- Xu
- 145,268
HỒI THỨ 20 Ly Cơ được phong Tấn phu nhân Tử Văn lên làm Sở lịnh doãn
Trịnh Văn công thấy thế lực nước Tề mỗi ngày một mạnh, sợ nước Tề xâm lấn nước mình, mới sai sứ sang giảng hòa. Tề Hoàn công hội nước Tống, nước Lỗ, nước Trần và nước Trịnh cùng ăn thề ở đất U. Ăn thề xong, Tề Hoàn công về nước, lại bày một tiệc đại yến khao thưởng các quan. Tiệc đến nửa chừng, Bão Thúc Nha rót một chén rượu thật đầy đến trước mặt Tề Hoàn công để chúc thọ. Tề Hoàn công nói: - Tiệc rượu ngày hôm nay, vui vẻ biết chừng nào! Bão Thúc Nha nói: - Tôi nghe nói vua sáng bề tôi hiền, dẫu đang lúc vui vẻ mà không quên những lúc lo nghĩ. Tôi xin chúa công chớ quên lúc còn phải đi trốn, Quản Trọng (tức Quản Di Ngô) chớ quên lúc còn ở tù xa, Ninh Thích chớ quên lúc còn đang chăn trâu ở nơi thôn dã. Tề Hoàn công vội vàng đứng dậy sụp lạy hai lạy mà nói rằng: - Tôi cùng với các quan đều không quên, ấy là cái phúc to của nước Tề ta đó! Chu Huệ Vương sai Thiệu Bá Liên sang phong cho Tề Hoàn công làm bá chủ, được quyền đi đánh dẹp các nước chư hầu. Lại nói đến việc Vệ Sóc giúp Vương tử Đồi là một việc phản đối với nhà Chu, thế mà đã 10 năm nay, chưa kịp đem quân đến hỏi tội nước Vệ, nay giao việc ấy cho Tề Hoàn công. Tề Hoàn công mới phụng mệnh thiên tử đem quân đi đánh nước Vệ. Bấy giờ Vệ Huệ công (tức là Vệ Sóc) chết rồi, con là Xích lên nối ngôi đã được 3 năm, tức là Vệ Ý công. Vệ Ý công chưa kịp hỏi vì cớ gì mà đến đánh, vội vàng đem quân ra đối địch, thua chạy trở về. Tề Hoàn công kéo thẳng đến dưới chân thành, kể tội trạng Vệ Huệ công. Vệ Huệ công nói: - Đó là cái lỗi của tiên quân ta, chứ có dự gì đến ta! Nói xong, liền sai con trưởng là Công tử Khai Phương đem các đồ lễ vật ra xin giảng hòa với nước Tề. Tề Hoàn công nói: - Theo phép tiên vương nhà Chu ta thì không bắt tội đến đời con cháu. Nay Vệ đã biết tội thì ta cũng nên khoan thứ cho. Nói xong, liền cho nước Vệ giảng hòa. Công tử Khai Phương thấy nước Tề cường thịnh, xin sang làm quan ở nước Tề. Tề Hoàn công nói: - Nhà ngươi là con trưởng Vệ Hầu, tất ngày sau được lên nối ngôi, sao lại bỏ cái ngôi vua của mình mà muốn sang làm tôi nước ta là ý thế nào? Công tử Khai Phương nói: - Chúa công là một bậc hiền đức nhất trong thiên hạ, nếu được hầu gần ở tả hữu chúa công thì cái vẻ vang ấy chẳng sung sướng hơn là làm vua hay sao! Tề Hoàn công dùng cho làm quan đại phu, cũng thân yêu như là bọn Thụ Điêu và Dịch Nha. Người nước Tề gọi là "Tam quí" nghĩa là ba người được vua yêu trong đời bấy giờ. Công tử Khai Phương đem chuyện con gái nước Vệ có nhan sắc đẹp nói với Tề Hoàn công. Tề Hoàn công sai sứ đem lễ vật cưới về làm vợ thứ. Vệ Ý công không dám từ chối, sai người đưa Vệ Cơ sang Tề. Còn người vợ chính của Tề Hoàn công cũng là Vệ Cơ, bởi vậy mới gọi một người là