二十二、所长无用Sở trường vô dụng 有个鲁国人擅长编草鞋,他妻子擅长织白绢。他想迁到越国去。友人对他说: "你到越国去,一定会贫穷的。" "为什么?" "草鞋,是用来穿着走路的,但越国人习惯于赤足走路;白绢,是用来做帽子的,但越国人习惯于披头散发。凭着你的长处,到用不到你的地方去,这样,要使自己不贫穷,难道可能吗?" Có một người nước Lỗ sở trường là đan giày cỏ, sở trường vợ anh ta là dệt lụa trắng. Anh ta muốn chuyển tới nước Việt. Người bạn nói với anh ta: "Anh tới nước Việt, nhất định sẽ bần hàn". "Vì sao?" "Giày cỏ, là dùng để mang đi đường, nhưng người của nước Việt lại quen với việc đi chân trần; Lụa trắng, dùng để làm mũ, nhưng người nước Việt quen với việc để tóc tai bù xù. Dựa vào sở trường của anh, không có chỗ để dùng, như vậy, muốn mình không bần hàn, lẽ nào có thể sao?" 这个故事告诉人们:一个人要发挥其专长,就必须适合社会环境需要。如果脱离社会环境的需要,其专长也就失去了价值。因此,我们要根据社会得需要,决定自己的行动,更好去发挥自己的专长。Câu chuyện này nói với chúng ta: Một người muốn phát huy sở trường, buộc phải có hoàn cảnh xã hội thích hợp. Nếu thoát khỏi yêu cầu hoàn cảnh xã hội, thì sở trường cũng mất đi giá trị. Vì thế, chúng ta phải theo yêu cầu của xã hội, quyết định hành động của mình, càng dễ phát huy sở trường của mình hơn. Nguồn: Sưu tầm, translated by Thu Trần. (Còn tiếp)
二十三、佛塔上的老鼠Con chuột trên bảo tháp 一只四处漂泊的老鼠在佛塔顶上安了家。Một con chuột lang thang khắp nơi rồi an cư trên đỉnh bảo tháp. 佛塔里的生活实在是幸福极了,它既可以在各层之间随意穿越,又可以享受到丰富的供品。它甚至还享有别人所无法想象的特权,那些不为人知的秘笈,它可以随意咀嚼;人们不敢正视的佛像,它可以自由休闲,兴起之时,甚至还可以在佛像头上留些排泄物。Cuộc sống trong bảo tháp thật sự rất hạnh phúc, nó có thể tùy ý chui khắp các tầng, lại có thể hưởng thụ đồ cúng phong phú. Nó thậm chí còn có được đặc quyền mà người khác không cách nào tưởng tượng được, những tráp sách mật mà người khác không biết, nó có thể tùy ý gặm nhấm; Người đời không dám nhìn thẳng vào tượng phật, nó có thể tự do nhàn nhã, lúc phấn khích, thậm chí còn có thể để lại chất thải trên đầu tượng phật. 每当善男信女们烧香叩头的时候,这只老鼠总是看着那令人陶醉的烟气,慢慢升起,它猛抽着鼻子,心中暗笑: "可笑的人类,膝盖竟然这样柔软,说跪就跪下了!" Mỗi lúc thiện nam tín nữ thắp nhang khấu đầu, con chuột này đều nhìn làn khói khiến người ta ngây ngất, từ từ bay lên, nó chau mũi mãnh liệt, trong lòng cười thầm: "Loại người nực cười, đầu gối lại mềm như vậy, nói quỳ là quỳ!" 有一天,一只饿极了的野猫闯了进来,它一把将老鼠抓住。Có một hôm, một con mèo hoang đang rất đói, nó vồ một cái liền bắt chặt lấy con chuột. "你不能吃我!你应该向我跪拜!我代表着佛!" 这位高贵的俘虏抗议道。 "Ngươi không thể ăn ta! Lẽ ra ngươi phải quỳ lạy ta! Ta đại diện cho phật!" Vị tù binh cao cấp này kháng nghị. "人们向你跪拜,只是因为你所占的位置,不是因为你!" "Người đời quỳ lạy ngươi, chỉ là vì chỗ ngươi chiếm lấy, không phải là vì ngươi!" 野猫讥讽道,然后,它像掰开一个汉堡包那样把老鼠掰成了两半。Mèo hoang cười nhạo nói, sau đó, nó xé con chuột thành hai mảnh như một cái hamburger. Nguồn: Sưu tầm, translated by Thu Trần. (Còn tiếp)
