khi anh Alơxi khóc cậu thì tớ thấy sốt cả ruột và tự nhủ: "Nó còn sống, nhưng có lẽ nó cũng sắp chết". Và gặp ai tớ cũng hỏi: "Không ăn thì sống được mấy ngày? Lúc nào thì múc hết nước? Đường hầm bao giờ mới mở xong?".

    Nhưng không ai trả lời cho tớ được như tớ mong muốn cả. Khi người ta hỏi tên anh em dưới ấy, rồi ông kỹ sư hô lớn tên Rêmi lên sau thằng Carôry thì tớ ngã khuỵu xuống mà khóc. Lúc ấy người ta giẫm bừa lên mình tớ nhưng tớ sung sướng quá nên chẳng hay biết gì cả.

    Tôi hết sức tự hào vì rằng Mátchia tin tưởng ở tôi đến nỗi không tin rằng tôi có thểchết.
     
  9. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,892
    Chương 28: Một bài học nhạc

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Một số người trong mỏ đã trở thành thân thiết với tôi. Cảnh hoạn nạn cùng chịu đã gắn bó mọi người: Cùng đau khổ, cùng ước mong, người ta kết với nhau là một.

    Chú Gátxpa và cụ giáo đều quý mến tôi, đặc biệt là cụ giáo. Còn ông kỹ sư mặc dù không bị mắc nghẽn cùng chúng tôi, ông cũng thương mến tôi vì tôi là một đứa bé mà ông giành giật lại với Thần Chết. Ông mời tồi đến ăn cơm. Theo yêu cầu của con gái ông, tôi phải kể lại tỉ mỉ tất cả những gì xảy đến trong khi chúng tôi bị chôn sống trong ngách cụt.

    Ai cũng muốn tôi ở lại Vácxơ.

    Ta sẽ tìm cho cháu một người thợ cuốc dùng cháu làm tay phụ đẩy goòng. - Chú Gátxpa bảo. - Và thế là chú cháu ta sẽ mãi mãi gần gũi nhau.

    Nếu em thích làm việc bàn giấy thì ta sẽ cho em một chân, làm việc bàn giấy - Ổng kỹ sư nói.

    Chú Gátxpa yên trí rằng tôi sẽ trở xuống làm việc dưới mỏ. Về phần chú, chú đã xuống làm việc dưới mỏ trở lại, thản nhiên như một người dày dạn hiểm nguy.

    Nhưng tôi thì tôi không thích trở lại đi đẩy xe goòng chút nào cả. Mỏ thì quả thật là đẹp, là lạ mắt, tôi lấy làm sung sướng đã được trông thấy một cái mỏ. Nhưng trông thấy như thế đã đủ lắm rồi, tôi không còn chút lưu luyến nào nữa, không mảy may ao ước được trở lại một cái ngách cụt nào đó lần nữa. Chỉ mới nghĩ tới, tôi đã thấy ngột ngạt rồi. Rõ ràng là tôi không phải sinh ra để làm việc trong hang tối. Được sống quang đãng, đầu đội trời, dù là trời băng tuyết đi nữa, tôi vẫn cảm thấy thích hơn. Tôi đem điều đó bày tỏ với chú Gátxpa và cụ giáo thì chú Gátxpa lấy làm lạ lùng khó hiểu, còn cụ giáo thì buồn lòng vì tôi không có cảm tình với nghề mỏ. Thằng Carôry gặp tôi bảo tôi là đồ nhút nhát.

    Với ông kỹ sư, tôi không thể đơn giản trả lời rằng tôi không còn muốn làm việc dưới hầm sâu nữa: Ông bảo tôi làm việc ngay tại công sở với ông. Ông hứa sẽ dạy bảo tôi nếu tôi muốn học. Tôi muốn nói với ông ấy tất cả sự thật và tôi đã nói như thế. Ông bảo:

    Thế là em yêu cuộc sống ngoài trời, thích đi đây đi đó và được phóng khoáng. Tôi không có quyền làm trái với ý muốn của em. Vậy thì, chú bé của tôi ơi, chú cứ theo con đường của chú!

    Đúng là tôi yêu cuộc sống ngoài trời, và chính trong khi bị hãm trong ngách ngược tôi lại càng cảm thấy như thế hơn bao giờ hết! Dễ gì để có thể quên nếp đã định đi đâu thì đi, đã định làm gì thì làm, luôn luôn chủ động?

    Suốt trong thời gian người ta tìm cách giữ tôi lại Vácxơ thì Mátchia có vẻ buồn bã, ngẩn ngơ. Tôi hỏi nó: Nó bảo là nó vẫn thường, không thấy có gì khác. Đến khi tôi bảo nó sửa soạn để ba hôm sau sẽ lên đường thì nó bá lấy cổ tôi và thú thật vì sao nó buồn. Nó hét:

    Thế là mày không bỏ rơi tao thật à?

    Nghe thấy thế, tôi tông cho nó một quả để nó chừa cái tội đã dám nghi ngờ tôi và cũng để che giấu nỗi cảm động của tôi khi nghe tiếng reo tha thiết của tình bạn. Đúng, đó là tiếng reo của tình bạn, chỉ của tình bạn chứ không phải của lòng ích kỉ tự ti. Mátchia không cần có tôi cũng kiếm sống được, nó thừa sức tìm sinh kế một mình.

    Nói cho đúng thì về sinh kế, Mátchia có những khả năng bẩm sinh mà tôi kém thua xa. Trước hết, nó hơn tôi ở chỗ có tài chơi đủ mọi thứ đàn địch, lại biết hát, biết nhảy múa, biết đóng đủ mọi vai trò. Đến cái việc kính thỉnh "chư vị khán giả" móc hầu bao chi tiền - cụ Vitali ngày xưa gọi thế - thì nó lại thạo hơn tôi vô kể. Chỉ mỗi cái nụ cười, đôi mắt hiền dịu, hai hàm răng trắng ngà ngọc, cái vẻ mặt cởi mở của nó đủ làm cảm kích những tay keo kiệt nhất. Nó không xin, nhưng trông thấy nó, người ta đã muốn cho rồi, và làm cho nó vui lòng cũng là một cái thú. Những điều này quả đã hai năm rõ mười chứ không phải bàn cãi gì nữa, bởi vì trong lúc tôi xuống mỏ đẩy goòng thì nó mới đi sơ sơ một vòng, đã kiếm được mười tám phờrăng, mười tám phờrăng chứ không ít. Tiền quỹ được một trăm hai mươi tám phờrăng, thêm mười tám phờrăng do Mátchia làm ra vị chi là một trăm bốn mươi sáu. Thế là chỉ cần có bốn phờrăng nữa là mua được con bò của hoàng tử.

    Mặc dù không muốn làm việc ở mỏ, tôi cũng nao nao buồn khi rời bỏ thị trấn Vácxơ ra đi, bởi vì tôi phải xa Alơxi, chú Gátxpa và cụ giáo. Nhưng số kiếp tôi là như vậy đó, là phải xa rời những người mình yêu mến và cũng yêu mến mình. Phải đi lên!

    Vai đeo đàn, lưng mang xắc, chúng tôi lại ra đi trên đường thiên lý cùng với Capi, con chó sung sướng quá cứ lăn bừa trên cát bụi. Ra khỏi thị trấn Vácxơ, được nện gót trên đường âm vang, nó dội tiếng lên thật sự chứ không như thứ đất bùn nhão nhoẹt vùng mỏ, tôi cảm thấy cũng khoái chí. Ôi! Cái ánh nắng sáng tươi và những hàng cây xinh đẹp.

    Trước khi ra đi, Mátchia và tôi bàn bạc nhiều về hướng đi, bởi vì tôi đã bày cho nó biết xem bản đồ. Bây giờ nó không còn nghĩ rằng con đường dài đi bằng đôi chân từ thành phố này qua thành phố kia cũng không dài hơn con đường lần theo ngón tay trên bản đồ.

    Cân nhắc kĩ chúng tôi quyết định tạt qua Clécmông chứ không đi thẳng đến Uýtxen để về Savanông đi vòng Clécmông cũng không xa hơn là mấy, lại được cái lợi là có thể biểu diễn ở những đô thị có suối tắm đương đông nghịt bệnh nhân. Lúc tôi làm việc dưới mỏ thì Mátchia có gặp một anh xiếc gấu, anh ta đang đi về nẻo suối tắm; anh ta bảo ở đó có thể kiếm tiền được. Mátchia muốn kiếm tiền vì nó cho rằng một trăm rưởi phờrăng vẫn chưa đủ để tậu một con bò sữa.

    Càng có nhiều tiền, bò càng tốt; bò càng tốt, má Bácbơranh càng đẹp lòng; má càng đẹp lòng chúng tôi càng hởi dạ.

    Vậy thì, cần phải tạt qua Clécmông.

    Trên con đường Pari đi Vácxơ, tôi đã bắt đầu dạy cho Mátchia học, học chữ đồng thời học những điều nhập môn về nhạc lý. Từ Vácxơ đi Clécmông, tôi lại bày tiếp. Không biết tại tôi là một thầy giáo tồi - có lẽ như thế cũng nên - hay tại Mátchia là một cậu bé học trò kém - cũng có thể như thế - mà nó học chữ chậm chạp và khó khăn quá. Nó có cặm cụi bao nhiêu, có dán mắt trên trang sách bao nhiêu cũng chỉ đọc thấy vô khối những trò kỳ quặc chứng tỏ nó giàu tưởng tượng hơn là biết ham học. Bởi thế, mà đôi khi tôi mất bình tĩnh, đập tay lên sách, giận dữ hét lên rằng cái đầu nó rắn quá chừng quá đỗi, không nhét chữ nghĩa vào được.