Trưởng Vệ Cơ và một người là Thiếu Vệ Cơ, để cho có phân biệt. Hai người đều được Tề Hoàn công thương yêu cả. Tấn Hiếu công lúc còn làm thế tử, lấy nàng Giả Cơ làm vợ, đã lâu không con; lại lấy cháu gái vua Khuyển Nhung là nàng Hồ Cơ, sinh con là Trùng Nhĩ; và con gái Tiểu Nhung, sinh con là Di Ngô. Sau lại thông dâm với nàng Tề Khương, sinh được người con tên là Thân Sinh. Đến năm Tấn Hiến công lên nối ngôi, Giả Cơ đã chết rồi, mới lập Tề Khương làm phu nhân; bấy giờ Trùng Nhĩ đã 21 tuổi. Di Ngô cũng nhiều tuổi hơn Thân Sinh, nhưng mẹ Thân Sinh là Tề Khương, đã lập làm phu nhân, vậy nên Thân Sinh được lập làm thế tử. Lại cho quan đại phu là Đỗ Nguyên Khoản làm thái phó, Lý Khắc làm thiếu phó để cùng dạy bảo thế tử. Tề Khương lại sinh được một đứa con gái, rồi mất. Tấn Hiến công lại lấy chị của Giả Cơ là Giả Quân, cũng không có con, mới lấy đứa con gái Tề Khương cho Giả Quân làm con nuôi. Tấn Hiến công đem quân đi đánh nước Ly Nhung. Nước Ly Nhung xin hòa, và đem hai người con gái dâng Tấn Hiến công: Người lớn là Ly Cơ, người nhỏ là Thiếu Cơ. Nàng Ly Cơ nhan sắc rất đẹp, không kém gì Tức Vỉ, mà lại mưu mẹo trí trá, chẳng khác gì Đắc Kỷ khi xưa. Mỗi khi ở trước mặt Tấn Hiến công, giả cách thật thà trung thực, để làm cho Tấn Hiến công phải yêu; thỉnh thoảng lại bàn giúp những chính sự trong nước, mười câu nói trúng được đến chín câu. Bởi vậy Tấn Hiến công đem lòng yêu dấu, thường cùng với Ly Cơ ăn một mâm nằm một chiếu, được hơn một năm, Ly Cơ sinh một người con là Hề Tề; Thiếu Cơ cũng sinh một người con là Trác Tử. Tấn Hiến công đã yêu dấu Ly Cơ, lại mừng rằng Ly Cơ có con trai, mới chẳng nghĩ gì đến Tề Khương nữa, định lập Ly Cơ làm phu nhân, liền sai quan thái bốc là Quách Yển bói xem tốt xấu thế nào. Quách Yển bói phải quẻ xấu. Tấn Hiến công không nghe, lại sai Sử Tô bói lại, rồi lập Ly Cơ làm phu nhân. Sử Tô nói riêng với quan đại phu là Lý Khắc rằng: - Nước Tấn ta sắp mất, biết làm thế nào! Lý Khắc giật mình kinh sợ mà hỏi rằng: - Ai làm mất nước Tấn? Sử Tô nói: - Làm mất nước Tấn, tất là nước Ly Nhung. Lý Khắc không hiểu ý ra làm sao cả, lại hỏi. Sử Tô nói: - Ngày xưa vua Kiệt nhà Hạ đánh nước Thi, người nước Thi dâng nàng Muội Hỉ, vua Kiệt yêu nàng Muội Hỉ, đến nỗi mất nhà Hạ; vua Trụ nhà Ân đánh nước Tô, người nước Tô dâng nàng Đắc Kỷ, vua Trụ yêu nàng Đắc Kỷ, đến nỗi mất nhà Ân; vua U Vương nhà Chu đánh nước Bao, người nước Bao dâng nàng Bao Tự, vua U Vương yêu nàng Bao Tự, đến nỗi làm cho nhà Tây Chu phải suy mất. Nay chúa công ta đi đánh Ly Nhung, bắt lấy con gái nước ấy mà lại ham mê như thế, tài nào không phải mất nước. Gặp có quan thái bốc là Quách Yển đến, Lý Khắc thuật lại lời Sử Tô cho Quách Yển nghe, Quách Yển nói: - Nước Tấn ta chỉ loạn mà thôi, chứ chưa đến nỗi mất, cứ theo như quẻ bói khi