- Xu
- 145,268
HỒI THỨ 89 Vạn cây nỏ bắn chết Bàng Quyên Năm con trâu phân thây Thương Ưởng
Lại nói Bàng Quyên cùng thái tử Thân đem quân đánh nước Hàn, đi qua Ngoại Hoàng, có một người mặc áo vải là Từ Sinh xin vào yết kiến thái tử. Thái tử hỏi: - Tiên sinh hạ cố vào thăm quả nhân, có điều gì dạy bảo? Từ Sinh nói: - Thái tử đi chuyến này, sẽ để đánh nước Hàn, tôi có thuật bách chiến bách thắng ở đây, thái tử có muốn nghe không? Thái tử Thân nói: - Điều đó quả nhân muốn nghe lắm. Từ Sinh nói: - Thái tử tự lượng của mình có giàu hơn Ngụy, ngôi có cao hơn Vương không? Thái tử Thân nói: - Hơn thế nào được. Từ Sinh nói: - Nay thái tử tự làm tướng đi đánh Hàn, may mà được ra, thì giàu sang chẳng hơn Ngụy, ngôi chẳng hơn vương, vạn nhất mà thua thì làm thế nào. Nay có cái thuật được cái hại bại trận mà có vinh xưng vương, cho nên tôi mới nói là bách chiến bách thắng vậy. Thân nói: - Phải lắm, quả nhân xin theo lời dạy của tiên sinh, lập tức kéo quân trở về. Từ Sinh nói: - Thái tử dẫu cho lời tôi là phải, nhưng chắc không làm được. Kìa một người nấu canh, nhiều người húp nước, nay những kẻ muốn húp nước canh của thái tử rất nhiều, thái tử dù muốn quay về, nhưng chẳng ai nghe nào. Từ Sinh từ tạ đi ra, thái tử hạ lệnh muốn ban sư, Bàng Quyên nói: - Đại vương đem ba quân giao cho thái tử, chưa thấy được thua mà vội ban sư, thì khác gì bại trận, chư tướng đều không muốn trở về không. Thái tử Thân không thể tự quyết được, bèn dẫn quân tiền tiến, đến thẳng kinh đô nước Hàn. Hàn Ai hầu cử người sang Tề cáo cấp và cầu cứu, Tề Tuyên Vương hỏi quần thần, tướng quốc Trâu Kỵ nói không nên cứu, bọn Điền Kỵ, Điền Anh thì nói nên cứu, duy có Tôn Tẫn lặng im không nói gì. Tuyên Vương hỏi: - Quân sư không nói gì, có lẽ cho hai kế cứu và không cứu đều là không phải chăng? Tôn Tẫn nói: - Nước Ngụy tự cậy mạnh, năm trước đánh Triệu, năm nay đánh Hàn, lòng họ có phải là quên nước Tề ta đâu, nếu không cứu thì bỏ nước Hàn để cho béo Ngụy, cho nên nói không cứu là không phải; Ngụy đang đánh Hàn, Hàn chưa bị núng mà ta cứu, thế là ta thay Hàn chịu nạn binh cách, Hàn được yên mà ta bị nguy, cho nên nói cứu cũng là không phải. Tuyên Vương hỏi: - Vậy thì biết làm thế nào? Tôn Tẫn nói: - Cứ ý tôi, thì hứa với nước Hàn là thế nào cũng cứu để cho họ yên lòng, Hàn biết có Tề cứu thì tất cố sức để chống Ngụy, Ngụy tất cũng hết sức để đánh Hàn, ta đợi đến lúc quân Ngụy mệt mỏi rồi, từ từ dẫn quân đi, đánh nước Ngụy đã mệt mỏi mà cứu nước Hàn đã nguy ngập, dùng sức ít mà được công nhiều, há chẳng hơn hai kế kia ư? Tuyên Vương vỗ tay khen phải, bèn hứa với sứ Hàn là cứu binh Tề sớm chiều sẽ đến, Hàn Hầu mừng quá, liền hết sức chống Ngụy, trước sau giao phong đến năm sáu lần, Hàn đều không được, lại sai sứ sang Tề, thúc giục cứu binh, Tề lại dùng Điền Kỵ làm tướng, Điền Anh làm phó, Tôn Tẫn làm quân sư mang 500 cỗ xe đi cứu Hàn, Điền Kỵ lại muốn tiến thẳng sang Hàn, Tôn Tẫn nói: - Không nên, không nên, trước kia ta cứu Triệu, chưa có hề đến Triệu, nay cứu Hàn, làm sao lại đến Hàn? Điền Kỵ hỏi ý thế nào, Tôn Tẫn nói: - Cái thuật giải sự phân tranh, là phải đánh vào nơi họ cần phải cứu, cái kế ngày nay chỉ có đi thẳng đến kinh đô nước Ngụy mà thôi. Điền Kỵ theo lời, bèn hạ lệnh cho ba quân điều tiến sang nước Ngụy, Bàng Quyên