Bảo kính cảnh giới 33 Sóng khơi ngại vượt bể triều quan, Lui tới đòi thì miễn phận an. Ghé cửa đêm chờ hương quế lọt, Quét hiên ngày lệ bóng hoa tàn. Đời dùng người có tài Y, Phó, Nhà ngặt, ta bền đạo Khổng, Nhan. Kham hạ hiền xưa toan lẩn được, Ngâm câu: "danh lợi bất như nhàn". Cước chú: triều quan: quan lớn trong triều đình. đòi thì: từ cổ - thuận ứng với thời thế, thuận theo thời. miễn: chỉ cần lệ: sợ ngại Y, Phó: tức Y Doãn và Phó Duyệt - những người có tài bên TQ Khổng, Nhan: Khổng Tử, Nhan Tử - ông tổ của đạo Nho; đạo Khổng Nhan là đạo Nho kham hạ: từ "kham" mang nghĩa là "có thể", từ "hạ" mang nghĩa là "dưới". Do vậy, có thể thấy được các cách giải thích là "Chịu ở dưới", "chịu thua", "chịu ở địa vị thấp kém", hiền: kẻ sĩ có tài, đức toan: tính toán, lo toan lẩn: ẩn, nấp, trốn, lưu tích còn trong lẩn quẩn/ luẩn quẩn, lẩn = trốn. danh lợi bất như nhàn: đua chen danh lợi không bằng sống nhàn
Bảo kính cảnh giới 34 Yêu nhục nhiều phen vuỗn đã từng, Lòng người sự thế thảy lâng lâng. Chuộng thì nên ngõ, nhờn thì dái, Trật chẳng hề âu, được chẳng mừng. An lạc một lều dầu địch, Thái bình mười chước ngại dâng. No nao biết được lòng tri kỉ, Vạnh non tây nguyệt một vầng. Cước chú: yêu nhục: <từ cổ> được mến trọng và bị ghét bỏ. vuỗn: vẫn thảy: hết thảy, tất thảy lâng lâng: nhẹ nhàng, thanh thản, không vướng bận điều gì, không thấy quan trọng nữa. chuộng: yêu chuộng Chuộng thì nên ngõ, nhờn thì dái: Câu này ý nói, khi được ân sủng thì người đời thấy mình thông minh tài giỏi, đến lúc thất sủng thì họ lại thấy sợ hãi. trật: mất; âu: lo; Ý câu: mất không lo, được cũng không mừng lều dầu địch: làm, tạo tác, dựng (lều) chước: mưu lược, kế sách dâng: đgt. đưa lên, tiến hiến. no nao: nọ nào, khi nào vạnh: tròn và sáng non tây: núi phía Tây
Bảo kính cảnh giới 35 Thế tình kháo uốn vuỗn bằng câu, Đòi phận mà yên há thửa cầu? Diếp còn theo tiên gác phượng, Rày đà kết bạn sa âu. Được thì xem áng công danh dễ, Đến lẽ hay cơ tạo hoá mầu. Kham hạ Trương Lương chăng khứng ở, Tìm tiên để nộp ấn phong hầu. Cước chú: thế tình: tình đời, nói tắt của thế thái nhân tình kháo: khéo vuỗn: vẫn bằng: như là, ngang với câu: móc hình bán nguyệt khuyết đòi phận: theo, tuỳ, thuận theo, tuỳ theo phận thửa cầu: cái đang tìm kiếm diếp: dịp: ngày trước, hồi trước gác phượng: tức phượng các, có các nghĩa: lầu trong hoàng cung, trung thư sảnh, nhà quan ở trong kinh. rày: giờ sa âu: bãi cát, chim âu áng công danh: cuộc công danh, lập công lấy danh tiếng cơ tạo hoá: dịch chữ thiên cơ (ý nói chuyện cơ mật, hay ý trời) mầu: kì diệu kham hạ: từ "kham" mang nghĩa là "có thể", từ "hạ" mang nghĩa là "dưới". Do vậy, có thể thấy được các cách giải thích là "Chịu ở dưới", "chịu thua", "chịu ở địa vị thấp kém" Trương Lương: tự là Tử Phòng, là văn thần có công giúp Lưu Bang đánh đổ nhà tần và thắng hạng vũ trong chiến tranh Hán Sở sáng lập ra nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc; ông không hưởng công danh mà cáo quan về ẩn khứng: có thể, biểu thị sự đồng ý, thuận ứng, vui lòng, sẵn lòng làm gì.; chăng khứng ở: không đồng ý ở (làm quan) tìm tiên: tìm đến cuộc sống thoát tục, lánh sự đời.
