41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
Nha chương (vật dùng trong nghi lễ) làm bằng đá ngọc của Văn hóa Phùng Nguyên.

81756017_1517795515043385_4218746663176503296_n.jpg


Đôi nét về đồ đá Văn hóa Phùng Nguyên

Phổ hệ các văn hóa cổ đại ở lưu vực sông Hồng, Bắc Bộ Việt Nam:

Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò Mun - Đông Sơn thì Văn hóa Phùng Nguyên có vị trí đặc biệt quan trọng.

Văn hóa Phùng Nguyên là cội nguồn, cốt lõi của phát triển văn hóa các giai đoạn muộn hơn. Văn hóa Phùng Nguyên mở đầu quá trình hình thành dân tộc và quốc gia của người Việt cổ.

Nhiều nhà nghiên cứu coi Phùng Nguyên như giai đoạn mở đầu cho quá trình hình thành nhà nước đầu tiên:

Nước Văn Lang ở miền Bắc Việt Nam

Di chỉ Phùng Nguyên được lấy làm tên xác lập cho Văn hóa Phùng Nguyên tại xã Kinh Kệ, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ - cái nôi của vùng đất Tổ Hùng Vương.

Di chỉ Phùng Nguyên được các nhà khảo cổ học Việt Nam phát hiện và khai quật nhiều lần, trên diện tích rộng khoảng 4.000m2 từ 1959 đến 1970.

Tới nay hơn 60 di chỉ thuộc Văn hóa Phùng Nguyên được phát hiện. Các di tích này phân bố rộng khắp châu thổ Bắc Bộ, chủ yếu dọc theo lưu vực các sông lớn:

Sông Hồng, sông Lô, sông Thao, sông Đà, sông Đáy.. tập trung nhiều nhất ở các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Bắc Ninh..

Niên đại Văn hóa Phùng Nguyên xác định từ khoảng 4.000 năm đến khoảng 3.500 - 3.400 năm ngày nay (di chỉ Xóm Rền (Phú Thọ) thuộc giai đoạn giữa, có niên đại C14 là 4.190 ± 50 BP).

Các nhà nghiên cứu chia phát triển liên tục của Văn hóa Phùng Nguyên qua 3 giai đoạn: Sớm - giữa và muộn.

Giai đoạn muộn, người Phùng Nguyên tràn xuống cư trú ở vùng đồng bằng thấp ven vịnh Hà Nội.

Di chỉ Văn Điển, Tân Triều (Thanh Trì – Hà Nội), gần đây phát hiện di chỉ Phùng Nguyên muộn tại di tích Đàn Xã Tắc (Đống Đa - Hà Nội).. xác thực điều đó.

Về di tích, cơ bản Văn hóa Phùng Nguyên gồm các loại hình:

Di chỉ cư trú. Có những di chỉ có diện tích rộng 2 - 3 vạn m2 như:

Phùng Nguyên (Phú Thọ), Văn Điển (Hà Nội).. Di chỉ cư trú kết hợp xưởng chế tác công cụ và đồ trang sức bằng đá:

Hồng Đà (Phú Thọ), Tràng Kênh (Hải Phòng), Bãi Tự (Bắc Ninh)..

Di chỉ cư trú - mộ táng: Lũng Hòa, Đồng Đậu (Vĩnh Phúc), Xóm Rền (Phú Thọ)..

Nhiều di chỉ thuộc Văn hóa Phùng Nguyên được các nhà khảo cổ trong và ngoài nước khai quật nhiều lần và nghiên cứu kĩ, nhiều vết tích nền nhà, lỗ chôn cột, bếp lửa, hố đất đen.. được ghi nhận trong tầng văn hóa nhiều di tích.

Về hiện vật, Văn hóa Phùng Nguyên xác định nằm trong khung niên đại sơ kỳ thời đồng thau. Giai đoạn này, đồ đồng mới chỉ manh nha hé lộ khi trong tầng văn hóa chưa tìm thấy những hiện vật đồng định hình mà mới phát hiện những cục xỉ đồng, dây đồng, mảnh đồng nhỏ..

Sự có mặt xỉ đồng là bằng chứng xác đáng nhất chứng minh đúc đồng tại chỗ.

Người Phùng Nguyên biết tới nghề luyện đồng, dần nắm chắc kỹ thuật luyện đồng để truyền lại cho chủ nhân các lớp văn hóa tiếp sau.

Đồ đá là đỉnh cao của tiến bộ, người thời Văn hóa Phùng Nguyên nắm chắc nhiều tri thức về các loại chất liệu đá, giá trị sử dụng và những kỹ thuật tương thích cho từng loại nguyên liệu đá.

Gắn liền tồn tại của Văn hóa Phùng Nguyên là phát triển phổ biến của đồ đá.

Mọi nơi cư trú của người cổ, ngoài đồ gốm ra, hầu như tài sản của họ là đồ đá ở dạng công cụ sản xuất, vũ khí và đồ trang sức.

Người thời Văn hóa Phùng Nguyên sử dụng nhiều loại nguyên liệu đá:

Bazalt, Diabazer, Spilite, Silic, đá sa thạch, diệp thạch..

Nhưng đặc trưng nhất, tạo khác biệt nổi bật của đồ đá Văn hóa Phùng Nguyên so các văn hóa khác là sử dụng phổ biến đá ngọc Nephrite để chế tác các loại hình di vật chủ chốt, từ công cụ sản xuất (rìu, đục.) tới các loại hình di vật thể hiện đời sống tinh thần (đồ trang sức), vũ khí hay vật thể hiện quyền lực (nha chương, qua, giáo.).

Người Phùng Nguyên sử dụng thuần thục các kỹ thuật chế tác đồ đá:

Ghè đẽo, cưa, khoan, tiện, mài, đánh bóng.. kể cả trên đá ngọc Nephrite có độ rắn rất cao. Điều đó chứng tỏ đạt đỉnh cao trình độ chế tác đồ đá.

Công cụ sản xuất bằng đá thời Văn hóa Phùng Nguyên với các loại hình:

Rìu, bôn, đục, dao, liềm, lưỡi cưa, mũi khoan.. thường mài nhẵn, có kích thước nhỏ, đa dạng và đồ trang sức bằng đá rất phổ biến trong đời sống cư dân.

Các nhà khảo cổ học cho rằng do hình thành và phát triển những công xưởng chuyên sản xuất đồ trang sức như:

Hồng Đà, Bãi Tự, Tràng Kênh với trình độ kỹ thuật chế tác cao và điêu luyện mới sản xuất ra các loại sản phẩm như:

Vòng đeo, vật đeo, hạt chuỗi các loại.. Đặc biệt các nhà khảo cổ đã tìm thấy ở Tràng Kênh (Hải Phòng) bộ dụng cụ chuyên dùng trong chế tạo đồ trang sức bằng đá Nephrite bao gồm:

Mũi khoan đá, cưa đá, các loại bàn mài, rìu, đục, đột tròn..

Vòng đá Phùng Nguyên với nhiều kiểu mặt cắt đa dạng:

Tròn, chữ nhật, bán nguyệt, thấu kính nhưng đặc trưng nhất là vòng có mặt cắt hình chữ T, xung quanh có những đường gờ tiện nổi song song.

Vòng đá khá phổ biến trong các di chỉ thuộc Văn hóa Phùng Nguyên nhưng chỉ là các mảnh vòng, hầu như chưa tìm thấy tiêu bản vòng đá nguyên vẹn.

Vật đeo hình đuôi cá khá phổ biến trong đồ trang sức Văn hóa Phùng Nguyên, độc đáo nhất vẫn là vật đeo hình tượng người đàn ông duy nhất tìm thấy ở di chỉ Văn Điển (Hà Nội).

Một loại hình hiện vật "đá" đặc biệt mới chỉ phát hiện được trong Văn hóa Phùng Nguyên là "nha chương." Đa số các nhà nghiên cứu đều cho "nha chương" là vật thể hiện quyền lực.

"Nha chương" mới chỉ phát hiện được ở di chỉ Phùng Nguyên và Xóm Rền với số lượng không nhiều, chúng đều chế tác bằng đá ngọc Nephrite với trình độ kỹ thuật cao và điêu luyện.

Có thể thấy:

Với những đặc trưng nổi bật về chất liệu đá ngọc Nephrite, với trình độ kỹ thuật chế tác đạt đến đỉnh cao đã sáng tạo ra số ít loại hình cổ vật độc đáo ở miền Bắc Việt Nam.

Chúng được gọi đồ đá thời Văn hóa Phùng Nguyên vẫn đang thu hút quan tâm của giới nghiên cứu khảo cổ trong và ngoài nước.

Dù nước ta có nhiều khai quật phát hiện đồ đá thời Văn hóa Phùng Nguyên, thực tế thu được không nhiều hiện vật còn nguyên vẹn.

Hiện chỉ có Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam, vài bảo tàng tỉnh phía Bắc có trưng bày một số hiện vật đồ đá thời Văn hóa Phùng Nguyên, nhưng số lượng hiện vật rất ít so với các loại hình cổ vật khác.

Các nhà khảo cổ cho rằng các tiêu bản "nha chương" và đồ đá công cụ sản xuất, trang sức thuộc:

Văn hóa Phùng Nguyên có thể so sánh về loại hình tương đương với những tiêu bản tương tự ở di tích Tam Tinh, Kim Sa (Tứ Xuyên, Trung Quốc) về niên đại.

Ở Trung Quốc không ít "nha chương", đồ đá cổ làm giả tinh xảo để đáp ứng nhu cầu người thích sưu tập đồ đá. Thành quy luật khi cổ vật đã quý hiếm, ắt có nơi, có người làm giả để kiếm lời.

Nguồn:

Web covattinhhoa

Tận mục vật chứng 4.000 năm của nền Văn hóa Phùng Nguyên

Mẫu cuốc và rìu thuộc Văn hóa Phùng Nguyên tìm thấy ở Phú Thọ.

Văn hóa Phùng Nguyên là nền văn hóa tiền sử thuộc sơ kỳ thời đại đồ đồng, cuối thời đại đồ đá mới ở Việt Nam, cách đây 4.000 năm đến 3.500 năm.

Hệ thống hiện vật Văn hóa Phùng Nguyên, đồ trang sức bằng các loại đá, đá bán quý, ngọc được tìm thấy nhiều, đặc biệt là các vòng đá.

Ngoài đồ đá, cư dân Phùng Nguyên biết tạo đồ gốm đặc sắc từ khâu làm đất, tạo dáng cho đến hoa văn trang trí.

Về xuất xứ tên gọi, di chỉ Phùng Nguyên lấy làm tên xác lập cho Văn hóa Phùng Nguyên tọa lạc tại xã Kinh Kệ, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ.

Di chỉ này được các nhà khảo cổ học Việt Nam phát hiện và khai quật nhiều lần, trên diện tích rộng khoảng 4.000m2 trong những năm từ 1959 đến 1970.

Nay, hơn 60 di chỉ thuộc Văn hóa Phùng Nguyên phát hiện ở châu thổ Bắc Bộ, chủ yếu dọc theo lưu vực các sông lớn như sông Hồng, sông Lô, sông Thao, sông Đà, sông Đáy.

Các tỉnh phát hiện nhiều di chỉ thuộc Văn hóa Phùng Nguyên nhất là Phú Thọ, Bắc Ninh, Ninh Bình, Hà Nội, Hải Phòng.

Trong đó, di chỉ Mán Bạc ở Ninh Bình có tầm quan trọng đặc biệt vì là nơi phát lộ nhiều hài cốt cổ.

Tất cả hiện vật khảo cổ thuộc nền văn hóa này, công cụ bằng đá phổ biến và chiếm ưu thế tuyệt đối.

Theo các nhà nghiên cứu, cư dân Phùng Nguyên có thể sử dụng đồ đồng. Dù vậy, ngoài ít mẩu xỉ đồng, hiện tại chưa hề tìm thấy bất kỳ công cụ bằng đồng nào.

Nguồn:

Web kienthuc

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
Tượng người đàn ông Văn Điển thuộc Văn hóa Phùng Nguyên.

71298611_1221823991351184_684021821615374336_n.jpg


KHỞI NGUỒN MỸ THUẬT DÂN TỘC:

BỪNG NỞ NGHỆ THUẬT GỐM PHÙNG NGUYÊN

(2000 TCN đến 1000 TCN)

Họa sĩ Đức Hòa

Bấy lâu nay đa số chúng ta – ở trình độ phổ thông – chỉ biết đến văn minh Đông Sơn với trống đồng – được coi như tiêu biểu và tưởng đó là khởi đầu văn minh Việt cổ..

Rất tiếc đa số chưa biết từ trước đó rất lâu, dân tộc ta bắt đầu quá trình hình thành – các nhà khảo cổ và sử học đã và đang chứng minh thành công trên cơ sở vô số hiện vật phát lộ từ rất nhiều khai quật khoa học cũng như nhiều công trình nghiên cứu có giá trị..

Điều hết sức thú vị là ở điểm khởi nguồn dân tộc ấy đã xuất hiện một loạt đồ gốm thô mộc nhưng tuyệt đẹp về tạo dáng và hoa văn trang trí.

Đó là GỐM PHÙNG NGUYÊN.

1 – Đôi lời Văn hóa khảo cổ Phùng Nguyên và hình thành dân tộc – quốc gia của người Việt Nam

Học lịch sử từ trường phổ thông, chúng ta biết các văn hóa khảo cổ từng nối tiếp nhau xuất hiện trên đất nước ta như:

Văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn, Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun và Đông Sơn..

Đó là những trang tiền sử rất quan trọng trong quá trình hình thành dân tộc và quốc gia Việt Nam.

Từ những bầy người nguyên thủy, người Việt cổ đã tiến hóa, rèn giũa và phát triển các kỹ năng sống để chế ngự thiên nhiên vùng miền sông nước, gia tăng dân số, dần dần hình thành một xã hội phù hợp với đà phát triển của văn minh nhân loại.

Nếu thời đồ đá như Văn hóa Hòa Bình, người nguyên thủy Bắc Việt Nam chủ yếu còn sống trong hang động và săn bắt-hái lượm thì đến thời:

Văn hóa Phùng Nguyên, họ rời hang ra sống ngoài trời, trên các bãi nổi và đi thuyền bè trên sông nước, sau dần lập làng, trồng lúa, chăn nuôi.. tại miền trung du và đồng bằng cao ven các sông ngòi Bắc Bộ.

"Văn hóa Phùng Nguyên tồn tại và phát triển cách nay trên dưới 4000 năm. Những dấu tích để lại hầu hết là các làng định cư, các di chỉ cư trú ngoài trời." (Khảo cổ học VN, tập II - Thời đại kim khí, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia - Viện Khảo cổ học, chủ biên GS Hà Văn Tấn, NXB. KHXH, HN 1999).

Sách chúng tôi vừa viện dẫn - coi như tuyên ngôn chính thức của giới khảo cổ và lịch sử Việt Nam - đưa nhận định quan trọng:

"Hầu hết vấn đề về Văn hóa Phùng Nguyên đều bỏ ngỏ, chỉ trừ một điều mà mọi ý đều nhất trí, ở dạng này hay khác, coi Văn hóa Phùng Nguyên mở đầu quá trình hình thành dân tộc và quốc gia đầu tiên của người Việt."

2 – Gốm Phùng Nguyên bừng nở ngay từ khởi nguồn dân tộc

Từng có các văn hóa khảo cổ xuất hiện rất sớm trên đất nước ta như Hòa Bình, Bắc Sơn, v. V..

Tuy nhiên ở các thời đại đồ đá xa xưa và kéo dài hàng vạn năm ấy, người nguyên thủy trên đất nước ta hầu như chưa biết làm nghệ thuật.

Đơn giản là trình độ sống của họ còn rất thô sơ với các công cụ ghè đẽo bằng đá.

Mãi đến cuối thời đại đó, họ mới biết đan lát, làm gốm. Tìm thấy những mảnh gốm của người nguyên thủy trước Phùng Nguyên với cách tạo dáng sơ khai và một số hoa văn đơn giản, chưa thành hệ thống.

Nồi gốm Phùng Nguyên, kỹ thuật miết láng và hoa văn kiểu ĐỐI XỨNG TRỤC QUAY BẬC 2. (Nguồn: Sách "Văn hóa Phùng Nguyên" – Hán Văn Khẩn, NXB. ĐHQG Hà Nội – 2005)

Do các điều kiện thiên nhiên và khí hậu ưu đãi, khoảng 2000 năm TCN, người nguyên thủy tiến hóa thành người Việt cổ cùng với xuất hiện rạng rỡ của Văn hóa Phùng Nguyên.

Khoảng 1 thiên niên kỷ của văn hóa khảo cổ này, Tổ tiên ta đạt nhiều thành tựu đáng khích lệ trong công cuộc chế ngự thiên nhiên, nâng tầm cuộc sống, xây dựng xã hội và tạo những sản phẩm có chất lượng nghệ thuật như đồ đá, gốm và trang sức.

Nồi gốm Phùng Nguyên với hoa văn khắc vạch hình học hóa được xoa bột đất trắng vào các nét lõm, tạo hiệu quả nổi bật các đường nét. (Sưu tập của họa sĩ – nhà nghiên cứu Bùi Hoài Mai)

Nhu cầu tiến bộ cuộc sống thúc đẩy người Phùng Nguyên kết hợp đất với lửa mà tạo đồ gốm dùng để đựng, đun nấu, ăn uống, sinh hoạt.

Họ từng nặn và nung được các bình, vò, nồi lớn với đường kính miệng lên tới 50-60cm nhưng cũng làm được các cốc, chén, bát.. có đường kính chỉ 5-10cm.

Về kỹ thuật, người Phùng Nguyên có bàn xoay để tạo gốm miệng tròn hoàn chỉnh, tương đối mỏng đều và căng đều ngoài mặt.

Họ nung gốm ngoài trời với nhiệt độ tối đa khoảng 600 – 800 độ C.

Họ từng sản xuất một số lượng dồi dào các sản phẩm gốm để đến ngày nay các nhà khảo cổ còn khai quật nhiều vạn mảnh gốm các loại (ở mỗi di chỉ) và may mắn còn thấy ít đồ gốm gần như nguyên vẹn.

Hiện đại, chúng ta có quá nhiều đồ gốm, sứ, gỗ, thủy tinh, nhựa, đồng, nhôm, sắt, gang, thép, inox, v. V.. nên khó thấy được bước tiến kỳ diệu của người Việt cổ khi sản xuất hàng loạt gốm đẹp thời Phùng Nguyên.

Phải nói đó là bước nhảy vọt về công nghệ vì có bàn xoay.

Trước đó, hậu kỳ đá mới, người nguyên thủy trên đất Việt Nam mới chỉ làm ra rất ít gốm thô, chủ yếu là nặn tay nên khó căng tròn và mới lác đác trang trí hoa văn sơ khai.

3 – Vẻ đẹp mộc mạc gốm Phùng Nguyên

Cần lưu ý đa số bạn đọc ở trình độ phổ thông về điều này:

Vì Phùng Nguyên mới chỉ được coi như điểm khởi đầu của văn minh Việt cổ nên đồ gốm thời đó vừa mới thoát khỏi trình độ sơ khai, bước đầu đi vào quy củ, sản xuất bắt đầu chuyên môn hóa, chưa có men.. và cách rất xa gốm hiện đại nếu xét về trình độ kỹ thuật.

Xét về nghệ thuật, đây xứng đáng là sự bừng nở đẹp đẽ một cách đáng ngạc nhiên.

Gốm Phùng Nguyên có tạo dáng đẹp, thanh thoát và khá phong phú. Do có kỹ thuật bàn xoay mà đồ gốm thời này luôn có kết cấu cân đối, tròn đều và căng.

Ngoài đa số kiểu dáng phổ thông của nồi, bình, vò, cốc, chén, bát, dọi xe chỉ, chì lưới.. còn có các dạng đặc biệt như mâm bồng tròn, mâm bồng lục giác, đĩa có tai, thố gốm, bát chân cao, bình tứ giác gần giống cái gùi..

Thố gốm Phùng Nguyên cao 20cm, đường kính miệng 24cm, đường kính đáy 16cm và bản vẽ giải trình đường nét hoa văn.

Nguyễn Kim Dung và Tăng Chung phát hiện năm 2002 tại di chỉ Xóm Rền, Phú Thọ. (Nguồn: Sách "Văn hóa Phùng Nguyên" – Hán Văn Khẩn, NXB. ĐHQG Hà Nội – 2005).

Gốm Phùng Nguyên có các màu nâu xám, đỏ nhạt, xám đen.

Có những bình gốm tạo hiệu quả đậm nhạt mạnh rất ấn tượng do cách kết hợp vẽ hoa văn bằng nét với các mảng được miết láng bóng đậm.

Kỹ thuật miết láng cho thấy nghệ nhân thời Phùng Nguyên rất kỳ công chăm chút vẻ đẹp gốm và có gu thẩm mỹ đặc biệt.

Đôi khi các hoa văn gốm còn xoa thứ bột đất sét trắng, điền đầy các nét lõm, tạo hiệu quả đường nét nổi bật rất bắt mắt.

Thố gốm Phùng Nguyên cao 22cm, chân đế cao 4cm, đường kính miệng 28, 5cm, đường kính chân đế 16, 8cm và bản vẽ giải trình đường nét hoa văn. Kiểu ĐỐI XỨNG GƯƠNG và ĐỐI XỨNG TỊNH TIẾN. (Nguồn: Sách "Văn hóa Phùng Nguyên" – Hán Văn Khẩn, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội – 2005)

4 – Nổi trội hơn hết là hệ thống hoa văn cách điệu cao và rất biến hóa.

"Gốm Phùng Nguyên nổi tiếng những đồ án hoa văn đẹp, đa dạng, phong phú" (Hán Văn Khẩn - Cơ sở khảo cổ học - ĐHQG Hà Nội, NXB. ĐHQG Hà Nội).

Cách tạo hoa văn kết hợp khắc vạch với văn đập, văn thừng, văn chải, văn trổ lỗ, in lăn, chấm rải, đôi khi đắp thêm và miết láng..

Hoa văn trang trí trên gốm Phùng Nguyên chắc chắn bắt nguồn từ thiên nhiên nhưng nhanh cách điệu cao trên cơ sở hình học hóa, hệ thống hóa.

Bố cục hoa văn thường xếp theo băng dải vòng quanh thân và chân đế gốm hay trên mặt mâm bồng.

Vì có hệ thống hoa văn trang hoàng ngoài mặt mà gốm Phùng Nguyên đẹp bội phần, không chỉ đơn thuần để làm đồ đựng mà còn làm đồ cúng tế, trưng bày, ngắm nghía, tăng giá trị khi thành sản phẩm trao đổi và buôn bán.

Đặc trưng quan trọng nhất của hoa văn gốm Phùng Nguyên là kết cấu đối xứng và lặp đi lặp lại.

"Đối với người Phùng Nguyên, cái đối xứng quả là yếu tố của cái đẹp" (Hà Văn Tấn - Người Phùng Nguyên và đối xứng).

Dường như nghệ nhân gốm thuở ấy được thỏa chí theo đuổi các kết cấu đối xứng để biến hóa nó khôn cùng, tạo vô vàn biến thể hết sức vui mắt, kết hợp tĩnh với động, nghiêm cẩn với linh hoạt..

Họa tiết hoa văn gốm Phùng Nguyên bắt nguồn từ thiên nhiên:

Hình lá cây hay hạt, hình nửa vầng trăng hay trăng khuyết.. trong kết cấu đối xứng gương. (Nguồn: Sách "Theo dấu các văn hóa cổ" – Giáo sư Hà Văn Tấn, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện Khảo cổ học, NXB. KHXH – Hà Nội – 1997)

Họa tiết hoa văn gốm Phùng Nguyên cách điệu cao kiểu ĐỐI XỨNG TRỤC QUAY BẬC 2 từ đơn giản (8 hình trên) đến phức tạp hóa (2 hình dưới).

(Nguồn: Sách "Theo dấu các văn hóa cổ" – GS. Hà Văn Tấn, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện Khảo cổ học, NXB. KHXH – Hà Nội – 1997).

Hoa văn gốm Phùng Nguyên cách điệu cao kiểu ĐỐI XỨNG GƯƠNG (2 hình trên) và kiểu HÌNH CHỮ S, đồng thời là ĐỐI XỨNG TRỤC QUAY BẬC 2 (2 hình dưới).

(Nguồn: Sách "Theo dấu các văn hóa cổ" – GS. Hà Văn Tấn, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện Khảo cổ học, NXB. KHXH – Hà Nội – 1997).

Theo thống kê của Hà Văn Tấn, có 3 kiểu kết cấu hoa văn đối xứng Phùng Nguyên: Đối xứng gương, đối xứng trục quay bậc 2 và đối xứng tịnh tiến.

Đối xứng gương là khi có thể kẻ đường thẳng chia đôi một hoa văn mà hai nửa hoàn toàn bằng nhau và đối diện nhau qua đường thẳng đó - như hình ảnh nhìn qua gương vậy.

Đối xứng trục quay bậc 2 là khi hình hoa văn này lật sang phía đối diện nhưng lại xoay tiếp nửa vòng theo trục vuông góc với trục đối xứng, tạo hoa văn kép rất sinh động.

Đối xứng tịnh tiến là từ hoa văn gốc rải ra liên tiếp theo đường diềm kéo dài.

Nói theo cách của các sinh viên mỹ thuật khi làm bài trang trí diềm tường là vẽ đi vẽ lại một hoa văn theo chiều dài của đường diềm.

Ngoài 3 kiểu đối xứng kể trên, còn kiểu nữa là đối xứng tỏa tròn, theo như hình mặt trời sơ khai trên mặt dọi xe sợi Phùng Nguyên:

Các cánh mặt trời đối xứng qua lỗ tâm của con dọi. Kể ra làm được vậy ở buổi đầu hình thành dân tộc cách đây 3000 – 4000 năm đã là đáng khâm phục.

Nhưng thậm chí còn kỳ diệu hơn nữa khi các nghệ nhân Phùng Nguyên thoải mái biến hóa các kết cấu hoa văn trên bề mặt gốm.

Loại hoa văn ưa thích nhất của người Phùng Nguyên là hoa văn hình chữ S hay là kiểu hai hình tròn có chấm tâm nối nhau bằng vạch tiếp tuyến chéo.

Trong chuyên luận xuất sắc "Người Phùng Nguyên và đối xứng", Hà Văn Tấn thống kê có đến gần 30 kiểu đồ án hoa văn hình chữ S!

Hình sao nhiều cánh vẽ trên con dọi xe sợi, đất nung, di chỉ Nghĩa Lập.

Đây được coi là mẫu khởi nguồn cho hình tượng sao nhiều cánh giữa mặt trống đồng Đông Sơn sau này.

(Nguồn: Sách "Theo dấu các văn hóa cổ" – Hà Văn Tấn, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện Khảo cổ học, NXB. KHXH – Hà Nội – 1997).

Bình gốm Phùng Nguyên với nhiều băng hoa văn chạy ngang có chấm rải và họa tiết hình chữ S, đồng thời có các cột hoa văn theo chiều dọc.

(Nguồn: Sách "Cơ sở Khảo cổ học" – Hán Văn Khẩn chủ biên, NXB. ĐHQG Hà Nội – 2008)

5 – Người Phùng Nguyên còn có tư duy hình học đáng nể

Hiệu quả các hoa văn trên gốm của Phùng Nguyên còn cho thấy họ có tư duy đặc biệt về hình học.

Thoạt tiên họ vẽ ra các hoa văn đối xứng. Họ thoải mái xoay chuyển và biến hóa các hoa văn ấy về cả hình dáng, chi tiết và kết cấu từ đơn lẻ đến tổng thể.

Họ làm thành các băng hoa văn ngang và dọc, hơn nữa còn làm thành các dải hoa văn chạy vòng tròn, có đồng tâm trên mặt mâm bồng.

Họ vẽ ra các hình tròn khá chuẩn - các nhà khảo cổ hiện đại tìm thấy dấu vết của loại gần như compa mà họ để lại trên mặt gốm.

Họ còn căn chỉnh sao cho các băng diềm bao quanh kết thúc vòng tròn khép kín mà các hoa văn bên trong vẫn cách đều - nhưng các hoa văn ấy không chỉ lặp lại đơn điệu - chúng còn biến hóa, lật ngược xuôi, đối xứng trục quay và thêm thắt các hoa văn phụ điền vào các chỗ trống nữa.

Như vậy hình học biểu hiện nghệ thuật và nghệ thuật trong tính toán hình học - đó là tài năng đáng kinh ngạc của các nghệ nhân Phùng Nguyên từ thuở sơ khai của dân tộc.

Hai nồi gốm Phùng Nguyên cỡ nhỏ với HOA VĂN HÌNH CHỮ S và HOA VĂN ĐỐI XỨNG TRỤC QUAY BẬC 2 (Nguồn: Sách "Văn hóa Phùng Nguyên" – tác giả Hán Văn Khẩn, NXB. ĐHQG HN – 2005)

Bản vẽ mặt 2 chiếc mâm bồng, di chỉ Xóm Rền với bố cục hoa văn băng dải chạy thành các lớp vòng tròn đồng tâm.

Vòng chủ đạo có kết cấu hoa văn được cách điệu cao, với họa tiết kiểu ĐỐI XỨNG TRỤC QUAY BẬC 2.

(Nguồn: Sách "Theo dấu các văn hóa cổ" – GS. Hà Văn Tấn – Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia – Viện Khảo cổ học – NXB. KHXH – Hà Nội – 1997)

Bản vẽ 2 bình gốm Phùng Nguyên với hệ thống các băng hoa văn chạy vòng quanh thân.

Bình bên trái có các băng hoa văn chính với họa tiết kiểu ĐỐI XỨNG GƯƠNG (trên) và hình sóng nước kiểu ĐỐI XỨNG TỊNH TIẾN kết hợp với HOA VĂN HÌNH CHỮ S (giữa).

Bình bên phải có vẽ kết cấu hoa văn ĐỐI XỨNG GƯƠNG, đồng thời vừa chạy thành băng ngang vừa lật lên, lật xuống.

(Nguồn: Hình bên trái từ sách "Theo dấu các văn hóa cổ" – Hà Văn Tấn, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện Khảo cổ học, NXB. KHXH – Hà Nội – 1997; Hình bên phải từ sách "Văn hóa Phùng Nguyên" – Hán Văn Khẩn – NXB. ĐHQG Hà Nội – 2005).

6 – Cảm nghĩ về tài năng trang trí của người Phùng Nguyên

Là họa sĩ, tôi từng học và sau này dạy sinh viên làm các bài trang trí hình vuông, chữ nhật, tròn, diềm tường, vải hoa..

Ở hiện đại thì nguồn tài liệu là vô biên, có môn hình học từ thời phổ thông hỗ trợ, thế mà sinh viên vẫn như đánh vật với quá trình cách điệu để tạo họa tiết.

Sau đó thu xếp các kết cấu đối xứng, xử lý mảng trống, tăng giảm kích thước hoa văn trong khuôn khổ các hình đã định..

Với đầy đủ phương tiện hiện đại trong tay, kiến thức trong đầu mà không ít sinh viên mỹ thuật vẫn mắc các lỗi mà nghệ nhân thô sơ mấy nghìn năm trước hầu như không mắc phải:

Nét chập, hình méo, hình dính, dàn không đều, mảng đặc và mảng trống không ăn ý. Hiếm khi chúng tôi dùng tới đối xứng trục quay bậc 2, vì khó quá chăng?

Vậy mà cách đây hơn 3 thiên niên kỷ, Tổ tiên chúng ta làm được những điều kể trên một cách ngoạn mục!

Sau đó các hoa văn Phùng Nguyên còn kế tục và nâng cao đến mẫu mực trên các đồ đồng Đông Sơn, nhất là trên các hộ tâm phiến, thạp và trống đồng.

7 – Xứng đáng được tôn vinh

Không hề quá lời khi ca ngợi người Phùng Nguyên ở quá khứ xưa xa lắc, chỉ với các phương tiện sơ khai nhất, hoàn toàn vẽ tay, tạo ra hệ thống hoa văn hết sức đẹp, bừng nở trong biến hóa trên các đồ gốm khởi nguồn mỹ thuật dân tộc.

Có câu hỏi bấy lâu nay đau đáu trong tâm khảm chúng ta, cớ sao ngay khi các quốc gia sơ kỳ của Tổ tiên mới thành lập (như Văn Lang và Âu Lạc) người Việt sớm bị mất nước và trải hơn nghìn năm Bắc thuộc.

Thế mà dân tộc ta không bị đồng hóa trong biển người Đế chế Trung Hoa mênh mông để vùng lên quật khởi ở thế kỷ X và bảo vệ thành công nền độc lập tới tận ngày nay?

Rất nhiều nhà nghiên cứu tìm ra câu trả lời, chắc các độc giả đã biết, xin phép khỏi nhắc lại..

Chúng tôi cho rằng truyền thống văn hóa nghệ thuật cũng đáng chú ý – nó cho phép người Việt ta, sau hơn nghìn năm Bắc thuộc, tự tin mình không phải người Hán mà là người Việt.

Với bản sắc riêng biệt và rõ nét, kế thừa được tinh hoa truyền thống phong phú và tinh tế cha ông.. trong số đó có truyền thống mỹ thuật rực rỡ, khởi đầu từ Gốm Phùng Nguyên.

Nguồn:

Web trithuc

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
Bình gốm Đầu Rằm Văn hóa Phùng Nguyên

70325379_1221886754678241_5806940056438439936_n.jpg


Đồ gốm Văn hóa Phùng Nguyên trong hệ thống gốm tiền sử miền Bắc Việt Nam

Đồ gốm là một trong những tiêu chí quan trọng khi nghiên cứu đời sống vật chất cũng như tinh thần các cư dân tiền sử.

Trình độ sáng tạo, tư duy thẩm mỹ người xưa thể hiện rất rõ thông qua các sản phẩm gốm họ làm ra nhằm mục đích phục vụ đời sống hàng ngày và trao đổi với các cư dân khác cùng thời.

Những cư dân ở mỗi vùng khác nhau, từng giai đoạn khác nhau đều tạo những đồ gốm mang tính đặc trưng riêng của từng cộng đồng.

Đồ gốm là một trong những tiêu chí quan trọng khi nghiên cứu đời sống vật chất cũng như tinh thần các cư dân tiền sử.

Trình độ sáng tạo, tư duy thẩm mỹ người xưa thể hiện rất rõ thông qua các sản phẩm gốm họ làm ra nhằm mục đích phục vụ đời sống hàng ngày và trao đổi với các cư dân khác cùng thời.

Những cư dân ở mỗi vùng khác nhau, từng giai đoạn khác nhau đều tạo những đồ gốm mang tính đặc trưng riêng của từng cộng đồng.

Đồ gốm Việt Nam ra đời từ sơ kỳ thời đá mới thuộc Văn hóa Hòa Bình - Bắc Sơn [Nguyễn Kim Dung 1983: 22 - 35] .

Một chứng cứ khá chắc chắn của gốm sớm phát hiện trong địa tầng hang Mòi (Tràng An, Ninh Bình) có niên đại khoảng 9.000 năm BP.

Qua quá trình phát triển đồ gốm giai đoạn Văn hóa Phùng Nguyên đạt tới đỉnh cao về kỹ thuật tạo hình và trang trí hoa văn.

Đây là trung tâm phát triển độc lập, nhưng có mối quan hệ đa chiều với các nền văn hóa đồng đại và lịch đại.

1. Đồ gốm Văn hóa Phùng Nguyên trong mối quan hệ đồng đại

Cùng song song tồn tại và phát triển với Văn hóa Phùng Nguyên là các nền văn hóa:

Hà Giang, Mai Pha, Hạ Long, Hoa Lộc, các nhóm di tích Gò Mả Đống, Gò Con Lợn, Cồn Chân Tiên.. phân bố trên các khu vực khác nhau.

1.1. Đồ gốm các văn hóa khu vực miền núi phía Bắc

1.1. 1. Văn hóa Hà Giang

Các di tích phân bố tập trung ở vùng núi Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Thái Nguyên và Yên Bái.

Chất liệu gốm Hà Giang thường có pha cát và các hạt thạch anh, cát mi ca óng ánh, bên ngoài áo gốm bôi thổ hoàng nhưng do lớp áo mỏng, hay bong nên tạo cảm giác mặt áo gốm sần sùi.

Loại hình có đồ đựng đáy tròn có chân đế, bát bồng.. và xuất hiện chạc gốm.

Hoa văn trang trí gồm các họa tiết khắc vạch đường cong hình chữ S nối đuôi nhau theo băng ngang trên nền trơn ở phần vai hoặc trên nền thừng ở phần bụng đồ đựng.

Ngoài các họa tiết chữ S đầu lõm giống họa tiết chữ S thường gặp trên đồ gốm Văn hóa Phùng Nguyên, trên đồ gốm Văn hóa Hà Giang còn gặp các họa tiết khắc vạch dạng những đường vòng cung có khi sắp xếp thành hình gân lá, có khi úp vào nhau thành hình chiếc lá trang trí ngoài thành miệng, một số mảnh chân đế trang trí văn trổ lỗ hình tam giác [Hà Văn Tấn 1998] .

Qua một số phân tích về đồ gốm, chúng ta thấy một số dấu hiệu về mối quan hệ về đồ gốm, đặc biệt là hoa văn trang trí trên đồ gốm giữa Văn hóa Phùng Nguyên và Hà Giang.

Tuy nhiên xét góc độ kỹ thuật tạo hoa văn thì hoa văn trên gốm Phùng Nguyên phong phú, độc đáo và mang tính thẩm mỹ cao hơn hoa văn trang trí trên gốm Hà Giang.

"Cư dân Văn hóa Phùng Nguyên và cư dân Văn hóa Hà Giang có ảnh hưởng qua lại với nhau, mức độ đậm nhạt khác nhau.

Điều này có thể giải thích bởi vai trò của sông Lô và sông Hồng là những dòng chuyển tải văn hóa cổ, ngược xuôi giữa hai vùng trung du và miền núi" [Hà Giang thời Tiền sử 2000: 229]

1.1. 2. Văn hóa Mai Pha

Các di tích thuộc văn hóa này phân bố trong phạm vi địa bàn tỉnh Lạng Sơn, tiêu biểu là hai di tích Mai Pha và Ba Xã.

Chất liệu gốm Văn hóa Mai Pha làm từ đất sét pha bã thực vật, trộn với cát thạch anh và vỏ nhuyễn thể nghiền nhỏ, xương mịn.

Đa số gốm có màu đỏ gạch, một số có màu đen do ám khói khi nung hoặc do quá trình đun nấu để lại dấu vết, một vài mảnh có màu đen bóng có thể tạo bởi một loại nhựa cây hoặc một chất keo nào đó.

Kỹ thuật miết láng và tô thổ hoàng rất phổ biến trong gốm Văn hóa Mai Pha (14, 5% gốm tô thổ hoàng, 92, 8% gốm miết láng).

Hoa văn gồm các loại văn thừng, văn chải, văn khắc vạch kết hợp trổ lỗ..

Văn khắc vạch kết hợp trổ lỗ có nhiều mô típ phong phú là hoa văn đặc trưng của đồ gốm Mai Pha.

Nét độc đáo hoa văn gốm Mai Pha là văn khắc vạch hình hoa thị kết hợp trổ lỗ trang trí ở chân đế đồ gốm.

Bên cạnh đó còn có các mô típ hoa văn khắc vạch hình chữ thập - có thể đó là biến thể của hoa văn hình hoa thị chuyển từ nét cong sang nét thẳng.

Kiểu hoa văn hình hoa thị có lỗ thủng ở giữa cánh và nhụy hoa cùng mô típ hình chữ thập giữa có trổ lỗ rất độc đáo, hầu như không xuất hiện trong hoa văn gốm tiền sử nước ta [Nguyễn Văn Cường 2002] .

Giữa gốm Văn hóa Mai Pha và gốm Văn hóa Phùng Nguyên có tương đồng về hoa văn trang trí trên loại hình bát bồng.

Trên bát bồng gốm Văn hóa Phùng Nguyên là những họa tiết hoa văn khắc vạch kết hợp chấm dải mịn, đi cùng nó là các băng dải cuống rạ.

Trên đồ gốm Văn hóa Mai Pha, kỹ thuật trang trí khắc vạch trổ thủng thể hiện nhiều ở chân đế bát bồng.

Hoa văn khắc vạch trên chân đế bát bồng thường tạo bởi hai hoặc ba đường thẳng, đường cong song song nhau kiểu khuông nhạc, các lỗ thủng có hình hạt đậu, hình tròn, hình chữ nhật.

Kết hợp giữa các loại lỗ thủng với các hình khắc vạch tạo các họa tiết khác nhau, tiếp nối nhau thành băng trên chân đế đồ gốm.

Đồ gốm các di tích trung du và đồng bằng Bắc bộ (Nhóm di tích Gò Mả Đống - Gò Con Lợn).

Đây là những di tích phân bố xen kẽ trong địa bàn cư trú của cư dân Phùng Nguyên nhưng mang những đặc trưng văn hóa khác Phùng Nguyên.

Chất liệu gốm nhóm di tích này thường thô, pha nhiều cát hạt to và sạn sỏi, độ nung thấp, xương gốm đen, bên ngoài màu nhạt hơn.

Tuy nhiên trong đồ gốm di chỉ Quang Húc có một số mảnh gốm có lớp áo ngoài mịn nhẵn, láng bóng, một số mảnh trang trí hoa văn khắc vạch [Hà Văn Tấn 1999: 63] .

Đồ gốm Đoan Thượng chất liệu thô, pha cát và sạn sỏi, độ nung thấp, xương gốm đen, lớp ngoài màu xám và đỏ nhạt, trang trí hoa văn khắc vạch kết hợp in chấm nhưng khác phong cách hoa văn khắc vạch đồ gốm Phùng Nguyên [Hà Văn Phùng, Ngô Sĩ Hồng 1979], [Hà Văn Tấn 1999: 80] .

Đồ gốm Mả Đống gồm hai loại chất liệu gốm chắc và gốm xốp.

Gốm chắc làm từ đất sét pha cát thô và sạn sỏi nghiền nhỏ.

Hoa văn chủ yếu là văn thừng trang trí thành băng rộng giới hạn trong hai đường chỉ chìm hay hai đường văn in chấm lõm, chạy quanh thân.

Hoa văn khắc vạch bằng que đầu nhọn hoặc hoa văn khuông nhạc.

Hoa văn đơn giản, không xuất hiện những đồ án hoa văn phức tạp hay những họa tiết đối xứng như hoa văn đồ gốm Phùng Nguyên [Hà Văn Tấn 1997] .

Hoa văn trang trí trên đồ gốm Gò Mả Đống có những đường nét phóng khoáng của hoa văn đồ gốm Hoa Lộc và văn khuông nhạc đặc trưng của đồ gốm Văn hóa Đồng Đậu. Theo Phạm Lý Hương:

"Tuy không tìm thấy gốm Phùng Nguyên đích thực ở Mả Đống, nhưng có thể tìm thấy bóng dáng ảnh hưởng nhất định của gốm Phùng Nguyên trên gốm Mả Đống hoặc những nét gần gũi giữa chúng..

Hoa văn khắc vạch kết hợp văn thừng trên nền trơn miết bóng nói riêng và kỹ thuật miết bóng mặt ngoài đồ gốm nhiều làm nổi các đường nét hoa văn khắc vạch có mặt ở cả Phùng Nguyên (đặc biệt là giai đoạn Gò Bông), Mả Đống, Hoa Lộc, Thạch Lạc (giai đoạn muộn)" [Phạm Lý Hương 1991: 29 - 38] .

Hoa văn đồ gốm Mả Đống có ảnh hưởng rõ nét của hoa văn gốm Phùng Nguyên, đó là hoa văn khắc vạch hình chữ S. Đây là những mô típ người Hoa Lộc không sử dụng.

Mô típ chữ S của gốm Mả Đống được tạo bằng que nhiều răng.

Không phủ nhận hoa văn khắc vạch hình chữ S trên gốm Mả Đống chịu ảnh hưởng của hoa văn chữ S trên gốm Phùng Nguyên [Hà Văn Tấn 1999: 93] .

Trên vài mảnh gốm ở Gò Ghệ và Gò Dạ (Phú Thọ) có trang trí hoa văn ấn lỗ kiểu Hoa Lộc.

Có ý kiến cho rằng người Gò Ghệ, Gò Dạ trao đổi đồ gốm đó với chính người Gò Con Lợn ở cách họ không quá 1km.

Đáng tiếc là đồ gốm ở chính di tích Gò Con Lợn không có điều kiện nghiên cứu đầy đủ.

Mặt khác ở gốm Gò Mả Đống, hoa văn khuông nhạc truyền thống Hoa Lộc được vẽ trên nền thừng.

Cư dân Thạch Lạc và Hoa Lộc không biết những chạc gốm và ở Mả Đống rất hiếm gặp, nhưng ở Đoan Thượng lại khá phổ biến [Hà Văn Tấn 1999: 93] .

Thông qua đồ gốm có thể thấy cư dân Phùng Nguyên và Mả Đống có mối liên hệ tiếp xúc và ảnh hưởng qua lại.

Về mối quan hệ văn hóa của nhóm di tích Mả Đống - Gò Con Lợn với các văn hóa khác, đại đa số các nhà khảo cổ học cho rằng đây là mối quan hệ mang tính chất đa chiều.

Trong đó với Hoa Lộc là quan hệ nguồn gốc chủ thể, với Hạ Long là mối quan hệ của bộ phận hợp thành văn hóa, với Phùng Nguyên là mối quan hệ láng giềng. Mối quan hệ cuối cùng này ngày càng phát triển [Hà Văn Tấn 1999: 95] .

1.3. Đồ gốm Văn hóa Hạ Long

Các di tích Văn hóa Hạ Long tập trung ở vùng ven bờ biển và hải đảo kéo dài từ Móng Cái đến vùng Vịnh Hạ Long thuộc tỉnh Quảng Ninh và vùng đảo Cát Bà (Hải Phòng).

Đồ gốm Văn hóa Hạ Long khá phong phú và mang những đặc trưng riêng biệt. Gốm Văn hóa Hạ Long gồm hai chất liệu:

Gốm xốp mỏng, nhẹ, làm từ đất sét pha nhiều vụn vỏ nhuyễn thể và gốm chắc làm từ đất sét có pha cát.

Kỹ thuật làm gốm Văn hóa Hạ Lonng tương đương kỹ thuật làm gốm Văn hóa Phùng Nguyên, tạo hình bằng bàn xoay và có sử dụng kỹ thuật bàn đập - hòn kê.

Số lượng gốm có trang trí hoa văn không nhiều (khoảng 25 - 30% tổng số mảnh gốm thu được), chủ yếu là văn thừng thô và thừng mịn.

Hoa văn trang trí gồm hoa văn khắc vạch (chữ S đơn, chữ S kép, sóng nước, ô trám, trổ thủng, đắp nổi, in ấn vỏ sò.).

Hoa văn khắc vạch hình chữ S khá phổ biến trên đồ gốm Hạ Long nhưng đường vạch thường khác và không cầu kỳ như những họa tiết chữ S trên đồ gốm Phùng Nguyên.

Văn đai đắp nổi, trổ thủng ở chân đế đồ đựng là nét đặc trưng của gốm Văn hóa Hạ Long.

Trên đồ gốm Văn hóa Phùng Nguyên cũng xuất hiện loại hoa văn này nhưng không phong phú và đa dạng như gốm Văn hóa Hạ Long.

Kỹ thuật tô thổ hoàng khá phổ biến trên gốm Hạ Long, nhưng do chất liệu gốm xốp, bề mặt lỗ rỗ do pha vụn vỏ nhuyễn thể cộng với môi trường biển nên mặt ngoài của gốm đa số bị bong nên những dấu vết của thổ hoàng còn lại mờ nhạt [Hà Văn Tấn 1997] .

1.4. Với đồ gốm các văn hóa, di tích vùng Bắc Trung Bộ

1.4. 1. Văn hóa Hoa Lộc

Các di tích thuộc văn hóa này phân bố ở đồng bằng ven biển tỉnh Thanh Hóa.

Các nhà nghiên cứu cho rằng văn hóa này thuộc giai đoạn hậu kỳ đá mới [Phạm Văn Kỉnh, Quang Văn Cậy 1976: 120 - 126] nhưng cũng có người xếp vào thời đại đồng thau trong hệ thống các Văn hóa tiền Đông Sơn [Phạm Văn Đấu 1999] .

Chất liệu gốm Văn hóa Hoa Lộc gồm gốm cứng mịn và thô xốp, làm từ đất sét pha cát có lẫn ít tạp chất. Loại hình phong phú, gồm các loại nồi, bình, bát, âu, liễn, chậu, hộp.

Về mặt loại hình, gốm Hoa Lộc đa dạng hơn gốm Phùng Nguyên (miệng đa giác, cong khum, loe võng, trang trí hình thú ở các góc đa giác, các loại hộp gốm, con dấu gốm, khuyên tai đất nung).

Hoa văn trang trí mang tính hình học, kết hợp thành băng, có đối xứng khá chặt chẽ.

Hoa văn tiêu biểu như đồ án những hình thảo mộc (hoa, quả, cây), hình tượng động vật (chim, tôm, cá), đồ án những hình tam giác, đồ án những hình tứ giác.

Đồ án hình tam giác và tứ giác kết hợp, đồ án những đoạn thẳng hay những đoạn gấp khúc, đồ án những đường cong, đồ án chữ S [Phạm Văn Đấu 1999] .

Nếu hoa văn gốm Phùng Nguyên chặt chẽ, hài hòa cân đối, hoa văn gốm Hoa Lộc mang tính phóng khoáng hơn, thể hiện tư duy và lối sống cư dân vùng biển, của những người quen vẫy vùng trong khoảng trời và sóng nước bao la.

Hoa văn gốm Phùng Nguyên có đặc trưng là các băng chấm dải mịn, các đồ án chữ S hoặc những đường cong mềm mại trên nền miết bóng thì hoa văn trên gốm Hoa Lộc lại thiên về dạng hình học như các hình tam giác, hình thoi, hình bình hành.

Những hoa văn đặc trưng gốm Hoa Lộc như hoa văn hình bọ gậy, hoa văn giọt nước cũng lác đác xuất hiện trong đồ gốm một số di chỉ thuộc Văn hóa Phùng Nguyên như Gò Ghệ, Gò Dạ [ Hà Văn Tấn 1978: 121 - 124] .

Đây có thể là giao lưu trao đổi giữa các cư dân cùng thời. Mối liên hệ giữa cư dân Văn hóa Phùng Nguyên và Văn hóa Hoa Lộc rất rõ nét.

1.4. 2. Nhóm di tích Cồn Chân Tiên

Cồn Chân Tiên là di tích mở đầu thời đại kim khí ở lưu vực sông Mã.

Đồ gốm Cồn Chân Tiên có những nét tương đồng đồ gốm các di tích Văn hóa Phùng Nguyên và Văn hóa Hoa Lộc.

Chất liệu gồm hai loại:

Gốm mịn, màu đỏ, xương cứng (76%) và gốm thô, màu xám hoặc đen, xương xốp (24%). Hoa văn trang trí là những đồ án hình giọt nước, bọ gậy, vỏ sò, hình sin..

Đồ án hoa văn đồ gốm Cồn Chân Tiên bố cục theo từng băng dải rất gần gũi với phong cách sắp xếp hoa văn trên đồ gốm Văn hóa Phùng Nguyên [Hà Văn Tấn 1999: 164] .

Theo Phạm Minh Huyền, nhóm di tích Cồn Chân Tiên và Văn hóa Phùng Nguyên có tương đồng về thời đại, về trình độ kỹ thuật chế tác đồ đá, đồ gốm và có quan hệ khá chặt chẽ.

Đồ gốm Cồn Chân Tiên xuất hiện nhiều đồ án hoa văn giống hệt hoa văn trang trí trên gốm Phùng Nguyên [Phạm Minh Huyền 2001: 211- 218] .

1.4. 3. Nhóm di tích Đền Đồi

Di tích Đền Đồi thuộc giai đoạn tiền Đông Sơn vùng lưu vực sông Cả.

Đồ gốm Đền Đồi làm từ đất sét có pha cát, loại hình gồm các đồ đựng như vò, bát, bình, bát bồng và đồ đun nấu.

Trên đồ gốm thô, kích thước lớn có trang trí hoa văn khắc vạch đơn giản.

Trên đồ gốm mịn, kích thước nhỏ và bát bồng có trang trí hoa văn khắc vạch khép kín trong có văn chải hoặc in chấm [Bùi Vinh 1984: 31 - 32] .

Gốm mịn di chỉ Đền Đồi giống gốm di chỉ Gò Bông với lối trang trí khắc vạch hoặc miết láng trên nền văn thừng.

Sự tương đồng ở họa tiết chữ S kiểu Gò Bông hoặc nhiều kiểu trang trí khác cũng thấy rõ ở gốm Đền Đồi như khắc vạch hoặc miết láng trên gốm văn thừng, văn chải, in chấm ở họa tiết khắc vạch khép kín.. [Hà Văn Tấn 1997: 197] .

1.4. 4. Văn hóa Bàu Tró

Các di tích thuộc Văn hóa Bàu Tró phân bố dọc đồng bằng ven biển Bắc Trung Bộ thuộc các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và Quảng Trị.

Đồ gốm phát hiện được ở hầu hết các di tích với số lượng lớn.

Đồ gốm Bàu Tró chủ yếu là gốm thô làm từ đất sét pha cát và bã thực vật (gốm thô chiếm 95%) và một số ít gốm mịn (khoảng 5%).

Đồ gốm tạo bằng bàn xoay và bàn đập - hòn kê kết hợp nặn tay và kỹ thuật bàn xoay chỉ là bổ trợ. Đây là phong cách riêng trong kỹ thuật tạo hình đồ gốm của cư dân Bàu Tró [Phạm Thị Ninh 2000: 110] .

Loại hình đồ gốm đa dạng gồm các loại nồi, bình, bát, đĩa, đồ gốm có tai, cốc chân cao, bát bồng..

Hoa văn gồm các loại văn thừng, văn chải, khắc vạch, in chấm, văn khuông nhạc trên nền thừng, kỹ thuật miết láng và tô màu thành băng trên mặt ngoài đồ gốm kết hợp với các họa tiết trang trí khác, khiến người xem liên tưởng ngay đến sự gần gũi tương đồng với kỹ - nghệ thuật trang trí trên đồ gốm Phùng Nguyên [Phạm Thị Ninh 2000] .

Điểm lại các tư liệu về đồ gốm thuộc bình tuyến hậu kỳ đá mới - sơ kỳ kim khí trên cho thấy đồ gốm Văn hóa Phùng Nguyên bên cạnh những nét đặc trưng riêng biệt.

Chúng còn có mối quan hệ đa chiều với đồ gốm các nền văn hóa hoặc các nhóm di tích có tính chất tương đồng khác ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ Việt Nam.

Mở rộng về phía Bắc chúng ta còn thấy đồ gốm Văn hóa Phùng Nguyên còn có mối quan hệ với đồ gốm vùng Hoa Nam, đặc biệt là miền đất Điền cổ đại [Trình Năng Chung 2009] .

Trong sưu tập hiện vật di chỉ Đại Hoa Trạch, Đại Tôn Tử (Vân Nam) có những loại hình hiện vật giống gốm Văn hóa Phùng Nguyên như dọi xe sợi hình chóp nón.

Những đồ gốm trang trí hoa văn khắc vạch kết hợp chấm dải của di chỉ Đại Tôn Tử rất gần phong cách hoa văn gốm Văn hóa Phùng Nguyên.

Giữa Phùng Nguyên và Đại Tôn Tử cũng có những khác biệt như các mô típ trang trí gốm Phùng Nguyên phong phú hơn Đại Tôn Tử, ngược lại gốm Văn hóa Phùng Nguyên không có gốm màu vàng chanh kiểu gốm Đại Tôn Tử.

Một loại hình di vật gốm độc đáo trong Văn hóa Phùng Nguyên cũng như thời đại kim khí ở Việt Nam là chạc gốm cũng xuất hiện trong các di chỉ thuộc khu vực trung du và hạ du của sông Hoàng Hà và Trường Giang.

Đây là cứ liệu phản ánh mối quan hệ, giao lưu văn hóa giữa hai khu vực Bắc Việt Nam và Nam Trung Quốc.

2. Đồ gốm Văn hóa Phùng Nguyên trong mối quan hệ lịch đại

Thời đại đồ đồng Việt Nam đánh dấu bằng phát triển liên tục chuỗi các nền Văn hóa tiền Đông Sơn.

Các Văn hóa từ Phùng Nguyên qua Đồng Đậu đến Gò Mun phân bố chủ yếu ở lưu vực sông Hồng, vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ.

Các nền văn hóa sau đó một mặt kế thừa những nét đặc trưng của đồ gốm Văn hóa Phùng Nguyên, một mặt sáng tạo ra những đồ gốm mang phong cách mới.

Tuy có những nét riêng biệt mang tính đặc trưng của từng văn hóa nhưng "sự khác biệt giữa các Văn hóa tiền Đông Sơn không hề phá vỡ tính liên tục giữa chúng" [Hà Văn Tấn 1975: 22 - 35] .

2.1. Đồ gốm Văn hóa Đồng Đậu

Đồng Đậu là nền Văn hóa tiếp nối Văn hóa Phùng Nguyên, địa bàn phân bố trùng khít với địa bàn gốc của Văn hóa Phùng Nguyên.

Gốm Đồng Đậu bắt nguồn trực tiếp từ gốm Phùng Nguyên nhưng phát triển cao hơn và có nhiều cải tiến kỹ thuật trong khâu chọn chất liệu, nâng cao nhiệt độ nung và có nhiều loại hình mới so với gốm Phùng Nguyên.

Đồ gốm Đồng Đậu thô, cứng, làm từ đất sét pha cát thô, thành gốm dày đều, gốm nặng, ít thấm nước, độ nung khoảng 800ºC.

Chất liệu và độ nung gốm Đồng Đậu tốt hơn và cao hơn gốm Phùng Nguyên [Hán Văn Khẩn 1996] .

Loại hình đồ gốm giai đoạn Đồng Đậu không khác nhiều so với đồ gốm giai đoạn Phùng Nguyên, vẫn cơ bản là nồi, bình, vò, bát, dọi xe sợi, chạc gốm, bi gốm, tượng động vật..

Nhưng có một điểm mới là xuất hiện các loại khuôn đúc đồng, nồi nấu đồng.

Đồ gốm Đồng Đậu có những vò kích thước rất lớn, thành gốm dày, phần miệng mở rộng, trang trí hoa văn phức tạp tuy không phổ biến nhưng tạo nét đặc trưng của gốm Văn hóa Đồng Đậu [Lê Xuân Diệm 1970: 154 - 166] .

Một số loại hình di vật xuất hiện trong đồ gốm Văn hóa Phùng Nguyên nhưng đến giai đoạn Đồng Đậu đã có chuyển biến:

Số lượng tượng động vật phát hiện nhiều hơn, thể hiện rõ tính hiện thực sinh động mà chủ nhân muốn phác họa hình ảnh của những loài động vật gần gũi xung quanh đời sống của mình.

Chạc gốm Đồng Đậu bên cạnh những nét tương đồng chạc gốm Phùng Nguyên như có chân phụ, có lỗ xuyên.. đã có những phát triển khác như xuất hiện hoa văn in lăn trên chân chạc.

Đồ gốm Văn hóa Đồng Đậu ngoài các kiểu miệng loe, miệng khum, miệng thẳng như đồ gốm Văn hóa Phùng Nguyên.

Xuất hiện các loại miệng gãy cong và gãy góc sau này thành một trong những đặc trưng của gốm Đồng Đậu.

Đồ đựng có chân đế cũng có số lượng lớn hơn so với đồng loại trong Văn hóa Phùng Nguyên.

Loại hình đồ gốm Văn hóa Đồng Đậu có kế thừa và phát triển sáng tạo trên nền tảng cơ bản loại hình đồ gốm Văn hóa Phùng Nguyên.

Hoa văn có biến chuyển rõ nét với văn thừng thô chiếm tỷ lệ cao hơn so với văn thừng mịn, văn chải một mặt tiếp thu kỹ thuật tạo văn chải truyền thống từ giai đoạn Phùng Nguyên, với các vệt chải đan xen, chồng chéo hoặc trùng nhau..

Dạng văn chải này ở Đồng Đậu có cách tân với những kiểu khuông nhạc đa dạng gồm văn chải khuông nhạc hình chữ S nằm ngang, hình chữ S đứng, chữ S xuôi, nằm nghiêng, liền nét tạo thành các băng chữ S liên tục, khuông nhạc hình sóng nước, khuông nhạc hình dải quạt.

Có thể nói cư dân Văn hóa Đồng Đậu tiếp thu tinh hoa nghề gốm Văn hóa Phùng Nguyên một cách linh hoạt và sáng tạo.

Một số hoa văn mới xuất hiện và thành đặc trưng hoa văn giai đoạn Văn hóa Đồng Đậu như văn dấu đan, khuông nhạc.. [Hoàng Thúy Quỳnh 2005: 69] .