二十四、钢玻璃杯的故事Câu chuyện chiếc ly nhựa thủy tinh 一个农民,初中只读了两年,家里就没钱继续供他上学了。他辍学回家,帮父亲耕种三亩薄田。在他19岁时,父亲去世了,家庭的重担全部压在了他的肩上。他要照顾身体不好的母亲,还有一位瘫痪在床的祖母。Một người nông dân, sơ trung chỉ học được hai năm, nhà không có tiền cho anh ta tiếp tục học nữa. Anh ta bỏ học về nhà, phụ giúp cha làm ba mẫu ruộng bạc màu. Khi anh ta 19 tuổi, thì cha qua đời, gánh nặng gia đình đè lên vai anh ta. Anh ta phải chăm sóc mẹ sức khỏe không được tốt, còn có bà nội nằm liệt trên giường. 八十年代,农田承包到户。他把一块水洼挖成池塘,想养鱼。但乡里的干部告诉他,水田不能养鱼,只能种庄稼,他只好又把水塘填平。这件事成了一个笑话,在别人的眼里,他是一个想发财但有非常愚蠢的人。Những năm 80, chính sách hợp đồng nông hộ. Anh ta đem vũng nước vét thành cái ao, muốn nuôi cá. Nhưng cán bộ trong thôn nói với anh ta, ruộng không được nuôi cá, chỉ được trồng trọt, anh ta chỉ còn biết lắp lại cái ao. Chuyện này đã thành một câu chuyện cười, trong mắt người khác, anh ta là một người muốn phát tài nhưng lại vô cùng ngu ngốc. 听说养鸡能赚钱,他向亲戚借了500元钱,养起了鸡。但是一场洪水后,鸡得了鸡瘟,几天内全部死光。500元对别人来说可能不算什么,对一个只靠三亩薄田生活的家庭而言,不啻天文数字。他的母亲受不了这个刺激,竟然忧郁而死。Nghe nói nuôi gà có thể kiếm tiền, anh ta mượn của người thân 500 đồng, nuôi gà. Nhưng sau một trận hồng thủy, gà bị dịch, trong mấy ngày đều chết sạch. 500 đồng với người khác mà nói không tính là gì, đối với một gia đình chỉ dựa vào ba mẫu ruộng bạc màu để sống mà nói, giống như con số thiên văn. Mẹ anh ta vì không chịu nổi đả kích này, rồi buồn phiền mà chết. 他后来酿过酒,捕过鱼,甚至还在石矿的悬崖上帮人打过炮眼.. 可都没有赚到钱。Sau đó anh ta từng ủ rượu, từng đánh bắt cá, thậm chí còn giúp người ta làm lỗ châu mai cho mỏ khoáng trên vách đá cheo leo.. nhưng vẫn không kiếm được tiền. 35岁的时候,他还没有娶到媳妇。即使是离异的有孩子的女人也看不上他。因为他只有一间土屋,随时有可能在一场大雨后倒塌。娶不上老婆的男人,在农村是没有人看得起的。35 tuổi, anh ta vẫn chưa cưới được vợ. Dù là người phụ nữ có con đã li dị chồng cũng không để mắt tới anh ta. Vì anh ta chỉ có một căn nhà đất, rất có thể sập bất kỳ lúc nào mỗi khi có mưa lớn. Người đàn ông không cưới được vợ, ở nông thôn sẽ không được ai xem trọng. 但他还想搏一搏,就四处借钱买一辆手扶拖拉机。不料,上路不到半个月,这辆拖拉机就载着他冲入一条河里。他断了一条腿,成了瘸子。而那拖拉机,被人捞起来,已经支离破碎,他只能拆开它,当作废铁卖。Nhưng anh ta vẫn muốn chiến đấu thêm lần nữa, vay mượn khắp nơi mua một cái máy xới. Không ngờ, chưa tới nửa tháng, chiếc máy xới chở anh ta văng xuống một con sông. Anh ta bị mất một chân, thành tên què. Còn chiếc máy xới đó, được người ta vớt lên, đã vỡ nát từng mảnh, anh ta chỉ có thể tháo rời nó, bán phế liệu. 