    Những lúc ấy, nó không hề hờn dỗi, nó nhìn tôi với đôi mắt dịu hiền, mỉm cười mànói:

    Cậu nói đúng đây, cái đầu tớ chỉ mềm ra khi có người choảng lên đó. Cái thằng cha Garôphôli nó cũng khá ranh, nó đã tìm thấy điều ấy.

    Nghe nói thế thì còn giận làm sao được nữa? Tôi bật cười và hai đứa lại bày, lại học. Về âm nhạc thì chúng tôi không gặp những khó khăn đó và ngay từ đầu, Mátchia đã

    Đạt những bước tiến lạ lùng, hết sức đáng chú ý. Chẳng bao lâu, nó hỏi tôi những điều khiến tôi ngạc nhiên. Làm tôi ngạc nhiên chán, nó tiến lên làm tôi lúng túng và cuối cùng có nhiều lúc nó khiến tôi bí không trả lời được.

    Thú thật quả là cái điều này là cho tôi bẽ mặt và tự ái. Tôi coi trọng vai trò thầy giáo của tôi và tôi cho rằng không trả lời được những câu hỏi của học trò là nhục. Không trả lời là trốn nhiệm vụ, mà cái chú học trò của tôi đó, chú chẳng hề tiếc câu hỏi:

    "Tại sao người ta không viết nhạc theo một khóa duy nhất?"

    "Tại sao khi lên giọng người ta lại dùng dấu thăng, và khi hạ giọng, người ta lại dùng dấu giáng?".

    "Tại sao nhịp đầu và nhịp cuối của một bản nhạc có lúc lại không giữ đúng số phách đều của các nhịp khác trong bản?"

    "Tại sao người ta lên dây vĩ cầm theo một số nốt nhất định mà không theo những nốt

    Khác?"

    Đối với câu hỏi sau này, tôi trịnh trọng trả lời rằng tôi không chuyên vĩ cầm, tôi không hề nghiên cứu xem người ta phải lên dây cho nó thế này hoặc thế khác. Mátchia đành chịu. Nhưng lối thoát ấy không thích hợp với những câu hỏi về khóa nhạc và các dấu thăng giáng. Đó là âm nhạc, là nhạc lý. Tôi là thầy dạy nhạc, là thầy dạy âm pháp, tôi phải giải đáp, nếu không thì mất uy tín, tôi cảm thấy thế. Mà tôi thì tôi lại rất cần giữ cho được cái uy tínđó.

    Nghĩ thế cho nên khi không biết giải đáp như thế nào thì tôi tránh trớ theo lối trả lời của chú Gátxpa. Tôi còn nhớ khi hỏi chú: "Than đá là gì?" - chú nghiễm nhiên đáp: "Đó là than người ta tìm thấy ở dưới đất".

    Khi tôi không biết giải đáp như thế nào cho đúng thì tôi cũng lấy cái tư thế vững vàng kiểu ấy mà nói:

    "Cái đó là thế bởi vì phải là như thế mới được. Luật nhạc là thế đấy".

    Mátchia vốn không phải là người hay phản kháng luật lệ. Duy nó có một cách nhìn thế nào ấy, vừa nhìn, vừa giương mắt, há mồm, làm tôi chẳng vừa lòng với mình tí nào.

    Chúng tôi vừa đi khỏi Vácxơ ba hôm thì nó hỏi tôi một câu hỏi đúng kiểu đó. Đáng lý phải trả lời: "Mình không biết", tôi ngang nhiên bảo: "Bởi lẽ nó là như thế đó".

    Từ đó, nó sinh đăm chiêu, và suốt ngày tôi không tài nào bắt nó trò chuyện. Việc này lạ vì ai chứ Mátchia thì bao giờ cũng ưa trò chuyện, cười cợt. Tôi bức bách nó quá nên cuối cùng nó phải nói:

    Cậu là một ông giáo cừ, tớ tin rằng không ai bày vẽ cho tớ những điều tớ đã học

    Được như cậu. Nhưng..

    Nó không nói nữa.

    Thế nào, nhưng.. thế nào?

    Nhưng có lẽ có những điều cậu không biết, những người thông thái nhất cũng có những điều mà họ không biết, có phải không nào? Chẳng hạn khi trả lời tớ: "Cái đó là như thế bởi vì nó là như thế", thì có thể có những lý lẽ mà cậu không giảng được bởi cậu không hề được nghe giảng. Ấy, suy nghĩ như vậy cho nên tớ tự chủ rằng nếu cậu vui lòng thì chúng ta sẽ tìm mua một quyển sách, ồ, không mất nhiều tiền đâu - một quyển sách dạy những nguyên lý về khoa âm nhạc.

    Đúng đấy!

    Có phải không? Tớ cũng đã nghĩ rằng chắc cậu tán thành, bởi vì cậu làm thế nào mà biết hết những gì có trong sách, cậu có học trong sách vở đâu!

    Một ông thầy tốt còn hơn gấp mấy lần một quyển sách hay nhất!

    Cái điều cậu vừa nói đó khiến tớ muốn bày tỏ với cậu một việc nữa: Nếu cậu vui lòng thì tớ tìm tới ông thầy chính cống mà học một bài. Một bài thôi, như thế bắt buộc ông ta phải nói cho tớ biết tất cả những cái gì tớ bí.

    Tại sao cậu không tìm thầy chính tông mà học cái bài ấy trong thời gian cậu đi biểu diễn một mình?

    Tại vì hễ đã là thầy chuyên nghiệp thì họ đòi công, mà tớ thì không muốn lấy tiền của cậu để trả.

    Nghe Mátchia nói đến thầy chính tông, tôi lấy làm phật ý. Nhưng câu cuối cùng của nó làm tiêu tan bệnh hiếu danh ngu muội của tôi. Tôi nói:

    Cậu tốt quá! Tiền của tớ là tiền của cậu, vì cậu cũng làm ra như tớ, nhiều khi còn dồi

    Đào hơn tớ nữa. Cậu học bao nhiêu bài cũng được, tùy cậu và tớ sẽ học cùng cậu.

    Rồi tôi dũng cảm thú nhận sự dốt nát của tôi: "Như thế, về phần tớ, tớ cũng sẽ được học hỏi những điều tó không biết".

    Ông thầy, ông thầy chính tông mà chúng tôi cần không phải là một nhạc công vườn mà phải là một nhạc sĩ, một nhạc sĩ lớn chỉ ở các đô thị quan trọng mới tìm thấy. Bản đồ mách cho tôi biết, từ nơi này đến Clécmông, đô thị quan trọng nhất là Măngđơ. Măngđơ có thật là một đô thị quan trọng hay không, tôi không rõ, nhưng vì trên bản đồ tên đó in chữ to nên tôi mới tin như thế. Chúng tôi quyết định đến Măngđơ thì sẽ thực hiện cái khoản chi lớn

    Cho một bài học âm nhạc. Mặc dù qua các làng mạc thưa thớt và nghèo nàn trong vùng núi buồn tênh của tỉnh Lôde, chúng tôi thu thập được rất ít, tôi cũng muốn nhanh chóng làm vừa lòng Mátchia để nó khỏi phải mong đợi nhiều.

    Đi hết cao nguyên Mêgiăng khô cằn, vắng vẻ, tiêu điều, chúng tôi đến Măngđơ. Đêm đã khuya, không thể đi học nhạc ngay được, vả lại chúng tôi cũng đã mệt phờ đi. Tuy vậy, Mátchia thấy Măngđơ không có vẻ gì là một đô thị quan trọng như tôi nói nên nôn nóng muốn biết ở đây có một nhạc sư chính tông hay không. Vừa ăn bữa tối tôi vừa hỏi bà chủ quán xem trong thành phố có một nhạc sư nào giỏi, chuyên dạy âm nhạc hay không. Bà ta trả lời rằng bà ta hết sức ngạc nhiên về câu hỏi của chúng tôi: Hóa ra chúng tôi không nghe tiếng ông Étxpinátxu hay sao?

    Chúng tôi từ xa đến. - Tôi nói.

    Hẳn là xa lắm?

    Từ nước Italia. - Mátchia đáp.

    Nghe thế, bà ta không lấy làm lạ nữa. Hình như bà ta thừa nhận rằng ở quá xa như vậy cho nên không nghe tiếng ông Étxpinátxu cũng phải. Chứ còn ở Lyông hay Mácxây mà vô ý thức đến nỗi không hay biết gì về ông Étxpinátxu thì bà ta có mà còn nói chuyện với.

    Tôi nói với Mátchia, bằng tiếng Italia:

    - Tớ tin rằng chúng mình gặp may rồi đó!

    Đôi mắt của Mátchia ngời lên. Chắc chắn là ông Étxpinátxu sẽ giải đáp dễ dàng tất cả mọi câu hỏi của nó. Để giải thích vì sao người ta dùng dấu giáng khi hạ giọng và dấu thăng khi lên giọng, tất nhiên là ông không lúng túng đâu! Bỗng nhiên tôi đâm lo ngại. Một nhạc sĩ có danh vọng như thế có chịu dạy cho những đứa trẻ khốn khổ như chúng tôi hay không? Tôi hỏi:

    Ông Étxpinátxu hẳn là bận lắm?

    Ồ! Hẳn chứ! Hẳn là ông ta bận lắm! Ông ta không bận thế nào được?

    Theo ý bà thì ngày mai, ông ta có vui lòng tiếp chúng tôi không?

    Có chứ! Ai ông ta cũng tiếp miễn là tiền có trong túi, đành rồi.

    Chúng tôi nghĩ như vậy cho nên yên lòng. Dù là mệt mỏi, trước khi ngủ, chúng tôi cũng thảo luận với nhau rất nhiều về những điều mà hôm sau chúng tôi sẽ đặt ra cho vị giáo sư lừng lẫy tiếng tăm ấy giải đáp.