đánh được quân Hàn luôn mấy trận, sắp tiến bức Tân Đô, bỗng tiếp được tin cảnh báo ở bản quốc, nói quân Tề lại vào cướp đất Ngụy, giục mau mau đem quân trở về, Bàng Quyên sợ quá, liền truyền lệnh bỏ Hàn về Ngụy, quân Hàn cũng không đuổi theo, Tôn Tẫn biết Bàng Quyên sắp đến, bảo Điền Kỵ rằng: - Quân Tam Tấn vốn dũng hãn mà khinh Tề, chi bằng nay ta giả làm thế yếu để dụ nó. Điền Kỵ nói: - Dụ cách thế nào? Tôn Tẫn nói: - Ngày nay nên làm 10 vạn quân bếp, ngày hôm sau nên dần dần bớt đi, nó thấy bếp của ta bỗng bớt đi, tất cho là quân ta nhát sợ, trốn tránh quá nửa, sẽ gấp đường tiến đánh, khí nó tất kiêu và sức nó tất mỏi, ta sẽ dùng kế mà đánh, tất thế nào cũng được, Điền Kỵ theo như kế ấy mà làm. Lại nói Bàng Quyên quay chân trở về, nghĩ thầm quân Hàn thua luôn, mình đang chực tiến đánh, bỗng bị quân Tề quấy rối, phá hủy công cuộc của mình, lấy làm căm giận lắm, khi về đến đất Ngụy, biết là quân Tề đã đi trước rồi, để lại chỗ đóng dinh trại cũ rất rộng rãi, sai người đến xem chỗ bếp đun, thấy có 10 vạn chỗ, trong lòng sợ hãi nghĩ thầm quân Tề nhiều như thế, không thể khinh địch được. Hôm sau lại đến một chỗ dinh trại bỏ lại, đếm những chỗ bếp đun chỉ thấy có hơn năm vạn chỗ, lại hôm sau nữa chỉ còn thấy có ba vạn bếp. Bàng Quyên mừng lấy tay giơ lên trán nói rằng: - Đó là hồng phúc của Ngụy Vương. Thái tử Thân nói: - Quân sư chưa thấy quân địch sao đã vội mừng? Quyên nói: - Tôi vốn biết người Tề hèn nhát, nay vào đất Ngụy mới có ba ngày mà quân lính bỏ trốn đã quá nửa rồi, còn dám đánh nhau nữa ư? Thái tử Thân nói: - Người nước Tề họ hay lừa dối, quân sư nên cẩn thận. Bàng Quyên nói: - Bọn Điền Kỵ phen này tự đến nộp mình, Quyên dẫu bất tài xin bắt sống bọn Điền Kỵ để rửa cái thù ở Quế Lăng. Nói xong liền truyền lệnh chọn hai vạn quân tinh nhuệ, cùng thái tử Thân chia làm hai đội, gấp ngày đi lên, bộ binh đều lưu lại ở sau, sai Bàng Thông thống xuất từ từ tiến lên. Tôn Tẫn lúc nào cũng sai người dò thăm tin tức Bàng Quyên, quân do thám báo là quân Ngụy đã qua núi Sa Lộc, đi luôn cả đêm ngày, Tôn Tẫn tính xem chắc là chiều tối quân Bàng Quyên sẽ đến Mã Lăng. Đường Mã Lăng ở giữa hai trái núi, hang khe sâu hẹp có thể phục binh. Ven đường cây cối um tùm, Tôn Tẫn chỉ để lại một cây rõ to, còn đều sai chặt ngã xuống ngổn ngang giữa đường để chặn lối đi, rồi lại sai cạo sạch vỏ ngoài mặt đông cái cây to kia, dùng than viết sáu chữ lớn rằng: "Bàng Quyên chết dưới cây này", mặt trên viết ngang bốn chữ "Quân sư Tôn bảo". Sai hộ tướng là Viên Đạt và Độc Cô Trần đều kén măm nghìn quân cung nỏ, mai phục hai bên tả hữu, dặn kỹ hễ khi dưới gốc cây có ánh lửa sáng, thì nhất tề bắn nỏ ra, lại sai Điền Anh dẫn một vạn quân, mai phục nơi cách Mã Lăng ba dặm, đợi khi quân Ngụy đã qua rồi, bèn theo sau chẹn giết. Tôn Tẫn phân phát đã xong cùng Điền Kỵ dẫn quân đến phía Bắc đồn Viễn để dự bị tiếp ứng. Lại nói Bàng Quyên dò biết quân Tề đã qua chưa xa, giận không thể một bước theo kịp được, nên luôn luôn thúc giục quân lính đi thật nhanh. Khi đến đường Mã Lăng, thì mặt trời đã lặn, bấy giờ hạ tuần tháng mười, lại không có ánh sáng trăng, tiền quân quay lại báo có nhiều cây chặt nằm ngổn ngang trên mặt đường, khó đi lên được. Bàng Quyên mắng rằng: - Đó là quân Tề sợ quân ta đuổi theo nên lập ra kế ấy. Nói