tiên quân ta mới thụ phong ở nước Tấn này thì vận nước Tấn chưa mất. Lý Khắc nói: - Đến bao giờ thì loạn? Quách Yển nói: - Chỉ trong 10 năm nữa mà thôi. Tấn Hiến công yêu nàng Ly Cơ, muốn lập con là Hề Tề làm thế tử, một hôm nói cho Ly Cơ biết. Ly cơ trong bụng muốn lắm, nhưng ngặt vì một nỗi Thân Sinh đã lập làm thế tử rồi, nay vô cớ mà thay đổi đi, thì e rằng các quan không phục, tất có người can ngăn. Vả lại Trùng Nhĩ, Di Ngô cùng với Thân Sinh, ba người vẫn thân yêu nhau, nếu nói mà không làm được thì chúng biết đường phòng bị, chẳng cũng lỡ việc lắm sao! Nàng mới quì xuống mà nói với Tấn Hiến công rằng: - Thân Sinh được lập làm thế tử, các nước chư hầu ai cũng biết cả, vả lại Thân Sinh là người hiền, không có tội lỗi gì. Nay chúa công vì mẹ con thiếp mà bỏ người nọ lập người kia, để cho thiếp mang tiếng thì chẳng thà thiếp xin tự tử mà chết đi còn hơn. Tấn Hiến công ngỡ là bụng thực, từ bấy giờ không nói đến chuyện ấy nữa. Bấy giờ có hai quan đại phu là Lương Ngũ và Đông Quan Ngũ được Tấn Hiến công thân yêu, quyền thế to lắm, người nước Tấn vẫn gọi là hai ông Ngũ. Lại có một người phường hát tên là Ưu Thi, trẻ tuổi đẹp trai và khéo khôi hài, Tấn Hiến công rất yêu, vẫn cho tự tiện ra vào chỗ cung điện, không ngăn cấm chút nào cả, Ly Cơ cùng với Ưu Thi tư thông, tình ý rất thân mật, mới bàn nhau với Ưu Thi, để lập kế cướp ngôi của thế tử. Ưu Thi nói: - Bây giờ nên nghĩ cách khiến cho ba vị công tử đều ra trấn thủ ở ngoài cõi xa, khi ấy ta sẽ tùy cơ mà lập kế, nhưng việc ấy tất để các quan ngoài nói thì chúa công mới cho là thực. Nay hai ông Ngũ đang có quyền thế, phu nhân nên sai người đem vàng bạc giao kết với chúng, để khiến cho chúng nói với chúa công thì mới nên việc được. Lý Cơ liền đưa vàng bạc cho Ưu Thi để đem ra lễ lót Lương Ngũ và Đông Quan Ngũ, Ưu Thi vào nói với Lương Ngũ rằng: - Phu nhân muốn giao kết với ngài, vậy sai tôi đem lễ bạc này để kính biếu. Lương Ngũ giật mình kinh sợ, nói: - Phu nhân có dặn làm sao không? Nếu nhà ngươi không nói rõ ta không dám nhận. Ưu Thi đem mưu kế của Ly Cơ nói rõ cho Lương Ngũ nghe. Lương Ngũ nói: - Việc này tất phải có cả Đông Quan Ngũ giúp vào mới được. Ưu Thi nói: - Ly Cơ cũng có lễ vật kính biếu Đông Quan Ngũ như ngài ở đây. Nói xong, liền cùng với Lương Ngũ sang nhà Đông Quan Ngũ, ba người cùng thương nghị với nhau. Sáng hôm sau, Lương Ngũ nói với Tấn Hiến công rằng: - Đất Khúc Ốc là chỗ tiên quân ta ngày xưa đóng đô, hiện nay nhà tôn miếu tiên quân ta hãy còn ở đấy; còn đất Bồ và đất Khuất tiếp giáp với nước Nhung Địch, cũng là một nơi trọng địa. Ba chỗ ấy cần phải có người ra trấn thủ, xin chúa công cho thế tử ra trấn thủ ở đất Khúc Ốc, cho Trùng Nhĩ và Di Ngô ra trấn thủ đất Bồ và đất Khuất, như thế thì cơ nghiệp nước nhà vững như bàn đá, không