    Hôm sau dậy, hai anh em tôi sửa sang người ngợm hết sức cẩn thận. Nghĩa là chúng tôi rửa mặt mũi chân tay sạch sẽ, chỉ thế thôi, chứ còn áo quần thì vẫn nguyên những thứ mang trên người, không có cách nào khác hơn. Rồi Mátchia xách vĩ cầm, tôi mang thụ cầm lên đường đi tìm ông Étxpinátxu. Con Capi định đi theo chúng tôi như lệ thường. Chúng tôi phải buộc nó lại trong chuồng ngựa của bà chủ quán vì mang chó đến nhà nhạc sĩ nổi tiếng thị trấn Măngđơ e có khiếm lễ.

    Người ta chỉ chỗ ở của giáo sư cho chúng tôi. Đến đấy, chúng tôi ngỡ là nhầm, vì trước cửa thấy treo lủng lẳng hai cái đĩa thợ cạo bằng đồng thau, không bao giờ bảng hiệu của một nhạc sư, lại như thế. Chúng tôi đang ngơ ngác nhìn cái bảng hiệu có vẻ là một bác phó cạo ấy, thì gặp một người qua đường. Chúng tôi hỏi ông Étxpinátxu ở đâu. Người ấy chỉ hiệu thợ cạo mà bảo: "Đấy!". Ừ, chẳng có gì là lạ: Tại sao một giáo sư âm nhạc lại không ở trong một nhà bác phó cạo được?

    Chúng tôi bước vào. Hiệu thợ cạo ngăn ra làm hai: Bên phải, trên những tấm ván nhỏ, có bày bàn chải, lược, xà phòng và những lọ sáp, mỡ; bên trái, hoặc đặt ở bàn hoặc treo trên tường, có những nhạc cụ như vĩ cầm, kèn đẩy, kèn loa. Mátchia hỏi:

    - Chúng tôi muốn gặp ngài Étxpinátxu.

    Một người nhỏ bé, nhanh nhảu và lanh lẹ như một con chim, đang cạo mặt cho bác nông dân ngồi trên ghế bành. Người ấy trả lời giọng trầm:

    Tôi đây.

    Tôi đưa mắt ra hiệu bảo Mátchia rằng bác thợ cạo kiêm nhạc sĩ này không phải là người đáng làm thầy chúng tôi, nhờ bác ta dạy cũng bằng vứt tiền qua của sổ. Nhưng Mátchia lại không hiểu, không phục tùng. Nó ngồi vào ghế và thản nhiên hỏi:

    Cạo mặt cho ông ấy xong ông có vui lòng hớt tóc cho tôi không?

    Hẳn chứ, ông bạn trẻ ạ! Tôi cạo mặt cho cả ông bạn nữa, nếu ông bạn muốn.

    Cám ơn ông, hôm nay tôi không cạo, để bận sau.

    Vẻ mặt điềm tĩnh của Mátchia khiến tôi kinh ngạc. Nó ngầm đưa mắt bảo tôi chờ một lát rồi hãy bực mình. Giây phút sau, ông Étxpinátxu cạo xong cho người nông dân và mang khăn đến cắt tóc cho Mátchia. Trong khi ông buộc khăn vào cổ nó, nó nói:

    Thưa ông, hai anh em chúng tôi vừa tranh cãi với nhau. Biết ông là một nhạc sĩ lừng danh, chúng tôi nghĩ chắc rằng ông vui lòng chỉ giáo về vấn đề đang làm chúng tôi lúng túng.

    Nào, vấn đề gì làm các anh bạn trẻ lúng túng, hãy nói ta xem, thử sao!

    Bây giờ tôi mới hiểu Mátchia muốn đi đến đâu! Trước hết nó muốn thử tài anh chàng thợ cạo kiêm nhạc sĩ này xem có trả lời nổi những câu hỏi của nó không, trường hợp anh ta thỏa mãn nó thì tiền công hớt tóc cũng đồng thời sẽ là tiền công học nhạc, không mất gì cả. Cái thằng bé láu cá thật! Mátchia hỏi:

    Tại sao người ta lại lên dây vĩ cầm theo một số nốt nhất định mà không theo những nốt khác?

    Lúc ấy, bác phó cạo đang xốc chiếc lược vào mớ tóc dài của Mátchia. Ngỡ bác ta sẽ trả lời bằng một câu theo kiểu của tôi, tôi đã cười thầm đắc chí. Bác nói:

    Dây thứ hai bên trái vĩ cầm phải buông nốt la theo thanh mẫu bình thường, vậy thì phải lên những dây khác như thế nào cho cách nhau từng quãng năm, nghĩa là dây thứ tư phải buông son, dây thứ ba: Rê, dây thư hai: La, dây thứ nhất: Mi.

    Cái người cười toáng lên không phải là tôi mà lại là Mátchia. Nó chế nhạo bộ mặt của tôi chăng? Hay nó chỉ vui thích vì được biết cái mà nó muốn biết? Dẫu sao, nó cũng cười oang oang.

    Tóc chưa cắt hết thì Mátchia cũng chưa hết hỏi. Hỏi gì, ông thợ cạo cũng giải đáp một cách dễ dàng và chắc chắn như giải đáp câu hỏi về vĩ cầm. Trả lời xong chính ông lại hỏi, và chẳng mấy chốc ông ta biết rõ chúng tôi tìm tới ông với ý định gì. Ông cười khanh khách nói:

    Những chú nhóc này khá, khá lắm. Các chú đến là ngộ!

    Thế rồi ông muốn Mátchia chơi cho ông nghe một bài: Rõ ràng là Mátchia "ngộ" hơn tôi nhiều. Nó mạnh dạn cầm cây vĩ cầm của nó lên, kéo một bài vanxơ.

    "Mày không biết lấy một nốt quèn âm nhạc mà thế đấy!". Ông thợ cạo reo lên như thế và vỗ tay. Ông gọi Mátchia là "mày" như đã thân với nó từ lâu lắm rồi.

    Tôi đã nói có nhiều loại nhạc cụ đặt trên bàn hoặc treo trên vách. Xong bản vĩ cầm,

    Mátchia với chiếc kèn Clarinét và nói:

    Tôi cũng biết chơi Clarinét và cả kèn đẩy nữa.

    Ừ thì chơi đi thử xem. Étxpinátxu nói.

    Mỗi nhạc cụ, Mátchia chơi một bài.

    Cái chú ranh này là một kỳ tài. - Étxpinátxu thét lớn. - Nếu chú mình bằng lòng ở lại đây với ta, ta sẽ đào tạo chú mình thành một nhạc sĩ vĩ đại. Buổi sớm, chú cạo râu cho khách hàng cùng với ta, rồi thì cả ngày, có bao nhiêu thì giờ ta sẽ vẽ cho chú học. Đừng có tưởng rằng ta không có đủ tài năng dạy bảo cho chú vì ta là thợ cạo! Không đâu! Cứ phải ăn uống, phải ngủ, phải sống, cho nên phải cầm con dao cạo. Giátxmanh (1) cũng cạo râu cắt tóc cho người ta đấy, nhưng Giátxmanh vẫn là đệ nhất thi sĩ của nước Pháp, thành Agiăng có Giátxmanh, thành Măngđơ có Étxpinátxu.

    Khi nghe mấy lời cuối của người thợ cạo, tôi nhìn Mátchia. Nó trả lời sao đây? Tôi sắp mất người bạn thân, người đồng nghiệp, người anh em, cũng như tôi đã lần lượt mất những người thân trước chăng? Tim tôi đau quặn. Tuy thế, tôi không buông mình để cho thứ tình cảm ấy lôi cuốn. Tình huống Mátchia có phần giống tình huống tôi, khi bà Miligơn nói với cụ Vitali xin cho tôi ở lại. Tôi nói, giọng cảm động:

    Cậu hãy nên nghĩ đến tương lai của cậu thôi, Mátchia ạ.

    Xa bạn tôi sao? Không đời nào tôi làm thế! Thưa ông, tôi cảm ơn ông.

    Ông Étxpinátxu nài nỉ bảo rằng khi Mátchia đã học qua bước đầu rồi thì sẽ tìm cách gửi nó đi học ở Tuludơ, xong sẽ cho đi Pari để vào Nhạc viện. Nhưng Mátchia cứ khăng khăng đáp:

    Không bao giờ tôi rời bỏ Rêmi.

    Đã thế thì ta cũng phải làm một cái gì có ích cho chú mới được, chú nhóc ạ. Ta muốn tặng chủ một quyển sách để chú học những gì chú không biết.

    Thế là ông lục tìm các ngăn kéo. Lục một lúc khá lâu, ông mới tìm được cái quyển sách mang nhan đề: Nhạc lý. Sách cũ, sờn gáy, nhàu nát cả! Nhưng hề gì! Ông cầm bút, lật trang đầu viết:

    "Tặng chú bé, sau này trở nên nghệ sĩ, sẽ nhớ đến anh thợ cạo thành Măngđơ".

    Tôi không biết ở Măngđơ còn có giáo sư âm nhạc nào ngoài ông thợ cạo Étxpinátxu hay không, nhưng vị giáo sư mà tôi biết là ông ấy, và cả Mátchia lẫn tôi không bao giờ quên ông.
     