几乎所有的人都说他这辈子完了。Dường như mọi người đều nói anh ta đời này coi như xong rồi. 但是后来他却成了我所在的这个城市里的一家公司的老总,手中有两亿元的资产。现在,许多人都知道他苦难的过去和富有传奇色彩的创业经历。许多媒体采访过他,许多报告文学描述过他。但我只记得这样一个情节-Nhưng sau này anh ta lại thành lão tổng của một công ty nơi thành phố tôi sống, trong tay có tài sản trị giá hai tỷ. Bây giờ, rất nhiều người đều biết quá khứ vất vả và kinh nghiệm lập nghiệp vô cùng thần kỳ của anh ta. Rất nhiều đài truyền hình phỏng vấn anh ta, rất nhiều báo cáo văn học miêu tả anh ta. Nhưng tôi chỉ nhớ mỗi một tình tiết. 记者问他: "在苦难的日子里,你凭什么一次又一次毫不退缩?" Ký giả hỏi anh ta: "Trong những ngày tháng khó khăn, ông dựa vào đâu hết lần này tới lần khác vẫn không lùi bước?" 他坐在宽大豪华的老板台后面,喝完了手里的一杯水。然后,他把玻璃杯子握在手里,反问记者: "如果我松手,这只杯子会怎样?" Anh ta ngồi trên ghế ông chủ sau cái đài rộng lớn hào hoa, uống xong ly trà trong tay. Sau đó, anh ta cầm chiếc ly thủy tinh trong tay, hỏi ngược lại ký giả: "Nếu tôi buông tay, chiếc ly này sẽ thế nào?" 记者说: "摔在地上,碎了。" Ký giả nói: "Rơi xuống đất, vỡ nát." "那我们试试看。" 他说。 "Vậy chúng ta thử xem." Anh ta nói. 他手一松,杯子掉到地上发出清脆的声音,但并没有破碎,而是完好无损。他说: "即使有10个人在场,他们都会认为这只杯子必碎无疑。但是,这只杯子不是普通的玻璃杯,而是用玻璃钢制作的。" Anh ta vừa buông tay, chiếc ly rơi xuống đất phát ra tiếng trong trẻo, nhưng không vỡ, mà hoàn toàn không chút sứt mẻ. Anh ta nói: "Dù có 10 người ở đây, họ đều sẽ cho rằng chiếc ly này không nghi ngờ gì sẽ vỡ nát. Nhưng, chiếc ly này không phải là ly thủy tinh bình thường, mà dùng nhựa thủy tinh để làm." 于是,我记住了这段经典绝妙的对话。这样的人,即使只有一口气,他也会努力去拉住成功的手,除非上苍剥夺了他的生命.. Sau đó, tôi ghi nhớ đoạn đối thoại kinh điển tuyệt diệu này. Người như thế, dù chỉ có một hơi thở, anh ta cũng sẽ cố gắng nắm chặt thành công trong tay, trừ phi trời xanh cướp đi mạng sống của anh ta.. Nguồn: Sưu tầm, translated by Thu Trần. (Còn tiếp)
二十五、机会Cơ hội A在合资公司做白领,觉得自己满腔抱负没有得到上级的赏识,经常想:如果有一天能见到老总,有机会展示一下自己的才干就好了!!A làm văn phòng cho công ty liên doanh, cảm thấy mình mang đầy hoài bão không được cấp trên để ý, thường nghĩ: Nếu có một ngày có thể gặp được lão tổng, có cơ hội thể hiện tài cán mình thì tốt biết mấy! A的同事B,也有同样的想法,他更进一步,去打听老总上下班的时间,算好他大概会在何时进电梯,他也在这个时候去坐电梯,希望能遇到老总,有机会可以打个招呼。Đồng nghiệp của A là B, cũng có cách nghĩ như thế, anh ta càng tiến một bước, đi nghe ngóng thời gian lên xuống ca của lão tổng, tính đại khái lúc nào ông ta vào thang máy, anh ta cũng vào thời điểm đó ngồi thang máy, hy vọng có thể gặp được lão tổng, có cơ hội có thể chào hỏi một tiếng. 