còn lo ngại gì nữa. Tấn Hiến công nói: - Cho thế tử ra ở ngoài, phỏng có nên chăng? Đông Quan Ngũ nói: - Thế tử là một ông vua nhỏ trong nước, Khúc Ốc là một nơi kinh thành nhỏ trong nước, nếu không sai thế tử ra trấn thủ ở đấy thì còn sai ai cho bằng. Tấn Hiến công nói: - Đất Khúc Ốc thì đã phải rồi, nhưng đất Bồ và đất Khuất là một nơi hoang dã, sao lại cho các vị công tử ra ở đấy? Đông Quan Ngũ lại nói: - Không sửa sang thì là nơi hoang dã, bây giờ lập ra thành quách, tức là một nơi đô ấp chớ chi! Lương Ngũ và Đông Quan Ngũ lại đồng thanh mà cùng tán vào rằng: - Nếu như vậy thì nước Tấn ta ngày nay lại thêm ra mấy nơi đô thành nữa, trong thì thế lực chắc chắn, ngoài thì bờ cõi mở mang, từ đây trở đi, nước Tấn ta mỗi ngày một cường thịnh. Tấn Hiến công nghe lời, mới sai thế tử là Thân Sinh ra trấn thủ đất Khúc Ốc, quan thái phó là Đỗ Nguyên Khoan theo đi; sai Trùng Nhĩ ra trấn thủ đất Bồ, Hồ Mao theo đi; Di Ngô ra trấn thủ đất Khuất, Lã Di Xanh theo đi. Thân Sinh và hai vị công tử đã đi ra rồi, chỉ còn Hề Tề và Trác Tử ở gần Tấn Hiến công, Ly Cơ lại càng ngày đêm nghĩ cách để làm cho Tấn Hiến công phải mê hoặc. Bấy giờ Tấn Hiến công chia quân ra làm hai đạo: Thượng quân và hạ quân. Đạo thượng quân thì thuộc về Tấn Hiến công, còn đạo hạ quân thì giao cho Thân Sinh. Thân Sinh cùng với quan đại phu là Triệu Túc và Tất Vạn đem quân đi đánh được nước Cảnh, nước Hoắc và nước Ngụy. Công trạng Thân Sinh càng to bao nhiêu thì Ly Cơ lại càng có lòng ghen ghét bấy nhiêu, chỉ cố ý tìm mưu lập kế để làm hại. Lại nói chuyện Hùng Hi, Hùng Vận nước Sở cùng là con Tức Vỉ sinh ra, nhưng Hùng Vận tài trí hơn anh là Hùng Hi, Tức Vỉ có lòng yêu dấu, người trong nước cũng vẫn tin phục. Khi Hùng Hi đã lên nối ngôi, có ý ghét Hùng Vận, vẫn muốn tìm cớ để giết đi cho khỏi di họa về sau. Các quan bấy giờ nhiều người che chở cho Hùng Vận, bởi vậy Hùng Hi vẫn còn ngần ngại chưa quyết. Sau Hùng Hi sinh ra lười biếng, không thiết gì đến chính sự, chỉ hay đi săn bắn, ở ngôi ba năm mà chẳng làm một việc gì cả. Hùng Vận mật sai kẻ dũng sĩ đón đường khi Hùng Hi ra săn bắn mà giết đi, nói dối Tức Vỉ là Hùng Hi bị bệnh mà chết. Tức Vỉ có ý nghi, nhưng nói ra không tiện, liền sai các quan đại phu lập Hùng Vận lên nối ngôi, tức là Sở Thành Vương. Sở Thành Vương cho người chú là Vương Tử Nguyên làm quan lịnh doãn (tể tướng nước Sở). Vương Tử Nguyên từ khi anh là Sở Văn Vương chết đi, đã có ý muốn cướp ngôi; lại thấy chị dâu là Tức Vỉ nhan sắc xinh đẹp, cũng đem lòng tham muốn. Hùng Hi và Hùng Vận hãy còn trẻ tuổi mà lại là hàng cháu, vậy nên Vương Tử Nguyên không coi vào đâu, chỉ sợ có quan đại phu là Đấu Bá Tỷ vốn người chính trực, lại nhiều tài trí, vì thế mà chưa dám làm càn. Đến khi Đấu Bá Tỷ đã chết rồi, Vương Tử Nguyên không sợ hãi gì