  10. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,892
    Chương 29: Con bò của hoàng tử

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Đến Măngđơ, tôi đã yêu quý Mátchia lắm rồi, nhưng từ Măngđơ ra đi tôi càng yêu quý nó hơn nữa. Còn gì sung sướng hơn, còn gì êm dịu hơn trong tình bạn khi cảm thấy chắc chắn rằng người mình yêu quý lại cũng rất yêu quý mình? Và còn bằng chứng nào rõ ràng hơn để biết là Mátchia yêu quý tôi bằng cái việc nó đã từ chối đề nghị của ông Étxpinát xu, nghĩa là từ chối sự yên tĩnh, cuộc sống đầy đủ, học vấn cho lúc này và giàu sang cho mai sau, để chia sẻ với tôi cuộc sống lang thang và bấp bênh, không tương lai và cũng có thể không có cả ngày mai nữa!

    Trước mặt ông Étxpinátxu, tôi không thể để lộ xúc cảm của mình khi nghe nó kêu lên: "Xa bạn tôi sao?", nhưng khi chúng tôi đã ra ngoài đường, tôi nắm chặt tay nó mà nói:

    - Mày nhớ nhá! Chúng ta cùng sống cùng chết với nhau đấy nhá.

    Nó mỉm cười và mở to mắt nhìn tôi, trả lời:

    Tớ biết điều đó từ trước rồi!

    Mátchia lâu nay không ham đọc sách mấy, thế mà khi được đọc quyển "Nhạc lý" của Kun thì nó tiến nhanh một cách phi thường. Khốn thay, tôi không bao giờ chỉ bảo cho nó được như chúng tôi mong muốn: Chúng tôi phải đi liên miên từ sớm đến tối trải qua những chặng đường dài để vượt qua khỏi mấy tỉnh Lôde và Ôvécnhơ cho nhanh chóng, vì những nơi này không quen niềm nở đối với bọn đàn hát rong chúng tôi.

    Được đào tạo ở trường của Garôphôli, chỉ lo khai thác cho hết mức lòng thương người của kẻ khác, nó đã nhập tâm tất cả những mánh khóe của cái nghệ thuật vô cùng khó khăn là kích động lòng nhân từ hoặc thiện cảm của mọi người. Ngay từ lần thứ nhất, gặp nó trên gác xép phố Luốcxin, tôi đã vô cùng ngạc nhiên khi nghe nó giải thích những lý do khiến khách qua đường phải thò tay vào túi. Bây giờ tôi lại càng ngạc nhiên hơn khi thấy nó bắt tay vào việc.

    Chỉ đến các thành phố dưỡng bệnh, Mátchia mới trổ hết tài năng của nó ra, trổ tài trước những người Pari, cái công chúng quen thuộc từ trước của nó mà giờ đây gặp lại. Chẳng hạn khi thấy một thiếu phụ mặc đồ tang đi đến, thì Mátchia bảo tôi: "Chú ý nhé! Phải đánh những điệu sầu. Phải cố gắng làm cho bà ta cảm động nghĩ đến người đã khuất. Nếu bà ta khóc thì ăn tiền!". Và thế là chúng tôi đánh những điệu u hoài, khoan thai, thống thiết, não ruột, nghe như xé ruột xé lòng.

    Trong những nơi người ta đi dạo mát quanh vùng Môngđơ, có những chỗ người ta gọi là "Phòng khách". Đó là những lùm cây trồng rợp bóng mát, mấy người bệnh đi tắm suối thường ra đó nghỉ ngơi đôi chút ngoài trời. Mátchia tìm hiểu những thính giả trong những "Phòng khách" đó và dựa theo nhận xét của nó, chúng tôi xếp đặt chương trình. Khi thấy một người bệnh xanh xao vàng vọt ngồi tư lự trên ghế tựa, mắt mờ má hóp, chúng tôi không đường đột đến trước mặt họ, khiến họ phải rời bỏ những tư tưởng u buồn. Chúng tôi dừng lại ở xa, đánh đàn như để cho tự mình nghe thôi, và hết sức chăm chú vào việc đó. Chúng tôi liếc mắt trông trộm người bệnh: Nếu anh ta nhìn chúng tôi một cách bực bội thì chúng tôi cuốn gói, nếu ngược lại, anh ta có vẻ thích thú thì chúng tôi nhích lại gần và Capi có thể mạnh dạn đưa âu xin tiền mà không sợ bị mấy cái đá tống đi.

    Nhưng phải nói rằng với trẻ con thì Mátchia đạt kết quả tốt đẹp nhất. Cái cung vĩ cầm của Mátchia chọc cho những đôi chân trẻ nhảy nhót, nụ cười của Mátchia khiến lũ trẻ nô cười cả những khi chúng bực bội. Nó làm cách nào mà được vậy, tôi không biết, nhưng hai năm rõ mười như thế: Người ta ưa thích nó, người ta mến nó.

    Kết quả chúng tôi thu được thật là mỹ mãn: Trong một thòi gian ngắn, trừ chi phí xong, chúng tôi có sáu mươi tám phờrăng. Sáu mươi tám phờrăng cộng với một trăm bốn mươi sáu sẵn có trong quỹ, vị chi hai trăm mười bốn. Thế là chúng tôi lên đường đi Savanông được rồi, không phải chờ đợi gì nữa. Trên đường đi, chúng tôi sẽ ghé lại Uýtxen, ở đó có phiên chợ gia súc to, theo như người ta nói. Phiên chợ gia súc ấy chính là cái chúng tôi cần! Ở đây chúng tôi sẽ tậu được con bò sữa oai vệ, vì nó mà lâu nay chúng tôi luôn mồm bàn tán và thắt lưng buộc bụng không nề hà. Tới nay, chúng tôi chỉ mới hưởng cái thú mơn trớn một ước ao và tô vẽ cho nó tốt đẹp theo trí tưởng tượng của mình. Mátchia thì ước một con bò trắng; tôi thì ước một con bò màu hung, tưởng nhớ con Rútxét tội nghiệp của chúng tôi xưa kia; con bò sẽ rất hiền lành, sẽ có lắm sữa. Tất cả những cái ấy quả là rực rỡ, mê ly.

    Bây giờ thì phải thực hiện cái ước mơ ấy, và cái khó bắt đầu từ đây. Làm thế nào chọn được một con bò cái chắc chắn có những đức tính mà chúng tôi hằng mơ ước? Cái nàyquả là trọng đại, và trách nhiệm của người mua bò nặng nề làm sao! Tôi không biết một con bò sữa tốt có những dấu hiệu gì, lông, xoáy ra sao. Mát chia thì cũng mù tịt như tôi.

    Chúng tôi càng lo tợn vì có nghe nhiều chuyện lạ lùng trong các quán trọ, từ khi ôm cái mộng mua bò. Quả vậy, nói lái bò, lái ngựa cũng tức là nói bợm bãi, ba que. Bao nhiêu những chuyện lừa đảo, xỏ lá của bọn đó lởn vởn trong đầu óc chúng tôi, làm chúng tôi khiếp sợ! Một bác nông dân đến phiên chợ mua một con bò sữa có cái đuôi đẹp nhất tự cổ chí kim; có cái đuôi như thế, nó có thể đuổi ruồi, muỗi đến tận chóp mũi, ai cũng biết như thế là lợi lắm; bác mua được con bò khác thường đó với giá phải chăng nên hý hửng dắt bò về.

    Sáng hôm sau bác ra thăm bò thì thấy con bò không có đuôi nữa; cái đuôi hiên ngang hôm trước chỉ là một cái đuôi giả, một túm lông dán vào cái đuôi cụt của con bò. Một bác nông dân khác mua phải một con bò sừng giả. Một bác nữa khi định vắt sữa con bò mới tậu thì thấy vú nó bị bơm lên chứ thực ra vú ấy thì mỗi ngày đêm chỉ tiết ra hai cốc là hết nhẵn. Phải làm sao tránh những cái xúi quẩy ấy.

    Về khoản đuôi giả thì Mátchia không ngại: Nó sẽ đánh đu lên đuôi của tất cả những con bò mà chúng tôi định mua và nhún hết sức, để nếu là đuôi dán thì sẽ rơi ra. Còn vú bơm thì cũng có cách trị, hiệu nghiệm không kém. Nó sẽ dùng chiếc đanh ghim dài, to và châm vào vú bò xem sao. Cách thử ấy thì bách phát bách trúng nếu quả có đuôi giả và vú bơm hơi. Nhưng nếu là đuôi thật thì cũng dè chừng người kéo đuôi bò ăn phải một cú đá ra trò vào bụng, vào đầu chứ! Và khi bị kim châm vào thịt, e nó cũng làm thế chứ không chơi.

    Nghĩ đến việc có thể ăn một cái đá của bò thì đầu óc Mátchia cũng nguôi đi phần nào, cho nên chúng tôi lại cứ băn khoăn, lo lắng. Nếu mang biếu má Bácbơranh một con bò không có sữa hoặc không có sừng thì sẽ buồn biết bao nhiêu!

    Trong những câu chuyện chúng tôi được nghe, có một chuyện trong đó một viên thú y đã chơi cho tên lái bò một vố đau điếng. Ví thử chúng tôi nhờ một viên thú y giúp, cái đó hẳn là mất tiền mà yên bụng biết bao nhiêu! Luẩn quẩn mãi cuối cùng chúng tôi nhất định giải quyết theo cách đó. Cân nhắc mọi mặt thì thấy đó là cách khôn ngoan nhất, vì thế chúng tôi vui vẻ đi.

    Đường từ Môngđơ đến Uýtxen không xa, chúng tôi đi hai hôm đã tới, mà khi tới trời hãy còn sớm nữa là khác. Đến Uýtxen thì cũng như là đến quê tôi: Tại đây tôi đã ra mắt công chúng lần đầu trong vở kịch "Kẻ đần độn nhất không phải là kẻ mà người ta tưởng'. Và cũng tại Uýtxen này, cụ Vitali đã mua cho tôi đôi giày đầu tiên trong đời, đôi giày đinh đã làm tôi khôn xiết sung sướng.