Kỹ thuật chế tạo đồ gốm giai đoạn Văn hóa Đồng Đậu không khác biệt nhiều so với giai đoạn Văn hóa Phùng Nguyên.

Phương tiện và thủ pháp tạo hoa văn gốm Đồng Đậu về cơ bản vẫn giống đồ gốm Phùng Nguyên.

Hoa văn gốm Đồng Đậu không còn những đồ án hoa văn khắc vạch chấm dải mang tính đối xứng phức tạp điển hình của hoa văn gốm Phùng Nguyên mà là những đường khắc chìm đơn giản, những đường cong đoạn thẳng cắt nhau không theo một nguyên tắc nào [Hoàng Xuân Chinh, Trần Anh Dũng 2003: 50] .

Thủ pháp tạo văn thừng cũng khác giai đoạn Văn hóa Phùng Nguyên. Những vệt thừng trên đồ gốm Đồng Đậu đập sâu và theo chiều dọc đồ gốm.

Hoa văn in vòng tròn vẫn tạo bằng đầu những ống tay tre, nứa, ấn từng hàng trên thành miệng hoặc phần vai đồ gốm.

Nhưng hiếm khi trang trí riêng lẻ mà thường kết hợp hoa văn khắc vạch hoặc các mô típ hoa văn khác [Hán Văn Khẩn 2006], [Hà Văn Tấn và cộng sự 1970: 123 - 126] .

Sự biến đổi từ Văn hóa Phùng Nguyên sang Đồng Đậu qua hoa văn trang trí trên đồ gốm khá rõ nét.

Người Đồng Đậu dường như không trang trí hoa văn theo lối đơn lẻ mà thường kết hợp làm tăng thêm tính phong phú và đa dạng của hoa văn trên đồ gốm. Nguyễn Khắc Sử nhận xét:

"Nhìn vào hoa văn trang trí trên đồ gốm Đồng Đậu, chúng ta có cảm giác chung là phóng khoáng, uyển chuyển, mang tính nhịp điệu đều như sóng nước, mà ít chặt chẽ, đăng đối như Phùng Nguyên" [Nguyễn Khắc Sử 2001: 23] .

2.2. Đồ gốm văn hóa Gò Mun

Gò Mun kế thừa và tiếp nối Văn hóa Đồng Đậu.

Đồ gốm Gò Mun làm từ đất sét pha trộn thêm khá nhiều cát, độ nung 800°C - 900°C, hàm lượng ôxit nhôm cao nên chất gốm dẻo quánh, chịu được nhiệt độ cao.

Tỷ lệ ôxit sắt thấp nên có tính chịu nén, chịu được tác dụng nhất định cơ học [Hà Văn Phùng, Ngô Sĩ Hồng 1979] .

Chất liệu gốm Gò Mun có sự khác nhau ở giai đoạn sớm và muộn. Giai đoạn sớm gốm làm từ đất sét pha cát thô, thành dày (0, 7cm - 0, 8cm), gốm chắc, nặng, rất cứng, thường có màu xám.

Giai đoạn muộn gốm làm từ đất sét pha cát mịn hơn, thành gốm mỏng hơn (0, 5cm - 0, 6cm), rất cứng, màu xám nhạt và hồng [Phạm Lý Hương 2004: 429 - 449] .

So về chất liệu, gốm Gò Mun có những ưu điểm vượt trội về độ bền chắc và tính thực dụng hơn gốm Phùng Nguyên và Đồng Đậu.

Gốm Gò Mun cứng hơn, độ chống ẩm, chống thấm tốt hơn gốm Phùng Nguyên và Đồng Đậu [Hoàng Xuân Chinh, Trần Anh Dũng 2003: 52] .

Chất liệu gốm từ Văn hóa Phùng Nguyên qua Đồng Đậu đến Gò Mun có sự phát triển theo xu hướng ngày càng thô, cứng do chọn lựa và pha trộn các chất phụ gia.

Nếu gốm Phùng Nguyên có nhiều vỏ nhuyễn thể và bã thực vật, thì gốm Văn hóa Đồng Đậu, Gò Mun chất liệu sàng lọc kĩ hơn, các thành phần tạp chất hạn chế đến mức thấp nhất.

Kỹ thuật và nhiệt độ nung gốm ngày càng cao hơn, gốm cứng, chắc hơn, đáp ứng được nhu cầu thiết thực trong đời sống hàng ngày của cư dân.

Loại hình gốm Gò Mun có sự kế thừa và phát triển trực tiếp từ đồ gốm Phùng Nguyên - Đồng Đậu.

Bên cạnh những nét tương đồng cũng có những điểm khác biệt giữa đồ gốm Gò Mun và đồ gốm các giai đoạn văn hóa trước đó.

Phần miệng đồ gốm Gò Mun hoàn toàn khác phần miệng đồ gốm Đồng Đậu.

Bình miệng loe xiên, cổ ngắn, vai rộng, chân đế cao và loe choãi, thường có trang trí hoa văn đẹp, cầu kỳ ở miệng, vai và chân đế.

Hoa văn trang trí gồm văn lăn - đập thừng, văn chải, văn in nan chiếu, văn in ô vuông, văn đắp nổi, văn in chấm, văn khắc vạch.

Văn chải hình khuông nhạc điển hình trong Văn hóa Đồng Đậu, sang Văn hóa Gò Mun không chỉ ít hơn về số lượng, mà đơn điệu hơn cả về đồ án trang trí.

Giai đoạn Gò Mun vắng mặt các đồ án phức tạp như hình chữ S, hình thừng bện.. mà phổ biến là loại văn làn sóng nhẹ gồm 3 - 4 đường chải ở phần cổ hiện vật, phía trên văn thừng.

Hoa văn khắc vạch có nhiều đồ án khác nhau và thường kết hợp những đường thẳng, vạch ngắn, vòng tròn nhỏ, đường gấp khúc, vạch hình chữ V mang tính chất hình học, chủ yếu trang trí ở phía trong của loại miệng gãy, một số cũng được trang trí ở ngoài miệng và cổ.

Đây là nét khác biệt với đồ gốm Văn hóa Phùng Nguyên [Hoàng Xuân Chinh 1983: 129] . Hoa văn khắc vạch nhiều về số lượng và đa dạng về mô típ.

Chúng thường kết hợp của những đường thẳng, vạch ngắn, đường gấp khúc, vạch chữ V, ô trám lồng, chữ S gấp khúc, vòng tròn nhỏ.. mang tính chất hình học [Ngô Thế Phong, Nguyễn Mạnh Thắng 2002: 18 - 58] .

Hoa văn trên đồ gốm Văn hóa Gò Mun kết hợp hài hòa giữa hoa văn mỹ thuật và hoa văn trang trí.

Nhìn vào hoa văn trang trí trên gốm Gò Mun "có cảm giác cứng cáp, khuôn mẫu, chuẩn xác và đăng đối" [Nguyễn Khắc Sử 2001: 25] .

Nghề làm gốm Văn hóa Gò Mun về cơ bản vẫn theo các phương pháp truyền thống từ các giai đoạn Phùng Nguyên và Đồng Đậu trước đó, như tạo hình đồ gốm bàn xoay và bằng tay.

Có những bước tiến đáng kể so với kỹ thuật chế tác gốm Văn hóa Phùng Nguyên và Đồng Đậu.

Văn hóa Gò Mun có thể nói là "đạt trình độ khá cao về mặt kỹ thuật chế tác đồ gốm trong thời đại đồng thau ở Việt Nam và ở mức độ nào đó, có thể nói vượt hơn cả kỹ thuật làm gốm của người Đông Sơn sau này" [Hà Văn Phùng 1996: 144] .

Qua những nghiên cứu so sánh trên, thấy đồ gốm Văn hóa Phùng Nguyên có mối quan hệ đồng đại và lịch đại với đồ gốm các văn hóa, các nhóm di tích khác.

Thông qua đồ gốm, chúng ta thấy rõ mối quan hệ văn hóa theo các chiều đồng đại và lịch đại, các mối giao lưu và tiếp biến văn hóa giữa Phùng Nguyên và các văn hóa khác.

Kỹ thuật tạo hình và tạo hoa văn đồ gốm Phùng Nguyên là nền tảng cơ bản cho phát triển về kỹ thuật, mỹ thuật của đồ gốm các giai đoạn văn hóa kế tiếp (Văn hóa Đồng Đậu, Gò Mun).

Bên cạnh đó, đồ gốm Văn hóa Phùng Nguyên (đặc biệt là hoa văn trang trí), góp phần quan trọng minh chứng tính bản địa của Văn hóa Đông Sơn.

Những mô típ hoa văn trên đồ đồng Đông Sơn, có một phần không nhỏ kế thừa và phát huy sáng tạo của thợ gốm Phùng Nguyên. Hoa văn trên đồ gốm Phùng Nguyên là một trong những yếu tố góp phần tạo nghệ thuật đỉnh cao của Văn hóa Đông Sơn.

TS. Bùi Thị Thu Phương

TÀI LIỆU DẪN

1. Hà Giang thời Tiền sử 2000. Sở VHTT - TT Hà Giang xuất bản.

2. Hoàng Xuân Chinh, Trần Anh Dũng 2003. Vĩnh Phúc - Gốm và nghề gốm truyền thống, Sở VHTT - TT Vĩnh Phúc xuất bản.

3. Trình Năng Chung 2009. Mối quan hệ văn hóa thời tiền sử giữa Bắc Việt Nam và Nam Trung Quốc. Nxb. KHXH, Hà Nội.

4. Nguyễn Văn Cường 2002. Văn hóa Mai Pha. Sở VHTT Lạng Sơn xuất bản.

5. Lê Xuân Diệm 1970. Văn hóa Đồng Đậu một bước phát triển văn hóa thời Hùng Vương. Khảo cổ học số 7 - 8: 154 - 166.

6. Lê Xuân Diệm, Hoàng Xuân Chinh 1983. Di chỉ khảo cổ học Đồng Đậu. Nxb. KHXH, Hà Nội.

7. Nguyễn Kim Dung 1983. Hai hệ thống gốm trong thời đại đá Việt Nam. Khảo cổ học số 1: 22 - 35.

8. Phạm Văn Đấu 1999. Văn hóa Hoa Lộc. Nxb. VHTT, Hà Nội.

9. Phạm Minh Huyền 2001. Giai đoạn Văn hóa Cồn Chân Tiên ở Thanh Hóa và mối quan hệ với Văn hóa Phùng Nguyên. Tìm hiểu Văn hóa Phùng Nguyên, Sở VHTT - TT Phú Thọ: 211 - 218.

10. Phạm Lý Hương 1991. Gốm Mả Đống và những mối quan hệ của nó. Khảo cổ học số 3: 29 - 38.

11. Phạm Lý Hương 2004. Nghiên cứu gốm Tiền sử - Sơ sử Việt Nam trong thế kỷ XX: Những hiểu biết căn bản. Một thế kỷ KCH Việt Nam. Nxb. KHXH. Hà Nội: 429 - 449.

12. Hán Văn Khẩn 1996. Đồ gốm tiền sử và sơ sử ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ Việt Nam: Loại hình, hoa văn và kỹ thuật chế tạo. Tư liệu khoa Lịch Sử, trường Đại học KHXH & NV.

13. Hán Văn Khẩn 2006. Văn hóa Phùng Nguyên. Nxb. ĐHQG Hà Nội.

14. Phạm Văn Kỉnh, Quang Văn Cậy 1976. Kết quả nghiên cứu hai địa điểm Hoa Lộc và Phú Lộc. NPHMVKCH năm 1975. Nxb. KHXH. Hà Nội: 120 - 126.

15. Phạm Thị Ninh 2000. Văn hóa Bàu Tró. Nxb. KHXH, Hà Nội.

16. Ngô Thế Phong, Nguyễn Mạnh Thắng 2002. Kết quả khai quật di chỉ khảo cổ học Đồng Đậu lần thứ 6 (Yên Lạc - Vĩnh Phúc). Thông báo khoa học, Bảo tàng LSVN: 18 - 58.

17. Hà Văn Phùng 1996. Văn hóa Gò Mun. Nxb. KHXH. Hà Nội.

18. Hà Văn Phùng, Ngô Sĩ Hồng 1979. Báo cáo khai quật Đoan Thượng. Tư liệu Viện KCH.

19. Hoàng Thuý Quỳnh 2005. Báo cáo khai quật di chỉ Thành Dền lần thứ IV. Khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành KCH. Tư liệu Khoa Lịch sử, trường Đại học KHXH & NV.

20. Nguyễn Khắc Sử 2001. Hoa văn gốm Tiền sử. Trang trí trong mỹ thuật truyền thống của người Việt. Nxb. VHDT. Hà Nội: 13 - 57.

21. Hà Văn Tấn 1975. Văn hóa Phùng Nguyên và nguồn gốc dân tộc Việt Nam. Dân tộc học 1: 22 - 35.

22. Hà Văn Tấn 1978. Gốm kiểu Hoa Lộc ở một số di chỉ Văn hóa Phùng Nguyên. NPHMVKCH năm 1977. Nxb. KHXH. Hà Nội: 121 - 124.

23. Hà Văn Tấn 1997. Theo dấu các văn hóa cổ. Nxb. KHXH. Hà Nội

24. Hà Văn Tấn (Chủ biên) 1998. Khảo cổ học Việt Nam tập I: Thời đại đá. Nxb. KHXH. Hà Nội.

25. Hà Văn Tấn (Chủ biên) 1999. Khảo cổ học Việt Nam tập II: Thời đại kim khí. Nxb. KHXH. Hà Nội.

26. Hà Văn Tấn, Hán Văn Khẩn, Hà Văn Phùng 1970. Thực nghiệm tạo hoa văn trên đồ gốm cổ. Khảo cổ học 7- 8: 123 - 126.

27. Bùi Vinh 1984. Nghệ thuật trang trí hoa văn gốm Đền Đồi - Nghệ Tĩnh. Khảo cổ học 3: 31 - 32.

Nguồn tư liệu bản vẽ sử dụng trong bài: Nguyễn Văn Cường, Phạm Văn Đấu, Phạm Lý Hương, Phạm Thị Ninh, Bùi Vinh.

Nguồn

Web baotanglichsu

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
Tai hình đầu trâu, di chỉ Đình Tràng, Đông Anh, Hà Nội, cao 2, 4cm, ngang 2, 7cm, đá ngọc nephrite. Văn hóa khảo cổ Gò Mun, khoảng 1000-700 TCN, Bảo tàng Nhân học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội, ảnh Đức Hòa.

81711225_1323883517811897_7813629672838660096_n.jpg


Những bức tượng sơ khai nhất của người Việt cổ

Ngay ở buổi bình minh của dân tộc, các tiền bối của người Việt cổ đã quen "nghịch đất" và thử "nặn tượng."

Bằng chứng là qua các khai quật khảo cổ thời hiện đại, thế hệ con cháu mấy trăm đời sau còn tìm thấy một số "bán thành phẩm" điêu khắc của Tổ tiên – hầu hết đều.. chưa nặn thành hình.

Bên cạnh đó còn tượng đá, số lượng rất ít nhưng đáng chú ý ở chỗ rất rõ hình tượng và được coi gần như làm xong.

Ở đây tôi chỉ xin bàn các tượng đá và đất nung, tượng đồng thì muộn hơn và công nghệ cũng cao hơn (vì phải nặn mẫu xong làm khuôn mới tới công đoạn nấu đồng và đúc rót.).

Nay chúng ta đã có "nền Điêu khắc Việt Nam" với nhiều thành tựu, thiết tưởng cũng nên nhìn lại để đánh giá bước khởi đầu chập chững vào nghề của Tổ tiên chứ nhỉ?

1. Những tượng đất nung bé xíu và như đang nặn dở

Các nhà khảo cổ đào được khá nhiều mảnh vụn.. nghi vấn là tượng đất nung trong các cuộc khai quật những di chỉ thuộc các Văn hóa khảo cổ Phùng Nguyên, Đồng Đậu và Gò Mun (chỉ riêng tại di chỉ Thành Dền đào được 114 tiêu bản).

Căn cứ những gì chính thức công bố thì chỉ có tượng động vật – mà nhiều khả năng đó là các vật nuôi như trâu, bò, lợn, gà, vịt.. Chưa hề tìm thấy tượng người hay các "đề tài khác" bằng đất nung.

Đó là những tượng rất nhỏ, kích thước chỉ vài cm, đều ở mức độ chưa hoàn thiện khiến đời sau phải đoán xem đó là con gì. Chỉ rất ít tượng còn nguyên, phần nhiều vỡ vụn, gãy các chi tiết.

TƯỢNG GÀ, đất nung, Văn hóa khảo cổ Đồng Đậu (khoảng 1500- 1000 trCN), hiện vật Bảo tàng Lịch sử Quốc gia (Bác Cổ, Hà Nội),

"Nổi tiếng" nhất trong số này – vì được bày trong Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (Bác Cổ – Hà Nội) là mấy tượng gà, bò (hoặc trâu), thuộc Văn hóa khảo cổ Đồng Đậu. Tạo dáng gà khá rõ: Đầu, cổ, thân và đuôi.

Thậm chí tư thế con gà vươn cổ, vểnh đuôi một cách điển hình kiểu gà chứng tỏ người nặn quan sát gà rất kĩ, bắt dáng được con gà.

Tượng gà vẫn như chưa xong vì thiếu chân, mào, mỏ – rất có thể đã được nặn rồi lại gẫy vì bị vùi trong lòng đất mấy ngàn năm..

Khả năng nặn chưa xong hợp lý hơn, căn cứ vết tích còn lại và cũng căn cứ trình độ hết sức sơ khai của người Đồng Đậu khi đó.

Tượng bò thì tùy:

Có tài liệu bảo đó là trâu – bởi tạo dáng còn đang dang dở, chưa rõ những đặc điểm cốt yếu để khẳng định là 1 trong 2 con vật này như kiểu sừng, u bò, yếm bò (mà trâu không có)..

TƯỢNG LỢN và BÒ (đoán định), đất nung, dài 2 – 5, 5cm, dày 1 – 3cm, di chỉ Thành Dền, Văn hóa khảo cổ Đồng Đậu (khoảng 1500-1000 TCN). Nguồn ảnh:

"Địa điểm khảo cổ học Thành Dền – những giá trị lịch sử – văn hóa nổi bật", Lâm Thị Mỹ Dung chủ biên, NXB ĐHQG HN 2015

Dù sao các tượng bò và gà kể trên cũng là loại "khá" lắm bởi đa số các tượng đất nung còn lại sau các khai quật đều "kém hơn nữa" về tạo hình.

Nếu chúng ta có ý định "chiêm ngưỡng tác phẩm điêu khắc" thì nhiều khả năng sẽ đành nản lòng!

Các tượng này chí ít vẫn để lại cho chúng ta một vài thông tin hữu ích. Thứ nhất: Cỡ tượng rất nhỏ, chỉ vài phân (cm).

Thứ hai: Khi làm gốm, tranh thủ nặn chơi chút cho vui rồi đem nung kèm.

Một số phán đoán: Nặn chơi, nặn để làm kiểu tượng bùa, nặn làm đồ chơi cho trẻ con.. mà cũng có thể chính trẻ con mới là "tác giả" – nặn để chơi.

Tưọng đầu bò, đất nung, di chỉ Tiên Hội, Đông Anh, Hà Nội, Văn hóa khảo cổ Đồng Đậu (khoảng 1500-1000 trCN).

Một số mảnh tượng đất nung – di vật Văn hóa khảo cổ Tiền Đông Sơn lưu vực sông Mã. Nguồn hình vẽ: Từ sách "Cơ sở Khảo cổ học", Hán Văn Khẩn chủ biên, NXB ĐHQG HN 2008.

Nhìn rộng ra trong lịch sử thế giới, các nền văn minh tối cổ cũng để lại khá nhiều tượng đất nung cỡ nhỏ và không hoàn thiện.

Người nguyên thủy trên bước đường chập chững vươn lên thành các dân tộc, quốc gia sơ khai hóa ra rất thích vẽ, nặn, đục đẽo.. để tái tạo hình người và động vật mà họ thấy quen thuộc.

Đây là quá trình nhận thức thế giới bằng cách tái tạo hình của người nguyên thủy.

2. Tượng đá rất ít nhưng tạo hình rõ ý đồ hơn

Đó là tượng được đặt tên:

"Người đàn ông Văn Điển" vì khai quật từ di chỉ cùng tên. Dù rất bé, chỉ cao 3, 6cm, sẽ lọt thỏm nếu ta cầm trong tay nhưng tượng đá này được trưng bày trang trọng tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia (Bác Cổ – Hà Nội) và được in rất nhiều lần trên các sách báo Việt Nam.

Nếu các tượng đất đều có vẻ.. nặn ẩu thì ngược lại – tượng đá này cho thấy sự công phu, trau chuốt. Dáng người đứng thanh mảnh, rất eo, các chi tiết được nhấn rất rõ nét:

2 mắt khoét lõm thành 2 chấm sâu, tròn đều, gờ ụ lông mày và gờ gò má cân đối, trong khi gờ sống mũi hơi nhô lên theo chiều dọc chính giữa mặt.

Dù chỉ nhỏ như.. đầu tăm nhưng "sinh thực khí nam" nổi lên rõ rệt, đúng chỗ! Đáng ngạc nhiên hơn nữa khi trên đỉnh đầu có búi tóc từ chính giữa đỉnh vểnh lên với chủ ý tạo hình chính xác:

Vạt phẳng đều hai mặt bên theo chiều đứng và hơi lượn cong lên về phía sau.

Có giả thiết cho đó không phải búi tóc mà là vành tròn – nếu không bị gãy sẽ để buộc dây vào như đeo bùa. Nếu quả đúng vậy, tay nghề nghệ nhân tạc đá này rất cao từ cách đây có thể tới 4000 năm!

Chưa ai chứng minh được đó là vành tròn nhưng sự khúc triết, mạch lạc của chỏm tóc khiến đời sau phải để ý và có phần băn khoăn: Thời thô sơ đến vậy mà sao có thể chế tác kỹ thế?

Tất nhiên tượng chưa hoàn hảo: Không tay, cụt chân, vẫn còn mảnh xỉ đá chèn vào một bên hông mà tác giả chưa xử lý được, có thể vì non tay nghề hoặc thiếu dụng cụ đủ cứng để cắt gọt..

Tượng NGƯỜI ĐÀN ÔNG VĂN ĐIỂN – khai quật tại di chỉ Văn Điển, cao 3, 6cm, đá quarzit mài nhẵn.

Văn hóa khảo cổ Phùng Nguyên. Bảo tàng Lịch sử Quốc gia VN (Bác Cổ-Hà Nội). Ảnh Hiểu Trần.

Bên trái là giả thiết về phần vòng đã gãy trên đỉnh đầu – có thể là móc để treo tượng bùa (bản vẽ của Đức Hòa).

Một.. tượng đá khác, mà đúng ra chỉ là dạng khuyên tai – trang sức. Cách tạo hình rất công phu và gợi cảm:

Khuyên tai hình đầu trâu với đôi sừng cong vểnh sang hai bên. Rất thú vị khi nghệ nhân ngàn xưa đục lỗ xỏ xuyên qua vị trí sống mũi trâu! Nhìn nghiêng sẽ thấy như mắt trâu đang mở..

Ngày nay, với công nghệ hiện đại, người ta có thể chế tác trang sức phức tạp hơn nhiều nhưng thuở sơ khai nguyên thủy đây là kỳ công:

Tinh tế, sáng tạo, đối xứng, trau chuốt.. trong tình thế chắc chắn chưa có công cụ đủ tinh vi.

Khuyên tai hình đầu trâu, di chỉ Đình Tràng, Đông Anh, Hà Nội, cao 2, 4cm, ngang 2, 7cm, đá ngọc nephrite. Văn hóa khảo cổ Gò Mun, khoảng 1100-700 TCN, Bảo tàng Nhân học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội, ảnh Đức Hòa.

Về màu sắc và chất liệu thì 2 tượng đá kể trên còn tăng thêm phần hấp dẫn vì được tạc từ loại đá có chất lượng ngọc nên có phần hơi long lanh và màu xám phớt xanh gợi cảm.

3. Nặn đất dễ hơn tạc đá – vậy tại sao tượng đá toát lên vẻ công phu trong khi tượng đất có vẻ.. nặn ẩu?

Về lý thì đúng vậy:

Nặn đất ta tha hồ thêm bớt, chỉnh sửa trong khi tạc đá không có cơ hội sửa sai nếu ta đục nhầm – dù chỉ một nhát!

Khá nhiều nhà nghiên cứu đã băn khoăn về vấn đề này. Hóa ra đó là vấn đề của lịch sử tiến hóa nhân loại: Người nguyên thủy thoạt tiên đã phải trải qua THỜI KỲ ĐỒ ĐÁ dài hàng vạn năm.

Họ chỉ có công cụ bằng đá để tồn tại mà mãi sau này họ mới biết dùng lửa.

Từ khi có lửa mới có thể làm bếp, ăn chín, nặn và nung đồ gốm rồi dần dần tiến tới nấu đồng để đúc..

Vậy là dù đá rất cứng, nếu đục hỏng thì miễn sửa, chỉ có vứt đi.. thế nhưng sau hàng vạn năm của thời kỳ ĐỒ ĐÁ, người nguyên thủy lại đã quen xử lý đá đến mức đủ công phu và tinh tế.

Ngược lại, dù đất rất dễ nặn nhưng con người mãi sau mới biết dùng lửa để nấu ăn, sưởi và nung gốm.. Họ chưa thể nặn tượng đẹp ngay lập tức sau khi có lửa.

Vậy là dù nặn đất rất dễ nhưng vẫn cần thời gian đủ dài để mày mò làm quen và tập.

Chỉ thế mới cắt nghĩa được vì sao "Người đàn ông Văn Điển" và "trang sức đầu trâu" lại có vẻ chỉnh chu hơn vô số tượng đất dù cùng tuổi và tương đương thời.

4. Nghĩ về hiệu quả thẩm mỹ qua 2 tượng đá sơ khai nhất của người Việt cổ

Khá khó tin nhưng đó vẫn là sự thật:

Từ thuở sơ khai của dân tộc, nghệ nhân Việt cổ vô danh đã chế tác điêu khắc đá với những hiệu quả đáng nể.

Thứ nhất: Đó là kết cấu cân đối tới mức gần như đối xứng – cặp sừng trâu, mặt người đàn ông..

Thứ hai: Đó là những chi tiết điểm nhấn đúng chỗ và hiệu quả đầy hứng thú – đôi mắt người như chấm tròn lõm vào đá, mắt trâu cũng chính là lỗ xỏ khuyên tai, độ cong đều của cặp sừng trâu.

Điểm nhấn của sinh thực khí nam, gờ ụ lông mày, gò má cân đối và hài hòa trên khuôn mặt, chỏm tóc bật lên trên đỉnh đầu, cân xứng và gợi cảm..

Theo thiển ý của tôi:

Tượng "Người đàn ông Văn Điển" xứng đáng là điểm khởi đầu xuất sắc của lịch sử điêu khắc Việt Nam.

Các tượng đất nung dù đa phần vụng về hết cỡ, lại vỡ vụn.. nhưng vẫn có một điểm sáng, nói theo cách nhà nghề của họa sĩ là "bắt dáng" được con gà:

Thiếu sót tất cả chi tiết nhưng tạo dáng gà mái không lẫn đi đâu được! Theo nghệ thuật hiện thực và ấn tượng, chỉ cần "bắt dáng" tốt là thắng lợi đến non nửa!

Họa sĩ Đức Hòa

Tác giả gửi Trí Thức VN

Nguồn:

Web trithucvn

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
Tranh mô tả kỹ thuật luyện đồng thời tiền sử

70994403_1225443250989258_4750509862629146624_n.jpg


Văn hóa Đồng Đậu là nền văn hóa thuộc thời kỳ đồ đồng ở Việt Nam cách nay khoảng 3.000 năm, sau Văn hóa Phùng Nguyên, trước Văn hóa Gò Mun.

Tên nền văn hóa này đặt theo tên khu di tích Đồng Đậu ở thị trấn Yên Lạc, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, nơi các nhà khảo cổ học khám phá ra nền văn hóa đồ đồng phong phú năm 1962.

Người Đồng Đậu sống ngoài trời trên các đồi gò trung du Bắc Bộ với nền kinh tế khá ổn định và phát triển dựa trên nông nghiệp trồng lúa và các cây hoa màu.

Các dấu tích luyện kim như xỉ đồng, các mảnh khuôn đúc (bằng đá) cho thấy nghề đúc đồng đã có và phát triển thời kỳ này.

Nguồn:

Wikipedia

Di chỉ Đồng Đậu là khu di chỉ khảo cổ học ở gò Đậu, thôn Đông, thị trấn Yên Lạc, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, Việt Nam[1]

Mô tả

Gò Đậu cao khoảng 15m, rộng khoảng 8, 5 ha, cách trung tâm thị trấn khoảng 1, 5km về phía Đông. Tại đây, 2-1962, những di chỉ khảo cổ đầu tiên phát hiện.

Nay, các nhà nghiên cứu tiến hành 6 đợt khai quật và phát hiện hàng ngàn hiện vật 4 tầng:

Văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun và Đông Sơn nằm chồng lên nhau lần lượt.

Phát hiện này cho phép các nhà nghiên cứu khẳng định Văn hóa Đông Sơn có nguồn gốc bản địa.

Đặc biệt hơn, những phát hiện đầu tiên chính tại đây về một nền văn hóa có niên đại khoảng 1.500 năm TCN, sau Văn hóa Phùng Nguyên khiến các nhà nghiên cứu lấy tên cánh Đồng Đậu đặt cho nền văn hóa này.

Những hạt lúa gạo cháy tìm thấy trong tầng Văn hóa Phùng Nguyên khiến các nhà nghiên cứu khẳng định người Việt biết trồng lúa từ giai đoạn Văn hóa Phùng Nguyên[1]

Các loại hình di vật ở đây rất phong phú, gồm:

Các mảnh gốm, đất nung của các dụng cụ, đồ mỹ thuật.

Các công cụ, vũ khí, đồ trang sức bằng đá, xương hay đồng.

Các khuôn đúc bằng đất nung, đá.

Xương, răng động vật.

Hạt lúa gạo cháy.

Di cốt người.

Hiện nay chính quyền tỉnh Vĩnh Phúc đang có kế hoạch xây dựng khu di tích ngoài trời ở Đồng Đậu nhằm mục đích bảo tồn di tích và giáo dục[2]

Chỉ dẫn

Di chỉ khảo cổ học Đồng Đậu nằm trong tổ hợp:

Khu Di tích đền Gia Loan - chùa Biện Sơn là điểm đến quan trọng và tiêu biểu của huyện Yên Lạc cũng như tỉnh Vĩnh Phúc. Hiện nơi đây đầu tư thành khu du lịch để phục vụ du khách.

Tham khảo

1. Di chỉ khảo cổ Đồng Đậu. Vinhphuc. Tourism. Truy cập 12-1-2016.

2. Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa ở Khu Di chỉ Đồng Đậu. VP Online, 27-6-2014. Truy cập 12-1-2016

Nguồn:

Wikipedia

Di tích khảo cổ học Đồng Đậu

Di tích khảo cổ học Đồng Đậu nằm tại gò Đồng Đậu thuộc thôn Đông, thị trấn Yên Lạc, huyện Yên Lạc tỉnh Vĩnh Phúc có tọa độ 22025' vĩ độ Bắc, 114071'58 "kinh độ Đông.

Cách huyện lỵ Yên Lạc 1.5km về phía Đông, cách tỉnh lỵ Vĩnh Yên (Vĩnh Phúc) 8.5km về phía Nam theo đường chim bay và cách Hà Nội khoảng 60km về phía Tây Bắc.

Phát hiện lần đầu 1962, từ đó nhiều lần khảo sát và khai quật lớn của các cơ quan khoa học chuyên ngành Trung ương.

Qua kết quả nghiên cứu, qua nhiều tài liệu ược công bố, di tích khảo cổ học Đồng Đậu bao hàm trong đó 3 giai đoạn văn hóa khảo cổ một cách liên tục:

Giai đoạn sớm - thuộc Văn hóa Phùng Nguyên, giai đoạn giữa - Văn hóa Đồng Đậu và giai đoạn muộn - Văn hóa Gò Mun, có niên đại tuyệt đối là 3360 ± 100 năm cách ngày nay, kéo dài từ thế kỷ XV trên thế kỷ III TCN.

Đối chiếu với thư tịch và truyền thuyết, di tích khảo cổ học Đồng Đậu trong thời kỳ dựng nước của Hùng Vương.

Về không gian di tích nằm trong vùng đất Phong Châu xưa được xem là vùng địa bàn gốc của các Vua Hùng.

Di tích khảo cổ học Đồng Đậu có tầng văn hóa rất dày (có chỗ 6.0m) với hàng nghìn tiêu bản hiện vật phát hiện qua các kỳ khai quật khảo cổ, chiếm số lượng nhiều nhất là mảnh gốm, thể hiện cực kỳ phong phú về loại hình, đa dạng về kiểu dáng và mô típ hoa văn trang trí.

Nhìn chung gốm Đồng Đậu thể hiện phát triển liên tục của 3 giai đoạn Văn hóa điển hình từ Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò Mun.

Về loại hình và phương pháp tạo hoa văn đều giống nhau, chỉ khác nhau ở phong cách, ở biến thể của một số họa tiết trang trí và có thay đổi về tỷ lệ của một số hoa văn mà thôi.

Về chất liệu, vẫn là đất sét pha cát, càng về các tầng văn hóa càng muộn, tỷ lệ pha cát càng nhiều và độ nung càng cao dần..

Các hiện vật đồ đá phát hiện nhiều, gồm các loại hình:

Công cụ sản xuất, vũ khí, đồ trang sức..

Về nguyên liệu:

Để làm dụng cụ, người Đồng Đậu sử dụng khá đa dạng về chất liệu, nhưng tập trung chủ yếu là Xpilit có độ rắn chắc cao.

Như hợp những lực tác dụng lớn, khi làm đồ trang sức, dùng đá Nêphrit có đặc tính mềm dẻo, nhiều màu sắc, dễ gia công..

Về kỹ thuật chế tác đá:

Sử dụng thành thạo các yếu tố kỹ thuật khá tinh xảo, ghè, đẽo, cưa, mài, khoan, tiện.. chứng tỏ tay nghề của người Đồng Đậu khá thành thạo có thể phỏng đoán, nghề chế tác đá có thể thành một nghề bên cạnh nghề trồng lúa của người Đồng Đậu xưa.

Các hiện vật đồng thau phát hiện không nhiều, nhưng khá nhiều loại hình:

Công cụ sản xuất, vũ khí, dụng cụ săn bắn.. chất liệu chính là hợp kim đồng thiếc.

Ngoài ra thêm tỷ lệ của kẽm, nhôm, silic, sắt, chì.. tuỳ theo tính năng, tác dụng của sản phẩm mà người thợ pha chế tỷ lệ hợp kim cho phù hợp và đã biết dùng khuôn để tạo hình sản phẩm.

Số lượng các hiện vật bằng xương, sừng, khá nhiều và cũng phong phú, đa dạng về loại hình, kỹ thuật chế tác:

Cưa, gọt, mài là chủ yếu, đa số sử dụng xương, sừng của các loại thú lớn, chế tạo vũ khí hoặc dụng cụ săn bắn.

Qua nghiên cứu, phân tích, ta có thể đoán định:

Khoảng cuối thời kỳ đồ đá mới, một bộ phận dân cư dần tách khỏi cuộc sống săn bắn, hái lượm, tiến dần về đồng bằng.

Ban đầu cuộc sống chủ yếu dựa vào săn bắn, đánh cá và thu hái tự nhiên, dần dần họ phát hiện hạt lúa và nghề trồng lúa nước thành chủ yếu trong đời sống.

Bên cạnh đó vẫn song song và tồn tại hình thái kinh tế săn bắn rồi phát triển thành nghề chăn nuôi (ở cuối giai đoạn muộn) của tầng Văn hóa Gò Mun.

Đồng thời một số nghề thủ công cũng được hình thành và phát triển đáng kể nhất là nghề làm gốm để tạo ra các đồ đựng, đun nấu, phục vụ sinh hoạt v. V..

Nghề đá tạo công cụ sản xuất, vũ khí đồ trang sức.. nghề luyện kim đúc đồng tuy mới ra đời nhưng tham gia không nhỏ vào đời sống xã hội, nó làm thay đổi cả bộ mặt xã hội và đời sống của người nguyên thuỷ.

Thực tế di tích khảo cổ học Đồng Đậu là di chỉ cư trú lớn có đặc điểm là tầng văn hóa rất dày, các loại hình hiện vật đa dạng, phong phú.

Bao gồm 3 giai đoạn văn hóa khảo cổ từ sớm đến muộn một cách liên tục từ Văn hóa Phùng Nguyên - Đồng Đậu đến Gò Mun.

Vì vậy di tích này đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa không chỉ với ngành khảo cổ học nói riêng mà còn đáp ứng nhu cầu nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác có liên quan trong quá trình nghiên cứu về thời tiền sử dân tộc Việt Nam thời dựng nước.

Hiện nay, di tích còn lưu rất nhiều tư liệu hiện vật quý giá chưa được khai quật, đây sẽ là nơi tiếp tục phục vụ công tác nghiên cứu khoa học.

Đồng Đậu chứng minh cho giai đoạn lịch sử của người Việt cổ đang trên quá trình rời bỏ rừng núi để dần chiếm lĩnh vùng đồng bằng màu mỡ của vùng châu thổ sông Hồng, xác lập cuộc sống ổn định bởi một nền kinh tế nông nghiệp:

Lấy việc trồng trọt chăn nuôi làm vai trò chủ đạo, kết hợp với những ngành nghề thủ công dần thành những nghề truyền thống được bảo lưu mãi muôn đời sau.

Di tích khảo cổ học Đồng Đậu thực sự là một trong nhiều niềm tự hào của Vĩnh Phúc nói chung và Yên Lạc nói riêng - với vị trí là một trong những chiếc nôi đầu tiên của lịch sử loài người.

(Nguồn: Yên Lạc- Lịch sử và phát triển- NXb QĐND - 2010)

Văn hóa Đồng Đậu là nền văn hóa tiếp nối Văn hóa Phùng Nguyên.

Văn hóa Đồng Đậu thuộc xã Minh Tân - huyện Yên Lạc tỉnh Vĩnh Phúc, các cán bộ văn hóa của tỉnh phát hiện 1962.

Qua 6 lần khai quật phát hiện hàng vạn hiện vật đồ đá, đồ đồng, gốm, xương sừng.. Nền văn hóa này có niên đại mở đầu khoảng thế kỷ XV - XIV TCN và chấm dứt thế kỷ X-IX TCN.

Phú Thọ có một số địa điểm thuộc nền văn hóa này:

Xóm Rền, Nội Gan - Kinh Kệ, Đồng Đậu con - Tứ Xã - Lâm Thao.. Đây là nền văn hóa quan trọng tương ứng với thời đại tiền Hùng Vương ở Việt Nam.

Phát hiện các di chỉ thuộc nền văn hóa này lần nữa khẳng định Phú Thọ là một trong những cái nôi nền văn minh trong lịch sử:

Văn minh Việt cổ.

Đồ gốm trong Văn hóa Đồng Đậu:

Người Đồng Đậu tiếp thu những kỹ thuật, thành tựu cư dân Phùng Nguyên trong chế tác đá và làm gốm thành những sản phẩm bình, bát, nồi vò..

Nhưng khác biệt ở chỗ người Đồng Đậu cải tiến trong loại hình đồ gốm miệng loe, bẻ xiên, vát mỏng hay trang trí hoa văn sóng nước bằng dụng cụ nhiều răng được gọi" bút kẻ khuôn nhạc "thành đặc trưng không thể thiếu của Văn hóa Đồng Đậu. Hoa văn trên gốm Đồng Đậu chủ yếu trang trí ở cổ hay ở vành mép miệng đồ gốm.

Đặc trưng khác của gốm Đồng Đậu khác gốm Phùng Nguyên và gốm Gò Mun là gốm Đồng Đậu thường có dấu in đan lóng mốt trong một số loại đồ đựng thuộc loại đáy bằng.

Về chất liệu gốm, nếu gốm Phùng Nguyên có màu đỏ, màu hồng nhạt thì gốm Đồng Đậu có màu xám và có độ nung cao hơn nhưng cơ bản vẫn mang yếu tố truyền thống là đất sét pha cát và bã thực vật.

Trong các di chỉ Đồng Đậu xuất hiện rất phổ biến tượng đất nung:

Tượng bò, tượng gà, tượng rùa..

Đồ đá trong Văn hóa Đồng Đậu:

Về đồ đá họ cũng biết làm rìu đá, đục đá, mũi lao xương, khuyên tai có mấu, vòng tay bằng đá ngọc nhưng đồ đá trong Văn hóa Đồng Đậu không chau chuốt bằng đá Phùng Nguyên và ở Đồng Đậu đồ đá xuất hiện mũi tên ba cạnh, mặt cắt tam giác hay hạt chuỗi hình" gối quạ. "

Qua những lần khai quật tại các di chỉ, các nhà khảo cổ học nhận định công cụ sản xuất đồ đá trong Văn hóa Đồng Đậu có chiều hướng giảm đi và được thay thế bằng đồ đồng.

Truyền thống cư dân vùng Phú Thọ trồng lúa nước có từ thời kỳ Phùng Nguyên đến Đồng Đậu một lần nữa lại khẳng định điều này.

Nhiều thóc gạo tìm thấy trong nhiều di chỉ và đặc biệt trong di chỉ Đồng Đậu tìm thấy dấu vết hạt gạo cháy.

Đồ đồng Văn hóa Đồng Đậu:

Văn hóa Phùng Nguyên khai quật các di chỉ cho thấy xuất hiện nhiều những cục xỉ đồng nhỏ như hạt ngô ở Gò Bông và một số mảnh đồng nhỏ chưa định hình tại Đoan Thượng.. thì đến Đồng Đậu công cụ bằng đồng đạt trình độ cao.

Một bước phát triển đột biến như là cuộc cách mạng về luyện kim.

Nhiều di chỉ phát hiện nồi nấu luyện đồng, lò nung, khuôn đúc các loại đơn hoặc kép.

Hàng trăm mảnh khuôn, mảnh nồi nấu đồng, dấu vết lò nung, nhiều tiêu bản được xem như lõi của khuôn đúc, cùng các loại công cụ:

Rìu xòe cân, giáo, lao, đao, mũi tên hai ngạnh, đũa, búa, lưỡi câu được chế tác hoàn chỉnh.

Qua 6 lần khai quật tại các di chỉ Đồng Đậu tìm rất nhiều loại lưỡi câu đồng, cho thấy cư dân Đồng Đậu là những người đánh cá rất giỏi vì bộ lưỡi câu đồng tìm được với các kỹ thuật phức tạp:

Từ đúc tạo que đến gia công rèn nguội, chặt ngạnh, chặt mũi uốn lỗ xỏ dây tạo được một sản phẩm hoàn chỉnh như lưỡi câu ngày nay.

Một số di chỉ khác của Đồng Đậu tìm rất nhiều xương răng các loài cá:

Cá quả, cá chép, cá trắm, cá chiên, cá chuối chứng tỏ ưu thế về phương thức khai thác thủy sản trong đó có nghề câu cá ở thời kỳ này.

Nông nghiệp Đồng Đậu:

Nền nông nghiệp phát triển, kế thừa thành tựu chế tác đá gốm của người Phùng Nguyên cùng đỉnh cao kỹ thuật chế tác đồng đánh dấu phát triển xã hội cư dân Đồng Đậu.

Việc khai thác các di chỉ mộ táng cho hiểu biết hơn về tổ chức xã hội cũng như thế giới tinh thần cư dân Đồng Đậu như khai quật mộ táng đơn hay mộ song táng (2 cá thể) dùng đất sét làm nền quan tài.

Văn hóa Đồng Đậu được GS Hà Văn Tấn khẳng định:

" Đó là văn hóa của những người luyện kim, chế tác kim loại điêu luyện và lành nghề.

Đó là văn hóa của những người thợ gốm tài hoa, tạo tác những khối lượng động vật độc đáo.

Chế tác những đồ gốm kích thước lớn, trang trí hoa văn đẹp mang phong cách riêng thời đại mình đang sống.

Và đó là văn hóa những người biết phát huy, kế thừa những thành quả của cha ông thời Phùng Nguyên để bồi đắp, tạo lập thế hệ mới phát triển cao hơn, biết chọn điểm nhấn quan trọng.

Quyết định đến tồn vong của cộng đồng là luyện kim và đúc đồng bên cạnh nghề chế tác đá truyền thống.."

Hiện nay tại Bảo tàng Hùng Vương trưng bày giới thiệu một số bộ sưu tập hiện vật Đồng Đậu. Cùng các vấn đề làm sáng tỏ Văn hóa Đồng Đậu, còn rất nhiều câu hỏi mở như:

Dấu vết cư trú cư dân Đồng Đậu, vấn đề cư trú, vấn đề phân chia giai đoạn nền văn hóa này.. đang chờ các bạn tìm hiểu và giải đáp trong tương lai.

Nguồn:

Web covatvietnam

Khoảng 3070 năm trước:

Có Văn hóa Đồng Đậu (thuộc xã Minh Tân, huyện Yên Lạc, Tỉnh Vĩnh Phúc) thuộc trung kỳ thời đại đồng thau ở nửa sau thiên niên kỷ thứ IV TCN. Đây là giai đoạn kế tiếp phát triển cao hơn so với giai đoạn trước.

Nếu ở Phùng Nguyên, con người mới biết đến kỹ thuật luyện kim thì ở Đồng Đậu kỹ thuật luyện kim thực sự phát triển.

Trong các di chỉ thuộc Văn hóa Đồng Đậu, hiện vật bằng đồng thau chiếm khoảng 20% số công cụ và vũ khí mới nhiều loại hình phong phú như rìu, mũi lao, mũi tên, lưỡi câu, dũa..

Người ta để lại dấu vết các làng nông nghiệp trồng lúa, chăn nuôi, săn bắt, làm đồ gốm và các nghề thủ công khác.

Địa bàn phân bố Văn hóa Đồng Đậu phát hiện tại Vĩnh Phúc, Hà Tây, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Nội..

Nguồn:

Đỗ Đức Hùng, Nguyễn Đức Nhuệ, Trần Thị Vinh, Trương Thị Yến 2001, Việt Nam những sự kiện lịch sử (từ khởi thủy đến 1858), Hà Nội, Giáo Dục, Tr. 10.

Nguồn:

Web lichsuvietnam

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
71589374_1225432897656960_8573652044563349504_n.jpg


Đồng Đậu - một di tích tiêu biểu thời tiền sơ sử.

Di chỉ khảo cổ học Đồng Đậu nằm trọn trên Gò Đậu thuộc thôn Đông Hai, xã Vĩnh Mỗ, tổng Đông Lỗ, huyện Yên Lạc (sau này đổi là Xã Minh Tân, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc).

Di chỉ phát hiện 1962, từ khi được phát hiện đến 1999, các cơ quan nghiên cứu khảo cổ khai quật 6 lần.

Trong đó Viện Khảo cổ học khai quật 3 lần, Viện Bảo tàng Lịch sử (nay là Bảo tàng Lịch sử Quốc gia) khai quật 2 lần.

Bộ môn Khảo cổ học thuộc khoa Lịch sử Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn khai quật 1 lần, với tổng diện tích 758m2.

Qua các đợt khai quật, nhiều loại hình di tích và hàng ngàn hiện vật tìm thấy như:

Đồ gốm; công cụ sản xuất; vũ khí; đồ trang sức; đồ dùng sinh hoạt bằng đá, bằng đồng; xương sừng; tượng hình tròn, hình động vật được nặn bằng đất nung..

Ngoài ra còn phát hiện có nhiều hạt lúa gạo cháy thuộc từ lớp Văn hóa Phùng Nguyên – chứng tỏ nghề trồng lúa nước và chăn nuôi có từ rất sớm ở buổi đầu dựng nước của các Vua Hùng.

Đợt I:

Từ 11-1965 đến 3-1966, Viện Khảo cổ học tiến hành khai quật lần thứ nhất tại di tích Đồng Đậu. Đợt khai quật này thực hiện với hai mục đích.

Thứ nhất để tìm hiểu về diễn biến địa tầng, tính chất, niên đại, chủ nhân, đặc trưng của di tích.

Thứ hai, kết quả khai quật sẽ góp phần vào nghiên cứu giai đoạn hậu kỳ thời đại đồ đá, thời đại đồ đồng và sơ kỳ thời đại đồ sắt.

Trong tầng văn hóa dày từ 2, 6 – 3, 2m, các nhà khảo cổ học phát hiện nhiều di tích như: Bếp, nền đất đắp, mộ cổ, hố đào..

Đặc biệt là thu một sưu tập di vật gồm trên 800 hiện vật. Trong đó, đồ đá có:

Rìu, bôn, đục, dao, chày, bàn nghiền, bàn đập, bàn mài, vòng trang sức, hạt chuỗi.

Đồ đồng có:

Rìu, đục, dùi, cán dao, mũi tên, lưỡi câu, dây, kim cùng nhiều xỉ đồng.

Đồ gốm có:

Nồi, vò, chậu, bát, bình, chân chạc, dọi xe chỉ; bi, tượng động vật bằng đất nung..

Ngoài ra còn phát hiện những mảnh gốm mang những đặc trưng văn hóa khác nhau.

Qua diễn biến tầng văn hóa và các hiện vật khai quật được, các nhà nghiên cứu nhận thấy tầng văn hóa có những diễn biến khác nhau, hiện vật trong lớp văn hóa có những sự khác biệt.

Nhưng đáng chú ý là đồ gốm ở đây (từ loại hình đến hoa văn) đều có quan hệ với nhau, đồ gốm của lớp văn hóa trên giống đồ gốm lớp văn hóa dưới, gốm lớp trên là phát triển của gốm lớp dưới.

Kết quả đợt khai quật lần thứ nhất này giúp chúng ta hiểu được bước đầu về di tích này, đồng thời đóng góp khối tư liệu quan trọng để nghiên cứu về thời đại kim khí.

Đợt II:

Do ông Lưu Trần Tiêu và ông Phạm Văn Kỉnh – cán bộ Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (nay là Bảo tàng Lịch sử Quốc gia) tiến hành, khai quật từ cuối tháng 4 tới tháng 6 năm 1967. Khai quật đợt này cho thấy:

Trong tầng văn hóa "rất dày" phát hiện nhiều hiện vật và các dấu tích hoạt động khác của con người.

Đặc biệt là lần đầu thấy dấu vết lò đúc đồng, bên cạnh là 3 khuôn đúc rìu còn khá nguyên vẹn.

Hiện vật rất phong phú. Đồ đá có rìu, bôn, qua, dao, hạt chuỗi và vòng.

Đồ xương có mũi nhọn, dao. Đồ đồng có đục, dùi, mũi tên. Đồ gốm có dọi xe chỉ và nhiều mảnh đồ gốm các loại.

Đợt khai quật lần hai này phát hiện thêm một số di tích, di vật mới như:

Vết tích lò nấu đồng, qua đá, dao đá..

Đợt III:

12-1968 đến 5-1969, Viện Khảo cổ học trở lại khai quật di tích Đồng Đậu với mục đích làm rõ hơn các vấn đề khoa học được nêu trong đợt khai quật lần trước về phân bố:

Các lớp đất, các tầng văn hóa, về phát triển các di vật cũng như mối quan hệ từ giai đoạn Văn hóa Phùng Nguyên đến giai đoạn Văn hóa Gò Mun.

Đây là cuộc khai quật có quy mô lớn nhất. Quá trình khai quật có nhiều:

Cán bộ văn hóa, khoa học, giáo dục, hoạt động chính trị đến hiện trường tham quan, nghiên cứu. Đặc biệt là Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng đến tham quan.

Đợt khai quật này, phát hiện rất nhiều di tích như nền đất sét vàng, bếp, hố đào và lần đầu tiên phát hiện mộ táng tại di tích Đồng Đậu.

Mộ chôn trong khu vực cư trú, sát bề mặt sinh thổ. Di vật phát hiện được không chỉ nhiều về số lượng mà còn rất phong phú, đa dạng về chất liệu và loại hình.

Qua những lớp đất từ giai đoạn sớm đến giai đoạn muộn, qua các di tích và di vật, các nhà nghiên cứu khảo cổ xác định rõ phát triển liên tục của 3 tổ hợp văn hóa, khởi đầu từ Phùng Nguyên qua Đồng Đậu đến Gò Mun.

Nhờ những phát hiện này chúng ta có thêm những căn cứ chắc chắn chứng minh cho nền văn hóa dân tộc ta là nền văn minh có nguồn gốc từ lâu đời và mang tính bản địa.

Đợt IV:

Từ tháng 3 đến 5-1984, ban kim khí thuộc Viện Khảo cổ học và ông Nguyễn Anh Tuấn – cán bộ Bảo tàng Phú Thọ đã khai quật.

Với mục đích để thu thập thêm tư liệu nhằm làm sáng tỏ những mặt cơ bản của nền văn minh Việt cổ thời dựng nước.

Kết quả khai quật cho thấy định cư của cư dân Đồng Đậu là liên tục và khá lâu dài. Tầng văn hóa phát hiện nhiều di tích hố cột, nền nhà, hố đào, bếp lò, lò đúc đồng và phát hiện 2 mộ, 1 mộ thuộc giai đoạn Gò Mun, 1 mộ thuộc giai đoạn Đông Sơn.

Mộ thuộc giai đoạn Gò Mun chôn trên nền đất sét vàng nện khá chặt, cẩn thận.

Đặc biệt là khu chế tạo đồ đồng riêng với khu sinh hoạt, bếp lửa. Di vật trong tầng văn hóa cũng khá phong phú.

Ngoài ra tìm thấy một số vết tích nghề luyện kim ở lớp Văn hóa Phùng Nguyên.

Qua những tư liệu thu thập, qua đợt khai quật này và các đợt khai quật trước đó chứng minh thuyết phục là nghề luyện kim thực sự mang tính bản địa.

Ngoài ra còn tìm thấy chứng tích xác thực nghề nông nghiệp trồng lúa, chăn nuôi và nghề làm vườn với những hạt thóc cháy, xương động vật và hạt các loại cây ăn quả.

Đợt V:

3-1987, bộ môn khảo cổ học thuộc Khoa Lịch sử Trường Đại học Tổng hợp (nay trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn) phối hợp Sở Văn hóa Thông tin, Bảo tàng tỉnh Vĩnh Phúc khai quật.

Đợt khai quật này làm rõ hơn diễn biến tầng Văn hóa Đồng Đậu.

Kết quả phân tích tài liệu gốm của đợt khai quật này cho thấy 2 lớp trung gian chuyển tiếp từ Văn hóa Phùng Nguyên sang Văn hóa Đồng Đậu và từ Văn hóa Đồng Đậu sang Văn hóa Gò Mun, cung cấp thêm bằng chứng cho thấy nghề đúc đồng xuất hiện từ lớp văn hóa sớm nhất.

Đợt VI:

12-11 đến 30-12-1999. Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (nay Bảo tàng Lịch sử Quốc gia) phối hợp Sở Văn hóa Thông tin Thể thao và Bảo tàng tỉnh Vĩnh Phúc khai quật.

Tìm hiểu sâu hơn về di tích Văn hóa Đồng Đậu nhằm hoàn thiện hồ sơ tiến tới đề nghị Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng Quốc gia cho di tích Đồng Đậu và bổ sung thêm sưu tập hiện vật cho công tác trưng bày của Bảo tàng.

Kết quả khai quật và thám sát cho thấy kết cấu địa tầng các hố ở Gò Đồng Đậu khá giống nhau về quá trình hình thành và nội dung văn hóa.

Đặc biệt trong lớp văn hóa sát lớp sinh thổ phát hiện 2 mộ táng, trong đó 1 mộ di cốt còn khá nguyên vẹn. Di vật thu được ở đây rất phong phú.

Đồ đá có rìu, bôn, đục, dao, bàn đập, bàn mài, mảnh khuôn đúc, mũi tên, hòn kê, vòng, khuyên tai, hạt chuỗi, mảnh tước, lỗi vòng.

Đồ đồng có 6 đồng tiền niên hiệu "Khai Nguyên Thông Bảo" phát hiện trong hố thám sát, ngoài ra cón có mũi dùi, mũi tên, lao, lưới câu, chuôi..

Đồ xương có mũi tên, lao, mũi nhọn, mảnh vòng, bùa, vật sừng hình chữ Y.

Đồ gốm có nồi, bát, bình, dọi xe chỉ, bàn dập hoa văn, bi gốm, tượng động vật, lõi khuôn, chạc gốm và các mảnh gốm vỡ.

Dấu tích động thực vật phát hiện trong đợt khai quật này rất đa dạng về chủng loại.

Có thể nói kết quả khai quật lần 6 này giúp hiểu toàn diện hơn về di tích khảo cổ học Đồng Đậu.

Diễn biến địa tầng với các lớp văn hóa sớm muộn kế tiếp nhau chứa đựng các dấu tích của người xưa cùng với các loại hình hiện vật càng khẳng định:

Di tích Đồng Đậu là di tích tiền Đông Sơn rất quan trọng, nơi cư trú lâu dài và liên tục của người Phùng Nguyên – Đồng Đậu – Gò Mun.

Đặc biệt, việc phát hiện, nghiên cứu những mộ táng, các dấu tích động thực vật, cũng như việc xác định niên đại làm rõ hơn các vấn đề:

Chủ nhân, môi trường sống và niên đại của di tích. Niên đại Văn hóa Đồng Đậu được các nhà nghiên cứu thống nhất khoảng 3500 – 3000 năm cách ngày nay.

Các hiện vật gốm phát hiện tại di tích khảo cổ học Đồng Đậu năm 1999.

Di cốt người thuộc lớp Văn hóa Phùng Nguyên phát hiện tại di tích khảo cổ học Đồng Đậu năm 1999, lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh Vĩnh Phúc.

Di tích Đồng Đậu phát hiện và nghiên cứu cho thấy tuy diện tích khai quật còn nhỏ so quy mô diện tích.

Nhưng nguồn tư liệu thu thập từ các đợt khai quật, thám sát rất đồ sộ và phong phú.

Nguồn tư liệu giúp từng bước phác họa bức tranh đa diện, sinh động về một làng cổ thời Hùng Vương.

Đặc biệt nhờ khối tư liệu thu thập được ở di tích Đồng Đậu, các nhà khoa học phục dựng chân thực, khách quan, khoa học con đường phát triển của các nền Văn hóa tiền Đông Sơn ở lưu vực sông Hồng.

Lê Thị Huệ (tổng hợp).

Nguồn:

- Hoàng Xuân Chinh, Bùi Hữu Tiến. Đồng Đậu thời tiền sơ sử. Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch, Vĩnh Phúc năm 2010.

- Ngô Thế Phong, Nguyễn Mạnh Thắng. Thông báo khoa học 2002, Kết quả khai quật di chỉ khảo cổ học Đồng Đậu lần thứ 6 (Yên Lạc –Vĩnh Phúc).

Nguồn:

Web baotanglichsu

Hoa văn gốm Văn hóa Đồng Đậu

Đồng Đậu, gò đất nổi cao như bao gò đất khắp đồng quê khác, sau mấy mùa khai quật khảo cổ trở nên nổi tiếng, thân quen với những người muốn tìm hiểu lịch sử dân tộc thời dựng nước.

Đó là di tích Đồng Đậu, tầng Văn hóa Đồng Đậu, giai đoạn Văn hóa Đồng Đậu.

Điều này cho thấy tầm quan trọng của di tích Đồng Đậu, Văn hóa Đồng Đậu đối với lịch sử dân tộc Việt Nam.

Với tầm quan trọng đó, những năm qua, ngoài những bản báo cáo các đợt khai quật, có không ít các cuộc hội thảo và công trình nghiên cứu liên quan đến Đồng Đậu như cuốn:

Di chỉ khảo cổ học Đồng Đậu xuất bản năm 1983, cuốn Đồng Đậu di tích tiêu biểu thời tiền sơ sử xuất bản năm 2010 và cuốn Kỷ yếu hội thảo khoa học Văn hóa Đồng Đậu 40 năm phát hiện và nghiên cứu xuất bản năm 2003.

Đó là chưa kể đến nhiều bản luận văn Cử nhân, Thạc sĩ lấy đề tài từ di tích Đồng Đậu.

Những công trình này cung cấp tư liệu và góp phần nghiên cứu toàn diện về di tích Đồng Đậu và Văn hóa Đồng Đậu.

Công trình Hoa văn gốm Văn hóa Đồng Đậu, tác giả Bùi Hữu Tiến tập trung khảo cứu chuyên sâu về hoa văn trên đồ gốm Văn hóa Đồng Đậu.

Về không gian thì mở rộng ra toàn bộ Văn hóa Đồng Đậu, nhưng đối tượng nghiên cứu chỉ hạn chế trong hoa văn trang trí trên đồ gốm.

Tác giả tập trung vào đồ gốm vì đồ gốm dễ vỡ, thời gian sử dụng không dài, việc vận chuyển đi xa khó khăn nên chúng phản ánh rất rõ tính chất văn hóa từng quần thể cư dân nhỏ trong những thời gian tương đối ngắn.

