Cúc Nào hoa chẳng bén khí đầm hâm, Có mấy bầu sương nhuỵ mới đâm. Trùng cửu chớ hiềm thu đã muộn, Cho hay thu muộn tiết càng thơm. Cước chú: đầm hâm: ấm áp bầu: bầu đất trồng cây sương: sương đêm nhụy: bộ phận của cây đâm: nở ra, mọc ra, nẩy ra trùng cửu: ngày 9 tháng 9 - ngày tết chơi thưởng hoa cúc chớ hiềm: chớ sợ, chớ ngại tiết: khí tiết
Mộc hoa Trời sinh vật vuỗn bằng người, Nẻo được thơm tho thiếu tốt tươi. Ắt có hay đòi thửa phận, Chẳng yêu thì chớ nỡ chi cười. Cước chú: mộc hoa: Mộc hoa là các gọi tắt từ mộc tê hoa, là loại cây nhỏ, hoa thơm, có thể dùng ướp trà, ngâm rượu, hay làm nước gội đầu, nước hoa. vật: các sự vật tồn tại trong thế giới Câu 1: trời sinh vật vốn bằng người: khẳng định rằng mọi vật đều được sinh ra một cách bình đẳng, như con người. nẻo: khi, lúc ắt: nhất định đòi: nhiều, khắp thửa: đại từ sở hữu, của mình Hai câu sau: nếu không thích hay không yêu, ta cũng không nên chê bai hoặc cười nhạo, bởi mọi sự vật đều có lý do và giá trị tồn tại.
Mạt lị hoa Môi son bén phấn day day, Đêm nguyệt đưa xuân một nguyệt hay. Mấy kẻ hồng nhan thì bạc phận, Hồng nhan kia chớ cậy mình thay. Cước chú: mạt lị hoa: hoa nhài, hoa lài. Môi son bén phấn: có phiên khác "mui son bến phấn" chỉ "con thuyền chở người kỹ nữ, người con gái giang hồ"; hoặc phiên khác "mai son bén phấn" với nghĩa "môi giới cho son, tiếp nối với phấn", ý nói hoa nhài là vật môi giới cho người con gái giang hồ. day day: lay lay, khẽ đưa qua đưa lại. Mấy kẻ hồng nhan thì bạc phận: Ý nói rằng những người phụ nữ đẹp thường phải đối mặt với số phận bất hạnh, trái ngược với vẻ ngoài lộng lẫy. Hồng nhan kia chớ cậy mình thay: Cảnh báo rằng đừng quá tự mãn về sắc đẹp, vì nó có thể không bền vững và không thể cứu rỗi số phận.
Liên hoa Lầm nhơ chẳng bén, tốt hoà thanh, Quân tử kham khuôn được thửa danh. Gió đưa hương đêm nguyệt tịnh, Riêng làm của có ai tranh. Cước chú: lầm nhơ: bùn bẩn chẳng bén: không vấy bẩn tốt hòa thanh: xanh tốt, thanh khiết/ thanh cao kham: có thể, đủ để khuôn: rập khuôn theo thửa danh: danh của mình đêm nguyệt tịnh: đêm trăng thanh vắng Câu 4 :(vẻ đẹp của hoa trong đêm trăng thanh là )của riêng, không có ai tranh giành. Bấm để xem "Lầm nhơ chẳng bén, tốt hoà thanh": Hoa sen thường nở trong bùn lầy nhưng không bị ô nhiễm. Hình ảnh này tượng trưng cho những người có phẩm hạnh, không bị ảnh hưởng bởi những điều xấu, dù sống trong môi trường khó khăn. "Quân tử kham khuôn được thửa danh": Nhấn mạnh rằng người quân tử (người có đạo đức) sẽ đạt được danh tiếng và sự tôn trọng nhờ vào phẩm hạnh của mình. Đây là một cách khẳng định giá trị của nhân cách. "Gió đưa hương đêm nguyệt tịnh": Câu thơ gợi lên hình ảnh hoa sen tỏa hương vào đêm thanh tĩnh, tượng trưng cho vẻ đẹp và sự thuần khiết. Hương thơm của hoa sen có sức lan tỏa, giống như phẩm hạnh tốt đẹp sẽ được ghi nhận và trân trọng. "Riêng làm của có ai tranh": Ý nói rằng giá trị của người quân tử, phẩm hạnh của họ là độc nhất, không ai có thể so sánh hay tranh giành. Điều này thể hiện sự cao quý của giá trị nội tâm.