xong ra lệnh cho quân lính khuân gỗ mở đường, bỗng ngẩng đầu thấy chỗ thân cây đẽo trắng, thấp thoáng có dấu chữ, nhưng vì đêm tối khó nhận rõ, sai một tên lính châm lửa soi xem. Bàng Quyên nhận thấy hai câu chữ rõ ràng, giật mình nói: - Thôi ta mắc mưu thằng què rồi Vội hạ lệnh cho quân lui mau. Nói chưa dứt, hai toán phục binh Viên Đạt và Độc Cô Trần trông thấy lửa sáng, muôn cái nỏ đều bắn ra tên vùn vụt bay đến như mưa quân sĩ rối loạn, Bàng Quyên mình bị trọng thương liệu không thể thoát được than rằng: - Ta giận không giết chết cái thằng què ấy. Nói xong, liền rút thanh kiếm đeo bên mình, tự đâm cổ chết, Bàng Anh cũng bị tên nỏ chết, còn quân sĩ bị giết không biết bao nhiêu mà kể. Khi Bàng Quyên hạ sơn, Quỉ Cốc tiên sinh đã có nói: "Ngươi sẽ vì lừa người mà lại bị người ta lừa", Bàng Quyên dùng việc bức thư giả lừa Tôn Tẫn mà chặt chân, nay cũng bị Tôn Tẫn, mắc cái kế giảm bếp. Quỉ Cốc lại nói gặp ngựa thì hỏng, quả nhiên bị chết ở Mã Lăng. Tính ra từ khi Bàng Quyên đến làm quan ở nước Ngụy cho đến lúc bị chết trận vừa 12 năm, ứng vào cái triệu cành hoa có 12 đóa. Bấy giờ thái tử Thân ở hậu lộ, nghe tiền quân bại trận, sợ hãi đóng quân lại không dám đi, không ngờ bị một đạo quân Điền Anh, lại từ mặt sau kéo đến, quân Ngụy sợ quá, không ai dám đánh, chạy tán loạn cầu thoát lấy thân. Thái tử Thân thế cô sức kém, bị Điền Anh bắt sống trói để trong xe, Điền Kỵ và Tôn Tẫn thống đại quân tiếp ứng, đánh giết quân Ngụy thây nằm ngổn ngang đầy đồng, bắt được hết các xe lương thực và quân khí. Điền Anh đem thái tử Thân dâng công, Viên Đạt, Độc Cô Trần cũng đem nộp thi thể cha con Bàng Quyên. Tôn Tẫn tự tay chém đầu Bàng Quyên, treo ở trên xe, quân Tề đại thắng, cùng nhau hát mừng kéo về. Đêm ấy thái tử Thân sợ nhục cũng đâm cổ chết. Đại quân đi đến núi Sa Lộc, gặp đạo bộ quân của Bàng Thông, Tôn Tẫn sai người giơ cái đầu Bàng Quyên bảo cho biết, đạo bộ quân ấy không đánh tự vỡ, Bàng Thông vội vàng xuống xe dập đầu xin tha chết cho. Điền Kỵ muốn giết nốt. Tôn Tẫn nói: - Làm ác chỉ một mình Bàng Quyên, con đẻ còn không nên bắt tội, nữa là cháu. Bèn đem thi thể thái tử Thân và Bàng Anh giao cho Bàng Thông, bảo về báo ngay cho vua Ngụy biết, mau mau dâng biếu triều cống, nếu không quân Tề lại đến, thì tôn xã không còn. Bàng Thông dạ dạ rồi đi. Điền Kỵ đem quân về nước. Tề Tuyên Vương cả mừng, đặt tiệc thưởng công, tự tay đưa chén rượu mời Điền Kỵ, Điền Anh và Tôn Tẫn. Tướng quốc Trâu Kỵ tự nghĩ ngày trước riêng chịu của lót của nước Ngụy, muốn hãm hại Điền Kỵ, trong lòng lấy làm xấu hổ, bèn xưng bệnh nặng, sai người nộp giả ấn tướng. Tề Tuyên Vương bèn cử Điền Kỵ làm tướng quốc, Điền Anh làm tướng quân, còn Tôn Tẫn không nhận, lại tự viết cả 13 thiên binh thư của tổ phụ là Tôn Vũ, dâng lên Tuyên Vương, nói rằng: - Tôi là kẻ tàn phế, đội ơn dùng đến, nay trên báo được ơn chúa, dưới báo được thù riêng, lòng ước mong đã thỏa, sự học của tôi đều ở trong sách này, lưu tôi lại cũng vô dụng, vậy xin cho một mảnh núi hoang, để được yên ở hưởng hết tuổi già. Tuyên Vương cố lưu lại không được, bèn cho ở núi Thạch Lư, Tôn Tẫn ở núi ấy hơn một năm, một hôm bỗng không thấy đâu nữa, có người nói là đã thành tiên đi theo Quỉ Cốc tiên sinh. Tuyên Vương đem đầu Bàng Quyên treo ở Quốc Môn để làm oai và