Mà trong đồ gốm, kiểu dáng và hoa văn trang trí vừa thể hiện khiếu thẩm mỹ của cá nhân thợ gốm vừa thể hiện bộ mặt văn hóa tinh thần cả cộng đồng cư dân bấy giờ.

Thiết nghĩ, tác giả khéo chọn một đối tượng nghiên cứu nhỏ, nhưng những vấn đề khoa học toát ra lại thật lớn và nhiều ý nghĩa.

Công trình này, tác giả đề cấp đến nhiều vấn đề về hoa văn trang trí trên gốm Văn hóa Đồng Đậu, từ kỹ thuật sáng tạo đến phân loại các đồ án hoa văn cùng ý nghĩa của chúng, từ giá trị kinh tế đến ý thức tôn giáo được phản ánh qua các loại hoa văn.

Tác giả còn so sánh hoa văn gốm Văn hóa Đồng Đậu với hoa văn gốm loại hình Thạch Lạc, loại hình:

Gò Mả Đống - Gò Con Lợn, Văn hóa Hoa Lộc, Văn hóa Hạ Long, Văn hóa Phùng Nguyên, Văn hóa Gò Mun.

Nêu lên những cái giống và khác nhau giữa hoa văn các loại gốm đó cùng mối quan hệ giữa chúng. Những vấn đề nêu ra cũng được tác giả luận thuật khá cẩn thận, tỉ mỉ.

Tác giả Bùi Hữu Tiến cộng tác với tôi trong công trình Đồng Đậu di tích tiêu biểu thời tiền sơ sử đã nhiều năm:

Tâm huyết, say mê, làm việc nghiêm túc với tư liệu không chỉ di tích Đồng Đậu mà cả Văn hóa Đồng Đậu, nên tôi tin những tư liệu, những ý kiến khoa học được nêu ra là có căn cứ, có sức thuyết phục.

Với những lý do trên, tôi nghĩ đây là công trình rất bổ ích, lý thú cho những ai muốn tìm hiểu lịch sử thời dựng nước đầu tiên của dân tộc:

Thời Văn Lang của các Vua Hùng và Âu Lạc của An Dương Vương.

Nhân dịp kỷ niệm 50 năm Văn hóa Đồng Đậu (1962-2012), tôi xin hân hạnh giới thiệu công trình Hoa văn gốm Văn hóa Đồng Đậu với đông đảo bạn đọc xa gần.

TS. Hoàng Xuân Chinh (nguyên Chủ tịch Hội Khảo cổ học Việt Nam)

Nguồn:

Web ussh.vnu. Edu

Văn hóa tiền Đông sơn: Văn hóa Đồng Đậu

Văn hóa Đồng Đậu phát hiện năm 1962 tại Đồng Đậu (Minh Tân, Yên Lạc, Vĩnh Phúc).

Địa bàn phân bố của nền văn hóa này về cơ bản trùng hợp với địa bàn cư trú của cư dân Phùng Nguyên.

Người Đồng Đậu sống ngoài trời trên các đồi gò trung du Bắc Bộ thuộc các tỉnh:

Phú Thọ, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Bắc Ninh với nền kinh tế khá ổn định và phát triển dựa nông nghiệp trồng lúa và các cây hoa màu.

Vết tích thóc gạo cháy, xương thú và những công cụ săn bắn như:

Giáo, lao, mũi tên, lưỡi câu bằng xương, đá và bằng đồng phát hiện khá nhiều trong những di chỉ thuộc nền văn hóa này chứng tỏ ngoài sản xuất nông nghiệp cư dân thời này vẫn duy trì hình thái kinh tế săn bắn và hái lượm.

Đặc biệt, thời này kỹ thuật luyện kim và đúc đồng khá phát triển.

Nhiều dấu tích nghề đúc đồng đã phát hiện ở hầu hết các di chỉ như xỉ đồng, mảnh khuôn đúc rìu, mũi tên, trống đồng, phế phẩm và những sản phẩm công cụ bằng đồng hoàn chỉnh như lưỡi câu, mũi tên, mũi nhọn, lao, giáo..

Một số lượng lớn đồ trang sức bằng đá và những băng hoa văn trang trí độc đáo trên đồ gốm chứng tỏ đời sống tinh thần người Đồng Đậu hết sức phong phú với trình độ thẩm mỹ cao.

Di chỉ khảo cổ học Đồng Đậu phân bố trên quả gò thấp thuộc thôn Đông Hai, thị trấn Yên Lạc, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc.

Di chỉ rộng chừng 85.000m2, phát hiện 2-1962 và đã qua 6 lần khai quật 1965-1966, 1967, 1968-1969, 1984, 1987 và 1999. Diện tích 6 lần khai quật là 758m2.

Như vậy phần lớn Gò Đồng Đậu hiện nay còn khá nguyên vẹn chưa được khai quật.

Đây là di chỉ khảo cổ học được bảo vệ tốt nhất ở miền Bắc nước ta từ trước đến ngày nay.

Dù diện tích khai quật còn ít so toàn bộ diện tích gò nhưng với số lượng và loại hình hiện vật phong phú của 6 lần khai quật đủ để khẳng định gò Đồng Đậu là di chỉ khảo cổ học quan trọng bậc nhất về thời đại kim khí ở nước ta.

Di chỉ này phân bố trên tầng văn hóa dày (có chỗ hơn 4m) bao gồm 4 lớp:

Lớp dưới cùng thuộc Văn hóa Phùng Nguyên, lớp giữa thuộc Văn hóa Đồng Đậu và lớp trên thuộc Văn hóa Gò Mun. Đồng thời trên cùng tìm thấy nhiều loại hình công cụ Văn hóa Đông Sơn.

Nên có thể nói di chỉ Gò Đồng Đậu là tiêu biểu diễn trình phát triển 4 giai đoạn văn hóa kế tiếp nhau liên tục thời các Vua Hùng.

Khai quật Đồng Đậu thu nhiều loại hình di vật rất phong phú với hàng vạn mảnh gốm thuộc các giai đoạn văn hóa khác nhau.

Nhiều công cụ sản xuất, vũ khí, đồ trang sức bằng đá, xương, sừng và bằng đồng; nhiều xương răng cá và thú vật; nhiều tượng tròn hình động vật:

Trâu, bò, chim, gà nặn bằng đất nung và nhiều hạt lúa gạo cháy từ lớp Văn hóa Phùng Nguyên - chứng tỏ nghề trồng lúa nước và chăn nuôi ở đây có rất sớm từ thời đầu dựng nước của các Vua Hùng. Đặc biệt lần khai quật thứ 6 (1999) cho thấy ở đây vừa là nơi cu trú, vừa là khu mộ táng.

Một hố thám sát nhỏ, ở lớp Văn hóa Phùng Nguyên phát hiện huyệt mộ, trong có bộ xương người còn bảo tồn tương đối tốt.

Tử thi táng ở tư thế nằm ngửa, mặt nghiêng sang trái, tay phải đeo vòng đá to (vòng đá Phùng Nguyên) khá điển hình.

Đây là bộ di cốt người thời Văn hóa Phùng Nguyên còn khá nguyên vẹn tìm thấy đầu tiên ở nước ta, giúp các nhà khảo cổ học - nhân chủng có điều kiện nghiên cứu về nhân chủng, tập quán tín ngưỡng, nghề nghiệp.. của dân cư giai đoạn này.

Di vật:

Đồ đá vẫn chiếm tỉ lệ đáng kể. Có thể thấy suy thoái về chất liệu cũng như kỹ thuật chế tác. Kỹ thuật luyện kim đúc và chế tác đồ đồng có phát triển đột biến.

Loại hình phong phú như rìu, giáo, lao, mũi tên các loại hình lá ba cạnh có chuôi hoặc không có chuôi, dũa, đục, dao khắc, lưỡi câu, búa đồng (hay chuôi dao).

Đồ đồng chế tác tại chỗ. Hầu hết ở các khu di tích Văn hóa Đồng Đậu đều tìm thấy dấu vết nghề đúc, luyện đồng như khuôn đúc, nồi nấu đồng.. những mảnh khuôn này thuộc loại khuôn hai mảnh bằng đá hoặc bằng đất nung mà vật đúc hết sức đa dạng.

Tại Thành Dền bên cạnh khuôn đúc còn tìm thấy 20 mảnh nồi nấu đồng, dấu tích 4 lò nung nấu đồng và hàng trăm xỉ, gỉ đồng, Thành Dền tới nay được coi là trung tâm đúc đồng lớn của Văn hóa Đồng Đậu. Quy mô nghề luyện đồng ở Đồng Đậu có lẽ không lớn - theo kiểu hộ gia đình trong một làng.

Đợt khai quật Đồng Đậu lần 4 tìm thấy vết tích lò nấu đồng nhỏ với xỉ, mảnh nồi, khuôn đúc bằng đất nung. Có lẽ chưa có thợ "chuyên", và nghề đúc đồng cũng chưa được chuyên hóa.

Cư dân Đồng Đậu làm nông nghiệp. Họ làm ruộng nước và ruộng khô quanh nơi cư trú.

Điều kiện khí hậu và môi trường rất thuận lợi cho phát triển nền nông nghiệp đa canh, nguồn gốc từ Văn hóa Phùng Nguyên.

Nguồn

Web diepdoan violet

Đại khái, cách nay khoảng ba mươi mấy thế kỷ, người Phùng Nguyên bỗng thôi ra sức đẽo đục cưa mài đá mà bắt đầu bỏ rất nhiều thì giờ và công lao động vào việc tìm đào quặng, nấu, rót..

Loay hoay đúc đồng được ít lâu, họ hóa thành người.. Đồng Đậu!

Tiếc môi trường tự nhiên khắc nghiệt với xương quá, nên đến thời Đồng Đậu vẫn là tình trạng "đồ" còn la liệt đây mà chủ của đồ thì chỉ một cái sọ còn "nghiên cứu được" cũng không sao tìm thấy..

(Thu Tứ)

Nguyễn Duy Hinh, "Văn hóa Đồng Đậu"

Văn hóa Đồng Đậu lấy tên di chỉ Đồng Đậu thuộc xã Minh Tân huyện Yên Lạc tỉnh Vĩnh Phúc phát hiện năm 1962. Đã phát hiện 37 địa điểm.

Các di tích Đồng Đậu phân bố về cơ bản trùng hợp địa bàn của Văn hóa Phùng Nguyên, nhưng mở rộng về phía đồng bằng.

Văn hóa Đồng Đậu có địa bàn trải rộng từ đồi núi trung du tới miền cao đồng bằng Bắc Bộ, gồm các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Tây, Bắc Giang, Bắc Ninh và Hà Nội.

Văn hóa Đồng Đậu phát triển từ Văn hóa Phùng Nguyên lên. Đồ đá, đồ gốm không tinh xảo bằng Văn hóa Phùng Nguyên.

Đặc trưng rất cơ bản Văn hóa Đồng Đậu là kỹ thuật luyện kim và chế tác đồ đồng thau bắt đầu phát triển mạnh.

Phát hiện những đồ đồng như rìu, giáo, lao, mũi tên, dũa, đục, dao khắc, mũi nhọn, lưỡi câu, búa, dây đồng, khuôn đúc bằng đá và bằng gốm, nồi rót đồng, lò nấu đồng. Rìu đồng có 3 loại:

Rìu hình chữ nhật, rìu xòe cân, rìu lưỡi hơi lệch.

"Ở hầu hết các khu di tích thuộc Văn hóa Đồng Đậu như Đồng Đậu (lớp II), Đồng Dền, Đông Lâm, Đồi Đà (lớp dưới).. đều thấy khuôn đúc và nồi rót đồng.

Những mảnh khuôn này thuộc loại khuôn hai mang bằng đá hoặc bằng đất nung, dùng đúc rìu, mũi tên, mũi giáo, mũi nhọn hay dây đồng để chế tạo kim khâu, lưỡi câu.

Cá biệt có khuôn dùng đúc 2 mũi tên cánh én như ở Đồng Đậu hay vài khuôn đúc 2 hay 3 mũi lao hoặc đúc thìa như ở Thành Dền.

Tại di chỉ Thành Dền, rất tiêu biểu cho Văn hóa Đồng Đậu ở giai đoạn phát triển cao, chỉ trong 2 mùa khai quật:

1983, 1984, phát hiện tới 46 mảnh khuôn đúc đủ loại, bằng đá là chính và bằng gốm, 20 mảnh nồi nấu đồng, 4 lò nấu đồng và 146 nơi có vết tích xỉ đồng.

Dấu vết hoạt động đúc đồng ở Thành Dền phong phú hơn ở bất cứ khu di tích nào thuộc Văn hóa Đồng Đậu mà ta đã biết." (tr. 109)

Văn hóa Đồng Đậu được 9 mẫu C14 giúp định niên đại.

"Dựa kết quả nghiên cứu diễn biến về mặt địa tầng cùng những di vật trong các di tích thuộc Văn hóa Đồng Đậu với hỗ trợ của phân tích C14.

Chúng tôi cho rằng Văn hóa Đồng Đậu bắt đầu quãng thế kỷ XV-XIV TCN (.) và kết thúc vào thế kỷ X-IX TCN" (tr. 122)

Di cốt người của Văn hóa Đồng Đậu không nghiên cứu được.

Người Đồng Đậu làm ruộng nước và ruộng khô, cư trú thành làng. Tuy vậy vẫn săn bắt và hái lượm để bổ sung thực phẩm.

Nổi bật là họ luyện đồng và chế tác đồ đồng rất tiến bộ, tuy nhiên những vật đúc đều là vật nhỏ như rìu, mũi tên, chưa có những đồ đồng lớn.

(Trích Nguyễn Duy Hinh, Văn minh Lạc Việt, NXB. VHTT, VN, 2004. Những số trang trong ngoặc đơn dẫn sách Khảo Cổ học Việt Nam – Thời đại kim khí Việt Nam. Nhan đề phần trích tạm đặt)

Nguồn:

Web gocnhin

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
70825559_1226281567572093_315752517994545152_n.jpg


Văn hóa Gò Mun ước chừng từ 1.000 - 700 TCN, thuộc cuối thời kỳ đồ đồng. Nền văn hóa này đặt tên theo địa điểm 1961 các nhà khảo cổ học khai quật nhiều di chỉ của văn hóa này (gò Mun, xã Tứ Xã, huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ).

Văn hóa Gò Mun nhìn nhận như nền văn hóa tiền Văn hóa Đông Sơn.

Thời này, người Việt cổ có những chuyển biến rõ rệt về xã hội phức tạp và giàu có, thúc đẩy ra đời nhà nước sơ khai của người Việt.

Khám phá

Rời Đồng Đậu và các di chỉ đồng dạng, chúng ta hãy đi thăm Gò Mun cùng với hơn 10 địa điểm khảo cổ khác thuộc giai đoạn:

Văn hóa Gò Mun phân bố trên địa bàn về cơ bản phù hợp địa bàn các địa điểm thuộc những giai đoạn trước.

Đó là Bãi Dưới, Vinh Quang, Đình Tràng, Đồng Lâm, Nội Gầm.. thuộc các tỉnh Vĩnh Phúc, Hà Tây, Bắc Ninh, Hà Nội.

Người Gò Mun thích ở trên những gò đồi cao nổi lên giữa vùng đồng bằng và trung du.

Họ bắt đầu thích tập trung ở những vùng chân gò, những vùng gò thấp ven các sông Hồng, Cầu, Đáy, Cà Lồ.. Cuộc sống định cư lâu dài của họ để lại những tầng văn hóa khá dày.

Đến giai đoạn Gò Mun, công cụ và vũ khí đồng thau chiếm tỷ lệ trên 50% tổng số công cụ và vũ khí, với các loại mũi tên, mũi nhọn, lưỡi câu, dao, giáo, dây, kim, dũa, dùi, đục.

Loại rìu lưỡi xéo xuất hiện dưới dạng hoàn chỉnh với mũi rìu hơi chúc và lưỡi hơi cong. Đồ đồng thau Gò Mun sử dụng vào sản xuất nông nghiệp:

Những lưỡi hái phát hiện; những rìu cũng sử dụng như những nông cụ.

Đồng thau dùng làm đồ trang sức: Vòng tay được uốn bằng những dây đồng.

Đồ gốm Gò Mun có độ dày rất đều, độ nung cao (khoảng 900°C) ; có mảnh nung gần thành sành. Gốm có màu xám xanh, xám mốc.

Thợ gốm Gò Mun phát triển lối trang trí hoa văn bên trong miệng hiện vật có từ giai đoạn Đồng Đậu.

Các miệng gốm Gò Mun thường bẻ loe ra, nằm ngang, rộng bản, góc tạo thành giữa cổ và thân thường là góc nhọn.

Những loại hình thường gặp là các loại nồi, các loại vò, bình cổ cao, chậu, âu, bát đĩa, cốc.

Chân đế có xu hướng thấp dần, loại đáy bằng xuất hiện, hình dáng ổn định, thanh thoát. Ngoài ra còn có các loại bi, dọi xe chỉ, chì lưới.

Loại hoa văn độc đáo và phổ biến của gốm Đồng Đậu là hoa văn nan chiếu, và hoa văn khắc vạch:

Những đường nét này phối trí hài hòa với những vòng tròn nhỏ tạo những đồ án sinh động kết thành dải quây vòng phủ kín miệng gốm, làm thành đặc trưng chủ yếu hoa văn gốm Gò Mun.

Kỹ thuật chế tác đá đang trên bước đường suy thoái. Đó là do phong phú và phát triển nghề luyện kim đồng thau.

Những cái hái bằng đồng thau phát hiện ở nhiều nơi nói lên phát triển và hoàn thiện của nông nghiệp trồng lúa. Hợp kim đồng thau để đúc hái có 89% đồng và 0, 1% thiếc với những vết chì.

Trong những công cụ đồng thau dùng để thu hoạch hoa màu của người xưa ở thiên niên kỷ thứ 2 TCN, loại hái Gò Mun lưỡi cong, có gờ ở giữa, họng tra cán hình chóp cụt là có hình dáng hoàn thiện và tiến bộ hơn cả.

Lần đầu tiên những mũi tên đồng thau xuất hiện, với loại hình đa dạng và số lượng nhiều.

Đòi hỏi những tiến bộ về kỹ thuật và phải có khối lượng nguyên liệu lớn để đáp ứng đủ nhu cầu, vì mũi tên một lần bắn đi là mất "một đi không trở lại."

Truyền thống giỏi cung nỏ của người Việt cổ khiến quân xâm lược ở đầu Công Nguyên phải khiếp sợ và khâm phục, vốn có một gốc rễ lâu bền từ giai đoạn Gò Mun này.

Phát triển nghề thủ công luyện kim có ảnh hưởng lớn đến phát triển nông nghiệp, thúc đẩy hoàn thiện các nghề thủ công khác - trừ nghề làm đồ đá.

Những mũi giáo gỗ phát hiện ở giai đoạn Gò Mun cho biết nghề làm đồ gỗ - một nghề cũng có truyền thống xa xưa như nghề làm đồ đá - vẫn tiếp tục tồn tại và cải tiến.

Người Gò Mun sống bằng nghề làm ruộng trồng lúa nước là chính, đồng thời họ cũng là những người chăn nuôi, săn bắn, đánh cá.

Đây là cung cách làm ăn tiến bộ, cách làm ăn của mọi dân cư ở những vùng trung tâm nông nghiệp của thế giới cổ đại.

Hiện vật khảo cổ cho thấy rõ:

Giai đoạn Gò Mun phát triển trực tiếp lên từ giai đoạn Đồng Đậu và có mối liên hệ chặt chẽ với các giai đoạn phát triển trước đó.

Đồng thời giai đoạn Gò Mun chứa những tiền đề vật chất cho phát triển giai đoạn cao hơn vào cuối thời đồng thau và đầu thời đồ sắt ở nước ta:

Văn hóa Đông Sơn.

Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò Mun:

3 giai đoạn lớn của thời đại đồng thau trong đó cư dân nông nghiệp Việt cổ, người Phùng Nguyên, người Đồng Đậu, người Gò Mun ở vùng đồng bằng và trung du:

Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ từng bước chế ngự thiên nhiên, làm ruộng lúa, phát huy tính ưu việt nền kinh tế nông nghiệp.

Bước vào chế độ dòng cha, làm chủ vùng tam giác châu thổ sông Hồng, mở đường cho giai đoạn văn hóa rực rỡ, đỉnh cao thời đại dựng nước:

Giai đoạn Đông Sơn.

Trích từ: Hành trình về thời đại Hùng Vương dựng nước

Di vật

Phân bố trên cùng địa bàn với Văn hóa Phùng Nguyên và Văn hóa Đồng Đậu trước đó, trong các tỉnh:

Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Tây và Hà Nội, chủ nhân Văn hóa Gò Mun là cư dân nông nghiệp.

Công cụ và vũ khí bằng đồng khá đa dạng, gồm rìu, liềm, dao, giáo, lao, mũi tên..

Đồng cũng được dùng làm chuông, vòng tay, khuyên tai, trâm cài và tượng động vật. Đồ gốm có độ nung cao.

Phổ biến nhất là các loại bình, nồi có miệng loe gãy và trang trí hoa văn khắc vạch phía trong miệng.

Văn hóa Gò Mun phát triển lên từ Văn hóa Đồng Đậu và tồn tại trước Văn hóa Đông Sơn, khoảng thế kỷ XI đến thế kỷ VII TCN.

Nguồn

Web wikipedia

Văn hóa Gò Mun!

Văn hóa Gò Mun lấy tên địa danh đầu tiên phát hiện được là Gò Mun - xã Tứ Xã - huyện Lâm Thao - tỉnh Phú Thọ.

Văn hóa Gò Mun cách ngày nay 2500-3000 năm, nền văn hóa hậu kỳ thời đồng thau và tiền Đông Sơn (sơ kỳ đồ sắt).

Phân bố ở miền trung du và đồng bằng Bắc Bộ, trùng địa bàn phân bố của Văn hóa Đồng Đậu và Văn hóa Phùng Nguyên.

Đó là các địa điểm Bãi Dưới, Vinh Quang, Đình Tràng, Đồng Lâm, Nội Gầm.. thuộc các tỉnh Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Tây, Hà Nội.

Trên địa bàn Phú Thọ có 14 địa điểm di tích Văn hóa Gò Mun như các di chỉ:

Gò Mun, Gò Chiền, Gò Tro Trên, Gò Tro Dưới.. phân bố trong các huyện Lâm Thao, Phù Ninh, Đoan Hùng..

Sự thống nhất và tương đồng về các mặt như cảnh quan nơi cư trú, phạm vi địa tầng, các di tích và di vật.. đều phản ánh cộng đồng cư dân tồn tại thực sự trong không gian và thời gian ở lưu vực sông Hồng.

Điều đó trái với một số nhận định trước đây cho rằng Văn hóa Gò Mun chỉ như một "bản lề", một "khâu chuyển tiếp" hay một điểm "giao thời", "đệm" cho Văn hóa Phùng Nguyên – Đông Sơn.

Các hiện vật thu được tại di chỉ khảo cổ Gò Mun:

Tại di chỉ khảo cổ Gò Mun tiêu biểu nhất cho Văn hóa Gò Mun, qua 4 lần khai quật:

1961, 1965, 1969, 1971 các nhà khảo cổ học thu được hàng vạn hiện vật bao gồm:

Đồ đá, đồ đồng, đồ xương, đồ gốm với đủ loại các loại hình khác nhau.

Hiện vật đá:

Qua 4 lần khai quật thu được 231 tiêu bản trong đó đáng chú ý là các loại hiện vật như rìu, đục, bàn mài, chì lưới, vòng tay, khuyên tai, khánh..

Hiện vật đồng với tổng số 340 hiện vật là các loại hình như rìu, liềm, đục, mũi tên, mũi lao, giáo, lưỡi câu.. ; hiện vật gốm thời này có dọi xe sợi, nồi, vò, mảnh gốm, chân chạc..

Hiện vật Văn hóa Gò Mun khá đa dạng về loại hình và chất liệu:

Hiện vật công cụ sản xuất, đồ dùng sinh hoạt, vũ khí chiến đấu, tác phẩm nghệ thuật làm từ chất liệu đồng, gốm, đá.. Trong số đó các công cụ và vũ khí bằng đồng chiếm số lượng chủ yếu.

Giai đoạn này, các nhà nghiên cứu khảo cổ học tìm thấy các loại mũi tên, mũi giáo, rìu lưỡi xéo, kim, dùi đục, lưỡi câu..

Qua đó cho biết người Gò Mun không chỉ có các công cụ phục vụ sản xuất mà còn có công cụ phục vụ chiến đấu, săn bắn.

Giai đoạn Gò Mun lần đầu xuất hiện mũi tên bằng đồng thau, đa dạng về loại hình và giàu có về số lượng.

Thông quá đó cho thấy khéo léo cư dân Việt cổ trong kỹ thuật chế tác kim khí và là tiền đề cho truyền thống nghệ thuật quân sự (sử dụng cung nỏ trong chiến đấu) mà các giai đoạn sau tiếp thu trong công cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm.

Nghề luyện kim đồng thau phát triển trong Văn hóa Gò Mun:

Giai đoạn này còn ghi nhận phát triển nghề luyện kim đồng thau so các giai đoạn trước.

Đồ đồng trong Văn hóa Gò Mun khá phong phú, gồm nhiều loại hình khác nhau.

Nguyên liệu chủ yếu là đồng và thiếc trong thành phần hợp kim. Ngoài ra còn có một số tạp chất khác.

Do kỹ thuật luyện đồng của người Gò Mun chưa cao, chưa phân huỷ được những chất có tác dụng ăn mòn và ôxy hóa nên nhiều hiện vật bị hỏng, gỉ và thường mềm hơn so với hiện vật đồng của Văn hóa Đông Sơn.

Cách chế tác đồ đồng chủ yếu là đúc bằng khuôn hai mang đối với hiện vật có kích cỡ lớn, cấu tạo phức tạp, nhiều chi tiết như:

Rìu, giáo, lao, mũi tên, tượng, nhạc.. và sử dụng kỹ thuật gia công nguội, giũa đối với hiện vật nhỏ, đơn giản như: Lưỡi câu, lao mũi nhọn nhỏ, kéo thành sợi.

Những sản phẩm bằng đồng của người Gò Mun do chính bàn tay, khối óc họ tạo ra.

Điều đó minh chứng bằng sự có mặt những khuôn đúc bằng đá, bằng đất nung, nồi nấu, bát rót và lò luyện tìm thấy trong tầng văn hóa với nơi họ cư trú mà họ để lại.

Sự đa dạng về loại hình đồ đồng là yếu tố quan trọng phân biệt Văn hóa Gò Mun và Văn hóa Đồng Đậu:

Giai đoạn Văn hóa Gò Mun loại hình công cụ đồng bắt đầu đa dạng hóa. Nhiều loại hình mới xuất hiện và chức năng xác định rõ ràng.

Chính việc ổn định kiểu dáng dẫn đến sử dụng chuyên hóa chức năng công cụ, mang lại hiệu quả cao trong sản xuất và chiến đấu.

Dù sao người Gò Mun vẫn chưa thể đạt trình độ điêu luyện về kỹ thuật, đa dạng phong phú về loại hình và nhất là nghệ thuật trang trí, như trên đồ đồng Văn hóa Đông Sơn.

Hầu hết những công cụ và vũ khí bằng đồng của người Gò Mun:

Rìu, liềm, giáo, mũi tên, lao, búa.. đều có họng, chuôi, hoặc khâu để lắp cán.

Đây là những công cụ bản nhất đóng vai trò quan trọng trong đời sống sản xuất, săn bắt và bảo vệ cuộc sống của cư dân Gò Mun.

Thông qua những hiện vật như lưỡi hái bằng đồng thau phát hiện ở nhiều nơi nói lên phát triển và hoàn thiện nghề trồng lúa nước.

Lưỡi hái cong, có gỗ tra cán cho thấy bước tiến bộ hơn trong nghệ thuật chế tác so với các giai đoạn trước.

Cư dân Gò Mun không chỉ dùng đồng để chế tác công cụ sản xuất, vũ khí mà người Gò Mun còn sáng tạo đồ trang sức làm bằng đồng thau như vòng tay làm từ dây đồng.

Bên cạnh hiện vật đồng thau, giai đoạn Văn hóa Gò Mun cũng được ghi nhận phát triển mang tính tiếp nối của các hiện vật đồ gốm.

Hoa văn trang trí trên đồ gốm trong văn hóa Gò Mun:

Hoa văn trang trí trên đồ gốm Gò Mun rất phong phú và đa dạng. Người Gò Mun dùng đồ gốm để thể hiện tư duy thẩm mỹ của mình.

Vị trí trang trí hoa văn trên đồ gốm dùng để đựng hoặc đun nấu của người Gò Mun chủ yếu ở mặt miệng, trong lòng, ngoài cổ, vai, thân hoặc ngoài chân đế.

Hoa văn gốm Gò Mun chủ yếu văn thừng, văn nan chiếu, in ô vuông, chải được tạo nên do những bàn dập, bàn chải trong quá trình tạo xương gốm.

Ngoài ra còn có hoa văn khắc vạch, in ấn, đắp nổi được trang trí sau khi kết thúc khâu tạo hình, cần cho đồ gốm có thẩm mỹ.

Cả hai loại hoa văn này được người Gò Mun kết hợp một cách hài hòa trên một số đồ gốm cơ bản.

Người thợ gốm Gò Mun phát triển lối trang trí hoa văn bên trong miệng hiện vật đó có từ giai đoạn Đồng Đậu. Miệng gốm bẻ loe ra nằm ngang, rộng bản.

Nếu gốm Phùng Nguyên nung ở nhiệt độ thấp khoảng 6000C và có lẫn nhiều tạp chất hữu cơ nên có gốm thường nhẹ, dễ thấm nước và bở hơn thì đến giai đoạn này, gốm nung ở nhiệt độ cao, tỉ lệ ôxit silic cao và được nung ở nhiệt độ từ 8000C đến 9000C vì thế gốm có độ cứng hơn.

Có những mảnh gốm như mảnh sành, ít thấm nước và màu gốm cũng thay đổi cơ bản, màu gốm chuyển sang màu xám tro, xám mốc chứ không tươi đỏ như thời trước.

Loại hình gốm trong Văn hóa Gò Mun rất phong phú:

Sự đa dạng về loại hình đồ gốm bao gồm cả đồ dùng cho sản xuất và đồ đựng:

Nồi, vò, âu, bát, bi, dọi xe chỉ, chì lưới cho thấy bước phát triển lớn trong đời sống sinh hoạt của cư dân Gò Mun.

Qua đó phản ánh đời sống vật chất và tinh thần của người Gò Mun giúp ta khắc họa bức tranh toàn cảnh về tụ cư thời đó.

Đó là quần cư trong các xóm làng của các gia đình người Việt cổ, tiêu biểu như các làng Tứ Xã, Thanh Đình.

Hình thành tổ chức sản xuất theo hộ gia đình là chính.. và sau này trải qua hàng ngàn năm hình thành văn hóa làng xã độc đáo ở Việt Nam.

Như vậy có thể thấy:

Giai đoạn này xã hội người Việt có những bước chuyển biến sâu sắc và rõ rệt.

Người Gò Mun sinh sống bằng nghề trồng lúa nước là chính, người dân sống chủ yếu bằng sản phẩm mình làm ra chứ không phải khai thác trong tự nhiên như trước kia nữa; bên cạnh đó còn chăn nuôi và săn bắt đánh cá.

Chính vì có bước tiến bộ trong kỹ năng canh tác cũng như tổ chức cuộc sống mà người Gò Mun ngày càng dư giả, góp phần thúc đẩy sự ra đời nhà nước sơ khai đầu tiên của người Việt.

Với các giá trị quan trọng về khoa học và lịch sử, năm 2008, di chỉ Gò Mun – xã Tứ xã- huyện Lâm Thao được xếp hạng Di tích Lịch sử Văn hóa Quốc gia.

Hiện Bảo tàng Hùng Vương đang lưu giữ và trưng bày một số hiện vật thuộc Văn hóa Gò Mun như đồ đồng, gốm, đá thuộc loại hình công cụ sản xuất, vũ khí như:

Rìu có vai, rìu tứ giác, rìu tứ diện, bàn mài được làm từ chất liệu đá; một số mũi lao, mũi giáo làm từ chất liệu đồng; chân chạc gốm..

Tuy số lượng hiện vật còn hạn chế so với các giai đoạn lịch sử khác nhưng qua đó giúp có cái nhìn cụ thể và sinh động hơn về một thời kỳ có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình dựng nước của dân tộc.

Đó là thời kỳ tạo cơ sở chủ yếu cho nền văn minh sông Hồng của người Việt cổ.

Nguồn:

Web covatvietnam

Người Phùng Nguyên chỉ mới bắt đầu "thí nghiệm" nấu và luyện đồng chứ coi như chưa đúc được cái gì cả.

Phùng Nguyên qua Đồng Đậu là chưa có đồ đồng qua có đồ đồng là phân biệt rõ ràng.

Từ Đồng Đậu qua Gò Mun là từ "ít" loại đồ đồng qua "nhiều" loại đồ đồng là phân biệt thiết tưởng không mấy rõ ràng.

Chắc một phần vì thế mà có những nhà nghiên cứu xem Đồng Đậu và Gò Mun như hai giai đoạn phát triển của cùng một văn hóa[1]

Đến Gò Mun vẫn chưa tìm thấy di cốt khảo sát được.

(Thu Tứ)

1. Xem "Văn hóa Đồng Đậu – Gò Mun" của Chử Văn Tần.

Nguyễn Duy Hinh, "Văn hóa Gò Mun"

Văn hóa Gò Mun là bước phát triển tiếp theo Văn hóa Đồng Đậu, đặt tên theo di tích Gò Mun xã Tứ Xã huyện Phong Châu tỉnh Phú Thọ, phát hiện năm 1961.

Văn hóa Gò Mun phân bố ở các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Tây và thành phố Hà Nội.

Đặc sắc nhất trong bộ hiện vật đá, xương, gốm, đồng phát hiện ở các di chỉ Gò Mun là những phát triển của đồ đồng. Tuy vẫn là hợp kim đồng thiếc song loại hình công cụ phong phú hơn.

Có rìu, giáo, lao, mũi tên, mũi nhọn, lưỡi câu, búa, dũa, liềm, tượng, lục lạc, vòng tay, trâm cài, nhẫn v. V.

Văn hóa Đồng Đậu có không quá 10 loại hình di vật bằng đồng thì đến Văn hóa Gò Mun có trên 20 loại công cụ, vũ khí, đồ dùng sinh hoạt khác nhau.

Liềm đồng là đồ đồng độc đáo lần đầu phát hiện được, chỉ có 2 chiếc.

Dao khắc, đục, vòng đeo tay, tượng người, nhẫn hình sống trâu, hoa tai, trâm bằng đồng cũng chỉ mới xuất hiện trong Văn hóa Gò Mun (tr. 138-139).

Tượng đúc hình người ngồi bó xổm hai tay khoanh trước ngực (tr. 150).

Liềm đồng được các di tích lúa ở di chỉ Gò Mun minh chứng chắc chắn tính chất nông cụ thu hoạch lúa. Lúa phát hiện ở Gò Mun gồm cả lúa nếp lẫn lúa tẻ.

Hầm ngũ cốc phát hiện ở Gò Mun chứng tỏ nghề trồng lúa lớn mạnh, thu hoạch cao.

Liềm đồng phát hiện được ở Gò Chùa Thông (Hà Nội) cùng công cụ sản xuất và vũ khí bằng đồng và răng hổ có lỗ xâu dây đeo.

Tượng người nói trên phải chăng là "cư dân nông nghiệp bình thản, giản dị và tự tin vào cuộc sống của mình" (tr. 150) ?

"Tượng cao 4, 6cm, hai tay xếp khoanh trên đùi, lưng hơi ngả về sau, dáng thoải mái. Tượng nhỏ nhưng chi tiết vẫn rõ ràng:

Đầu chít khăn mỏ rìu, mắt, mũi, miệng đặt đúng vị trí. Tỉ lệ cơ thể cân đối, toàn thân toát vẻ thuần phác, nghỉ ngơi và vẫn suy tư.

Tượng làm theo khối đóng kín, có đường viền rõ ràng dù nhìn đằng trước hay bên sườn, có đế nhưng bị gãy nên không rõ tượng độc lập hay gắn vào vật khác."

Ngồi xổm là đặc điểm người Việt xưa nay. Chít khăn đầu rìu cũng là cách chít khăn phổ biến cho đến hôm nay của người Việt.

Tượng Gò Mun là tác phẩm nghệ thuật thuần túy. Hay là một hình tượng tôn giáo nào đó như Tổ tiên chẳng hạn?

Có liên quan gì đến tục mai táng bó gối đã phát hiện được trong Văn hóa Đa Bút chăng? Chưa thể khẳng định được.

Nhưng răng hổ xâu lỗ đeo phát hiện ở Gò Chùa Thông bóng loáng cực đẹp rõ ràng là bùa đeo trừ tà mà cho đến trước năm 1945 người ta vẫn thường đeo cho trẻ em. Đó là biểu thị nhận thức tín ngưỡng về thế giới Thiêng.

Tham khảo các niên đại C14 và các thông tin niên đại khác thì thấy Văn hóa Gò Mun bắt đầu từ 1100 đến 1000 năm TCN và kết thúc vào khoảng 800 đến 700 năm TCN (tr. 146).

(Trích Nguyễn Duy Hinh, Văn minh Lạc Việt, nxb. Văn Hóa – Thông Tin, VN, 2004.

Những số trang trong ngoặc đơn là dẫn sách Khảo cổ học Việt Nam – Thời đại kim khí Việt Nam. Nhan đề phần trích tạm đặt)

Nguồn:

Web gocnhin

Văn hóa Gò Mun, thuộc hậu kỳ thời đại đồng thau.

Văn hóa Gò Mun (mang tên di chỉ phát hiện đầu tiên năm 1961 ở xã Tứ Xã, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ), thuộc hậu kỳ thời đồng thau.

Đặc điểm giai đoạn này là đồ đồng phát triển mạnh và chiếm ưu thế so với đồ đá (hiện vật đồng thau chiếm trên 50% tổng số công cụ và vũ khí phát hiện được).

Về loại hình có mũi tên, lưỡi câu, mũi nhọn, dũa, giáo.. đáng lưu ý là xuất hiện rìu lưỡi xéo, lưỡi liềm. Đồng thau được dùng để tạo đồ trang sức như vòng tay bằng đồng.

Nguồn:

Đỗ Đức Hùng, Nguyễn Đức Nhuệ, Trần Thị Vinh, Trương Thị Yến 2001, Việt Nam những sự kiện lịch sử (từ khởi thủy đến 1858), Hà Nội, Giáo Dục, Tr. 10.

Nguồn:

Web lichsuvietnam

Văn hóa Gò Mun

Văn hóa Gò Mun phát hiện năm 1961 tại Tứ Xã (Phong Châu, Phú Thọ).

Những di tích thuộc nền văn hóa này phân bố trên các đồi gò thấp bên sông suối và những đầm hồ thuộc các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Tây, Hà Nội.

Phương thức kiếm sống chủ yếu của cư dân Gò Mun là làm ruộng lúa nước, trồng hoa màu, phát triển nghề chăn nuôi.

Săn bắn vẫn là nguồn cung cấp thực phẩm thường xuyên, bởi trong những di chỉ khảo cổ học xương răng thú hoang dã vẫn chiếm khối lượng đáng kể.

Đồ gốm được người Gò Mun chế tạo với kỹ thuật cao, do làm bằng đất sét pha cát và các loại tạp chất khác kết hợp với độ nung khoảng 800-900oC nên gốm thời này thường có mầu xám đen hay đỏ nhạt.

Hoa văn trang trí trên gốm Gò Mun rất phong phú thể hiện tư duy đối xứng hình học truyền thống, chủ yếu tạo bằng cách khắc vạch, in, đập và đắp nổi.

Kỹ thuật luyện kim đúc đồng được người Gò Mun kế thừa và phát triển hơn một bước về kỹ thuật so với người Đồng Đậu trước đó.

Loại hình công cụ lao động bằng đồng đã đa dạng và phong phú hơn nhiều, chủ yếu là rìu lưỡi xéo, đục, lao, lưỡi câu, công cụ mũi nhọn..

Một số công cụ lao động bằng đá vẫn sử dụng phổ biến trong đời sống cư dân Gò Mun như rìu tứ giác, khuôn đúc đồng, chí lưới, đồ trang sức..

Phát triển về kinh tế thời này, đặc biệt là kỹ thuật luyện kim đúc đồng đã là tiền đề cho ra đời nền Văn hóa Đông Sơn - cơ sở vật chất chủ yếu của nhà nước Văn Lang sau này.

Nguồn:

Web tuanninhhoa violet

Văn hóa tiền Đông sơn:

Văn hóa Gò Mun

Những di tích thuộc nền văn hóa này phân bố trên các đồi gò thấp bên sông suối và những đầm hồ thuộc các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Tây, Hà Nội.

Phương thức kiếm sống chủ yếu của cư dân Gò Mun là làm ruộng lúa nước, trồng hoa màu, phát triển nghề chăn nuôi.

Săn bắn vẫn là nguồn cung cấp thực phẩm thường xuyên, bởi trong những di chỉ khảo cổ học xương răng thú hoang dã vẫn chiếm khối lượng đáng kể.

Đồ gốm được người Gò Mun chế tạo kỹ thuật cao, do làm bằng đất sét pha cát và các loại tạp chất khác kết hợp độ nung khoảng 800-900oC nên gốm thờ này thường có mầu xám đen hay đỏ nhạt.

Hoa văn trang trí trên gốm Gò Mun rất phong phú thể hiện tư duy đối xứng hình học truyền thống, chủ yếu được tạo nên bằng cách khắc vạch, in, đập và đắp nổi.

Kỹ thuật luyện kim đúc đồng được người Gò Mun kế thừa và phát triển hơn một bước về kỹ thuật so với người Đồng Đậu trước đó.

Loại hình công cụ lao động bằng đồng đa dạng và phong phú hơn nhiều, chủ yếu là rìu lưỡi xéo, đục, lao, lưỡi câu, công cụ mũi nhọn..

Một số công cụ lao động bằng đá vẫn sử dụng phổ biến trong đời sống cư dân Gò Mun như rìu tứ giác, khuôn đúc đồng, chì lưới, đồ trang sức..

Phát triển kinh tế thời này, đặc biệt là kỹ thuật luyện kim đúc đồng là tiền đề ra đời Văn hóa Đông Sơn - cơ sở vật chất chủ yếu của nhà nước Văn Lang sau này.

Nguồn:

Web diepdoan violet

Di tích khảo cổ Sơn Vi và Gò Mun ở Phú Thọ được xếp hạng quốc gia

Di tích khảo cổ Sơn Vi gồm Gò Vườn Sậu và Rừng Sóc Lọi (xã Sơn Vi), phát hiện từ 1968 và khai quật 1969.

Trên địa bàn Phú Thọ, đây là khai quật đầu tiên và duy nhất về Văn hóa Sơn Vi - văn hóa của cư dân thời hậu kỳ đá cũ, cách đây khoảng 10 nghìn đến 30 nghìn năm.

Hơn 1000 hiện vật khai quật và tìm thấy tại 2 địa điểm trên chủ yếu là các công cụ lao động chế tác từ đá cuội, với các loại hình bán nguyệt, hình rẻ quạt, rìa ngắn nguyên sơ, chày nghiền, mảnh tước..

Kết quả nghiên cứu cho thấy cư dân Sơn Vi sống bằng săn bắt, hái lượm, phân bố từ các tỉnh miền núi phía Bắc đến miền trung, vết tích công cụ còn tìm thấy ở Tây Nguyên.

Phú Thọ là nơi phát hiện đầu tiên và tập trung dầy đặc nhất di tích Văn hóa Sơn Vi với 104 địa điểm.

Di vật đồ đá Sơn Vi là cổ vật lâu đời nhất ở Phú Thọ, gồm công cụ, hạch đá, mảnh tước nằm rải rác trên các ngọn đồi thấp ở Lâm Thao và các gò đồi ở các huyện dọc sông Thao, sông Lô.

Sưu tập hiện vật khảo cổ ở Vườn Sậu và Rừng Sóc Lọi khẳng định thêm Văn hóa Sơn Vi khác Văn hóa Hòa Bình, hiện diện trước Hòa Bình không chỉ ở Phú Thọ mà các vùng khác của đất nước.

Văn hóa Sơn Vi là mắt xích quan trọng trong văn hóa tiền sử ở Việt Nam và Đông Nam Á.

Di tích khảo cổ Gò Mun (xã Tứ Xã) phát hiện đầu năm 1961, qua 4 lần khai quật:

1961, 1965, 1969, 1971 thu hàng vạn hiện vật đồ đá, đồ đồng, đồ xương, đồ gốm thuộc nền văn hóa thời đại đồng thau.

Kết quả nghiên cứu cho thấy cư dân Văn hóa Gò Mun là thực thể cộng đồng chặt chẽ, đời sống vật chất, tinh thần có chuyển biến rõ rệt so giai đoạn trước.

Họ sống chủ yếu bằng chăn nuôi và trồng trọt, ngoài ra còn săn bắt và khai thác thuỷ sản.

Các nghề thủ công như đúc đồng, làm gốm, chế tác đá, dệt vải, đan lát, làm mộc, đan lưới cũng là những hoạt động kinh tế quan trọng.

Ngoài các công cụ và vũ khí bằng đồng, cư dân Văn hóa Gò Mun tạo được những đồ trang sức tinh tế như các loại khuyên tai bốn màu, khuyên tai hình gối qua, vật hình "đầu trâu" bằng đá ngọc.

Đồ gốm nhiều kiểu dáng, trang trí hoa văn phong phú và phức tạp; tượng người, tượng thú sinh động làm bằng đồng, gốm, đá.

Những hiện vật này góp phần làm sáng tỏ cuộc sống cư dân Văn hóa Gò Mun, giúp thấy được phát triển kinh tế-xã hội, văn hóa, thẩm mỹ của người Việt thời Văn Lang-Âu Lạc.

Văn hóa Gò Mun là giai đoạn quan trọng trong quá trình phát triển từ Văn hóa Phùng Nguyên đến Đông Sơn, tương ứng thời kỳ Hùng Vương dựng nước.

HỒNG NGHĨA

Nguồn:

Web baonhandan

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
Từ trái qua phải, chiếc rìu đồng có gắn bạch ngọc thời Chiến Quốc (niên đại 2.500 năm). Ở giữa là dao đá gắn với nền Văn hóa Phùng Nguyên (cách đây 4.000 năm). Ở bên phải là kiếm đồng đúc gắn với nền Văn hóa Thương - Chu.

20621244_704032109797044_6829079843290692718_n.jpg


Các nền văn hóa thời nguyên thuỷ

1. Ra đời thuật luyện kim và nghề nông trồng lúa nước

- Cách nay khoảng 4000 – 3000 năm, các bộ lạc nước ta biết đến đồng và thuật luyện kim, nghề trồng lúa phổ biến.

- Thuật luyện kim thực hiện ở nước ta. Các nguyên liệu, sản phẩm bằng đồng không phải đem từ ngoài vào.

2. Những nền văn hóa lớn cuối thời nguyên thủy

Phùng Nguyên

+Cư trú Bắc Bộ: Phú Thọ, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Bắc Giang, Hà Nội.

+Công cụ lao động: Đồ đá, một số nguyên liệu như tre, gỗ, nứa xương.

+Hoạt động kinh tế: Nông nghệp trồng lúa nước, làm gốm, se chỉ dệt vải, chăn nuôi.

Sa Huỳnh

+Cư trú miền Trung: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa.

+Công cụ lao động: Đồ đồng.

+Hoạt động kinh tế: Nông nghiệp trồng lúa và cấy trồng khác, dệt vải, kỹ thuật luyện kim, làm đồ trang sức.

Đồng Nai và Óc Eo

+Cư trú Đông Nam Bộ: Đồng Nai, Bình Dương, Long An, TP. HCM.

+Công cụ lao động: Đồ đá, đồ đồng.

+Hoạt động kinh tế: Nghề nông trồng lúa nước và các cây lương thực, khai thác sản vật rừng, nghề thủ công.

- Ra đời thuật luyện kim cách đây khoảng 4000 năm đưa các bộ lạc nước ta vào sơ kỳ đồng thau, hình thành các khu vực làm tiền đề chuyển biến xã hội sau này.

Những nền văn hóa làm nền cho văn minh Văn Lang - Âu Lạc

Thời Hùng Vương có thật, phản ánh trong truyền thuyết, thư tịch cổ, chứng thực qua hàng loạt di tích khảo cổ học, tạo thành diễn biến văn hóa vật chất liên tục thời kỳ ấy. Đó là thời chuyển biến sâu sắc nhiều về kinh tế và những thành tựu văn hóa nổi bật.

Nhiều vạn năm trước, đất Bắc Việt Nam có người sống. Núi rừng miền Bắc xanh tươi quanh năm, rất nhiều thuận lợi cho người sống và phát triển.

Những dải núi đá vôi nhiều hang động, mái đá thuận lợi cư trú. Sườn núi, suối, sông có nhiều loại đá khác nhau làm công cụ lao động; rừng nhiều muông thú, nứa tre gỗ cứng thuận lợi săn bắt, làm công cụ, dựng nhà sàn, chòi v. V..

Dựa điều kiện đó, người nguyên thuỷ sớm tạo nền Văn hóa:

Sơn Vi, Hòa Bình, Bắc Sơn, từ đó tìm đến vùng châu thổ các sông lớn để tạo nền Văn hóa, phát triển cao hơn như Hoa Lộc, Phùng Nguyên.

Những năm 1960, vùng đồi núi trung du đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ phát hiện hàng loạt di chỉ khảo cổ thời kim khí.

Dựa kết quả khai quật nghiên cứu các di chỉ này, họ phân lập các văn hóa khảo cổ tương đương các giai đoạn phát triển khác nhau, gồm:

Văn hóa Phùng Nguyên thuộc sơ kỳ đồ đồng,

Văn hóa Đồng Đậu thuộc trung kỳ đồ đồng,

Văn hóa Gò Mun thuộc hậu kỳ đồ đồng,

Văn hóa Đông Sơn thuộc sơ kỳ đồ sắt.

Những nền văn hóa khảo cổ trên có niên đại khoảng 4.000 đến 2.000 năm TCN cách ngày nay, nằm trong khung phát triển thời Hùng Vương.

- Giai đoạn Phùng Nguyên (Phú Thọ) thuộc sơ kỳ đồng thau, cách đây chừng 4.000 năm đến 3.500 năm. Giai đoạn này chưa có công cụ bằng đồng.

- Giai đoạn Đồng Đậu (Phú Thọ) thuộc trung kỳ thời đồng thau, cách nay khoảng 3.000 năm TCN. Giai đoạn này phát triển kế tiếp và cao hơn thời Phùng Nguyên.

Người thời Đồng Đậu chủ yếu vẫn dùng đồ đá trong sản xuất và đời sống, hiện vật bằng đồng thau chiếm gần 20% số công cụ và vũ khí. Kỹ thuật đồ gốm, luyện kim phát triển hơn.

- Giai đoạn Gò Mun (Phú Thọ) thuộc hậu kỳ đồng thau, cách nay 3000-2500 năm TCN. Đặc điểm là đồ đá giảm sút rõ rệt, chiếm 48% tổng số hiện vật, đồng thau chiếm tỷ lệ cao hơn.

- Giai đoạn Đông Sơn (Thanh Hóa) từ phát triển rực rỡ đồ đồng chuyển sang sơ kỳ đồ sắt, tồn tại từ TK. VII TCN đến thế kỷ I - II SCN. Đầu giai đoạn Đông Sơn thuộc thời Hùng Vương, còn cuối giai đoạn Đông Sơn thuộc thời Bắc thuộc.

Văn hóa Đông Sơn phát hiện từ 1924 là tiêu biểu nhất, tên do người Châu Âu đặt theo tên di tích Đông Sơn bên bờ sông Mã, Thanh Hóa, ta gọi là nền Văn hóa Văn Lang-Âu Lạc, văn minh sông Hồng, văn minh Việt cổ.

Cùng thời với Văn hóa văn minh Hy Lạp cổ đại, Văn hóa Đông Sơn là nền văn minh xán lạn, đó là điều cần khẳng định và chứng minh.

Văn hóa Phùng Nguyên

Văn hóa Phùng Nguyên lấy theo tên di tích khảo cổ học đầu tiên thuộc văn hóa này phát hiện năm 1959 ở làng Phùng Nguyên, xã Kinh Kệ, huyện Lâm Thao, Phú Thọ.

Tiêu biểu nền văn hóa khảo cổ Việt Nam và Ðông Nam Á, mở đầu thời đồng thau Việt Nam. Phát hiện khoảng 55 di tích thuộc Văn hóa Phùng Nguyên.

Những di tích này phân bố trên các tỉnh, thành phố như Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Nội, Hải Phòng.

Hiện vật tìm thấy trong các di tích thuộc Văn hóa Phùng Nguyên chủ yếu vũ khí, công cụ sản xuất, đồ dùng sinh hoạt bằng hai loại chất liệu chính là đá và gốm.

Đồ đá chế tác bằng cưa, khoan, mài, tiện rất tinh xảo, kích thước tương đối nhỏ, làm từ đá bazan, các loại đá nephrit, spilit màu sắc đẹp là đỉnh cao nhất kỹ thuật chế tác đá, tiền đề để cư dân Việt cổ chuyển sang thời kim khí.

Những hiện vật tìm thấy phổ biến:

Các loại rìu, bôn, đục, chày, cưa, khoan, tiện, bàn mài, mũi tên, mũi giáo, các loại vòng tay, khuyên tai, nhẫn, ống chuỗi, hạt chuỗi đá màu xanh ngọc, màu trắng ngà khoan tiện tinh vi với đủ loại kích cỡ và kiểu dáng phản ánh trình độ kỹ thuật làm đá và tiến bộ cuộc sống tinh thần thời Phùng Nguyên.

Ngoài loại rìu đá tứ giác còn có rìu đá hình dạng gần như hình chữ nhật đứng, chế tác rất công phu với kỹ thuật mài, cưa, sử dụng khá đa năng trong nông nghiệp, chế tác vật dụng.

Dùng những rìu mài nhẵn gọn nhẹ, người Phùng Nguyên phát huy kinh nghiệm trồng trọt ở các nền văn hóa trước đó để sáng tạo nghề nông trên châu thổ trung lưu sông Hồng.

Các di chỉ khảo cổ thuộc Văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu có các loại bào tử phấn hoa của nhiều loại giống lúa nước Oriza stiva, và dấu vết gạo cháy trong tầng văn hóa.

Theo tài liệu khảo cổ học, phân tích 4 mẫu thóc cháy và trấu lấy từ các di tích cùng những bình vại lớn có đường kính miệng bình 70 - 80cm đều có niên đại TCN.. còn lưu ở các nơi đương thời khẳng định điều đó.

Văn hóa Phùng Nguyên mở đầu nền văn minh sông Hồng vì cư dân Phùng Nguyên có trình độ điêu luyện với khiếu thẩm mỹ cao trong chế tác công cụ và đồ trang sức bằng gốm, đá, xương, sừng.

Đồ đá hoàn toàn chiếm ưu thế, lúc này đồng còn rất hiếm, thường để chế tác đồ trang sức, nung đồng làm công cụ như cuốc, thuổng, liềm, hái chiếm tỷ lệ lớn trong hiện vật khai quật.

Bên cạnh canh tác theo hình thức "đao canh, thuỷ nẫu" (cày bằng dao, làm nát bằng nước) hay "hỏa canh, thuỷ nẫu" (cày bằng lửa, làm nát bằng nước) thì nông nghiệp dùng cày bằng sức kéo gia súc có vai trò lớn thúc đẩy sản xuất phát triển.

Nghề nông trồng lúa giúp định cư lâu dài hơn, từ đó hình thành làng xóm. Giai đoạn này, nghề chăn nuôi khá phát triển nhưng săn bắn, hái lượm sản vật của thiên nhiên và trồng trọt làm nương rẫy vẫn là chủ yếu.

Phát minh kỹ thuật thuật chế tác đá và luyện kim đồng thau là thành tựu rất quan trọng thời Văn hóa Phùng Nguyên và Văn hóa Hoa Lộc, đặc biệt nghề gốm phát triển cao.

Đồ gốm phần lớn làm bằng bàn xoay, thành gốm mỏng đều, độ nung tương đối cao. Trang trí hàng loạt hoa văn phong phú tạo những đồ án đối xứng phong phú đẹp mắt:

Hình những đường cong uốn lượn phức tạp, các giải chữ S nối liền có các hình tam giác xen ở giữa làm các đồ đựng đẹp lại dễ dùng.

Về loại hình có các loại nồi, vò, bình, bát, vại, đĩa, dọi xe sợi, bi gốm.

Có tượng động vật bằng đất nung như tượng bò, tượng gà vừa hiện thực vừa sinh động, đó là tác phẩm nghệ thuật tạo hình sớm nhất phát hiện ở Việt Nam.

Một số di tích thuộc Văn hóa Phùng Nguyên có dấu vết xỉ đồng, bằng chứng nghề luyện kim, cơ sở quan trọng để các nhà khoa học xếp Văn hóa Phùng Nguyên vào sơ kỳ thời đồng thau.

Phú Thọ là một trong những tỉnh có mật độ di tích khảo cổ đậm đặc, tiêu biểu đặc trưng cho các giai đoạn văn hóa.

Đến hết 2006, tỉnh có 161 di tích khảo cổ thuộc thời tiền sử - sơ sử được phát hiện trong đó chủ yếu là di tích thuộc nền Văn hóa Sơn Vi và Phùng Nguyên.

Hiện đa số địa điểm di tích khảo cổ Văn hóa Sơn Vi nằm trên các đồi gò hoặc dưới ruộng đã giao đất cho nông dân hoặc đất vườn, đất thổ cư và các công trình khác.

27 di tích Văn hóa Phùng Nguyên thám sát khai quật cung cấp khối lượng hiện vật đồ sộ, phong phú, chứng minh nguồn gốc bản địa Văn hóa Đông Sơn và thời Hùng Vương.

Nhiều di tích giá trị đặc biệt quan trọng về địa tầng văn hóa, di tích di vật như di tích Gò Sóc Lọi, di tích Xóm Rền, di tích Làng Cả.

Nhưng di tích Văn hóa Phùng Nguyên hầu như không còn giữ được nguyên trạng các hố và khu vực khai quật.

Trong khi ở tỉnh Vĩnh Phú thuộc bộ Văn Lang xưa (sau này tỉnh Vĩnh Phú tách làm hai tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc), phát hiện trên 70 di chỉ khảo cổ thời Hùng Vương (tính tới 1992).

Nếu lấy Đền Hùng làm trung tâm quay một vòng bán kính 20km có gần 50 di tích trong vòng đó, phần lớn tập trung ở Lâm Thao cũ và Việt Trì. Gần 50 di tích:

Phùng Nguyên, Gò Mun, Đồi Dung, Gò Ông Kế, Gò Miếu, Ngỏ Đỗ, Nội Gan, Bản Nguyên, Đồng Đường, Chùa Cao, Thành Dền, Đồng Đậu Con, Gò Chiền, Mã Nguội, Liên Minh, Xóm Kiếu, Gò Con Lợn, Gò Mồng, Gò Tro trên, Gò Tro dưới.

Đồng Sấu, Gò Tôm, Gò Thế, Gò Gai, Gò Con Cá, Gò Thờ, Gò Ghệ, Đồi Hoàng Long, Mả Nứa, Lê Lợi, Đồi Giàm, Làng Cả, Mã Lao, Núi Voi, Gò Vừng, Gò Dền, Đôn Nhân, Bình Sơn, Đồng Quế, Gò Re, Gò Diễn, Gò Bún, Gò Sanh, Gò Ông Tiễn, Gò Ma Lầy, Thọ Sơn.

Hơn 20 di chỉ phân bố tương đối tản mạn ngoài bán kính nói trên là Gò Chùa, Gò Trại, Gò Või, Vạn Thắng, Nhà Quỳnh, (huyện Sông Thao) ; Lũng Hòa, Nghĩa Lập, Đồng Đậu, Đinh Xa, Ma Cả (Vĩnh Lạc).

Cự Triền, Tháp Miếu, Núi Ca, (Mê Linh), Hồng Đà, Dậu Dương, Gò Bông, La Phù, Văn Minh, Đoan Thượng, Đào Xá, Gò Cháy, Gò Chè, núi Ngấn (Tam Thanh), Gò Ngành, Suối Trại (Tam Đảo).

Các di tích trên chia 4 loại:

Loại Phùng Nguyên trên dưới 4000 năm cách ngày nay. Hiện vật Văn hóa Phùng Nguyên (Phú Thọ) :

Các loại rìu tứ giác, chày, vòng tay, bàn mài.. bằng đá Bazan là đỉnh cao nhất kỹ thuật chế tác đá, tiền đề kỹ thuật để cư dân Việt cổ chuyển sang thời kim khí.