Hoè Mống lành nẩy nẩy bãi hoè trồng, Một phút xuân qua một phút trông. Có khuở ngày hè giương tán lục, Đùn đùn bóng rợp cửa tam công. Cước chú: mống: mầm, chồi lành: tốt tươi nẩy nẩy: vẻ chồi mầm đâm lên dày và khoẻ trông: nhìn ngắm khuở: thuở, thời giương tán lục: giương ra những tán cây xanh đùn đùn: trổ ra, đùn ra cửa tam công: sách Văn Kiến Lục đời Tống ghi chuyện Vương Hựu lập được nhiều công lớn cho triều đình nhưng cũng không được làm tể tướng. Ông bèn bảo rằng: ta không làm thì con cháu ta làm. Rồi trồng ba cây hoè trong sân nhà. Quả thực, sau con ông là vương đan giữ chức ấy thực. Tô Đông Pha có bài Tam hoè đường ký ghi lại việc này.
Cam đường Thấy bóng cam đường nhớ Thiệu Công, Đất dư xảy được bạn cùng thông. Bút thơ đã chép hương còn bén, Ngâm ngợi nào ai chẳng động lòng. Cước chú: cam đường: cây bàng; ông Thiệu Công Thích đời Chu Vũ Vương đi kinh lý nước nam, trị lý rất công minh chính trực, ông thường ngồi nghỉ dưới gốc cây cam đường. Khi ông đi rồi, nhân dân nhớ công đức mà làm bài Cam đường để ca ngợi. Sau, bài này được sưu tập vào sách Kinh Thi trong thiên Thiệu nam: "xum xuê cam đường, chớ đốn chớ phạt, thiệu bá thửa che". dư: thừa ra, dôi ra xảy: bỗng, chợt thông: cây thông, cây tùng
Trường an hoa Ấy chẳng Tây Thi thì Thái Chân, Trời cho tốt lạ mười phân. Ngày chầy điểm đã phong quần đỏ, Rỡ tư mùa một thức xuân. Cước chú: trường an hoa: hoa ở trường an (cđ tràng an), tức hoa ở kinh đô Tây Thi: mỹ nữ nước Việt thời Xuân Thu Thái Chân: tên của một vị tiên nữ là con gái út của Vương Mẫu chầy: lâu dài điểm: chấm, đốm phong: gói kín, bọc kín, che phủ quần đỏ: đồ mặc ở thân dưới của phụ nữ, dịch chữ hồng quần, sau chỉ chung mỹ nữ rỡ: rực lên, làm cho rực rỡ lên tư mùa: bốn mùa thức xuân: vẻ xuân
Dương Chiếm được thiều quang chín mươi, Day day hoa nở tốt hoà tươi. Đông phong có ý bù trì nữa, Một phút xuân là một động người. Cước chú: dương: cây dương, thuộc họ liễu, có loại tên là bạch dương thiều quang chín mươi: ánh sáng tốt lành, chỉ ánh mặt trời trong ba tháng mùa xuân, sau chỉ chung cả mùa xuân. day day: dày dày hòa: và đông phong: gió đông - gió mùa xuân ấm áp bù trì: săn sóc, giúp đỡ động người: lay động, rung động lòng người.