Bảo kính cảnh giới 36 Lọ chi thành thị, lọ lâm tuyền, Được thú thì hơn, miễn phận yên. Vụng bất tài, nên kém bạn, Già vô sự, ấy là tiên. Đồ thư bốn vách nhà làm của, Phong nguyệt năm hồ khách nổi thuyền. Cùng đạt dòm hay nơi có mệnh, Đòi cơ tạo hoá mặc tự nhiên. Cước chú: lọ chi: <từ cổ> cần lâm tuyền: rừng và suối, nơi ở ẩn. thú: ý hướng, chỉ thú vô sự: không có việc, nhàn nhã. đồ thư: sách vở, thư tịch. cùng đạt: bế tắc và hanh thông. dòm: nhìn ra, xem ra có mệnh: có số mệnh, vận số, theo khoa tử vi trong quan niệm truyền thống của người xưa. đòi: theo, tuỳ, thuận theo, tuỳ theo cơ tạo hoá: dịch chữ thiên cơ (ý nói chuyện cơ mật, hay ý trời)
Bảo kính cảnh giới 37 Một an một sách một con lều, Song viết bao nhiêu mặc bấy nhiêu. Tráu cúc thu vàng nẩy lác, Sân mai tuyết bạc che đều. Có con mới biết ơn cha nặng, Dừng lộc thì hay nghĩa chúa nhiều. Bấm trong nhàn nào thửa được, Đầy song hoa nở, tiếng chim kêu. Cước chú: an sách: án sách, gác sách - nơi để sách con lều: chiếc lều song viết: của cải, tư nghiệp tráu: bờ dậu, rào giậu bằng tre nứa; tráu cúc: bờ rào có trồng chen hoa cúc lác: lác đác nào: đâu, đâu có thửa được: cái được nào thửa được: nào có tính được, nào đếm xuể những cái mình có, ý muốn nói rất nhiều (hoa, tiếng chim ở câu dưới)
Bảo kính cảnh giới 38 Mấy phen lần bước dặm thanh vân, Đeo lợi làm chi luống nhọc thân. Nhớ chúa lòng còn đan một tấc, Âu thì tóc đã bạc mười phân. Đìa thanh, cá lội, in vầng nguyệt, Cây tịnh, chim về, rợp bóng xuân. Dầu phải dầu chăng, mặc thế, Đắp tai biếng mắng sự vân vân. Cước chú: dặm thanh vân (thanh vân lộ): Hoạn lộ, con đường công danh, làm quan luống: những là đan: đỏ, son; (đan tâm: Lòng son) ; tấc: tấc lòng; đan một tấc: Một tấc lòng son; âu: có lẽ, xem ra đắp tai: che tai, bịt tai biếng mảng (có bản chép là biếng mắng ) : Lười nghe vân vân: việc này việc khác
Bảo kính cảnh giới 39 Nối nghiệp tiên nhân đọc một kinh, Chẳng ngờ bước tới áng công danh. Cảm ân nỡ phụ muôn đời chúa, Phải luỵ, vì nhân một chữ "đinh". Vũ Tử lui tuy chịu dại, Bá Di lánh mới nên thanh. Xưa còn chép câu kinh để: "Yên phận thì chăng nhục đến mình". Cước chú: tiên nhân: người đi trước kinh: sách vở, kinh điển của nho gia cảm ân: cảm vì ơn của chúa nỡ phụ: đâu nỡ phụ lòng lụy: bị trói vào, vướng vào nhân: phạm trù đạo đức hạt nhân của Nho gia đinh: chỉ việc biết chữ học hành nói chung. Vũ Tử: tức Vũ Du Tự đời Đường, có họ với võ tắc thiên. Khi võ tắc thiên lên nắm quyền, du tự bỏ về làm ruộng. Sau Đường Trung Tông lên nối ngôi mời ông ra làm quan, ông vẫn không nhận. Bá Di: Bá Di cùng Thúc Tề là hai người con nước vua cô trúc triều nhà Thương. Sau khi vua nước cô trúc chết, hai người nhường ngôi cho nhau. Sau khi chu Vũ Vương diệt nhà Thương, cả hai đều đi ở ẩn, vì không muốn hạ mình ăn thóc nhà Chu, hái rau vi ăn chống đói, sau chết trong núi thủ dương. chăng: chẳng