Loại Đồng Đậu trên dưới 3.500 năm

Loại Gò Mun trên dưới 3000 năm

Loại Đông Sơn khoảng 2.800 năm đến đầu Công Nguyên.

Di chỉ nói trên là những địa điểm người Việt cổ cư trú còn trong lòng đất hiện vật đồ đá như rìu, đục, cuốc, vòng tay, hoa tai, hạt chuỗi, dọi xe sợi, mũi tên..

Đồ gốm: Nồi niêu, bát dĩa, cốc chén, vại lọ, tượng súc vật. Vết tích thức ăn: Lúa gạo, hạt qua, xương cá, vỏ ốc trai hến, xương thú rừng, gia súc v. V.

Đặc biệt theo truyền thuyết, cung điện vua ở thôn Việt Trì thì khảo cổ học thấy ở di chỉ Làng Cả (khu Mì Chính) những hiện vật chứng minh có mặt vua quan như mũi tên đồng, rìu chiến trang trí đẹp, giáo đồng, khóa thắt lưng bằng đồng tạc 8 con rùa, thạp, trống, tượng cóc bằng đồng thau.

Cư dân nguyên thuỷ Phùng Nguyên, Hoa Lộc dựa các thành tựu văn hóa đạt được nói trên để chuyển dần xuống châu thổ hạ lưu các sông lớn như:

Sông Hồng, Thái Bình, Mã, Cả để khai thác đất đai, mở rộng trồng lúa nước, xây dựng các xóm làng định cư, phát triển nghề thủ công như luyện kim, làm gốm, dệt vải lụa, đan lát v. V.. bước đầu tạo giao lưu xóm làng.

NỀN VĂN HÓA ÐỒNG ÐẬU

Trên nền tảng Phùng Nguyên, cư dân Việt cổ tiến cao hơn trong luyện kim thuộc Văn hóa Ðồng Ðậu.

Văn hóa Đồng Đậu lấy theo tên gọi di tích Đồng Đậu phát hiện 1964 ở xã Minh Tân, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc. Nay khoảng 20 di tích Văn hóa Đồng Đậu phát hiện ở Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Bắc Giang, Hà Nội.

Các hiện vật đá, gốm chiếm ưu thế trong tổng hiện vật ở các di tích thuộc Văn hóa Đồng Đậu. Đồ đá gồm công cụ sản xuất, vũ khí, trang sức.

Đồ gốm chủ yếu nồi, vò chế tác cẩn thận, phần lớn đồ gốm trang trí hoa văn bao có bố cục phóng khoáng, phổ biến nhất là hoa văn gồm các đường thẳng chạy song song cách đều nhau thể hiện bởi dụng cụ có nhiều răng như bút kẻ khuôn nhạc ngày nay, hoa văn này thường gọi hoa văn khuôn nhạc.

Đặc trưng quan trọng Văn hóa Đồng Đậu là phát triển kỹ thuật luyện kim, chế tác đồng thau bắt đầu phát triển mạnh.

Hiện vật bằng đồng thau chiếm 1/5 số công cụ và vũ khí với nhiều loại hình phong phú như rìu, giáo, mũi lao, mũi tên, lưỡi câu, búa đồng. Một số di tích thấy hiện vật bằng đồng và khuôn đúc các hiện vật này.

Văn hóa Đồng Đậu có ngành luyện kim đồng thau sản xuất nhiều loại sản phẩm, dần công thức hóa tỷ lệ các chất kim loại trong hợp kim đồng thau tuỳ công dụng sản phẩm.

Chẳng hạn tỷ lệ chung của hợp kim đồng thau 80 - 90% đồng, 10 - 20% thiếc, nhưng đúc mũi tên, mũi giáo thì tăng tỷ lệ thiếc. Về sau thêm chì vào tăng độ mềm.

Kỹ thuật nung tiến bộ từ 8000C lò gốm tăng 1200 – 12.500C ở lò luyện kim. Trên cơ sở phát triển kỹ thuật luyện kim đồng thau, người Việt cổ sáng tạo nghề nấu sắt bằng phương pháp hoàn nguyên.

Từ nung quặng để có sắt xốp, tiếp tục nung đỏ, rèn dập nhiều lần để sắt chín làm công cụ. Rìu sắt đúc tìm trong mộ thuộc di chỉ Đông Sơn (Thanh Hóa) chứng tỏ người Việt cổ biết đúc gang. Nuôi tằm, kéo tơ, dệt lụa thể hiện trình độ phát triển kinh tế.

Qua khảo cổ, thời Ðồng Ðậu có giao lưu trao đổi các vùng lưu vực sông Hồng, Mã, Cả và khu vực khác của nước ta.

Người Ðồng Ðậu biết chăn nuôi, khai thác sản vật tự nhiên, sống định cư trên các đồi gò cạnh sông suối đầm bãi.

Quanh Ðền Hùng, Việt Trì tập trung nhiều di chỉ thuộc Văn hóa Ðồng Ðậu như Gò Ðồng Ðậu con ở Tứ Xã, Gò Diễn, Nội Gan (xã Kinh Kệ), Xóm Thi Ðua, Gò Ðồng Ðậu (xã Thụy Vân)..

NỀN VĂN HÓA GÒ MUN

Sau Ðồng Ðậu là Văn hóa Gò Mun. Gò Mun là tên di chỉ khảo cổ nổi tiếng thuộc xã Tứ Xã huyện Lâm Thao, Phú Thọ phát hiện năm 1961.

Khoảng 30 di tích thuộc văn hóa Gò Mun phát hiện ở Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Nội. Hiện vật trong di tích văn hóa Gò Mun cho thấy đồ đá giảm số lượng, giảm loại hình cũng như kỹ thuật chế tác.

Đồ gốm chủ yếu là các loại nồi, vò nung nhiệt độ cao. Hoa văn trang trí đồ gốm mang xu hướng hình học hóa với những đường gấp khúc hình tam giác, bình hành, chữ nhật.

Một số đồ gốm bắt đầu xuất hiện hoa văn động vật như chim, cá. Số lượng hiện vật bằng kim loại tăng cao.

Văn hóa Gò Mun vào hậu kỳ thời đồng thau, cách nay 2.500 đến 3.000 năm.

Thời này cư dân sống tập trung đông hơn, nghề đúc đồng phát triển và đồ đồng đóng vai trò quan trọng so với đồ gốm, đồ đá. Kỹ thuật đúc đồng nâng cao hoàn chỉnh hơn người thời Ðồng Ðậu.

Loại hình di vật đồng phong phú hơn:

Rìu, giáo, lao, mũi tên, lưỡi câu, búa, liềm, tượng, lục lạc, vòng tay, trâm cài.

Nếu ở giai đoạn Ðồng Ðậu mới có 10 loại di vật đồng thì Gò Mun có 20 loại công cụ, vũ khí, đồ dùng sinh hoạt khác nhau bằng đồng.

Công cụ sản xuất và vũ khí trong các di tích Văn hóa Gò Mun chiếm 50% tổng hiện vật.

Các di tích thời Hùng Vương ở Phú Thọ theo thời gian thay đổi mạnh về mọi mặt, từ địa bàn cư trú kinh tế, xã hội, kỹ thuật chế tác công cụ, đồ đồng phát triển rực rỡ.

Phùng Nguyên, Ðồng Ðậu, Gò Mun được gọi Văn hóa tiền Hùng Vương. Ðó là thời tiền sử chuẩn bị cho dân ta bước sang lịch sử thời Vua Hùng với nền Văn hóa khảo cổ Ðông Sơn, tiêu biểu là trống đồng Ðông Sơn loại I.

Nguồn:

Web baotanglichsu, vanhoanghean, covatvietnam

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
Di chỉ Xóm Ốc

71094045_1227265774140339_882471189253980160_o.jpg


Văn hóa Xóm Cồn, hơn 30 năm phát hiện và nghiên cứu

1. Ngoài những phát hiện lẻ tẻ của một số nhà khảo cổ người Pháp, đến trước ngày giải phóng (1975), Khánh Hòa hầu như là vùng đất trống đối với khảo cổ học tiền - sơ sử.

Chính phát hiện di chỉ Xóm Cồn của Nguyễn Trọng Hiền, lúc đó là cán bộ Bảo tàng huyện Cam Ranh (năm 1978) và trợ giúp nhiệt tình của ông đã thu hút quan tâm của:

Cán bộ Viện Khảo cổ, Ban Khảo cổ thuộc Viện Khoa học Xã hội TP. HCM, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam tới tiền - sơ sử Khánh Hòa.

Sau nhiều đợt khảo sát, 9-1980, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam phối hợp Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Phú Khánh (cũ) khai quật di chỉ Xóm Cồn lần thứ nhất với diện tích 79m2.

Đây là khai quật đầu tiên đặt cơ sở quan trọng trong nghiên cứu Văn hóa Xón Cồn cũng như khảo cổ học tiền - sơ sử Khánh Hòa.

Tròn 30 năm từ khai quật đầu tiên, bùi ngùi nhìn lại, chúng ta tưởng nhớ tới các nhà Khảo cổ học dành nhiều thời gian, tâm huyết cho khảo cổ học tiền - sơ sử Khánh Hòa.

Giáo sư Trần Quốc Vượng, ông Nguyễn Trọng Hiền, Tiến sĩ Quang Văn Cậy, Họa sĩ Trịnh Căn, nhà khảo cổ học Trương Hoàng Châu, Tiến sĩ Nguyễn Công Bằng.

2. Các tác giả tham gia khảo sát và khai quật Xóm Cồn đưa nhiều ý kiến khác nhau khi nghiên cứu di chỉ quan trọng này.

Trịnh Sinh và Nguyễn Trọng Hiền xếp Xóm Cồn vào Văn hóa Sa Huỳnh, nhưng lưu ý tới gần gũi về đồ đá giữa nó với các di tích ở Thuận Hải, và đồ gốm với các Văn hóa Hạ Long, Hoa Lộc.

Đặc biệt, tác giả lưu ý tới tầng văn hóa dưới có thể giúp chúng ta tìm hiểu một số vấn đề về các giai đoạn văn hóa sớm trước Văn hóa Sa Huỳnh cổ điển ở vùng này (Trịnh Sinh và Nguyễn Trọng Hiền, 1979).

Trương Hoàng Châu xếp Xóm Cồn thuộc giai đoạn đầu của Văn hóa Sa Huỳnh (Trương Hoàng Châu, 1981).

Nguyễn Duy Tỳ và Bùi Chí Hoàng khẳng định Xóm Cồn là di tích cư trú đầu tiên tìm thấy ở ven biển miền Trung có tính chất giống các cồn sò điệp:

Quỳnh Văn, Quỳnh Hồng, Gò Long Bắc (Nghệ Tĩnh), có niên đại chuyển tiếp từ hậu kỳ đá mới sang sơ kỳ kim khí, khoảng 3.500 - 4.500 năm cách ngày nay (Nguyễn Duy Tỳ, Bùi Chí Hoàng, 1980).

Vũ Công Quý xếp Xóm Cồn vào giai đoạn Sa Huỳnh sơ kỳ của loại hình Phú Khánh - Thuận Hải - Đồng Nai và đặt tên giai đoạn này là Xóm Cồn – Hòa Vinh (Vũ Công Quý, 1991).

Kết quả khai quật năm 1980, chúng tôi coi Xóm Cồn là di tích thuộc sơ kỳ thời đồng thau, tồn tại khoảng thiên niên kỷ II TCN, nhưng khác các tác giả kể trên, chúng tôi coi Xóm Cồn là di tích nằm ngoài hệ thống Văn hóa Sa Huỳnh (Vũ Quốc Hiền, 1983).

Tình hình tư liệu và quan niệm về Văn hóa Sa Huỳnh còn rất hạn chế của những năm 80 thế kỷ XX, những ý kiến đánh giá khác nhau quanh địa điểm Xóm Cồn là điều bình thường và dễ hiểu.

Chính những nhận định khác nhau của nhiều nhà nghiên cứu về Xóm Cồn, một di tích có tầng văn hóa dày hiếm hoi ở Miền Trung:

Niên đại sớm liên quan nguồn gốc Văn hóa Sa Huỳnh là một trong những yếu tố thúc đẩy Bảo tàng Lịch sử Việt Nam tổ chức hội thảo khoa học nghiên cứu Văn hóa Sa Huỳnh lần thứ nhất 1981.

Hội thảo này, dù còn có những ý kiến khác nhau nhưng đa số các nhà nghiên cứu tán thành quan niệm:

Văn hóa Sa Huỳnh chỉ tồn tại trong thời đại sắt sớm của Giáo sư Hà Văn Tấn (Hà Văn Tấn, 1983). Chúng tôi cũng định hướng tiếp tục nghiên cứu Xóm Cồn theo quan niệm này.

3. Từ 1988, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam phối hợp Sở Văn hóa - Thông tin Phú Khánh thực hiện chương trình nghiên cứu dài hạn khảo cổ học tiền - sơ sử trên địa bàn tỉnh.

1989, Phú Khánh tách thành tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa, chương trình vẫn tiếp tục trên cả địa bàn hai tỉnh mới.

Ngót chục địa điểm khảo cổ học tiền - sơ sử được phát hiện trong các đợt khảo sát dọc theo các huyện, thị ven biển Phú Yên, Khánh Hòa từ đèo Cù Mông tới vịnh Cam Ranh (Nguyễn Công Bằng và Quang Văn Cậy, 1988).

Qua điều tra, thám sát sơ bộ phát hiện nhiều địa điểm có niên đại và tính chất tương đồng với di chỉ Xóm Cồn.

Nhiều di tích trong số này được Bảo tàng Lịch sử Việt Nam phối hợp Sở Văn hóa - Thông tin Phú Yên, Khánh Hòa tổ chức khai quật, nghiên cứu.

Năm 1990 là địa điểm Bình Hưng trên đảo cùng tên thuộc xã Cam Bình, huyện Cam Ranh (Quang Văn Cậy, 1991).

Di chỉ Xóm Cồn khai quật lần 2 năm 1991 (Quang Văn Cậy, 1992), cùng năm, di chỉ Gò Ốc và Giồng Đồn thuộc xã Xuân Lộc, huyện Sông Cầu tỉnh Phú Yên cũng được khai quật (Trương Hoàng Châu, 1993).

1993, di chỉ Bích Đầm trên đảo Hòn Tre, TP. Nha Trang được khai quật. Trên đảo Hòn Tre, đoàn khảo sát của Giáo sư Trần Quốc Vượng và Tiến sĩ Lâm Thị Mỹ Dung phát hiện hai địa điểm Bãi Trủ và Đầm Già (Trần Quốc Vượng và Lâm Thị Mỹ Dung, 1990)..

Sau nhiều năm kiên trì khảo sát, khai quật và nghiên cứu, các nhà khảo cổ của Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Sở Văn hóa - Thông tin Khánh Hòa, Phú Yên, khoa Sử - Đại học Tổng hợp Hà Nội phát hiện một hệ thống di tích tiền sử phân bổ:

Ven biển Phú Yên, Khành Hòa, trải dài trên 200km từ vũng Cù Mông tới vịnh Cam Ranh.

Hệ thống di tích này bước đầu xác định 8 di tích:

Xóm Cồn, Bình Hưng, Bình Ba, Bích Đầm, Bãi Trủ, Đầm Già (Khánh Hòa), Gò Ốc, Giồng Đồn (Phú Yên).

Các di tích này có môi trường sinh thái, đặc trưng gốm và công cụ giống nhau.. đủ để xác lập văn hóa khảo cổ mới tồn tại trước Văn hóa Sa Huỳnh, đó là Văn hóa Xóm Cồn.

Thuật ngữ Văn hóa Xóm Cồn sử dụng lần đầu để đặt tên cho chuyên khảo nhan đề:

Văn hóa Xóm Cồn với tiền và sơ sử Khánh Hòa do Bảo tàng Lịch sử Việt Nam và Sở Văn hóa - Thông tin Khánh Hòa ấn hành năm 1993 (Nguyễn Công Bằng và NNK, 1993).

Nội dung và các mối quan hệ của Văn hóa Xóm Cồn cũng được làm rõ hơn trong Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học Lịch sử của Vũ Quốc Hiền năm 1996 (Vũ Quốc Hiền, 1996).

4. Văn hóa Xóm Cồn được xác lập với những đặc trưng cơ bản sau:

- Dù phân bố ở đất liền hay các đảo ven bờ, cư dân Văn hóa Xóm Cồn đều chọn địa điểm là các cồn cát gần mép nước biển làm nơi cư trú.

Biển mà các cư dân Văn hóa Xóm Cồn hướng ra đều là biển kín hay đúng hơn là vũng, vịnh biển. Gắn với những vũng, vịnh này là hệ thống rừng núi liền kề.

Hệ thống rừng núi này vừa là bình phong tự nhiên che chắn gió bão, vừa là môi sinh lý tưởng đối với cư dân Xóm Cồn.

- Ngoại trừ di chỉ Bình Ba vừa có tính chất cư trú, vừa có tính chất mộ táng, các di chỉ khác thuộc Văn hóa Xóm Cồn đến nay đều là di chỉ cư trú trên các cồn cát ven biển.

Trong tầng văn hóa của các di chỉ Văn hóa Xóm Cồn đều tích tụ một khối lượng nhất định vỏ nhuyễn thể biển.

Sự tích tụ này khác nhau giữa các di tích và không đồng nhất ngay trong cùng một di chỉ.

Có hai loài nhuyễn thể khác đặc trưng, trong các di chỉ thuộc thời đại kim khí ở Việt Nam cho tới nay (1996) mới thấy phổ biến trong tầng Văn hóa Xóm Cồn là Ốc tai tượng (Tridacna sp) và Ốc mặt trăng (Turbo sp).

- Cư dân Văn hóa Xóm Cồn khai thác nguyên liệu đá tại chỗ để chế tác công cụ, đó là loại đá trầm tích biến chất và cuội sông, biển.

Kỹ thuật chủ yếu mà người Xóm Cồn sử dụng để chế tác đồ đá là ghè, đẽo và mài, họ cũng khá thuần thục với kỹ thuật cưa, khoan trong việc chế tác đồ trang sức.

Đặc trưng nổi bật trong sưu tập đồ đá Văn hóa Xóm Cồn là độc tôn của rìu không có vai và sự hiếm hoi của đồ trang sức.

Sự bảo lưu công cụ đá ghè đẽo kiểu Hòa Bình và ưa sử dụng rìu hình thang đốc thu nhỏ, lưỡi xòe cân là đặc điểm đáng lưu ý của cư dân Văn hóa Xóm Cồn.

- Xương động vật và vỏ các loài nhuyễn thể biển rất được người Xóm Cồn chú ý khai thác và thành một trong những nguồn nguyên liệu chính để chế tác công cụ và đồ trang sức.

Người cổ Xóm Cồn đưa kỹ thuật chế tác đá vào chế tác vỏ nhuyễn thể, với một số loại hình lần đầu tiên được tìm thấy ở Việt Nam như công cụ ghè đẽo, lõi vòng từ Ốc tai tượng.

Đặc biệt là công cụ vảy ốc, có thể xem đó như là đặc trưng cơ bản của Văn hóa Xóm Cồn.

- Đa số đồ gốm Xóm Cồn thuộc loại gốm thô vừa phải, xương ít cát thô và vỏ nhuyễn thể, chủ yếu nặn bằng tay.

Loại hình đồ gốm khá đơn giản với hai loại chính là đồ đựng miệng loe không chân đế và đồ đựng có chân đế dạng bát bồng hay cốc chân cao với các loại miệng khá đơn giản.

Nét đặc trưng Văn hóa Xóm Cồn thể hiện rõ trên hoa văn trang trí gốm:

Gốm văn chải chiếm gần như tuyệt đối và chủ yếu gắn với các loại đồ đựng miệng loe không chân đế, hoa văn in chấm với các đồ án độc lập; gốm tô màu và vẽ màu.

Tới hôm nay, cơ bản Văn hóa Xóm Cồn được thừa nhận là văn hóa khảo cổ trước Sa Huỳnh, có nhà nghiên cứu còn cho nó là Văn hóa tiền Sa Huỳnh.

Dù quan niệm thế nào chúng ta cũng thấy nhiều yếu tố của Văn hóa Xóm Cồn còn bảo lưu rõ nét trong Văn hóa Sa Huỳnh.

Đó là kỹ thuật hoa văn in chấm, tô màu trên gốm.. cùng phương thức sống gắn liền với nguồn lực của cả biển và rừng..

4. Hơn 1 thập niên gần đây, khảo cổ học Tiền - sơ sử Khánh Hòa nhiều phát hiện thuộc những giai đoạn khác nhau như Hòa Diêm (Nguyễn Công Bằng, 2005), Văn Tư Đông (Trần Quý Thịnh, Nguyễn Ngọc Quý, 2009), Vĩnh Yên (Nguyễn Khắc Sử, Phan Thanh Toàn, 2009)..

Đó là những phát hiện quan trọng đối với khảo cổ học tiền - sơ sử Khánh Hòa.

Tuy không được trực tiếp nghiên cứu nhưng qua các tài liệu công bố, tôi thấy ít nhiều chúng đều có liên quan tới các yếu tố thuộc Văn hóa Xóm Cồn.

Xác lập Văn hóa Xóm Cồn là dấu mốc quan trọng trong nghiên cứu tiền - sơ sử Khánh Hòa, việc tiếp tục nghiên cứu nó trong mối liên hệ tổng thể, đa chiều với những di tích khảo cổ khác ở Khánh Hòa cũng như khu vực miền Trung, theo tôi, vẫn rất hữu ích.

TS. Vũ Quốc Hiền

Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Tài liệu dẫn:

- NGUYỄN CÔNG BẰNG 2005. Di tích Hòa Diêm, Khánh Hòa nhìn từ Văn hóa Đồng Nai, Khảo cổ học số 4: 48 - 54.

- NGUYỄN CÔNG BẰNG VÀ QUANG VĂN CẬY, 1998. Những phát hiện mới về Khảo cổ học: 57 -58.

- NGUYỄN CÔNG BẰNG, TRỊNH CĂN, QUANG VĂN CẬY, VŨ QUỐC HIỀN, PHẠM VĂN HOÁN, NGÔ THẾ PHONG, 1993.

Văn hóa Xóm Cồn với tiền sử và sơ sử Khánh Hòa. Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam - Sở Văn hóa - Thông tin Khánh Hòa, Nha Trang.

- QUANG VĂN CẬY, 1991. Di chỉ Bình Hưng (Khánh Hòa). Thông báo khoa học, Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam: 30 - 36.

- QUANG VĂN CẬY, 1992. Kết quả khai quật di chỉ Xóm Còn lần thứ hai năm 1991. Những phát hiện mới về Khảo cổ học: 95 - 100.

- TRƯƠNG HOÀNG CHÂU, 1981. Mấy vấn đề về Văn hóa Sa Huỳnh. Báo cáo tại Hội nghị nghiên cứu Văn hóa Sa Huỳnh, Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.

- TRƯƠNG HOÀNG CHÂU, 1993. Khai quật di chỉ Gò Ốc và di chỉ Giồng Đồn (Phú Yên). Thông báo khoa học, Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam: 1 - 24.

- VŨ QUỐC HIỀN, 1983. Di chỉ Xóm Cồn (Phú Khánh). Thông báo khoa học, Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam: 39 - 44.

- VŨ QUỐC HIỀN, 1996. Văn hóa Xóm Cồn và vị trí của nó trong thời đại kim khí ven biển miền Trung. Luận án phó Tiến sĩ Khoa học Lịch sử.

- VŨ CÔNG QUÝ 1991. Văn hóa Sa Huỳnh. Nxb, Văn hóa Dân tộc.

- TRỊNH SINH VÀ NGUYỄN TRỌNG HIỀN 1979. Di chỉ Xóm Cồn (Phú Khánh). Những phát hiện mới về khảo cổ học: 150 - 152.

- NGUYỄN KHẮC SỬ, PHAN THANH TOÀN 2009. Di chỉ Vĩnh Yên trong hệ thống khảo cổ học tiền - sơ sử Khánh Hòa. Khảo cổ học số 1: 12 - 24.

- TRẦN QUÍ THỊNH, NGUYỄN NGỌC QUÝ 2009. Di chỉ Văn Tứ Đông (Khanhs Hòa). Tư liệu qua khai quật năm 2006. Khảo cổ học số 1 :3 - 18.

- NGUYỄN DUY TỲ VÀ BÙI CHÍ HOÀNG 1980. Thám sát lại địa điểm Xóm Cồn (Phú Khánh). Những phát hiện mới về khảo cổ học: 147 - 150.

- TRẦN QUỐC VƯỢNG VÀ LÂM THỊ MỸ DUNG 1990. Báo cáo kết quả khảo sát khảo cổ học tại tỉnh Khánh Hòa. Những phát hiện mới về khảo cổ học: 209 - 211.

Nguồn

Web baotanglichsu

Văn hóa Xóm Cồn phát hiện và nghiên cứu muộn hơn nhóm di tích Long Thạnh và Bình Châu, nhưng lại được xác lập thành văn hóa khảo cổ riêng biệt.

Xung quanh nền văn hóa này có nhiều ý kiến thảo luận và một số ý kiến cho rằng Văn hóa Xóm Cồn không thuộc hệ thống Văn hóa Sa Huỳnh.

Nhưng chắc chắn có nhiều đóng góp vào hình thành Văn hóa Sa Huỳnh (Vũ Quốc Hiền 1996).

Sau khi nghiên cứu các di tích, di vật của Văn hóa Xóm Cồn, chúng tôi cho rằng nhiều yếu tố văn hóa của nền văn hóa này đóng góp trực tiếp vào hình thành và phát triển của Văn hóa Sa Huỳnh, đặc biệt là loại hình Sa Huỳnh ở khu vực đảo ven bờ Nam Trung Bộ.

Như vậy có thể coi Văn hóa Xóm Cồn là Văn hóa tiền Sa Huỳnh, mà sự hình thành của nó có quan hệ chặt chẽ với vùng hội nhập Dak Lấp - Cầu Sắt.

Nay phát hiện 8 địa điểm thuộc Văn hóa Xóm Cồn. Các di tích này phân bố ở đồng bằng ven biển và đảo ven bờ hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa.

Đây là những đồng bằng nhỏ hẹp, không tách biệt với vùng núi về mặt nguồn gốc phát sinh.

Cư dân Văn hóa Xóm Cồn tụ cư ở những cồn cát trên dải đồng bằng ven biển ấy, hoặc ở trên những hòn đảo không xa bờ.

Kết quả khai quật các di tích Văn hóa Xóm Cồn cho thấy tích tụ văn hóa dày từ 80cm - 110cm, bên trong có chứa vỏ các loài nhuyễn thể, xen lẫn cát phù sa và các di cốt động vật.

Đáng lưu ý là trong tích tụ tầng văn hóa không thấy nhiều vỏ điệp, phổ biến nhiều loại ốc như Ốc mặt trăng (Tuybo sp), Ốc tai tượng (Tridacna sp) và một số loài sò ốc khác.

Tích tụ văn hóa này là đặc trưng văn hóa riêng biệt so với các Văn hóa tiền Sa Huỳnh khác.

Nhưng lại là yếu tố văn hóa dễ nhận biết trong loại hình Sa Huỳnh khu vực đảo ven bờ Nam Trung Bộ.

Đặc trưng văn hóa nổi trội nhất của Văn hóa Xóm Cồn là những hiện vật xương và vỏ nhuyễn thể.

Theo thống kê của những người khai quật, 8 địa điểm văn hóa này đã phát hiện 84 công cụ lao động với vài mũi dùi, mũi lao làm bằng xương hoặc sừng.

Tuyệt đại đa số làm bằng vỏ nhuyễn thể bao gồm các loại hình như công cụ ghè đẽo, công cụ nạo và hòn ghè.

Bên cạnh đó còn có 18 mảnh vòng trang sức bằng vỏ Ốc tai tượng và một số lõi vòng bằng vỏ ốc.

Những hiện vật này phát hiện thấy từ giai đoạn sớm đến giai đoạn muộn trong Văn hóa Xóm Cồn.

Điều đặc biệt là các hiện vật này cũng thấy xuất hiện trong địa tầng các di tích Văn hóa Sa Huỳnh ở khu vực đảo ven bờ như di tích Xóm Ốc, Suối Chình trên đảo Lý Sơn và di tích Hòa Diêm ở gần vịnh Cam Ranh - Khánh Hòa.

Ngoài ra còn thấy xuất hiện ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á như ở cực Nam Nhật Bản, Đông Đài Loan, Bắc Philippines, Nam Thái Lan.

Bên cạnh những hiện vật bằng vỏ nhuyễn thể, Văn hóa Xóm Cồn còn có các di vật bằng đá, với đặc trưng nổi bật là độc tôn loại rìu, bôn, đục không có vai, phổ biến loại rìu bôn hình thang đốc thuôn nhỏ, mặt cắt ngang hình chữ nhật hoặc thấu kính.

Nét đặc trưng này mang nhiều dấu ấn công cụ đá nhóm di tích Dak Lấp - Cầu Sắt ở khu vực Nam Tây Nguyên - Đông Nam Bộ.

Đồ gốm trong Văn hóa Xóm Cồn phổ biến loại hình nồi đáy tròn miệng loe, tạo bởi kỹ thuật nặn tay kết hợp bàn đập - hòn kê.

Trang trí trên đồ gốm chủ yếu văn chải, khắc vạch, in chấm, tô màu.

Loại văn in chấm kiểu zích zắc cũng là nét đặc trưng của hoa văn gốm trong Văn hóa Xóm Cồn.

Loại hoa văn này xuất hiện trong một số loại hình gốm ở di chỉ Lộc Giang (Long An), di chỉ Lung Leng (Tây Nguyên) và ở di chỉ Sam-rông-sen (Cam-pu-chia).

Một loại hoa văn gốm nữa là văn vẽ màu trên nền áo đỏ hoặc da cam với những đường xoắn ốc, gần tương tự hoa văn gốm Ban Chiang.

Điều ghi nhận nữa là ngoài các kiểu dạng nồi gốm, Văn hóa Xóm Cồn còn có một số loại hình bát và đĩa mâm bồng có tô màu đỏ.

Những loại hình đồ gốm này có nhiều nét gần gũi với đồ gốm Sa Huỳnh giai đoạn sớm.

Sự đóng góp của cư dân Văn hóa Xóm Cồn vào quá trình hình thành Văn hóa Sa Huỳnh ở khu vực đảo ven bờ là phương thức sống khai thác biển, sử dụng vỏ nhuyễn thể làm công cụ lao động và đồ trang sức.

Những chứng cứ này có thể tìm thấy trong tầng văn hóa các di tích Văn hóa Sa Huỳnh Xóm Ốc, Suối Chình trên đảo Lý Sơn, hay ở di tích Hòa Diêm (Khánh Hòa), đã tạo nét độc đáo, đa dạng cho Văn hóa Sa Huỳnh.

Đồng thời, trong lớp sớm nhất tầng văn hóa di chỉ Xóm Ốc, bên cạnh những hiện vật đặc trưng Long Thạnh đã tồn tại công cụ nạo bằng vảy Ốc mặt trăng, công cụ ghè đẽo bằng vỏ Ốc tai tượng và đồ gốm trang trí văn zích zắc đặc trưng của Văn hóa Xóm Cồn.

Như vậy, Văn hóa Xóm Cồn không phải đóng góp gián tiếp, mà là một trong những nguồn đóng góp trực tiếp vào hình thành và phát triển của Văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung Việt Nam.

(Tác giả: Phạm Thị Ninh)

(Nguồn: Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 2013)

Nguồn:

Web khaocohoc

Khái quát về văn hóa tiền sử và sơ sử Khánh Hòa

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, được giúp đỡ của các cơ quan nghiên cứu khoa học ở Trung ương, khảo cổ học ở Khánh Hòa thu được những thành tựu to lớn trong nghiên cứu về giai đoạn tiền sử và sơ sử.

Về cơ bản diễn trình phát triển văn hóa tiền - sơ sử ở Khánh Hòa được biểu hiện qua hai giai đoạn chủ yếu:

Giai đoạn Văn hóa Xóm Cồn và giai đoạn Văn hóa Sa Huỳnh.

Giai đoạn Xóm Cồn (hay Văn hóa tiền Sa Huỳnh ở Khánh Hòa)

Xóm Cồn là một địa điểm thuộc phường Cam Linh, thị xã Cam Ranh.

Di chỉ Xóm Cồn khai quật lần thứ nhất năm 1980 với diện tích 79m2, lần hai năm 1992 với diện tích 92, 75m2.

Hiện vật thu trong các hố khai quật rất phong phú với các công cụ đá (rìu, bôn, công cụ chặt, bàn mài, hòn kê, hòn ghè và mũi khoan), rất nhiều đồ gốm, các loại xương thú, vỏ các loài nhuyễn thể biển ken dày giữa các tầng văn hóa dày trung bình từ 0, 9 - 1, 5m.

Phân tích bào tử phấn hoa trong hố khai quật di chỉ Xóm Cồn, Trần Đình Nhân cho rằng ở đây rất ít bào tử phấn các loại cây ngập mặn.

Chủ yếu là phấn các loài cây họ đậu, niên đại Holocene giữa (Trần Đình Nhân 1993, tr. 120).

Tàn tích động vật tìm được ở Xóm Cồn có trai biển, ốc biển, các động vật có xương sống như cá, rùa, hươu, nai, hoẵng, lợn, trâu bò rừng, cheo cheo, tê giác; đặc biệt có bò nhà (Bosdom) (Vũ Thế Long 1993, tr. 103).

1993, di chỉ Bích Đầm trên đảo Hòn Tre thuộc phường Vĩnh Nguyên, TP. Nha Trang đã khai quật với diện tích 186m2.

Tầng văn hóa dày 50 - 70cm, cấu tạo từ cát phù sa biển lẫn vỏ nhuyễn thể biển.

Kết quả thu được 81 hiện vật đá, các mũi nhọn làm bằng xương thú và gạc nai, các lõi vòng trang sức từ Ốc tai tượng.

Đồ gốm ở đây chủ yếu là đồ đựng đáy tròn, thân hình cầu dẹt, vai khum ốc tròn hoặc hơi xuôi, miệng loe; một số ít là đồ đựng có chân đế dạng bát bồng hoặc loại hình đồ đựng khác.

Trên các đồ gốm, ngoài văn chải chiếm tuyệt đối, có mặt một số văn thừng biến thể; một số đồ gốm được tô, vẽ màu trước khi nung.

Trên cơ sở đó, các nhà khoa học xác lập văn hóa khảo cổ mang tên:

Văn hóa Xóm Cồn (Nguyễn Công Bằng, Trịnh Căn, Quang Văn Cậy, Vũ Quốc Hiền, Phạm Văn Hoàn và Ngô Thế Phong 1993. Tr. 77).

Như vậy, Văn hóa Xóm Cồn là văn hóa biển tiêu biểu, cầu nối các văn hóa đương thời ở lưu vực sông Đồng Nai với khu vực miền Trung và Tây Nguyên:

Một trong những nguồn hợp tạo dựng văn minh Sa Huỳnh ở Nam Trung Bộ và đây là văn hóa khảo cổ riêng biệt không thể lẫn với bất cứ văn hóa tiền sử nào đã biết đến ở Việt Nam.

Văn hóa Sa Huỳnh ở Khánh Hòa

Di chỉ Hòa Diêm

Di chỉ Hòa Diêm thuộc xã Cam Thịnh Đông, thị xã Cam Ranh, sát bờ biển (cách di chỉ Xóm Cồn khoảng 5km về phía Nam) khai quật 4-1998.

Đây là di chỉ có diện phân bố khá rộng, trong thung lũng khoảng hơn 10.000m2, với những dải cát trải dài theo hướng Đông - Tây, kéo dài vào sát chân núi.

Diện tích 5 hố khai quật (50m2) thu trên 3.000 tiêu bản, chủ yếu đồ gốm.

Đồ gốm ở đây phản ánh nhiều giai đoạn cư trú của cư dân cổ. Đáng chú ý có mặt gốm kiểu Xóm Cồn nằm cạnh gốm Sa Huỳnh.

Rìu đá hầu như vắng mặt (1 tiêu bản), chỉ thu được một số bàn mài có kích thước nhỏ.

Có mặt 6 dọi xe chỉ được làm từ xương, 7 mảnh vòng tay làm từ Ốc tai tượng, 1 vòng làm từ đồ gốm.

Cùng 20 lõi vòng trang sức làm từ vỏ nhuyễn thể biển với những dấu vết khoan cắt rất rõ ràng và mài đều theo hình bán nguyệt (mặt ngoài).

Hố 2 phát hiện ra mộ bằng gốm, bên trong là hài cốt đã cải táng.

Các đặc điểm trên sọ, răng và xương chi thể hiện là cá thể nam có nhiều nét đại chủng Mongoloid (Nguyễn Lân Cường 2000, tr. 128).

Một số loại tô có chân đế chôn theo bên ngoài mộ (đồ tùy táng) có hình dáng đẹp và dưới phần chân đế đục lỗ tròn theo hình tam giác cân và được bố trí thành 3 cụm có khoảng cách đều nhau.

Nhìn chung, gốm ở Hòa Diêm thô, dày, cứng, xương đen, mặt ngoài miết láng, miệng trang trí văn in ấn lỗ, đáy bằng, thân và đáy trang trí văn chải là gốm đặc trưng nhất của Hòa Diêm.

So với Xóm Cồn, gốm Hòa Diêm kém phong phú về chất liệu, song về mô típ hoa văn cũng như kiểu miệng có phần đa dạng hơn và một số chưa thấy xuất hiện trong đồ gốm Xóm Cồn.

4-2002, các nhà khoa học tiến hành khảo sát lại di chỉ Hòa Diêm và mở 3 hố thám sát với diện tích 15m2, phát hiện 2 mộ nồi loại nhỏ.

Trong mộ tìm thấy 1 nồi gốm minh khí miệng loe, cổ thắt, thân phình, đáy bằng.

Có 1 chiếc rìu đồng đặt trong nồi gốm mộ hố 2 thuộc loại rìu lưỡi xòe cân có họng tra cán. Ngoài ra còn thu đồ đá có 54 tiêu bản gồm các loại hình:

Hòn kê, bàn mài, hòn nghiền làm từ cuội sông, trong đó có 2 rìu tứ giác và 1 bàn đập gốm.

Từ những kết quả thu được tại Hòa Diêm cho thấy đây là di chỉ cư trú xen lẫn mộ táng.

Những đặc điểm về di vật ở đây phản ánh tiếp nối văn hóa với một số truyền thống từ Xóm Cồn trong phát triển lên giai đoạn Văn hóa Sa Huỳnh sau này ở Khánh Hòa.

Niên đại di chỉ Hòa Diêm khoảng 2.000 đến 2.500 năm cách ngày nay là bộ phận cấu thành Văn hóa Sa Huỳnh ở Khánh Hòa.

Di chỉ mộ chum Diên Sơn

1988, khu mộ chum tại xã Diên Sơn, huyện Diên Khánh được phát hiện.

Tìm hiểu quanh chum này, các nhà khoa học nhận thấy có ít nhất 4 chiếc (3 chiếc bị vỡ, 1 chiếc còn nguyên vẹn), xử lý tốt, mang về Bảo tàng tỉnh.

1994, tìm thêm được 1 chiếc nữa trong tình trạng bảo quản rất tốt, ở cách địa điểm tìm thấy chum trên khoảng 2m về phía Bắc.

Chum có hình dáng thuôn, vai đứng, miệng loe ngang, đáy tròn hình trứng, cao 82cm, miệng rộng 64cm, thân rộng (quãng giữa) 46cm.

Chum có màu đỏ nhạt, không có hoa văn trang trí, xương gốm rất mỏng, thể hiện kỹ thuật chế tác cao. Bên trong chum chỉ thấy ít than tro màu đen, có khả năng là bộ hài cốt đã hỏa táng.

Bên ngoài, bám quanh chum có 4 nồi bằng gốm, loại nhỏ, đều bằng nhau có màu xám đen, không có hoa văn trang trí. Niên đại của 2 mộ chum này khoảng 2.000 năm trước.

Một số di vật tiêu biểu khác

Đàn đá Khánh Sơn

Phát hiện bộ đàn đá Khánh Sơn ở Khánh Hòa 2-1979 bước đầu khẳng định về tồn tại loại hình nhạc cụ cổ bằng đá và từ đó mở đầu cho quá trình nghiên cứu về đàn đá ở Khánh Hòa nói riêng và ở Việt Nam nói chung.

Theo số liệu của Viện Nghiên cứu âm nhạc, đến 1987, tổng số thanh đàn đá tìm được tại Dốc Gạo lên đến 172 thanh các loại.

Hố thám sát khảo cổ học còn thu 550 mảnh tước tách ra trong quá trình chế tác đàn đá.

Sau phát hiện đàn đá ở Khánh Sơn, những năm tiếp theo tìm thấy đàn đá ở một số tỉnh khác như Đồng Nai, Lâm Đồng, Ninh Thuận và Phú Yên..

Nhưng Khánh Sơn nổi lên như cái nôi phong phú bậc nhất, công xưởng khổng lồ chế tạo đàn đá thời sơ sử ở Việt Nam được biết đến hôm nay.

Trống đồng Nha Trang

Nay, tại TP. Nha Trang tìm thấy 2 trống đồng khá nguyên vẹn. Chiếc thứ nhất tìm được 26-10-1983 tại số nhà 36/9 đường Đồng Nai, phường Phước Hải.

Chiếc thứ 2 tìm được 4-12-2000 tại số nhà 6A đường Hương Điền, phường Phước Hải. Các nhà khảo cổ học đặt tên là trống Nha Trang I và trống Nha Trang II.

Trống Nha Trang I tìm thấy ở độ sâu khoảng 0, 70m trong tư thế chôn ngửa.

Bên trong có một số mảnh gốm màu đen thuộc Văn hóa Sa Huỳnh. Trống có kích thước: Đường kính mặt 52cm, cao 42m, đường kính chân 57cm.

Trống có những hoa văn trang trí, giữa mặt trống có hình sao 12 cánh đúc nổi, xen giữa các cánh là hoa văn hình lông công cách điệu.

Các hình hoa văn hình học là gạch ngắn song song, vòng tròn chấm giữa, hồi văn gấp khúc. Vành chủ đạo trên mặt trống là hoa văn hình 6 chim Lạc bay ngược chiều kim đồng hồ.

Thân trống trang trí hoa văn hình học đơn giản:

Các cột hoa văn gạch ngắn song song ở lưng trống, băng hoa văn vòng tròn chấm giữa, gạch ngắn song song ở phần tang trống và phần dưới của lưng trống. Hai bên thân trống có hai đôi quai kép tết hình bông lúa.

Trống Nha Trang II tìm thấy ở độ sâu 1, 5m trong tư thế chôn úp xuống, cao 50cm, đường kính mặt trống là 62cm, đường kính chân trống là 67, 5m.

Trong trống Nha Trang II có một số di vật được chôn theo 1 nồi nhỏ bằng gốm, 3 viên gốm làm bằng đất nung hình trụ dẹt, 1 vật hình đầu chim bằng đồng, 1 cuốc sắt, 1 đục sắt và 3 kiếm sắt.

Trống được trang trí các vành hoa văn như sau:

Giữa mặt trống có hình sao nổi 10 cánh, giữa các cánh sao là các hoa văn gạch ngắn song song. Từ trong ra còn có những hoa văn ở vành 1, 4, 7 và 9 là gạch ngắn song song.

Vành 2, 3, 8 là vòng tròn chấm giữa có tiếp tuyến; vành 5 là hoa văn zích zắc hình gần giống ô trám.

Xen giữa các hoa văn này lại có hoa văn hình vòng tròn; vành 6 là hoa văn hình 8 chim mỏ dài, cánh xòe rộng đang bay.

Tang trống trang trí loại hoa văn gạch ngắn, vòng tròn có tiếp tuyến, không thấy hoa văn hình thuyền.

Lưng trống có hoa văn gạch ngắn song song, vòng tròn tiếp tuyến nhưng rất mờ.

Trống có hai đôi quai kép đúc hai bên thân. Trống đúc bằng khuôn hai mang, vết nối mang khuôn còn rõ.

Có thể đây là 2 trống đồng thuộc nền Văn hóa Đông Sơn nổi tiếng, rất giống những trống Đông Sơn tìm được ở:

Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ nước ta như trống Lũng Xuyên, Thọ Vực, Vĩnh Ninh, Hà Nội.. chế tạo tại vùng Bắc Bộ hoặc Bắc Trung Bộ sau đó đem vào khu vực Khánh Hòa qua những đường khác nhau.

Đó là đường tán phát của trống đồng theo đường ven biển, mà Khánh Hòa là một chặng đường.

Có mặt trống đồng Nha Trang I và Nha Trang II làm diện mạo thời đại kim khí ở Khánh Hòa càng thêm phong phú. Niên đại 2 trống này khoảng 2.000 năm cách ngày nay.

Nay khảo cổ học tiền sử và sơ sử Khánh Hòa từng bước nghiên cứu và trên cơ sở đó có thể xác lập diễn trình phát triển của một vùng đất vào buổi bình minh của loài người.

Hệ thống di tích, di vật ở đây cho thấy, dù mang tính địa phương rõ nét song các văn hóa cổ ở Khánh Hòa vẫn nằm trong dòng chảy chung của các nền văn hóa lớn ở Việt Nam và khu vực, mang đậm sắc thái văn hóa núi rừng, văn hóa đồng bằng và văn hóa biển - đảo.

Những thành tựu về văn hóa, văn minh mà các nhóm cư dân cổ ở đây đã đạt được qua hàng ngàn năm sẽ tiếp nối ở các giai đoạn sau cao hơn và đó là những đóng góp chung cho nền văn hóa các dân tộc Việt Nam đa dạng, phong phú.

NGUYỄN CÔNG BẰNG

Nguồn

Web baokhanhhoa

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
70984127_1227282837471966_3596148302732591104_n.jpg


Dấu tích người Việt cổ trên đất Khánh Hòa từ 2.000 năm trước

Sáng 4-2 (26 tháng Chạp), Bảo tàng tỉnh Khánh Hòa chính thức mở cửa đón du khách tham quan triển lãm "Khảo cổ học tiền sử và sơ sử Khánh Hòa."

Một trong nhiều hoạt động của Sở VH-TT&DL tỉnh Khánh Hòa nhằm chào đón Xuân Bính Thân, đồng thời giới thiệu 300 hiện vật khảo cổ học qua gần 1 thế kỷ phát hiện, nghiên cứu.

Theo triển lãm, từ thời Pháp thuộc, nhà khảo cổ học kiêm địa chất học H. Mansuy mở đầu cho việc đi tìm dấu người xưa ở Khánh Hòa.

Ông tìm thấy 2 cuốc đá mài trên đảo Hòn Tre, Vịnh Nha Trang năm 1925.

Sau đó, nhà địa chất học E. Saurin cũng có những phát hiện công cụ đá và những mảnh gốm thô ở khu vực nhà thờ Mỹ Ca, ven bờ Vịnh Cam Ranh.

Những phát hiện của các học giả phương Tây đánh dấu khởi đầu nghiên cứu thời tiền sử, sơ sử ở Khánh Hòa.

1979, các nhà khảo cổ học và quản lý văn hóa phát hiện di chỉ Xóm Cồn, ven Vịnh Cam Ranh.

Trải gần 4 thập kỷ sau, các nhà khảo cổ học có những phát hiện quan trọng về thời tiền sử, sơ sử ở Khánh Hòa.

Đó là những di tích thuộc Văn hóa Xóm Cồn, đặc trưng là vỏ sò biển trong tầng văn hóa ở vùng ven bờ Vịnh Cam Ranh.

Ngoài ra, Văn hóa Sa Huỳnh cũng có mặt ở vùng đồng bằng hẹp Diên Khánh ở táng tục chôn cất bằng mộ chum.

Bên cạnh đó, các nhà khoa học còn phát hiện di chỉ Hòa Diêm, với nhiều đồ trang sức, mộ chum.. được tìm thấy.

Từ đây, các nhà khoa học đánh giá, Khánh Hòa thời cổ đại có các mối quan hệ, giao lưu văn hóa xa gần.

Vùng đất Khánh Hòa còn tìm thấy đàn đá Khánh Sơn, trống đồng Đông Sơn, gốm sứ ở Trường Sa.. chứng minh người Việt cổ, văn minh Việt cổ có mặt tại Khánh Hòa và hòa vào văn minh bản địa cách đây khoảng 2.000 năm.

Nguồn

Dantri

Vị trí của biển trong Văn hóa Sa Huỳnh

Hằng số chung địa - văn hóa của miền Trung là con người sinh tồn trên dải đất hẹp được bao bọc bởi biển cả và núi non.

Nơi đây địa hình có đặc trưng chung về độ cao chuyển dần từ vùng núi xuống đồi gò trung du đến đồng bằng phía trong dải cồn cát ven biển và ra đến đảo gần bờ.

Trên mỗi dạng địa hình khác nhau con người sinh sống và ứng xử thích hợp nhuần nhị tạo dựng các sắc thái văn hóa đa dạng, trong đó sắc thái văn hóa biển khá nổi bật chiếm vị trí quan trọng xuyên suốt.

Theo Tiến sĩ khảo cổ học Đoàn Ngọc Khôi nhiều năm lăn lộn nghiên cứu, khai quật nhiều di tích cổ trên địa bàn Quảng Ngãi xác định:

Thời đại kim khí, con người tiến dần từ vùng thung lũng núi, đồi gò trung du xuống đồng bằng ven biển.

Những bằng chứng khảo cổ học về phát hiện ở vùng thượng nguồn phía Bắc sông Trà Khúc các dấu tích của cư dân hậu kỳ đá mới qua địa điểm khảo cổ Trà Phong.

Bộ sưu tập công cụ Trà Phong có loại cuốc, rìu có vai, bàn mài, khuyên tai chế tác từ loại đá lửa rất cứng.

Ngoài ra, các nhà khảo cổ tìm thấy những di tích cùng tính chất văn hóa với Trà Phong như Gò Nà, Vườn Chì phân bố ở vùng đồi thấp về phía Đông gần biển.

Bộ sưu tập di vật Trà Phong rất gần gũi với bộ sưu tập di vật đồ đá mới của Văn hóa Biển Hồ. Các bằng chứng khảo cổ này đem lại nhận thức về dòng người.

Dòng văn hóa ở thời điểm hậu kỳ đá mới từ vùng Tây Nguyên vượt qua rẻo cao Trường Sơn tiến dần về đồng bằng ven biển chiếm lĩnh, khai phá và tạo dựng nền văn hóa nổi tiếng trong thời đại kim khí - Văn hóa Sa Huỳnh - trên cơ sở giao lưu hội nhập với các dòng chảy văn hóa khác từ phía Bắc xuống, từ phía Nam ra và từ phía Biển Đông vào.

Có thể nói, Văn hóa Sa Huỳnh là 1 trong 3 trung tâm văn hóa lớn thời kim khí ở Việt Nam.

Văn hóa Sa Huỳnh với phát triển đỉnh cao sơ kỳ sắt được hợp thành bởi các dòng chảy tiền Sa Huỳnh sơ kỳ đồng thau trước đó.

Nói đến Văn hóa Sa Huỳnh là đề cập đến nền văn hóa vật chất của cư dân Sa Huỳnh luôn gắn liền với biển.

Dù vẫn có các điểm di tích Sa Huỳnh ở vùng núi nhưng khá ít trong khi đó dọc theo các cồn cát ven biển và đảo gần bờ có bùng nổ số lượng các di tích Văn hóa Sa Huỳnh (ở đây bao gồm các di tích tiền Sa Huỳnh – thời đại đồng thau và các di tích Sa Huỳnh sơ kỳ sắt).

Di chỉ làng Thanh, xã Phổ Thạnh - Đức Phổ khai quật năm 1978.

Cảnh quan chung của các di tích tiền Sa Huỳnh, Sa Huỳnh dọc ven biển miền Trung ví như:

Long Thạnh, Bình Châu I, Bình Châu II, Phú Khương, Thạnh Đức, Gò Quê (Quảng Ngãi), Cồn Ràng (Huế), các điểm Sa Huỳnh ở Hội An, Bàu Trám (Quảng Nam), Tăng Long (Bình Định), Gò Ốc (Phú Yên), Xóm Cồn, Hòa Diêm (Khánh Hòa), Bàu Hòe (Ninh Thuận)..

Hầu như phân bố trên các dải cồn cát ven biển, gần đầm nước ngọt, sát cạnh cửa sông ra biển, nơi tụ cư của cư dân Sa Huỳnh lâu dài với tầng văn hóa dày.

Gắn liền khu cư trú là những nghĩa địa lớn của người Sa Huỳnh như Gò Quê, Phú Khương, Thạnh Đức (Quảng Ngãi), Tăng Long (Bình Định), Cồn Ràng (Huế), Hậu Xá, Đại Lộc (Quảng Nam)..

Không những cư trú ven biển, gắn với cửa sông ra biển mà người Sa Huỳnh còn vượt biển ra chiếm lĩnh các đảo gần bờ.

Bằng chứng trên các đảo Cù Lao Chàm (Quảng Nam), Cù Lao Ré (Quảng Ngãi), các đảo vịnh Nha Trang (Khánh Hòa) đều tìm thấy các di tích Văn hóa Sa Huỳnh.

Không gian Văn hóa Sa Huỳnh mở rộng từ vùng Quảng Bình – nơi tiếp xúc với Văn hóa Đông Sơn kéo dài đến vùng Ninh Thuận, Bình Thuận - nơi tiếp xúc với văn hóa thời đại kim khí Đông Nam Bộ. Đồng thời còn mở rộng không gian từ vùng trung du miền núi đến các đảo gần bờ.

Nhưng trên dải đất miền Trung, tính hướng biển vẫn là điểm quan trọng cơ bản xuyên suốt trong truyền thống văn hóa của cư dân Sa Huỳnh.

Nét nổi bật, cuộc sống người Sa Huỳnh gắn bó hòa quyện với biển (biển giữ vị trí chính yếu trong đời sống văn hóa vật chất và tinh thần của họ).

Trong các di tích tiền Sa Huỳnh, Sa Huỳnh ở Quảng Ngãi tìm thấy khá nhiều bằng chứng về hoạt động khai thác biển của họ.

Quá trình phát hiện, khai quật các di tích cho thấy tầng văn hóa Bình Châu II tìm thấy các hố rác bếp chứa nhiều vỏ sò ốc có nguồn gốc khai thác từ biển.

Tầng Văn hóa Xóm Ốc, Suối Chình (đảo Lý Sơn) cấu tạo bởi các loại vỏ nhuyễn thể ken dày với gốm do cư dân cổ sử dụng và bỏ lại, ở đây tìm thấy khá nhiều hố rác bếp chứa các loại vỏ ốc, sò, xương cá biển.

Bộ sưu tập di vật phản ánh hoạt động khai thác biển của người Sa Huỳnh, ví như tại địa điểm Long Thạnh tìm thấy lưỡi câu xương.

Địa điểm Bình Châu I tìm thấy lưỡi câu đồng, lao đồng; địa điểm Xóm Ốc tìm thấy lưỡi câu đồng trong mộ táng.

Truyền thống khai thác biển của người Sa Huỳnh còn được thể hiện qua lối sử dụng nguyên liệu từ vỏ nhuyễn thể để chế tác công cụ và đồ trang sức.

Cư dân Văn hóa Sa Huỳnh trên đảo Lý Sơn sử dụng vỏ tai tượng (tridacna) và nắp ốc cừ (turbo) để chế tác công cụ ghè đập.

Quan hệ của Văn hóa Sa Huỳnh với vùng hải đảo Thái Bình Dương khu vực Đông Nam Á là quan hệ giao lưu trong môi trường biển gắn liền dòng hải lưu đen (Black current) mà W. G Solheim II đưa ra.

Thiên nhiên ưu đãi vùng đất cư trú của người Sa Huỳnh có đường bờ biển kéo dài và có những cửa sông để đi ra biển thuận tiện, nên người Sa Huỳnh vươn ra biển buôn bán trao đổi với bên ngoài.

Đồng thời ngược lại những luồng thương mại trên biển cũng dễ dàng xâm nhập vào xã hội Sa Huỳnh qua hệ thống các cửa biển.

Buôn bán là con đường dẫn đến giao tiếp văn hóa, hòa đồng nhân chủng, ngôn ngữ.

Trong khu vực Đông Nam Á, trao đổi buôn bán giữ vị trí quan trọng, phân tích vai trò của nó, Hutterer, nhà khảo cổ học người Mỹ cho rằng:

".. Hoạt động buôn bán đóng vai trò lớn trong tiến triển văn hóa ở Đông Nam Á và làm động lực gián tiếp để biến đổi văn hóa."

Trung tâm Sa Huỳnh có giao lưu rộng với các nơi trong khu vực thể hiện qua những khuyên tai ba mấu nhọn, khuyên tai hai đầu thú.. là những hiện vật đặc trưng của Sa Huỳnh tìm thấy ở vùng phân bố của Văn hóa Đông Sơn, ở Thái Lan, ở vùng hải đảo Đông Nam Á..

Trong các mộ chum Sa Huỳnh có các hiện vật trang sức bằng đá mã não và các loại đá quý khác đều có nguồn gốc từ vùng Trung Á.

Các loại gương đồng Hán tìm thấy ở vùng trung du Nghĩa Hành (Quảng Ngãi), Bình Yên (Quảng Nam).. cùng với tiền đồng Ngũ Thù thời Hán tìm thấy ở Xóm Ốc (Quảng Ngãi) và các di tích Sa Huỳnh ở Hội An.. chúng đều có nguồn gốc giao lưu trao đổi với Trung Hoa.

Đặc biệt quan hệ giao lưu giữa Sa Huỳnh và các đảo ở Thái Bình Dương rất mật thiết.

Ví như trong mối quan hệ so sánh đồ gốm Sa Huỳnh và đồ gốm Kalanay (Philippin) ; đồ gốm Tabon (Indonesia) khá giống nhau ở kiểu dáng, phong cách trang trí, khiến cho W. G. SolheimII đưa ra khái niệm:

"Truyền thống Sa Huỳnh-Kalanay" (Sahuynh- Kalanay Tradition).

Di cốt (song táng) di chỉ Xóm Ốc - Lý Sơn khai quật năm 1997.

Người Sa Huỳnh có óc thẩm mỹ cao, biểu hiện rõ nét nhất là nghệ thuật tạo dáng và trang trí trên gốm. Các di tích tiền Sa Hùynh sơ kỳ đồng thau đồ gốm được tạo tác như tác phẩm nghệ thuật.

Nếu đồ gốm Bình Châu nổi bật với phong cách tạo dáng gãy gấp khúc mạnh mẽ ở các điểm chuyển tiếp thuộc miệng, eo cổ, vai.

Đồng thời luôn tạo tương phản mạnh về màu sắc giữa màu áo gốm đỏ tươi làm nền nổi bật các dải băng chì trên thân đồ gốm.

Trong khi đó đồ gốm Long Thạnh luôn chú ý đến yếu tố tạo dáng cân phân theo tỉ lệ cân xứng ở ba phần miệng - thân và chân đế; các điểm chuyển tiếp trên thân đồ đựng luôn cong lượn.

Trang trí trên bình lọ hoa gốm là tổng hợp các loại văn vặn thừng mịn, văn in chấm que, văn in chấm vỏ sò, văn vạch, văn ấn răng cưa kết hợp với đắp nổi tạo gờ.. để tạo nhiều đồ án khác nhau như đồ án chữ S, đồ án tam giác, hình kỷ hà gấp khúc..

Các đồ án này làm nổi bật bằng nghệ thuật tô chì graphít lồng bên trong tương phản với nền áo gốm tô đỏ.

Trên nắp đậy chum tạo dáng như hình lồng bàn úp, trên đó trang trí các đồ án chữ S, kỷ hà được tô chì nổi bật trên nền tô đỏ.

Đồ án chữ S ngược luôn là chủ đề trang trí nổi bật trên gốm tiền Sa Huỳnh, ngôn ngữ của nghệ thuật biểu hiện ở đây là các trạng thái của sóng biển từ hiền hòa đến hung dữ.

Đặc trưng tính biển của đồ gốm tiền sử vùng duyên hải và các đảo trong lòng chảo Thái Bình Dương là kỹ thuật in chấm vỏ sò.

Trong đồ gốm tiền Sa Huỳnh, Sa Huỳnh tỉ lệ in chấm vỏ sò chiếm vị trí thứ hai sau kỹ thuật văn vặn thừng.

Đồ án hoa văn in chấm vỏ sò thể hiện khá phong phú trên đồ gốm Văn hóa Sa Huỳnh ở Phú Khương, Tăng Long, Gò Ốc, Xóm Ốc.

Người Sa Huỳnh sử dụng vỏ sò ở phần mép và gai vỏ sò để tạo các đồ án hoa văn rất đẹp và mang đậm tính biển.

Vốn là cư dân sinh sống chủ yếu ven duyên hải miền Trung, có thể người Sa Huỳnh biết đến nghề muối.

Yếu tố muối đóng vai trò thế nào trong quá trình giao lưu văn hóa giữa đồng bằng duyên hải miền Trung với khu vực Tây Nguyên trong thời kim khí tiền Sa Huỳnh, Sa Huỳnh.