cả, mới làm một cái nhà ở bên cạnh cung Tức Vỉ, ngày nào cũng bắt nữ nhạc múa hát để làm cho Tức Vỉ phải động lòng. Tức Vỉ nghe tiếng, hỏi nội thị rằng: - Tiếng nữ nhạc múa hát ở đâu thế? Nội thị nói: - Ở bên nhà mới của quan lịnh doãn đó! Tức Vỉ nói: - Tiên quân ta ngày xưa chăm sự luyện tập quân mã để đánh dẹp các nước chư hầu, bởi vậy các nước đều phải thần phục nước Sở ta cả. Bây giờ quân nước Sở ta không tiến vào trung quốc được, đã đến 10 năm nay, thế mà quan lịnh doãn không biết nghĩ đến những điều xấu hổ ấy, chỉ ham mê đàn hát ở bên cạnh nhà gái góa này, chẳng cũng lạ lắm sao! Nội thị thuật lời nói ấy cho Vương tử Nguyên biết, Vương tử Nguyên nói: - Một người đàn bà còn có chí như vậy, nữa là ta lại không nghĩ đến hay sao! Nay ta không đánh được nước Trịnh thì sao đáng gọi là trượng phu. Nói xong liền cử đại binh đi đánh nước Trịnh. Trịnh Văn công nghe tin quân Sở kéo đến, họp các quan lại để thương nghị. Đỗ Thúc nói: - Quân nước Sở cường thịnh lắm, không thế nào địch nổi, chi bằng ta cho người xin giảng hòa. Sư Thúc nói: - Nước ta mới cùng với Tề giao hiếu, tất thế nào Tề cũng đem quân đến cứu. Ta hãy nên giữ vững để mà đợi quân nước Tề. Thế Tử Hoa bấy giờ còn trẻ tuổi, đang có lòng hăng hái, xin đem quân ra đối địch. Thúc Thiêm nói: - Trong ba người này, ta theo lời nói của Sư Thúc, nhưng cứ như ý tôi trộm nghĩ thì nước Sở chẳng bao lâu cũng phải rút quân về. Trịnh Văn công nói: - Lịnh doãn nước Sở thân hành đem quân đi, khi nào chịu rút về. Thúc Thiêm nói: - Xưa nay nước Sở đi đánh các nước, không dùng nhiều quân như thế bao giờ, lần này Vương tử Nguyên cố đánh lấy được để cho bằng lòng Tức Vỉ đó mà thôi. Nhưng đã có ý mong được thì tất là sợ thua, khi quân Sở kéo đến, tôi có cách làm cho phải lui. Các quan còn đang thương nghị, bỗng nghe báo quân Sở đã kéo đến nơi. Đỗ Thúc nói: - Quân Sở đã đến nơi rồi, nếu không giảng hòa thì hãy nên dời sang đất Đông Khâu để tránh quân Sở. Thúc Thiêm nói: - Không can chi mà sợ! Nói xong, sai quân giáp sĩ mai phục ở trong thành, rồi mở toang cửa thành ra, dân sự chợ búa vẫn đi lại như thường, không kinh hãi gì cả. Tướng nước Sở là Đấu Ngự Cương thấy vậy, có ý nghi hoặc, bảo Đấu Ngô rằng: - Quân Trịnh vững vàng như vậy, tất là có mưu kế định lừa ta vào thành, ta không nên tiến quân vội, hãy đợi quan lịnh doãn ta tới đây. Nói xong, liền đóng quân ở ngoài thành cách xa năm dặm. Được một lúc, đại binh của Vương tử Nguyên kéo đến, Đấu Ngự Cương thuật chuyện lại cho Vương tử Nguyên nghe. Vương tử Nguyên trèo lên gò cao, trông vào thành nước Trịnh, thấy bóng cờ ngọn giáo rất có thứ tự nghiêm chỉnh mới thở dài mà than rằng: - Nước Trịnh có ba người tài giỏi (Thúc Thiêm, Đỗ Thúc và Sư Thúc) rất nhiều mưu kế lạ, chẳng may mà quân ta bị thua thì còn mặt nào trở về trông