    Tội nghiệp con Giôlicơ! Nó không còn đây với bộ quân phục tướng Anh màu đỏ. Và con Décbinô, con Đônxơ đáng yêu cũng vắng mặt. Cụ Vitali đáng thương, tôi đã mất cụ rồi, tôi không còn nhìn thấy cụ đi vào thị trấn, đầu ngẩng cao, ngực ưỡn, đi đều bước và thổi một điệu vanxơ véo von trên ông sáo. Trong số sáu nhân vật lúc bấy giờ, hiện nay chỉ còn hai: Capi và tôi, sống sót trên đời. Những kỉ niệm làm tôi ủ dột. Tôi có muốn thế đâu, nhưng sao cứ mường tượng sắp thấy cái mũ dạ của cụ Vitali hiện ra ở đầu phố và sắp nghe tiếng gọi lên đường đã bao lần thúc giục bên tai.

    Cái hiệu bán quần áo hồi trước cụ Vitali dẫn tôi đến sắm bộ quần áo nghệ sĩ, may mắn đã xua đuổi giúp tôi những ý nghĩ u ám. Nó vẫn như hồi tôi đặt chân lên bực tam cấp trơn tuột của nó. Trước cửa vẫn lủng lẳng chiếc áo đính đầy quân hiệu mà tôi đã mê mẩn ngắm nghía mãi, và bên trong chiếc đồng hồ vẫn là những khẩu súng cũ ngày ấy cùng vởi chiếc đèn cũ ngày ấy.

    Tôi cũng muốn giới thiệu cái bãi rộng ở đó tôi bắt đầu bước thân vào nghề trong vai người hầu của ngài Giôlicơ, tức là" kẻ đần độn nhất ". Capi đã nhận ra và phe phẩy đuôi.

    Chúng tôi ghé vào cái quán cụ Vitali và tôi trọ ngày xưa. Cởi bỏ hành lý và nhạc cụ ra, rồi tìm tới một ông thú y. Khi nghe chúng tôi trình bày xong, ông cười chế nhạo và nói:

    Trong vùng này không có bò thông thái (1) đâu.

    Không, chúng cháu không tìm bò biết diễn trò, chúng cháu cần một con bò tốt sữa.

    Và có đuôi thật.

    Thưa ông thú y, tóm lại, chúng cháu đến nhờ ông đem sự hiếu biết của ông giúp chúng cháu khỏi bị cảnh lái bò lừa gạt.

    Khi nói câu ấy, tôi cố bắt chước cái vẻ trang trọng của cụ Vitali khi cụ muốn thuyết phục người khác. Ông thú y nói:

    Nhưng các em tậu bò làm gì kia?

    Các em là những đứa trẻ ngoan. - Ông nói. -Sớm ngày mai, ta sẽ đi với các em đến chợ phiên, và ta hứa rằng con bò sữa ta chọn cho các em sẽ không mang đuôi giả.

    Cũng không có sừng giả? - Mátchia hỏi.

    Vú sữa cũng không bị bơm lên?

    Con bò đó sẽ là con bò đẹp và tốt. Nhưng muốn mua, phải có tiền trả.

    Tốt lắm! Sáng mai, bảy giờ các em lại đón ta.

    Thưa ông thú y, thế còn công ông, cháu phải trả hầu ông bao nhiêu?

    Không phải trả gì hết! Đời nào ta lại lấy tiển của những đứa bé ngoan như các em. Tôi chẳng biết làm thế nào để tỏ lòng biết ơn đối với con người hào hiệp đó, nhưng

    Thưa ông, ông có thích âm nhạc không ạ?

    Thích lắm, em ạ.

    Và ông ngủ sớm chứ?

    Khi đồng hồ đánh chín giờ.

    Cảm ơn ông. Thế đến mai, bảy giờ, chúng cháu lại. Tôi đã hiểu ý Mátchia. Tôi hỏi:

    Mày muốn hiến ông thú y một buổi hợp tấu?

    Đúng thế. Một buổi dạ tấu khi ông ấy đi ngủ. Người ta làm thế đối với người mà người ta yêu quý.

    Ý của mày hay đấy. Ta hãy trở về quán trọ lo tập dượt những bản tấu sắp tới. Dạo nhạc cho công chúng nghe để lấy tiền thì có sơ suất một chút cũng chả sao, đằng này đánh đàn để đền ơn người ta thì phải có gắng hết sức mình.

    Bảy giờ kém vài phút thì chúng tôi đến trước nhà ông thú y. Mátchia mang vĩ cầm, tôi mang thụ cầm. Đường phố tối tăm vì người ta không đốt đèn đường, để chờ chín giờ đã có sáng trăng. Các hiệu buôn đều đóng cửa, người đi lại thưa thớt. Đến chín giờ khi đồng hồ bắt đầu buông tiếng chuông thứ nhất thì chúng tôi cũng bắt đầu hợp tấu. Trong đường phố chật hẹp vắng vẻ ấy tiếng đàn chúng tôi vang lên như ở trong gian phòng ấm tiếng nhất. Các cửa sổ đều mở. Và những cái đầu nhô ra, những cái đầu đội mũ chụp đêm hoặc trùm khăn; người ta ngạc nhiên, gọi nhau ý ới từ của này qua cửa nọ.

    Ông bạn thú y của chúng tôi ở một nhà có cái phòng con xinh xắn nhô ra ở góc nhà. Cửa sổ phòng ấy mở, ông thò đầu ra xem ai đánh đàn. Hẳn ông nhận ra chúng tôi và hiểu dụng ý của chúng tôi vì thấy ông khoát tay bảo chúng tôi đừng đánh đàn nữa. Ông nói:

    Ta đi mở cổng cho các em đây. Các em vào vườn mà đánh.

    Ngay sau đó, cổng vườn mỏ ra đón chúng tôi. Ông thú y bắt chặt tay hai đứa chúng tôi và nói:

    Các em là những chú bé tốt, nhưng các em dại lắm: Các em không để ý rằng các em có thể bị cảnh sát bắt vì tội làm náo động đường phố ban đêm.

    Chúng tôi lại bắt đầu cuộc hợp tấu trong vườn. Vườn không rộng nhưng rất xinh: Trong vườn có một vỏ cua (2) mái phủ đầy dây leo. Ông thú y có vợ và đông con, cho nên trong chốc lát chúng tôi cũng có cả một công chúng thính giả. Người ta thắp nến dưới vỏ cua và chúng tôi đánh đàn đến gần mười giờ. Hễ xong một bản thì công chúng vỗ tay và yêu cầu

    Đánh cho bản nữa. Giá như ông thú y không bắt buộc chúng tôi về thì có dễ, theo yêu cầu của lũ nhỏ, chúng tôi sẽ đánh đàn đến quá nửa đêm. Ông ta bảo:

    Phải để cho các anh ấy đi ngủ với chứ! Sáng mai, các anh ấy cần đến đây lúc bảy giờmà!

    Tuy nói vậy, ông vẫn giữ chúng tôi lại ăn khuya chứ không cho về ngay. Bữa bánh khuya ấy rất thú vị. Để tạ ơn, Capi diễn vài tiết mục ngộ nghĩnh nhất của nó, làm cho lũ trẻ nhỏ hết sức vui thích. Khi chúng tôi ra về thì đã gần nửa đêm.

    Thị trấn Uýtxen ban đêm yên tĩnh là thế mà sáng hôm sau thì náo nhiệt lạ thường. Trời chưa sáng đã nghe tiếng xe tải lăn liên miên trên đường, xen lẫn với tiếng ngựa hí, tiếng bò rống, tiếng cừu be và tiếng la hét của các bác nông dân đi chợ. Khi chúng tôi xuống sân quán trọ thì thấy ở đây chật ních những xe tải vướng vào nhau chằng chịt; các bác nông dân diện quần áo ngày lễ từ trên mấy chiếc xe ngựa mới đến, nhảy xuống; rồi họ ôm xốc vợ

    Đặt xuống đất. Xong, ai cũng co tay duỗi chân cho đỡ mỏi, các chị phụ nữ thì vuốt lại váy cho khỏi nhàu nát. Vì mới sáu giờ thôi, nên chúng tôi muốn đi duyệt qua các con bò sữa một lượt để thử chọn trước.

    Ôi chao! Những con bò đẹp làm sao! Đủ mọi màu lông, đủ mọi vóc dáng, con béo, con gầy, con kèm bê, con kéo lê thế những chiếc vú dài mọng sữa. Trong chợ cũng có ngựa nữa, ngựa đực hí ran, ngựa cái liếm lông cho con, lại còn lợn, lợn béo khoét hốc dưới đất mà nằm, lợn con kêu như bị lột da sống, rồi cừu, gà, ngỗng.. nhưng cần quái gì những thứ ấy! Chúng tôi chỉ mê bò mà thôi. Lũ bò nheo mát nhìn chúng tôi, quan sát chúng tôi và bình thản đưa đẩy hàm dưới một cách chậm chạp để nhai lại bữa ăn đêm qua; chúng không hề ngờ rồi đây chúng có thể không còn được ăn ngọn cỏ ở làng quê.

    Đi dạo xem nửa giờ, chúng tôi đã tìm ra mười bảy con hoàn toàn vừa ý, con thì vì đức tính này, con thì vì đức tính khác, ba con vì lông màu hung, hai con vì lông trắng; cái chuyện màu lông hung, màu lông trắng này dĩ nhiên đã làm Mátchia và tôi tranh cãi với nhau lần nữa.

    Bảy giờ, chúng tôi đến đón ông thú y đang chờ chúng tôi ở nhà, rồi cùng đi với ông

    Đến chợ. Đi đường, chúng tôi lại một lần nữa trình bày cho ông rõ chúng tôi cần mua con bò có những đức tính gì. Những đức tính ấy tóm tắt trong mấy chữ: Tiết sữa nhiều, ăn ít.

