
NHỮNG NGƯỜI NGHỆ SĨ TẠO HÌNH TÀI HOA
Thành tựu mỹ thuật của người Việt cổ thời dựng nước qua những tác phẩm đồ gốm, đồ trang sức, đồ đồng, qua những hoạt động về tạo dáng, vẽ hình, chạm khắc, tạo tượng.. là bằng chứng rõ rệt về tài năng, khiếu thẩm mỹ của cộng đồng người sống chan hòa với thiên nhiên và sống khăng khít với nhau trong các làng chạ.
Nền mỹ thuật Việt cổ nhiều màu vẻ có những nét đẹp bình dị, chững chạc, hài hòa, nội dung hiện thực, chân chất, phản ánh khá đầy đủ tư duy, tình cảm và cuộc sống con người thời đó.
Đồ gốm giai đoạn Văn hóa Phùng Nguyên làm bằng bàn xoay.
Đó là những đồ đựng, đồ nấu có kích thước khá lớn với những loại hình đa dạng. Kiểu đặc trưng nhất là loại đồ đựng chia làm 3 phần:
Phần trên loe rộng (để đựng) hay thon thuỗn (để uống), phần giữa thót lại để dễ cầm nắm, phần đế hình nón cụt.
Tỷ lệ hợp lý giữa chiều cao của 3 phần, độ phình, độ thót vừa phải, tính chững chạc kết hợp tính sinh động của lối tạo dáng nồi, vò, bình, bát, cốc, chậu.. là những đặc điểm cơ bản của nghệ thuật gốm Phùng Nguyên.
Đến Văn hóa Đông Sơn, kiểu dáng đồ gốm kế thừa và nâng cao đến mức hoàn thiện trong đồ đồng.
Nổi tiếng như trống Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, thạp Đào Thịnh, Việt Khê.. là những di vật quý, ở đấy nghệ sĩ dân gian Việt cổ thể hiện toàn diện tài năng sáng tạo.
Trước hết về mặt tạo dáng. Kiểu dáng trống đồng, thạp đồng mang những đặc điểm có tính thẩm mỹ cao. Do kế thừa kiểu dáng gốm Phùng Nguyên, kết cấu trống đồng chia làm 3 phần:
Tang trống phình vừa phải, thân trống là hình viên trụ thót dần về phía dưới, chân trống hình nón cụt hơi choãi ra về phía đáy.
Dáng trống chững chạc, cân xứng, hài hòa, gọn một cách giản đơn.
Cái đẹp ở đây là ổn định về tỷ lệ giữa 3 phần của trống, độ phình tang trống, độ thót thân trống vừa phải, độ choãi chân trống nhẹ nhàng.
Kết cấu hình khối của thạp, loại có nắp thì nằm gọn trong hình bầu dục.
Phần trên của thạp và phần dưới hơi thót vào, đoạn giữa phình vừa phải. Dáng thạp nghiêm túc, dịu dàng.
Kết cấu 3 phần đồ gốm, của trống và thạp đồng là kết quả phát triển tư duy thẩm mỹ trong quá trình tìm tòi nhằm tạo những sản phẩm cân đối, vững vàng mà hài hòa, thanh thoát.
Dao găm có cán hình người, rìu đồng lưỡi xéo các kiểu, đẹp độc đáo là những thí dụ tiêu biểu khác của thành tựu tạo dáng trong nền mỹ thuật Việt cổ.
NGHỆ THUẬT VẼ HÌNH TRÊN GỖ, TRÊN DA
Thời gian và khí hậu huỷ hoại mất phần lớn những hình vẽ trên các chất liệu không bền chắc.
Người Việt cổ có tục xăm mình:
Đứng về góc độ mỹ thuật, tục lệ này là hình thức vẽ màu đặc biệt trên da thịt.
Một số mảnh gỗ và da thú có vẽ sơn còn sót lại đến nay với nước sơn còn bóng, màu sơn còn tươi đẹp, như các di vật tìm thấy trong quan tài ở mộ Việt Khê cũng chứng tỏ ở thời dựng nước phổ biến hình thức vẽ bằng màu, ít nhất cũng có hình thức vẽ phẩm và vẽ sơn. Những màu sắc:
Vàng, đỏ gạch, xám, nâu, cánh gián, đen cùng những màu sắc của các màu ấy.
Đề tài vẽ màu trên gỗ, trên da mà người Việt cổ ưa thích là các hoa văn hình học và các hình động vật:
Những vòng tròn đồng tâm, hình thoi, hình tam giác, hình hoa lá, hình rồng rắn.
Các loại hoa văn hình học phức tạp hơn, các hình vẽ khéo léo hơn, hiện thực hơn về người, động vật, phong cảnh là đề tài nghệ thuật vẽ hình trên đồ gốm và đồ đồng.
Đó là những hoa văn khắc chìm trang trí các đồ gốm, những hoa văn khắc chìm và chạm nổi trang trí trên đồ đồng: Người xưa vẽ trên đất rồi đem nung hoặc đổ khuôn.
NGHỆ THUẬT CHẠM KHẮC TRÊN ĐỒ GỐM, ĐỒ ĐỒNG
Do chất liệu tương đối bền vững, đồ gốm và đồ đồng đã trở thành những bằng cứ phong phú và quý báu của nghệ thuật khắc họa thời đại dựng nước còn để lại dấu vết cho tới nay.
Đồ gốm được trang trí hoa văn bằng cách: Vạch, chải, in, đập, ấn, ghép.
Sáu cách tạo hoa văn ấy chứng tỏ rằng kỹ thuật trang trí đồ gốm đã tinh vi, trình độ nghệ thuật của người thợ gốm đã khá cao.
Từ những yếu tố hình học giản đơn như đuờng thẳng, đường cong, chấm tròn và vòng tròn, những đường song song chạy thẳng hoặc uốn lượn, những hình vuông, hình chữ nhật, hình tam giác.. đến những mảnh trang trí hình răng lược, hình sóng nước, hình mắt lưới, hình nhài quạt.. nghệ sĩ Việt cổ phối hợp các yếu tố hình học giản đơn thành những đồ án hoa văn kỷ hà phong phú, phức tạp, đặc sắc, vừa mang tính chất trang trí, vừa có ý nghĩa tượng trưng.
Hoa văn sóng nước có lẽ biểu hiện sông, suối; hoa văn vạch thẳng song song biểu hiện mưa.
Hoa văn tam giác biểu hiện núi, các loại hoa văn cuốn chữ S biểu hiện mây, chớp; hoa văn vòng tròn đơn, kép, liên kết hoặc không liên kết thành dải có lẽ thể hiện những khái niệm ước lệ rất đơn giản về trời đất, sinh vật.
Hoa văn thường bố cục theo từng dải tròn chạy chung quanh bề mặt tròn của đồ đựng và thường bị chi phối bởi những nguyên tắc luật đối xứng.
Người thời Hùng Vương ưa trang trí đồ gốm bằng các dải hoa văn có kết cấu phức tạp gồm những tiết liên tục (nối liền nhau) hay rời.
Các họa tiết đóng kín, rời hay nối nhau đó thường đối xứng nhau theo nguyên tắc đối xứng gương, đối xứng trục hay đối xứng tịnh tiến.
Như vậy người thời Hùng Vương có ý niệm rõ ràng về đối xứng và biết 3 kiểu đối xứng khác nhau từ đơn giản đến phức tạp. Đặc biệt quen thuộc là các đồ án đối xứng trục bậc 2.
Đối với người thời xa xưa ấy cũng như đối với chúng ta nay, đối xứng là yếu tố của cái đẹp:
Những đồ án có đối xứng gương thường gây cảm giác tĩnh, vững chắc, nghiêm trang, những đồ án có đối xứng trục thì trái lại, gây cảm giác động, rộn ràng, linh hoạt.
Nhiều bố cục ở nghệ thuật trang trí đồ gốm, nghệ sĩ thời Hùng Vương kết hợp tài tình cả hai kiểu đối xứng động và tĩnh ấy làm đồ án vững chắc mà không cứng nhắc, linh hoạt mà không giảm phần trang trọng[1] .