Lão hạc Gẫm hay sự thế nhẹ bằng lông, Ăn uống chăng nài bổng Vệ công. Lầu nguyệt đã quen tiên thổi địch, Non xuân từng bạn khách ăn thông. Cánh xâm bạch tuyết mười phần bạc, Đỉnh nhuốm đan sa chín chuyển hồng. Nghìn dặm trời dầu đủng đỉnh, Kham cười anh vũ mắc chưng lồng. Cước chú: lão hạc: con hạc già, hạc là con vật có tuổi thọ, bay cao, thường được coi là loài chim thiêng, là vật cưỡi của các vị tiên trong truyền thuyết của Đạo giáo. chẳng nài: chẳng đòi bổng: bổng lộc Vệ công: tức Vệ Ý Công, tên là Xích, vua đời thứ mười tám của nước Vệ, trị ngôi từ năm 668 - 660, con của Vệ Huệ Công. Hàn thi ngoại truyện ghi: "Thời Vệ Ý Công,... rợ địch phát binh đánh vệ. Ý Công muốn đem binh đi đánh trả. Dân trong nước đều nói: 'vua chỉ quý hạc, chỉ ban lộc vị cho hạc; lại chỉ biết yêu cung nhân, hãy sai hạc với cung nhân đi mà đánh, bọn ta làm sao có thể đánh trận được?' bèn bỏ đi hết. Rợ địch đến, đánh rồi giết Ý Công." lầu nguyệt: lầu trăng thổi địch: thổi sáo Cánh xâm bạch tuyết mười phần bạc: cánh hạc 10 phần là màu trắng bạc đỉnh: chóp của đầu đan sa: đỏ tươi Câu 6 chỉ đỉnh đầu của hạc 9 phần là màu hồng đỏ đủng đỉnh: thảnh thơi, tự do, tự tại kham cười: đáng cười anh vũ: chim vẹt cả câu 8: ý cười chê chim vẹt mắc chi phải chịu cảnh tù tội trong lồng.
Nhạn trận Nước dẫy triều cường, cuối bãi đầy, Làm "kỳ", "chính" kháo nên bầy. Đàn trầm đạn ngọc sao bắc, Phất dõi cờ lau gió tây. Thu phát lệnh nghiêm hàng đỗ gấp, Sương thanh bảng nhặt tiếng kêu chầy. ... Tử tái đường nghèo lòng mựa ngây. Cước chú: nhạn trận: đàn nhạn. Chim nhạn là loài chim di cư theo mùa. Chúng bay theo đàn, xắp thành hàng, thường theo hình chữ v, chữ nhân 人, chữ nhất 一. dẫy: dâng tràn kỳ, chính: thuật ngữ binh pháp thời cổ. Đối Trận đánh trực diện thì gọi là "chính", phục binh ngầm đánh thì gọi là "kỳ". Sách Tôn Tử ghi: "Tất cả ba quân có thể khiến đánh địch mà không bao giờ bại, chính là hai thế "kỳ" và "chính" mà thôi. kháo: khéo; ý cả câu: đàn nhạn bay như giăng thế trận Trầm: chìm, đắm dưới đáy nước. đạn ngọc: đạn tròn, đá quý sao bắc: sao phía bắc Ý chỉ tiếng kêu của đàn nhạn trong đêm thanh vắng, nghe như tiếng ngọc rơi lách cách dưới bầu trời sao phía bắc Phất dõi cờ lau gió tây: Câu này mô tả cảnh những cánh chim nhạn bay qua vùng cỏ lau phấp phới, như những lá cờ lau phất trong gió tây. Thu phát lệnh nghiêm hàng đỗ gấp: Đây là hình ảnh đàn nhạn nghe hiệu lệnh dừng đậu thành hàng ngũ rất nghiêm chỉnh, như một đoàn quân tuân thủ theo mệnh lệnh. Điều này nhấn mạnh kỷ luật của đàn nhạn trong sự sắp xếp đội hình. Sương thanh bảng nhặt tiếng kêu chầy: Trong sương sớm thanh trong, tiếng kêu của đàn nhạn cất lên thưa thớt, nghe buồn man mác, tạo nên không khí tĩnh lặng, sâu lắng của một buổi sớm trong trẻo. Tử tái đường nghèo lòng mựa ngây: Câu thơ này bày tỏ nỗi lòng của tác giả, cảm thấy xót xa trước cảnh nghèo và hoàn cảnh khó khăn của bản thân. "Tử tái" ám chỉ sự vất vả và gian khổ, nhưng cũng hàm chứa sự thức tỉnh, không để lòng u mê, lạc lối trong cảnh đời khốn khó.