Đây là câu hỏi lớn đặt ra cho khảo cổ học, đáng chú ý các di tích Văn hóa Sa Huỳnh quan trọng thường phân bố liền kề với các đồng muối cổ, ví như:

Di tích Sa Huỳnh, Phú Khương, Long Thạnh gắn với đồng muối Tân Diêm.

Di tích Bình Châu gắn với đồng muối Diêm Điền; di tích Gò Quê gắn với đồng muối cổ Tuyết Diêm.

Như vậy biển đóng vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa vật chất và tinh thần của cư dân Văn hóa Sa huỳnh.

Biển đem lại cho người Sa Huỳnh nguồn lợi thuỷ sản, muối biển; biển rộng mở những con đường giao lưu với bên ngoài; biển đem lại cho người Sa Huỳnh cảm hứng sáng tạo.

BÀI, ẢNH: MINH TRÍ, KHÔI NGỌC (QUẢNG NGÃI)

Nguồn

Web baonhandan

Thuật in đá Khánh Sơn, trống định âm Đại Mỹ và những vật như dụng cụ đồ đá, những bộ xương, đồ gốm và đồ trang sức v.. v.. tìm thấy ở nơi khảo cổ Xóm Cồn và di tích Hoa Diêm giúp mọi người có cái nhìn tổng thể về văn hóa Khánh Hòa.

Dù không đủ nhưng những vật viện bảo tàng trưng bày ở phạm vi nào đó đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu của con người về nền văn hóa của vùng cây Lô Hội.

Đến đây, người xem có thể thưởng thức thuật in đá Khánh Sơn, khám phá cổ học mà làm cả thế giới ngạc nhiên.

Nền Văn hóa Xóm Cồn (khai quật 1980 và 1991) một trong những nét văn hóa đặc biệt ở Việt Nam.

Những vật thuộc về Văn hóa Xóm Cồn trưng bày ở viện bảo tàng bao gồm những đồ làm từ đá (rìu đá, bàn mài đá. V.. v.) những dụng cụ làm từ xương.

Nổi bật nhất là gốm Xóm Cồn, đá làm khác nhau theo kiểu mẫu và kích thước. Đồ gốm có màu đỏ nâu và vàng tìm thấy ở Việt Nam lần đầu tiên.

Nếu tính cả nền văn hóa tiền sử ở Khánh Hòa thì có nền Văn hóa Sa Huỳnh, những mộ bia Diên Sơn (Diên Khánh) và nơi khảo cổ Hoa Diêm Cam Hòa (Cam Ranh) chưa được đưa ra để trưng bày trong triển lãm này, trong những bức tranh quá trình khai quật.

Những vật Văn hóa Sa Huỳnh giới thiệu với công chúng là đồ gốm, những dụng cụ đồ đá (bàn mài, rìu) đồ trang sức.

Một trong những nét văn hóa đặc biệt nhất là nền văn hóa Chàm. Nét đặc biệt nhất trong nghệ thuật Chàm là ngành điêu khắc gần với khảo cổ học.

Do không gian giới hạn viện bảo tàng trưng bày một số kiệt tác nghệ thuật tượng trưng như tượng Ponagar, mô hình tháp Ponagar Nha Trang, tượng đầu sư tử bằng đá, tượng Apsara. V. v..

Ngoài ra viện bảo tàng giới thiệu những nét đặc trưng văn hóa của các nhóm dân tộc thiểu số ở Khánh Hòa như Raglai, Êđê, GrêTrieng.

Đời sống những đồng bào đã tái hiện qua những bức tranh con người đang làm việc, những hoạt động văn hóa của các nhóm dân tộc thiểu số, những dụng cụ (dao, arbalest, cuốc.) áo quần của những người dân tộc, v. V..

Thêm vào đó, đồ gốm Lư Cấm một loại đồ gốm tồn tại ở Khánh Hòa hơn 200 năm và bộ sưu tập đồ gốm của các nhà điêu khắc với những tượng đất nung nguyên thủy phỏng theo chủ đề "Tình yêu của người mẹ đối với những đứa con", "Những lễ hội truyền thống", "Tình yêu"..

Nay UBND tỉnh ủy quyền cho Sở Kế hoạch Đầu tư và Sở Thông tin Văn hóa lên kế hoạch để xây dựng viện bảo tàng mới.

Chúng ta hy vọng Khánh Hòa sẽ có nhiều viện bảo tàng cho khách du lịch và cho phát triển văn hóa.

Nguồn

Web docletresort

NGHIÊN CỨU KHẢO CỔ HỌC KHÁNH HÒA:

Giải mã bề dày lịch sử

Dựa kết quả các thám sát, khai quật khảo cổ học, đề tài cấp tỉnh:

"Nghiên cứu khảo cổ học tiền sử và sơ sử Khánh Hòa" (ông Nguyễn Tâm, Phó Giám đốc Bảo tàng tỉnh làm chủ nhiệm) là công trình đầu tiên hệ thống được các di tích và di vật tiền sử và sơ sử Khánh Hòa. Kết quả đề tài sẽ phục vụ cho việc xuất bản sách chuyên khảo.

Mang nét đặc trưng

Đề tài phân lập hệ thống các di tích khảo cổ học tại Khánh Hòa cũng như xác định diện mạo các nền văn hóa khảo cổ như:

Văn hóa Xóm Cồn cách đây 3.000 - 4.000 năm, Văn hóa Sa Huỳnh (với bằng chứng là các mộ chum ở Diên Khánh) và Văn hóa Đông Sơn (bằng chứng là các trống đồng Đông Sơn) khoảng vài thế kỷ TCN.

Một số hiện vật khai quật từ di chỉ khảo cổ Vĩnh Yên, Vạn Thạnh, Vạn Ninh. Đó là hệ thống di tích ven bờ vịnh Cam Ranh như:

Xóm Cồn, Hòa Do 5A, Hòn Lao, Gò Miếu, Gò Duối, Bình Hưng, Bình Ba và Rừng Cấm (TP. Cam Ranh) và Văn Tứ Đông, Trảng Cháy, Vĩnh Hải, Gò Diệp, Suối Cam (huyện Cam Lâm).

Di tích ven bờ vịnh Nha Trang gồm:

Bích Đầm, Bãi Trũ, Đầm Già (Vĩnh Nguyên).

Di tích ven bờ vịnh Vân Phong:

Vĩnh Yên, Sơn Đừng, đồi Cô Đơn, Hồ Suối Lớn, trảng Bà Vải (Vạn Ninh) ; cụm di tích Hòa Diêm và mộ chum Diên Sơn.

Ngoài ra là các di tích đào được như trống đồng Đông Sơn ở TP. Nha Trang và thị xã Ninh Hòa, di tích Dốc Gạo phát hiện đàn đá Khánh Sơn.

Tại quần đảo Trường Sa, qua các nghiên cứu khảo cổ học của Viện Khảo cổ học thu nhiều mảnh gốm giai đoạn tiền sử và sơ sử cùng nhiều hiện vật sành, sứ thế kỷ VI đến thế kỷ X cho đến nay.

Đặc điểm gốm tiền sơ sử thu được đều thuộc nhóm gốm xốp, xương gốm làm từ đất có pha bã thực vật và cát nên thô, nhẹ, mỏng, độ nung không cao.

Những tư liệu đã khai quật, thám sát và điều tra sơ bộ các di tích tiền sử và sơ sử ở Khánh Hòa cho thấy hầu hết các di tích nằm gần biển, khác hẳn các cộng đồng khác thường cư trú ven sông, suối.

Yếu tố khai thác nguồn lợi từ biển giữ vai trò quan trọng trong các cộng đồng dân cư cổ nơi đây xuyên suốt từ thời tiền sử sang sơ sử.

Có sự giao lưu về văn hóa

Về di vật thời tiền sơ sử ở Khánh Hòa, có thể kể đến đồ đá, đồ gốm, đồ kim loại.

Nếu đồ gốm thời tiền sử khá đơn điệu về kiểu dáng, các trang trí không chú trọng tính mỹ thuật mà chỉ mang yếu tố kỹ thuật thì sang thời sơ sử, đồ gốm đã tinh xảo, đầy tính mỹ thuật.

Đồ đá có thể thấy có phân biệt rõ ràng tương ứng với 2 giai đoạn khác nhau là Văn hóa Xóm Cồn và Hòa Diêm.

Đồ đá Văn hóa Xóm Cồn chất liệu xấu, hình dạng công cụ lao động và đồ trang sức thô nặng, cho thấy tính thực dụng cao, ít chú ý đến tính thẩm mỹ và sự tinh tế.

Giai đoạn Hòa Diêm xuất hiện chất liệu mới:

Đồ đồng, đồ sắt nên công cụ bằng đá hầu như mất hẳn. Các di tích có phát hiện đồ kim loại cho thấy ngay từ sớm người cổ ở Khánh Hòa nắm vững kỹ thuật rèn sắt, đúc đồng.

Ngoài ra, trong các di tích còn có các hiện vật bằng đá quý, thủy tinh, vàng, các loại vỏ ốc chế tác thành đồ trang sức có tính thẩm mỹ cao.

Bằng chứng thể hiện ở khối di vật khổng lồ lấy lên từ lòng đất Khánh Hòa, các nhà khảo cổ học đã giải mã bề dày lịch sử, làm rõ bức tranh tiền sơ sử, dựng lại cuộc sống của người xưa, biết khai thác biển, khai thác rừng, biết làm đẹp từ những vòng đá, vỏ ốc.

Theo Phó Giáo sư - Tiến sĩ Đặng Văn Thắng, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. HCM, các mộ chum tìm thấy ở Khánh Hòa rất đặc sắc, không chỉ thu hút giới khảo cổ.

Nó cho thấy người cổ Khánh Hòa còn coi trọng thế giới tâm linh, thể hiện qua cách táng người quá cố bằng quan tài gốm, chôn theo đồ dùng thường nhật để làm "vốn" ở thế giới bên kia.

Công trình này vạch ra con đường và các mối giao lưu văn hóa của cư dân Khánh Hòa thời tiền sử và sơ sử.

Điểm nhấn là giao lưu với miền Bắc nước ta (bằng chứng là trống đồng Đông Sơn), với khu vực Trung Trung Bộ (giao lưu Văn hóa Sa Huỳnh mà bằng chứng là khu mộ chum Diên Sơn) và với nhiều vùng xa xôi hơn như:

Ấn Độ, Trung Đông, Philippines (qua các trang sức đào được ở Hòa Diêm).

Điều đó chứng tỏ văn hóa thời đại cổ ở Khánh Hòa không khép kín.

Người thời tiền sử và sơ sử nơi đây có mối giao lưu xa, chủ yếu bằng đường biển.

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, đề tài đề xuất các giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị hệ thống các di chỉ khảo cổ học ở Khánh Hòa.

Trong đó, Hội đồng Khoa học và Công nghệ cấp tỉnh gợi ý chọn trong số những di tích khai quật địa điểm đặc sắc (như Hòa Diêm) để xây bảo tàng ngoài trời, vừa bảo tồn vừa khai thác, quảng bá phát huy giá trị di tích.

Nguồn

Web ninhhoatoday

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
70399457_1222690784597838_6741876246898016256_n.jpg


Văn Hóa Sa Huỳnh: Dòng chảy 100 năm

Tròn 1 thế kỷ kể từ khi các nhà khảo cổ người Pháp tìm thấy những di chỉ khảo cổ có niên đại cách nay 2.500 đến 3.000 năm tại cồn cát Sa Huỳnh (Đức Phổ).

Những di tích mới thuộc Văn hóa Sa Huỳnh vẫn tiếp tục phát hiện, những hiện vật mới bất ngờ và phong phú vẫn được tìm thấy..

Dấu ấn nền văn hóa nổi tiếng

1909, niên giám của Viện Viễn Đông Bác Cổ đăng thông tin:

Phát hiện kho chum khoảng 200 chiếc nằm cách mặt đất không sâu, trong cồn cát ven vùng biển Sa Huỳnh.

Từ đó đến nay, hàng trăm di chỉ văn hóa này tìm thấy khắp các tỉnh ven biển miền Trung từ Quảng Bình đến Bình Thuận và lan cả sang một số địa bàn lân cận.

Từ đó, các cuộc khai quật tiếp theo của các nhà khoa học trong và ngoài nước đem lại những kết quả khá bất ngờ.

Đến những năm sau 1975 đến nay, những cuộc khai quật của các nhà khảo cổ học Việt Nam mới được tiến hành toàn diện.

Các khai quật tiến hành trên địa bàn rộng lớn, dọc duyên hải miền Trung, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ mà nhiều nhất là địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Theo đó, các lần khai quật lớn ở đây lần lượt:

Năm 1976 khai quật tại Gò Ma Vương (Phổ Khánh-Đức Phổ) ;

Năm 1997 khai quật tại Xóm Ốc (Lý Sơn) ;

Năm 2000 tại suối Chình (Lý Sơn) ;

Năm 2005 tại Bình Đông (Bình Sơn) và gần nhất là năm 2009 tại xã Đức Thắng (Mộ Đức).

Hiện vật tìm thấy qua những lần khai quật cho phép tái hiện không gian Văn hóa Sa Huỳnh rộng lớn hơn nhiều so với hình dung của các nhà khảo cổ học Pháp trước đây.

Các khai quật này phát hiện tồn tại của giai đoạn văn hóa sớm, liền trước, tiền thân của Sa Huỳnh cổ điển, mà nay được định danh là giai đoạn tiền Sa Huỳnh hoặc Sa Huỳnh sớm.

Phát hiện có ý nghĩa khoa học này cho phép khẳng định Văn hóa Sa Huỳnh mà người Pháp tìm thấy và định danh có nguồn gốc bản địa, phát sinh, phát triển ngay trên dải đất từ Quảng Bình đến Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, một số hải đảo ven bờ biển miền Trung Việt Nam và có thể rộng hơn, trên nhiều vùng của bán đảo Đông Dương.

Với phân bố khá đậm đặc và liên tục những di chỉ, hiện vật nền văn hóa có quan hệ với các nền văn hóa tồn tại đồng đại và không gian giao thoa, tiếp cận mà không phải du nhập từ nơi khác đến.

Những kết quả khai quật, nghiên cứu của các nhà khảo cổ học Pháp và Việt Nam có thể cho hình dung một số nét cơ bản về đời sống, sinh hoạt, tín ngưỡng của cư dân Sa Huỳnh.

Đó là những nhóm người biết sử dụng các công cụ, đồ trang sức, vũ khí bằng đá, xương động vật, thủy tinh, mã não, gốm.. kể cả các công cụ bằng đồng thau và sắt sớm.

Biết đánh cá để làm thức ăn, biết làm đẹp cho mình bằng những vật trang sức phong phú, chú ý tạo dáng cho các vật dụng, sáng tạo nhiều dạng hoa văn độc đáo, giàu tính thẩm mỹ, đặc biệt là trên đồ gốm.

Những phát hiện mới, nghiên cứu mới

Những năm 90 thế kỷ XX, việc phát hiện và khai quật cụm di tích Giồng Cá Vồ - Giồng Phệt (thuộc huyện Cần Giờ - TP. HCM) gây "chấn động" giới khảo cổ học và sử học.

Đó là những bãi mộ chum lớn với hiện vật vô cùng phong phú, đa dạng về chất liệu cũng như loại hình.

Đồ tuỳ táng gồm có kiếm sắt, dao sắt, khuyên tai, hạt chuỗi thuỷ tinh, hạt chuỗi vàng, khuyên tai vàng..

Cuối 2008 đầu 2009 mới đây, một cuộc khai quật khảo cổ ở di tích Bãi Cọi (xã Xuân Viên, Nghi Xuân, Hà Tĩnh) phát hiện những hiện vật đặc trưng của Văn hóa Sa Huỳnh như khuyên tai hình hai đầu thú, mộ bình, mộ nồi chôn đứng, mộ chum.. và rất nhiều hiện vật gốm như:

Chum, vò, bát bồng, nắp nón cụt, khuyên tai ba mấu bằng thuỷ tinh và đất nung, đặc biệt là chum mai táng hình trái đào.

Chính những phát hiện này cho thấy dù tròn 1 thế kỷ phát hiện và nghiên cứu.

Nhưng Văn hóa Sa Huỳnh vẫn luôn tiềm ẩn những bất ngờ, không những thú vị mà còn là thách thức với các nhà nghiên cứu, nhà khoa học trong và ngoài nước.

Bên cạnh những phát hiện mới, những năm gần đây, nhiều khai quật khảo cổ học tiến hành nghiên cứu nhằm tìm hiểu mối quan hệ giữa Văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Champa.

Trong nhiều di tích, các nhà khảo cổ tìm thấy những mảnh gốm vừa mang đặc điểm gốm Sa Huỳnh và cả đặc điểm gốm Champa.

Đây là nguồn tư liệu quan trọng để chứng minh con đường phát triển từ Văn hóa Sa Huỳnh lên văn hóa Champa.

Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra từ thư tịch cổ một số "yếu tố Sa Huỳnh" trong xã hội và văn hóa Champa.

Từ không gian và thời gian, trên cơ sở những tư liệu khảo cổ học, đến nay có thể cho rằng nhà nước Champa là tiếp nối Văn hóa Sa Huỳnh, hình thành trên cốt lõi Văn hóa Sa Huỳnh dưới ảnh hưởng của những yếu tố văn hóa ngoại sinh Đông Sơn - Việt cổ, Trung Hoa và Ấn Độ.

Cần có Bảo tàng Văn hóa Sa Huỳnh

Những gì chúng ta đang lưu giữ và biết được về cư dân Sa Huỳnh, Văn hóa Sa Huỳnh trong 100 năm qua đủ để hình dung ra diện mạo Văn hóa Sa Huỳnh và cư dân Sa Huỳnh.

Từ nguồn gốc đến các giai đoạn phát triển, từ loại hình di tích di vật đến đặc trưng văn hóa ngày càng rõ nét hơn.

Tuy nhiên vấn đề tôn tạo, phát huy giá trị các di chỉ khảo cổ, hiện vật của Văn hóa Sa Huỳnh đặt ra khá bức bách, đã và đang thu hút quan tâm của giới khoa học trong và ngoài nước cũng như đông đảo cán bộ và nhân dân Quảng Ngãi.

Vấn đề đặt ra là nên chăng Quảng Ngãi cần xây dựng bảo tàng Văn hóa Sa Huỳnh mà ở đó, thông qua những bộ di vật đặc sắc và hấp dẫn của những giai đoạn phát triển:

Trước Sa Huỳnh, hậu Sa Huỳnh, tiền Champa để giới thiệu toàn diện về đời sống vật chất, tinh thần, hoạt động kinh tế, cơ tầng xã hội, phát triển nội tại, tiếp thu ảnh hưởng bên ngoài của văn hóa này với thế giới.

Thanh Thuận

Nguồn

Web baoquangngai

Văn hóa Sa Huỳnh – Tròn một thế kỷ khám phá

Tròn một thế kỷ kể từ khi những dấu vết đầu tiên nền văn hóa từng phát triển rực rỡ trên dải đất miền trung, cách nay 2.500 đến 3.000 năm phát lộ tại cồn cát Sa Huỳnh.

Những di tích, những hiện vật mới thuộc Văn hóa Sa Huỳnh vẫn tiếp tục được nhiều thế hệ nhà nghiên cứu trong và ngoài nước dày công tìm kiếm, sưu tầm và nghiên cứu..

Diện mạo Văn hóa Sa Huỳnh, từ nguồn gốc đến các giai đoạn phát triển, từ loại hình di tích di vật đến đặc trưng văn hóa.. ngày càng rõ nét.

Dấu ấn Văn hóa Sa Huỳnh

Phân bố trên dải đất miền Trung Việt Nam nhưng trung tâm Văn hóa Sa Huỳnh là khu vực Quảng Nam – Quảng Ngãi, khu vực Nam Trung Bộ, từ Phú Yên đến Bình Thuận những di tích và di vật thời tiền – sơ sử chỉ được phát hiện và nghiên cứu từ sau năm 1975.

Đến nay số lượng di tích ở khu này không nhiều và có thể nói, tính chất và diện mạo:

"Văn hóa Sa Huỳnh" ở đây có phần khác biệt so với vùng trung tâm, kể cả giai đoạn nối tiếp từ Văn hóa Sa Huỳnh sang văn hóa Champa.

Văn hóa Sa Huỳnh với giai đoạn đỉnh cao là "Sa Huỳnh cổ điển" vào sơ kỳ đồ sắt cần hiểu là kết quả hội tụ phát triển của từng khu vực trong các giai đoạn thuộc thời đồng thau trước đó (khoảng 1.500 – 500 TCN), đến nay biết được là ở Quảng Nam có:

Bàu Trám, Quảng Ngãi có Long Thạnh, Bình Châu, Cù Lao Ré, đảo Lý Sơn, Bình Định có Bàu Đỏ, Phú Yên có Gò Ốc, Gò Bộng Dầu, Khánh Hòa có Xóm Cồn, Bích Đầm, Hòn Tre, Ninh Thuận có Hòn Đỏ, Bình Thuận có Bàu Hòe..

Ngoài ra những phát hiện khảo cổ học ở Tây Nguyên gần đây góp phần chứng minh cho phát triển "văn hóa đa tuyến" ở miền Trung:

Văn hóa Biển Hồ (Gia Lai), Lung Leng (Kon Tum), những di tích ở Đăk Lắk, Đăk Nông.. đều thể hiện những đặc trưng riêng biệt đồng thời vẫn có "yếu tố Sa Huỳnh" trong di tích và di vật, nhất là về mộ chum, cách thức mai táng và đồ tùy táng chôn theo.

Những nhóm di tích hay văn hóa khảo cổ này có sắc thái văn hóa rất đa dạng từ biển và hải đảo đến núi và rừng.

Vừa độc lập với nhau vừa có giao lưu hoặc quan hệ tộc thuộc với nhau và cùng tham góp vào quá trình đưa Văn hóa Sa Huỳnh phát triển lên đỉnh cao trong thời đại sơ kỳ đồ sắt (khoảng 500 năm TCN đến đầu Công Nguyên).

Mộ chum là đặc trưng nổi trội nhất Văn hóa Sa Huỳnh sơ kỳ thời đại sắt cách đây 2500 – 2000 năm.

Văn hóa Sa Huỳnh là thành quả đóng góp của nhiều nhóm cư dân – tộc người, mang đậm dấu ấn văn hóa biển của những người thuộc ngữ hệ Malayo – Polynesien cư trú trên vùng đảo và quần đảo Đông Nam Á (và rộng hơn).

Bên cạnh dấu ấn văn hóa của những người thuộc ngữ hệ Nam Á – Môn Khmer cư trú trên dải Trường Sơn – Tây Nguyên.

Quá trình tiếp xúc, giao lưu giữa các tộc người tạo sắc thái đặc trưng từng vùng, từng khu vực. Như vậy, Văn hóa Sa Huỳnh là sản phẩm những cư dân nông nghiệp trồng lúa ở những đồng bằng ven biển cồn bàu.

Nền kinh tế của họ là đa thành phần, họ sớm biết khai thác những nguồn lợi biển, rừng, biết phát triển các nghề thủ công, từng bước mở rộng quan hệ trao đổi buôn bán với các cư dân trong khu vực Ðông Nam Á lục địa, hải đảo và rộng hơn với Ấn Ðộ, với Trung Hoa.

Ðặc biệt giai đoạn cuối, nghề buôn bán bằng đường biển rất phát triển.

Ven biển miền Trung, những thế kỷ trước, sau Công Nguyên hình thành một số tiền cảng thị hay cảng thị sơ khai, như khu vực Hội An với di tích Hậu Xá.

Mật độ phân bố và quy mô các di tích cho biết đó là những khu vực tụ cư đông đúc và lâu đời, một xã hội có nền sản xuất khá phát triển và do đó giai đoạn cuối nền văn hóa này có thể hình thành hình thái "nhà nước sơ khai" kiểu liên minh bộ lạc.

Cùng trên địa bàn mà sau này hình thành nhà nước Lâm Ấp – vương quốc Champa, mối quan hệ giữa Văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Champa được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.

Những phát hiện mới, nghiên cứu mới

Từ thông tin đầu tiên trong niên giám 1909 của Viện Viễn Đông Bác Cổ về phát hiện:

"Một kho chum khoảng 200 chiếc nằm cách mặt đất không sâu, trong cồn cát ven vùng biển Sa Huỳnh" (huyện Đức Phổ tỉnh Quảng Ngãi).

Nay hàng trăm di tích nền văn hóa này tìm thấy khắp các tỉnh ven biển miền Trung từ Quảng Bình đến Bình Thuận và lan cả sang một số địa bàn lân cận.

Các khai quật tiến hành trên địa bàn rộng lớn, dọc duyên hải miền Trung, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ mà nhiều nhất là địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Theo đó, các lần khai quật lớn ở đây lần lượt:

Năm 1976 khai quật tại Gò Ma Vương (Phổ Khánh – Đức Phổ) ;

Năm 1997 khai quật tại xóm Ốc (Lý Sơn) ;

Năm 2000 tại suối Chình (Lý Sơn) ;

Năm 2005 tại Bình Đông (Bình Sơn) và gần đây nhất là năm 2009 tại xã Đức Thắng (Mộ Đức).

Hiện vật tìm thấy qua những lần khai quật cho phép tái hiện không gian Văn hóa Sa Huỳnh rộng lớn hơn nhiều so với hình dung của các nhà khảo cổ học Pháp trước đây.

Các khai quật này phát hiện tồn tại của giai đoạn văn hóa sớm, liền trước, tiền thân của Sa Huỳnh cổ điển, nay định danh là giai đoạn tiền Sa Huỳnh hoặc Sa Huỳnh sớm.

Những năm 90 thế kỷ XX, việc phát hiện và khai quật cụm di tích Giồng Cá Vồ – Giồng Phệt (thuộc huyện Cần Giờ – TPHCM) gây "chấn động" giới khảo cổ học và sử học.

Đó là những bãi mộ chum lớn với hiện vật vô cùng phong phú, đa dạng về chất liệu cũng như loại hình.

Đồ tuỳ táng gồm có kiếm sắt, dao sắt, khuyên tai, hạt chuỗi thuỷ tinh, hạt chuỗi vàng, khuyên tai vàng..

Và cuối 2008 đầu 2009, một cuộc khai quật khảo cổ ở di tích Bãi Cọi (xã Xuân Viên, Nghi Xuân, Hà Tĩnh) phát hiện những hiện vật đặc trưng Văn hóa Sa Huỳnh như khuyên tai hình hai đầu thú, mộ bình, mộ nồi chôn đứng, mộ chum..

Và rất nhiều hiện vật gốm như chum, vò, bát bồng, nắp nón cụt, khuyên tai ba mấu bằng thuỷ tinh và đất nung, đặc biệt là chum mai táng hình trái đào.

Chính những phát hiện này cho thấy dù tròn 1 thế kỷ phát hiện và nghiên cứu, nhưng Văn hóa Sa Huỳnh vẫn luôn tiềm ẩn những bất ngờ, thú vị mà còn là thách thức với các nhà nghiên cứu, nhà khoa học trong và ngoài nước.

Cùng với Văn hóa Đông Sơn, Văn hóa Sa Huỳnh là trung tâm văn minh rực rỡ thời kỳ đầu dựng nước.

Bên cạnh những phát hiện mới, những năm gần đây, nhiều khai quật khảo cổ học tiến hành nghiên cứu nhằm tìm hiểu mối quan hệ giữa Văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Champa.

Địa bàn quan trọng là tỉnh Quảng Nam vì đây xem là trung tâm Văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Champa.

Nhiều di tích, các nhà khảo cổ tìm thấy những mảnh gốm vừa mang đặc điểm gốm Sa Huỳnh và cả đặc điểm gốm Champa.

Đây là nguồn tư liệu quan trọng để chứng minh con đường phát triển từ Văn hóa Sa Huỳnh lên văn hóa Champa.

Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu chỉ ra từ thư tịch cổ một số "yếu tố Sa Huỳnh" trong xã hội và văn hóa Champa.

Con đường phía trước

Cùng khẳng định những kết quả thu được sau 100 năm, các nhà khoa học xác định nhiệm vụ trọng tâm của giới nghiên cứu trong thời gian tới là cần tập trung làm rõ câu hỏi về danh tính chủ nhân Văn hóa Sa Huỳnh.

Cần định hướng cơ bản về điều tra, điền dã và khai quật để có thể lý giải các câu hỏi, tránh làm hỏng di tích.

Bởi khả năng bảo quản hiện vật của ta vẫn hạn chế, di vật sẽ bị phá hủy rất nhanh do tác động của môi trường sau khi khai quật.

Cần có biện pháp để bảo vệ di tích trước sức ép rất lớn của tốc độ phát triển kinh tế khu vực miền trung giai đoạn hiện nay..

Vấn đề đặt ra là nên chăng xây dựng Bảo tàng Văn hóa Sa Huỳnh mà ở đó, thông qua những bộ di vật đặc sắc và hấp dẫn của những giai đoạn phát triển:

Trước Sa Huỳnh, hậu Sa Huỳnh, tiền Champa để giới thiệu toàn diện về đời sống vật chất, tinh thần, hoạt động kinh tế, cơ tầng xã hội, sự phát triển nội tại, sự tiếp thu ảnh hưởng bên ngoài của nền văn hóa này với thế giới.

Một trong những văn hóa tiền sử được phát hiện và nghiên cứu sớm nhất ở Việt Nam và Đông Nam Á, Văn hóa Sa Huỳnh có vị trí quan trọng trong định vị và đối sánh các văn hóa cùng thời, nhất là những văn hóa ven biển và hải đảo có mối quan hệ giao lưu mật thiết với nó.

Những gì chúng ta đang lưu giữ và biết về cư dân Sa Huỳnh, Văn hóa Sa Huỳnh trong:

100 năm qua đủ để chúng ta hình dung ra diện mạo Văn hóa Sa Huỳnh và cư dân Sa Huỳnh, từ nguồn gốc đến các giai đoạn phát triển, từ loại hình di tích di vật đến đặc trưng văn hóa ngày càng rõ nét hơn.

Tác giả bài viết: Thiên Phong

Nguồn

Web hoianheritage

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
Trang sức thời Văn hóa Sa Huỳnh

20663866_704508703082718_4145820388439138500_n.jpg


Văn hóa Sa Huỳnh là nền văn hóa khoảng năm 1000 TCN đến cuối TK. 2.

Nền Văn hóa Sa Huỳnh là 1 trong 3 cái nôi cổ xưa về văn minh trên lãnh thổ Việt Nam cùng Văn hóa Đông Sơn, Văn hóa Óc Eo, tạo thành tam giác văn hóa của Việt Nam:

Thời kỳ đồ sắt.

Lịch sử khám phá

Sa Huỳnh được nhà khảo cổ người Pháp M. Vinet phát hiện lần đầu năm 1909 khi ông tìm thấy bên đầm nước ngọt An Khê ở:

Sa Huỳnh, Đức Phổ, Quảng Ngãi số lượng lớn quan tài bằng chum (khoảng 200 chiếc).

Người ta gọi di tích khảo cổ đó là Kho Chum Sa Huỳnh (Dépot à Jarres Sa Huỳnh).

Các khai quật vào nhiều năm khác nhau tại di tích gò Ma Vương hay còn gọi Long Thạnh Đức Phổ nơi được xem có niên đại sớm nhất của nền Văn hóa Sa Huỳnh đem lại những đánh giá xác đáng và quan trọng về nguồn gốc, quá trình hình thành, phát triển Văn hóa Sa Huỳnh.

Nền Văn hóa Sa Huỳnh được các nhà khảo cổ trên thế giới nghiên cứu từ đó đến nay và ngày càng sáng tỏ nhiều điều về đời sống các tộc người thời tiền sơ sử ở miền Trung Việt Nam.

Xuất hiện cách nay khoảng 3.000 năm và kết thúc vào thế kỷ 1, Văn hóa Sa Huỳnh có lẽ tồn tại hơn 5.000 năm từ thời hậu kỳ đồ đá mới đến đầu thời đồ sắt trên địa bàn các tỉnh từ Quảng Bình đến các tỉnh Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.

Sức sáng tạo mạnh mẽ và phong phú, Văn hóa Sa Huỳnh ngày càng ảnh hưởng và giao lưu với nhiều vùng Đông Nam Á và Trung Hoa cổ xưa và Ấn Độ cổ xưa khi gần đây Viện Khảo cổ học quốc gia Đức hợp tác các nhà khảo cổ học khoa lịch sử của Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội tiến hành khảo cứu:

2004-2005 tại một số vùng thuộc Quảng Ngãi. Bước đầu xác định diện mạo nền văn hóa đặc sắc ở miền Trung, Việt Nam.

Thành tựu

Trồng trọt

Dân cư cổ thuộc Văn hóa Sa Huỳnh định cư chủ yếu dọc hai bên vùng đất thấp thuộc các sông dọc bờ biển miền Trung Việt Nam, trải dài từ Quảng Bình đến Phú Yên.

Họ thuộc một nguồn gốc văn minh lúa nước Đông Nam Á. Những dụng cụ bằng sắt như cuốc, dao, kiếm, lao, đục, xà beng.. được tìm thấy ở đây.

Đồ gốm lớn với hoa văn đẹp cùng kỹ thuật dùng bàn xoay làm lạc hướng các nhà khảo cổ về nguồn gốc của vương quốc Champa[1], những đồ gốm dùng để đựng các vật dụng và sản phẩm nông nghiệp, đánh cá và cả mai táng người chết.

Phần đất miền Trung gồm xứ Quảng là nơi tụ hội và giao tiếp văn hóa Tây Đông, giữa miền núi và miền biển và đồng bằng xứ Quảng từng là nơi hội tụ văn hóa, kết tinh văn minh, dựng lên nền văn minh lúa nước và dâu tằm nổi tiếng.

Lúa hai mùa, tằm tám lứa, tơ mỗi năm được sử sách chép đến sớm nhất là đồng bằng xứ Quảng, trung tâm của nền Văn hóa Sa Huỳnh.

Sách sử nói đến người Chàm trồng hai vụ lúa và để thích ứng với thời tiết, người Chàm tìm ra giống lúa chịu hạn gieo trồng vào đầu mùa khô, để đầu mùa mưa thì lúa chín.

Sử sách gọi là mùa chiêm. Do hoàn cảnh thiên nhiên khắc nghiệt khô hạn nên cư dân cổ Sa Huỳnh và Chàm đào hệ thống giếng lấy nước tưới cho cây trồng nên giới nghiên cứu ghi nhận một nền văn hóa gọi là "Văn hóa Giếng Chàm cổ."

Đánh cá và đi biển

Trước 1975, các nhà khảo cổ trên thế giới mới chỉ biết Văn hóa Sa Huỳnh qua hoạt động của cư dân đi biển.

Họ chỉ lên đất liền mai táng người chết trong những mộ chum.

Những mộ chum tìm thấy ở Palavan (Philippines), Bondontaphet (Thái Lan), Sa Huỳnh (Việt Nam).

Sau năm 1975, các nhà khảo cổ Việt Nam bỏ nhiều công sức tim hiểu, nghiên cứu nền văn hóa này, bước đầu có những đóng góp quan trọng giúp có cái nhìn chính xác và toàn diện hơn về nền Văn hóa Sa Huỳnh.

Đặc biệt những năm gần đây, tại Hội An, các nhà nghiên cứu khảo cổ phát hiện nhiều di chỉ cư trú của người Sa Huỳnh với nhiều hiện vật phong phú và đa dạng.

Các phát hiện cho thấy người Sa Huỳnh cổ là những cư dân nông nghiệp, đi biển chỉ là một trong những sinh hoạt của họ.

Các đồng tiền Ngũ Thù và Vương Mãng (đầu thế kỷ 1 TCN), các gương đồng của Tây Hán, đỉnh đồng nhà Đông Hán có trong các mộ chum chứng tỏ họ có nền sản xuất hàng hóa cùng giao thương khá phát triển.

Người Chàm biết khai thác trầm hương, quế, ngà voi, sừng tê, dầu rái, ngọc, vàng trên núi, hồ tiêu trên đồi, biết làm ruộng hai mùa ở đồng bằng hẹp Minh Kinh và Ô Chân.

Họ trồng cau, dừa, trồng dâu nuôi tằm "một năm tám lứa" từ trước sau kỷ nguyên Dương Lịch.

Họ biết làm thuyền to gọi là nốôc (bàu) và thuyền nhỏ (troòng ghe).

Hai cảng Cửa Việt, Cửa Tùng từng là hải cảng quốc tế từ lâu trước khi Lâm Ấp thành lập nhưng phồn thịnh nhất là thời vương quốc Champa cùng thời với triều Đường (Trung Quốc).

Người Chàm biết đánh cá biển và buôn bán đường biển trên vùng Đông Nam Á, từ ven biển Trung Quốc xuống Ấn Độ Dương.

Đồ trang sức và kỹ thuật làm thủy tinh

Các nhà khảo cổ tìm thấy ở những khu mộ táng của Văn hóa Sa Huỳnh các bộ hạt chuỗi giá trị ở Lai Nghi.

Trong khi rây bằng sàng phát hiện hơn 8.600 hạt cườm bằng thủy tinh màu xanh, vàng hoặc nâu có đường kính 1-3mm.

Ngoài bộ hạt chuỗi khoảng 1.500 hạt bằng đá mã não, achat, crystal, amethyst, nephrite và bằng vàng - còn có 4 khuyên tai bằng vàng.

Người Văn hóa Sa Huỳnh ở Lai Nghi nhiều nhất thích dùng loại đá ngọc mã não làm đồ trang sức.

Hơn 15 hình dạng hạt chuỗi khác nhau được chế tác - có lẽ bằng đá mã não đến từ khu vực Myanmar hoặc Ấn Độ.

Tổng số 1.136 hạt chuỗi bằng đá mã não tìm thấy ở Lai Nghi có 3 chiếc rất đặc biệt:

Thứ nhất có hình chim nước, thứ 2 có hình hổ hoặc sư tử và thứ 3 là hạt chuỗi khắc.

Cả 3 hạt chuỗi này phát hiện trong 3 mộ chum khác nhau cùng nhiều đồ tùy táng quý khác có niên đại thế kỷ 1-2 TCN. Những di vật hiếm thấy khác ở miền Trung Việt Nam được kể đến là 2 gương đồng thời kỳ Tây Hán.

Thủy tinh nhân tạo là thành tựu rực rỡ Văn hóa Sa Huỳnh. Các cư dân dùng cát trắng để nấu thủy tinh làm bát lọ và đặc biệt những chuỗi hạt trang sức bằng thủy tinh mà sử sách Trung Quốc gọi "lưu ly" gốc từ chữ Phạn là verulia từ đầu Công Nguyên.

Đây là một trong những nơi làm ra thủy tinh nhân tạo sớm trên thế giới.

Chúng đa dạng về kiểu dáng và phong phú về màu sắc như xanh lơ, xanh đen, xanh lá mạ, xám, tím, đỏ và nâu.

Sử Trung Hoa từng ghi chép về chén thủy tinh xuất phát từ vùng đất này mà họ gọi là chén lưu ly với một sự trân trọng và khâm phục.

Nổi bật trong những vật trang sức của người Sa Huỳnh là khuyên tai ba mấu dành cho phụ nữ và khuyên tai hai đầu thú của nam giới.

Nếu khuyên tai ba mấu dịu dàng, tinh tế và khá duyên dáng thì khuyên tai hai đầu thú lại thể hiện chất dũng mãnh, kiêu hãnh, cường tráng của nam giới.

Những vật trang sức chế tác từ đá, mã não và thủy tinh có thể nói là những tinh hoa đặc sắc nhất mà nền văn minh này sáng tạo ra và được phổ biến khắp vùng Đông Nam Á.

Người ta đã tìm thấy khuyên tai ba mấu và khuyên tai hai đầu thú ở Thái Lan, Malaysia, Philippines và Đài Loan.

Đồ gốm

Người Sa Huỳnh cổ rất khéo tay và có mỹ cảm tuyệt vời.

Các đồ gốm gia dụng đều tạo dáng thanh nhã, cân đối, hoa văn phong phú, sinh động thể hiện một tâm hồn tinh tế và giàu xúc cảm.

Trong gốm Sa Huỳnh, các đồ đựng như bát, bình có chân đế, có thân gãy ở vai hay đáy, chiếm tỷ lệ lớn.

Mẫu gốm thường gặp là vàng đỏ, nhiều khi có vệt đen bóng, có hoa văn chữ S có đệm tam giác, những đường chấm hay đường in dấu răng vỏ sò.

Trong các di chỉ mộ táng, phổ biến là mộ chum, trong chum chứa nhiều đồ trang sức bằng đồng, đá quý, thủy tinh, đặc biệt là loại khuyên tai ba mấu nhọn và khuyên tai hai đầu thú.

Các đặc trưng đó của Văn hóa Sa Huỳnh cũng tìm được ở các di chỉ trong lưu vực sông Đồng Nai.

Có nơi còn có những đặc trưng xưa hơn, mà khảo cổ học gọi là Văn hóa thời tiền Sa Huỳnh.

Xã hội Sa Huỳnh

Điều đó xác nhận cách đây gần 3000 năm, trên lưu vực sông Đồng Nai mà lãnh thổ Lâm Đồng là thượng nguồn có những bộ lạc sinh sống với nền văn hóa đồng - sắt đã phát triển và có đặc trưng riêng. Các bộ lạc này là tiền thân của các dân tộc bản địa.

Sách lịch sử Việt Nam (Phan Huy Lê chủ biên) ghi bấy giờ trên địa bàn Văn hóa Sa Huỳnh có hai bộ lạc sinh sống.

Bộ lạc Cau (chữ Phạn là Kramuka vam'sa) cư trú vùng Phú Yên, Khánh Hòa - Ninh Thuận - Bình Thuận trở vào, và bộ lạc Dừa (chữ Phạn là Narikela vam'sa) ở vùng Bình Định, Quảng Nam nay.

Bộ lạc Dừa từ thế kỷ đầu TCN bị nhà Hán đô hộ (cùng thời với Âu Lạc) và đặt tên là huyện Tượng Lâm.

Năm 190 - 193, dân Tượng Lâm nổi dậy đánh đuổi người Hán, lập nước Lâm Ấp (theo tên gọi của thư tịch cổ Trung Hoa).

Bộ lạc Cau, khoảng đầu Công Nguyên hình thành tiểu vương quốc riêng tên là Panduranga (tên Phạn) hay Pan-Rãn (tiếng Chăm cổ), về sau gọi Chăm Pa, có địa bàn từ Nha Trang - Phan Rang, Phan Thiết nay.

Từ ra đời nói trên của dân tộc Chăm và nhà nước của họ, cho thấy ở Nam Trung Bộ, Việt Nam thời ấy có hai cộng đồng lớn:

Cộng đồng người Chăm với ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Malay-Polynesia cư trú vùng ven biển và cộng đồng với ngữ hệ Môn - Khơme (Mạ, Cơ Ho, M'Nông), cư trú vùng núi và Tây Nguyên.

Tập tục tín ngưỡng

Tập tục độc đáo của cư dân Sa Huỳnh là chôn người quá cố trong các chum lớn, có những chum cao 1, 2m.

Chum làm từ vật liệu đất đên hay đất màu đỏ và được nung khá tốt. Người chết táng trong chum với tư thế ngồi bó gối - như một hiện tượng được sống tiếp với thế giới cõi âm.

Đồ tùy táng theo người chết tùy thuộc vào giàu hay nghèo của người chết mà có nhiều hay ít hiện vật được chôn theo.

Người Sa Huỳnh cổ rất "sành điệu" và khá duyên dáng trong các đồ trang sức làm bằng đá quý và đá bán quý cũng như pha lê nhiều màu sắc.

Họ theo tín ngưỡng thờ Mẫu (mẹ, bà) và còn tồn tại đến nay ở các dân tộc Chăm, các cư dân bản địa Tây Nguyên.

Tuy theo đạo Hồi nhưng biến cải thành đạo Bani mang bản sắc văn hóa truyền thống Champa thờ thần linh và ông bà Tổ tiên.

Đồng bào Chàm ăn Tết đầu năm ngày 19-4 Dương Lịch và 2 lễ hội lớn hàng năm là lễ hội Katê tháng 7 lịch Champa để nhớ ơn trời đất, Tổ tiên phù hộ độ trì cho con cháu và tưởng nhớ các vua tài đức của họ.

Lễ hội Chabur âm tính vào tháng 9 để dâng cúng các nữ thần như nữ thần Pô Inư Nagar còn gọi Thiên Thiên Y A Na là bà chúa xứ của đồng bào Chàm.

Đặc biệt là đối lập giữa nam thần qua lễ hội Katê và nữ thần với lễ hội Chabur cùng những ý niệm trời đất, cha mẹ, đực cái.. thể hiện triết thuyết Âm Dương dịch biến luận của người Việt cổ còn lưu tới nay.

Đồng bào Chàm còn lưu nền văn hóa cổ với những vần thơ dân gian, những bia ký sử thi văn học, những giai thoại truyền kỳ lịch sử cùng nghệ thuật điêu khắc, tạc tượng tinh vi, sống động của truyền thống người Môn-Việt thời cổ đại.

Nhận xét

Tiến sĩ Mỹ Dung[2] nhận xét về những đồ trang sức độc đáo này:

"Theo như biểu tượng của thế giới, con chim nước tượng trưng cho mặt trời.

Chẳng hạn hiện vật hình chim ở khu vực mộ chum hậu kỳ thời đại đồ đồng vùng sông Danube ở Châu Âu. Hạt chuỗi mã não duy nhất ở Đông Nam Á tìm thấy ở Thái Lan có hình sư tử.

Từ trước đến nay, các mộ táng khai quật được, chúng tôi chỉ phát hiện những hạt mã não hình chuỗi bình thường. Mã não mang hình dạng con vật thì chưa bao giờ tìm thấy.

Từ xưa đến nay người ta vẫn cho rằng nghề thuỷ tinh rất phát triển trong thời kỳ Văn hóa Sa Huỳnh. Nhưng phát triển ở mức độ cao như vậy thì thật đáng kinh ngạc."

Tham khảo

•Neue Entdeckungen zur Sa Huynh- Kultur, Lindensoft, ISBN 3-929290-27-8, 2002.

Chú thích

1. Người Chăm Pa hiện nay không có truyền thống làm gốm bằng bàn xoay

2. Nhà khảo cổ cùng làm việc trong nhóm khảo cổ Việt - Đức

Nguồn

Wikipedia

Tìm về dấu chân người tiền sử ở Sa Huỳnh

KIM EM-MINH THU

24-7, hội thảo khoa học quốc tế 100 năm phát hiện và nghiên cứu Văn hóa Sa Huỳnh (1909-2009) do UBND tỉnh Quảng Ngãi phối hợp với Bộ VH-TT&DL tổ chức tại Quảng Ngãi với sự tham dự của đại sứ đặc mệnh toàn quyền Pháp Herve' Bolot cùng gần 100 nhà khoa học, nhà nghiên cứu trong và ngoài nước.

1909, nhà khảo cổ học người Pháp M. Vinet phát hiện ở vùng cồn cát cạnh đầm An Khê thuộc xã Phổ Thạnh, huyện Đức Phổ - vùng ven biển Sa Huỳnh (Quảng Ngãi) khu mộ chum với rất nhiều hiện vật giá trị.

Đó là lần đầu tiên phát hiện nền văn hóa cổ có niên đại cách nay 2.500 - 3.000 năm mà sau này gọi là Văn hóa Sa Huỳnh.

1 trong 3 trung tâm văn hóa quan trọng thời đại kim khí.

"Từ khu mộ chum Sa Huỳnh, các nhà khảo cổ Pháp liên tục tìm thấy các dấu vết nền văn hóa thời tiền sử qua các đợt khai quật khoảng 500 mộ chum chứa nhiều loại đồ tùy táng phân bố từ dọc các tỉnh duyên hải miền Trung, Đông Nam Bộ và Tây Nguyên.

Quảng Ngãi được xem cái nôi của Văn hóa Sa Huỳnh với 26 di tích được khai quật trong số hơn 80 địa điểm được phát hiện, nghiên cứu."

Theo PGS, TS Lương Hồng Quang, những nghiên cứu của các nhà khoa học suốt 1 thế kỷ qua về Văn hóa Sa Huỳnh cho thấy đây là 1 trong 3 trung tâm văn hóa quan trọng thời kim khí thuộc thời đại sắt.

Các di chỉ ở Quảng Ngãi là trung tâm, các nghiên cứu của các nhà khoa học xác nhận ảnh hưởng của nền Văn hóa Sa Huỳnh vô cùng rộng lớn, phạm vi nền văn hóa này về phía Bắc có thể tới Hà Tĩnh với địa điểm Bãi Cọi vừa khai quật, về phía Nam là các tỉnh miền Đông Nam Bộ:

Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương..

Phó Viện trưởng Viện Khảo cổ học Nguyễn Giang Hải nói:

"Quảng Ngãi là nơi đầu tiên phát hiện các di tích Sa Huỳnh và là vùng có các di tích được chứng minh cội nguồn phát triển lên Văn hóa Sa Huỳnh tại khu duyên hải miền Trung.

Văn hóa Sa Huỳnh là 1 trong 3 trung tâm văn hóa quan trọng nhất trong thời đại kim khí Việt Nam."

Theo nhiều nhà khảo cổ, căn cứ hiện vật Văn hóa Sa Huỳnh từng được phát hiện, khai quật tại Quảng Ngãi:

Mộ chum bằng đất nung kèm đồ trang sức quý gồm các chuỗi hạt đá quý, khuyên tai ba mấu.. tùy táng theo:

Mộ chum, một số dụng cụ bằng đồng, sắt có niên đại khoảng 2.500 năm chứng tỏ cư dân Sa Huỳnh từ ngàn xưa có trình độ kỹ thuật cao, giao lưu quan hệ rộng với thế giới bên ngoài.

TS sử học Đoàn Ngọc Khôi làm ở bảo tàng Quảng Ngãi nói ngoài các điểm khai quật ở Quảng Ngãi, huyện đảo Lý Sơn cũng là di chỉ khảo cổ quan trọng của Văn hóa Sa Huỳnh.

1997, các nhà khảo cổ học khai quật trên diện tích khoảng 10.000m2, phát hiện tại đây mộ nồi bằng đất nung, dụng cụ sinh hoạt:

Cuốc đá, rìu đá, đồ trang sức tuỳ táng theo mộ nồi.. đặc trưng Văn hóa Sa Huỳnh chế tác từ đá có niên đại 2000 - 2.500 năm.

Năm 2000, các nhà khảo cổ học tiếp tục khai quật di tích Suối Chình dưới chân núi Thới Lới, xã An Hải, huyện Lý Sơn phát hiện mộ nồi, một số dụng cụ sinh hoạt bằng gốm, đồ trang sức làm từ ốc biển..

Sở dĩ gọi Xóm Ốc vì khai quật lên địa điểm này phát hiện nhiều vỏ ốc dưới đất do cư dân Sa Huỳnh để lại.

Đề xuất xây dựng Bảo tàng Sa Huỳnh

1 trong 3 nền văn hóa cổ của Việt Nam, Văn hóa Sa Huỳnh in đậm dấu ấn trong đời sống cư dân cổ qua những hiện vật quý hiếm khai quật từ các khu mộ chum nằm rải rác trong bờ và các đảo gần bờ.

Các ý kiến tham luận tại hội thảo đưa nhiều phát hiện và nhận định mới về Văn hóa Sa Huỳnh.

Theo Giáo sư Yamagata Mariko, khoa khảo cổ ĐH Waseda (Nhật), hội thảo này là cơ hội để xem lại đồ gốm Sa Huỳnh vì đồ gốm Sa Huỳnh đóng vai trò quan trọng trong những nghiên cứu đồ gốm thời tiền sử và trong một số nghiên cứu rải rác về đạo lý cùng ngôn ngữ ở Đông Nam Á.

TS Judith Cameron, ĐH Quốc gia Úc nói:

"Những khai quật khảo cổ gần đây tại các di tích Sa Huỳnh ở miền Trung giúp nâng cao đáng kể tri thức của chúng ta về nền Văn hóa Sa Huỳnh.

Số lượng dồi dào các đồ tạo tác đẹp lạ kỳ trong các bình lọ địa táng tại các địa điểm này chứng thực rõ ràng sự giàu có của các nhóm người thời nguyên thủy."

Ba nhóm đề tài trình bày tại hội thảo có khá nhiều ý kiến trái ngược nhau.

Xung quanh vấn đề nguồn gốc nền văn minh Sa Huỳnh và ảnh hưởng của nó với các quốc gia cổ trong lưu vực sông Mekong và hải đảo Đông Nam Á có những quan điểm khác nhau.

TS Nguyễn Thị Ninh, Viện Khảo cổ học Việt Nam nói:

"Các học giả phương Tây khi nghiên cứu các di tồn vật chất thu từ các di tích mộ chum Văn hóa Sa Huỳnh đều đánh giá cao trình độ văn minh của cư dân nền văn hóa này.

Họ cho rằng có nền văn minh rực rỡ như vậy phải do một lớp cư dân có trình độ văn minh cao hơn đem từ bên ngoài tới."

Theo TS Nguyễn Thị Ninh, quan điểm của các nhà nghiên cứu Việt Nam dựa những bằng chứng khảo cổ phát hiện từ gần 100 di tích Văn hóa tiền Sa Huỳnh và Văn hóa Sa Huỳnh từng bước chứng minh cho nguồn gốc bản địa của nền văn minh này.

Cơ sở bóc tách những yếu tố hội nhập nội sinh và tiếp thu có chọn lọc những yếu tố văn hóa ngoại sinh, tạo bản sắc văn hóa đặc sắc của nền văn minh Sa Huỳnh.

Bảo tồn và phát huy giá trị Văn hóa Sa Huỳnh trên dải đất miền Trung, GS Petter Bellwood - Trường ĐH Quốc gia Pháp - khuyến cáo:

"Cần bảo vệ nghiêm ngặt các di tích Văn hóa Sa Huỳnh, không để đào bới sai nguyên tắc. Nếu tiến hành khai quật các di tích cần phải thông qua kênh nhà nước để vừa bảo tồn được hiện vật, vừa phát huy giá trị nền Văn hóa Sa Huỳnh."

Hiện Sở VH-TT &DL Quảng Ngãi lập đề án khả thi trình Bộ VH-TT&DL xét duyệt xây dựng Bảo tàng Sa Huỳnh ở vùng đất Sa Huỳnh, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi - nơi năm 1909 lần đầu phát hiện khu mộ chum đặc trưng Văn hóa Sa Huỳnh.

Theo Tiến sĩ sử học Đoàn Ngọc Khôi, Bảo tàng Sa Huỳnh này sẽ là mắt xích quan trọng để kết nối, bảo tồn hiện vật Văn hóa Sa Huỳnh, hình thành con đường di sản Văn hóa Sa Huỳnh trên dải đất miền Trung.

KIM EM-MINH THU

Nguồn

Web tuoitre

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
68880099_1197004560499794_6923680949817311232_n.jpg


Vài nét về Văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung Việt Nam

Từ thông tin đầu tiên trong Niên giám 1909 của tập san trường Viễn Đông Bác Cổ về việc phát hiện một kho chum khoảng:

200 chiếc nằm cách mặt đất không sâu trong cồn cát ven vùng biển Sa Huỳnh (huyện Đức Phổ tỉnh Quảng Ngãi).

Nay hàng trăm di tích nền văn hóa này thấy khắp các tỉnh ven biển miền Trung từ Thừa Thiên – Huế đến Bình Thuận.

Diện mạo Văn hóa Sa Huỳnh, từ nguồn gốc đến các giai đoạn phát triển, từ loại hình di tích di vật đến đặc trưng văn hóa.. ngày càng rõ nét.

Văn hóa Sa Huỳnh phát triển từ sơ kỳ đồng thau đến sơ kỳ đồ sắt, từ khoảng 3500 năm đến những thế kỷ trước sau Công Nguyên.

Quá trình hội tụ những nguồn gốc khác nhau tiến tới giai đoạn phát triển cực thịnh văn hóa này khoảng 2.500 – 2.000 năm cách ngày nay.

Chủ nhân Văn hóa Sa Huỳnh có quan hệ cội nguồn với các văn hóa hậu kỳ đá mới – sơ kỳ đồng thau ven biển, được coi là những người Tiền Mã Lai - Đa đảo (Proto Malayo Polynesien).

Quá trình hình thành Văn hóa Sa Huỳnh có những liên hệ với những nhóm cư dân cùng thời là những người "Tiền Môn – Khmer" hay Tiền Nam Á.

Ngoài ra suốt quá trình phát triển văn hóa này còn có nhiều mối quan hệ giao lưu rộng rãi với những văn hóa thời kim khí ở Đông Nam Á.

Qua đó có thể thấy chủ nhân Văn hóa Sa Huỳnh nói tiếng Nam Đảo hay Malayo – Polynesien nhiều hơn yếu tố Nam Á.

Đặc trưng cơ bản Văn hóa Sa Huỳnh là táng thức mộ chum, vò suốt từ giai đoạn sớm đến muộn, tuy ở vài địa điểm vẫn có hiện diện mộ huyệt đất.

Các khu mộ phân bố tập trung ở những cồn cát ven biển, lan dần ra các đảo ven bờ, ngoài ra phân bố ở vùng đồng bằng và miền núi phía Tây.

Di tích là những khu mộ táng rộng lớn gồm hàng chục, hàng trăm chum, vò gốm chôn đứng trong địa tầng.

Loại hình chum, vò chủ yếu hình trụ, hình trứng, hình cầu đáy bằng có nắp đậy hình nón cụt hay hình lồng bàn.

Đặc biệt trong các mộ táng chum, vò thuộc Văn hóa Sa Huỳnh ít thấy di cốt hay than tro hỏa táng, vì vậy theo các nhà nghiên cứu táng tục của cư dân Sa Huỳnh có thể là "chôn tượng trưng."

Trong chum/vò chứa nhiều đồ tùy táng gồm các chất liệu đá, gốm, sắt, đá quý, thủy tinh rất đa dạng về loại hình:

Công cụ lao động, vũ khí, đồ dùng sinh hoạt, trang sức..

Đặc trưng về di vật là phổ biến công cụ lao động bằng sắt, đồ gốm tô màu trang trí nhiều đồ án hoa văn khắc vạch.

Đồ trang sức bằng đá ngọc, mã não, thủy tinh như vòng, hạt chuỗi, khuyên tai ba mấu, khuyên tai hai đầu thú..

Chủ nhân Văn hóa Sa Huỳnh có nền kinh tế đa thành phần, gồm trồng trọt trên nương rẫy và khai thác sản phẩm rừng núi, trồng lúa ở đồng bằng.

Phát triển các nghề thủ công, đánh bắt cá ven biển và trao đổi buôn bán với những tộc người trong khu vực Đông Nam Á và xa hơn, với Trung Quốc và Ấn Độ.

Những di tích Văn hóa Sa Huỳnh ven biển có thể từng là những "tiền cảng thị" (như khu vực Hội An với di tích Hậu Xá chẳng hạn).

Mật độ phân bố và quy mô các di tích cho biết đó là những khu vực tụ cư đông đúc và lâu đời, một xã hội có nền sản xuất khá phát triển và do đó vào giai đoạn cuối nền văn hóa này có thể hình thành hình thái "nhà nước sơ khai" kiểu liên minh bộ lạc.

Cùng trên địa bàn sau này hình thành nhà nước Lâm Ấp – vương quốc Champa, mối quan hệ giữa Văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Champa được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.

Những năm gần đây, nhiều khai quật khảo cổ học nhằm tìm hiểu mối quan hệ này.

Địa bàn quan trọng là tỉnh Quảng Nam vì đây là trung tâm Văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Champa.

Nhiều di tích, các nhà khảo cổ tìm thấy những mảnh gốm vừa mang đặc điểm của gốm Sa Huỳnh và đặc điểm gốm Champa.

Đây là tư liệu quan trọng để chứng minh con đường phát triển từ Văn hóa Sa Huỳnh lên văn hóa Champa.

Bên cạnh đó các nhà nghiên cứu chỉ ra từ thư tịch cổ một số "yếu tố Sa Huỳnh" trong xã hội và văn hóa Champa.

Từ không gian và thời gian, trên cơ sở những tư liệu khảo cổ học, đến nay có thể nói nhà nước Champa tiếp nối Văn hóa Sa Huỳnh, hình thành trên cốt lõi Văn hóa Sa Huỳnh dưới ảnh hưởng của những yếu tố văn hóa ngoại sinh Trung Hoa và Ấn Độ.

Phân bố trên dải đất miền Trung Việt Nam nhưng trung tâm Văn hóa Sa Huỳnh là khu vực Quảng Nam – Quảng Ngãi.

Còn khu vực Nam Trung Bộ, từ Phú Yên đến Bình Thuận những di tích và di vật thời tiền – sơ sử chỉ phát hiện và nghiên cứu từ sau năm 1975.

Đến nay số lượng di tích ở khu vực này không nhiều và có thể nói, tính chất và diện mạo của "Văn hóa Sa Huỳnh" ở đây có phần khác biệt so với vùng trung tâm, kể cả giai đoạn nối tiếp từ Văn hóa Sa Huỳnh sang văn hóa Champa.