Bảo kính cảnh giới 40 Làm người biết máy, khôn sao, Lỗi thác ai vì mỗ chút nào. Một phút khách chầy còn thấy hỏi, Hai phen lần đến ắt chăng chào. Cửa sày, giá nhơn nhơn lạnh, Lòng bạn, trăng vặc vặc cao. Lan huệ chẳng thơm thì chớ, Nữa chi lại phải chốn tanh tao. Cước chú: biết máy: dịch chữ tri cơ, nghĩa là "biết được then máy (quy luật vận động) của đất trời lỗi thác: sai nhầm vì: nể, nể vì, vị nể chầy: muộn lần đến: dò đến, tìm đến chăng chào: chẳng chào sày: tiên sư, người dạy học. giá: băng tuyết, dùng để dịch chữ "băng". nhơn nhơn: ớn ớn, lạnh rợn rợn nữa chi, nỡ chi:lại còn, hơn nữa, dùng để so sánh hơn. tanh tao: mùi hôi của thịt và mỡ động vật. Ví với chốn chợ búa, tranh chấp bẩn thỉu, trong QATT thường trỏ chốn quan trường hay rộng hơn là trần thế
Bảo kính cảnh giới 41 Đổi lần đã mấy áng phồn hoa, Dầu ngặt, ta vui đạo ta. Sầm xem mai, hay tuyết đến, Say thưởng nguyệt, lệ thu qua. Ba thân hương hoả nhờ ơn chúa, Một cửa "thi thư" dõi nghiệp nhà. Thấy bể triều quan đà ngại vượt, Trong dòng phẳng có phong ba. Cước chú: đổi lần: thay đổi theo lượt, biến thiên ngặt: nghèo khó sầm: thầm lệ: sợ, ngại ba thân: thân kiếp trước, hiện tại, và tương lai, dịch chữ tam hương hoả: nhang và đèn, trỏ chung việc thờ cúng. thi thư: Kinh thi, Kinh thư - sách vở Nho gia dõi: theo, nối, tiếp nối, nối kế phẳng: bằng
Bảo kính cảnh giới 42 Dưng dưng sự thế biếng đôi tranh, Dầu mặc chê khen, mặc dữ lành. Bói ở lần tìm non Tạ Phó, Xin về xưa cổi ấn Ngu Khanh. Láng giềng một áng mây bạc, Khách thứa hai ngàn núi xanh. Có khuở viếng thăm bạn cũ, Lòng thơ ngàn dặm, nguyệt ba canh. Cước chú: dưng dưng: dửng dưng, không màng đến biếng: lười, không muốn làm gì đôi tranh: tranh giành, đôi co bói ở: <từ cổ> dịch chữ bốc cư (bói chọn đất để ở), tên bài thơ nổi tiếng của Khuất Nguyên. Tạ Phó: tức Tạ An (320 – 385), tự là An Thạch, hiệu Đông Sơn, người đời Đông Tấn. Trước khi ra làm quan, thời trẻ, Tạ An từng đi ở ẩn ở Cối Kê và Đông Sơn. Ông kết giao với nhiều danh sĩ đương thời bấy giờ như Chi Đạo Lâm, Vương Hy Chi, Tôn Xước, Lý Sung,...nhiều lần bàn luận thơ văn, sướng đàm lẽ huyền diệu hay ngao du sơn thuỷ. Đây chính là nhóm tác gia hay tụ họp tại Lan Đình. Ngu Khanh: danh sĩ đời Chiến Quốc, người hàm đan, giỏi trù mưu tính kế, trước cuộc chiến ở trường bình từng chủ trương liên hiệp sở- nguỵ bức tần giảng hoà; giải vây thành hàm đan. Sau vì cứu nguỵ tướng nguỵ tề mà từ bỏ cao quan hậu lộc, rời nước triệu, rốt cuộc bị bức ở nước lương, phát phẫn mà viết ra sách Ngu Thị Chinh Truyện và Ngu Thị Xuân Thu Hai câu luận: Nguyễn Trãi coi mây làm láng giềng, núi làm khách khứa khuở: thuở