他们的同事C更进一步。他详细了解老总的奋斗历程,弄清老总毕业的学校,人际风格,关心的问题,精心设计了几句简单却有份量的开场白,在算好的时间去乘坐电梯,跟老总打过几次招呼后,终于有一天跟老总长谈了一次,不久就争取到了更好的职位。Đồng nghiệp của bọn họ là C càng tiến thêm một bước. Anh ta tìm hiểu tường tận lịch trình phấn đấu của lão tổng, làm rõ ngôi trường lão tổng tốt nghiệp, phong cách xã giao, vấn đề quan tâm, tính toán kỹ lưỡng vài câu đơn giản nhưng có phân lượng để bắt đầu, tính toán xong thời gian đi thang máy, chào hỏi vài lần với lão tổng, cuối cùng có một hôm nói chuyện được với lão tổng, không lâu đã giành được chức vị tốt hơn. 愚者错失机会,智者善抓机会,成功者创造机会。机会只给准备好的人,这准备二字,并非说说而已。Kẻ ngốc để lỡ cơ hội, người thông minh đi nắm bắt cơ hội, người thành công đi tạo dựng cơ hội. Cơ hội chỉ dành cho người có chuẩn bị, hai từ chuẩn bị, không phải chỉ nói suông là được. Nguồn: Sưu tầm, translated by Thu Trần. (Còn tiếp)
二十六、疯子和呆子Người điên và kẻ ngốc 一个心理学教授到疯人院参观,了解疯子的生活状态。一天下来,觉得这些人疯疯癫癫,行事出人意料,可算大开眼界。Một giáo sư tâm lý học tới tham quan viện tâm thần, tìm hiểu cuộc sống của người tâm thần. Cả một ngày, cảm thấy những người này điên điên khùng khùng, hành sự ngoài dự liệu con người, xem như được mở rộng tầm mắt. 想不到准备返回时,发现自己的车胎被人下掉了。 "一定是哪个疯子干的!" 教授这样愤愤地想道,动手拿备胎准备装上。Không ngờ lúc chuẩn bị về, phát hiện bánh xe của mình bị người khác tháo mất. Nhất định là tên điên nào đó làm rồi. "Giáo sư tức giận nghĩ như vậy, chuẩn bị lấy bánh xe phòng bị để gắn vào. 事情严重了。下车胎的人居然将螺丝也都下掉。没有螺丝有备胎也上不去啊!Sự tình nghiêm trọng rồi. Người tháo bánh xe lại đem cả mấy con ốc gỡ hết mang đi. Không có ốc thì có bánh xe cũng bằng không a! 教授一筹莫展。在他着急万分的时候,一个疯子蹦蹦跳跳地过来了,嘴里唱着不知名的欢乐歌曲。他发现了困境中的教授,停下来问发生了什么事。Giáo sư không làm gì cả. Trong lúc ông ta vô cùng lo lắng, một tên điên tung tăng chạy tới, miệng hát một bài hát không biết tên. Hắn ta phát hiện hoàn cảnh của giáo sư, dừng lại hỏi đã xảy ra chuyện gì. 教授懒得理他,但出于礼貌还是告诉了他。Giáo sư lười để ý tới hắn, nhưng vì lịch sự vẫn nói với hắn. 疯子哈哈大笑说:" 我有办法! "他从每个轮胎上面下了一个螺丝,这样就拿到三个螺丝将备胎装了上去。Tên điên phá lên cười:" Tôi có cách! "Hắn ta tháo từ mỗi cái bánh xe một con ốc, như vậy đã có ba con ốc cho bánh xe dự bị. 教授惊奇感激之余,大为好奇:" 请问你是怎么想到这个办法的? "Giáo sư vô cùng kinh ngạc cảm kích, lại hiếu kỳ hỏi:" Xin hỏi sao anh lại nghĩ ra cách này? " 疯子嘻嘻哈哈地笑道:" 我是疯子,可我不是呆子啊! "Tên điên hi hi ha ha cười nói:" Tôi là tên điên, không phải kẻ ngốc a!" 其实,世上有许多的人,由于他们发现了工作中的乐趣,总会表现出与常人不一样的狂热,让人难以理解。许多人在笑话他们是疯子的时候,别人说不定还在笑他呆子呢。