Tính đối xứng và tính hài hòa những hoa văn trang trí trên gốm được tôn trọng và phát triển như những nguyên tắc quan trọng của nghệ thuật Việt cổ.
Trên đồ đồng, lối chạm khắc chìm và chạm nổi kết hợp để tạo những bố cục trang trí hoàn hảo:
Các bố cục hoa văn phù hợp một cách hữu cơ với những bề mặt bên ngoài trống đồng, thạp đồng: Các diềm trang trí phân bố đều đặn giữa những đường tròn đồng tâm trên mặt trống, nắp thạp.
Các dải hoa văn chạy tròn chung quanh tang trống, thân thạp, các băng hoa văn thể hiện theo chiều thẳng đứng của thân trống..
Tất cả kết cấu hài hòa, có thể nói là khoa học đó, chứng tỏ trình độ thẩm mỹ cao nghệ sĩ dân gian thời Hùng Vương.
Các kết cấu hoa văn mang tính cân đối và tính nhịp điệu thật đặc sắc, bút pháp trang trí bao gồm kỹ thuật khắc vạch bằng đường nét chuẩn xác, thuần thục, khái quát sinh động các đối tượng miêu tả.
Ở chính giữa mặt trống và nắp thạp luôn có hình mặt trời biểu hiện ước lệ bằng hình ngôi sao nhiều cánh, từ 8 đến 16 cánh.
Những vành hoa văn hình học vây xung quanh mặt trời; những vành hoa văn miêu tả sinh hoạt thực tiễn của con người, miêu tả thiên nhiên, cầm thú.
Mặt trống đồng Ngọc Lũ giống cuốn phim hào hứng làm hiện ra trước mắt khung cảnh sinh hoạt, quang cảnh hội hè làng xưa chạ cổ; trong 4 nhà sàn (2 nhà mái cong, 2 nhà mái tròn) có những người đánh chiêng đánh cồng, những đôi gái trai vừa hát đối đáp vừa chơi trò trồng nụ trồng hoa.
Bên cạnh nhà là 2 giàn trống với những người đang đứng ngồi giã trống, với những đôi gái trai đứng giã gạo chày tay, với những nhóm người (hay đám rước) vừa đi vừa múa sênh phách, thổi khèn, đánh chuông nhạc, quần tụ chung quanh con người đang mở hội cầu mùa, mừng công.. là cả thế giới động vật thân quen:
Gà (đứng trên mái nhà sàn), những đàn hươu nai đang đi, xen kẽ với những bầy chim đang bay hay đang đậu đủ loại, mỏ dài, đuôi dài, chân dài, cổ dài, đuôi ngắn, hoặc cổ ngắn đuôi ngắn:
Cò vạc, bồ nông, xít, giang, sếu, công, trĩ, phượng hoàng đất, bói cá, cun cút.. mỗi con mỗi vẻ.
Ở tang trống Ngọc Lũ, 6 thuyền lớn đang rong ruổi, trên thuyền có người bẻ lái, nguời đánh trống, người cầm lao, người bắn cung, có những nạn nhân thân phận bé nhỏ (nô lệ hay tù binh) bị trói giật khuỷu tay, bị túm tóc, bị dọa giết. Ở thân trống, những vũ sĩ cầm lao, cầm rìu chiến.
Trên các trống đồng và đồ đồng khác hiện ra cảnh đua thuyền, đi thuyền đánh cá, cảnh đi săn, cảnh những người vũ trang sẵn sàng chiến đấu, những hình ảnh động vật quen thuộc với con người đương thời:
Chó, gà, cóc, nhái, cầy cáo, cá sấu..
Chủ nghĩa hiện thực hồn nhiên, sinh động có pha cách điệu và ước lệ nhưng vẫn rất gần gũi với cuộc sống, bao trùm toàn bộ hình thức diễn đạt mảng nghệ thuật trang trí này.
Nghệ sĩ dân gian ưa dùng những đường thẳng, đường gãy khúc và đường cong lớn, mà ít tỉa tót, uốn lượn của những đường cong nhỏ, để tả các đối tượng (người, cảnh vật, sinh vật, đồ vật) ở mặt cạnh, mặt nghiêng theo lối bổ cắt, hoàn toàn tôn trọng sự thực đến từng chi tiết và sắp đặt trong bố cục đầy đặn, hài hòa.
Người, chim, thuyền, hươu.. không bao giờ thấy có mặt nhìn thẳng mà chỉ thấy nhìn từ một bên. Qua lần mái nhà, có thể thấy cảnh trong nhà, qua lần váy xoè có thể thấy đôi chân.
Nghệ sĩ dân gian chú ý dùng những ký hiệu để phân biệt, trong toàn cảnh lớn, từng lối để tóc búi hay cắt tóc ngắn của người, giống đực hay giống cái của hươu nai.
Kỹ thuật chạm khắc bằng những đường nét cô đọng, chính xác thuần thục điêu luyện, với tài quan sát thiên nhiên và hoạt động thực tiễn của con người nhạy bén, nghệ sĩ dân gian thời Hùng Vương sáng tạo những bức tranh sinh hoạt của con người Việt cổ, chân thật, khái quát, chọn lọc và thể hiện chủ đề khá rõ ràng.
NGHỆ THUẬT TẠO TƯỢNG
Dòng máu chân thực cuộc sống cũng rõ nét trong nghệ thuật tạo tượng.
Những tượng còn để lại tới nay phần lớn là tượng nhỏ, tượng tròn.
Chất liệu làm tượng là đá, đất nung, đồng thau và những thủ pháp kỹ thuật chính là nặn tay, đúc, rèn, mài gọt.
Đề tài chính của tượng là con người, phần nhiều là ở trạng thái động:
Nhảy múa, thổi khèn, yêu đương.. Đó là những nhóm tượng; một số khác là tượng chân dung và hầu hết đều là chân dung phụ nữ.
Tượng người bằng đá ở Văn Điển (Hà Nội) với dấu hiệu nam tính rõ ràng tạo bằng kỹ thuật chế tác đá tổng hợp và tinh tế theo ước lệ có cân nhắc kĩ càng và khái quát hóa cao.
Tính chất nghiêm túc cứng cỏi khắc khổ của tượng cho thấy có lẽ nghệ sĩ bị chi phối bởi ý thức tôn giáo.
Tượng người ngồi xổm thổi khèn (trên cán muôi đồng Việt Khê, Hải Phòng) diễn tả sinh động sắc thái bình dị ung dung con người gắn nội tâm rạo rực, say sưa.
Khối tượng hai người cõng nhau múa nhảy và thổi khèn ở Đông Sơn (Thanh Hóa) trông thật dí dỏm, lạc quan, cả hai đều như nhún nhảy theo nhịp khèn rộn rịp.
Nhóm tượng cặp gái trai gắn bó trên nắp thạp Đào Thịnh (Yên Bái) có hình khối tròn lẳn diễn tả cái mộc mạc bình dị hồn nhiên của ước mơ phồn thực: Con người sinh sôi, đất đai phì nhiêu, mùa màng bội thu.
Những chuôi dao găm làm thành tượng phụ nữ ở Hòa Bình, Hải Phòng, Thanh Hóa, Nghệ An - Hà Tĩnh.. cho thấy tính nghệ thuật, dù phải phục vụ tính thực dụng vẫn phản ánh khá rõ nét lối trang sức của chị em thời ấy, toát vẻ đẹp riêng nữ giới.
Tính hiện thực nâng cao giá trị các tượng vừa có ý nghĩa trang trí vừa có ý nghĩa thực tiễn này:
Lối vấn tóc hay tết tóc, lối mặc váy dài thắt chẽn ở hông, lối trang sức bằng vòng tay, hoa tai.. là những chi tiết nghệ sĩ dân gian chú ý diễn tả.