Văn hóa khảo cổ ở đây có những nét độc lập nhất định so với vùng trung tâm Văn hóa Sa Huỳnh.

Ngay từ giai đoạn đồ đồng ở khu vực Khánh Hòa đã phân lập văn hóa khảo cổ là "Văn hóa Xóm Cồn."

Theo công trình Văn hóa Xóm Cồn với tiền sử và sơ sử Khánh Hòa thì Văn hóa Xóm Cồn là văn hóa khác Sa Huỳnh và sớm hơn "Sa Huỳnh cổ điển."

Xóm Cồn là văn hóa có niên đại sớm nhất thuộc thời đại kim khí ở Khánh Hòa nói riêng và miền Trung Việt Nam nói chung:

Dù chưa xuất hiện di vật bằng kim loại nhưng dựa vào tiến bộ đồ gốm cũng như bối cảnh đồng đại của khu vực, Văn hóa Xóm Cồn mở đầu thời kim khí khu vực miền Trung.

Tất cả di tích thuộc văn hóa này hoàn toàn vắng mặt những di vật và sắc thái văn hóa đặc trưng của Sa Huỳnh như chum, vò lớn, vũ khí công cụ bằng sắt, khuyên tai hai đầu thú và khuyên tai ba mấu..

Đến giai đoạn muộn sơ kỳ thời đại đồ sắt, ở một số di tích mộ vò ở Nam Trung Bộ như:

Hòa Diêm (Cam Ranh, Khánh Hòa), Hòn Đỏ, Bàu Hòe (Bình Thuận) có nhiều yếu tố khác biệt mộ chum vò Sa Huỳnh điển hình và thậm chí còn có những yếu tố gần gũi:

Văn hóa Đồng Nai ở miền Đông Nam Bộ như hình dáng chum, vò mai táng, hiện tượng di cốt và than tro hiện hữu trong chum, vò táng..

Văn hóa Sa Huỳnh với giai đoạn đỉnh cao là "Sa Huỳnh cổ điển" vào sơ kỳ đồ sắt cần hiểu là kết quả hội tụ phát triển của từng khu vực trong các giai đoạn thuộc thời đồng thau trước đó (khoảng 1.500 – 500 TCN), nay biết ở Quảng Nam có:

Bàu Trám, Quảng Ngãi có Long Thạnh, Bình Châu, Cù Lao Ré, đảo Lý Sơn, Bình Định có Bàu Đỏ, Phú Yên có Gò Ốc, Gò Bộng Dầu, Khánh Hòa có Xóm Cồn, Bích Đầm, Hòn Tre, Ninh Thuận có Hòn Đỏ, Bình Thuận có Bàu Hòe, đảo Phú Quý..

Những phát hiện khảo cổ học ở Tây Nguyên gần đây góp phần chứng minh phát triển "văn hóa đa tuyến" ở khu vực miền Trung:

Văn hóa Biển Hồ (Gia Lai), Lung Leng (Kon Tum), những di tích ở Đăk Lắk, Đăk Nông.. đều thể hiện những đặc trưng riêng biệt đồng thời vẫn có "yếu tố Sa Huỳnh" trong di tích và di vật, nhất là về mộ chum, cách thức mai táng và đồ tùy táng chôn theo.

Những nhóm di tích hay văn hóa khảo cổ này có sắc thái văn hóa rất đa dạng từ biển và hải đảo đến núi và rừng.

Vừa độc lập với nhau vừa có mối giao lưu hoặc quan hệ tộc thuộc với nhau và cùng tham góp vào quá trình đưa:

Văn hóa Sa Huỳnh phát triển lên đỉnh cao trong thời đại sơ kỳ đồ sắt (khoảng 500 năm TCN đến đầu Công Nguyên).

Đây là hiện tượng và quy luật chung của các văn hóa thời kim khí như Văn hóa Đông Sơn ở phía Bắc với các tuyến phát triển ở:

Lưu vực sông Hồng, sông Mã và sông Cả, Văn hóa Đồng Nai với các tiểu vùng phù sa cổ Đồng Nai, lưu vực Vàm Cỏ và vùng ngập mặn ven biển Đông Nam Bộ.

Như vậy, Nam và cực Nam Trung Bộ là nơi tụ hội từ biển – đảo vào, từ rừng – núi xuống của nhiều tộc người và ngữ hệ từ sau thời kỳ đá mới. Sang sơ kỳ kim khí càng phân lập, về cơ bản có hai hệ:

Nam Đảo ở biển và ven biển và hệ Nam Á ở đồi núi và rừng.

Hai hệ này lại phân chia thành nhiều nhóm tộc người khác nhau nhưng tăng cường giao lưu giao tiếp (cả xung đột) về kinh tế, văn hóa, xã hội với nhau.

Phân bố trên dải đất này, Văn hóa Sa Huỳnh là thành quả đóng góp của nhiều nhóm cư dân – tộc người.

Trong đó mang đậm dấu ấn văn hóa biển của những người thuộc ngữ hệ Malayo – Polynesien cư trú trên vùng đảo và quần đảo Đông Nam Á (và rộng hơn).

Bên cạnh dấu ấn văn hóa của những người thuộc ngữ hệ Nam Á – Môn Khmer cư trú trên dải Trường Sơn – Tây Nguyên.

Quá trình tiếp xúc, giao lưu giữa các tộc người tạo sắc thái đặc trưng từng vùng, từng khu vực.

TS. Nguyễn Thị Hậu

Nguồn

Web vanhien

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
69006974_1197109737155943_1465709000518533120_n.jpg


Văn hóa Sa Huỳnh, một trong ba nguồn phát sinh Văn hóa Việt

Tên

Theo Niên giám 1909 của tập san trường Viễn Đông Bác Cổ, Văn hóa Sa Huỳnh được nhà khảo cổ người Pháp:

M. Vinet phát hiện lần đầu 1909 khi ông tìm thấy một số lượng lớn quan tài bằng chum (khoảng 200 chiếc) nằm cách mặt đất không sâu trong cồn cát ven vùng biển xã:

SA HUỲNH thuộc huyện Đức Phổ tỉnh Quảng Ngãi miền Trung Việt Nam.

Người ta gọi di tích khảo cổ đó là Kho Chum Sa Huỳnh (Dépot à Jarres Sa Huỳnh).

Vài nét về Văn hóa Sa Huỳnh

Văn hóa SA HUỲNH là xã hội tiền sử thuộc thời kim khí tại khu vực ven biển miền Trung Việt Nam trên địa bàn các tỉnh:

Quảng Bình đến các tỉnh Nam Trung Bộ và Tây Nguyên mà Xứ Quảng là trung tâm.

Các di tích Văn hóa Sa Huỳnh, dọc ven biển miền Trung, Quảng Ngãi, Huế, Hội An, Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận..

Hầu như phân bố trên các dải cồn cát ven biển, gần đầm nước ngọt, sát cạnh cửa sông ra biển, nơi những nghĩa địa lớn.

Các di tích Văn hóa Sa Huỳnh còn thấy trên các đảo Cù Lao Chàm (Quảng Nam), Cù Lao Ré (Quảng Ngãi), các đảo vịnh Nha Trang (Khánh Hòa), chứng tỏ người Sa Huỳnh vượt biển ra chiếm lĩnh các đảo gần bờ.

Không gian Văn hóa Sa Huỳnh mở rộng từ vùng Quảng Bình – nơi tiếp xúc với Văn hóa Đông Sơn kéo dài đến vùng:

Ninh Thuận, Bình Thuận - nơi tiếp xúc với văn hóa thời đại kim khí Đông Nam Bộ; đồng thời còn mở rộng không gian từ vùng trung du miền núi đến các đảo gần bờ.

Văn hóa Sa Huỳnh có đặc điểm văn hóa thời đại đồng thau rất đặc trưng với phong cách riêng thể hiện qua các hiện vật như rìu, dao và đồ trang sức.

Việc định tuổi theo phương pháp phóng xạ carbon đã xếp Văn hóa Sa Huỳnh đồng thời với Văn hóa Đông Sơn, tức khoảng thiên niên kỷ thứ nhất TCN.

Văn hóa Sa Huỳnh phát triển từ sơ kỳ đồng thau đến sơ kỳ đồ sắt.

Quá trình tiến tới giai đoạn phát triển cực thịnh khoảng 2.500 – 2.000 năm cách ngày nay.

Cư dân

Những nhóm cư dân liên hệ với Văn hóa Sa Huỳnh là những tộc người từ Nam Đảo ở biển và ven biển thuộc ngữ hệ Malayo – Polynesien và từ Nam Á ở đồi núi và rừng thuộc ngữ hệ Môn - Khmer từ sau thời kỳ đá mới sang thời kỳ sơ kim khí.

Qua đó có thể thấy chủ nhân Văn hóa Sa Huỳnh nói tiếng ngữ hệ Malayo – Polynesien pha trộn ngữ hệ Môn - Khmer.

Họ quan hệ giao lưu rộng rãi với những văn hóa thời kim khí ở Đông Nam Á. Họ có nhiều mối giao lưu với nhau (cả xung đột) về kinh tế, văn hóa, xã hội.

Về sinh hoạt kinh tế, họ trồng trọt trên nương rẫy và khai thác sản phẩm rừng núi, trồng lúa ở đồng bằng.

Phát triển các nghề thủ công, đánh bắt cá ven biển và trao đổi buôn bán với những tộc người trong khu vực Đông Nam Á và xa hơn, với Trung Quốc và Ấn Độ.

Đặc trưng cơ bản của Văn hóa Sa Huỳnh

1. Xã hội Sa Huỳnh

Có các di tích Sa Huỳnh ở vùng núi, ở dọc theo các cồn cát ven biển và ở đảo.

Số lượng các di tích này bao gồm các di tích tiền Sa Huỳnh – thời đại đồng thau và các di tích Sa Huỳnh sơ kỳ sắt.

Bộ sưu tập công cụ Trà Phong có loại cuốc, rìu có vai, bàn mài, khuyên tai chế tác từ loại đá lửa rất cứng.

Các bằng chứng khảo cổ này đem lại nhận thức về dòng người - ở thời điểm hậu kỳ đá mới từ vùng Tây Nguyên vượt rẻo cao Trường Sơn tiến dần về đồng bằng ven biển trên cơ sở giao lưu hội nhập với các dòng chảy văn hóa khác từ phía Bắc xuống, từ phía Nam ra và từ phía Biển Đông vào.

Quả thực cách đây gần 3000 năm, trên lưu vực sông Đồng Nai mà lãnh thổ Lâm Đồng là thượng nguồn có những bộ lạc sinh sống với nền:

Văn hóa đồng - sắt đã phát triển và có đặc trưng riêng. Có thể nói, các bộ lạc này là tiền thân của các dân tộc bản địa.

Sách Lịch sử Việt Nam (Phan Huy Lê chủ biên) cho biết trên địa bàn Văn hóa Sa Huỳnh có hai bộ lạc bản địa sinh sống.

Bộ lạc Cau (chữ Phạn là Kramuka vam'sa) cư trú vùng Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận trở vào, bộ lạc Dừa (chữ Phạn là Narikela vam'sa) ở vùng Bình Định và Quảng Nam nay.

Tập tục độc đáo của cư dân Sa Huỳnh là tập tục chôn người quá cố trong các chum lớn, có những chiếc chum cao đến 1, 2m.

Chum làm từ vật liệu đất đen hay đất màu đỏ và nung khá tốt.

Người chết táng trong chum với tư thế ngồi bó gối - như hiện tượng được sống tiếp với thế giới cõi Âm.

Đồ tùy táng theo người chết tùy thuộc giàu hay nghèo của người chết mà có nhiều hay ít hiện vật được chôn theo.

Các khu mộ phân bố tập trung ở những cồn cát ven biển, lan dần ra các đảo ven bờ.

Di tích là những khu mộ táng rộng lớn gồm hàng chục, hàng trăm chum vò gốm chôn đứng trong trụ, hình trứng, hình cầu đáy bằng có nắp đậy hình nón cụt hay hình lồng bàn, địa tầng.

Đặc biệt trong các mộ táng chum, vò, ít tìm thấy di cốt hay than tro hỏa táng, vì vậy các nhà nghiên cứu nhận định táng tục của cư dân Sa Huỳnh có thể là "chôn tượng trưng."

Trong chum/vò chứa nhiều đồ tùy táng gồm các chất liệu đá, gốm, sắt, đá quý, thủy tinh, công cụ lao động, đồ dùng sinh hoạt, vũ khí, đồ trang sức..

Một số di tích mộ chum vò ở Nam Trung Bộ như Hòa Diêm (Cam Ranh, Khánh Hòa), Hòn Đỏ, Bàu Hòe (Bình Thuận) có nhiều yếu tố khác biệt mộ chum vò ở trung tâm văn hóa điển hình về hình dáng chum, vò mai táng.

Tập tục chôn người quá cố của Văn hóa Sa Huỳnh cũng có những đặc trưng riêng biệt ở những vùng xa trung tâm văn hóa.

Chẳng hạn, ở Đăk Lắk, Đăk Nông, cách thức mai táng và đồ tùy táng chôn theo có những đặc trưng riêng biệt.

2. Từ Văn hóa Sa Huỳnh lên văn hóa Champa

Khu vực Quảng Nam – Quảng Ngãi là trung tâm Văn hóa Sa Huỳnh

Nhiều di tích các nhà khảo cổ tìm thấy những mảnh gốm vừa mang đặc điểm gốm Sa Huỳnh và cả đặc điểm gốm Champa.

Đây là nguồn tư liệu quan trọng để chứng minh con đường phát triển từ Văn hóa Sa Huỳnh lên văn hóa Champa.

Các nghiên cứu khảo cổ học của các tác giả Việt Nam cho thấy người Chăm là hậu duệ về mặt ngôn ngữ và văn hóa của người Sa Huỳnh cổ.

Người Chăm định cư chủ yếu dọc hai bên vùng đất thấp thuộc các sông dọc bờ biển miền Trung Việt Nam từ khoảng năm 200 SCN, trải dài từ Quảng Bình đến Phú Yên đều mai táng người chết trong những mộ chum như những tiền nhân Văn hóa Sa Huỳnh.

Họ hình thành nhà nước trên cốt lõi Văn hóa Sa Huỳnh dưới ảnh hưởng của những yếu tố văn hóa tôn giáo và chính trị của Ấn Độ và Trung Hoa..

Người Chàm biết khai thác trầm hương, quế, ngà voi, sừng tê, dầu rái, hồ tiêu trên đồi như cha ông họ..

Người Sa Huỳnh cổ theo tín ngưỡng thờ Mẫu (mẹ, bà) và còn tồn tại đến ngày nay ở các dân tộc Chăm, các cư dân bản địa Tây Nguyên.

Tuy theo đạo Hồi nhưng biến cải thành đạo Bani mang bản sắc văn hóa truyền thống Champa thờ thần linh và ông bà tiên Tổ.

3. Xã hội Champa

Mật độ phân bố và quy mô các di tích cho biết một xã hội có khu vực tụ cư đông đúc và lâu đời, có nền sản xuất khá phát triển. Giai đoạn cuối nền văn hóa xã hội đó hình thành hình thái "nhà nước sơ khai" kiểu liên minh bộ lạc.

Xã hội Champa có hai bộ lạc lớn:

Bộ lạc Dừa và Bộ lạc Cau

Bộ lạc Dừa từ thế kỷ đầu TCN bị nhà Hán đô hộ (cùng thời với Âu Lạc) và được đặt tên huyện Tượng Lâm.

190-193, dân Tượng Lâm nổi dậy đánh đuổi người Hán, lập nước Lâm Ấp (theo tên gọi của thư tịch cổ Trung Hoa) nhà nước Lâm Ấp – vương quốc Champa.

Bộ lạc Cau, khoảng đầu Công Nguyên hình thành tiểu vương quốc riêng có tên là Panduranga (tên Phạn) hay Pan-Rãn (tiếng Chăm cổ), về sau gọi là Champa, có địa bàn từ Nha Trang - Phan Rang đến Phan Thiết nay.

Từ sự ra đời nói trên của dân tộc Chăm và nhà nước của họ, cho thấy ở Nam Trung Bộ, Việt Nam thời ấy có hai cộng đồng lớn:

Cộng đồng người Chăm với ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Malay-Polynesia cư trú vùng ven biển và cộng đồng với ngữ hệ Môn - Khơme (Mạ, Cơ Ho, M'Nông), cư trú vùng núi và Tây Nguyên.

Xã hội Chàm ăn Tết đầu năm 19-4 Dương Lịch và 2 lễ hội lớn hàng năm là lễ hội Katê tháng 7 lịch Champa để nhớ ơn trời đất, Tổ tiên phù hộ độ trì cho con cháu và lễ hội Chabur.

Lễ hội Chabur âm tính tháng 9 để dâng cúng các nữ thần như nữ thần PôI nư Nagar còn gọi Thiên Thiên Y A Na là bà chúa xứ của những ý niệm trời đất, cha mẹ, đực cái.. thể hiện triết thuyết Âm Dương.

Đồng bào Chàm còn lưu nền văn hóa cổ với những vần thơ dân gian, những bia ký sử thi văn học.

Những giai thoại truyền kỳ lịch sử cùng nghệ thuật điêu khắc, tạc tượng tinh vi, sống động của truyền thống người Môn-Việt thời cổ đại nhớ các vua tài đức của họ.

4. Biển

Giữ vị trí chính yếu trong đời sống văn hóa vật chất và tinh thần

Quá trình phát hiện, khai quật các di tích thuộc tầng Văn hóa Bình Châu II cho thấy các hố rác bếp chứa nhiều vỏ sò ốc có nguồn gốc khai thác từ biển.

Tại địa điểm Long Thạnh tìm thấy lưỡi câu xương; địa điểm Bình Châu I tìm thấy lưỡi câu đồng, lao đồng.

Địa điểm Xóm Ốc tìm thấy lưỡi câu đồng trong mộ táng, và nguyên liệu từ vỏ nhuyễn thể để chế tác công cụ và đồ trang sức.

Cư dân Văn hóa Sa Huỳnh trên đảo Lý Sơn sử dụng vỏ tai tượng (tridacna) và nắp ốc cừ (turbo) để chế tác công cụ ghè đập.

Biển cho các đồng muối cổ.

Vốn là cư dân sinh sống chủ yếu ven duyên hải miền Trung, có thể người Sa Huỳnh biết đến nghề muối.

Yếu tố muối đóng vai trò thế nào trong quá trình giao lưu văn hóa giữa đồng bằng duyên hải miền Trung với khu vực Tây Nguyên trong thời kim khí tiền Sa Huỳnh:

Đáng chú ý các di tích Sa Huỳnh, Phú Khương, Long Thạnh gắn đồng muối Tân Diêm; di tích Bình Châu gắn đồng muối Diêm Điền; di tích Gò Quê gắn đồng muối cổ Tuyết Diêm.

Biển đóng vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa vật chất và tinh thần của cư dân Văn hóa Sa Huỳnh. Biển đem lại cho người Sa Huỳnh nguồn lợi thuỷ sản, muối biển.

Biển rộng mở những đường giao lưu với bên ngoài; biển đem lại cho người Sa Huỳnh cảm hứng trong sáng tạo.

5. Thương Mại

Các mộ chum của cư dân Văn hóa Sa Huỳnh có các hiện vật trang sức bằng đá mã não và các loại đá quý khác đều có nguồn gốc từ vùng Trung Á.

Có các đồng tiền Ngũ Thủ và Vương Mãng (đầu TK. 1 TCN), có các gương đồng của Tây Hán, đỉnh đồng Đông Hán.

Các mộ chum này được tìm thấy ở vùng trung du Nghĩa Hành (Quảng Ngãi), Bình Yên (Quảng Nam).. tìm thấy ở Xóm Ốc (Quảng Ngãi) và các di tích Sa Huỳnh ở Hội An..

Những hiện vật nêu trên chứng tỏ Văn hóa Sa Huỳnh có nguồn gốc giao lưu với nhiều vùng Đông Nam Á, Trung Hoa cổ xưa và Ấn Độ cổ xưa.

Đặc biệt quan hệ giao lưu giữa Sa Huỳnh và các đảo ở Thái Bình Dương rất mật thiết.

Ví như trong mối quan hệ so sánh đồ gốm Sa Huỳnh với đồ gốm Kalanay (Philippin) ; với đồ gốm Tabon (Indonesia) thì thấy chúng khá giống nhau ở kiểu dáng, phong cách trang trí.

Những mộ chum Sa Huỳnh tìm thấy ở Palavan Philippines, Bondontaphet Thailand, rồi những khuyên tai ba mấu nhọn, khuyên tai hai đầu thú là những hiện vật đặc trưng của Sa Huỳnh trong khu vực Đông Nam Á.

Và phong cách trang sức Sa Huỳnh còn phát hiện thấy ở Thái Lan, Đài Loan và Philippines cho thấy cư dân Văn hóa Sa Huỳnh buôn bán với các nước láng giềng ở Đông Nam Á.

Những bằng chứng trên chứng tỏ Văn hóa Sa Huỳnh có nền sản xuất hàng hóa cùng giao thương khá phát triển.

Buôn bán là con đường dẫn đến giao lưu văn hóa, hòa đồng nhân chủng, ngôn ngữ. Trao đổi buôn bán giữ vị trí quan trọng, trong giao lưu văn hóa.

6. Kỹ Thuật

Đồ gốm

Đồ gốm lớn với hoa văn đẹp cùng kỹ thuật dùng bàn xoay.

Đồ gốm đựng các vật dụng, đựng sản phẩm nông nghiệp, đựng sản phẩm cá và dùng để mai táng người chết.

Những hiện vật tìm thấy ở Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Huế, Đà Nẵng, Đồng Nai.

Lọ gốm Bát Bồng cách nay 2.500-2.000 năm.

Người Sa Huỳnh cổ rất khéo tay và có mỹ cảm tuyệt vời. Các đồ gốm gia dụng đều tạo dáng thanh nhã, cân đối, hoa văn phong phú, sinh động thể hiện một tâm hồn tinh tế và giàu xúc cảm.

Trong gốm Sa Huỳnh, các đồ đựng như bát, bình có chân đế, có thân gãy ở vai hay đáy, chiếm tỷ lệ lớn.

Mẫu gốm thường gặp thì vàng đỏ, nhiều khi có vệt đen bóng, có hoa văn chữ S có đệm tam giác, những đường chấm hay đường in dấu răng vỏ sò.

Người Sa Huỳnh có óc thẩm mỹ cao, biểu hiện rõ nét nhất đó là nghệ thuật tạo dáng và trang trí trên gốm. Trong các di tích tiền Sa Hùynh sơ kỳ đồng thau, đồ gốm tạo tác như tác phẩm nghệ thuật.

Nếu đồ gốm Bình Châu nổi bật với phong cách tạo dáng gãy gấp khúc mạnh mẽ ở các điểm chuyển tiếp thuộc miệng, eo cổ, vai.

Đồng thời luôn tạo tương phản mạnh về màu sắc giữa màu áo gốm đỏ tươi làm nền nổi bật các dải băng chì trên thân đồ gốm.

Đồ gốm Long Thạnh luôn chú ý yếu tố tạo dáng cân phân theo tỉ lệ cân xứng ở ba phần miệng, thân và chân đế; và các điểm chuyển tiếp trên thân đồ đựng luôn cong lượn.

Trang trí trên bình lọ hoa gốm là tổng hợp các loại văn thừng mịn, văn in chấm que, văn in chấm vỏ sò, văn vạch, văn ấn răng cưa kết hợp đắp nổi tạo gờ.. để tạo nhiều đồ án khác nhau như đồ án chữ S, đồ án tam giác, hình kỷ hà gấp khúc..

Các đồ án này làm nổi bật bằng nghệ thuật tô chì graphít lồng bên trong tương phản nền áo gốm tô đỏ.

Trên nắp đậy chum tạo dáng như hình lồng bàn úp, trên đó trang trí các đồ án chữ S, kỷ hà được tô chì nổi bật trên nền tô đỏ.

Đồ án chữ S ngược luôn là chủ đề trang trí nổi bật trên gốm tiền Sa Huỳnh, ngôn ngữ của nghệ thuật biểu hiện ở đây là các trạng thái sóng biển từ hiền hòa đến hung dữ.

Đặc trưng tính biển đồ gốm tiền sử vùng duyên hải và các đảo trong lòng chảo Thái Bình Dương là kỹ thuật in chấm vỏ sò.

Trong đồ gốm tiền Sa Huỳnh, Sa Huỳnh tỉ lệ in chấm vỏ sò chiếm vị trí thứ hai sau kỹ thuật văn thừng.

Đồ án hoa văn in chấm vỏ sò thể hiện khá phong phú trên đồ gốm Văn hóa Sa Huỳnh ở Phú Khương, Tăng Long, Gò Ốc, Xóm Ốc.

Người Sa Huỳnh sử dụng vỏ sò ở phần mép và gai vỏ sò để tạo các đồ án hoa văn rất đẹp và mang đậm tính biển.

Đồ trang sức và kỹ thuật làm thủy tinh

Các hiện vật khảo cổ của người Sa Huỳnh cho thấy họ là những thợ thủ công rất khéo tay sản xuất ra nhiều đồ trang sức, vật dụng trang trí bằng đá và thủy tinh.

Họ rất "sành điệu", khá duyên dáng trong các đồ trang sức làm bằng đá quý và đá bán quý cũng như pha lê nhiều màu sắc.

Đồ trang sức tìm thấy trong các mộ táng, phổ biến là mộ chum.

Trong chum chứa nhiều đồ trang sức bằng đồng, đá quý, thủy tinh, đặc biệt là khuyên tai ba mấu nhọn và khuyên tai hai đầu thú.

Khuyên tai ba mấu dành cho phụ nữ và khuyên tai hai đầu thú dành cho nam giới.

Nếu khuyên tai ba mấu dịu dàng, tinh tế và khá duyên dáng thì khuyên tai hai đầu thú lại thể hiện chất dũng mãnh, kiêu hãnh và cường tráng của nam giới.

Các đặc trưng đó của Văn hóa Sa Huỳnh cũng tìm được ở các di chỉ trong lưu vực sông Đồng Nai và ở nhiều nước như Thái Lan, Malaysia, Philippines và Đài Loan.

Những vật trang sức chế tác từ đá mã não và thủy tinh có thể nói là những tinh hoa đặc sắc nhất mà nền văn minh này sáng tạo ra, phổ biến khắp Đông Nam Á.

Các nhà khảo cổ tìm thấy ở những khu mộ táng Văn hóa Sa Huỳnh, các bộ hạt chuỗi giá trị ở Lai Nghi.

Trong khi rây bằng sàng phát hiện hơn 8.600 hạt cườm bằng thủy tinh màu xanh, vàng hoặc nâu có đường kính 1-3mm.

Ngoài bộ hạt chuỗi gồm khoảng 1.500 hạt bằng đá mã não, achat, crystal, amethyst, nephrite và bằng vàng, còn có 4 khuyên tai bằng vàng.

Người Văn hóa Sa Huỳnh ở Lai Nghi nhiều nhất thích dùng loại đá ngọc mã não làm đồ trang sức.

Hơn 15 hình dạng hạt chuỗi khác nhau chế tác - có lẽ bằng đá mã não đến từ khu vực Myanmar hoặc Ấn Độ.

Tổng số 1136 hạt chuỗi bằng đá mã não tìm thấy ở Lai Nghi có 3 chiếc rất đặc biệt:

Chiếc thứ nhất có hình chim nước, chiếc thứ 2 hình con hổ hoặc sư tử và chiếc thứ 3 là hạt chuỗi khắc.

3 hạt chuỗi này phát hiện trong 3 mộ chum khác nhau cùng nhiều đồ tùy táng quý khác có niên đại TK. 1-2 TCN.

Những di vật hiếm thấy khác ở miền Trung Việt Nam được kể đến là 2 gương đồng thời Tây Hán.

Thủy tinh nhân tạo

Thủy tinh nhân tạo là thành tựu rực rỡ của Văn hóa Sa Huỳnh.

Các cư dân dùng cát trắng để nấu thủy tinh làm bát lọ và đặc biệt những chuỗi hạt trang sức bằng thủy tinh mà sử sách Trung Quốc gọi là "lưu ly" gốc từ chữ Phạn là verulia từ đầu Công Nguyên.

Đây là một trong những nơi làm thủy tinh nhân tạo sớm trên thế giới.

Chúng đa dạng về kiểu dáng, phong phú về màu sắc như xanh lơ, xanh đen, xanh lá mạ, xám, tím, đỏ, nâu.

Sử Trung Hoa từng ghi chén thủy tinh xuất phát từ vùng đất này mà họ gọi là chén lưu ly với sự trân trọng và khâm phục.

Trồng trọt

Các nhà khảo cổ quan sát thấy các hiện vật bằng sắt được người Sa Huỳnh sử dụng vào nghề trồng trọt, trong khi người Đông Sơn láng giềng vẫn còn chủ yếu sử dụng đồ đồng.

Những dụng cụ bằng sắt như cuốc, dao, kiếm, lao, đục, xà beng.. được tìm thấy chứng tỏ họ thuộc nguồn gốc văn minh lúa nước Đông Nam Á. Lúa hai mùa.

Do hoàn cảnh thiên nhiên khắc nghiệt khô hạn nên cư dân cổ Sa Huỳnh và Chàm đào cả hệ thống giếng lấy nước tưới cho cây trồng, nên giới nghiên cứu ghi nhận nền văn hóa gọi là "Văn hóa Giếng Chàm cổ."

Sách sử ghi người Chàm trồng hai vụ lúa ở đồng bằng hẹp Minh Kinh và Ô Chân và để thích ứng với thời tiết, người Chàm tìm ra giống lúa gieo trồng vào đầu mùa khô, để đầu mùa mưa thì lúa chín. Sử sách gọi là mùa Chiêm.

Ngoài lúa nước, họ còn trồng cau, dừa và trồng dâu nuôi tằm.

Từ trước và sau kỷ nguyên Dương Lịch, cư dân cổ Sa Huỳnh và Chàm nổi tiếng vì "một năm tám lứa tằm tơ."

Nguồn

Web vanhoaviet

THỜI KỲ TIỀN SƠ SỬ Ở QUẢNG NAM QUA KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHẢO CỔ HỌC

Cách đây hơn 5.000 năm, những dấu tích đầu tiên của con người vào thời đại đá mới đã xuất hiện trên vùng đất Quảng Nam.

Kết quả khai quật khảo cổ học tại di tích Bàu Dũ (xã Tam Xuân 1, huyện Núi Thành) cung cấp những bằng chứng vật chất về đời sống cư dân thời kỳ này.

Là dạng di tích cồn sò điệp còn bảo lưu nhiều dấu tích vật chất, Bàu Dũ là di tích có vị trí quan trọng trong lịch sử Quảng Nam nói riêng và lịch sử vùng Trung Bộ nói chung, phản ánh tính chất đa dạng của thời đại đá mới ở Việt Nam.

Với tính chất là di tích cư trú kết hợp mộ táng, trong tầng văn hóa di tích Bàu Dũ, các nhà khảo cổ tìm thấy nhiều công cụ bằng đá, xương động vật, vỏ các loài nhuyễn thể, than tro.. cùng di cốt người cổ.

Những công cụ đá gồm công cụ chặt, nạo, chày nghiền, hòn kê.. trên nhiều chất liệu mà chủ yếu là đá cuội, một số công cụ được con người sử dụng trong thời gian khá dài.

Về loại hình và kỹ thuật chế tác, một số công cụ đá ở Bàu Dũ gần gũi với công cụ đá thuộc Văn hóa Hòa Bình.

Tại di tích Bàu Dũ, người chết được chôn theo hình thức bó gối, dựa vào các cụm điệp. Hình thức mai táng này khá gần gũi với cư dân Văn hóa Quỳnh Văn, Đa Bút ở vùng Bắc Trung Bộ.

Môi trường sống ở vùng cửa sông, ven biển, rừng tiếp giáp biển với hệ động vật, thực vật phong phú, cư dân ở Bàu Dũ tiến hành các hoạt động săn bắn, hái lượm, khai thác các điều kiện thuận lợi của thiên nhiên phục vụ nhu cầu cuộc sống.

Số lượng lớn vỏ điệp chất thành từng đống, trong lẫn vỏ sò, ốc, ngao, hàu, xương động vật.. phản ánh các hoạt động khai thác tự nhiên của con người bấy giờ.

Từ thời kỳ đá mới, cư dân cổ sinh sống trên vùng đất Quảng Nam đã dựa vào điều kiện tự nhiên, bước đầu khai thác biển, xác lập phương thức hoạt động kinh tế để đảm bảo các nhu cầu đời sống vật chất.

Thời này, không riêng gì cư dân Bàu Dũ ở Quảng Nam mà ngay cả Việt Nam và Đông Nam Á, cuộc sống con người phụ thuộc rất lớn vào các hệ sinh thái tự nhiên.

Trong điều kiện của mình, cư dân ở Bàu Dũ một mặt vẫn kế thừa truyền thống Hòa Bình trước đó.

Tiếp xúc giao lưu với các nền văn hóa cùng thời đã ứng xử thích hợp và sáng tạo ở môi trường mới, góp phần làm thay đổi diện mạo kinh tế, văn hóa của mình so với truyền thống trước đó, làm cơ sở cho phát triển nội tại trong các bình tuyến sau này.

Bước sang thời đồng thau, những cư dân cổ trên vùng đất Quảng Nam không chỉ chiếm lĩnh các vùng đất ở cửa sông ven biển mà cả các đảo ven bờ.

Tuy số lượng các di tích khảo cổ học thời này phát hiện chưa nhiều nhưng lại mang ý nghĩa quan trọng, góp phần minh chứng phát triển liên tục trong thời kim khí ở Quảng Nam.

Tại di tích Bãi Ông (thôn Bãi Ông, xã Tân Hiệp, thành phố Hội An), qua các đợt đào thám sát (1999) và khai quật (năm 2000) cho thấy đây là địa điểm cư trú kết hợp mộ táng với dấu vết cư trú có phần nổi trội hơn.

Tầng văn hóa của di tích ngoài những di vật như đồ gốm với các loại hình vò, nồi, bình chân thấp.. đồ đá như bàn mài, rìu, bàn nghiền, chày.. còn tìm thấy dấu vết bếp lửa, hạt cây cháy, xương động vật.

Gốm di tích Bãi Ông có hoa văn trang trí cầu kỳ và đẹp mắt thể hiện trình độ thẩm mỹ của cư dân khá cao.

Phổ biến là các loại văn thừng, văn in mép vỏ sò, khắc vạch.. Niên đại lớp dưới của di tích cách nay hơn 3.100 năm.

Cùng di tích Bãi Ông, di tích Bàu Trám (thôn Lý Trà, xã Tam Anh Bắc, huyện Núi Thành) là di tích có vị trí quan trọng trong thời tiền sơ sử ở Quảng Nam.

Di tích Bàu Trám tồn tại cả khu cư trú và khu mộ táng, trong đó giai đoạn cư trú có niên đại sớm và giai đoạn mộ táng có niên đại muộn.

Trong tầng văn hóa của di tích phát hiện nhiều công cụ đá, đồ gốm, đồ trang sức và cả đồ đồng.

Diễn tiến một số loại hình đồ đá, đồ gốm còn phản ánh trật tự sớm muộn của di tích. Với không gian phân bố của di tích rộng.

Tầng văn hóa dày, di vật phong phú chứng tỏ quá trình định cư của cư dân tại Bàu Trám khá lâu dài và ổn định.

Hiện diện của di tích Bàu Trám và Bãi Ông mở ra giai đoạn đầu tiên của thời đại kim khí trên vùng đất Quảng Nam.

Đến nay, dù gạch nối từ giai đoạn Bàu Dũ sang giai đoạn Bàu Trám vẫn còn là khoảng trống trong lịch sử, nhưng từ Bàu Trám đến Sa Huỳnh – giai đoạn Đại Lãnh đã được chứng minh là quá trình phát triển liên tục.

Quá trình đó, cả hai di tích Bàu Trám và Bãi Ông vừa mang những đặc trưng văn hóa riêng vừa có mối quan hệ lẫn nhau.

Góp phần vào quá trình hội tụ, kết tinh văn hóa ở giai đoạn muộn hơn – giai đoạn Văn hóa Sa Huỳnh.

Sang giai đoạn sơ kỳ thời đại sắt, cùng các tỉnh miền Trung, Quảng Nam là địa bàn phân bố của Văn hóa Sa Huỳnh.

Văn hóa Sa Huỳnh là 1 trong 3 nền văn hóa tiêu biểu giai đoạn này ở Việt Nam, cùng với Văn hóa Đông Sơn ở miền Bắc và Văn hóa Đồng Nai ở miền Nam.

Mật độ phân bố các di tích đậm đặc và bộ di vật phong phú, Quảng Nam được xem là trung tâm của Văn hóa Sa Huỳnh.

Các di tích Văn hóa Sa Huỳnh ở Quảng Nam phân bố dọc theo các sông lớn và chi lưu của nó, tập trung chủ yếu ở lưu vực sông Thu Bồn – Vu Gia.

Không gian phân bố di tích rộng khắp từ đồng bằng đến miền núi, trên nhiều dạng địa hình như vùng đồi gò trước núi, cồn cát ven sông ven biển; tập trung nhiều ở các huyện:

Tiên Phước, Hiệp Đức, Nông Sơn, Nam Giang, Núi Thành, Đại Lộc, Duy Xuyên, Điện Bàn, Hội An.

Đến nay, gần 50 di tích khảo cổ học thuộc nền văn hóa này gồm các loại hình di tích mộ táng, di tích cư trú, di tích cư trú kết hợp mộ táng được phát hiện và thám sát, khai quật.

Điểm đặc trưng của cư dân Sa Huỳnh là truyền thống sử dụng mộ chum, vò để mai táng người chết. Bên cạnh táng thức chum, vò, trong một số di tích Văn hóa Sa Huỳnh còn tồn tại loại hình mộ huyệt đất.

Các chum, vò chủ yếu chôn đơn táng nhưng cũng có trường hợp song táng (Lai Nghi, Bình Yên) hoặc chôn lồng theo kiểu trong quan ngoài quách (Gò Dừa, Hậu Xá II.).

Chum mai táng chủ yếu là loại chum hình trụ, hình cầu, hình trứng với nắp chum hình nón cụt, lồng bàn úp.. trong đó loại chum hình trụ được sử dụng ở giai đoạn muộn.

Một số di tích còn tìm thấy di cốt người (Bình Yên) hay răng trẻ em (Hậu Xá II).

Những phát hiện này có ý nghĩa quan trọng không chỉ về mặt nhân chủng mà còn góp phần chứng minh cư dân Sa Huỳnh là cư dân bản địa, mộ chum Sa Huỳnh không phải là chôn tượng trưng.

Đi liền với táng thức, táng tục này là những nghi lễ liên quan đến việc mai táng như việc kè đá dưới đáy chum (An Bang, Hậu Xá I, Phước Gia.), đốt lửa sưởi ấm mộ (An Bang, Hậu Xá II.), đổ cát trắng trong biên mộ..

Đồ tùy táng chôn theo các mộ táng sắp đặt cẩn thận và có sự phân hóa rõ rệt, thể hiện qua số lượng cũng như loại hình, chất liệu các đồ tùy táng trong từng mộ.

Sự chuyển biến trong táng thức từ những mộ nồi nhỏ phân bố lẻ tẻ giai đoạn tiền Sa Huỳnh (Bàu Trám, Bãi Ông) đến những quan tài gốm hình trứng, hình cầu và chum gốm lớn hình trụ phân bố tập trung cùng tính phức trong thực hiện tang ma ở:

Giai đoạn Sa Huỳnh phần nào phản ánh những chuyển biến trong cấu trúc xã hội từ đơn giản đến phức tạp, từ không phân tầng đến phức hợp phân tầng.

Sưu tập các di vật Văn hóa Sa Huỳnh ở Quảng Nam đa dạng về chất liệu, phong phú về loại hình.

Từ những đồ gốm sinh hoạt, đồ gốm tùy táng, các công cụ, vũ khí bằng sắt, bằng đồng, công cụ bằng đá đến bộ sưu tập đồ trang sức cho thấy đời sống vật chất, thẩm mỹ của cư dân Sa Huỳnh ở đây khá cao.

Đồ gốm bên cạnh chất liệu gốm thô là chủ yếu thì ở vài nơi cũng tìm thấy loại gốm chất liệu mịn (Hội An) và người Sa Huỳnh đã làm chủ được độ nung gốm (Gò Đình, Đồi Vàng).

Ở giai đoạn kết thúc Văn hóa Sa Huỳnh, đồ gốm trong vài di tích có "biểu hiện của xu hướng học hỏi và tiếp nhận những yếu tố văn hóa ngoại sinh – văn hóa Hán và xu hướng sử dụng, sản xuất gốm đơn chiếc" (1) như đồ gốm có chân ở Lai Nghi, nắp gốm hình nón có núm cầm ở Hậu Xá, Lai Nghi.

Đồ sắt có số lượng phong phú và đa dạng được cư dân Sa Huỳnh chế tạo và sử dụng tùy theo môi trường sống khác nhau, phản ánh sức sản xuất và mức độ phát triển kinh tế khá cao.

Đồ đồng không phong phú như đồ sắt, chủ yếu qua tiếp xúc và trao đổi với cư dân Văn hóa Đông Sơn (rìu, giáo, lao.. ở Gò Mả Vôi, Bình Yên.), văn hóa Hán (tiền đồng, gương đồng, bộ đồ đồng ở Lai Nghi, Tiên Lãnh.).

Việc chế tác đồ đồng của cư dân Sa Huỳnh ở Quảng Nam cũng được ghi nhận nhưng chỉ dừng ở mức độ và quy mô nhỏ, kỹ thuật không cao, sản phẩm kích thước nhỏ và hình dáng đơn giản (địa điểm thôn Tư).

Đồ trang sức đa dạng về chất liệu với thủy tinh, đá, vàng, bạc, phong phú về loại hình từ hạt chuỗi, khuyên tai, vòng đeo.

Kết quả khai quật khảo cổ học chứng minh cư dân Sa Huỳnh đã chế tác thủy tinh tại chỗ và có nghề thủ công chế tạo thủy tinh phát triển.

Trang sức đá chế tác từ các nguyên liệu nhập khẩu hoặc nhập khẩu bên ngoài như hạt chuỗi mã não, mã não khắc axit.. nguồn gốc từ Ấn Độ.

Bộ sưu tập các di vật này một mặt phản ánh một số ngành nghề trong xã hội đã có sự chuyên môn hóa và tách khỏi nông nghiệp như nghề làm đồ gốm, nghề rèn, nghề làm đồ trang sức.

Đồng thời thể hiện quan hệ giao lưu tiếp xúc của cư dân Sa Huỳnh ở Quảng Nam với cư dân Văn hóa Đông Sơn.

Các trung tâm kim khí ở Đông Nam Bộ, văn hóa Hán, Ấn Độ hay khu vực Đông Nam Á.

Trên cơ sở kế thừa những thành tựu giai đoạn tiền Sa Huỳnh, sang giai đoạn Văn hóa Sa Huỳnh, cư dân cổ trên vùng đất:

Quảng Nam mở rộng không gian sinh sống, chiếm lĩnh nhiều dạng địa hình và kiểu sinh thái, hình thành nên các cụm dân cư tập trung như:

Hội An (An Bang, Hậu Xá, Thanh Chiếm, Lai Nghi), Tiên Lãnh – Phước Gia, Duy Trung (Gò Mả Vôi, Gò Miếu Ông, Gò Bờ Rang, Núi Vàng.).

Số lượng di tích và di vật phát hiện cho thấy cộng đồng cư dân ở đây tiến hành các hoạt động kinh tế đa ngành, một số ngành có quy mô sản xuất lớn và chuyên môn hóa.

Nhu cầu tiêu thụ của cộng đồng cư dân và xã hội ngày càng tăng mạnh kéo theo mở rộng và phức tạp hóa mạng lưới trao đổi trong, ngoài.

Một "mạng lưới trao đổi ven sông" không chỉ về kinh tế mà cả chính trị, văn hóa đã diễn ra giữa các cộng đồng cư dân Sa Huỳnh ở Quảng Nam với nhau và với bên ngoài, từ Ấn Độ, Trung Hoa, Địa Trung Hải, Bắc Việt Nam..

Những tiếp xúc và trao đổi văn hóa càng gần giai đoạn kết thúc càng diễn ra mạnh mẽ, một mặt nào đó tác động đến sự thay đổi cấu trúc xã hội.

Trên nền tảng kết cấu kinh tế nông nghiệp – biển, cộng đồng cư dân Văn hóa Sa Huỳnh ở Quảng Nam đạt trình độ phát triển nhất định.

Sự phát triển này cùng các mối quan hệ văn hóa ngoại sinh thành tiền đề để cộng đồng cư dân sinh tụ trên vùng đất này tiến lên văn minh trong các giai đoạn sau.

Như vậy, mấy nghìn năm từ khi cư dân đầu tiên có mặt trên vùng đất Quảng Nam đến khi kết thúc giai đoạn Văn hóa Sa Huỳnh.

Bước sang giai đoạn có nhà nước đầu tiên – Lâm Ấp là quá trình phát triển nội tại kết hợp giao lưu, tiếp xúc các yếu tố bên ngoài của cộng đồng cư dân sinh tụ trên vùng đất này.

Sự chuyển biến từ thời đại đá mới sang thời đại kim khí tại Quảng Nam dù chưa được kết nối.

Nhưng kết quả khảo cổ học mang lại góp phần minh chứng thời kỳ tiền sơ sử phát triển sinh động, đa sắc thái của cư dân xứ Quảng nói riêng, miền Trung nói chung.

N. T. N

Chú thích:

(1) Lâm Thị Mỹ Dung (2017), Sa Huỳnh – Lâm Ấp – Champa: Thế kỷ V trước Công Nguyên đến thế kỷ V sau Công Nguyên, NXB Thế giới, Hà Nội, trang 127.

Nguồn

Web: Vanhoaquangnamonline

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
Đồ trang sức thủy tinh trong Văn hóa Sa Huỳnh

69339785_1197153873818196_2448691512649711616_n.jpg


Đồ trang sức thủy tinh là nét đặc trưng của Văn hóa Sa Huỳnh, thường chôn theo người mất. Để hiểu rõ hơn mời các bạn cùng tham khảo bài viết đồ trang sức thủy tinh trong Văn hóa Sa Huỳnh của Eropi ngay sau đây.

Văn hóa Sa Huỳnh

Văn hóa Sa Huỳnh là một trong ba cái nôi cổ xưa về văn minh nước ta.

Cùng Văn hóa Đông Sơn và Văn hóa Óc Eo tạo thành tam giác văn hóa Việt Nam thời đồ sắt. Văn hóa Sa Huỳnh được cho là tồn tại hơn 5000 năm trên địa bàn từ tỉnh Quảng Bình kéo dài đến các tỉnh Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.

Các phát hiện khảo cổ học trên thế giới cho thấy đồ thủy tinh có mặt ở vùng Lưỡng Hà và Ai Cập từ khoảng 4500 năm trước.

Ở Việt Nam thì đồ thủy tinh xuất hiện muộn hơn, chỉ từ khoảng 2500 năm trước ở các di tích của Văn hóa Đông Sơn, Đồng Nai và Sa Huỳnh.

Trong hàng chục hiện vật thủy tinh khai quật được thì đồ trang sức chiếm chủ yếu, gồm các chuỗi hạt, hoa tai, vòng tay.

Đặc biệt, số di tích phát hiện cổ vật phần lớn là thuộc Văn hóa Sa Huỳnh.

Có lẽ bởi địa bàn cư trú của người Sa Huỳnh dọc theo bờ biển miền Trung, nơi có các bãi cát giàu silic là thành phần chủ yếu tạo ra thủy tinh.

Thủy tinh nhân tạo cũng được coi là một trong những thành tựu rực rỡ của Văn hóa Sa Huỳnh.

Người Sa Huỳnh dùng nhiều chất liệu để chế tác trang sức nhưng phổ biến nhất là nhựa cây và cát trắng. Họ chế tác thành các chuỗi hạt đủ màu sắc, từ xanh lơ xanh đen đỏ nâu đến tím xám..

Các mẫu khuyên tai hay lắc tay cũng rất đa dạng về mẫu mã, màu sắc.

Trang sức với người Sa Huỳnh không chỉ để làm đẹp còn giúp chủ nhân thể hiện địa vị, giàu có cũng như tuân theo một số tập tục tín ngưỡng.

Từ những mẫu trang sức thu được, các nhà nghiên cứu thấy ngoại trừ các chuỗi hạt thì các mẫu trang sức thủy tinh khác được làm khá dày.

Có thể được nấu chảy sau đó sử dụng những kỹ thuật rất thô sơ như cưa, mài, đánh bóng để hoàn thiện.

Nên trang sức không có được độ trong suốt thuần khiết như thủy tinh tự nhiên mà hơi vẩn đục, có vết.

Nổi bật và có giá trị nhất phải kể đến những mẫu khuyên tai ba mấu của phụ nữ và khuyên tai hai đầu thú của nam giới được phát hiện vào năm 1935 tại Bố Trạch (Quảng Bình).

Nếu khuyên tai ba mấu rất duyên dáng thì khuyên tai hai đầu thú lại mạnh mẽ, kiêu hãnh. Tất cả đều đạt trình độ chế tác tinh xảo hiếm có.

Các mẫu khuyên tai này cũng được tìm thấy tại một số nước Đông Nam Á như Thái Lan, Malaysia.. chứng tỏ có giao thương giữa người Sa Huỳnh với các dân tộc khác trong khu vực.

Bằng nhiều phương pháp nghiên cứu và phân tích từ các thành phần hóa học có trong trang sức thủy tinh Sa Huỳnh, các nhà khảo cổ kết luận rằng những chuỗi hạt là sản phẩm chế tác tại chỗ, một số rất ít mới là sản phẩm bên ngoài được nhập vào.

Các dấu vết trang sức thủy tinh trong Văn hóa Sa Huỳnh

Các chuỗi hạt thủy tinh nhỏ li ti được phát hiện tại:

Di tích Cồn Ràng (Thừa Thiên Huế), Long Thạnh (Quảng Ngãi), Động Cườm (Bình Định).

Tại Quảng Nam, từ 1976 đến nay phát hiện nhiều trang sức thủy tinh trong các mộ chum Sa Huỳnh.

Tại Bàu Trám, năm 1979 phát hiện một chuỗi hạt hình lục lăng bằng thủy tinh nhân tạo màu xanh lơ.

Tại Gò Đình (Đại Lãnh) năm 1980 phát hiện một mẫu khuyên tai hai đầu thú, một mẫu khuyên tai ba mấu, hai mẫu khuyên tai vành khăn, nhiều chuỗi hạt li ti. Tất cả đều làm bằng thủy tinh có màu xanh da trời thẫm.

Tại khu mộ chum Tam Mỹ, 1988 phát hiện bốn vòng tay màu xanh da trời thẫm, có mặt cắt ngang hình chóp, mài vát hai bên.

Trên bề mặt còn lưu lại những dấu vết của phương pháp khoan tách lõi và mài, thoạt nhìn rất dễ lầm tưởng chúng được làm từ thủy tinh tự nhiên, nhưng khi nhìn kĩ sẽ thấy các bọt khí nằm bên trong.

Gần đây khoảng cuối 2002 đến đầu 2003, tại khu mộ chum Lai Nghi, các nhà khảo cổ phát hiện một số lượng lớn lên đến gần 10.000 chuỗi hạt thủy tinh các loại.

Có những chuỗi nhỏ li ti thường gọi là cườm tấm, cũng có chuỗi lớn hình quả trám.

Màu sắc chủ yếu của các chuỗi hạt thường là xanh đen, xanh lơ, xanh lục, vàng nhạt, cũng có loại không màu.

Các lỗ để xỏ dây của chuỗi rất nhỏ, chắc chắn không phải dùng phương pháp khoan nhưng là dùng phương pháp nào thì chưa rõ.

Từ những hiện vật thu được có thể thấy thời đồ đá ở Việt Nam, con người chủ yếu chế tác thủy tinh để làm trang sức chứ chưa thể làm các vật dụng phức tạp hơn như ly chén bát.. do trình độ kỹ thuật và công cụ thô sơ hạn chế.

Trang sức thủy tinh lúc bấy giờ có thể có giá trị ngang ngửa mã não, ngọc bích ngày nay.

Số đồ trang sức thủy tinh trong các di tích của Văn hóa Sa Huỳnh lại vượt trội hơn hẳn về cả số lượng và chất lượng chứng tỏ ngoài thỏa mãn nhu cầu làm đẹp cho người Sa Huỳnh. Chúng còn được đem đi trao đổi buôn bán khắp khu vực Đông Nam Á. Đây cũng là tín hiệu của phát triển kinh tế và giao thương.

Nguồn

Web eropi

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
Đồ gia dụng tuỳ táng ở văn hóa Sa Huỳnh

23905214_761449547388633_6729641216463276945_n.jpg


DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA TIÊU BIỂU

Bình Định có 234 Di tích Lịch sử - Văn hóa, hơn 60 di tích hạng cấp quốc gia và cấp tỉnh. Cổng thông tin điện tử UBND tỉnh Bình Định xin giới thiệu vài Di tích Lịch sử Văn hóa tiêu biểu.

Di tích lịch sử

Dấu tích Văn hóa Sa Huỳnh ở Bình Định

Bình Định là 1 trong 3 trung tâm của Văn hóa Sa Huỳnh với hệ thống di chỉ phân bố khá dày được các nhà khảo cổ phát hiện, đào thám sát, khai quật:

Động Cườm, Gò Tháp, Ca Công, Động Bàu Năng, Phú Nhuận, Công Lương (Hoài Nhơn), Truông Xe, Gò Lồi, Thuận Đạo, Chánh Trạch (Phù Mỹ), Hội Lộc, Núi Ngang, Đồi Điệp (Quy Nhơn).

Sa Huỳnh là nền văn hóa nổi tiếng thời tiền sử và sơ sử Việt Nam, đặt tên theo khu di tích mộ chum Sa Huỳnh (Đức Phổ, Quảng Ngãi) do M. Vinet phát hiện năm 1909, chính thức định danh Văn hóa Sa Huỳnh 1937. Việt Nam thời kim khí (cách nay 3000-4000 năm) từng tồn tại 3 trung tâm văn hóa lớn:

Đông Sơn miền Bắc, Óc Eo miền Nam, Sa Huỳnh miền Trung.

Không gian Văn hóa Sa Huỳnh phân bố từ Quảng Bình đến Đồng Nai, Tây Nguyên. Cảnh quan văn hóa chung ấy, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định có di tích nhiều nhất, mật độ phân bố khá dày.

3 vùng mật độ di tích cao nhất là vùng thềm phù sa có sông Vu Gia, Tiên Hà, Thu Bồn; vùng cồn cát ven biển, gần sông Vĩnh Điện, Tam Kỳ, Vĩnh An và vùng cồn cát ven biển, gần bàu nước La Vận, Bàu Năng, Trà Ổ, Thị Nại (Quy Nhơn).

Những dấu vết văn hóa cư dân cổ Sa Huỳnh trên Quy Nhơn phát hiện khá muộn qua các điều tra, khảo sát, đào thám sát từ 1978, hé mở bề dày và bề rộng không gian lịch sử, văn hóa Bình Định nói chung, Quy Nhơn nói riêng.

Đồ gia dụng tùy táng Văn hóa Sa Huỳnh.

Nhóm di tích tiền sử, sơ sử Quy Nhơn:

Hội Lộc, Núi Ngang, Đồi Điệp là một trong những tập hợp di tích khảo cổ học, cùng một tính chất, phát triển cùng giai đoạn và cùng khu vực với nhóm:

Truông Xe, Gò Lồi, Chánh Trạch, Thuận Đạo (Phù Mỹ) và Động Cườm, Ca Công, Gò Tháp.. (Hoài Nhơn) - vùng cồn cát ven biển, gần bàu nước: Thị Nại, Trà Ổ, Bàu Năng.

Hội Lộc, Núi Ngang, Đồi Điệp nay thuộc xã Nhơn Hội, TP. Quy Nhơn, là cồn cát trải dài, một bên là đầm Thị Nại, một bên biển.

1978, khảo cổ học phát hiện tại Hội Lộc, dọc cồn cát ven biển lộ nhiều mảnh gốm đen xám rải hầu khắp bề mặt, mở 2 hố thám sát:

3m2 và 1m2, ở độ sâu 0, 15m đến 0, 35m, thu 1 bàn mài xám nhạt, 24 mảnh cuội vỡ, 500 mảnh gốm các loại, hoa văn không rõ nét, chủ yếu là mảnh vỡ bình, hũ, nồi đựng đáy bằng. Lớp đất màu xám lẫn tro than.

Núi Ngang, ngọn núi nhỏ khá bằng phẳng cách đầm Thị Nại khoảng 400m cũng thuộc địa phận thôn Hội Lộc, qua khảo sát phát hiện bề mặt nhiều mảnh gốm vỡ, thuộc loại gốm thô pha nhiều cát, nhiệt độ nung cao, màu nâu, xương gốm màu đen.

Đồi Điệp thuộc thôn Hội Bình phát hiện 1997, dọc chân núi dưới lớp đất canh tác có lớp vỏ sò điệp khá dày.

Chưa đào thám sát kiểm tra, nhưng xói lở tự nhiên làm lộ xác sò điệp dày khoảng 2m. Loại hình di tích như Đồi Điệp, các nhà khảo cổ phát hiện trong các di tích ở Bàu Tró (Quảng Bình).

Loại hình hiện vật tìm thấy qua khảo sát, đào thám sát tại Hội Lộc, Núi Ngang, Đồi Điệp thuộc Văn hóa Sa Huỳnh chủ yếu:

Những mảnh bình, vò, nồi có nắp đậy, nói chung là đồ gia dụng, kích cỡ nhỏ, chưa phát hiện những mảnh chum, vò lớn để chôn xác người như khu mộ chum Động Cườm (Tam Quan Nam, Hoài Nhơn).

Chưa khai quật khảo cổ học mở rộng diện tích để nghiên cứu sâu, nhưng những dấu tích vật chất còn lại, các nhà khảo cổ học khẳng định chắc chắn:

Từ hậu kỳ đồng thau và sắt sớm (cách nay khoảng 2500 năm), Quy Nhơn có cộng đồng cư dân tiền sử đến định cư.

Hàng loạt trống đồng Đông Sơn phát hiện những năm 1990 và những năm vừa qua trên địa bàn các huyện:

Vĩnh Thạnh, Tây Sơn, Phù Cát, An Lão chôn theo nhiều mảnh gốm thô đậm phong cách Văn hóa Sa Huỳnh đã thêm nhận thức mới:

Từ TCN, người Sa Huỳnh giao tiếp không gian Văn hóa Đông Sơn phía Bắc và không gian Văn hóa Đồng Nai phía Nam.

TK. X, không gian xã hội văn hóa Champa giao tiếp và tiếp nối với không gian xã hội văn hóa Thăng Long – Đại Việt và không gian xã hội Phù Nam, Chân Lạp.

Quy Nhơn, Bình Định là nơi tiếp nhận và hội tụ các luồng văn hóa Bắc Nam, chịu ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ miền Nam Á và văn hóa Trung Hoa miền Hoa Nam.

Giả thuyết khoa học từ những năm trước về di tích Sa Huỳnh muộn, có thể cũng là di tích Champa sớm, đã và đang làm sáng tỏ.

Chủ nhân Văn hóa Sa Huỳnh là Tổ tiên trực tiếp của cư dân dựng nước Champa. Quy Nhơn nay đủ di tích 2 nền văn hóa đó.

Di tích Champa:

Bình Định từng là kinh đô của Champa từ TK. X đến TK. XVI, thời vàng son đó còn lưu đến nay những di sản vô giá với dấu tích thành quách, những ngọn tháp rêu phong đứng vững trước thời gian, bằng giá trị văn hóa nghệ thuật đích thực của chúng.

Tháp Đôi Quy Nhơn:

Xây cuối TK. XII ở phường Đống Đa, TP. Quy Nhơn, công trình kiến trúc đẹp, độc đáo gồm 2 tháp (tháp chính cao 20m, tháp phụ cao khoảng 18m). Tháp Đôi xếp loại đẹp "độc nhất vô nhị" nghệ thuật kiến trúc Champa.

2 tháp đều không phải tháp vuông nhiều tầng theo truyền thống tháp Chăm, mà là cấu trúc gồm 2 phần chính: Khối thân vuông, phần đỉnh hình tháp mặt cong, các góc tháp hiện những tượng chim thần Garuda, 2 tay đưa cao nâng đỡ mái tháp.

Vòm trên các cửa vút cao như những mũi tên. Kiến trúc tháp Đôi ảnh hưởng nghệ thuật Ấn Độ giáo.

Tháp Bánh Ít (còn gọi tháp Bạc) :

Xây cuối TK. XI, đầu TK. XII tại xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, trên đỉnh đồi nằm giữa 2 nhánh sông Côn là Tân An và Cầu Gành, cạnh quốc lộ 1A, cách TP. Quy Nhơn khoảng 20km.