sai người báo tiệp với chư hầu, chư hầu đều sợ hãi, hai vua Hàn, Triệu cảm ơn đem quân đến cứu, thân đến chầu mừng, Tuyên Vương muốn cùng Hàn, Triệu họp quân đánh Ngụy. Ngụy Huệ Vương sợ quá cũng sai sứ đến cầu hòa và xin triều cống, Tề Tuyên Vương hẹn với vua Tam Tấn cùng họp ở thành Bác Vọng, Hàn, Triệu, Ngụy đều không dám trái ý, cả ba vua cùng thời triều kiến, ai nấy đều cho là một sự vẻ vang. Tuyên Vương từ đó cậy sức nước mạnh, say mê tửu sắc, xây Tuyết Cung ở trong thành, để làm chỗ ăn tiệc vui chơi, lại mở một khoảng đất 40 dặm ở ngoài làm vườn để làm nơi săn bắn, lại nghe lời những người văn học du thuyết, lập ra tả hữu giảng thất ở Tắc Môn, họp vài nghìn du khách, trong đó có bọn Trâu Diễn, Điền Biền, Tiếp Dư, Hoàn Uyên; 76 người đều cho vào hạng thượng đại phu, ngày nào cũng chỉ bàn bạc những sự hão huyền không sửa sang việc chính trị, cho bọn bế thần là lũ Vương Hoàn dự làm các việc, Điền Kỵ thường can ngăn không nghe, uất ức mà chết. Một hôm Tuyên Vương ăn yến ở Tuyết cung, bày nhiều nữ nhạc, bỗng có một người đàn bà trán rộng mắt sâu, mũi cao hầu lộ, lưng cong, cổ to, ngón tay dài, bàn chân to, tóc bù như cỏ mùa thu, da đen như sơn, mình mặc áo rách, từ ngoài đi vào, nói xin yết kiến Tề Vương. Võ sĩ ngăn lại nói rằng: - Mụ đàn bà xấu xí này dám xin vào yết kiến đại vương à? Mụ đàn bà xấu xí nói: - Ta là người ở huyện Vô Diệm nước Tề, họ Chung Ly, tên là Xuân, năm nay đã 40 tuổi, kén chồng chưa được người nào, nay nghe đại vương dự yến ở Ly cung, tự đến yết kiến để xin cho vào hậu cung làm việc rảy quét. Ai nấy đều bưng miệng cười, cho là một người con gái trơ tráo vô sỉ, bèn vào tâu Tuyên Vương. Tuyên Vương cho đòi vào, các quan ngồi hầu yến, thấy người xấu xí quá đều bưng miệng cười, Tuyên Vương hỏi: - Phi tần ở trong cung của ta đã đủ, nay ngươi mặt mũi xấu xa, trong chỗ làng xóm chẳng ai hỏi đến, nay dám lấy là một kẻ dân thường chực cầu vào nơi cung cấm, phải là ngươi có cái tài lạ gì chăng? Chung Ly Xuân tâu rằng: - Thiếp chẳng có tài chi lạ, chỉ có thuật ẩn ngữ (cách nói ra hiệu) mà thôi. Tuyên Vương nói: - Ngươi thử làm cái thuật của ngươi mà lượng những việc của ta xem nào, nếu nói sai, ta sẽ chém đầu. Chung Li Xuân liền giương mắt, hếch răng, cất tay hai ba lần, rồi vỗ đầu gối mà kêu to lên rằng: - Nguy lắm! Nguy lắm! Tuyên Vương không hiểu ý thế nào, hỏi quần thần, cũng chẳng ai biết, Tuyên Vương nói: - Xuân! Lại đây nói rõ cho ta nghe nào. Xuân dập đầu nói: - Đại vương tha tội chết cho thiếp, thiếp mới dám nói. Tuyên Vương nói: - Ta tha cho ngươi vô tội. Xuân nói: - Thiếp giương mắt là thay vua trông cái nạn binh lửa, hếch răng là thay vua trị tội cái miệng cự những lời can ngăn, cất tay là thay vua đuổi bỏ những kẻ xàm nịnh, vỗ đầu gối thay vua đạp đổ cái đài du yến. Tuyên Vương cả giận mắng rằng: - Quả nhân khi nào có bốn điều lỗi ấy, con nhà quê này dám nói càn. Quân đâu đem chém cổ nó đi. Xuân nói: - Xin cho thiếp được nói rõ bốn điều lỗi ấy của đại vương rồi sẽ chịu chết. Thiếp nghe nước Tần dùng Thương Ưởng, nước được giàu mạnh, không bao lâu sẽ đem quân ra Hàm Quan cùng Tề tranh thắng, tất nước Tề sẽ bị hại trước nhất. Đại vương trong không có viên tướng nào giỏi, việc phòng bị ngoài biên thì bỏ trễ, cho nên thiếp vì đại vương giương mắt mà nhìn. Đại