Trên ấm đồng Đông Sơn có hình dáng chim cổ dài mỏ dài, nghệ sĩ miêu tả 4 phụ nữ ngồi trên voi ấm hình cổ con chim cùng những nét hiện thực khá rõ, nhất là chi tiết lối búi tóc ra đằng sau.
Cùng tượng người, tượng súc vật cũng tả sinh động. Tượng đầu gà trống, tượng chim, tượng bò tìm được ở Vĩnh Phú đều nặn bằng đất sét nung đều lửa, trông rất thật thà, phản ánh nền kinh tế chăn nuôi gia đình đã ổn định.
Tượng gà bằng đồng ở Hòa Bình khái quát cô đọng mà thật duyên dáng, phong cách hiện thực vững vàng. Hàng chục tượng động vật tìm được:
Tượng cóc, sóc, rùa, chó, hổ, ốc.. có những nhóm tượng tả con vật ở trạng thái động như chó đón hươu, hổ vồ mồi.
Ở những dao găm có chuôi đẹp mới thấy tại di chỉ Làng Vạc (Nghệ Tĩnh), có chuôi kết thúc bằng tượng hình chó đứng được cách điệu hóa, có chuôi là hình 2 con rắn, 1 con có mào, 1 con không có mào, quấn lấy nhau, đầu ngẩng cao, miệng ngậm hai chân trước và hai chân sau voi có bành ở trên lưng.
Dao găm khác cũng cùng phong cách ấy nhưng voi thay bằng chó.
Voi, chó cùng rắn kết hợp khéo léo thành các cán dao găm vừa thanh thoát và duyên dáng mà không kém phần chắc chắn[2] . Nghệ sĩ dân gian kết hợp tài tình giữa trang trí và thực dụng.
Như trong lĩnh vực chạm khắc, chủ nghĩa hiện thực hồn nhiên và sinh động để lại dấu ấn sâu sắc trong phương pháp và phong cách tạo tượng.
Trên mỗi tác phẩm nhỏ nhắn xinh xắn ấy, từ những vòng tay và hoa tai, những đường nét trang trí trên xống áo, vẻ say sưa, nghiêm trang hay ngộ nghĩnh, hóm hỉnh của con người.. đến dáng nhún mình của chó, thế vặn mình của hổ, nét khái quát thanh tao của gà.. đều chú ý tả đúng đắn và kĩ.
Cốt cách và chủ đề con người hay con vật được nghệ sĩ chú ý nhận chân. Miêu tả người, nghệ sĩ dân gian cũng chú ý diễn đạt cả những sắc thái nội tâm, tính tình.
Người thổi khèn ở Việt Khê bình dị, ung dung mà vẫn say sưa nhiệt tình, hai người cõng nhau thổi khèn nhảy múa trông rất lạc quan yêu đời mà đượm vẻ hóm hỉnh tinh nghịch.
Phong cách nghệ thuật phóng khoáng ấy phản ánh phần nào tâm hồn phóng khoáng, sôi nổi con người thời đại.
Phần lớn những tượng đều là tượng trang trí hoặc giúp trang trí:
Được gắn vào các đồ dùng hay thành một bộ phận hữu cơ của đồ dùng như vòi ấm, chuôi kiếm, chuôi dao, cán muôi.
Một số ít là tượng mang tính tôn giáo, phục vụ tín ngưỡng tôn giáo tự nhiên, tín ngưỡng vật Tổ, tín ngưỡng phồn thực.
MỸ THUẬT THỰC DỤNG TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY
Sản phẩm nghệ thuật Việt cổ có một bộ phận quan trọng là những đồ nghề, đồ dùng hàng ngày.
Đưa thẩm mỹ vào thực dụng, từ cuộc sống bình thường mà phát triển thành mỹ thuật, là khuynh hướng dễ thấy của người thời đại Hùng Vương.
Nhiều vật dụng bình thường cũng đồng thời là sản phẩm nghệ thuật.
Từ những nồi, bình, mâm bồng bằng gốm giản đơn đến những trống đồng quý giá, tất cả đều chú ý trong quá trình tạo dáng.
Kết cấu 3 phần của chúng ta là kết quả quan trọng trên con đường tìm tòi suy nghĩ nhằm tạo những sản phẩm cân đối, vững vàng mà thanh thoát, uyển chuyển.
Những rìu đồng có lưỡi xéo các kiểu, đẹp độc đáo là ví dụ tiêu biểu khác của thành tựu tạo dáng cho các vật dụng hàng ngày.
Nghệ thuật vẽ hình, chạm khắc và tạo tượng mang chức năng trang trí phong phú và đặc sắc.
Những đoản kiếm và dao găm đồng thau có chuôi làm bằng những tượng phụ nữ là trường hợp điển hình thành tựu trang trí cho các đồ dùng hàng ngày, kết hợp nhuần nhị sản phẩm thực dụng với sản phẩm thẩm mỹ, trống đồng là đỉnh cao thành công tổng hợp về nghệ thuật tạo dáng, chạm khắc, trang trí và nghệ thuật âm nhạc, một văn vật tiêu biểu cho thời đại văn minh.
Những đồ trang sức phát triển rất phong phú là thành tựu đặc sắc mỹ nghệ thời Hùng Vương:
Vòng tay, hoa tai, nhẫn, hạt chuỗi bằng đá quý, đồng thau được gia công bằng kỹ thuật chế tác tinh xảo, với khiếu năng thẩm mỹ tinh tế làm đẹp cho con người.
Các nghề thêu, nạm, cẩn làm tôn giá trị thẩm mỹ của quần áo và các đồ dùng, đồ đựng bằng gỗ, bằng da còn để lại đến nay những sản phẩm hoặc hình ảnh cụ thể:
Đồ da sơn có nạm cẩn những hình kỷ hà bằng kim loại tìm được ở Việt Khê (Hải Phòng) ; nhiều mẫu quần áo có trang trí đẹp của nhiều tượng phụ nữ tìm được ở nhiều nơi:
Thanh Hóa, Hòa Bình, Lào Cai, Yên Bái..
Các công trình xây dựng:
Nhà làng, nhà ở, nhà kho (nhà làng vùng Mường, ngôi nhà rông Tây Nguyên và đình miền xuôi nay còn phảng phất dáng dấp) có kiểu hay, dáng đẹp, cấu trúc độc đáo.
Trang trí thêm những hình chim, hình gà.. càng tăng thêm giá trị thẩm mỹ thực dụng.
Những thuyền đi sông, đi biển, thuyền chiến, thuyền đua cũng có nhiều kiểu dáng đẹp:
Mũi cong, đuôi én, thân thuyền trang trí những hình kỷ hà quen thuộc như chấm tròn, vòng tròn có tiếp tuyến, đoạn thẳng song song, đường gãy khúc.
MỘT NỀN NGHỆ THUẬT BÌNH DỊ HIỆN THỰC VÀ PHÓNG KHOÁNG
Mỹ thuật thời Hùng Vương trong mọi lãnh vực:
Vẽ tranh, chạm khắc, tạo tượng và mỹ nghệ đều bắt nguồn từ cuộc sống thực tiễn con người và trở lại hòa lẫn trong cuộc sống đó.
Nội dung phản ánh là những người Việt cổ bình dị, gắn bó với cộng đồng làng chạ và những sinh hoạt bình thường, những con vật phần lớn hiền hòa, những chủ đề trang trí dịu dàng, duyên dáng tế nhị.
Đó là nền mỹ thuật của xã hội nông thôn mà vai trò quần chúng rất quan trọng.
Tính chất dân chủ trong làng chạ đưa đến tính chất dân chủ trong nghệ thuật biểu hiện ở những kích thước đều nhau của các đối tượng:
Hình người thường theo những tỉ lệ vừa phải, những khuôn mẫu giống nhau.
Mỹ thuật thời Hùng Vương chưa thấy xuất hiện những hình tượng quái đản, những cảnh tượng dữ dội, những nhân vật quyền uy (thần, vua) như trong nghệ thuật một số quốc gia phương Đông cổ đại như ở:
Ấn Độ, Ai Cập, Lưỡng Hà, chưa thấy xuất hiện những hình mẫu mang tính chất thần thoại, huyền bí lối thao thiết như trong nghệ thuật thời đại đồ đồng ở Trung Quốc.