Thật ra, trên đời có rất nhiều người, từ khi họ phát hiện niềm vui trong công việc, đều sẽ biểu hiện vẻ cuồng nhiệt hơn những người khác, khiến người ta khó hiểu. Rất nhiều người trong lúc cười họ là tên điên, nói không chừng người khác lại cười họ là kẻ ngốc đấy chứ. 做人呆呆,处事聪明,在中国尤其不失为一种上佳做人姿态。Làm người ngây ngốc, xử lý việc thông minh, đặc biệt ở Trung Quốc vẫn được xem là một loại tư thái làm người tuyệt vời. Nguồn: Sưu tầm, translated by Thu Trần. (Còn tiếp)
二十七、博士Tiến sĩ 有一个博士分到一家研究所, 成为学历最高的一个人。Có một vị tiến sĩ được phân tới một sở nghiên cứu, trở thành người có học vị cao nhất. 有一天他到单位后面的小池塘去钓鱼, 正好正副所长在他的一左一右, 也在钓鱼。Có một hôm anh ta tới cái ao nhỏ đằng sau đơn vị câu cá, vừa khéo chính phó sở trưởng đang một trái một phải cạnh anh ta, cũng đang câu cá. 他只是微微点了点头, 这两个本科生, 有啥好聊的呢?Anh ta chỉ khẽ gật đầu, hai tên khoa chính quy này, có gì mà để tán gẫu chứ? 不一会儿, 正所长放下钓竿, 伸伸懒腰, 蹭蹭蹭从水面上如飞地走到对面上厕所。Không lâu sau, chính sở trưởng bỏ cần câu, vươn vai, nhảy như bay trên mặt nước tới nhà vệ sinh phía đối diện. 博士眼睛睁得都快掉下来了。水上飘?不会吧?这可是一个池塘啊。Tiến sĩ mở to mắt tới sắp rớt cả ra ngoài. Nhảy trên mặt nước? Không phải chứ? Đây là một cái ao a. 正所长上完厕所回来的时候, 同样也是蹭蹭蹭地从水上飘回来了。Lúc chính sở trưởng quay lại, cũng nhảy từ mặt nước trở về 怎么回事?博士生又不好去问, 自己是博士生哪! Rốt cuộc là chuyện gì? Tiến sĩ thấy lạ lại không tiện hỏi, mình là tiến sĩ a! 过一阵, 副所长也站起来, 走几步, 蹭蹭蹭地飘过水面上厕所。这下子博士更是差点昏倒:不会吧, 到了一个江湖高手集中的地方?Qua một trận, phó sở trưởng cũng đứng lên, đi vài bước, nhảy bay qua mặt nước đi vệ sinh. Lần này tiến sĩ suýt chút nữa ngất đi: Không phải chứ, tới một nơi tập họp toàn cao thủ giang hồ? 博士生也内急了。这个池塘两边有围墙, 要到对面厕所非得绕十分钟的路, 而回单位上又太远, 怎么办?Tiến sĩ cũng đang mót. Cái ao này hai bên đều có tường vây, nếu tới nhà vệ sinh đối diện phải đi vòng hết mười phút, mà về lại đơn vị thì càng xa hơn, làm sao đây? 博士生也不愿意去问两位所长, 憋了半天后, 也起身往水里跨:我就不信本科生能过的水面, 我博士生不能过。Tiến sĩ cũng không muốn đi hỏi hai vị sở trưởng, nhịn cả nửa ngày rồi, cũng đứng dậy sải bước về phía mặt nước: Mình không tin khoa chính quy có thể qua được mặt nước, tiến sĩ như mình lại không qua được. 只听咚的一声, 博士生栽到了水里。Chỉ nghe một tiếng tũm, tiến sĩ ngã xuống nước. 两位所长将他拉了出来, 问他为什么要下水, 他问: "为什么你们可以走过去呢?" Hai vị sở trưởng kéo anh ta lên, hỏi anh ta sao lại muốn xuống nước, anh ta hỏi: "Sao các anh lại có thể đi qua được?" 两所长相视一笑: "这池塘里有两排木桩子, 由于这两天下雨涨水正好在水面下。我们都知道这木桩的位置, 所以可以踩着桩子过去。