vương lại say mê mỹ sắc, bỏ trễ việc chính trị, những người biết đem lòng trung can ngăn, đại vương cự mà không nhận, cho nên thiếp hếch răng để vì vua nhận lời can vậy. Vả bọn Vương Hoan a dua nịnh hót, bọn Trâu Diễn bàn nói viển vông, đại vương tin dùng bọn ấy thiếp sợ có hại cho xã tắc, cho nên thiếp giơ tay để vì đại vương xua đuổi đi. Đại vương xây cung mở vườn, dùng hết sức dân, làm cạn kho nước, cho nên thiếp vỗ đầu gối muốn vì vua phá bỏ. Đại vương có bốn điều lỗi ấy, nguy như trứng để đầu đẳng, mà còn vui chơi, không hề lo nghĩ, cho nên thiếp phải liều chết phơi bày, nếu được đại vương cho là phải mà nghe theo, thì dù chết cũng không hối hận. Tuyên Vương than rằng: - Nếu không có lời nói của họ Chung này, thì quả nhân không bao giờ được biết những điều lầm lỗi. Lập tức bãi yến, dùng xe chở nàng Chung Ly Xuân về cung, lập làm chính hậu. Chung Ly Xuân nói: - Đại vương không nghe lời thiếp thì dùng làm gì cái thân thiếp này, xin đại vương phải lấy việc trị nước và việc dùng người hiền là cần cấp hơn cả mọi việc. Tuyên Vương theo lời, lập tức đuổi bọn xu nịnh, tìn dùng hiền sĩ, lại đuổi hết bọn du thuyết đi, dùng Điền Anh làm tướng quốc, đãi người nước Trâu là Mạnh Kha làm bực thượng tân, từ đó nước Tề được yên ổn và thịnh vượng, lại lấy ấp Vô Diệm phong cho nhà Chung Ly Xuân, gọi nàng là Vô Diệm Quân. Lại nói tướng quốc nước Tần là Vệ Ưởng nghe tin Bàng Quyên chết trận, nói với Hiếu công rằng: - Tần, Ngụy ở gần nhau, nước Tần có nước Ngụy, cũng như người có cái tật ở phúc tâm, nếu Ngụy không cướp Tần thì Tần phải cướp Ngụy, cái thế không thể cùng còn được. Nay nước Ngụy đã bị đại bại với Tề, nên nhân dịp này mà đánh Ngụy, Ngụy không giữ nổi tất phải dời sang Đông, rồi ở đó Tần chiếm giữ lấy núi sông, quay về phương Đông mà chế phục chư hầu, đó là cái nghiệp đế vương vậy. Hiếu công lấy làm phải, cử Vệ Ưởng làm đại tướng, Công tử Thiếu Quan làm phó, mang năm vạn quân đi đánh Ngụy. Được tin cáo cấp, Ngụy Huệ Vương họp quần thần lại để bàn kế chống nước Tần. Công tử Ngang nói: - Khi trước Vệ Ưởng ở nước Ngụy, cùng hạ thần có quen biết hạ thần thường tiến cử lên đại vương, đại vương không nghe, nay hạ thần xin đem quân đi, trước hãy giảng hòa, nếu Vệ Ưởng không cho, bấy giờ sẽ cố giữ thành trì, cầu cứu hai nước Hàn, Triệu. Quần thần đều khen phải, Huệ Vương liền cử Công tử Ngang, làm đại tướng mang năm vạn quân đi cứu Tây Hà, tiến đóng quân ở Ngô Thành. Công tử Ngang đang muốn viết thư sai người cầm sang dinh quân Tần hỏi thăm Vệ Ưởng, muốn hắn bãi binh, thì bỗng có tướng sĩ giữ thành vào báo là quan tướng quốc nước Tần sai người đưa thư, hiện ở ngoài thành, Công tử Ngang sai dòng dây qua thành đem thư lên, mở ra xem thư rằng: "Ưởng này vốn quen thân với Công tử không khác gì ruột thịt nay tuy chẳng cùng thờ một chủ, cùng làm tướng một nước, nhưng nỡ nào lại đánh nhau để hại nhau. Ý tôi muốn ước với Công tử, đều bỏ binh xa và giáp trụ dùng y quan họp mặt ở núi Ngọc Toàn, cùng uống rượu vui chơi rồi về, khiến hai nước khỏi nạn thịt nát máu rây và nghìn thu về sau phải khen cái giao tình của đôi ta không khác gì Quản, Bão. Công tử nếu bằng lòng, xin báo cho biết ngày nào có thể hội diện được". Công tử Ngang đọc xong cả mừng mà nói rằng: - Ý ta chính muốn như thế Bèn hậu đãi sứ giả và