Nền nghệ thuật thời đại dựng nước, luôn nổi bật tính bình dị, hiện thực phóng khoáng về cuộc sống dân chủ bình đẳng của cộng đồng làng chạ Việt cổ.
Nền nghệ thuật ấy mang mục đích trang trí rất rõ và nhiều khi mang chức năng thực dụng, do đó trở nên phổ biến.
Mặt khác nó phản ánh trung thành thực tiễn xã hội và tình cảm, tư duy con người, nói lên bản chất cần cù say sưa lao động tập thể (đi thuyền, đánh cá, giã gạo).
Bản chất hồn hậu, lạc quan yêu đời, yêu nghệ thuật, yêu cuộc sống cộng đồng (hội hè múa hát tập thể) nó phản ánh những ước mơ về con đàn cháu lũ, mùa màng bội thu, những khái niệm về vũ trụ, những thực trạng xã hội, tinh thần cảnh giác sẵn sàng chiến đấu, ý chí quyết thắng bảo vệ lãnh thổ, giống nòi.
Nền nghệ thuật mang nội dung hiện thực ấy ghi lại truyền thống vừa sản xuất vừa đánh giặc của Tổ tiên, nay chúng ta đang phát huy lên đỉnh cao.
Tính hiện thực sâu sắc đi đôi nét cách điệu khéo léo, phong cách hồn nhiên trong sáng, phóng khoáng, kỹ thuật phát triển, với những tỉ lệ chuẩn xác, kết cấu hài hòa, cân xứng, vững chắc..
Tất cả chứng minh cho năng khiếu và trình độ thẩm mỹ cao người Việt cổ.
Vì thế nền nghệ thuật thời Hùng Vương có những ảnh hưởng lâu dài và xa rộng ở nhiều miền của Đông Nam Á.
Nước ta, truyền thống nghệ thuật cổ xưa ấy vẫn giữ gìn bền bỉ:
Trống đồng vẫn chế tạo trong thời Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Bí, thời Lý - Trần, thời Tây - Sơn[3] ; dân tộc Mường anh em vẫn giữ tục lệ đúc trống đồng đến đầu TK. 19.
Tài năng những nghệ sĩ dân gian đầu tiên với những thành tựu độc đáo của nền văn hóa nhân dân rực rỡ cách đây nhiều nghìn năm thành niềm tự hào sâu xa trong tư tưởng và tình cảm của dân tộc ta.
[1] . Hà Văn Tấn. Người Phùng Nguyên và đối xứng, tạp chí Khảo cổ học, số 3-4 (1969), tr 16-27.
[2] . Minh Hiên, Di sản văn hóa Đông Sơn mới tìm được, tạp chí Văn hóa Nghệ Thuật, số 34, tháng 10/1973
[3] . Trống đồng đúc thời Tây Sơn hiện trưng bày tại Viện Bảo tàng Lịch sử.
Nguồn
Web chimviet
Vài nét về nghệ thuật biểu diễn thời Hùng Vương
Các trống đồng, đặc biệt trống Ngọc Lũ (Hà Nam) và Hoàng Hạ (Hà Tây) những hình chạm thể hiện sinh hoạt xã hội và nghệ thuật thời Hùng Vương tiêu biểu là các trống đồng.
Trống thường bằng da, nhưng trống đồng không dùng thường xuyên mà để phục vụ cho các nghi lễ quan trọng như lễ cầu mưa, lễ xuất quân, lễ mừng chiến thắng hay lễ đăng quang.
Trống đồng Ngọc Lũ có hình người đánh trống là nữ ngồi cầm dùi đâm theo chiều thẳng từ trên xuống mặt trống.
Phần chân trống rỗng đặt úp xuống hố cộng hưởng tạo độ rung khuếch đại âm thanh, tiếng trống cất lên nghiêm trang, hùng tráng và sôi động.
Trống đồng thời Hùng Vương vẫn dùng lâu dài ở nước ta qua Lý, Trần, Lê, nay ở vùng Mường – Hòa Bình và Phú thọ còn tục đâm trống đồng, còn gọi chàm thau trong lễ cầu mưa và đón mừng năm mới.
Bên trống đồng là cồng chiêng, nhạc khí bằng đồng hình tròn có núm ở giữa.
Các hình ở trống đồng Ngọc Lũ thấy những cồng đặt trong nhà sàn, chia làm hai bên, một người đứng giữa hai tay cầm dùi đánh cả hai giàn.
Hiện người Mường và người Ba-Na, Ê-Đê – Tây Nguyên vẫn có những giàn cồng đủ bộ, ít nhất 5 chiếc, có giàn 18 chiếc.
Người Thượng – Tây Nguyên, cồng là nhạc khí mà còn là vật biểu hiện quyền lực và giàu có của chủ nhân.
Người Việt cũng dùng cồng, thường gọi chiêng, trong lễ hội hay tang ma, nhưng là cồng lẻ dùng điểm nhịp theo tiếng trống cái.
Ngoài trống đồng và cồng còn nhiều nhạc khí cũng được khắc họa, trang trí trên các trống đồng như khèn, trống da với trống lớn (trống cái) và trống con (trống bản, trống khẩn), sênh, phách, chuông, nhạc.
Người đánh trống cái đứng gõ dùi vào mặt trống, trống đặt nằm ngang trên giá đỡ, đánh trống là nữ váy xòe hai bên, đánh trống con là nam ngồi phệt trên đất, gõ bằng cả hai tay cầm dùi.
Khèn là nhạc khí phổ biến thời Hùng Vương, hình dạng khèn trên trống đồng không khác khèn của người H'Mông nay, như vậy Tổ tiên rất xa của khèn H'Mông là khèn Văn Lang.
Không chỉ trên trống đồng ở Hà Tây và Hà Nam mới thấy hình khèn mà ở Đông Sơn (Thanh Hóa) cũng phát hiện rìu đồng có cán chạm hình người cõng nhau thổi khèn, cán đồng Việt Khê (Hải Phòng) cũng có hình người ngồi xổm thổi khèn.
Khèn là nhạc khí phổ biến của người Việt cổ, nay chỉ thấy ở vùng người H'Mông.
Những nhạc khí nói lên sinh hoạt văn nghệ thời Hùng Vương, trên trống đồng ta còn những thông tin ca hát và nhảy múa.
Hình người, một nam, một nữ giao chân, giao tay nhau, miệng hé mở mà một số nhà nghiên cứu cho là trò chơi "trồng nụ trồng hoa" là hình thức ca hát giao duyên nam nữ mà Ngô Sĩ Liên nói tới ĐVSKTT.
Vua Lê về thăm Thanh Hóa, dân địa phương đón, hát lý liên hay rí ren, trai gái bá vai níu cổ nhau hát.
Phú Thọ còn bảo lưu hát đối đáp nam nữ mà từng cặp vừa hát vừa cầm tay nhau co đi kéo lại, chân giao chân chẳng khác hình chạm vẽ trên trống đồng.
Hình đôi nam nữ giã gạo chày đôi, miệng há ra, là hình thức hò giã gạo rất phổ biến ở miền Trung.
Trống đồng còn những hình người nhảy múa, hoặc múa hóa trang đeo lông chim, múa tay cầm sênh phách, múa khèn, múa vũ khí, có thể nói nghệ thuật múa thời Hùng Vương phát triển cao.
Nghệ thuật biểu diễn thời Hùng Vương vừa là sinh hoạt vui chơi tập thể, vừa là hình thức nghệ thuật lễ nghi mang tính cộng đồng, tinh thần lạc quan yêu đời, biểu hiện đời sống tinh thần phong phú, giàu sinh lực. Đáng chú ý hầu hết các nhạc khí đều do nữ biểu diễn:
Trống đồng, cồng chiêng, trống con, chuông nhạc và phách, riêng khèn có khèn nam và khèn nữ, nói lên vị trí quan trọng phụ nữ trong xã hội, tinh thần dân chủ và vai trò phụ nữ trong đời sống văn hóa thời Vua Hùng dựng nước.