你怎么不问一声呢?" Hai vị sở trưởng đưa mắt nhìn nhau cười: "Trong hồ này có hai hàng cọc gỗ, vì mấy ngày nay mưa nhiều nên đã nằm dưới mặt nước. Chúng tôi đều biết vị trí của cọc gỗ, cho nên có thể đạp lên nó mà đi. Sao anh không hỏi một tiếng chứ?" 学历代表过去, 只有学习力才能代表将来。尊重经验的人, 才能少走弯路。一个好的团队, 也应该是学习型的团队。Học lực đại diện cho quá khứ, chỉ có khả năng học tập mới có thể đại diện cho tương lai. Người tôn trọng kinh nghiệm, mới có thể bớt đi đường vòng. Một đoàn thể tốt, cũng nên có tinh thần học tập đoàn thể. Nguồn: Sưu tầm, translated by Thu Trần. (Còn tiếp)
二十八、跳槽Đổi nơi công tác A对B说: "我要离开这个公司。我恨这个公司!" A nói với B: "Tôi muốn rời khỏi công ty này. Tôi hận công ty này!" B建议道: "我举双手赞成你报复! 破公司一定要给它点颜色看看。不过你现在离开, 还不是最好的时机。" B kiến nghị: "Tôi giơ hai tay tán thành anh trả thù! Công ty tồi nhất định phải cho nó chút gì đó để xem xem. Nhưng anh bây giờ rời khỏi, vẫn chưa phải là thời cơ tốt." A问:???A hỏi:? B说: "如果你现在走, 公司的损失并不大。你应该趁着在公司的机会, 拼命去为自己拉一些客户, 成为公司独挡一面的人物, 然后带着这些客户突然离开公司, 公司才会受到重大损失, 非常被动。" B nói:"Nếu bây giờ anh rời khỏi, tổn thất của công ty cũng không lớn. Anh nên nhân cơ hội còn ở công ty, lôi kéo một số khách hàng về phía mình, trở thành nhân vật độc lập, sau đó mang số khách hàng này đột nhiên rời khỏi công ty, công ty mới bị thiệt hại nặng nề, hết sức bị động. A觉得B说的非常在理。于是努力工作, 事遂所愿, 半年多的努力工作后, 他有了许多的忠实客户。A cảm thấy B nói vô cùng có lý. Sau đó cố gắng làm việc, sau hơn nửa năm cố gắng làm việc, anh ta có rất nhiều khách hàng trung thành. 再见面时B问A:现在是时机了, 要跳赶快行动哦! Lúc gặp lại B hỏi A: Bây giờ là thời cơ rồi, muốn đi thì nhanh chóng hành động! A淡然笑道:老总跟我长谈过, 准备升我做总经理助理, 我暂时没有离开的打算了。A điềm nhiên cười nói: Lão tổng từng trò chuyện với tôi, chuẩn bị cho tôi lên làm trợ lý tổng giám đốc, tôi tạm thời chưa có ý định rời khỏi. 其实这也正是B的初衷。一个人的工作, 永远只是为自己的简历。只有付出大于得到, Thật ra đây cũng là ý ban đầu của B. Công việc của một người, mãi mãi chỉ là sơ yếu lý lịch của bạn. Chỉ có bỏ ra nhiều thì sẽ có lại được. 让老板真正看到你的能力大于位置, 才会给你更多的机会替他创造更多利润。Để sếp thật sự thấy được năng lực lớn hơn vị trí của bạn, mới cho bạn nhiều cơ hội hơn để thay sếp kiếm được nhiều lợi nhuận hơn. Nguồn: Sưu tầm, translated by Thu Trần. (Còn tiếp)