    Mátchia chỉ một con bò trắng:

    Con này chắc tốt.

    Tôi thấy con này hơn.

    Tôi chỉ con màu hung mà nói thế. Ông thú y hòa giải chúng tôi bằng cách không dừng lại ở con nào trong hai con đó cả. Ông đi thẳng đến một con thứ ba, một con bò cái nhỏ, chân mảnh khảnh, tai và má nâu đen, mắt viền đen, mõm viền trắng. Ông nói:

    - Đây là một con bò sữa thuộc giống xứ Tuéc, đúng loại các em cần.

    Một nông dân gày còm nắm dây thừng giữ bò. Ổng thú y hỏi người đó bán giá bao

    Nhiêu.

    Ba trăm phờrăng.

    Con bò nhỏ vóc, thanh mảnh, nhanh nhẹn, linh lợi ấy đã chinh phục chúng tôi rồi. Nhưng nghe đến giá thì tay chúng tôi buông xuôi. Những ba trăm phờrăng thì chúng tôi mua làm sao nổi! Tôi ra hiệu cho ông thú y đi xem con khác. Ông ra hiệu cho tôi bảo phải kiên trì. Ông trao đổi giá cả với người nông dân. Ông trả một trăm năm mươi phờrăng. Bác nông dân bớt đi mười phờrăng. Ông thú y giả lên trăm bảy; bác nông dân hạ xuống hai trăm tám.

    Sự việc diễn ra lúc ban đầu như vậy, đã đem lại cho chúng tôi nhiều hy vọng, nhưng đến đây thì nó xoay chiều. Đáng lẽ trả thêm thì ông thú y dừng lại, bắt đầu xem xét kỹ con bò; chân nó yếu quá, cổ thì quá ngắn, sừng lại quá dài, ngực lép. Vú không nở. Bác nông dân bảo vì chúng tôi thông thạo như vậy cho nên bác vui lòng bán với giá hai trăm năm mươi phờrăng để cho con bò về tay những ông chủ biết chăm sóc. Bấy giờ Mátchia và tôi đâm hoảng, tưởng con bò xấu thật. Tôi nói:

    Thưa ông, chúng ta đi xem con khác.

    Nghe thế bác nông dân miễn cưỡng hạ cho một chục nữa. Bớt lần bớt hồi, cuối cùng bác hạ giá xuống còn hai trăm mười và nhất định giữ giá đó. Ông thú y cũng đã huých khuỷu tay ra hiệu cho chúng tôi biết rằng cái chuyện ông nói đó là chuyện vớ vẩn, thật ra con bò ấy không phải là bò xấu, trái lại đó là một con bò rất tốt. Tuy thế hai trăm mười phờrăng vẫn là một số tiền khá lớn đối với chúng tôi.

    Lúc này Mátchia vòng ra sau con bò, dứt của nó một cái lông đuôi dài và bị nó đá cho một cái. Điều này khiến tôi hết do dự:

    Thôi, hai trăm mốt thì hai trăm mốt vậy!

    Và tôi chìa tay ra để cầm lấy dây thừng buộc bò. Nhưng người chủ bò không trao cho tôi. Bác ta nói:

    - Thế còn cái món tiền kim băng cặp tóc của bà xã nhà tôi?

    Thế là lại phải mặc cả và cuối cùng phải thỏa thuận đưa thêm hai mươi xu về khoản kim băng cặp tóc.

    Chúng tôi chỉ còn có ba phờrăng. Tôi chìa tay ra. Bác nông dân nắm lấy tay tôi bắt thật chặt như bạn chí thân. Đúng là bạn chí thân, và đã là bạn chí thân thì tôi không được quên cốc rượu nho cho cô con gái bác. Rượu nho của cô con gái xén đứt mười xu.

    Lần thứ ba, tôi định cầm thừng. Nhưng ông bạn lái bò của tôi ngăn lại:

    Thế anh bạn có đem theo vòng cổ bò không đấy? Tôi bán bò nhưng có bán vòng cổ

    Đâu!

    Tuy vậy, vì đã là bạn thân, bác ta cũng phải vui lòng nhường lại cái vòng cổ bò cho tôi lấy ba mươi xu, chẳng đắt đâu!

    Tất nhiên phải có vòng cổ để buộc dây dắt bò; tôi đành xỉa ra ba mươi xu, nhẩm tính cũng còn được hai mươi xu. Thế là tôi đếm đủ hai trăm mười ba phờrăng và lần thư tư tôi chìa tay ra, bác ta hỏi:" Thế thì dây thừng của anh bạn đâu nhỉ? Tôi nhường vòng cổ, nhưng tôi đã bán dây thừng cho anh đâu ".

    Phải trả hai mươi xu nữa để lấy dây thừng, hai mươi xu vét túi.

    Trả tiền đủ, chúng tôi mới được nhận con bò với đủ lệ bộ vòng cổ, dây thừng. Chúng tôi có một con bò sữa, nhưng không có lấy một xu dính túi, một đồng xu để nuôi nó và để nuôi sống cả chúng tôi.

    Mátchia bảo:

    Chúng ta lại biểu diễn! Các quán nước rất đông khách. Mỗi đứa một ngả, chúng ta sẽ biểu diễn được ở khắp các quán và chiều nay chắc sẽ thu được khá đấy!

    Sau khi dắt bò vào chuồng ở quán trọ và buộc cẩn thận ba bốn nút thừng, chúng tôi mỗi đứa đi biểu diễn một ngả. Chiều về gom tiền lại, Mátchia được bốn phờrăng năm mươi xăngtim, còn tôi được ba phờrăng.

    Với bảy phờrăng mười xu chúng tôi lại giàu rồi! Tuy vậy, thu được bảy phờrăng mười xu ấy, niềm vui của tôi xem ra rất nhỏ nhoi bên cạnh niềm vui đã tiêu xài hai trăm mười bốn phờrăng kia.

    Về quán trọ, chúng tôi năn nỉ chị bếp vắt hộ sữa bò và chúng tôi đem ăn bữa sáng: Chưa bao giờ chúng tôi được uống thứ sữa ngon như vậy. Mátchia tuyên bố rằng sữa nó ngọt lịm như đường và thơm mùi hoa cam, giống như thứ sữa nó uống ở bệnh viện, nhưng ngon hơn nhiều. Trong cơn hào hứng, chúng tôi ôm con bò, hôn cái mõm đen của nó. Có lẽ nó cũng cảm động vì sự vuốt ve đó nên thè cái lưỡi nhám sì liếm mặt chúng tôi. Mátchia phấn khỏi reo lên:

    Nó hôn đó, mày biết không?

    Muốn biết khi hôn con bò và được nó hôn lại, chúng tôi sung sướng ngần nào thì xin các bạn nhớ rằng hai chúng tôi không phải là những đứa được vuốt ve hôn hít quá nhiều. Chúng tôi khác với những đứa con cưng, chúng phải chống đỡ sự vuốt ve mơn trớn của mẹ, còn chúng tôi thì thèm khát được mơn trớn, vuốt ve.

    Hôm sau, chúng tôi dậy thật sớm và lên đường đi Savanông ngay. Để đền ơn Mátchia, bởi vì không có nó chắc không đời nào tôi kiếm được món tiền kếch sù trên hai trăm phờrăng ấy, tôi nhường cho nó cái thú dắt bò. Được nắm dây dắt con bò đi, Mátchia khoái lắm, còn tôi thì lẽo đẽo theo sau. Ra khỏi thị trấn, tôi mới đi lên ngang hàng với nó, để chuyện trò với nhau như thường lệ, nhất là để nhìn con bò từ phía trước. Tôi chưa bao giờ thấy con bò nào đẹp như thế! Quả vậy, dáng dấp của nó toát lên trang nhã, nó bước đi nhún nhảy, chậm rãi, đủng đỉnh như một con vật tự biết giá trị của mình.

    Bây giờ thì mỗi lúc chẳng còn phải giở bản đồ tìm đường như hồi mới từ Pari ra đi. Tôi biết rõ mình sẽ đi đâu và mặc dù từ khi qua chốn này với cụ Vitali đến nay đã nhiều năm rồi, tôi vẫn nhận ra những đặc điểm rải rác trên đường.

    Để cho con bò cái đỡ mệt, nhưng cũng đừng có đến Savanông quá muộn, tôi quyết định sẽ ngủ lại ở cái làng trước kia, tôi đã trọ đêm đầu tiên trong cuộc đời giang hồ với cụ Vitali.

    Cái đêm ấy, trong đệm cỏ, con Capi tốt bụng hiểu được nỗi buồn của tôi, đã đến nằm bên cạnh tôi và đặt chân nó vào lòng bàn tay tôi để tỏ cho tôi biết rằng nó sẽ là bạn thân thiết của tôi.

    Tảng sáng hôm sau, chúng tôi sẽ lên đường về nhà má Bácbơranh cho được sớm. Nhưng số mệnh cho tới nay vẫn phù hộ chúng tôi bỗng trở tráo và đảo lộn tất cả

    Những sự sắp đặt ấy.

    Chúng tôi quyết định đi mỗi ngày hai đợt, giữa hai đợt nghỉ để ăn trưa, trước hết là cho bò ăn. Thức ăn của nó là cỏ ở bờ rào hai bên đường. Hôm đó vào khoảng mười giờ sáng,

    Gặp nơi có cỏ dày, xanh mướt, chúng tôi cởi bỏ xắc và dắt bò xuống vệ đường. Thoạt đầu, tôi nắm dây thừng giữ nó, nhưng được giây lát, thấy nó hiền lành bình tĩnh, chỉ chăm gặm cỏ, tôi quấn dây lên sừng nó và ngồi xuống bên cạnh để ăn bánh.