Nền mỹ thuật Việt cổ nhiều màu vẻ có những nét đẹp bình dị, chững chạc, hài hòa, nội dung hiện thực, chân chất, phản ánh khá đầy đủ tư duy, tình cảm và cuộc sống con người thời đó.
Đồ gốm giai đoạn Văn hóa Phùng Nguyên làm bằng bàn xoay.
Đó là những đồ đựng, đồ nấu có kích thước khá lớn với những loại hình đa dạng. Kiểu đặc trưng nhất là loại đồ đựng chia làm 3 phần:
Phần trên loe rộng (để đựng) hay thon thuỗn (để uống), phần giữa thót lại để dễ cầm nắm, phần đế hình nón cụt.
Tỷ lệ hợp lý giữa chiều cao của 3 phần, độ phình, độ thót vừa phải, tính chững chạc kết hợp tính sinh động của lối tạo dáng nồi, vò, bình, bát, cốc, chậu.. là những đặc điểm cơ bản của nghệ thuật gốm Phùng Nguyên.
Đến Văn hóa Đông Sơn, kiểu dáng đồ gốm kế thừa và nâng cao đến mức hoàn thiện trong đồ đồng.
Nổi tiếng như trống Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, thạp Đào Thịnh, Việt Khê.. là những di vật quý, ở đấy nghệ sĩ dân gian Việt cổ thể hiện toàn diện tài năng sáng tạo.
Trước hết về mặt tạo dáng. Kiểu dáng trống đồng, thạp đồng mang những đặc điểm có tính thẩm mỹ cao. Do kế thừa kiểu dáng gốm Phùng Nguyên, kết cấu trống đồng chia làm 3 phần:
Tang trống phình vừa phải, thân trống là hình viên trụ thót dần về phía dưới, chân trống hình nón cụt hơi choãi ra về phía đáy.
Dáng trống chững chạc, cân xứng, hài hòa, gọn một cách giản đơn.
Cái đẹp ở đây là ổn định về tỷ lệ giữa 3 phần của trống, độ phình tang trống, độ thót thân trống vừa phải, độ choãi chân trống nhẹ nhàng.
Kết cấu hình khối của thạp, loại có nắp thì nằm gọn trong hình bầu dục.
Phần trên của thạp và phần dưới hơi thót vào, đoạn giữa phình vừa phải. Dáng thạp nghiêm túc, dịu dàng.
Kết cấu 3 phần đồ gốm, của trống và thạp đồng là kết quả phát triển tư duy thẩm mỹ trong quá trình tìm tòi nhằm tạo những sản phẩm cân đối, vững vàng mà hài hòa, thanh thoát.
Dao găm có cán hình người, rìu đồng lưỡi xéo các kiểu, đẹp độc đáo là những thí dụ tiêu biểu khác của thành tựu tạo dáng trong nền mỹ thuật Việt cổ.
NGHỆ THUẬT VẼ HÌNH TRÊN GỖ, TRÊN DA
Thời gian và khí hậu huỷ hoại mất phần lớn những hình vẽ trên các chất liệu không bền chắc.
Người Việt cổ có tục xăm mình:
Đứng về góc độ mỹ thuật, tục lệ này là hình thức vẽ màu đặc biệt trên da thịt.
Một số mảnh gỗ và da thú có vẽ sơn còn sót lại đến nay với nước sơn còn bóng, màu sơn còn tươi đẹp, như các di vật tìm thấy trong quan tài ở mộ Việt Khê cũng chứng tỏ ở thời dựng nước phổ biến hình thức vẽ bằng màu, ít nhất cũng có hình thức vẽ phẩm và vẽ sơn. Những màu sắc:
Vàng, đỏ gạch, xám, nâu, cánh gián, đen cùng những màu sắc của các màu ấy.
Đề tài vẽ màu trên gỗ, trên da mà người Việt cổ ưa thích là các hoa văn hình học và các hình động vật:
Những vòng tròn đồng tâm, hình thoi, hình tam giác, hình hoa lá, hình rồng rắn.
Các loại hoa văn hình học phức tạp hơn, các hình vẽ khéo léo hơn, hiện thực hơn về người, động vật, phong cảnh là đề tài nghệ thuật vẽ hình trên đồ gốm và đồ đồng.
Đó là những hoa văn khắc chìm trang trí các đồ gốm, những hoa văn khắc chìm và chạm nổi trang trí trên đồ đồng: Người xưa vẽ trên đất rồi đem nung hoặc đổ khuôn.
NGHỆ THUẬT CHẠM KHẮC TRÊN ĐỒ GỐM, ĐỒ ĐỒNG
Do chất liệu tương đối bền vững, đồ gốm và đồ đồng đã trở thành những bằng cứ phong phú và quý báu của nghệ thuật khắc họa thời đại dựng nước còn để lại dấu vết cho tới nay.
Đồ gốm được trang trí hoa văn bằng cách: Vạch, chải, in, đập, ấn, ghép.
Sáu cách tạo hoa văn ấy chứng tỏ rằng kỹ thuật trang trí đồ gốm đã tinh vi, trình độ nghệ thuật của người thợ gốm đã khá cao.
Từ những yếu tố hình học giản đơn như đuờng thẳng, đường cong, chấm tròn và vòng tròn, những đường song song chạy thẳng hoặc uốn lượn, những hình vuông, hình chữ nhật, hình tam giác.. đến những mảnh trang trí hình răng lược, hình sóng nước, hình mắt lưới, hình nhài quạt.. nghệ sĩ Việt cổ phối hợp các yếu tố hình học giản đơn thành những đồ án hoa văn kỷ hà phong phú, phức tạp, đặc sắc, vừa mang tính chất trang trí, vừa có ý nghĩa tượng trưng.
Hoa văn sóng nước có lẽ biểu hiện sông, suối; hoa văn vạch thẳng song song biểu hiện mưa.
Hoa văn tam giác biểu hiện núi, các loại hoa văn cuốn chữ S biểu hiện mây, chớp; hoa văn vòng tròn đơn, kép, liên kết hoặc không liên kết thành dải có lẽ thể hiện những khái niệm ước lệ rất đơn giản về trời đất, sinh vật.
Hoa văn thường bố cục theo từng dải tròn chạy chung quanh bề mặt tròn của đồ đựng và thường bị chi phối bởi những nguyên tắc luật đối xứng.
Người thời Hùng Vương ưa trang trí đồ gốm bằng các dải hoa văn có kết cấu phức tạp gồm những tiết liên tục (nối liền nhau) hay rời.
Các họa tiết đóng kín, rời hay nối nhau đó thường đối xứng nhau theo nguyên tắc đối xứng gương, đối xứng trục hay đối xứng tịnh tiến.
Như vậy người thời Hùng Vương có ý niệm rõ ràng về đối xứng và biết 3 kiểu đối xứng khác nhau từ đơn giản đến phức tạp. Đặc biệt quen thuộc là các đồ án đối xứng trục bậc 2.
Đối với người thời xa xưa ấy cũng như đối với chúng ta nay, đối xứng là yếu tố của cái đẹp:
Những đồ án có đối xứng gương thường gây cảm giác tĩnh, vững chắc, nghiêm trang, những đồ án có đối xứng trục thì trái lại, gây cảm giác động, rộn ràng, linh hoạt.
Nhiều bố cục ở nghệ thuật trang trí đồ gốm, nghệ sĩ thời Hùng Vương kết hợp tài tình cả hai kiểu đối xứng động và tĩnh ấy làm đồ án vững chắc mà không cứng nhắc, linh hoạt mà không giảm phần trang trọng[1] .
Tính đối xứng và tính hài hòa những hoa văn trang trí trên gốm được tôn trọng và phát triển như những nguyên tắc quan trọng của nghệ thuật Việt cổ.