Đây là quần thể 4 tháp, từ xa trông giống bánh ít nên gọi tháp Bánh Ít, mỗi tháp là kiến trúc riêng biệt, mỗi sắc thái khác nhau.

Đỉnh mỗi tháp có tượng thần Shiva bằng đá. Về nghệ thuật, toàn bộ di tích tháp Chàm còn lại trên đất Việt, Bánh Ít là quần thể kiến trúc độc đáo, nhiều dáng kiến trúc đa dạng, trang trí đẹp, giá trị nghệ thuật cao.

Tháp Dương Long (còn gọi Tháp Ngà) :

Xã Bình Hòa, huyện Tây Sơn, cách TP. Quy Nhơn khoảng 50km, xây cuối TK. XII, thời phát triển rực rỡ nhất văn hóa nghệ thuật Chăm.

Gồm 3 tháp Chàm (tháp giữa cao 24m, 2 tháp 2 bên cao 22m). Nghệ thuật điêu khắc chạm trổ điêu luyện, các đường nét hoành tráng, lộng lẫy, tinh tế mềm mại, những con vật và họa tiết trang trí sống động chân thực, huyền ảo kỳ bí.

Tháp Dương Long một trong những tháp Chàm đẹp nhất miền Trung, đặc trưng độc đáo là kích thước lớn, kiến trúc uy nghi.

Tháp Cánh Tiên:

Xây bên thành Đồ Bàn ở xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn khoảng TK. XVI. Đặc biệt của tháp là phần trong các cột ốp tường ốp kín bằng các phiến đá sa thạch màu tím, chạm khắc hoa văn dây xoắn.

Tháp thanh thoát, trang nghiêm, 4 tầng thu nhỏ dần lên trên, tầng nào cũng có 4 tháp góc trang trí, mỗi góc có những tầng nhỏ, tạo dáng lá lật nhỏ dần về phía trên tạo như cánh chim bay, từ vai tháp trở lên, tứ phía giống cánh tiên bay nên gọi tháp Cánh Tiên.

Tháp Phú Lốc (còn gọi tháp Vàng) :

Xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, cách TP. Quy Nhơn 35km về phía Bắc, đẹp ngạo nghễ, đượm buồn, từ chân tháp nhìn bốn hướng cảnh trí kỳ vĩ.

Tháp Bình Lâm:

Xây trên gò đất cao thuộc xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước, cách TP. Quy Nhơn 22km. Tháp có bình đồ vuông, mỗi cạnh khoảng 10m, cao khoảng 20m, 3 tầng, hoa văn tinh tế, kiến trúc hài hòa với những đường nét thanh tú, khỏe khoắn.

Tháp Thủ Thiện:

Xây trên vùng tương đối thấp, trên bờ Nam sông Côn thuộc xã Bình Nghi, huyện Tây Sơn, cách TP. Quy Nhơn 35km về hướng Tây Bắc. Tháp nhỏ, trang nhã, thanh thoát, kỳ bí.

Các tháp trên đều được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay Bộ VHTT&DL) công nhận di tích lịch sử kiến trúc. Hệ thống tháp Chàm ở Bình Định rất phong phú, đa dạng tạo hấp dẫn đặc thù chỉ có ở Bình Định, khách đến vùng Nam Trung Bộ nói riêng và Việt Nam nói chung.

Di tích Tây Sơn

Đầu dựng nghiệp nhà Tây Sơn, đánh chiếm phủ thành Quy Nhơn của nghĩa quân Tây Sơn dưới mưu kế của Nguyễn Nhạc để chống nhà Nguyễn.

1773, chiêu dụ rất nhiều nghĩa quân, Nguyễn Nhạc lập đàn cáo trời đất, hợp thức hóa danh vị chức chưởng của chúa tôi, tế cờ xuất quân về đồng bằng.

Đạo quân Tây Sơn xuống núi Bà Phu thì xẩm tối, Nguyễn Nhạc cho quân nghỉ, gà cất tiếng gáy thì lên đường. Binh đi như gió, mặt trời vừa mọc, huyện lỵ Tuy Viễn bị bao vây.

Nghe nghĩa quân Tây Sơn hò reo dậy đất, quan Tri Huyện bỏ trốn, nhân viên trong huyện và tất cả lính đều hàng. Nguyễn Nhạc giao Tuy Viễn cho Nguyễn Văn Tuyết và Huyền Khê trấn giữ, rồi ra đánh thành Quy Nhơn.

Quy Nhơn là thành cũ của Đồ Bàn (thành Hoàng Đế nay) thuộc Chiêm Thành xưa. Thành ở giữa Tuy Viễn và Phù Ly, tường đá ong, trên dải gò cao, quanh có hào sâu bao bọc, thế rất vững. Quân Tây Sơn vây đánh 3 ngày không lấy được.

Tuần Phủ Nguyễn Khắc Tuyên đóng cửa thành cố thủ. Nguyễn Nhạc không đưa quân vào được, bèn lui binh, đóng rải rác, giấu quân, nằm im chờ lệnh.

Tuyên tưởng quân Tây Sơn đã thua kéo về núi, thông báo ai bắt sống Nguyễn Nhạc đem nộp hoặc giết lấy đầu nộp, trọng thưởng.

Nguyễn Nhạc đóng cũi thật kiên cố, bên trong dễ mở, đóng, tự mình ngồi trong cũi, bảo nghĩa quân khiêng dâng nộp cho Tuyên. Trước khi đi, Nguyễn Nhạc lệnh:

"Tướng sĩ chuẩn bị sẵn sàng, hễ nghe trong thành pháo nổ, kéo vào chiếm thành."

Nguyễn Nhạc chọn 8 lính giỏi côn quyền, mặc như thường dân, để khiêng cũi. Vào cửa thành, dùng đòn khiêng cũi làm côn, tháo thanh cũi làm gậy đánh quân giữ cửa thành.

Ông cho toán quân vài mươi người mặc như thường dân, làm bộ áp giải, mang vũ khí đi hai bên cũi, tổ chức vài thường dân khác chạy theo sau đoàn khiêng cũi, la hét:

"Bắt được tướng giặc rồi, đồng bào ra mà coi.."

Tuyên cho người lên thành xem, truyền mở cửa thành, đưa Nhạc vào thành cho chắc ăn. Đêm đến Nguyễn Nhạc phá cũi, nhảy ra làm nội ứng, mở toang cửa thành, đốt pháo hiệu cho bên ngoài biết.

Trong đánh ra, ngoài đánh vào, đốt dinh trại, giết tướng sĩ, làm cả thành tan vỡ. Lúc này, trong cơn hoảng loạn, Khắc Tuyên không kịp đóng ngựa vội bỏ thành trì, chạy trốn. Từ đó, thành Quy Nhơn bị quân Tây Sơn chiếm giữ.

Thành Hoàng Đế

Từ 500 năm trước là kinh đô của Champa. Theo thư tịch cổ, thành cổ này có tên: Vijaya, Chà Bàn, Xà Bàn, thành Lồi, Đồ Bàn.

Tên gọi Chà Bàn được sử Việt ghi sớm nhất vào thời Hồ (1403). Ghi nhiều nhất, vài sử liệu về sau gọi thành Đồ Bàn. Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của Phan Huy Chú:

"Sách Thiên Nam dư địa chí gọi Chà Bàn, sau nhiều sách chép lầm Đồ Bàn vì chữ Chà và Đồ gần giống nhau."

500 năm Champa định đô vùng Vijaya (TK. XI-XV), chiến tranh nhiều lần tàn phá khu này. Sau lần bị người Khơme tấn công cuối TK. XII, kinh đô bị hủy hoại nặng.

1283, tránh quân Nguyên, người Chiêm bỏ kinh thành chạy lên thượng du. Cuộc chiến với nhà Trần, đặc biệt là nhà Lê năm 1471 đưa Vijaya vào Đại Việt, thành Đồ Bàn chấm dứt vai trò lịch sử.

Hiếm có kinh đô nào lại xây dựng, bị hủy hoại, tu sửa, phục hồi nhiều lần như Đồ Bàn. Hiện di tích này thuộc thị trấn Đập Đá và xã Nhơn Hậu huyện An Nhơn.

Thành Hoàng Đế được Tây Sơn xây 1775 trên cơ sở thành Đồ Bàn, chính thức gọi tên thành Hoàng Đế từ 1778.

1776 đến 1793, thành là đại bản doanh quân Tây Sơn, sau là kinh đô của chính quyền trung ương vua Thái Đức – Nguyễn Nhạc.

Sử cũ chép:

"Nguyễn Nhạc nhân đất cũ của Chiêm Thành, sửa đắp thành Đồ Bàn, đào đá ong thành Lũy, mở rộng cung điện" (Sách Lê Quý Dật Sử).

"Tây Sơn Nguyễn Nhạc chiếm thành này, nhân nền cũ xây đá ong, xưng thành Hoàng Đế" (Đại Nam Nhất Thống Chí) ;

"Đồ Bàn có từ lâu đời, khắc phục từ nhà Trần, bị phá vỡ từ đời Lê, khôi phục từ Tây Sơn, sau dần phá bỏ, nay nền cũ vẫn còn.

Niên hiệu Cảnh Hưng thứ 37 (1776), nhà Tây Sơn Nguyễn Nhạc năm thứ 3 đóng đô ở đó, mở rộng cửa Đông 15 dặm, tường thành đắp cao, xây bằng đá ong, bề cao 1 trượng 4 thước, bề dày 2 trượng, mở thêm 1 cửa thành ra 5 cửa, riêng phía trước có 2 cửa, bên tả là cửa Tân Khai, hữu cửa Vệ Môn..

Phía Tây thành đắp đê Đỉnh Nhĩ phòng nước lụt, Tây Nam có Đàn Nam Giao tế trời đất, trong thành xây thêm thành con, giữa dựng điện Bát Giác, phía sau là điện Chánh Tẩm (nhà chính), trước điện Bát Giác có lầu Bát Giác.

Hai bên dựng hai nhà thờ, tả thờ Tổ tiên ông Nhạc, hữu thờ Tổ tiên bà Nhạc; trước lầu Bát Giác có cung Quyển Bồng.

Hai bên dãy hành lang làm việc; trước cửa cung có cửa Tam Quan còn gọi cửa Quyển Bồng, hay cửa Nam Lâu, cửa Vệ Môn đứng trước mặt" (Đồ Bàn Thành Ký, Nguyễn Văn Hiển).

Theo Chapman, thương gia người Anh đến thăm Nguyễn Nhạc giữa năm 1778:

"Tường thành phía Đông dài nửa dặm, không thấy đại bác, lỗ châu mai, tháp canh. Không thấy lính canh cổng và trên tường thành."

1799, Nguyễn Ánh chiếm thành Hoàng Đế, đổi tên là thành Bình Định. 1800, Tây Sơn vây thành, 1801, tướng giữ thành của Nguyễn Ánh là Võ Tánh và Ngô Tùng Châu tự sát.

1802, Tây Sơn bỏ thành ra Bắc. Gia Long lên ngôi, nơi đây thành dinh Bình Định rồi trấn Bình Định.

"Năm Gia Long thứ 7 (1808) dời đến chỗ hiện nay (thôn Kim Châu và An Ngãi), năm thứ 14 đắp bằng đất, năm thứ 16 xây bằng đá ong" (Đồ Bàn Thành Ký, Nguyễn Văn Hiển).

Xây thành Bình Định, nhà Nguyễn dỡ vật liệu đá ong từ thành Hoàng Đế, xây lăng mộ Võ Tánh ngay trên địa điểm điện Bát Giác và lầu Bát Giác.

Bảo tàng Quang Trung, bảo tàng tâm linh

Hình thành trên chính nền nhà cũ gia tộc Nguyễn Huệ ở làng Kiên Mỹ, ấp Kiên Thành, nay thuộc thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn, quần thể Bảo tàng Quang Trung, điện thờ Tây Sơn là khu bảo tàng danh nhân lớn nhất, một trong những bảo tàng hút khách đến tham quan du lịch học tập nhiều nhất nước. Một trong những địa điểm tham quan chính khi đến Bình Định.

Rưng rưng bến sông, cây me, giếng nước

Đến Phú Phong, nhẹ bước trên cầu Kiên Mỹ bắc qua sông Kôn nổi tiếng để đến Bảo tàng Quang Trung, cảm nhận linh khí núi sông vùng đất sinh những anh hùng áo vải Tây Sơn.

Không phải ngẫu nhiên Bảo tàng Quang Trung bắt đầu từ bến Trường Trầu bên sông Kôn và kết thúc ở điện thờ Tây Sơn tam kiệt.

11.057 tư liệu hiện vật gốc, hàng trăm hiện vật phục chế về nhà Tây Sơn, Bảo tàng Quang Trung sở hữu kho tư liệu, hiện vật phong phú nhất về thời đại lừng lẫy và vua kiệt xuất.

Đây là thành quả của nỗ lực không ngừng của cán bộ, nhân viên bảo tàng hơn 30 năm qua, từ khi lập 1977.

Họ đi khắp nước, ra nước ngoài tập hợp tư liệu hiện vật liên quan Tây Sơn và Quang Trung. Những báu vật như trống da voi của đồng bào Tây Nguyên tham gia Tây Sơn, ấn tín, sắc phong, gia phả của nhiều văn thần, võ tướng.

Chuông đồng, súng thần công, ấn tín, tiền đồng Thái Đức, Quang Trung, Cảnh Thịnh, bia mộ Tổ dòng họ Tây Sơn.

Nhiều hiện vật được dân Bình Định và nhiều địa phương cả nước tặng bảo tàng, vài hiện vật đến thông qua đại sứ quán các nước bạn mà bảo tàng nhờ.

Di tích bến Trường Trầu lặng lẽ sau lùm tre bờ sông Kôn mênh mông cuộn nước, bến sông nhờ nghề buôn trầu lên nguồn xuống biển, Nguyễn Nhạc thu phục nhân tâm, tập hợp lực lượng dân Kinh - Thượng, mưu nghiệp lớn.

Dưới bóng me cổ thụ từng che mát anh em Nguyễn Huệ giờ vẫn xanh um, uống những ngụm nước ngọt mát, trong vắt từ giếng nhà Nguyễn Huệ.

Những ngụm nước như kéo gần hơn 200 năm lịch sử và như thấy Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu, Ngô Văn Sở vừa từ điện thờ ra đến chia cùng gàu nước từ giếng đá ong của họ.

Cây me của gia đình Tây Sơn tam kiệt.

Nhạc, võ, hai trong một

Võ thuật và trống trận Quang Trung là 2 di sản phi vật thể lớn của Tây Sơn. Anh em Tây Sơn khai sáng, phát triển, hoàn thiện các võ phái Bình Định, cải cách nâng cao bài quyền, bài binh khí để dạy nghĩa quân.

Tương truyền, Nguyễn Huệ sáng tạo Yến phi quyền, Độc lư thương, Nguyễn Lữ sáng tạo Hùng kê quyền, những độc chiêu của võ thuật Binh Định.

Nguyễn Huệ chủ trương đưa nhạc trống vào khích lệ ba quân chiến đấu, truyền lại ngày nay với tên gọi trống trận Quang Trung.

Nhà biểu diễn võ, nhạc và đội diễn nhạc, võ thành một phần không thể thiếu của Bảo tàng Quang Trung.

Các buổi diễn nhạc, võ là final bất ngờ và kỳ thú với khách, khám phá xứ đất võ trời văn này, nhạc và võ chỉ là một, trong nhạc có võ, võ đầy chất nhạc, những người diễn quyền cước, binh khí, kèn trống kia khó phân biệt ai là nghệ sĩ, ai là võ sĩ. Chỉ có thể gọi họ:

Những nghệ sĩ – võ sĩ, giúp hiểu: Võ thuật ở tầm cao và chiều sâu của nó, là văn hóa, 1 nghệ thuật.

Nghệ thuật, văn hóa có thể và cần song hành với võ công để lập những kỳ tích cho non sông, đất nước. Dường như đó là di huấn từ cuộc đời Nguyễn Huệ.

Dễ hiểu vì sao Bảo tàng Quang Trung là bảo tàng duy nhất nước ta có đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp trong biên chế của mình, chuyên biểu diễn nhạc, võ.

Bảo tàng tâm linh, nơi thể hiện niềm tự hào dân tộc

Bảo tàng Quang Trung lập 1977, nay đã 30 tuổi. Tiền thân của nó là đền thờ Tây Sơn hơn 200 năm. 1827, sau 25 năm nhà Tây Sơn sụp đổ và bị trả thù, truy quét hiểm ác, dai dẳng, xóa dấu tích, bất chấp cấm đoán hà khắc của nhà Nguyễn, trên nền nhà, vườn cũ anh em Nguyễn Huệ lúc ấy thành bãi đất hoang, dân làng Kiên Mỹ âm thầm xây đình Kiên Mỹ thờ anh em Tây Sơn.

Từ đó hàng năm diễn ra lễ cuối tháng 11 và mùng 5 tháng Giêng ÂL. Đó là 2 ngày trọng đại nhất nhà Tây Sơn:

Ngày Quang Trung đăng quang trên núi Bân và đại thắng Đống Đa, quét sạch 29 vạn quân Thanh. Người Kiên Mỹ phải che mắt nhà Nguyễn khi gọi đây là ngày "cúng cơm mới."

Hai ngày lễ trọng tại ở Kiên Mỹ liên tục hơn trăm năm, thu hút người Kiên Mỹ, Tây Sơn, ngày càng nhiều người thập phương đến. Chống Pháp, "tiêu thổ kháng chiến", đình ấy thành ngọn đuốc và ngày lễ nhớ Tây Sơn tạm đứt đoạn.

Những năm 1960, đền thờ Tây Sơn tạo trên nền đất cũ. Lập tức quy tụ bốn phương.

Hàng năm, 5 tháng Giêng kỷ niệm chiến thắng Đống Đa, hàng vạn người về đây, cùng dân Kiên Mỹ, Tây Sơn làm lễ hội lớn tưởng nhớ Nguyễn Huệ, niềm tự hào lớn của mỗi người Việt dù ở phương trời nào.

Ai đó từng nói, người Pháp hãnh diện về Napoleon Bonaparte, thiên tài quân sự chinh phục cả Âu Châu, rạng danh nước Pháp.

Người Mỹ tự hào khi có nhà chính trị thiên tài George Washington, Tổng thống lỗi lạc đưa Hoa Kỳ đến vinh quang.

Người Việt có quyền tự hào về Quang Trung bách chiến bách thắng trong sự nghiệp giữ nước và dựng nước vĩ đại.

Chưa có Khải Hoàn Môn hoành tráng tưởng niệm Napoleon như người Pháp dựng ở trung tâm Paris, hình thành đền thờ Tây Sơn 200 năm trước và Bảo tàng Quang Trung hơn 30 năm gần đây là thể hiện tình yêu, ngưỡng mộ, tự hào lớn của người Bình Định và cả nước với Quang Trung.

Không lạ khi 30 năm qua, bào tàng này có những phát triển vượt bậc trong quan tâm chăm sóc, ủng hộ hết mình của Đảng, chính quyền, dân Bình Định, Hà Nội, TP. HCM và nhiều địa phương khắp ba miền Bắc, Trung, Nam.

Gia Lai tặng một nhà rông Bana, nhiều doanh nhân tài trợ xây tượng đài Quang Trung, tượng Tây Sơn tam kiệt và sáu văn thần, võ tướng thời Tây Sơn, phục chế, mua vài hiện vật quý.

Bảo tàng ngày càng to đẹp, khang trang, hiện vật tư liệu ngày càng phong phú, các lễ hội Đống Đa mỗi năm ngày càng đông vui bội phần.

Anh hoa và hào khí Tây Sơn – Nguyễn Huệ lại tỏa sáng rực rỡ, tạo niềm tin lớn, sức mạnh lớn trong quyết tâm bứt phá, hội tụ, phát triển vì tương lai giàu đẹp.

Từ đường Võ Văn Dũng

Từ đường Võ Văn Dũng, danh tướng Tây Sơn, xây trên quê ông, nay thôn Phú Mỹ, xã Tây Phú, huyện Tây Sơn. Từ thị trấn Phú Phong rẽ trái khoảng 3km tới thôn Phú Mỹ.

Theo gia phả họ Võ do Võ Thừa Khuông, di duệ đời 9, soạn trên cơ sở tài liệu cũ, thì Thuỷ Tổ họ Võ ở Phú Mỹ là Võ Văn Của, quê gốc Nghệ An, di cư vào Nam từ TK. 17, đến lập nghiệp tại thôn Phú Lộc, ấp An Tư, tổng Thời Đôn, huyện Tuy Viễn.

Đến đời thứ 2: Võ Văn Thọ, gia thế họ Võ tương đối khá giả.

Thọ xuất tài lực tổ chức đắp đập Lộc Đổng, tham gia đắp nhiều đập dẫn nước vào đồng ruộng, mở mang kinh tế nông nghiệp cho Phú Mỹ và nhiều làng xã trong vùng.

Đời thứ 3:

Võ Văn Khanh tài trí, có công huân với nhà nước, từng được phong Nam Tước. Võ Văn Khanh kết duyên Nguyễn Thị Điểm, sinh Võ Văn Chỉnh và Võ Văn Dũng.

Dũng thuở nhỏ tên Độ, thông minh, chí khí từ sớm. Sống trong gia đình khá giả, ông được học hành, hay đi đây đi đó nên hiểu biết rất rõ thời cuộc, tầm nhìn mở mang. Rất giỏi võ, một phần kế thừa truyền thống thượng võ quê hương, một phần nỗ lực rèn luyện, gồm đủ cung, đao, kiếm..

Hàng năm 8-2 ÂL, con cháu dòng tộc Võ tập trung về làm giỗ Võ Văn Dũng, tưởng nhớ Tổ tiên và vị tướng lỗi lạc có những đóng góp xuất sắc với Tây Sơn, với dân tộc, rạng danh dòng họ, xóm làng, rạng danh Bình Định.

Từ đường Bùi Thị Xuân:

Nhà thờ dòng họ Bùi ở huyện Tây Sơn có bàn thờ nữ tướng Bùi Thị Xuân. Đô Đốc Bùi Thị Xuân người xã Bình Phú, huyện Tây Sơn, vợ Thiếu Phó Trần Quang Diệu. Họ là dũng tướng trụ cột của Tây Sơn.

Bà ra Bắc vào Nam, tung hoành biên giới phía Tây, lập nhiều chiến công vang dội, gây khiếp sợ cho quân vua Lê, Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn.

Quang Trung lên ngôi 1788, bà được phong Đô Đốc. Quang Trung mất (1792), triều đình Tây Sơn suy yếu, quân Nguyễn Ánh chiếm Phú Xuân.

1802, chồng bà là Trần Quang Diệu bị xử tử cùng vua Quang Toản. Bà cùng các con sa vào tay kẻ thù, bị xử voi giày.

DI TÍCH CÁC NHÀ YÊU NƯỚC VÀ KHÁNG CHIẾN

Lăng Mai Xuân Thưởng:

Hơn 200 năm, xây kiểu kiến trúc cổ trên ngọn đồi cạnh quốc lộ 19 thuộc xã Bình Hòa, huyện Tây Sơn để thờ Mai Xuân Thưởng - nhà yêu nước, lãnh tụ xuất sắc phong trào Cần Vương kháng Pháp tại Bình Định.

Trên ngọn đồi này, nơi năm xưa Mai Xuân Thưởng dựng cờ khởi nghĩa, thấy các căn cứ kháng Pháp của nghĩa quân như Phú Phong, Tiên Thuận, Linh Đổng, Hương Sơn.

Hơn 100 năm từ ngày Mai Xuân Thưởng hy sinh nhưng tên tuổi ông vẫn sống mãi trong lòng người Bình Định và cả nước.

Mộ Đào Tấn:

Các danh nhân văn hóa Bình Định, Đào Tấn như ngôi sao sáng chói. Ông yêu nước, quan nổi tiếng liêm khiết, nhà thơ, nhà soạn tuồng xuất sắc Việt Nam cuối TK. XIX đầu TK. XX, được suy tôn "Hậu Tổ" nghệ thuật tuồng Việt Nam.

Mộ nằm trên núi Huỳnh Mai thuộc xã Phước Nghĩa, huyện Tuy Phước, cách TP. Quy Nhơn khoảng 15km, là Di tích Lịch sử - Văn hóa quan trọng trùng tu tôn tạo trên nguyên gốc, ngày càng hút nhiều khách đến tham quan tri ân người có công kế thừa, phát triển nền văn hóa dân tộc.

Căn cứ Núi Bà:

Núi Bà là dãy núi gồm 66 đỉnh cao thấp khác nhau, uốn lượn đan xen gấp nếp của các mạch Trường Sơn đâm ra Biển Đông.

Nằm phía Đông Nam huyện Phù Cát, tổng diện tích khoảng 40km2, địa hình tự nhiên phong phú với thảm thực vật đa dạng, nơi tồn cư những quần thể động vật quý hiếm.

Các sử gia triều Nguyễn gọi Núi Bà là Phô Nghinh Đại Sơn. Quanh Núi Bà nhiều di tích khá nổi tiếng như miếu Bà, đền thờ Thần Núi, đá Vọng Phu, chùa Linh Phong với sự tích về Ông Núi, các giếng vuông, phế tích tháp cổ Champa.

Tháp cổ Hòn Chuông mà dân gian gọi Hòn Bà Chằng là di tích văn hóa Chăm xây trên khối đá to cao, kiến trúc duy nhất mà trong bản thống kê các di tích Chăm ở Trung Kỳ của người Pháp chưa được nhắc.

Núi Bà là căn cứ địa Cách mạng vững chắc của quân dân Bình Định chống Mỹ. Núi Bà có vị trí chiến lược khá quan trọng của Bình Định và đặc biệt ở Khu Đông, rất thuận tiện vận chuyển giao thông đường thủy, bộ.

Núi Bà là vị trí phòng ngự chiến lược, tiến công khi có thời cơ, làm chủ được Núi Bà có thể làm chủ Khu Đông Bình Định. Núi Bà làm căn cứ địa Cách mạng của Khu Đông.

Chống Pháp, Núi Bà chưa thành căn cứ, nơi đây hình thành các trụ bồ dọc ven biển báo động dân quanh vùng khi Pháp đổ bộ. 9 năm chống Pháp, các cơ sở Cách mạng Bình Định hầu hết đóng ở đây.

Suốt thời gian chống Mỹ, căn cứ Núi Bà ngày càng củng cố vững chắc, thành chỗ dựa cho lực lượng tỉnh, cũng như huyện Tuy Phước, An Nhơn, Phù Cát, Quy Nhơn.

Núi Bà như mẹ hiền che chở, nuôi giấu lực lượng Cách mạng suốt thời chiến tranh gian khổ. Núi Bà ghi nhận biết bao chiến công của cán bộ, chiến sĩ, ghi nhận hy sinh mất mát, khắc sâu tội ác của Mỹ-ngụy gây ra cho dân ta.

Ai từng sống, chiến đấu ở căn cứ Núi Bà không quên những kỷ niệm năm tháng chiến tranh. Những địa danh như khu 10, trạm xá Khu Đông, đồi Búp Sen, Vĩnh Hội, Hố Nhảy, hang Động Rừng, Sơn Rái.. là những hình ảnh không bao giờ quên.

Không địa danh nào ở đây lại không mang những kỷ niệm sâu sắc với những người từng sống, chiến đấu trên chiến trường Khu Đông.

Núi Bà với 22 điểm di tích đang bảo vệ gìn giữ, được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận Di tích Lịch sử - Văn hóa 25-1-1994 và UBND tỉnh lập đề án tôn tạo.

Di tích tôn giáo

Chùa Thập Tháp (Thập Tháp Di Đà)

Chùa Thập Tháp Di Đà cách TP. Quy Nhơn khoảng 28km, hòa thượng Nguyên Thiều dựng năm 1683, trên gò đất có 10 tháp Chàm.

Đây là chùa cổ nhất thuộc phái Lâm Tế, trùng tu 1820, 1849, 1877, 1924. Chùa vẫn giữ tổng thể hài hòa, tôn nghiêm, cổ kính.

Nằm khuất trong vườn cây cổ thụ sum suê cành lá và quanh năm đắm chìm trong mầu xanh ao đầm, cây cỏ, chùa Thập Tháp từ lâu thành danh lam thắng cảnh nổi tiếng, hút nhiều khách thập phương về cúng tế, lễ bái hoặc tham quan, khảo cứu vì là cổ tự xưa nhất ở miền trung.

Chùa nằm phía Bắc thành cổ Đồ Bàn, gần QL. 1 và cách TP. Quy Nhơn độ 28km. Xa xưa, trên gò đất cao ấy có mười tháp Chàm cổ kính nằm án ngữ mặt Bắc Đồ Bàn mới gọi gò Thập Tháp.

Từ khi vào trấn đất Thuận Hóa, mở mang bờ cõi xa dần về phía Nam, ngoài chăm lo chính trị, kinh tế, quân sự và văn hóa trong hơn 200 năm, các chúa Nguyễn coi trọng đạo Phật cho xây nhiều chùa, đúc nhiều chuông, nhiều tượng Phật.

Tế Viên hòa thượng, Giác Phong Lão Tổ đều là người Trung Hoa truyền bá đạo Phật ở Việt Nam.

Năm Ất Tỵ (1665) đời Chúa Nguyễn Phước Tần, có thiền sư Trung Hoa đến ở lại đất Quy Ninh để tìm đất cất chùa. Ông phá hủy 10 tháp Chàm bị sụp đổ, lấy gạch xây chùa thờ Phật gọi chùa Thập Tháp.

Chùa xây năm Quý Hợi (1683) niên hiệu Chính Hòa nhà Lê, thiền sư có công xây chùa là hòa thượng họ Tạ, húy Nguyên Thiều, quê Triều Châu, Quảng Đông. Ông tu về Thiền tông thuộc phái Lâm Tế.

1691, chùa được Lê Hiển Tông ban biển ngạch "Thập Tháp Di Đà tự". Sau khi xây chùa Thập Tháp Di Đà, hòa thượng Nguyên Thiều mở trường truyền đạo.

Ít lâu, ông giao đệ tử trông coi rồi ra Thuận Hóa lập chùa Phổ Thành ở Hà Trung, vào Gia Định lập chùa Giác Duyên, ra Thuận Hóa lập chùa Quốc Ân.

1687-1691, phụng mệnh chúa Nguyễn về Trung Hoa tìm mời thêm các danh tăng và cung thỉnh pháp tượng, pháp khí về miền Trung Việt Nam.

Chùa Thập Tháp Di Đà xây gạch Chàm, lợp ngói Âm Dương, bốn vày, ba gian, hai chái, kiến trúc chữ khẩu, hai lớp tường bao bọc chung quanh.

Những khu chính của chùa gồm chính điện, khu phương trượng, khu Tây đường và Đông đường, dãy hành lang rộng lớn nối liền, bao bọc một sân rộng, có lát gạch vuông, bày đủ các thứ cây cảnh.

Khu chính diện, kết cấu chủ yếu là gỗ quý được chạm trổ rất tinh xảo, công phu với những họa tiết hoa cuộn, hoa sen, rồng, phượng cách điệu. Đầu tám hàng trụ cột, đầu kèo được chạm, trang trí cổ tự.

Ngoài công trình chính, cạnh chùa có 24 bảo tháp lớn nhỏ mang hình thái kiến trúc nhiều thời khác nhau. Trước chùa có ao sen rộng, xây đá ong xưa.

Trong chùa có ba tạng kinh, giấy khổ rộng, chữ to bằng ngón tay út. Bộ kinh cổ, có lẽ Nguyên Thiều thỉnh từ Trung Hoa sang lúc phụng mệnh chúa Nguyễn về nước cuối TK. 17.

Chùa có 2 tượng Hộ Pháp, 36 tượng La Hán bằng gỗ chạm khắc tinh vi. 36 tượng La Hán, mỗi vị cao nửa mét, thờ hai bên án cạnh bàn thờ Phật, mỗi bên 18 vị, mỗi vị có mặt và dáng điệu khác nhau.

Tượng Hộ Pháp đặt hai bên cửa vào cao 2m. Chuông đường kính 70cm, nặng 500kg, đúc từ 1893.

Tất cả chùa miền Trung xây từ thời các chúa Nguyễn, chùa Thập Tháp Di Đà là cổ nhất thuộc phái Lâm Tế, xem như chùa Tổ.

Về sau, Nguyên Thiều ra trụ trì ở Thuận Hóa tịch ở đó, đệ tử mới lấy chùa Quốc Ân làm chùa Tổ thay chùa Thập Tháp Di Đà.

Nguyên Thiều sau khi tịch (1729) được chúa Nguyễn Phước Chu ban thụy hiệu "Hạnh Đoan Thiền Sư", có bài minh khắc vào bia đá ca ngợi đạo đức của hòa thượng.

Nhiều lần trùng tu, tái tạo, cái cũ và cái mới đan xen, nhưng chùa vẫn giữ tổng thể hài hòa, tôn nghiêm cổ kính.

Trùng tu 4 lần. Lần trùng tu đầu tiên năm Minh Mạng thứ nhất (1820), lần 2 năm Kỷ Tỵ (1849) thời chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát, lần 3 năm Bính Tuất (1877) thời Tự Đức và lần 4 năm Giáp Tý (1924) thời Khải Định.

1924, hòa thượng Phước Huệ là Tổ thứ 40 phái Lâm Tế và là Tổ thứ 13 phái Nguyên Thiều đứng ra xây dựng, mở rộng chùa, dựng thêm cổng tam quan như ngày nay (Theo ST)

Chùa Sơn Long (chùa Hang)

Chùa Sơn Long, dân địa phương quen gọi chùa Hang, lập hơn 300 năm, chùa cổ thứ nhì của tỉnh Bình Định, chỉ đứng sau chùa Thập Tháp (An Nhơn). Chùa Sơn Long nguyên là Giang Long thiền thất, tọa lạc trên sườn núi Trường Úc.

Sau đó, chùa tái thiết trên khu đất hình thang sát chân núi (Trường Úc), cách cầu Trường Úc khoảng 700m về hướng Đông, nay thuộc phường Nhơn Bình, TP. Quy Nhơn, gặp chùa cổ nép mình bên núi Trường Úc.

Cổng tam quan khiêm nhường hòa mình cùng hàng rào cây lá xanh mướt xưa kia nay lùi vào trong, nhường chỗ cho đôi cổng mới được thiết kế quy mô và hiện đại hơn nhưng chùa vẫn giữ những nét rêu phong, cổ kính ban sơ.

Kiến trúc chùa nhiều thay đổi nhưng khuôn viên vẫn như cũ. Mặt tiền hình cánh cung niễng, mặt hậu đất đá lồi lõm sát vách núi. Chính mộc mạc, hoang sơ của khuôn viên chùa phần nào tạo vẻ u huyền cổ kính cho chùa.

Tương truyền, dưới chân núi phía sau chùa, xưa kia có tảng đá rất lớn trông như miệng rồng có hàm trên, hàm dưới với một lưỡi nhỏ đưa ra ở giữa.

Những tiết hạn hán, các cụ tiên chỉ trong vùng thường đến đây ăn chay, đạp đất để cầu mưa thuận, gió hòa. Tảng đá đó có tên Hàm Long, nay không còn vì nạn chẻ đá.

Chùa có 15 mộ tháp lớn nhỏ, có những mộ vẫn giữ nét rêu phong, cũ kĩ mấy trăm năm trước, có mộ tháp trùng tu khang trang hơn.

Theo Đại Thích Đồng Đức trụ trì chùa, 1992, xây thêm tượng Bồ Tát Quan Âm ở hướng Tây. 1996, xây tượng Thích Ca Mầu Ni tọa thiền phía Tây Bắc.. mang lại sắc khí mới cho chùa.

Đến Sơn Long, chiêm ngưỡng tượng Phật Lồi 7 đầu rồng bằng đá nặng 1, 5 tấn, cao 3, 1m với chạm khắc hoa văn sau lưng.

Tượng của người Champa tạc từ TK. VIII.. Dù dáng khiêm tốn nhưng Sơn Long vẫn dập dìu khách phương xa đến thăm thú, lễ bái, vãn cảnh.. đặc biệt đầu năm mới.

Chùa Long Khánh:

Nằm trung tâm thành phố, một trong những trung tâm Phật giáo lớn của Bình Định, nơi sinh hoạt lễ bái của giới tăng ni Phật tử và là điểm tham quan du lịch hấp dẫn cho khách gần xa khi đến với thành phố biển Quy Nhơn.

Chùa hình chữ "Khẩu" phía trước có chánh điện gồm thượng điện, hậu điện. Thượng điện thờ Phật A Di Đà và Quan Âm Chuẩn Đề.

Hậu điện thờ Phật Tổ Thích Ca. Hai bên có Đông phòng, Tây phòng. Hai dãy này dành riêng cho tăng ni. Phía sau là Tổ đình, thờ các vị khai sơn phá thạch.

Kiến trúc nguyên thủy của chùa không còn. Chùa hiện nay cơ bản xây lại năm 1956, hoàn thiện năm 1972. Phong cách kiến trúc mang dáng dấp kiểu chùa của cư dân miền Nam Trung Hoa.

Về giá trị kiến trúc, chùa không độc đáo, nhưng với lịch sử hình thành và phát triển của Quy nhơn, chùa có vị trí khá đặc biệt.

Minh văn khắc trên chuông và ghi chép trong cuốn Lịch sử chùa Long Khánh lưu tại chùa cho biết chùa thuộc thôn Vĩnh Khánh, phủ Quy Nhơn, do thiền sư Tích Thọ đời thứ 38 Thiền phái Lâm Tế tên Nguyễn Trinh Tường khởi dựng.

Chuông đúc năm Gia Long thứ 4, tức 1805. Điều này tương đối phù hợp với Đại Nam Nhất Thống chí.

Nhưng theo các nguồn tài liệu Phật giáo thì người có công khởi dựng chùa Long Khánh là thiền sư Đức Sơn. Thần vị hòa thượng này hiện thờ tại Tổ đình.

Ông là Tổ thứ 35 dòng Lâm Tế chánh tông, sinh năm Kỷ Mùi, viên tịch 2 tháng Chạp năm Tân Dậu.

Theo các tài liệu Phật giáo, thiền sư Đức Sơn đến lập Tổ đình Long Khánh của dòng Lâm Tế, vùng đất này mang địa danh Quy Ninh.

Đối chiếu lịch sử, địa danh này tồn tại từ 1651 đến 1742. Trong chùa, ngoài chuông, có một hiện vật cổ được các sư tặng cho bảo vật của chùa.

Hòa thượng Đức Sơn đến Quy Ninh từ 1651 đến 1742, thời gian này chỉ có 1 năm Ất Mùi là 1715. Chùa Long Khánh xây muộn nhất là 1715, thời điểm Đức Sơn cho đúc chiếc khánh, không phải năm 1807 như Đại Nam Nhất Thống Chí và các tài liệu gần đây xác định.

Hòa thượng Nguyễn Trinh Tường không phải người kiến lập chùa mà là có công tôn tạo chùa, đúc chuông 1805.

Về hệ phái, hòa thượng Nguyễn Trinh Tường thuộc đời 38 dòng Lâm Tế và nếu Đức Sơn là Tổ thứ nhất thì ông là đời thứ 4 của Tổ đình Long Khánh.

Từ đây, kết luận chùa Long Khánh xây trên đất làng Vĩnh Khánh, phủ Quy Ninh khoảng năm 1715.

Giữa thế kỷ XVIII phủ Quy Ninh đổi thành Quy Nhơn, đến cuối TK. 19 làng Vĩnh Khánh đổi thành làng Cẩm Thượng, thuộc huyện Tuy Phước, phủ Quy Nhơn đổi thành tỉnh Bình Định.

Các tác giả Đại Nam Nhất Thống Chí ghép chùa Long Khánh vào địa danh cuối cùng này.

Dù bao lần trùng tu, tái tạo, chùa vẫn là Di tích Lịch sử - Văn hóa có giá trị. 1 trong 2 chùa niên đại cổ kính nhất ở Bình Định. Nay, khách gần xa đến chùa cảm giác tĩnh mịch, sâu lắng và tôn kính như thế giới hư vô cực lạc.

Chùa Linh Phong:

Chùa Linh Phong, còn gọi chùa Ông Núi, xây từ đời Lê, cách nay ngót 700 năm. Chùa ở lưng chừng núi phía Nam trong dãy Núi Bà thuộc thôn Phương Phi, xã Cát Tiến, huyện Phù Cát.

Tương truyền, năm Nhâm Ngọ đời Hiếu Minh Hoàng Đế thứ 11, một ông sư người Trung Hoa, pháp hiệu Thiện Trí đến dựng am nhỏ gọi Dũng Tuyền tự (chùa Suối).

Ông ở ẩn trong núi, ngày đêm tụng kinh niệm Phật nên dân làng gọi sư là Ông Núi.

Thời chúa Nguyễn Phúc Chu (trị vì 1691-1725), xuống chiếu cho làm lại chùa, đặt tên Linh Phong thiền tự, ban pháp danh cho sư khai sáng chùa là Tịnh Giáo Thiện Từ Đại Lão Thiền Sư. Nhà sư viên tịch thời Tây Sơn.

Phong cảnh chùa Linh Phong thật kỳ vĩ. Thủa xưa, chùa nằm dưới rừng cây cổ thụ, tịch mịch thâm u. Cây sống lâu đời, hình thù cổ quái, cao vút.

Quanh chùa, đá mọc ngổn ngang. Hòn đứng sừng sững giữa trời. Hòn chen chúc cùng cây cối. Có những hòn tạo thành hình cóc khổng lồ hoặc đôi trống mái đang âu yếm nhau.

Có những hòn đá lớn nhẵn nhụi nằm rải rác như đàn voi khổng lồ. Chùa cất ở lưng chừng nên sau chùa có núi cao ngất.

Nguồn nước trong mát từ các mạch trên đỉnh núi chảy xuống, dẫn đến chùa bằng 2 nhánh.

Từ cổng chùa nhìn xuống chân núi, thấy làng mạc xanh tươi, nhà cửa quần tụ. Xa hơn nữa, một phần đầm Thị Nại hiện lấp lánh dưới ánh mặt trời.

Sườn núi phía Đông có hang đá rộng ăn sâu lòng núi, nơi Ông Núi thường tu luyện. Đồn rằng trong hang có bàn đá, ghế đá và nhiều vật dụng đều bằng đá.

Có 2 con cọp mun hiền lành của thiền sư để lại. Thỉnh thoảng cọp ra khỏi hang tìm trái cây ăn chứ không bắt heo bò của dân.

Hang bỏ lâu đời, đường vào hang gai mọc lấp đầy nên giờ chẳng ai dám vào và cũng không thể vào được.

Chùa Linh Phong mấy lần đón Đào Tấn từ quan về tu ở đấy. "Bài ký chùa Linh Phong", Đào Tấn viết:

"Những năm vua Kiến Phước, Hàm Nghi, Tấn tôi bỏ quan về núi này, chùa này, một năm ở chùa quá nửa.."

Ông ghi câu đối ở đây:

Khói hoa một mớ trời dành sẵn

Ao biển mười năm mộng trở về.

Sau khi chùa đặt tên Linh Phong thiền tự, vua ban câu đối:

Bờ biển gặp duyên may, mưa pháp cùng trời thấm nhuần đất Phật;

Núi Linh đọng khí tốt, mây lành khắp chốn che chở người đời.

Năm thứ 3 Hiếu Võ Hoàng Đế nhà Tây Sơn, Ông Núi viên tịch, sư sãi an táng trong tháp cạnh chùa. Tháp cũng có câu đối ca ngợi cảnh chùa và công đức nhà sư.

Chùa Linh Phong được nhà nước công nhận Di tích Lịch sử - Văn hóa. Nhà nước cho phép xây lại chùa theo nguyện vọng của dân.

Nay, chùa Linh Phong sừng sững mái son nổi bật trên nền cỏ cây xanh biếc với tượng Phật Bà ngự giữa tòa sen trước sân chùa.

2 tòa tháp an táng các nhà sư cũng tu bổ lại. Ngày rằm, mồng 1, sư sãi và đệ tử khắp nơi về chùa dâng hương lễ Phật.

Tết và những ngày lễ lớn, ngày nghỉ, dân nô nức chen chân về chùa Linh Phong vãn cảnh, tham quan. Chùa nay thành địa chỉ du lịch khá hấp dẫn của Bình Định.

Nhà thờ chánh tòa Quy Nhơn - Kiến trúc tôn giáo đặc sắc vùng đất Bình Định

Nhà thờ chánh tòa Quy Nhơn (còn có danh hiệu Đức Mẹ Lên Trời và còn có tên khác là nhà thờ Nhọn) tọa lạc 122 đường Trần Hưng Ðạo, TP. Quy Nhơn.

Nhà thờ khuôn viên khá rộng và trồng nhiều cây xanh, nằm đối diện với trục đường Lê Thánh Tông nên ngắm được nhà thờ từ đầu đường Nguyễn Huệ.

Kiến trúc hình mái vòm tuyệt đẹp bên trong nhà thờ chánh tòa. Cung thánh với trần vòm cao tạo vẻ đẹp thanh thoát. Nhà thờ là nơi diễn ra những buổi lễ quan trọng như "lễ phong chức" cho các linh mục.

Nguồn

Web binhdinh

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
Tượng tu sĩ Champa được công nhận Bảo vật Quốc gia. Ảnh: NGUYỄN TRANG

68858010_1197198157147101_1665867339939184640_n.jpg


Văn hóa Sa Huỳnh nhìn từ Văn hóa Đồng Nai

Hai nền Văn hóa khảo cổ Sa Huỳnh và Đồng Nai đều có niên đại khoảng 3500 đến 2000 năm cách ngày nay.

Cùng Văn hóa Đông Sơn, 3 nền văn hóa này thành 3 trung tâm văn hóa thời kim khí nước ta, vừa có những nét chung.

Đồng thời cũng có những đặc trưng khác biệt, làm nên đa dạng của những khu vực văn hóa tộc người trong bối cảnh Đông Nam Á thời cổ.

Từ những nghiên cứu về Văn hóa Sa Huỳnh và Văn hóa Đồng Nai giai đoạn sơ kỳ sắt.

Bài viết nhìn lại sự tương đồng và khác biệt cơ bản nhất về các di tích mộ chum của hai nền văn hóa này, góp phần làm rõ hơn phong phú đa dạng của các nền văn hóa tiền – sơ sử Việt Nam.

Bài viết gồm 2 phần:

- Khái quát về Văn hóa Đồng Nai và Văn hóa Sa Huỳnh

- Mộ chum trong Văn hóa Sa Huỳnh và Văn hóa Đồng Nai: Những tương đồng và khác biệt.

1. Khái quát về Văn hóa Sa Huỳnh và Văn hóa Đồng Nai

Văn hóa Sa Huỳnh phân bố ở khu vực miền Trung phát triển từ sơ kỳ đồng thau đến sơ kỳ đồ sắt, từ khoảng 3500 năm đến những thế kỷ trước sau Công Nguyên.

Đặc trưng cơ bản của Văn hóa Sa Huỳnh là táng thức mộ chum, vò suốt từ giai đoạn sớm đến muộn, tuy ở vài địa điểm vẫn có sự hiện diện của mộ huyệt đất.

Các khu mộ phân bố tập trung ở những cồn cát ven biển, lan dần ra các đảo ven bờ, ngoài ra còn phân bố ở vùng đồng bằng và miền núi phía Tây.

Di tích là những khu mộ táng rộng lớn gồm hàng chục, hàng trăm chum, vò gốm chôn đứng trong địa tầng.

Loại hình chum, vò chủ yếu hình trụ, hình trứng, hình cầu đáy bằng có nắp đậy hình nón cụt hay hình lồng bàn.

Đặc biệt trong các mộ táng chum, vò thuộc Văn hóa Sa Huỳnh ít tìm thấy di cốt hay than tro hỏa táng, vì vậy theo các nhà nghiên cứu táng tục của cư dân Sa Huỳnh có thể là "chôn tượng trưng."

Mộ chum, gốm - Văn hóa Sa Huỳnh, khoảng 2.500 – 2.000 năm cách ngày nay (Hiện vật BTLSQG)

Trong chum/vò chứa nhiều đồ tùy táng gồm các chất liệu đá, gốm, sắt, đá quý, thủy tinh rất đa dạng về loại hình: Công cụ lao động, vũ khí, đồ dùng sinh hoạt, trang sức..

Đặc trưng về di vật là sự phổ biến của công cụ lao động và vũ khí bằng sắt, đồ gốm tô màu trang trí nhiều đồ án hoa văn khắc vạch.

Đồ trang sức bằng đá ngọc, mã não, thủy tinh như vòng, hạt chuỗi, khuyên tai ba mấu, khuyên tai hai đầu thú..

Chủ nhân văn hóa Sa Huỳnh có nền kinh tế đa thành phần, gồm trồng trọt trên nương rẫy và khai thác sản phẩm rừng núi, trồng lúa ở đồng bằng.

Phát triển các nghề thủ công, đánh bắt cá ven biển và trao đổi buôn bán với những tộc người trong khu vực Đông Nam Á và xa hơn, với Trung Quốc và Ấn Độ.

Những di tích Văn hóa Sa Huỳnh ven biển đã có thể từng là những "tiền cảng thị" (như khu vực Hội An với di tích Hậu Xá chẳng hạn).

Nồi, gốm - Văn hóa Sa Huỳnh, khoảng 2.500-2.000 năm cách ngày nay (Hiện vật BTLSQG)

Khuyên tai hai đầu thú, đá - Văn hóa Sa Huỳnh, khoảng 2.500-2.000 năm cách ngày nay (Hiện vật BTLSQG)

Hạt chuỗi, thủy tinh - Văn hóa Sa Huỳnh, khoảng 2.500-2.000 năm cách ngày nay (Hiện vật BTLSQG)

Có thể nhận biết trung tâm của Văn hóa Sa Huỳnh là khu vực Quảng Nam – Quảng Ngãi.

Khu vực Nam Trung Bộ, từ Phú Yên đến Bình Thuận những di tích và di vật thời tiền – sơ sử mới được phát hiện và nghiên cứu từ sau năm 1975.

Nay số lượng di tích và di vật ở khu vực này chưa nhiều lắm song đã thể hiện tính chất và diện mạo:

"Văn hóa Sa Huỳnh" có phần khác biệt so với vùng trung tâm, kể cả giai đoạn nối tiếp từ Văn hóa Sa Huỳnh sang Văn hóa Champa.

Văn hóa khảo cổ ở đây có những nét độc lập nhất định so với vùng trung tâm của Văn hóa Sa Huỳnh.

Ngay từ giai đoạn đồ đồng ở khu vực Khánh Hòa đã phân lập được một văn hóa khảo cổ là "Văn hóa Xóm Cồn."

Đến giai đoạn muộn sơ kỳ thời đại đồ sắt, ở một số di tích mộ vò ở Nam Trung Bộ như Hòa Diêm (Cam Ranh, Khánh Hòa), Hòn Đỏ, Bàu Hòe (Bình Thuận) :

Có nhiều yếu tố khác biệt mộ chum vò Sa Huỳnh điển hình và thậm chí còn có những yếu tố gần gũi với Văn hóa Đồng Nai ở miền Đông Nam Bộ như hình dáng chum, vò mai táng, hiện tượng di cốt và than tro hiện hữu trong chum, vò táng..

Như vậy, Văn hóa Sa Huỳnh với giai đoạn đỉnh cao là "Sa Huỳnh cổ điển" vào sơ kỳ đồ sắt cần được hiểu là kết quả hội tụ sự phát triển của từng khu vực trong các giai đoạn thuộc thời đồng thau trước đó (khoảng 1.500 – 500 TCN).

Ngoài ra những phát hiện khảo cổ học ở Tây Nguyên gần đây cũng góp phần chứng minh cho sự phát triển "văn hóa đa tuyến" ở khu vực miền Trung:

Văn hóa Biển Hồ (Gia Lai), Lung Leng (Kon Tum), những di tích ở Đăk Lắk, Đăk Nông.. đều thể hiện những đặc trưng riêng biệt đồng thời vẫn có "yếu tố Sa Huỳnh" trong di tích và di vật, nhất là về mộ chum, cách thức mai táng và đồ tùy táng chôn theo.

Những nhóm di tích hay văn hóa khảo cổ này có sắc thái văn hóa rất đa dạng từ biển và hải đảo đến núi và rừng, vừa độc lập với nhau vừa có mối giao lưu.

Cùng tham gia vào quá trình đưa Văn hóa Sa Huỳnh phát triển lên đỉnh cao trong thời đại sơ kỳ đồ sắt (khoảng 500 năm TCN đến đầu CN).

Đây là hiện tượng và quy luật chung của các văn hóa thời đại kim khí:

Văn hóa Đông Sơn ở phía Bắc với các tuyến phát triển ở lưu vực sông Hồng, sông Mã và sông Cả, Văn hóa Đồng Nai với các tiểu vùng phù sa cổ Đồng Nai, lưu vực Vàm Cỏ và vùng ngập mặn ven biển Đông Nam Bộ.

Văn hóa Đồng Nai phân bố ở miền Đông Nam Bộ mà địa giới hành chánh ngày nay là các tỉnh Tây Ninh, Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai, TP. Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu.

Về mặt địa lý-địa hình đây là vùng đất cao trải dài từ cao nguyên Bảo Lộc-Di Linh thấp dần xuống đồng bằng châu thổ sông Cửu Long.

Vì vậy phạm vi phân bố của Văn hóa Đồng Nai thời tiền sử bao gồm lưu vực các sông Đồng Nai, sông Bé, sông Sài Gòn và sông Vàm Cỏ Đông Tây.

Trên địa bàn rộng lớn đó các di tích khảo cổ Văn hóa Đồng Nai tập trung trong 3 khu vực địa hình:

- Khu vực đồi đất đỏ bazan và cao nguyên đất xám phù sa cũ:

Các di tích ở đây có diện phân bố rộng, tích tụ văn hóa dày, hiện vật vô cùng phong phú chủ yếu là đồ gốm và công cụ đá.

Tiêu biểu là cụm di tích Xuân Lộc – Đồng Nai, di tích thành tròn ở Lộc Ninh – Bình Phước.

- Khu vực phù sa cổ hạ lưu sông Đồng Nai:

Nhiều di tích phân bố dày đặc như nơi cư trú, nơi chế tạo các loại công cụ và đồ dùng sinh hoạt, các khu mộ táng với nhiều táng thức khác nhau..

Các di tích nổi tiếng ở đây là Cù Lao Rùa, Dốc Chùa, Bưng Sình (Bình Dương), Bình Đa, Suối Linh, Đồi Phòng Không, Gò Me.. (Đồng Nai), An Sơn, Rạch Núi, Lộc Giang.. (Long An).

- Khu vực ven biển Đông Nam Bộ:

Đây là vùng đất thấp trũng ngập mặn, chịu ảnh hưởng thường xuyên của chế độ bán nhật triều, phần lớn diện tích là rừng sác.

Di tích cư trú và mộ táng rải rác trên các gò, giồng đất cao hoặc ven các bưng lầy, di vật ở đây rất đa dạng và độc đáo thể hiện những mối quan hệ giao lưu văn hóa rộng rãi.

Độc đáo nhất là hệ thống di tích ở huyện Cần Giờ – TP. HCM trong đó có di tích mộ chum Giồng Phệt, Giồng Cá Vồ.

Các di tích vùng bưng lầy Bà Rịa-Vũng Tàu như Bưng Bạc, Bưng Thơm, Cái Vạn, Cái Lăng, Giồng Nổi, Gò Me, Giồng Lớn..

Những cuộc khai quật khảo cổ học từ sau năm 1975 đưa lên từ lòng đất hàng trăm ngàn di vật với nhiều chất liệu khác nhau.

Đồ đá là di vật phổ biến nhất và có số lượng lớn nhất, đồng thời cũng là loại công cụ, vũ khí tồn tại lâu dài đến cả giai đoạn về sau, do sự khan hiếm của quặng kim loại.

Loại hình công cụ phổ biến là rìu, cuốc, dao hái, "Qua đá", đục, mũi tên.. được chuyên môn hóa về chức năng.

Đồ trang sức nhiều nhất là các loại vòng đeo tay, đeo tai. Đặc sắc nhất vẫn là những bộ đàn đá được tìm thấy trong địa tầng di tích khảo cổ học ở Đồng Nai, Bình Phước đã khẳng định sự ra đời và tồn tại loại nhạc cụ cổ truyền này ở lưu vực Đồng Nai từ 3000 – 2000 năm cách ngày nay.

Khuyên tai hai đầu thú, đá nephrit - Văn hóa Đồng Nai, khoảng 2.500-2.000 năm cách ngày nay (Hiện vật BTLSQG)

Di vật kim loại phổ biến gồm đồ đồng chế tạo bằng phương pháp đúc trong khuôn hai mang "liên hoàn" :

Rìu, giáo, lao, mũi tên, lục lạc, lưỡi câu, lao có ngạnh..

Tại di tích Long Giao (Đồng Nai) còn tìm thấy một kho "qua đồng" - một loại vũ khí cổ phổ biến cả trong Văn hóa Đông Sơn.

Gần đây còn tìm thấy một số trống đồng "kiểu Đông Sơn" được sử dụng làm nắp đậy những ngôi mộ chum bằng gỗ ở di tích Bưng Sình - Phú Chánh (Bình Dương).

Đồ sắt không nhiều chủ yếu là vũ khí như giáo, lao.. thường tìm thấy trong mộ táng.

Đồ gốm và nghề làm gốm rất phát triển, các loại đồ dùng trong sinh hoạt như nồi, bát đĩa chân cao, bình, bếp lò.. có mặt trong tất cả di tích khảo cổ.

Ngoài ra còn có nhiều dụng cụ bằng gốm như bàn xoa, dọi xe sợi, chì lưới..

Ngoài các chất liệu chủ yếu trên trong Văn hóa Đồng Nai còn tìm thấy những di vật bằng gỗ, xương, sừng hay mai rùa.. làm công cụ và đồ trang sức.

Giai đoạn muộn của Văn hóa Đồng Nai xuất hiện những di tích mộ táng với táng thức chủ đạo là "mộ chum" :

Di cốt được chôn nguyên vẹn hoặc than tro hỏa táng trong những chum, vò lớn bằng gốm hay bằng gỗ, cùng nhiều đồ tuỳ táng có giá trị như trang sức đá ngọc, mã não, thủy tinh, giáo sắt, đồ gốm minh khí..

Nổi bật là bộ sưu tập 32 "khuyên tai hai đầu thú" tại di tích Giồng Phệt và Giồng Cá Vồ, số lượng nhiều nhất được tìm thấy trong các "văn hóa mộ chum" ở Việt Nam và Đông Nam Á.

Phương thức kinh tế chính của cư dân cổ Đồng Nai là nông nghiệp ruộng khô (nương rẫy dùng cuốc) kết hợp khai thác tự nhiên như đánh bắt cá, hái lượm.. đồng thời phát triển các nghề thủ công.

Tuy nhiên, tại vùng cửa sông Đồng Nai xuất hiện những dấu tích của một nhóm cư dân đặc biệt sinh sống bằng nghề trao đổi buôn bán, đó là chủ nhân các di tích mộ chum ở Cần Giờ-TP. HCM.

Trong khoảng 2500-2000 năm cách ngày nay Cần Giờ đã từng là một "cảng thị sơ khai" phát triển thương mại qua đường sông, đường biển với nhiều nơi như với khu vực Văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung, các đảo ở Philippine, Indonesia, đặc biệt quan hệ kinh tế-kỹ thuật với Ấn Độ đã thể hiện rõ nét từ rất sớm.

Trong thời đại kim khí lưu vực Đồng Nai là một trung tâm nông nghiệp sầm uất, nơi quy tụ lượng tài vật khá lớn của cả phần Nam bán đảo Đông Dương.

Hàng chục di tích khảo cổ học phân bố dày đặc dọc đôi bờ Đồng Nai, trên cả những cù lao và kéo dài đến vùng ven biển.

Dấu tích cư trú lâu dài, ổn định và phong phú của con người thể hiện trên số lượng di vật rất lớn, nhiều loại hình và phản ánh được các đặc trưng văn hóa, đặc trưng kỹ thuật của các cộng đồng người ở đây.

Những xưởng thủ công lớn sản xuất nhiều loại vật dụng cho cuộc sống của con người như đồ gốm, công cụ đá, khuôn đúc và công cụ kim loại, đồ trang sức bằng đá mà số lượng sản phẩm vượt qua mức độ tự cung tự cấp.

Miệt Vàm Cỏ cư dân cổ cũng tạo lập cuộc sống định cư trên những "núi đất" giữa vùng lầy trũng, tại đó phong phú công cụ sản xuất bằng đá, đồ dùng bằng gốm, đặc biệt nhiều loại công cụ xương thú và vỏ nhuyễn thể.

Dù mối quan hệ giao lưu giữa Vàm Cỏ và Đồng Nai phát triển trên quy mô lớn và đã rất thường xuyên, nhưng cư dân Vàm Cỏ vẫn có lối sống và sản phẩm văn hóa mang bản sắc riêng.