    Dĩ nhiên là chúng tôi ăn xong trước nó nhiều. Thế là chúng tôi ngồi ngắm nó say sưa. Ngắm khá lâu, rồi không có chuyện gì để làm nữa, chúng tôi rủ nhau chơi bi. Đừng tưởng chúng tôi là hai ông cụ non khắc khổ, nghiêm nghị, chỉ biết kiếm tiền. Cuộc sống của chúng tôi không giống cuộc sống của những đứa trẻ khác cùng tuổi, quả có vậy, nhưng chúng tôi cũng có những sở thích, những ý nghĩ của lứa tuổi chúng tôi. Nghĩa là chúng tôi thích những trò chơi của trẻ con và không ngày nào là chúng tôi không chơi bi, chơi bóng hoặc nhảy cừu một lần. Không cần duyên cớ gì hết, đột ngột Mátchia rủ:" Chơi chứ? "Thế là trở tay một cái, chúng tôi cởi bỏ hết đàn, xắc và nhào ra chơi ở giữa đường. Nhiều khi chúng tôi mải mê suýt tối mất, nếu không có cái đồng hồ nhắc nhở giờ giấc. Nó nhắc cho tôi nhớ rằng tôi là chủ gánh, cần phải làm việc, phải kiếm tiền để sinh sống, thế là tôi lại quàng quai đàn lên cái vai đau tấy, và lên đường!

    Chúng tôi chơi xong mà con bò vẫn chưa ăn xong. Khi thấy chúng tôi nó lại ngoạm những miếng cỏ lớn, dường như để bảo rằng nó còn đói. Mátchia nói:

    Hẵng đợi tí đã!

    Mày không biết rằng giống bò ăn suốt ngày ư?

    Tí thôi mà!

    Chúng tôi vừa đợi vừa quàng đàn, xắc lên vai. Mátchia chẳng bao giờ chịu đứng yên,

    Nó nói:

    Hay là tớ thổi cho nó nghe một bài kèn ngăn ngắn nhỉ? Gánh xiếc Gátxô có một con bò cái ưa âm nhạc lắm.

    Thế là không một hai gì nữa, Mátchia thổi ngay một khúc kèn diễu binh.

    Thoạt nghe những tiếng kèn, con bò nghển cổ. Rồi bất thình lình nó vụt chạy, khiến tôi không kịp chộp lấy dây thừng ở cổ nó. Tức khắc chúng tôi phóng theo, vừa phi nước đại vừa gọi. Tôi thét bảo con Capi chặn nó lại. Nhưng làm sao đòi hỏi Capi đủ mọi tài! Giá là chó của người chăn nuôi thì hẳn, nó đã nhảy tới đón đầu con bò lại. Nhưng Capi chỉ là con chó thông thái, nó cứ chạy sau cắn theo chân con bò. Dĩ nhiên là cái ấy không làm cho con bò dừng lại, ngược thế, bò càng vọt mạnh. Tôi vừa đuổi theo bò vừa mắng Mátchia:" Thằng ngốc này! ". Nó cũng vừa chạy vừa hổn hển:" Rồi mày cứ việc choảng. Đáng đời lắm! ".

    Chỗ chúng tôi dừng lại ăn trưa ở cách hai cây số một cái làng lớn trên đường cái. Bấy giờ con bò nhầm hướng làng ấy mà chạy và nó vào làng trước chúng tôi. Vì đường thẳng cho nên dù còn xa, chúng tôi vẫn thấy có nhiều người chặn nó và bắt nó. Thế là chúng tôi chạy chậm lại. Con bò sữa của chúng tôi không mất được, chỉ cần hỏi những người dân lành đã bắt nó, khắc họ trả lại. Chúng tôi càng đến gần thì số người vây quanh con bò càng đông thêm lên, cho đến khi chúng tôi tới bên cạnh nó thì đã có vài chục đàn ông, đàn bà, trẻ con vừa bàn tán, vừa nhìn chúng tôi đi đến.

    Tôi cứ tưởng rằng chỉ cần hỏi xin con bò lại là xong cả. Không ngờ họ không giao bò, mà còn vây quanh chúng tôi hỏi hết câu này đến câu khác, nào là chúng tôi từ đâu đến, nào là chúng tôi tậu con bò đó ở đâu. Chúng tôi trả lời dễ dàng, đơn giản. Nhưng họ không tin và có vài ba người lên tiếng bảo rằng chúng tôi đã bắt trộm con bò sổng đó, phải bỏ tù chúng tôi cho đến khi điều tra rõ trắng đen.

    Hai tiếng" bỏ tù "làm tôi kinh hoảng quá, đâm cuống ra và thế là hỏng bét. Tôi tái mặt, tôi ăn nói lắp bắp. Vừa chạy một thôi xong, đang thở dốc, tôi không thể tự bào chữa

    Được. Giữa lúc ấy thì một viên cảnh sát tới. Người ta kể vắn tắt sự việc lại cho ông ta nghe. Thấy câu chuyện mập mờ khả nghi, ông ta tuyên bố giữ con bò và giam chúng tôi lại, sau sẽ hay. Tôi muốn phản kháng, Mátchia định trình bày, nhưng viên cảnh sát khắc nghiệt bảo chúng tôi im mồm. Tôi sực nhớ cái việc xảy ra giữa cụ Vitali với tên cảnh sát thành Tuludơ nên tôi bảo Mátchia im đi và đi theo ông ta.

    Toàn xã hộ tống chúng tôi cho đến tòa xã trưởng, ở đó có nhà giam. Người ta vây bọc chúng tôi, ẩy chúng tôi, xô đẩy chúng tôi, mắng chửi chúng tôi. Giá không có người cảnh sát bênh vực thì chắc hẳn người ta đã ném đá chúng tôi như những tên trọng phạm, những tên giết người, những tên đốt nhà.

    Lúc mới tới nhà giam, tôi có chút ít hy vọng: Viên gác trụ sở xã kiêm cai ngục và tuần phiên không chịu nhận chúng tôi. Tôi tự nhủ anh chàng này là người tốt. Nhưng viên cảnh sát nài nỉ, nên viên cai ngục nhượng bộ. Bước lên trước chúng tôi, ông ta mở một cánh cửa khóa ngoài, có ổ khóa to và hai chốt. Bấy giờ tôi mới hiểu vì sao lúc đầu ông ta không chịu nhận tù: Thì ra ông ta đã bày những củ hành để dành lại của ông ta lên sàn ván phòng giam để hong cho khô. Người ta lục soát chúng tôi, người ta thu tiền bạc, dao, diêm, trong khi viên cai ngục dồn hành vào một góc. Rồi thì họ đi ra và cánh cổng đóng lại với tiếng sắt rít rợn người.

    Thế là chúng tôi ở tù, ở đến bao giờ đây? Tôi đương tự hỏi như vậy thì Mátchia đến đứng trước mặt tôi đưa đầu ra nói:

    Cậu choảng tớ đi, cứ việc nhằm đầu mà nện. Choảng mạnh mấy cũng chưa vừa cái ngu ngốc của tớ.

    Mày làm một việc ngốc mà tao không ngăn lại thì tao cũng ngốc không kém gì mày!

    Thà rằng cậu choảng mà lại hơn đấy! Như thế sẽ bớt khổ hơn.. Chao ôi! Con bò tội nghiệp, con bò của hoàng tử!

    Mátchia bật khóc. Bây giờ thì tôi phải an ủi nó. Tôi phân trần cho nó thấy cảnh ngộ chúng tôi không có gì ngặt nghèo lắm, có khó gì mà không chứng minh được rằng con bò đó là của mình mua. Ông thú y quý hóa ở Uýtxen sẽ làm chứng cho mình.

    Thế nhưng họ buộc tội rằng cái khoản tiền dùng mua bò đó là do chúng tôi ăn cắp thì ăn nói làm sao?

    Mátchia nói thế mà có lý. Nó vừa khóc, vừa kể lể thêm:

    Rồi đây, khi chúng ta ra tù, dù họ có trả lại con bò thì chắc gì ta gặp được má Bácbơranh?

    Sao không gặp?

    Từ ngày mày rời bỏ má cho đến nay, má cũng có thể chết đi chứ!

    Mối lo ngại của Mátchia xuyên thẳng vào tim tôi. Đúng là má Bácbơranh có thể đã chết mất rồi. Tuy còn ở tuổi mà người ta không dễ dàng nghĩ đến cái chết nhưng do cảnh ngộ của mình, tôi vẫn biết rằng người thân của mình có thể bị thần chết cướp mất lắm. Tối chẳng đã mất cụ Vitali đó sao? Thế thì tại sao tôi không nghĩ như Mátchia nhỉ? Tôi hỏi:

    Tại sao mày không bảo cho tao biết sớm hơn?

    Tại vì khi tớ sung sướng thì trong đầu óc đần độn của tớ chỉ có những ý nghĩ vui tươi, còn khi cực khổ thì tớ chỉ có những ý nghĩ đen tối. Mà khi tớ nghĩ đến cái việc trao tặng con bò sữa của cậu cho má Bácbơranh thì tớ sung sướng khôn xiết kể, tớ chỉ thấy má vui thích, chúng mình vui thích, và tớ lóa mắt, tớ say sưa.

    Đầu óc của cậu cũng không đần độn hơn đầu óc của tớ đâu, Mátchia ạ! Tớ cũng chỉ có những ý nghĩ như cậu. Cũng như cậu, tớ lóa mắt, tớ say sưa.