Trên đồ đồng, lối chạm khắc chìm và chạm nổi kết hợp để tạo những bố cục trang trí hoàn hảo:
Các bố cục hoa văn phù hợp một cách hữu cơ với những bề mặt bên ngoài trống đồng, thạp đồng: Các diềm trang trí phân bố đều đặn giữa những đường tròn đồng tâm trên mặt trống, nắp thạp.
Các dải hoa văn chạy tròn chung quanh tang trống, thân thạp, các băng hoa văn thể hiện theo chiều thẳng đứng của thân trống..
Tất cả kết cấu hài hòa, có thể nói là khoa học đó, chứng tỏ trình độ thẩm mỹ cao nghệ sĩ dân gian thời Hùng Vương.
Các kết cấu hoa văn mang tính cân đối và tính nhịp điệu thật đặc sắc, bút pháp trang trí bao gồm kỹ thuật khắc vạch bằng đường nét chuẩn xác, thuần thục, khái quát sinh động các đối tượng miêu tả.
Ở chính giữa mặt trống và nắp thạp luôn có hình mặt trời biểu hiện ước lệ bằng hình ngôi sao nhiều cánh, từ 8 đến 16 cánh.
Những vành hoa văn hình học vây xung quanh mặt trời; những vành hoa văn miêu tả sinh hoạt thực tiễn của con người, miêu tả thiên nhiên, cầm thú.
Mặt trống đồng Ngọc Lũ giống cuốn phim hào hứng làm hiện ra trước mắt khung cảnh sinh hoạt, quang cảnh hội hè làng xưa chạ cổ; trong 4 nhà sàn (2 nhà mái cong, 2 nhà mái tròn) có những người đánh chiêng đánh cồng, những đôi gái trai vừa hát đối đáp vừa chơi trò trồng nụ trồng hoa.
Bên cạnh nhà là 2 giàn trống với những người đang đứng ngồi giã trống, với những đôi gái trai đứng giã gạo chày tay, với những nhóm người (hay đám rước) vừa đi vừa múa sênh phách, thổi khèn, đánh chuông nhạc, quần tụ chung quanh con người đang mở hội cầu mùa, mừng công.. là cả thế giới động vật thân quen:
Gà (đứng trên mái nhà sàn), những đàn hươu nai đang đi, xen kẽ với những bầy chim đang bay hay đang đậu đủ loại, mỏ dài, đuôi dài, chân dài, cổ dài, đuôi ngắn, hoặc cổ ngắn đuôi ngắn:
Cò vạc, bồ nông, xít, giang, sếu, công, trĩ, phượng hoàng đất, bói cá, cun cút.. mỗi con mỗi vẻ.
Ở tang trống Ngọc Lũ, 6 thuyền lớn đang rong ruổi, trên thuyền có người bẻ lái, nguời đánh trống, người cầm lao, người bắn cung, có những nạn nhân thân phận bé nhỏ (nô lệ hay tù binh) bị trói giật khuỷu tay, bị túm tóc, bị dọa giết. Ở thân trống, những vũ sĩ cầm lao, cầm rìu chiến.
Trên các trống đồng và đồ đồng khác hiện ra cảnh đua thuyền, đi thuyền đánh cá, cảnh đi săn, cảnh những người vũ trang sẵn sàng chiến đấu, những hình ảnh động vật quen thuộc với con người đương thời:
Chó, gà, cóc, nhái, cầy cáo, cá sấu..
Chủ nghĩa hiện thực hồn nhiên, sinh động có pha cách điệu và ước lệ nhưng vẫn rất gần gũi với cuộc sống, bao trùm toàn bộ hình thức diễn đạt mảng nghệ thuật trang trí này.
Nghệ sĩ dân gian ưa dùng những đường thẳng, đường gãy khúc và đường cong lớn, mà ít tỉa tót, uốn lượn của những đường cong nhỏ, để tả các đối tượng (người, cảnh vật, sinh vật, đồ vật) ở mặt cạnh, mặt nghiêng theo lối bổ cắt, hoàn toàn tôn trọng sự thực đến từng chi tiết và sắp đặt trong bố cục đầy đặn, hài hòa.
Người, chim, thuyền, hươu.. không bao giờ thấy có mặt nhìn thẳng mà chỉ thấy nhìn từ một bên. Qua lần mái nhà, có thể thấy cảnh trong nhà, qua lần váy xoè có thể thấy đôi chân.
Nghệ sĩ dân gian chú ý dùng những ký hiệu để phân biệt, trong toàn cảnh lớn, từng lối để tóc búi hay cắt tóc ngắn của người, giống đực hay giống cái của hươu nai.
Kỹ thuật chạm khắc bằng những đường nét cô đọng, chính xác thuần thục điêu luyện, với tài quan sát thiên nhiên và hoạt động thực tiễn của con người nhạy bén, nghệ sĩ dân gian thời Hùng Vương sáng tạo những bức tranh sinh hoạt của con người Việt cổ, chân thật, khái quát, chọn lọc và thể hiện chủ đề khá rõ ràng.
NGHỆ THUẬT TẠO TƯỢNG
Dòng máu chân thực cuộc sống cũng rõ nét trong nghệ thuật tạo tượng.
Những tượng còn để lại tới nay phần lớn là tượng nhỏ, tượng tròn.
Chất liệu làm tượng là đá, đất nung, đồng thau và những thủ pháp kỹ thuật chính là nặn tay, đúc, rèn, mài gọt.
Đề tài chính của tượng là con người, phần nhiều là ở trạng thái động:
Nhảy múa, thổi khèn, yêu đương.. Đó là những nhóm tượng; một số khác là tượng chân dung và hầu hết đều là chân dung phụ nữ.
Tượng người bằng đá ở Văn Điển (Hà Nội) với dấu hiệu nam tính rõ ràng tạo bằng kỹ thuật chế tác đá tổng hợp và tinh tế theo ước lệ có cân nhắc kĩ càng và khái quát hóa cao.
Tính chất nghiêm túc cứng cỏi khắc khổ của tượng cho thấy có lẽ nghệ sĩ bị chi phối bởi ý thức tôn giáo.
Tượng người ngồi xổm thổi khèn (trên cán muôi đồng Việt Khê, Hải Phòng) diễn tả sinh động sắc thái bình dị ung dung con người gắn nội tâm rạo rực, say sưa.
Khối tượng hai người cõng nhau múa nhảy và thổi khèn ở Đông Sơn (Thanh Hóa) trông thật dí dỏm, lạc quan, cả hai đều như nhún nhảy theo nhịp khèn rộn rịp.
Nhóm tượng cặp gái trai gắn bó trên nắp thạp Đào Thịnh (Yên Bái) có hình khối tròn lẳn diễn tả cái mộc mạc bình dị hồn nhiên của ước mơ phồn thực: Con người sinh sôi, đất đai phì nhiêu, mùa màng bội thu.
Những chuôi dao găm làm thành tượng phụ nữ ở Hòa Bình, Hải Phòng, Thanh Hóa, Nghệ An - Hà Tĩnh.. cho thấy tính nghệ thuật, dù phải phục vụ tính thực dụng vẫn phản ánh khá rõ nét lối trang sức của chị em thời ấy, toát vẻ đẹp riêng nữ giới.
Tính hiện thực nâng cao giá trị các tượng vừa có ý nghĩa trang trí vừa có ý nghĩa thực tiễn này:
Lối vấn tóc hay tết tóc, lối mặc váy dài thắt chẽn ở hông, lối trang sức bằng vòng tay, hoa tai.. là những chi tiết nghệ sĩ dân gian chú ý diễn tả.
Trên ấm đồng Đông Sơn có hình dáng chim cổ dài mỏ dài, nghệ sĩ miêu tả 4 phụ nữ ngồi trên voi ấm hình cổ con chim cùng những nét hiện thực khá rõ, nhất là chi tiết lối búi tóc ra đằng sau.