thấy Tức Vỉ nữa. Âu là ta hãy cho quân do thám thật kỹ, rồi sẽ tiến binh. Ngày hôm sau, Vương tử Nguyên nghe tin Tề Hoàn công cùng với nước Tống, nước Lỗ đem quân đến cứu Trịnh, giật mình kinh sợ, bảo các tướng rằng: - Nay các nước chư hầu đem quân đến cứu Trịnh, trong đánh ra, ngoài đánh vào thì quân ta khó lòng địch nổi, thôi thì ta đánh Trịnh, tiến quân được đến đây, cũng gọi là thắng trận rồi, chi bằng ta rút quân trở về. Vương tử Nguyên truyền cho quân sĩ cuốn cờ im trống, ngay đêm hôm ấy lẻn ra khỏi địa giới nước Trịnh. Khi đã về đến địa giới nước Sở rồi, lại mở cờ rung trống, đem tin thắng trận báo với Tức Vỉ. Tức Vỉ nói: - Nếu lịnh doãn đi đánh Trịnh được thắng trận, nên cáo tế nhà thái miếu, rồi tuyên bá cho người trong nước cùng biết, chứ việc thắng trận ấy dự gì đến gái góa này! Vương tử Nguyên nghe nói, có ý thẹn thùng. Sở Thành Vương (Hùng Vận) thấy Vương tử Nguyên đi đánh Trịnh, không có công trạng gì mà rút quân về, từ bấy giờ không bằng lòng với Vương tử Nguyên. Lại nói chuyện Thúc Thiêm nước Trịnh đêm hốm ấy đang đi tuần ở trên mặt thành, trỏ vào dinh quân Sở mà bảo các tướng rằng: - Đây chỉ còn dinh không mà thôi, chứ quân Sở thì đã đi trốn hết rồi! Các tướng đều không tin, hỏi: - Tại sao ngài biết như vậy? Thúc Thiêm nói: - Dinh quan đại tướng thì bao giờ cũng phải có quân canh giữ nghiêm mật, nay thấy có đàn quạ đậu ở trên cây thì biết đấy chỉ là một cái dinh không mà thôi, ta chắc rằng quân Sở nghe tin các nước chư hầu đem quân đến cứu, vậy phải rút quân bỏ trốn trước. Được một lúc có quân báo rằng: - Các nước chư hầu đem quân đến cứu, chưa kịp vào đến địa giới nước Trịnh, nghe tin quân Sở bỏ trốn, vậy lại rút quân trở về. Bấy giờ các tướng đều phục Thúc Thiêm là người cao kiến. Vương tử Nguyên nước Sở từ khi đánh Trịnh không được công trạng gì, trong lòng áy náy, càng muốn cướp ngôi nước Sở, nhưng định tư thông với Tức Vỉ đã, rồi mới khởi sự. Gặp bấy giờ Tức Vĩ có bệnh. Vương tử Nguyên giả cách vào thăm, rồi đem cả chăn màn ở luôn trong cung ba ngày không ra. Quan đại phu là Đấu Liêm nghe tin, liền vào thẳng trong cung, đến tận giường nằm, trông thấy Vương tử Nguyên đang soi gương chải đầu, Đấu Liêm trách rằng: - Chỗ này có phải là chỗ chải gội hay sao! Quan lịnh doãn nên liệu mà lui ra! Vương tử Nguyên nói: - Dự gì đến nhà ngươi mà nhà ngươi dám nói? Đấu Liêm nói: - Lịnh doãn dẫu là chú vua thật, nhưng cũng là một kẻ bề tôi, vả lại quốc mẫu góa chồng cũng ở gần đây, nam nữ nên tị hiềm, sao lịnh doãn không nghĩ đến điều ấy. Vương tử Nguyên nổi giận nói: - Quyền chính nước Sở, nay ở trong tay ta, sao nhà ngươi dám nói càn. Nói xong, sai người trói Đấu Liêm lại, giam vào một chỗ, không cho ra nữa. Tức Vỉ sai nội thị đến báo với Đấu Cấu Ô Đồ (con Đấu Bá Tỷ). Đấu Cấu Ô Đồ tâu với Sở