二十九、三个金人Ba người vàng 曾经有个小国到中国来, 进贡了三个一模一样的金人, 金碧辉煌, 把皇帝高兴坏了。可是这小国不厚道, 同时出一道题目:这三个金人哪个最有价值?Đã từng có tiểu quốc tới Trung Quốc, tiến cống ba người bằng vàng y chang nhau, kim bích huy hoàng, khiến hoàng đế rất vui. Nhưng tiểu quốc này không phải dạng vừa, đồng thời ra một đề mục: Ba người này cái nào có giá trị nhất? 皇帝想了许多的办法, 请来珠宝匠检查, 称重量, 看做工, 都是一模一样的。怎么办?使者还等着回去汇报呢。泱泱大国, 不会连这个小事都不懂吧?Hoàng đế nghĩ rất nhiều cách, mời thợ châu báu tới kiểm tra, cân trọng lượng, nhìn độ tinh xảo, đều như nhau. Làm sao đây? Sứ giả còn đang đợi quay về hồi báo. Nước lớn thế mạnh, không phải đến cả một chuyện nhỏ cũng không biết đấy chứ? 最后, 有一位退位的老大臣说他有办法。Sau cùng, có một vị đại thần đã về hưu nói lão ta có cách. 皇帝将使者请到大殿, 老臣胸有成足地拿着三根稻草, 插入第一个金人的耳朵里, 这稻草从另一边耳朵出来了。第二个金人的稻草从嘴巴里直接掉出来, 而第三个金人, 稻草进去后掉进了肚子, 什么响动也没有。老臣说:第三个金人最有价值! 使者默默无语, 答案正确。Hoàng đế mời sứ giả tới đại điện, lão thần trong lòng đã có tính toán lấy ra ba cọng rơm, cắm vào lỗ tai của kim nhân thứ nhất, cọng rơm này xuyên qua lỗ tai bên kia. Cọng rơm của kim nhân thứ hai chui ra từ miệng, còn kim nhân thứ ba, cọng rơm chui vào rồi rơi xuống bụng, không có động tĩnh gì. Lão thần nói: Kim nhân thứ ba có giá trị nhất! Sứ giả im lặng không nói gì, đáp án chính xác. 这个故事告诉我们, 最有价值的人, 不一定是最能说的人。老天给我们两只耳朵一个嘴巴, 本来就是让我们多听少说的。善于倾听, 才是成熟的人最基本的素质。Câu chuyện này nói với chúng ta, người có giá trị nhất, không nhất định là người có khả năng ăn nói nhất. Trời cho chúng ta hai lỗ tai một cái miệng, vốn chính là để chúng ta nghe nhiều nói ít. Giỏi lắng nghe, mới là tố chất cơ bản của người chính chắn. Nguồn: Sưu tầm, translated by Thu Trần. (Còn tiếp)
三十、鞋带Dây giày 有一位表演大师上场前, 他的弟子告诉他鞋带松了. 大师点头致谢, 蹲下来仔细系好. 等到弟子转身后, 又蹲下来将鞋带解松. Có một siêu sao trước khi lên trường diễn, đệ tử của ông ta nói với ông ta dây giày bị lỏng. Siêu sao gật đầu cảm ơn, ngồi xuống cẩn thận buộc chặt lại. Đợi đệ tử xoay người đi xong, lại ngồi xuống nới lỏng ra. 有个旁观者看到了这一切, 不解地问: "大师, 您为什么又要将鞋带解松呢?" 大师回答道: "因为我饰演的是一位劳累的旅者, 长途跋涉让他的鞋带松开, 可以通过这个细节表现他的劳累憔悴." Một người ngoài cuộc nhìn thấy mọi thứ, khó hiểu hỏi: "Đại sư, sao ông lại đem dây giày nới lỏng ra thế?" Siêu sao trả lời: "Vì tôi diễn vai một lữ khách vô cùng mệt mỏi, đi đường xa nên khiến dây giày của anh ta bị lỏng, có thể thông qua chi tiết này thể hiện sự mệt mỏi tiều tụy của anh ta. " 那你为什么不直接告诉你的弟子呢?" "Vậy sao ông không trực tiếp nói với đệ tử của ông?" "他能细心地发现我的鞋带松了, 并且热心地告诉我, 我一定要保护他这种热情的积极性, 及时地给他鼓励, 至于为什么要将鞋带解开, 将来会有更多的机会教他表演, 可以下一次再说啊." "Nó có thể tỉ mỉ phát hiện dây giày của tôi lỏng, vả lại nhiệt tình nói với tôi, tôi nhất định phải bảo vệ loại nhiệt tình tích cực này của nó, cổ vũ nó kịp lúc, còn về vì sao lại nới lỏng dây giày, tương lai sẽ có càng nhiều cơ hội để dạy nó biểu diễn, có thể nói sau a." 人一个时间只能做一件事, 懂抓重点, 才是真正的人才. Người trong một thời gian chỉ có thể làm một chuyện, biết nắm bắt trọng điểm, mới thật sự là nhân tài. Nguồn: Sưu tầm, translated by Thu Trần. (Còn tiếp)