Cùng tượng người, tượng súc vật cũng tả sinh động. Tượng đầu gà trống, tượng chim, tượng bò tìm được ở Vĩnh Phú đều nặn bằng đất sét nung đều lửa, trông rất thật thà, phản ánh nền kinh tế chăn nuôi gia đình đã ổn định.
Tượng gà bằng đồng ở Hòa Bình khái quát cô đọng mà thật duyên dáng, phong cách hiện thực vững vàng. Hàng chục tượng động vật tìm được:
Tượng cóc, sóc, rùa, chó, hổ, ốc.. có những nhóm tượng tả con vật ở trạng thái động như chó đón hươu, hổ vồ mồi.
Ở những dao găm có chuôi đẹp mới thấy tại di chỉ Làng Vạc (Nghệ Tĩnh), có chuôi kết thúc bằng tượng hình chó đứng được cách điệu hóa, có chuôi là hình 2 con rắn, 1 con có mào, 1 con không có mào, quấn lấy nhau, đầu ngẩng cao, miệng ngậm hai chân trước và hai chân sau voi có bành ở trên lưng.
Dao găm khác cũng cùng phong cách ấy nhưng voi thay bằng chó.
Voi, chó cùng rắn kết hợp khéo léo thành các cán dao găm vừa thanh thoát và duyên dáng mà không kém phần chắc chắn[2] . Nghệ sĩ dân gian kết hợp tài tình giữa trang trí và thực dụng.
Như trong lĩnh vực chạm khắc, chủ nghĩa hiện thực hồn nhiên và sinh động để lại dấu ấn sâu sắc trong phương pháp và phong cách tạo tượng.
Trên mỗi tác phẩm nhỏ nhắn xinh xắn ấy, từ những vòng tay và hoa tai, những đường nét trang trí trên xống áo, vẻ say sưa, nghiêm trang hay ngộ nghĩnh, hóm hỉnh của con người.. đến dáng nhún mình của chó, thế vặn mình của hổ, nét khái quát thanh tao của gà.. đều chú ý tả đúng đắn và kĩ.
Cốt cách và chủ đề con người hay con vật được nghệ sĩ chú ý nhận chân. Miêu tả người, nghệ sĩ dân gian cũng chú ý diễn đạt cả những sắc thái nội tâm, tính tình.
Người thổi khèn ở Việt Khê bình dị, ung dung mà vẫn say sưa nhiệt tình, hai người cõng nhau thổi khèn nhảy múa trông rất lạc quan yêu đời mà đượm vẻ hóm hỉnh tinh nghịch.
Phong cách nghệ thuật phóng khoáng ấy phản ánh phần nào tâm hồn phóng khoáng, sôi nổi con người thời đại.
Phần lớn những tượng đều là tượng trang trí hoặc giúp trang trí:
Được gắn vào các đồ dùng hay thành một bộ phận hữu cơ của đồ dùng như vòi ấm, chuôi kiếm, chuôi dao, cán muôi.
Một số ít là tượng mang tính tôn giáo, phục vụ tín ngưỡng tôn giáo tự nhiên, tín ngưỡng vật Tổ, tín ngưỡng phồn thực.
MỸ THUẬT THỰC DỤNG TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY
Sản phẩm nghệ thuật Việt cổ có một bộ phận quan trọng là những đồ nghề, đồ dùng hàng ngày.
Đưa thẩm mỹ vào thực dụng, từ cuộc sống bình thường mà phát triển thành mỹ thuật, là khuynh hướng dễ thấy của người thời đại Hùng Vương.
Nhiều vật dụng bình thường cũng đồng thời là sản phẩm nghệ thuật.
Từ những nồi, bình, mâm bồng bằng gốm giản đơn đến những trống đồng quý giá, tất cả đều chú ý trong quá trình tạo dáng.
Kết cấu 3 phần của chúng ta là kết quả quan trọng trên con đường tìm tòi suy nghĩ nhằm tạo những sản phẩm cân đối, vững vàng mà thanh thoát, uyển chuyển.
Những rìu đồng có lưỡi xéo các kiểu, đẹp độc đáo là ví dụ tiêu biểu khác của thành tựu tạo dáng cho các vật dụng hàng ngày.
Nghệ thuật vẽ hình, chạm khắc và tạo tượng mang chức năng trang trí phong phú và đặc sắc.
Những đoản kiếm và dao găm đồng thau có chuôi làm bằng những tượng phụ nữ là trường hợp điển hình thành tựu trang trí cho các đồ dùng hàng ngày, kết hợp nhuần nhị sản phẩm thực dụng với sản phẩm thẩm mỹ, trống đồng là đỉnh cao thành công tổng hợp về nghệ thuật tạo dáng, chạm khắc, trang trí và nghệ thuật âm nhạc, một văn vật tiêu biểu cho thời đại văn minh.
Những đồ trang sức phát triển rất phong phú là thành tựu đặc sắc mỹ nghệ thời Hùng Vương:
Vòng tay, hoa tai, nhẫn, hạt chuỗi bằng đá quý, đồng thau được gia công bằng kỹ thuật chế tác tinh xảo, với khiếu năng thẩm mỹ tinh tế làm đẹp cho con người.
Các nghề thêu, nạm, cẩn làm tôn giá trị thẩm mỹ của quần áo và các đồ dùng, đồ đựng bằng gỗ, bằng da còn để lại đến nay những sản phẩm hoặc hình ảnh cụ thể:
Đồ da sơn có nạm cẩn những hình kỷ hà bằng kim loại tìm được ở Việt Khê (Hải Phòng) ; nhiều mẫu quần áo có trang trí đẹp của nhiều tượng phụ nữ tìm được ở nhiều nơi:
Thanh Hóa, Hòa Bình, Lào Cai, Yên Bái..
Các công trình xây dựng:
Nhà làng, nhà ở, nhà kho (nhà làng vùng Mường, ngôi nhà rông Tây Nguyên và đình miền xuôi nay còn phảng phất dáng dấp) có kiểu hay, dáng đẹp, cấu trúc độc đáo.
Trang trí thêm những hình chim, hình gà.. càng tăng thêm giá trị thẩm mỹ thực dụng.
Những thuyền đi sông, đi biển, thuyền chiến, thuyền đua cũng có nhiều kiểu dáng đẹp:
Mũi cong, đuôi én, thân thuyền trang trí những hình kỷ hà quen thuộc như chấm tròn, vòng tròn có tiếp tuyến, đoạn thẳng song song, đường gãy khúc.
MỘT NỀN NGHỆ THUẬT BÌNH DỊ HIỆN THỰC VÀ PHÓNG KHOÁNG
Mỹ thuật thời Hùng Vương trong mọi lãnh vực:
Vẽ tranh, chạm khắc, tạo tượng và mỹ nghệ đều bắt nguồn từ cuộc sống thực tiễn con người và trở lại hòa lẫn trong cuộc sống đó.
Nội dung phản ánh là những người Việt cổ bình dị, gắn bó với cộng đồng làng chạ và những sinh hoạt bình thường, những con vật phần lớn hiền hòa, những chủ đề trang trí dịu dàng, duyên dáng tế nhị.
Đó là nền mỹ thuật của xã hội nông thôn mà vai trò quần chúng rất quan trọng.
Tính chất dân chủ trong làng chạ đưa đến tính chất dân chủ trong nghệ thuật biểu hiện ở những kích thước đều nhau của các đối tượng:
Hình người thường theo những tỉ lệ vừa phải, những khuôn mẫu giống nhau.
Mỹ thuật thời Hùng Vương chưa thấy xuất hiện những hình tượng quái đản, những cảnh tượng dữ dội, những nhân vật quyền uy (thần, vua) như trong nghệ thuật một số quốc gia phương Đông cổ đại như ở:
Ấn Độ, Ai Cập, Lưỡng Hà, chưa thấy xuất hiện những hình mẫu mang tính chất thần thoại, huyền bí lối thao thiết như trong nghệ thuật thời đại đồ đồng ở Trung Quốc.