Thành Vương, rồi cùng với Đấu Ngự Cương, Đấu Ngô và Đấu Ban (con Đấu Cấu Ô Đồ) đem quân vào cung. Vương tử Nguyên đang cùng với cung nhân vui đùa, say rượu nằm ngủ, mơ màng tỉnh dậy, nghe nói có quân đến vây, vội vàng cầm gươm chạy ra. Gặp Đấu Ban cũng cầm gươm bước vào. Vương tử Nguyên quát mắng rằng: - Thằng ranh con này, mày dám làm loạn, à! Đấu Ban nói: - Ta không phải làm loạn, ta đến để trừ loạn đây! Hai bên giao chiến với nhau được mấy hiệp thì Đấu Ngự Cương và Đấu Ngô cũng tiến đến. Vương tử Nguyên liệu sức địch không nổi, vội vàng bỏ chạy, bị Đấu Ban chém một nhát, rơi đầu xuống đất. Đấu Cấu Ô Đồ cởi trói cho Đấu Liêm, cùng nhau đến thăm Tức Vỉ, rồi rút quân trở về. Lại nói chuyện tổ phụ Đấu Cấu Ô Đồ là Đấu Nhược Ngao, lấy con gái vua nước Viên, sinh ra Đấu Bá Tỷ. Đấu Nhược Ngao chết, Đấu Bá Tỷ còn bé, theo mẹ sang ở nước Viên. Viên phu nhân (vợ vua nước Viên) yêu lắm, cho ở trong cung, coi như là con đẻ. Viên phu nhân có một đứa con gái, cùng với Đấu Bá Tỷ là anh em đôi con dì với nhau. Từ thuở nhỏ vẫn cùng nhau chơi đùa ở trong cung, đến lúc lớn lên, tư thông với nhau, đứa con gái có thai. Viên phu nhân biết chuyện, liền cấm Đấu Bá Tỷ vào cung, rồi bảo đứa con gái, nói dối là có bệnh ốm, ở riêng một phòng. Sau đủ ngày đủ tháng, sinh được đứa con trai. Viên phu nhân sai người lấy áo bọc đứa bé ấy, đem bỏ ở Mộng Trạch. Bấy giờ vua nước Viên đang đi săn bắn, đi gần đến Mộng Trạch, trông thấy có một con hổ nằm phục ở gần đó, liền sai quân giương cung ra bắn. Bắn mãi không trúng mà con hổ cũng không sợ hãi gì cả. Vua nước Viên lấy làm lạ, sai người đến tận nơi xét xem thì thấy con hổ đang ẵm một đứa bé con mà cho bú. Vua nước viên nói: - Đó là thần vật, ta không nên trêu vào. Nói xong, đem quân trở về, nói với Viên phu nhân rằng: - Mới rồi ta đến Mộng Trạch, thấy có một chuyện rất lạ! Viên phu nhân hỏi: - Chuyện gì mà lạ? Vua nước Viên mới đem chuyện con hổ cho một đứa bé con bú thuật lại một lượt. Viên phu nhân nói: - Chúa công không biết rõ, đứa bé con ấy chính là thiếp sai người đem bỏ ở đấy. Vua nước Viên ngạc nhiên mà hỏi rằng: - Sao phu nhân lại có được đứa bé con mà đem bỏ ở đấy. Viên phu nhân nói: - Chúa công tha tội cho, thiếp xin kể rõ: Nguyên đứa bé con ấy là con gái ta cùng Đấu Bá Tỷ sinh ra, thiếp sợ mang tiếng, vậy phải sai người đem bỏ ở đấy. Nhưng thiếp nghe nói bà Nguyên Khương ngày xưa dẫm vào vết chân lớn mà sinh ra một đứa con. Nguyên Khương sợ hãi, đem quăng ra sông, có một đàn chim xuống lấy cánh ấp; Nguyên Khương cho là thần, lại đem về nuôi, đặt tên là Khí, tức là ông tổ sinh ra nhà Chu ta. Bây giờ đứa bé ấy có con hổ đến cho bú thì chắc là quí tử. Vua nước Viên nghe nói, sai người đi ẵm về, giao cho con gái nuôi, rồi năm sau gả người con gái ấy cho Đấu Bá Tỷ, sang ở nước