viết thư trả lời như sau này: "Tướng quốc còn nhớ tình xưa bắt chước việc cũ của vua Hoàn công nước Tề, đem áo xiêm mà đổi binh xa, yêu dân Tần, Ngụy, rõ nghĩa Quản, Bão, đó là cái chí của Ngang này. Trong ba ngày, xin tướng quốc định kỳ, Ngang này xin cúi đầu nghe mệnh". Vệ Ưởng được thư trả lời mừng rằng: Kế ta thành rồi, lại sai người vào thành ước định nhật kỳ, nói tiền doanh quân Tần đã triệt bỏ, hạ lệnh cho về nước, chỉ còn chờ được hội kiến nguyên súy rồi nhổ trại đều về. Lại đem hai thứ ngó sen và xạ hương dâng biếu nói rằng hai thứ ấy là thổ sản nước Tần, ngó sen ích cho người, xạ hương trừ tà khí, gọi là để ghi nhớ giao tình và tỏ ý thân yêu về lâu dài. Công tử Ngang cho là Vệ Ưởng yêu mình, càng tin là không có ý gì khác, liền đáp thư tạ. Vệ Ưởng giả truyền quân lệnh, sai tiền doanh rút hết. Công tử Thiếu Quan thống suất đi trước lại dặn thầm dọc đường chỉ nói là đi săn bắn để kiếm cái ăn, rồi chia đi mai phục ở các nơi Kỳ Sơn, Bạch Tước Sơn, hẹn đến cuối giờ Ngọ, đầu giờ Mùi ngày ấy đều đến dưới núi Ngọc Toàn, hễ nghe trên núi có tiếng súng bắn làm hiệu thì đều kéo ùa vào, bắt hết những người đến đấy không để cho một người nào chạy thoát. Đến kỳ, vừa sáng ra, Vệ Ưởng trước hết sai người vào báo trong thành, nói là tướng quốc đã đến trước ở núi Ngọc Toàn chực sẵn, theo hầu không đầy 300 người, Công tử Ngang lại càng tin, cũng dùng xe mui chở rượu, đồ ăn và một bộ nhạc công, lên xe đến hội, số người đem theo hầu cũng bằng của Vệ Ưởng. Vệ Ưởng đứng đón ở dưới núi, Công tử Ngang thấy người đi theo đã ít, lại không có quân khí, không còn ngờ gì nữa, khi thấy nhau đều kể giao tình ngày trước, và tỏ ý thông hòa ngày nay. Những người nước Ngụy đi theo đến đó, ai nấy đều vui mừng. Hai bên đều bày tiệc rượu, Công tử Ngang là địa chủ, trước hết nâng chén mời Vệ Ưởng, thù tạc ba lần, tấu nhạc ba lần, Vệ Ưởng sai quân sĩ phải thay nhau báo giờ luôn luôn, rồi triệt bỏ tiệc rượu của nước Ngụy, bày tiệc rượu của bản quốc ra, hai tên hầu rượu đều là những tay dũng sĩ có tiếng ở nước Tần, một người gọi là Ô Hoạch, sức khỏe mang được nghìn cân, một người gọi là Nhâm Bỉ, tay đánh được hổ báo. Vệ Ưởng vừa cất chén đầu khuyên mời, liếc mắt bảo ý các người hầu tả hữu, đi lên trên đỉnh núi bắn một tiếng súng, dưới núi cũng bắn súng theo tiếng vang hang núi, Công tử Ngang cả sợ nói rằng: - Tiếng súng ở đâu thế, có lẽ tướng quân đánh lừa tôi chăng? Vệ Ưởng cười nói rằng: - Tạm lừa một lần, còn rộng cho tôi được cáo tội. Công tử Ngang hoảng sợ muốn chạy trốn ngay, nhưng bị Ô Hoạch nắm chặt ngay lấy, không thể cựa quậy được, Nhâm Bỉ thì chỉ huy tả hữu bắt hết mọi người trói lại, còn Công tử Thiếu Quan đốc xuất quân lính bắt hết các xa trượng và quân lính theo hầu, không còn một người nào chạy thoát. Vệ Ưởng sai bỏ Công tử Ngang vào xe tù, giải trước về nước Tần để báo tiệp, lại đem những người theo đã bắt được, cởi trói hết và cho uống rượu để khỏi sợ, cho lại dùng những xa trượng cũ đem về, nói dối là chủ súy phó hội trở về, lừa mở cửa thành, sẽ có trọng thưởng, nếu không theo thì lập tức chém đầu. Bọn đi theo ấy là những kẻ hèn nhát đều sợ chết cả, nên đều vâng theo mệnh lệnh, Vệ Ưởng lại sai Ô Hoạch giả làm Công tử Ngang ngồi ở trong xe, Nhâm Bỉ làm hộ tống sứ thần, cỡi một chiếc xe theo