Nền nghệ thuật thời đại dựng nước, luôn nổi bật tính bình dị, hiện thực phóng khoáng về cuộc sống dân chủ bình đẳng của cộng đồng làng chạ Việt cổ.
Nền nghệ thuật ấy mang mục đích trang trí rất rõ và nhiều khi mang chức năng thực dụng, do đó trở nên phổ biến.
Mặt khác nó phản ánh trung thành thực tiễn xã hội và tình cảm, tư duy con người, nói lên bản chất cần cù say sưa lao động tập thể (đi thuyền, đánh cá, giã gạo).
Bản chất hồn hậu, lạc quan yêu đời, yêu nghệ thuật, yêu cuộc sống cộng đồng (hội hè múa hát tập thể) nó phản ánh những ước mơ về con đàn cháu lũ, mùa màng bội thu, những khái niệm về vũ trụ, những thực trạng xã hội, tinh thần cảnh giác sẵn sàng chiến đấu, ý chí quyết thắng bảo vệ lãnh thổ, giống nòi.
Nền nghệ thuật mang nội dung hiện thực ấy ghi lại truyền thống vừa sản xuất vừa đánh giặc của Tổ tiên, nay chúng ta đang phát huy lên đỉnh cao.
Tính hiện thực sâu sắc đi đôi nét cách điệu khéo léo, phong cách hồn nhiên trong sáng, phóng khoáng, kỹ thuật phát triển, với những tỉ lệ chuẩn xác, kết cấu hài hòa, cân xứng, vững chắc..
Tất cả chứng minh cho năng khiếu và trình độ thẩm mỹ cao người Việt cổ.
Vì thế nền nghệ thuật thời Hùng Vương có những ảnh hưởng lâu dài và xa rộng ở nhiều miền của Đông Nam Á.
Nước ta, truyền thống nghệ thuật cổ xưa ấy vẫn giữ gìn bền bỉ:
Trống đồng vẫn chế tạo trong thời Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Bí, thời Lý - Trần, thời Tây - Sơn[3] ; dân tộc Mường anh em vẫn giữ tục lệ đúc trống đồng đến đầu TK. 19.
Tài năng những nghệ sĩ dân gian đầu tiên với những thành tựu độc đáo của nền văn hóa nhân dân rực rỡ cách đây nhiều nghìn năm thành niềm tự hào sâu xa trong tư tưởng và tình cảm của dân tộc ta.
[1] . Hà Văn Tấn. Người Phùng Nguyên và đối xứng, tạp chí Khảo cổ học, số 3-4 (1969), tr 16-27.
[2] . Minh Hiên, Di sản văn hóa Đông Sơn mới tìm được, tạp chí Văn hóa Nghệ Thuật, số 34, tháng 10/1973
[3] . Trống đồng đúc thời Tây Sơn hiện trưng bày tại Viện Bảo tàng Lịch sử.
Nguồn
Web chimviet
Vài nét về nghệ thuật biểu diễn thời Hùng Vương
Các trống đồng, đặc biệt trống Ngọc Lũ (Hà Nam) và Hoàng Hạ (Hà Tây) những hình chạm thể hiện sinh hoạt xã hội và nghệ thuật thời Hùng Vương tiêu biểu là các trống đồng.
Trống thường bằng da, nhưng trống đồng không dùng thường xuyên mà để phục vụ cho các nghi lễ quan trọng như lễ cầu mưa, lễ xuất quân, lễ mừng chiến thắng hay lễ đăng quang.
Trống đồng Ngọc Lũ có hình người đánh trống là nữ ngồi cầm dùi đâm theo chiều thẳng từ trên xuống mặt trống.
Phần chân trống rỗng đặt úp xuống hố cộng hưởng tạo độ rung khuếch đại âm thanh, tiếng trống cất lên nghiêm trang, hùng tráng và sôi động.
Trống đồng thời Hùng Vương vẫn dùng lâu dài ở nước ta qua Lý, Trần, Lê, nay ở vùng Mường – Hòa Bình và Phú thọ còn tục đâm trống đồng, còn gọi chàm thau trong lễ cầu mưa và đón mừng năm mới.
Bên trống đồng là cồng chiêng, nhạc khí bằng đồng hình tròn có núm ở giữa.
Các hình ở trống đồng Ngọc Lũ thấy những cồng đặt trong nhà sàn, chia làm hai bên, một người đứng giữa hai tay cầm dùi đánh cả hai giàn.
Hiện người Mường và người Ba-Na, Ê-Đê – Tây Nguyên vẫn có những giàn cồng đủ bộ, ít nhất 5 chiếc, có giàn 18 chiếc.
Người Thượng – Tây Nguyên, cồng là nhạc khí mà còn là vật biểu hiện quyền lực và giàu có của chủ nhân.
Người Việt cũng dùng cồng, thường gọi chiêng, trong lễ hội hay tang ma, nhưng là cồng lẻ dùng điểm nhịp theo tiếng trống cái.
Ngoài trống đồng và cồng còn nhiều nhạc khí cũng được khắc họa, trang trí trên các trống đồng như khèn, trống da với trống lớn (trống cái) và trống con (trống bản, trống khẩn), sênh, phách, chuông, nhạc.
Người đánh trống cái đứng gõ dùi vào mặt trống, trống đặt nằm ngang trên giá đỡ, đánh trống là nữ váy xòe hai bên, đánh trống con là nam ngồi phệt trên đất, gõ bằng cả hai tay cầm dùi.
Khèn là nhạc khí phổ biến thời Hùng Vương, hình dạng khèn trên trống đồng không khác khèn của người H'Mông nay, như vậy Tổ tiên rất xa của khèn H'Mông là khèn Văn Lang.
Không chỉ trên trống đồng ở Hà Tây và Hà Nam mới thấy hình khèn mà ở Đông Sơn (Thanh Hóa) cũng phát hiện rìu đồng có cán chạm hình người cõng nhau thổi khèn, cán đồng Việt Khê (Hải Phòng) cũng có hình người ngồi xổm thổi khèn.
Khèn là nhạc khí phổ biến của người Việt cổ, nay chỉ thấy ở vùng người H'Mông.
Những nhạc khí nói lên sinh hoạt văn nghệ thời Hùng Vương, trên trống đồng ta còn những thông tin ca hát và nhảy múa.
Hình người, một nam, một nữ giao chân, giao tay nhau, miệng hé mở mà một số nhà nghiên cứu cho là trò chơi "trồng nụ trồng hoa" là hình thức ca hát giao duyên nam nữ mà Ngô Sĩ Liên nói tới ĐVSKTT.
Vua Lê về thăm Thanh Hóa, dân địa phương đón, hát lý liên hay rí ren, trai gái bá vai níu cổ nhau hát.
Phú Thọ còn bảo lưu hát đối đáp nam nữ mà từng cặp vừa hát vừa cầm tay nhau co đi kéo lại, chân giao chân chẳng khác hình chạm vẽ trên trống đồng.
Hình đôi nam nữ giã gạo chày đôi, miệng há ra, là hình thức hò giã gạo rất phổ biến ở miền Trung.
Trống đồng còn những hình người nhảy múa, hoặc múa hóa trang đeo lông chim, múa tay cầm sênh phách, múa khèn, múa vũ khí, có thể nói nghệ thuật múa thời Hùng Vương phát triển cao.
Nghệ thuật biểu diễn thời Hùng Vương vừa là sinh hoạt vui chơi tập thể, vừa là hình thức nghệ thuật lễ nghi mang tính cộng đồng, tinh thần lạc quan yêu đời, biểu hiện đời sống tinh thần phong phú, giàu sinh lực. Đáng chú ý hầu hết các nhạc khí đều do nữ biểu diễn:
Trống đồng, cồng chiêng, trống con, chuông nhạc và phách, riêng khèn có khèn nam và khèn nữ, nói lên vị trí quan trọng phụ nữ trong xã hội, tinh thần dân chủ và vai trò phụ nữ trong đời sống văn hóa thời Vua Hùng dựng nước.
Nguồn
Web daytot
Còn tiếp