三十一、我是陈阿土Tôi là Trần A Thổ 陈阿土是台湾的农民, 从来没有出过远门. 攒了半辈子的钱, 终于参加一个旅游团出了国. Trần A Thổ là nông dân của Đài Loan, trước giờ chưa từng đi xa nhà. Tiền tích góp cả nửa đời người, cuối cùng tham gia đoàn du lịch ra nước ngoài. 国外的一切都是非常新鲜的, 关键是, 陈阿土参加的是豪华团, 一个人住一个标准间. 这让他新奇不已. Mọi thứ của nước ngoài đều vô cùng tươi mới, mấu chốt là, Trần A Thổ tham gia là một đoàn hào hoa, mỗi người ở một phòng tiêu chuẩn. Điều này khiến anh ta không ngớt hiếu kỳ. 早晨, 服务生来敲门送早餐时大声说道: "GOODMORNING SIR!" Buổi sáng, lúc người phục vụ tới gõ cửa đưa bữa sáng lớn tiếng chào: "GOODMORNING SIR!" 陈阿土愣住了. 这是什么意思呢? 在自己的家乡, 一般陌生的人见面都会问: "您贵姓?" Trần A Thổ ngây ra. Đây là ý gì? Ở quê mình, người không quen khi gặp mặt hay hỏi: "Bạn tên gì?" 于是陈阿土大声叫道: "我叫陈阿土!" Sau đó Trần A Thổ lớn tiếng nói: "Tôi tên là Trần A Thổ!" 如是这般, 连着三天, 都是那个服务生来敲门, 每天都大声说: "GOODMORNING SIR!" 而陈阿土亦大声回道: "我叫陈阿土!" Cứ như thế, liên tục ba ngày, đều là người phục vụ đó tới gõ cửa, mỗi ngày đều lớn tiếng nói: "GOODMORNING SIR!" Còn Trần A Thổ vẫn lớn tiếng trả lời: "Tôi tên là Trần A Thổ!" 但他非常的生气. 这个服务生也太笨了, 天天问自己叫什么, 告诉他又记不住, 很烦的. 终于他忍不住去问导游, "GOODMORNING SIR!" 是什么意思, 导游告诉了他, 天啊! 真是丢脸死了. Nhưng anh ta rất tức giận. Người phục vụ này cũng thật quá ngốc, ngày nào cũng hỏi mình tên gì, nói rồi anh ta lại không nhớ, thật là phiền. Cuối cùng anh ta không nhịn được đi hỏi hướng dẫn viên, : "GOODMORNING SIR!" là ý gì, hướng dẫn viên nói cho anh ta biết, trời ạ! Thật quá mất mặt rồi. 陈阿土反复练习 "GOODMORNING SIR!" 这个词, 以便能体面地应对服务生. Trần A Thổ ôn đi ôn lại câu: "GOODMORNING SIR!" này, để lấy thể diện với người phục vụ. 又一天的早晨, 服务生照常来敲门, 门一开陈阿土就大声叫道: "GOODMORNING SIR!" Lại một buổi sáng, người phục vụ như thường lệ gõ cửa, cửa vừa mở Trần A Thổ lớn giọng nói: "GOODMORNING SIR!" 与此同时, 服务生叫的是: "我是陈阿土!" Và vào lúc này, người phục vụ lại nói: "Tôi tên là Trần A Thổ!" 这个故事告诉我们, 人与人交往, 常常是意志力与意志力的较量. 不是你影响他, 就是他影响你, 而我们要想成功, 一定要培养自己的影响力, 只有影响力大的人才可以成为最强者. Câu chuyện này nói với chúng ta, giao tiếp giữa người và người, thường là đọ sức giữa ý chí với ý chí. Không phải bạn ảnh hưởng anh ta, thì anh ta ảnh hưởng bạn, mà chúng ta muốn thành công, nhất định phải nuôi dưỡng sức ảnh hưởng của mình, chỉ người có sức ảnh hưởng lớn mới có thể thành kẻ mạnh. Nguồn: Sưu tầm, translated by Thu Trần. (Còn tiếp)