Sở. Tiếng nước Sở gọi cho bú là cấu, gọi hổ là ô đồ. Đứa bé con ấy có hổ cho bú, bởi vậy mới đặt tên là Đấu Cấu Ô Đồ, tên tự là Tử Văn. Đấu Cấu Ô Đồ đã lớn, thông minh tài giỏi, đủ cả văn và võ. Cha là Đấu Bá Tỷ làm quan đại phu nước Sở. Đấu Bá Tỷ chết, Đấu Cấu Ô Đồ lại nối làm quan đại phu. Đến lúc Vương tử Nguyên chết, Sở thành Vương toan cho Đấu Liêm làm lịnh doãn. Đấu Liêm chối từ, nói: - Đang bấy giờ chỉ có nước Tề là đối địch với nước Sở ta. Nước Tề dùng Quản Di Ngô và Ninh Thích, vậy nên nước giàu quân mạnh, nay đại vương muốn chỉnh đốn lại chính trị nước Sở, để chống nhau với nước Tề thì tất phải dùng Đấu Cấu Ô Đồ làm lịnh doãn mới được. Các quan đồng thanh mà nói rằng: - Trừ phi Đấu Cấu Ô Đồ thì không ai làm nổi chức lịnh doãn. Sở Thành Vương nghe lời, cho Đấu Cấu Ô Đồ làm lịnh doãn. Sở Thành Vương nói: - Nước Tề dùng Quản Di Ngô, tôn là trọng phụ, chứ không gọi tên, nay ta dùng Đấu Cấu Ô Đồ, cũng không nên gọi rõ tên húy, cứ gọi tên tự là Tử Văn mà thôi. Đấu Cấu Ô Đồ đã làm lịnh doãn, bắt bao nhiêu những ấp riêng của các quan triều thần đều phải nộp một nửa vào công thố, thi hành ngay từ họ Đấu trước, các quan đều phải theo lệnh cả. Lại thấy Dĩnh Thành là nơi hiểm yếu, dời đô ra đấy để luyện tập quân mã; Khuất Hoàn là người hiền sĩ, cử cho làm quan đại phu; Đấu Chương là người tài giỏi, cử cho coi việc quân lữ. Con là Đấu Ban, cũng cử cho làm chức Thân công. Từ bấy giờ nước Sở cường thịnh. Tề Hoàn công nghe nói nước Sở dùng người hiền để chỉnh đốn lại chính trị, có ý sợ nước Sở mỗi ngày một mạnh, mới toan hội các nước chư hầu để đem quân đánh Sở, liền hỏi Quản Di Ngô. Quản Di Ngô nói: - Nước Sở là một nước lớn, đất rộng quân nhiều, thiên tử nhà Chu cũng không trị nổi, nay lại dùng Tử Văn làm lịnh doãn, ta khó lòng lấy binh lực mà đánh được; vả lại chúa công mới thu được lòng các nước chư hầu, cũng chưa có công đức gì to tát để khiến cho người ta tin phục, tôi sợ quân các nước vị tất đã chịu hết lòng với mình. Âu là ta hãy đợi thời cơ chớ nên nóng nảy thì mới giữ cho vạn toàn được. Tề Hoàn công nói: - Tiên quân ta ngày xưa báo thù cho mấy đời trước, đem quân sang chiếm lấy nước Kỷ, đến nay chưa chịu phục ta muốn đem quân đi đánh, phỏng có nên không? Quản Di Ngô nói: - Nước Chương dẫu nhỏ, nhưng là con cháu ông Thái Công thuở xưa, cùng với Tề ta cùng họ; tôi thiết tưởng chúa công không nên đánh, chỉ sai Thành Phủ đem quân đi diễu ở trên mặt thành nước Kỷ, tự khắc nước Chương sợ uy ta mà phải đầu hàng. Tề Hoàn công nghe lời, sai Thành Phủ đem quân đi. Vua nước Chương thấy vậy, đến xin đầu hàng. Tề Hoàn công khen Quản Di Ngô rằng: - Mưu kế của trọng phụ, trăm điều không sai một! Bỗng nghe báo nước Yên bị quân Sơn Nhung vào quấy nhiễu, sai sứ đến cầu cứu.
Quay về bài gốc
0SHARES
Quay về bài gốc
0SHARES