Văn hóa Đồng Nai phát triển trong thiên niên kỷ I-II trước Công Nguyên được nhìn nhận như bước mở đầu cho truyền thống văn hóa bản địa ở Nam Bộ với bản sắc riêng và sức sống mãnh liệt.

Truyền thống Văn hóa Đồng Nai cùng một số yếu tố văn hóa "ngoại sinh" do cư dân cổ Đồng Nai tiếp thu đã thành những yếu tố quan trọng để hình thành nền Văn hóa Óc Eo nổi tiếng trong giai đoạn lịch sử kế tiếp - thế kỷ I-VII sau Công Nguyên.

2. Di tích mộ chum trong Văn hóa Đồng Nai, những tương đồng và khác biệt so với Văn hóa Sa Huỳnh.

Những đối sánh sau đây trên cơ sở tìm hiểu giai đoạn phát triển cao nhất của hai văn hóa này, giai đoạn sơ kỳ đồ sắt từ nửa sau thiên niên kỷ I TCN đến đầu CN. Tiêu biểu là nhóm mộ chum ở Cần Giờ - TPHCM.

Cần Giờ nằm phía Đông Nam và là cửa ngõ đi ra Biển Đông của Tp Hồ Chí Minh, một phần của miền Đông Nam Bộ thành tạo do dòng chảy của sông Cửu Long cổ.

Với diện tích khoảng gần 700 km2 được bao bọc bốn phía bởi sông và biển, phía Bắc là sông Nhà Bè và sông Lòng Tàu. Phía Đông là sông Đồng Tranh và sông Thị Vải, phía Tây là sông Soài Rạp và phía Nam là Biển Đông.

Trên vùng đất sình lầy ven biển này có một thảm thực vật kiểu rừng nước mặn phát triển phong phú – nổi danh với địa danh Rừng Sác.

Từ đầu nguồn chảy xuống, sông Đồng Nai và sông Sài Gòn hợp lưu ở Nhà Bè rồi tách làm hai đổ xuôi ra biển:

Từ đây, sông Sài Gòn được gọi là sông Lòng Tàu đổ ra biển bằng cửa chính là cửa Cần Giờ ở vịnh Rành Gái; sông Đồng Nai được gọi sông Soài Rạp, hợp lưu sông Vàm Cỏ (Đông – Tây) đổ ra biển bằng cửa Soài Rạp ở vịnh Đông Tranh.

Cả hai sông Sài Gòn và Đồng Nai đều có một hệ thống chi lưu, phụ lưu và các sông rạch nhỏ, khí hậu ở khu vực Cần Giờ vô cùng khắc nghiệt.

Mùa khô kéo dài và mùa mưa đến chậm, lượng mưa cũng ít hơn những nơi khác ở miền Đông Nam Bộ.

Phân bố trên vùng đất ven biển có địa hình hết sức phức tạp này, nhóm mộ chum Cần Giờ gồm di tích Giồng Phệt và Giồng Cá Vồ có những đặc trưng cơ bản sau:

Là nhóm di tích cư trú và mộ chum phân bố trên những giồng đất đỏ hoặc đất nâu đen.

Mộ chum phân bố dày đặc không có quy luật ngay trên tầng văn hóa của di chỉ cư trú. Bên cạnh số lượng mộ chum lớn còn có cả mộ đất.

Loại hình chum mai táng tuyệt đại đa số là hình cầu đáy tròn, miệng hơi khum được mài khá nhẵn.

Chum được đặt đứng trên một lớp đất gia cố đặc biệt, hoàn toàn không có nắp đậy. Trong chum di cốt còn khá nguyên vẹn thể hiện tục hung táng (Primary burial). Truyền thống mộ táng ở Cần Giờ có sự chuyển biến về táng thức:

Mộ huyệt đất sét – mộ chum gốm đặt trong huyệt đất sét – mộ chum gốm – mộ huyệt đất.

Có thể nhận biết truyền thống này qua các di tích Khu Bao Đồng – Giồng Cá Vồ - Giồng Phệt. (Đặng Văn Thắng.. 2006).

Tầng văn hóa gồm mộ táng và một hệ gốm di chỉ có loại hình và kỹ thuật sản xuất riêng biệt "gốm Cần Giờ".

Đây là loại gốm do cư dân cổ Cần Giờ sản xuất, nguyên liệu tại chỗ, loại hình riêng biệt, kỹ thuật đặc thù, diễn biến liên tục qua các di tích KCH ở đây từ 3000 năm đến 1500 năm cách nay.

Loại hình đặc trưng là bình thân cầu miệng khum có rãnh, bình đáy hình trứng cổ thắt miệng loe vành miệng gập vào trong có rãnh, bình đáy chỏm cầu cổ thắt vành miệng vê tròn.

Hoa văn in đập xương cá thô "lá dừa nước" hay ô vuông, ô trám. Kỹ thuật nặn tay, gắn chắp. Xương gốm pha cát khá mịn, độ nung cao. Đáng chú ý là các loại chum gốm mai táng cũng cùng chất liệu và kỹ thuật sản xuất.

- Hiện vật trong mộ chum, mộ đất và trong tầng văn hóa có cùng loại hình và chất liệu, thể hiện mối giao lưu vô cùng rộng rãi và mật thiết với nhiều vùng khác nhau.

Như Văn hóa Sa Huỳnh, Văn hóa Đồng Nai, Văn hóa Óc Eo và của cả những vùng xa hơn như Thái Lan, Campuchia và nhất là Philippin.

- Nhóm di tích này có khung niên đại khoảng từ 3000 năm đến 2000 năm cách ngày nay, niên đại C14 của lớp mộ táng Giồng Cá Vồ 2480 ± 50 năm cách ngày nay và Giồng Phệt là 2100 +/- 50 năm, tương đương giai đoạn hậu kỳ của Văn hóa Sa Huỳnh.

Từ những đặc trưng này đã có ý kiến kiên trì phân lập nhóm di tích này thành một văn hóa mới:

"Văn hóa Giồng Phệt" (Nguyễn Thị Hậu, Đặng Văn Thắng, 1995, 2006)

Nếu coi đặc trưng đầu tiên của Văn hóa Sa Huỳnh là:

"Trừ mộ huyệt đất ở địa điểm Bình Châu, tất cả di tích mộ táng Văn hóa Sa Huỳnh từ giai đoạn sơ kỳ đến giai đoạn hậu kỳ đều mai táng bằng những chum gốm lớn."

Thì một số mộ đất, nằm ở vùng địa tầng và có cùng loại đáy tròn và chum có vai gãy đáy bằng của Văn hóa Giồng Phệt khá khác biệt:

3 loại chum hình trụ hay hình ống, hình trứng và hình cầu dùng mai táng trong Văn hóa Sa Huỳnh.

Mộ chum ở Sa Huỳnh thường không tìm thấy xương răng người chết, nên có thể đó là những chum dùng để cải táng (secondary buribal).

Trong khi đó tuyệt đại đa số mộ chum ở Cần Giờ còn di cốt người như:

Sọ, răng, sương ống, xương chi trong nhiều mộ, di cốt còn khá nguyên vẹn cho thấy cư dân cổ nơi đây đã chôn nguyên thi thể người chết trong chum bằng cách bó ngồi (Nguyễn Lân Cường, 1995).

Tục cải táng hay chôn ở mộ đất chỉ là những ngoại lệ. Với số lượng mộ chum nhiều đến kinh ngạc (di tích Giồng Cá Vồ tìm thấy 339 mộ/225 m2), với sự đồng nhất của loại hình chum mai táng và sự thống nhất trong táng tục, ta thấy cư dân ở đây có một tập tục hung táng lâu dài, ổn định và độc đáo.

Đây là yếu tố đầu tiên giúp ta phân biệt "Văn hóa Giồng Phệt" với những văn hóa khác có cùng tục mai táng bằng chum gốm.

Đồ gốm tùy táng ở Giồng Phệt và Giồng Cá Vồ dễ dàng nhận thấy những yếu tố của gốm Sa Huỳnh về loại hình và hoa văn:

Các loại nồi gãy góc ở thân, bình Sa Huỳnh, bát đĩa chân cao, với số lượng không nhiều.

Các hiện vật kiểu Sa Huỳnh ấy được tìm thấy trong mộ chum, mộ đất và trong tầng văn hóa.

Thủ pháp trang trí gốm của cư dân Sa Huỳnh là khắc vạch kết hợp in mép sò và tô màu (chủ yếu là tô đen ánh chì) cũng chính là thủ pháp trang trí gốm của chủ nhân nhóm mộ chum Giồng Cá Vồ, Giồng Phệt.

Hoa văn gốm uốn lượn mềm mại kết hợp với in mép sò, ấn chân chim vào một số họa tiết đệm khác như tam giác, những vạch chéo.. tạo những đồ án chữ S kép nối nhau chạy ngang thanh gốm với những vạch xiên chéo kiểu:

"Sóng biển, mưa rào" hay những chữ S gấp khúc nằm xiên móc vào nhau có tam giác đệm..

Dù là đồ án nào thì nét khắc vạch rất phóng khoáng, nhịp nhàng, nhiều biến thể, nhưng không chặt chẽ, cân đối như hoa văn gốm Sa Huỳnh.

Ngoài ra ta có thể thấy ở đồ gốm "kiểu Sa Huỳnh" ở đây hoàn toàn vắng mặt thủ pháp tô đen ánh chì, mà chỉ có một số tiêu bản được tô thổ hoàng.

Ở Giồng Phệt và Giồng Cá Vồ tìm thấy 32 khuyên tai hai đầu thú (Giồng Phệt 5 chiếc bằng đá ngọc và Giồng Cá Vồ 27 chiếc, trong đó có 19 chiếc bằng đá và 8 chiếc bằng thủy tinh (Nguyễn Thị Hậu 2006).

Đặc biệt, ở Giồng Cá Vồ còn tìm thấy một chiếc khuyên tai hai đầu thú bằng đá hình chiếc khánh, đây là tiêu bản độc đáo nhất của loại hình này và cho đến nay là tiêu bản duy nhất tìm thấy ở Việt Nam và Đông Nam Á.

Tại Giồng Cá Vồ tìm thấy bốn cặp khuyên tai hai đầu thú bằng đá giống nhau trong mộ chum.

Quan trọng hơn, trong mộ chum di cốt còn khá nhiều hộp sọ còn nguyên với hai hàm đầy đủ có một khuyên tai hai đầu thú bằng đá màu xanh nằm áp sát vào tay trái rất ngay ngắn.

Móc đeo và hai cặp sừng quay lên trên, hai miệng ở phía dưới đúng tư thế và vị trí của một khuyên tai. Như vậy, việc phát hiện những khuyên tai hai đầu thú ở Giồng Phệt và Giồng Cá Vồ đã cung cấp thêm những tư liệu để xác định chức năng của nó.

Chủ nhân Văn hóa Giồng Phệt đã sử dụng đồ trang sức này ở cả nam và nữ, đeo ở một hay cả hai bên tai, cả chủ nhân mộ chum và mộ đất.

Cùng tượng hình "hai đầu thú", ở Giồng Phệt và Giồng Cá Vồ còn tìm thấy nhiều tượng hình chim bằng đất nung có hai hoặc ba, bốn đầu.

Những tượng hình chim này gắn lên đỉnh mộ hình tháp bằng đất nung có bốn mặt, hoặc đơn giản hơn, gắn trên một đoạn gốm hình trụ có chân đế choãi cao.

Loại hình đồ gốm độc đáo này tìm thấy trong cả mộ táng và trong tầng văn hóa.

Rõ ràng hình tượng hai (hay nhiều) đầu chim, đầu thú thể hiện trên đồ trang sức và đồ gốm ở đây có mối quan hệ với nhau.

Theo chúng tôi, chúng đều là biểu tượng của một hình thái tôn giáo – tín ngưỡng, có thể coi loại hình hiện vật có hình tượng đầu chim, đầu thú là một đặc trưng văn hóa của Văn hóa Giồng Phệt (Nguyễn Thị Hậu, 1997).

Ngoài khuyên tai hai đầu thú ở đây còn phổ biến một số loại hình trang sức quen thuộc của Văn hóa Sa Huỳnh như:

Khuyên tai ba mấu, hạt chuỗi mã não có số lượng nhiều nhất với nhiều hình dáng và kích cỡ. Đồ trang sức thủy tinh:

Ngoài khuyên tai hai đầu thú và khuyên tai ba mấu còn có rất nhiều loại hạt chuỗi và vòng đeo.

Có thể nói đồ trang sức của Giồng Cá Vồ và Giồng Phệt đã thể hiện khả năng "hội tụ" những yếu tố đặc trưng của nhiều nền văn hóa trong sơ kỳ thời đại sắt ở Đông Nam Á và vùng xa hơn, trong đó ảnh hưởng của Văn hóa Sa Huỳnh là khá đậm nét.

Trong Văn hóa Sa Huỳnh công cụ bằng sắt khá phong phú như rìu, cuốc, thuổng, dao, liềm.

Nhưng trong Giồng Cá Vồ, Giồng Phệt lại phổ biến các loại vũ khí như giáo, kiếm, lao kích thước khá lớn, thường được bẻ cong hoặc gấp đôi để đặt vào mộ chum.

Chủ nhân của những mộ chum này chắc chắn là người có địa vị cao trong xã hội.

Công cụ sản xuất nông nghiệp rất ít, chỉ là "góp mặt" bên cạnh số lượng lớn các loại dao dùng trong sinh hoạt và nhiều loại lưỡi câu để đánh bắt hải sản.

Một số hiện vật sắt được bọc nhiều lớp vải (có loại vải thô nhưng cũng có loại khá mịn) cho thấy giá trị cao của chúng.

Công cụ vũ khí bằng sắt ngoài chức năng thông dụng còn là biểu tượng cho quyền lực của chủ nhân chúng trong một xã hội đã có sự phân hóa khá sâu sắc.

Yếu tố nông nghiệp trồng trọt khá mờ nhạt trong Văn hóa Giồng Phệt; cảnh quan môi trường sinh thái ở đây không cho phép cư dân sống bằng nghề nông chứ chưa nói đến việc phát triển kinh tế nông nghiệp! Chỉ có nghề khai thác biển là khá phát triển.

Như vậy, những yếu tố của Văn hóa Sa Huỳnh trong "Văn hóa Giồng Phệt" khá rõ nét trên đồ gốm tùy táng và đồ trang sức là những loại hình hiện vật thể hiện tư duy thẩm mỹ và đời sống tâm linh của cư dân cổ.

Chính vì vậy, đồ gốm và đồ trang sức thường xuyên được trao đổi giao lưu về cả sản phẩm và kỹ thuật.

Như trên đã nói, đã tìm thấy những bằng chứng chế tạo đồ trang sức tại Giồng Cá Vồ, kỹ thuật nặn tay, gắn chắp làm gốm di chỉ cũng sử dụng trong làm đồ gốm tùy táng (các tượng gốm, chân đế.).

Khu vực Cần Giờ thể hiện hiện rõ sự tiếp nhận kỹ thuật từ những vùng xung quanh và phát triển thành một đặc trưng riêng biệt.

Di tích mộ chum Hòa Diêm (xã Cam Thịnh, thị xã Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa) và nhóm di tích mộ chum Giồng Cá Vồ, Giồng Phệt (Cần Giờ, TP. HCM).

Qua diễn biến tầng văn hóa, đối sánh với các di tích trong khu vực và xa hơn, bước đầu những người khai quật cho rằng niên đại di tích Hòa Diêm có thể kéo dài trong khoảng thế kỷ 1-2 TCN đến thế kỷ 2-3 SCN.

Trong đó lớp sớm có quan hệ chặt chẽ với Văn hóa Xóm Cồn – văn hóa sơ kỳ kim khí ở Khánh Hòa, lớp văn hóa muộn có quan hệ với giai đoạn sớm của văn hóa Chăm.

Còn giai đoạn Hòa Diêm tương đương với Văn hóa Sa Huỳnh cổ điển ở ven biển miền Trung Việt Nam.

Ngoài ra di tích Hòa Diêm còn có mối quan hệ rộng hơn với các di tích liền kề cũng như một số văn hóa cùng thời ở khu vực phía Nam.

Con đường phát triển và quan hệ văn hóa của di tích Hòa Diêm góp phần tạo nên một khu vực văn hóa tiền sử mang những đặc điểm riêng ở Nam Trung Bộ.

Tầng văn hóa di tích Hòa Diêm còn khá nguyên vẹn và chứa nhiều hiện vật đồ đá, gốm, vỏ nhuyễn thể, kim loại..

Sự diễn biến từ sớm đến muộn với các giai đoạn văn hóa khác nhau, kể cả địa tầng gốm và cả địa tầng mộ táng cho biết tính chất của di tích là nơi cư trú đồng thời là khu mộ táng có nhiều táng thức như hung táng, cải táng, mộ đất, mộ chum/ vò gốm, mộ tượng trưng.

Đặc trưng nổi bật của di tích Hòa Diêm là mộ chum:

Mật độ phân bố dày đặc, chum hình cầu có một chum khác đậy lên trên, chum dưới ghè rộng miệng để dễ sắp xếp di cốt và hiện vật.

Do cải táng và hỏa táng rồi cho xương vào chum nên di cốt trong chum không theo quy luật nào, có mộ có tới 3 cá thể.

Nhiều mộ có 2 cá thể, mộ số 1 cá thể và nhiều mộ chỉ có vài mẩu xương vụn, thậm chí có mộ không còn di cốt.

Trong các mộ chum có di cốt người lớn và cả trẻ em. Phần di cốt được bảo quản cẩn thận nhất là sọ, thường có mảnh gốm lớn kê ở dưới.

Nhiều mộ chum có hiện tượng nắp vỡ sụp xuống lòng chum, vị trí một số đồ gốm tùy táng có chức năng như kê, che cho di cốt quan trọng như sọ, hàm (Nguyễn Công Bằng, 2005).

Qua những nét tổng quan về di tích, mộ táng và đồ tùy táng của di tích Hòa Diêm, có thể thấy rằng, nếu chỉ nhìn Hòa Diêm từ một chiều "theo quán tính" là cứ di tích nào có mộ chum thì thuộc Văn hóa Sa Huỳnh thì ta buộc phải nhận thấy:

"Mộ vò Hòa Diêm còn chứa đựng biết bao nhiêu điều khó hiểu."

Hình dáng vò táng, táng thức, nhiều loại hình gốm và cách tạo hoa văn.. tất cả những cách đó đều không thấy ở Sa Huỳnh, không chắc là Champa, mà cũng không phải là ai cả ở gần đây hơn. Và:

"Nói Hòa Diêm sau Xóm Cồn không có nghĩa Hòa Diêm lại đến gần Sa Huỳnh hơn. Ngược lại, nó cũng xa Sa Huỳnh cũng như Xóm Cồn" (Lương Ninh, 2001).

Như vậy, mộ táng trong di tích Hòa Diêm đã thể hiện những đặc trưng gần với Giồng Cá Vồ, Giồng Phệt thuộc khu vực Văn hóa Đồng Nai hơn là Văn hóa Sa Huỳnh.

Ngoài ra, các mộ đất có hiện tượng rải, phủ gốm, loại hình rìu đồng tùy táng, đá cuội trong mộ chum và mộ đất ở Hòa Diêm đều là những hiện tượng đã gặp và khá phổ biến trong Văn hóa Đồng Nai.

Tất nhiên không thể vì vậy mà mở rộng phạm vi của "Văn hóa Giồng Phệt" hay Văn hóa Đồng Nai đến Nam Trung Bộ - một vùng cảnh quan/ sinh thái tương đối khác biệt.

Với những bằng chứng trên, Khánh Hòa – rộng hơn là khu vực Nam Trung Bộ với nhóm di tích Bàu Hòe – Hòn Đỏ - Mỹ Tường ở Bình Thuận mà các mộ vò ở đây:

"Với phong cách mai táng, hình dáng và kích thước gần gũi với cụm di tích Suối Chồn – Đồng Nai và khác lạ với cụm vò lớn hình trụ hay hình trứng điển hình của văn hóa Sa Huỳnh."

Đã thể hiện rõ tính chất vùng giao thoa/ vùng đệm của hai trung tâm văn hóa thời đại kim khí trong thời gian so kỳ đồ sắt sôi động giao lưu văn hóa qua buôn bán và các luồng di dân ven biển ĐNA (Phạm Đức Mạnh.. 1984).

Nếu không đặt các di tích mộ chum ở niềm Nam Việt Nam trong bối cảnh đó thì rất khó xác định nội dung văn hóa của từng khu vực cũng như tìm ra bản chất của các mối quan hệ, liên hệ giữa chúng.

Một trong những văn hóa tiền sử được phát hiện và nghiên cứu sớm nhất ở Việt Nam và ĐNA, Văn hóa Sa Huỳnh có vị trí quan trọng trong định vị và đối sánh các văn hóa cùng thời, nhất là những văn hóa ven biển và hải đảo có mối quan hệ giao lưu mật thiết với nó.

Sự giao thoa giữa các nền văn hóa cùng thời, cùng trình độ phát triển, địa bàn kề cận nhau là hiện tượng văn hóa mang tính quy luật.

Ở khu vực giáp ranh Nam Trung Bộ tùy từng giai đoạn mà văn hóa ở đây sẽ ảnh hưởng đậm nét các yếu tố Văn hóa Sa Huỳnh hay Văn hóa Đồng Nai.

Những đặc trưng của Văn hóa Sa Huỳnh ngày nay đã tìm thấy trong nhiều nền văn hóa ở những địa hình môi trường khác nhau. Điều này càng cho thấy rõ hơn mối quan hệ qua biển, bằng biển của cư dân cổ Đông Nam Á:

Yếu tố văn hóa Biển mang lại những nét tương đồng còn yếu tố lục địa làm nên nét khác biệt cho các nền văn hóa cổ, Biển Đông từ thời xa xưa đến nay luôn có một vị trí quan trọng trong sự phát triển của khu vực Đông Nam Á.

Đây cũng là một trong những yếu tố thúc đẩy sự phát triển từ Văn hóa Sa Huỳnh đến văn hóa Champa và từ Văn hóa Đồng Nai đến Văn hóa Óc Eo.

TS. Nguyễn Thị Hậu

Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Nguồn

Web baotanglichsu

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
71199946_1227445924122324_7311032930573221888_n.jpg


Văn hóa Đồng Nai chỉ các di tích khảo cổ ở Việt Nam phân bố trên vùng trung du và đồng bằng miền Đông Nam Bộ, ven các sông Đồng Nai, sông Sài Gòn và sông Vàm Cỏ, thể hiện quá trình diễn biến văn hóa từ sơ kỳ thời đại đồ đồng đến sơ kỳ thời đại sắt.

Giữa các di tích có những khác biệt nhất định, song chúng cùng có những đặc trưng chung nên có nhiều ý kiến xếp chúng vào một nền văn hóa chung.

Có người gọi là Văn hóa Đồng Nai, có ý kiến gọi là Văn hóa Phước Tân, Văn hóa Bến Đò hay Văn hóa Cù Lao Rùa.

Nay phát hiện hàng trăm di tích ở hầu khắp các tỉnh miền Đông Nam Bộ, trong đó có các di tích tiêu biểu như Cầu Sắt, Suối Chồn, Bình Đa, Cái Vạn, Cù Lao Rùa, Hưng Thịnh, Đồi Xoài, Đồi Mít, Gò Me, Đồi Phòng Không, Cái Lăng, Long Bửu, Bến Đò, Phước Tân, Gò Đá, Dốc Chùa, Bù Đốp, Gò Tháp, Gò Canh Nông, Gò Cao Su, An Sơn, Rạch Núi. Vv. [1]

Lịch sử khám phá

Những di tích, di vật khảo cổ học ở Đồng Nai được phát hiện, nghiên cứu rất sớm và trải nhiều giai đoạn lịch sử.

Lịch sử khám phá ban đầu của khảo cổ học thời tiền - sơ sử Đồng Nai gắn liền với các tên tuổi của các nhà thám hiểm, du lịch, truyền giáo và thực dân Châu Âu như:

V. Holbé, D. Grossin, J. Chénieux, E. Cartailhac, A. Mougeot, F. Barthère, Loesh, J. Repelin.. và các thành viên thuộc phái bộ A. Pavie làm việc tại Việt Nam những năm 80 - 90 thế kỷ XIX.

Đây là giai đoạn với những phát hiện lẻ tẻ và chú ý sưu tập hiện vật tiền sử cho các Viện Bảo tàng ở Đông Dương và Pháp.

Những địa danh mà vùng đất Đồng Nai chủ yếu là dọc hai bờ sông Đồng Nai cùng các chi lưu của nó như (Lò Gạch, Bình Đa, Bến Gỗ, Cái Vạn, An Sơn, Rạch Núi.) được nhắc trên bản đồ khảo cổ học thế giới.

Đặc biệt sưu tập di vật thời tiền sử do V. Holbé gồm 1.200 di vật đá, 10 rìu đồng tìm thấy trên 20 địa điểm ở vùng Biên Hòa được giới thiệu trong các công trình nghiên cứu của E. Hamy (1897) và R. Verneau (1904) được trưng bày tại hội chợ quốc tế Paris năm 1889.

Không ít những di vật tiêu biểu thời tiền sử được phát hiện đầu tiên ở Đồng Nai được lưu giữ tại các bảo tàng nước Pháp.

Chặng đường khám phá tiếp theo vào những thập niên đầu thế kỷ XX với cuộc khai quật trên vùng Cù Lao Rùa - nằm giữa sông Đồng Nai, cách thành phố Biên Hòa khoảng 10km (nay thuộc địa phận huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương) của D. Grossin (1902) và A. Jordin (1910).

Theo H. Fontain công bố năm 1970 thì riêng tại di chỉ này cung cấp 383 di vật đủ kích cỡ, kiểu dáng làm cơ sở cho nghiên cứu thời đại đồ đá mới ở Biên Hòa - Đồng Nai.

Những di vật tương tự ở vùng Cù Lao Rùa còn tìm thấy ở các nơi khác ở Đồng Nai trên nhiều địa hình khác nhau từ nhóm đất đỏ vàng đến vùng đất thấp phù sa cận biển.

Đặc biệt trong giai đoạn này là phát hiện di chỉ mộ Hàng Gòn do J. Bouchot chủ trì năm 1927 tại vùng Xuân Lộc.

Di tích khai quật và công bố thu hút quan tâm của giới nghiên cứu và được toàn quyền Đông Dương xếp hạng trong danh mục những di tích lịch sử quan trọng của Liên Bang năm 1930.

Thập niên 60 và 70 thế kỷ XX, nghiên cứu khảo cổ học ở Đồng Nai bắt đầu mang tính hệ thống và khoa học với công lao to lớn của những thành viên hội địa chất Đông Dương.

Tiêu biểu là E. Saurin, H. Fontain và L. Malleret. Giai đoạn này, bắt đầu có tham gia của các nhà nghiên cứu nước ta:

Nghiêm Thẩm, Hoàng Thị Thân..

Những phát hiện quan trọng trong giai đoạn này là các di tích đá cũ và cụm di tích đồng sắt ở Hàng Gòn, Dầu Giây, Phước Tân, Bến Đò, Hội Sơn, Phú Hòa..

Từ đây, bắt đầu hình thành sơ khởi khái niệm về vùng văn hóa phát triển qua các thời đồ đá cũ, đá mới, đồng và sắt sớm ở Đồng Nai.

Giai đoạn thứ tư bắt đầu sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng đến nay. Nghiên cứu khảo cổ học được quan tâm.

Các nhà khảo cổ học Việt Nam phối hợp các cơ quan chức năng tại địa phương (Bảo tàng Đồng Nai) và các ngành hữu quan tiến hành điều tra, khai quật, kiểm chứng hàng loạt các địa điểm, di chỉ trên địa bàn Đồng Nai.

Hàng loạt di tích, di vật qua công tác khai quật, nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ nền văn hóa cổ xưa từng tồn tại và phát triển trên vùng đất này. Có thể nói, các di tích khảo cổ gồm các loại hình:

Cư trú, công xưởng, mộ táng, đền tháp.. của cư dân cổ trải đều trên các địa hình đặc trưng Đồng Nai từ vùng núi đồi tiếp giáp cao nguyên đến vùng đất đứt gãy phun trào đất đỏ ba - zan và cả vùng phù sa cổ các bồn trũng, vùng ngập nước cận sông, biển.

Tổng quan

Khoảng 2.500 năm cách ngày nay (khoảng thế kỷ V TCN), cư dân cổ Đồng Nai bước vào truyền thống văn hóa kim khí phát triển. Nền văn hóa thời đồ sắt ở Đồng Nai gắn kết hai giai đoạn phát triển đồng thau và sắt sớm.

Trong văn hóa đá – đồng manh nha văn hóa sắt sớm với hàng loạt di chỉ như Bình Đa, Cái Vạn, Suối Chồn, Hàng Gòn, Long Giao, Phú Hòa..

Thời kỳ sắt sớm ở Đồng Nai là giai đoạn phát triển hào hùng của cư dân cổ Đồng Nai.

Với những công cụ từ kim khí, người cổ Đồng Nai "mạnh" lên trong quá trình chinh phục tự nhiên, khai phá, làm nông nghiệp ngày càng mạnh mẽ; các làng dân cư nông nghiệp được khởi nhiều nơi.

Vùng đất Đồng Nai cổ từ thiên nhiên hoang sơ, nguyên thủy dần thành địa bàn kinh tế, dân cư phát triển của trung tâm nông nghiệp Đồng Nai – Đông Nam Bộ thời tiền sử.

Sau hành trình dài, cư dân cổ Đồng Nai tạo dựng nền văn minh tiền sử rực rỡ. Nền Văn hóa Đồng Nai phát triển, lan tỏa rộng và bắt đầu có giao thoa những yếu tố mới về văn hóa, tộc người. Những bộ sưu tập hiện vật tại nhiều di chỉ:

Bình gốm, đồ trang sức (khuyên tai ba mấu, hạt thủy tinh, vòng hạt chuỗi, mã não.), mộ chum.. đã minh chứng cho mối liên hệ qua lại giữa các yếu tố văn hóa, kỹ thuật giữa vùng Đồng Nai và các vùng phụ cận.

Chính quan hệ rộng mở này tạo điều kiện cho cộng đồng cư dân cổ Đồng Nai không ngừng phát triển, hoàn thiện trên một vùng địa lý, văn hóa ổn định.

Đó là những yếu tố thuận lợi cho người cổ Đồng Nai bước vào những giai đoạn phát triển cao hơn trong tiến trình đi lên của xã hội loài người.

Chú thích

1. "VĂN HOÁ ĐỒNG NAI". Truy cập 6 tháng 10 năm 2015.

Nguồn

Wikipedia

Văn hóa Đồng Nai là nền văn hóa khảo cổ thời tiền sử ở miền Đông Nam Bộ mà địa giới hành chánh nay là các tỉnh Tây Ninh, Bình Phước, Bình Dương. Đồng Nai, TP. Hồ Chí Minh, Bà Rịa-Vũng Tàu.

Tuy nhiên, về mặt địa lý - địa hình đây là vùng đất cao trải dài từ cao nguyên Bảo Lộc - Di Linh thấp dần xuống đồng bằng châu thổ sông Cửu Long.

Vì vậy phạm vi phân bố của Văn hóa Đồng Nai thời tiền sử bao gồm lưu vực các sông Đồng Nai, sông Bé, sông Sài Gòn và sông Vàm Cỏ Đông-Tây.

Những di vật khảo cổ học tìm thấy ở đây từ cuối thế kỷ 19 trong khi xây dựng một số công trình lớn ở Sài Gòn.

Thập niên 1960-1970 một số nhà địa chất học người Pháp công bố phát hiện các công cụ thời đá cũ ở Xuân Lộc (Đồng Nai) và nhiều di tích ở vùng hạ lưu sông Đồng Nai mà họ định danh là "Văn hóa Cù Lao Rùa."

Từ sau 1975 việc khai quật và nghiên cứu Văn hóa Đồng Nai được đẩy mạnh và đến nay bức tranh thời tiền sử vùng lưu vực Đồng Nai dần hiện khá rõ nét qua hệ thống hàng trăm di tích và hàng chục ngàn di vật độc đáo, thể hiện truyền thống văn hóa phát triển liên tục và lâu dài qua hàng ngàn năm.

Địa bàn rộng lớn như vậy, có thể thấy các di tích khảo cổ Văn hóa Đồng Nai chia thành 3 khu vực:

- Khu vực đồi đất đỏ bazan và cao nguyên đất xám phù sa cũ:

Các di tích ở đây có diện phân bố rộng, tích tụ văn hóa dày, hiện vật vô cùng phong phú chủ yếu là đồ gốm và công cụ đá. Tiêu biểu là cụm di tích Xuân Lộc - Đồng Nai, di tích thành tròn ở Lộc Ninh - Bình Phước.

Khu vực hạ lưu sông Đồng Nai:

Đây là khu vực di tích phân bố dày đặc, nhiều loại hình di tích như nơi cư trú, nơi chế tạo các loại công cụ và đồ dùng sinh hoạt, các khu mộ táng với nhiều táng thức khác nhau..

Các di tích nổi tiếng ở đây là Cù Lao Rùa, Dốc Chùa, Bưng Sình (Bình Dương), Bình Đa, Suối Linh, Đồi Phòng Không, Gò Me.. (Đồng Nai), An Sơn, Rạch Núi, Lộc Giang.. (Long An).

Khu vực ven biển Đông Nam Bộ:

Đây là vùng đất thấp trũng, phần lớn là rừng ngập mặn. Di tích cư trú và mộ táng rải rác trên các gò, giồng đất cao hoặc ven các bưng lầy, di vật ở đây rất đa dạng và độc đáo thể hiện những mối quan hệ giao lưu văn hóa rộng rãi.

Độc đáo nhất là nhóm di tích mộ chum ở Cần Giờ - TP. HCM, các di tích vùng bưng lầy Bà Rịa-Vũng Tàu như Bưng Bạc, Bưng Thơm, Cái Vạn, Cái Lăng, Giồng Nổi, Gò Me..

Hàng chục khai quật khảo cổ học từ sau năm 1975 đưa lên từ lòng đất hàng trăm ngàn di vật với nhiều chất liệu khác nhau.

Đồ đá là di vật phổ biến nhất và có số lượng lớn nhất, đồng thời cũng là loại công cụ - vũ khí tồn tại lâu dài đến cả những giai đoạn về sau, do khan hiếm của quặng kim loại.

Loại hình công cụ phổ biến là rìu, cuốc, dao hái, "qua đá", đục, mũi tên.. được chuyên môn hóa về chức năng. Đồ trang sức nhiều nhất là các loại vòng đeo tay, đeo tai.

Đặc sắc nhất vẫn là những bộ đàn đá tìm thấy trong địa tầng di tích khảo cổ học ở Đồng Nai, Bình Phước khẳng dịnh ra đời và tồn tại của loại nhạc cụ cổ truyền này ở lưu vực Đồng Nai từ 3000 – 2000 năm cách ngày nay.

Nghề đúc đồng và luyện kim đồng thau phổ biến trong Văn hóa Đồng Nai khoảng 3000 năm cách ngày nay. Đồ đồng ở đây tạo bằng phương pháp đúc trong khuôn hai mang "liên hoàn" nhiều vật đúc:

Rìu, giáo, lao, mũi tên, lục lạc, lưỡi câu, lao có ngạnh..

Tại di tích Long Giao (Đồng Nai) còn tìm thấy một kho "qua đồng" - một loại vũ khí cổ phổ biến cả trong Văn hóa Đông Sơn.

Gần đây còn tìm thấy một số trống đồng "kiểu Đông Sơn" được sử dụng làm nắp đậy những ngôi mộ chum bằng gỗ ở di tích Bưng Sình - Phú Chánh (Bình Dương).

Đồ gốm và nghề làm gốm rất phát triển, các loại đồ dùng trong sinh hoạt như nồi, bát đĩa chân cao, bình, bếp lò.. có mặt trong tất cả di tích khảo cổ. Ngoài ra còn có nhiều dụng cụ bằng gốm như bàn xoa, dọi xe sợi, chì lưới..

Ngoài các chất liệu chủ yếu trên trong Văn hóa Đồng Nai còn tìm thấy những di vật bằng gỗ, xương, sừng hay mai rùa.. làm công cụ và đồ trang sức.

Giai đoạn muộn của Văn hóa Đồng Nai xuất hiện những di tích mộ táng với táng thức chủ đạo là "mộ chum" :

Than tro hỏa táng hoặc di cốt chôn nguyên vẹn trong những chum, vò lớn bằng gốm hay bằng gỗ, cùng nhiều đồ tuỳ táng có giá trị như trang sức đá ngọc, mã não, thủy tinh, giáo sắt, đồ gốm minh khí..

Nổi bật là bộ sưu tập 26 "khuyên tai hai đầu thú" tại di tích Giồng Cá Vồ - số lượng nhiều nhất được tìm thấy trong các di tích mộ chum ở Việt Nam và Đông Nam Á.

Trải qua gần 2000 năm phát triển, phương thức kinh tế chính của cư dân cổ Đồng Nai là nông nghiệp ruộng khô (nương rẫy, dùng cuốc) kết hợp khai thác tự nhiên như đánh bắt cá, hái lượm.. đồng thời phát triển các nghề thủ công.

Tuy nhiên, vùng cửa sông Đồng Nai xuất hiện những dấu tích một nhóm cư dân đặc biệt sinh sống bằng nghề trao đổi buôn bán, đó là chủ nhân các di tích mộ chum ở Cần Giờ-TP. HCM.

Khoảng 2500-2000 năm cách ngày nay Cần Giờ từng là "cảng thị sơ khai" phát triển thương mại qua đường sông, đường biển với nhiều nơi như với khu vực Văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung, các đảo ở Philippine, Indonesia, đặc biệt quan hệ kinh tế-kỹ thuật với Ấn Độ thể hiện rõ nét từ rất sớm.

Văn hóa Đồng Nai phát triển trong thiên niên kỷ I-II TCN được nhìn nhận như bước mở đầu cho truyền thống văn hóa bản địa ở Nam Bộ với bản sắc riêng và sức sống mãnh liệt.

Truyền thống Văn hóa Đồng Nai cùng một số yếu tố văn hóa "ngoại sinh" do cư dân cổ Đồng Nai tiếp thu đã thành những yếu tố quan trọng để hình thành nền Văn hóa Óc Eo nổi tiếng trong giai đoạn lịch sử kế tiếp - thế kỷ I-VII SCN.

TS. Nguyễn Thị Hậu

Nguồn

Web baotanglichsu

VĂN HÓA ĐỒNG NAI

Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khảo cổ học nước ta thì thời đại đá cũ có con người cư tụ ở vùng Đông Nam Bộ, trải quá trình lâu dài hàng vạn năm các nền văn hóa đá mới, đồng đá (sơ kỳ đồng thau) rồi tiến tới hậu kỳ đồng thau và sơ kỳ đồ sắt, cách ngày nay khoảng trên 4000 năm hình thành ở vùng này nền Văn hóa Đồng Nai.

Nhiều di tích Văn hóa Đồng Nai được tìm thấy ở Đông Nam Bộ, tập trung ở các tỉnh Đồng Nai, Bình Phước, TP. Hồ Chí Minh..

Các di tích phân bố ở lưu vực sông Đồng Nai và sông Vàm Cỏ, từ vùng đất đỏ Bazan đến ven biển..

Cư dân Đồng Nai thời đại đồng thau và sơ kỳ sắt chế tác nhiều loại công cụ và đồ dùng khác nhau khá phong phú như rìu, giáo, qua đồng.

Đồ gốm có các loại nồi, vò, chậu, bát.. kỹ thuật làm gốm phát triển tương đương với kỹ thuật làm gốm của cư dân Phùng Nguyên.

Trên các đồ dùng gốm có in hình hoa văn chải, văn thừng, văn nan chiếu.. Một số công cụ đá cũng tìm thấy ở Văn hóa Đồng Nai như rìu, quả cân, bàn mài..

Hoạt động kinh tế chủ yếu của cư dân Đồng Nai là làm nghề nông, đồng thời còn khai thác sản phẩm thiên nhiên, làm nghề thủ công (làm gốm, đúc đồng, dệt vải.).

Toàn bộ di tích đồng thau và sắt ở vùng Đông Nam Bộ mang đặc trưng văn hóa cơ bản gống nhau về công nghệ đá, đồng, sắt, gốm. Đây là vùng đất có nền văn hóa phát triển liên tục từ văn hóa đồ đá lên đồng và sắt.

Cư dân Đồng Nai sống định cư lâu dài trên những khu vực khác nhau, đời sống tinh thần khá phong phú.

Họ làm nhiều đồ trang sức như các hạt chuỗi mã não, vòng tay thủy tinh, khuyên tai đá hai đầu số, khuyên tai thủy tinh, dây chuyền bạc, vòng tay, nhẫn bằng sắt.

Cư dân Đồng Nai có tục chôn người chết ở nơi cư trú, chôn theo đồ tùy táng (các công cụ, đồ dùng bằng gốm, thủy tinh, đá, đồng, sắt).

Văn hóa Đồng Nai có tiến trình phát triển lâu dài và liên tục từ văn hóa đồ đá đến văn hóa đồng thau và sắt cách ngày nay trên dưới 4000 năm.

Nguồn

Web thcs. Daytot

Đồng Nai

Đồng Nai thuộc miền Đông Nam Bộ, miền đất trù phú có hơn 300 năm hình thành và phát triển do sông Đồng Nai đem đất phù sa mầu mỡ vun bồi.

Nhiều biến cố lịch sử với những thăng trầm biến động tạo cho tiểu vùng văn hóa này một nét độc đáo về bản sắc văn hóa.

Những di tích mang dấu ấn thời mở đất

Đồng Nai, vùng đất cổ có nhiều di chỉ của nền Văn hóa Phù Nam cách đây hơn 1.300 năm. Lịch sử Nam tiến của ông cha ta để lại nhiều dấu ấn trên vùng đất này.

Miền Gia Định - Đồng Nai hồi ấy còn rất nhiều điều bí ẩn, lạ lùng nhưng cũng không kém phần hấp dẫn, gợi sự tò mò muốn khám phá của người đương thời:

"Đồng Nai địa thế hãi hùng

Dưới sông sấu lội trên giồng cọp um."

Thời bấy giờ chỉ có người dân bản xứ gồm các sắc dân như dân tộc Siêng, dân tộc Mạ, dân tộc Kơ-ho, dân tộc M'nông, dân tộc Chơ-ro và vài buôn sóc người Khơ-me sinh sống.

Dân cư thưa thớt, sống rải rác chứ không sống thành cộng đồng, kỹ thuật sản xuất rất thô sơ, trình độ xã hội còn thấp kém.

Cuộc chiến tranh giữa hai họ Trịnh - Nguyễn ở miền Trung và Bắc Việt Nam làm dân lầm than khổ sở, điêu đứng nên tạo làn sóng di cư của dân miền Thuận an, Quảng Nam, Quảng Ngãi vào Đồng Nai tìm đất để sinh sống.

Những cuộc Nam tiến mang theo những nền văn hóa Đàng Ngoài và tạo dựng bản sắc văn hóa phương Nam không lẫn vào đâu được..

Văn Miếu Trấn Biên là minh chứng cho dịch chuyển của văn hóa thời này - Văn Miếu Trấn Biên là công trình văn hóa xây vào thế kỷ 17, đời chúa Nguyễn Phúc Chu ở phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa nay.

Công trình này thể hiện truyền thống khuyến học, tôn trọng kẻ sĩ của người Việt ngày ấy. 12-1861, Văn Miếu Trấn Biên bị giặc Pháp phá hủy khi người Pháp chiếm đóng Biên Hòa.

Nay, Văn Miếu Trấn Biên tái dựng, kiến trúc theo phong cách Văn Miếu Hà Nội, đẹp, mang đậm bản sắc văn hóa phương Đông.

Tại Văn Miếu này, hàng năm có hai sự kiện văn hóa lớn là Xuân Vinh diễn ra tháng 2 Âm Lịch và Thu Vinh diễn ra tháng 8 Âm Lịch.

Hai lễ hội truyền thống này mang ý nghĩa khuyến học nhằm tôn vinh những hiền tài, nhân sĩ trí thức.

Mộ cổ Hàng Gòn ở xã Xuân Tân, thị xã Long Khánh ở phía Tây tỉnh lộ 2 đường Long Khánh đi Bà Rịa, cách thành phố Biên Hòa 80km, cũng là di tích văn hóa tiêu biểu cho nền văn hóa cách đây hơn 2.500 năm.

Mộ cổ này do kỹ sư cầu đường người Pháp là ông Bouchot J. Tìm ra vào năm 1927 khi mở đường số 2 nối Long Khánh với Bà Rịa. Ngôi mộ có kiến trúc theo phong cách "Dolmen" ở Đông Nam Á.

Có hai hàng trụ đá hoa cương với 10 trụ, mỗi trụ cao từ 1, 5m đến 3m bao quanh hầm mộ. Mộ ghép bằng những tấm đá hoa cương nặng hàng tấn, phần nắp mộ ước tính chừng 10 tấn.

Chung quanh mộ có nhiều tấm đá lớn xếp bằng phẳng, tinh xảo và cân đối, thể hiện trình độ văn minh của người xưa cách nay hàng mấy thiên niên kỷ.

1992, mộ cổ này trùng tu, xây tường gạch bảo vệ, chống mưa gió xói mòn, chung quanh trồng nhiều cây cảnh đẹp.

Điểm đặc biệt của Đồng Nai là có nhiều chùa, đình và đền thờ xây dựng thời tiền nhân ta tiến vào vùng đất hoang vu này cách đây trên 300 năm như chùa Long Thiền ở phường Bửu Hòa, thành phố Biên Hòa được xây 1664. Một trong ba ngôi chùa cổ nhất còn lại đến nay trên đất Biên Hòa.

1662, ngài Nguyên Thiều thiền sư thuộc phái Lâm Tế (Bắc tông) nguyên trụ trì chùa Quốc Ân và Thiên Mụ (Phú Xuân - Huế) bị chúa Minh Vương Nguyễn Phúc Chu nghi ngờ dính líu đến một số người nổi dậy chống chúa, nên trốn vào Đồng Nai ẩn tu tại chùa Kim Cang.

Thiền sư Nguyên Thiều viên tịch năm Mậu Thân (1728). Các đệ tử của ngài xây chùa Long Thiền và một số chùa lớn khác ở vùng Gia Định - Đồng Nai như chùa Bửu Long, Đại Giác, Khải Tường, Từ Ân, Giác Lâm còn tồn tại đến nay.

Chùa Long Thiền kiến trúc theo hình chữ "Tam" mang phong cách và dấu ấn Phật giáo Đại thừa. Trong chánh điện còn thờ nhiều tượng Phật cổ bằng đất nung và bằng đồng. Chùa Long Thiền là nơi truyền bá Phật giáo đầu tiên ở Nam Bộ.

Ở xã Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa, có đền thờ Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh - vị công thần nhà Nguyễn – khai phá đất Đồng Nai.

Ông được chúa Nguyễn sai đi kinh lý, vẽ bản đồ và xác lập cương thổ Đàng Trong. Năm Gia Long thứ nhất, đền thờ trùng tu, đến năm 1851 đền trùng tu lần hai, 1960 đền trùng tu thêm lần nữa.

Một di tích văn hóa lịch sử khác liên quan đến quá trình khai phá và hình thành vùng đất Đồng Nai là đình Tân Lân ở đường Nguyễn Văn Trị, phường Hòa Bình, thành phố Biên Hòa.

Đình thờ Trần Thượng Xuyên, tôi thần nhà Minh chạy nạn Mãn Thanh đến Việt Nam cuối thế kỷ 17.

Ông có công khai phá đất đai, mở mang Nông Nại đại phố (Cù Lao Phố) thành trung tâm buôn bán phồn thịnh, sầm uất của xứ Gia Định - Đồng Nai bấy giờ.

Đình có kiến trúc theo phong cách Hoa Nam (Trung Quốc) cuối đời Minh pha lẫn kiến trúc cung đình đầu nhà Nguyễn.

Những tác phẩm điêu khắc, phù điêu cẩn xà cừ, ghép mảnh sành sứ đặc trưng của vùng Hoa Nam chứa đựng những triết lý nhân sinh của Khổng, Lão và Phật giáo kết hợp hài hòa, thể hiện bản sắc văn hóa Đông phương thâm trầm và độc đáo.

Truyền thống văn hóa dân gian phong phú

Đồng Nai có nhiều dân tộc sinh sống, phần lớn là người Việt. Ngoài ra còn có người Hoa, Xiêng, Chơ Ro, Chăm, Mạ.. Đồng Nai có một truyền thống văn hóa dân gian khá phong phú, đặc biệt là văn hóa dân dộc của đồng bào ít người.

Âm Nhạc Cổ Truyền:

Tiếp nối quá trình phát triển lịch sử, cư dân miền Nam nói chung, dân Đồng Nai nói riêng sáng tạo nên rất nhiều loại nhạc khí và thể loại ca nhạc để bộc lộ tâm tư tình cảm, và lưu truyền cho con cháu, giao tiếp với thế giới thần linh trong tâm tưởng, ước mơ cuộc sống ấm no hạnh phúc.

Đồng Nai, quê hương các loại nhạc cụ dân gian độc đáo như đàn đá Bình Đa, sáo trúc, chiêng đồng, thanh la, khèn bầu, khèn môi.

Việc tìm ra đàn đá Bình Đa ở Đồng Nai, được biết đến như một di chỉ khảo cổ học, cho thấy việc chế tác đàn đá xuất hiện từ trên dưới 3000 năm trước.

Loại nhạc khí này tự thân vang, thuộc loại xylophone, metallophone. Mỗi bộ đàn gồm nhiều thanh đá hợp thành.

Mỗi thanh đá có kích thước và hình dáng khác nhau được chế tác bằng phương pháp ghè đẽo thô sơ (thời đồ đá).

Vật liệu để làm đàn là những loại đá có sẵn ở vùng núi Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ. (Bộ đàn đá đầu tiên tìm được tại Việt Nam năm 1949 hiện bảo quản tại Viện Bảo tàng "Con người" ở Paris)

Nghệ thuật truyền thống

Do mới hình thành hội nhập của nhiều lớp dân cư cách đây hơn 3 thập kỷ, ở Đồng Nai không có các làn điệu dân ca nào đặc thù, nhưng lại có gần đủ các loại dân ca xứ Trung, xứ Bắc, quan họ, ca Huế, ví dặm..

Trong sinh hoạt thông thường, người Đồng Nai xưa có sinh hoạt nghệ thuật: Hò hát, lý, kể vè, nói thơ, nói tuồng, đồng dao, đờn ca tài tử.

Phổ biến ở Biên Hòa là hò cấy, hò chèo thuyền, hò giã gạo, hò đò dọc, hò rỗi, lý Đồng Nai, lý lu là, lý trèo lên. Các bài vè quen thuộc đã lưu truyền cả nước:

Vè Hương thân Cẩn, vè rượu..

Thơ được kể ở Đồng Nai thường là truyện Nôm:

Lục Vân Tiên, Lâm Sanh Xuân Nương, Phạm Công Cúc Hoa..

Nói tuồng thường được đặc diễn các trích đoạn tuồng tích Tàu hoặc tuồng tích dân gian.

Thực hiện nghi lễ có 2 hình thức diễn xướng nghệ thuật truyền thống đáng chú ý:

Xây chầu, đại bội ở lễ hội Kỳ yên cúng đình và hát múa Địa - Nàng, bóng rỗi ở lễ hội cúng miếu.

Còn phải kể đến lối hát Tam Pót của dân tộc Mạ, một loại hình hát kể có vần điệu được lưu truyền trong cộng đồng người Mạ ở huyện Định Quán hiện đang khôi phục.

Lễ hội truyền thống:

Như các địa phương khác trong cả nước, người Đồng Nai cũng tổ chức các lễ hội truyền thống chung của cả dân tộc như Tết Nguyên Đán, Rằm Tháng Bảy, Tết Trung Thu..

Các lễ hội này tổ chức vừa mang bản sắc văn hóa chung của dân tộc, vừa có nét đặc sắc riêng của Văn hóa Đồng Nai.

Ngoài ra, Đồng Nai còn có các lễ hội lớn của riêng địa phương mình. Tiêu biểu là các lễ hội:

Lễ Kỳ Yên (cầu an) còn gọi lễ vía thần tổ chức tại các thời điểm khác nhau trong năm. Nghi lễ của lễ Kỳ Yên giống nghi thứ lễ cúng Đình thần Nam Bộ:

Lễ cúng tiền hiền, hậu hiền, lễ rước thần, lễ dâng vật cúng thần và lễ tống ôn. 3 năm một lần tổ chức hát bội, múa.

Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh, lễ Kỳ Yên tổ chức 26-6 và 11-11 Âm Lịch.

Tại đình An Hòa, lễ Kỳ Yên tổ chức 15 và 16-8 Âm Lịch. Ngoài phần lễ còn có hội đua thuyền, xô giàn thí thực.

Đến giờ Ngọ, giàn được xô ra cho mọi người cùng tranh lấy đồ cúng như sự ban phát của thần linh.

Đền thờ danh tướng Nguyễn Tri Phương, lễ Kỳ Yên 16 và 17-10 Âm Lịch. Đình Tân Lân thờ Trấn Biên Đô Đốc Trấn Thượng Xuyên, tổ chức lễ Kỳ Yên 23-11 Âm Lịch.

Các dân tộc Chăm, Khmer.. sống ở đây hàng năm cũng thường tổ chức các lễ hội đặc trưng của dân tộc mình:

Lễ Roja Haji (người Chăm), lễ hội Chôi Chanam Thmây (Khmer).

Văn học dân gian

Kho tàng văn học lưu truyền dân gian chủ yếu bằng cách truyền khẩu, gồm nhiều cách:

Tự sự trữ tình dưới các hình thức, truyện kể, thơ ca hò vè..

Truyện kể:

Ở đồng bào các dân tộc ít người, truyện kể là tài sản tinh thần quan trọng.

Đó là "lịch sử", là luật tục, là hình mẫu nếp sống cổ truyền của cha ông, đồng thời cũng là cách để thư giãn tinh thần.

Truyện kể của người Châu Mạ, Châu Ro, Stiêng thường tự sự dưới hình thức văn vần mà già làng thường kể trong không khí sinh hoạt cộng đồng ở nhà dài, ở các lễ hội gia đình hoặc cộng đồng.

Người Châu Mạ, Châu Ro, Stiêng còn lưu truyền mảng thần thoại, truyền thuyết nhằm giải thích các hiện tượng tự nhiên và sự hình thành cộng đồng.

Truyện kể của người Việt không nhiều, do phát triển từ nhận thức, kinh nghiệm vốn sống đã trưởng thành nhiều trăm năm qua ở nguyên quán nên người Việt ở Đồng Nai không có thần thoại nguyên mẫu, vắng bóng truyền thuyết, truyện kể ít hư cấu hoang đường.

Truyện loại này thường mang dấu ấn thần thoại tích hợp vào vùng đất mới giải thích về nguồn gốc địa danh, tên núi, tên sông hoặc những hiện tượng lạ của tự nhiên chưa giải thích.

Ngoài ra còn có thể loại truyện cười được người Biên Hòa - Đồng Nai ưa thích, tiếp nhận từ tứ xứ.

Ca dao - dân ca:

Tiếng Châu Mạ, Stiêng, Châu Ro giàu chất thơ. Những lời hát đối đáp giao duyên trong lao động và những bài ca nghi lễ thường đọng lại trong ca dao trữ tình.

Thơ ca dân gian của người Việt khá phong phú. Phong phú nhất là mảng ca dao trữ tình mang theo trong hành trang của người Việt đến xứ sở Biên Hòa - Đồng Nai.

Ngoài ra còn có nhiều ca dao, dân ca miền Trung, miền Bắc được biến thể đôi chút gắn với hoàn cảnh, địa lý địa phương phù hợp tâm tư cư dân vùng đất mới..

Tục ngữ phương ngôn:

Tục ngữ phương ngôn của đồng bào dân tộc Châu Mạ, Châu Ro, Stiêng chủ yếu truyền khẩu qua lời nói, do các dân tộc ít người trên địa bàn Biên Hòa - Đồng Nai chưa có chữ viết.

Người Việt ở Đồng Nai kế tục vốn tri thức và tiếng nói của cha ông ở nguyên quán nên kho tàng tục ngữ, phương ngôn về kinh nghiệm sản xuất, quy tắc ứng xử ít có sự khác lạ so với xứ Bắc, xứ Trung.

Văn học viết

Văn học viết Đồng Nai cũng như cả vùng Nam Bộ nói chung chỉ thực sự xuất hiện khi vùng này có những trí thức Nho học thế kỷ XVII, khi đất Đồng Nai - Gia Định có tên trên bản đồ Đại Việt. Những năm 70 - 80 của thế kỷ XVIII, đội ngũ Nho sĩ, cùng các tác giả văn học ra đời như:

Võ Trường Toản, Đặng Đức Thuật, Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tịnh. Tác giả văn học, nhà văn hóa lớn nhất của Biên Hòa - Đồng Nai và cả xứ Nam Bộ chính là Trịnh Hoài Đức.

Khi thực dân Pháp bắt đầu nổ súng tấn công xâm lược Việt Nam năm 1858, văn học viết ở Đồng Nai phát triển giàu tính chiến đấu và tính nhân văn sâu sắc với các tác giả Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Thông, Bùi Hữu Nghĩa..

Khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930, những người cầm bút (dĩ nhiên không phải là tất cả) cũng tìm cho mình ánh sáng ở mỗi trang viết đấu tranh cho độc lập tự do của đất nước. Đó là những cây bút:

Huỳnh Văn Nghệ, Lý Văn Sâm, Hoàng Văn Bổn.

Lý Văn Sâm là nhà văn xuất sắc nhất của văn học miền Nam thời kỳ 1945 - 1954.

Hoàng Văn Bổn là nhà văn có những tác phẩm phản ánh sâu rộng và toàn diện về con người và cuộc sống kháng chiến ở Đồng Nai.

20 năm sau ngày miền Nam giải phóng, Đồng Nai hình thành đội ngũ gồm nhiều thế hệ sáng tác, từ nhà văn tên tuổi như Lý Văn Sâm, Hoàng Văn Bổn đến các cây bút trẻ, nhiều cây bút trưởng thành nhanh chóng và được đứng trong hàng ngũ của Hội Nhà văn Việt Nam như:

Khôi Vũ, Nguyễn Đức Thọ, Cao Xuân Sơn, Trương Nam Hương..

Trang Phục:

Trang phục miền Đồng Nai ít thay đổi theo thời gian. Hiện nay bộ đồ truyền thống của đàn ông là khăn đóng áo dài được thay thế bằng bộ âu phục.

Trong khi đó những phụ nữ vẫn mặc áo dài và đầu đội nón lá. Mặc áo dài là trang phục độc đáo của Việt Nam thì phụ nữ Đồng Nai rập theo nề nếp đó, nhất là các ngày lễ hội càng đua nhau trưng diện, khoe áo dài đủ màu muôn sắc.

Ẩm thực:

Rất đặc biệt vì do thời tiết hai mùa mưa nắng nên các sản vật của biển, rừng, sông nước, vườn ruộng phong phú, cách ăn uống của người Đồng Nai vừa thể hiện nét chung văn hóa Việt Nam, vừa có nét đặc biệt của người miền Nam.

Người Biên Hòa - Đồng Nai thường ăn một ngày 3 bữa sáng thì cháo đậu ăn với cá lóc kho tiêu, hay cháo đậu nước cốt dừa, trưa và chiều tối thì cơm canh bầu nấu với cá trê vàng, hoặc cá lóc kho thơm, canh chua cá lóc, hay mắm kho ghém rau sống, mắm đồng chưng trứng, canh khổ qua dồn thịt.

Người Đồng Nai làm thức ăn lắm công phu và nhiều kiểu cách. Như món hầm là phải nấu thật nhừ thịt heo thịt bò với một ít nước, tương tự như món tiềm của người Trung Hoa.

Canh là món có nhiều nước, thường nấu hỗn hợp thịt cá với các loại rau có vị mát mà phổ biến và đặc trưng nhất là canh chua cá lóc với me làm chua và các loại bạc hà. Giấm, đậu bắp, bắp chuối, rau om, ớt sừng. Hay món nướng luôn phải thật tươi và thường có ướp ít gia vị.

Người Đồng Nai thích ăn gà trộn gỏi (gà xé phay) với vị chua của chanh, cay của tiêu ớt, nồng của rau răm giòn tươi của bắp chuối, vị ngọt của gà tơ.

Gỏi bưởi là đặc sản nổi tiếng của Đồng Nai. Gỏi bưởi gồm bưởi Biên hòa, loại vừa chín tới, còn hơi chua, xé nhỏ trộn với đu đủ, tép khô và rau thơm.

Các loại gỏi sống, thường là cá sống, tôm sống, với kỹ thuật của đồng bằng Bắc Bộ lưu truyền vào Đồng Nai cũng đang là thứ đặc sản thu hút nhiều thực khách.

Nguồn

Web maxreading

Còn tiếp
 
Chia sẻ bài viết

Những người đang xem chủ đề này

Xu hướng nội dung

Back