sau. Quân Ngụy ở trên thành nhận thấy những người về bên mình, liền mở toang cửa thành, hai viên dũng tướng ấy đều sấn sổ ra oai, tay đấm chân đá phá tan cửa thành, không còn đóng lại được nữa, quân Ngụy sấn vào chống cự, đều bị đánh ngã, mặt sau Vệ Ưởng thân đem đại quân đến, nhanh chóng như bay. Trong thành quân dân rối loạn, Vệ Ưởng cho quân lính được loạn sát một trận, bèn chiếm lấy Ngô Thành. Chu Thương nghe chủ súy bị bắt, chắc là Tây Hà khó giữ được, bỏ thành chạy trốn, Vệ Ưởng kéo quân vào thành An Ấp, Huệ Vương sợ quá, sai đại phu là Long Giả sang dinh quân Tần cầu hòa, Vệ Ưởng nói: - Vua Ngụy không biết dùng ta, nên ta phải sang làm quan nước Tần, đội ơn vua Tần tôn làm khanh tướng, ăn lộc muôn chung, nay lại giao phó binh quyền, nếu không diệt Ngụy, thì phụ lòng của vua Tần đã tin dùng. Long Giả nói: - Tôi nghe chim khôn mến rừng cũ, vua Ngụy dẫu không biết dùng túc hạ, nhưng đối với nước cha mẹ túc hạ sao nỡ vô tình. Vệ Ưởng ngẫm nghĩ hồi lâu, bảo Long Giả rằng: - Nếu cầu ta rút quân về, trừ phi cắt hết đất Tây Hà dâng cho Tần mới được. Long Giả phải vâng lời về tâu với vua Ngụy, Huệ Vương không đừng được phải theo lời, liền sai Long Giả đem địa đồ Tây Hà dâng cho quân Tần. Vệ Ưởng xét đồ nhận đất, kéo quân trở về, Công tử Ngang bèn đầu hàng nước Tần, Ngụy Huệ Vương cho rằng đất An Ấp ở gần Tần khó giữ được yên, bèn thiên đô đến Đại Lương, từ đó gọi là nước Lương. Tần Hiếu công thưởng công Vệ Ưởng, phong làm liệt hầu, lấy 15 ấp Thương Ô là đất lấy của nước Ngụy trước, làm thực ấp của Ưởng, gọi là Thương Quân, vì thế đời sau gọi là Thương Ưởng. Ưởng tạ ơn về phủ riêng, bảo gia thần rằng: - Ta là kẻ chi thứ nước Vệ, sang làm quan nước Tần, vì nước Tần thay đổi chính trị, lập tức trở nên giàu mạnh. Nay lại lấy được đất Ngụy 700 dặm, phong ấp 15 thành, đại trượng phu đắc chí có thể nói là lẫy lừng lắm vậy. Tân khách đồng thanh khen mừng, trong bọn đó bỗng có một người cất tiếng nghiêm nghị nói rằng: - Ngàn người a dua không bằng một người nói thẳng, các ngươi ở đây nhờ ơn Thương Quân phụng dưỡng, há nên cứ xu nịnh mà làm hại chủ ư? Mọi người nhìn xem ai, chính là vị thượng khách tân là Triệu Lương, Vệ Ưởng nói: - Tiên sinh bảo mọi người xu nịnh, vậy tiên sinh thử xem tôi đây cai trị nước Tần cùng với Ngũ Cổ đại phu (Bách Lý Hề) ai hơn? Lương nói: - Ngũ Cổ đại phu giúp Mục công, ba lần bắt vua Tấn, kiêm tính 20 nước, làm cho chủ trở nên một vị bá chủ ở Tây Nhung. Vậy mà đến sự tự phụng mình, nắng không che lọng, nhọc không cỡi xe, đến ngày chết, trăm họ thương khóc như mất cha mẹ. Nay ngài làm tướng nước Tần tám năm, pháp lệnh dẫu làm được, nhưng giết hại rất thảm, dân chỉ thấy oán, mà không thấy ân, chỉ thấy lợi mà không thấy nghĩa. Thái tử giận ngài giết mất người sư phó, oán vào tận cốt tủy, những kẻ cha anh con em ở dân gian đã lâu vẫn mang lòng oán giận, nhất đán vua Tần mất đi, thì ngài sẽ nguy ngay, còn có thể giữ mãi được cái phú quí ở ấp Thương Ô này mà tự khoe là đại trượng phu ư? Ngài sao không tiến người hiền để thay mình, rồi từ bỏ lộc vị lui về cày cấy ở nơi điền dã, như vậy còn có thể mong tự toàn được. Vệ Ưởng lặng im ra ý không vui. Năm tháng sau, Hiếu công bị bệnh chết, quần thần tôn thái tử Tứ lên ngôi, ấy là Huệ Văn công. Thương Ưởng tự phụ mình là cựu thần