    Ôi, chao ôi! Con bò của hoàng tử! - Mátchia gào khóc. - Hoàng tử đẹp quá mà! Bất thình lình nó đứng dậy vung tay:

    Nếu má Bácbơranh thì chết mà thằng cha Bácbơranh gớm ghiếc ấy lại sống và nó bắt mất con bò của chúng mình, nó bắt luôn cả mày nữa thì sao?

    Rõ ràng là cảnh ở tù đã xui chúng tôi nghĩ ra những chuyện não nùng ấy, cảnh ở tù và những tiếng hò hét của công chúng, và tên cảnh sát, rồi thì tiếng rít của cái ổ khóa và hai cái chốt sắt khi người ta đóng cửa nhốt chúng tôi. Mátchia không những nghĩ đến tình cảnh hai chúng tôi, nó còn nghĩ đến cả con bò nữa:" Ai cho nó ăn bây giờ? Ai vắt sữa cho nó? "

    Tuy nhiên tôi cũng cố gắng vỗ về Mátchia, tôi bảo cho nó biết người ta sắp đến hỏi cung rồi.

    Ừ! Thế thì chúng mình khai thế nào?

    Sự thật.

    Để rồi họ giao cậu cho lão Bácbơranh à? Hoặc là nếu chỉ có má ở nhà thì người ta cũng sẽ xét hỏi má để xem thử chúng mình có nói dối không, và thế là cái trò bất ngờ của chúng ta đi tong.

    Cuối cùng, cái cửa mở ra với tiếng sắt khua kinh khủng, rồi một ông tóc bạc đi vào. Vẻ mặt hiền từ cởi mở của ông ta khiến chúng tôi lạc quan ngay.

    Viên cai ngục thét:

    Nào, lũ ranh kia, đứng lên và trả lời quan dự thẩm.

    Được rồi, được rồi. - Ông dự thẩm vừa nói vừa ra hiệu cho viên cai ngục hãy để một mình ông ta ở lại. - Để tôi hỏi cung tên này. - Ông chỉ tôi. - Còn ông đưa tên kia đi chỗ khác và giữ lấy nó. Tôi sẽ hỏi nó sau.

    Tôi nghĩ rằng trong điều kiện thế này, cần phải làm sao cho Mátchia biết nó nên khai cái gì. Tôi nói:

    Thưa ông dự thẩm, nó cũng như tôi thôi, nó sẽ khai với ông tất cả sự thật, tất cả.

    Được, được. - Ông dự thẩm vội vã nói hớt như muốn cắt ngang lời tôi.

    Trước khi ra cửa Mátchia còn kịp nheo mắt nháy tôi để tỏ cho tôi biết rằng nó đã hiểu. Ông dự thẩm nhìn thẳng vào mặt tôi, nói:

    Người ta tố cáo anh ăn trộm một con bò sữa.

    Tôi trả lời rằng hai chúng tôi dã mua con bò ấy ở phiên chợ Uýtxen và tôi nói tên viên thú y đã giúp chúng tôi mua bò.

    Cái đó sẽ được xác minh.

    Tôi cũng mong thế vì sự xác minh đó sẽ làm rõ rằng chúng tôi vô tội.

    Thế các anh mua bò cái để làm gì?

    Để đưa tới Savanông biếu bà má đã nuôi tôi bằng dòng sữa của bà, gọi là trả nghĩa cho bà và ghi lại lòng yêu mến của tôi.

    Người đàn bà ấy tên gì?

    Má Bácbơranh.

    Có phải vợ một người thợ nề cách đây mấy năm đã bị nạn què chân ở Pari hay

    Không?

    Thưa ông, phải.

    Việc này cũng sẽ được xác minh.

    Nhưng tôi không trả lời câu hỏi này như tôi đã trả lời câu nói về ông thú y. Thấy tôi lúng túng, ông dự thẩm hỏi dồn tôi nhiều câu khác, làm tôi phải nói rằng nếu ông hỏi má Bácbơranh thì mục đích của chúng tôi sẽ không đạt, trò bất ngờ không thành.

    Tuy nhiên trong nỗi băn khoăn của tôi lại lẫn lộn một niềm vui sướng lớn: Ông dự thẩm đã biết má Bácbơranh. Và định đến hỏi má xem tôi nói có thật không, thì tất nhiên là má tôi vẫn còn sống. Lát sau tôi lại càng vui mừng hơn nữa: Trong khi hỏi những điều kia nọ, ông dự thẩm cho biết rằng gần đây, lão Bácbơranh đã đi Pari. Tôi phấn khởi quá nên tìm được những lời lẽ thuyết phục ông dự thẩm, khiến ông ta tin rằng chỉ lời chứng của ông thú y thôi cũng đủ xác minh rằng không phải chúng tôi đã bắt trộm con bò sữa.

    - Vậy thì các anh lấy tiền ở đâu mà tậu bò?

    Đó là câu hỏi làm cho Mátchia sợ hãi nhất khi nó đoán rằng người ta sẽ hỏi câu đó.

    Tôi đáp:

    Chúng tôi kiếm ra.

    Kiếm ở đâu? Bằng cách gì?

    Tôi trình bày chúng tôi đã làm ra và dành dụm từng đồng xu trên đường đi từ Pari đến Vácxơ rồi từ Vácxơ dến Môngđờrơ như thế nào.

    Thế các anh đến Vácxơ để làm gì?

    Câu hỏi đó buộc tôi phải kể một thôi nữa. Khi ông dự thẩm nghe nói tôi bị vùi lấp trong mỏ Tơruye thì ông không cho tôi nói nữa và hỏi, giọng dịu hẳn đi, gần như thân ái:

    Trong hai người, ai là Rêmi?

    Tôi đây, thưa ông dự thẩm.

    Ai làm chứng? Viên sen đầm nói rằng em không có giấy tờ.

    Thưa ông, không có.

    Thôi, em hãy kể cho ta nghe tai nạn ở Vácxơ đã xảy ra như thế nào, ta có đọc bài tường thuật trên báo, nêu em không phả là Rêmi thì không lừa ta được. Ta nghe đây, phải coi chừng.

    Việc ông dự thẩm đã gọi tôi bằng em đã làm cho tôi yên lòng; tôi thấy rằng đốì với chúng tôi, ông không có ác ý. Tôi kể xong câu chuyện thì ông nhìn tôi rất lâu, với đôi mắt dịu hiền, trìu mến. Tôi cứ tưởng ông ta sẽ tuyên bố trả lại tự do cho chúng tôi. Nhưng chẳng phải thế! Ông đi ra không nói gì hết. Chắc ông ta đi hỏi Mátchia để xem những điều chúng tôi kể có giống nhau không. Tôi đứng một lúc khá lâu, đăm chiêu suy nghĩ. Cuối cùng thì ông dự thẩm trở lại cùng với Mátchia. Ông nói:

    Ta sẽ cho điều tra ở Uýtxen. Nếu kết quả điều tra xác nhận những điều các em khai, ta mong thế, thì đến mai các em sẽ được tự do.

    Còn con bò sữa của chúng tôi? - Mátchia hỏi.

    Người ta sẽ trả lại cho các em.

    Tôi không định hỏi cái đó, thưa ông dự thẩm, tôi chỉ muốn biết có ai cho nó ăn không? Ai vắt sữa cho nó?

    Chú nhóc cứ yên lòng!

    Người ta vắt sữa con bò của chúng tôi thì người ta có thể cho chúng tôi sữa ấy không nhỉ? Có sữa mà ăn tối thì thích quá!

    Ông dự thẩm vừa quay lưng ra thì tôi báo cho Mátchia biết cái tin lớn đã khiến tôi quên khuấy đi rằng chúng tôi đang ở tù: Đó là tin má Bácbơranh vẫn còn sống và lão Bácbơranh thì lên Pari. Mátchia kêu lên:" Con bò sữa của hoàng tử sẽ đi vào nhà một cách vinh quang". Nó vui sướng quá, vừa nhảy vừa hát. Bị lôi cuốn theo, tôi cũng nắm tay nó múa hát. Còn Capi từ đầu vẫn ngồi một xó, buồn bã lo âu, bây giờ cũng chạy đến đứng thẳng lên trên hai chân sau, giữa hai chúng tôi. Thế là chúng tôi nhảy múa ầm ĩ, khiến người cai ngục lo sợ - có lẽ vì mớ hành của ông ta - chạy đến xem có phải chúng tôi nổi loạn hay không.

    Người cai ngục bảo chúng tôi im đi. Nhưng lần này ông ta không ăn nói cục cằn như khi cùng đến với ông dự thẩm. Nhờ thế, chúng tôi biết rằng tình hình không đến nỗi xấu và chỉ lát sau thì chúng tôi biết rõ mình đoán không sai: Ông ta đã trở lại với một chậu sữa đầy, sữa con bò của chúng tôi. Đã hết đâu, ông ta còn cho chúng tôi một chiếc bánh mì trắng to và một miếng thịt bê luộc; ông ta nói thịt bê là của ông dự thẩm gửi đến. Xưa nay có lẽ không có tên tù nào được hậu đãi như thế.

    Thế là vừa ăn thịt bê và uống sữa, tôi vừa xét lại ý niệm của tôi về nhà tù. Quả có khá hơn cái cảnh mà tôi tưởng tượng, và đó cũng là cảm tưởng của Mátchia. Nó vừa cười vừa nói:

    Ăn ngủ không mất tiền, quả là dịp may hiếm có! Tôi dọa nó:

    Nếu ông thú y chết bất thình lình thì lấy ai làm chứng cho chứng mình?

    Mátchia không chút nao núng, bình tĩnh nói:

    Chỉ khi nào người ta khổ, người ta mới có những ý nghĩ đen tối như thế, nay thì quả là không phải lúc.
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...