của tiên triều, ra vào ngạo mạn. Công tôn Kiền trước kia bị Vệ Ưởng cắt mũi, chứa sự tức giận trong lòng mà chưa báo được, lúc ấy cùng Công tôn Giả tâu với Huệ Văn công rằng: - Tôi nghe đại thần quyền thế rộng qua thì nước nguy, các người tả hữu mà quyền thế rộng quá thì thân nguy, Thương Ưởng lập phép cai trị nước Tần, nước Tần dẫu được thịnh trị nhưng đàn bà con trẻ đều nói đó là phép của Thương Quân, chứ không ai nói là phép của nước Tần, nay lại phong cho 15 ấp, vị tôn quyền trọng sau này tất làm phản. Huệ Văn công nói: - Ta căm giận thằng giặc ấy đã lâu, nhưng vì nghĩ nó là thần hạ của tiên vương, và chưa tỏ ra ý gì là làm phản, nên hãy tạm dung cho nó. Huệ Văn công nói xong, liền sai người thu tướng ấn của Thương Ưởng, bắt lui về ở ấp Thương Ô. Thương Ưởng từ giã triều đình, lên xe ra khỏi thành, nghi trượng đội ngũ, còn làm ngang với chư hầu, trăm quan đi tiễn tống không còn thiếu một người nào. Công tôn Kiều, Công tôn Giả mật báo Huệ Văn công, nói Thương Quân không biết ăn năn tội lỗi, tiếm nghĩ nghi chế của vương giả, nếu để cho hắn về ở Thương Ô, tất hắn làm phản. Cam Long, Đỗ Thế lại làm chứng là quả có việc như thế, Huệ Văn công cả giận, lập tức sai Công tôn Giả dẫn ba nghìn võ sĩ, đuổi bắt Thương Ưởng, chém đầu đem bêu rồi về báo. Công tôn Giả lĩnh mệnh ra đi. Bấy giờ nhân dân ai nấy đều oán Thương Quân, nghe tin Công tôn Giả mang quân đuổi bắt, nô nức chạy theo có hàng mấy nghìn người. Thương Ưởng xa giá ra khỏi thành đã hơn trăm dặm, bỗng nghe mặt sau có tiếng hò thét, sai người dò xét, báo là triều đình phái quân đuổi theo. Thương Ưởng sợ quá, biết là vua mới có lòng nghi, e không khỏi họa, vội trút bỏ mũ áo xuống xe, giả làm tên lính đi trốn. Chạy đến Hàm Quan, trời sắp tối vào nhà hàng xin ngủ trọ, chủ hàng hỏi có giấy chiếu thân không, Thương Ưởng nói không có, chủ hàng nói: - Phép của Thương Quân, không chứa những người không giấy chiếu thân, ai phạm pháp đều phải chém, tôi không dám cho trọ. Vệ Ưởng than rằng: - Ta đặt ra phép ấy, lại tự hại thân ta. Rồi đi luôn cả đêm, lẻn ra ngoài cửa quan, chạy sang nước Ngụy. Ngụy Huệ Vương giận Vệ Ưởng lừa bắt Công tử Ngang và cắt mất đất Tây Hà, nên muốn bắt Vệ Ưởng để dâng Tần. Ưởng sợ quá lại trốn về Thương Ô, mưu khởi binh đánh Tần, bị Công tôn Giả bắt trói giải về. Huệ Văn công kể từng tội, sai trói Ưởng đem ra chợ dùng năm con trâu phân thây, trăm họ xúm lại tranh nhau ăn thịt, chỉ một lúc là hết. Huệ Văn công lại giết cả họ Thương Ưởng. Đáng thương cho Thương Ưởng đổi lập phép mới, làm cho nước Tần trở nên giàu mạnh, kết quả lại bị họa phân thây, há chẳng phải là cái báo quá nghiêm khắc đó ru. Sau khi Thương Ưởng chết, trăm họ đều vui mừng hát múa ở đường, sáu nước nghe tin cũng đều mừng. Cam Long, Đỗ Thế trước bị cách chức, nay đều được phục quan. Huệ Văn công cử Tôn Diễn làm tướng quốc, Diễn khuyên Huệ Văn công cướp lấy đất Ba Thục, rồi xưng vương để hiệu triệu thiên hạ, các nước đều phải theo như nước Ngụy cắt đất làm lễ mừng, nếu trái lệnh sẽ đem quân đánh ngay. Huệ Văn công bèn xưng vương, sai sứ đi bảo khắp các nước, các nước đều do dự chưa quyết, chỉ có Sở Uy Vương vừa đánh chiếm được đất nước Việt, đất rộng quân mạnh, ngang nhau với Tần, quát mắng đuổi sứ Tần đi.
Quay về bài gốc
0SHARES
Quay về bài gốc
0SHARES