1. Lời Ru Của Thầy Mỗi nghề có một lời ru Dở hay thầy cũng chọn ru khúc này Lời ru của gió màu mây Con sông của mẹ đường cày của cha. Bắt đầu cái tuổi lên ba Thầy ru điệp khúc quê nhà cho em Yêu rồi cũng nhớ yêu thêm Tình yêu chẳng có bậc thềm cuối đâu! Thầy không ru đủ nghìn câu Biết con chữ cũng đứng sau cuộc đời Tuổi thơ em có một thời Ước mơ thì rộng như trời, ngàn năm. Như ru ánh lửa trong hồn Cái hoa trong lá, cái mầm trong cây Thầy ru hết cả mê say Mong cho trọn ước mơ đầy của em. Mẹ ru em ngủ tròn đêm Thầy ru khi mặt trời lên mỗi ngày Trong em hạt chữ xếp dày Đừng quên mẹ vẫn lo gầy hạt cơm. Từ trong vòm mát ngôi trường Xin lời ru được dẫn đường em đi (Con đường thầy ngỡ đôi khi Tuổi thơ lăn một vòng bi tới rồi). Hẳn là thầy cũng già thôi Hóa thân vào mỗi cuộc đời các em Thì dù phấn trắng bảng đen Hành trang ấy đủ thầy đem theo mình. Đoàn Vị Thượng Lời người sưu tập: Đoàn Vị Thượng (1959 - 16/2/2021) Tôi gặp anh Đoàn Vị Thượng lần đầu năm 2001 trong một cuộc hội thảo về văn thơ. Đoàn Vị Thượng tên thật là Trần Quang Đoàn, sinh tại Huế, lớn lên ở Quảng Ngãi, sau đó sống tại TP Hồ Chí Minh. Anh đã có khoảng 10 năm làm giáo viên tiểu học, và có lẽ thời gian dạy học đó đã là nguồn cảm hứng để anh viết bài thơ nổi tiếng Lời Ru Của Thầy . Sau đó anh chuyển sang làm nhà báo, công tác tại báo Giáo dục và Thời đại . Những lần lên tòa soạn báo Giáo dục và Thời đại nhận nhuận bút, gặp anh tôi vẫn thường mỉm cười chào anh. Do những lúc đó tôi còn đang dạy học và chủ nhiệm lớp 12 nên rất bận rộn, với lại tính tôi thường chỉ thích sáng tác độc lập, nên tôi cũng ít trò chuyện với các nhà văn và nhà thơ khác - trong đó có anh. Đến gần Tết Nguyên Đán năm 2021, khi dự lễ tổng kết hoạt động của Hội Văn Tp. HCM, tôi được nhà thơ Bùi Đức Ánh báo tin anh bị bệnh và đã qua đời. Xin được kính cẩn cúi đầu chào và tiễn đưa anh: Nhà thơ tài hoa Đoàn Vị Thượng, người anh và cũng là người bạn của tôi.
2. Bụi Phấn Như khi lăn ngón tay tròn trên chứng minh thư Tự hào với xứ sở, đất đai mình là người công dân trung thực Làm sao nhớ rõ viên phấn nào đã hằn dấu tay tôi lần thứ nhất Trước các em, cho đến sáng thu này? Viên phấn ơi, sao chỉ nhỏ và gầy Như một ngón tay trong bàn tay tôi đấy Nào ai nỡ đánh rơi giữa chừng hay tính toan bẻ gãy Sợ năm ngón tay kia thôi sẽ hết hồng Tôi cậy nhờ gởi mơ ước nằm trong Cái màu trắng dịu dàng, nhẫn nại Cái màu trắng sẽ mòn đi mãi Cho các em hình dung thêm rõ nét về đời. Sẽ chẳng còn lại gì tìm thấy ở vành môi Cả dấu tay tôi vịn vào thuở nào tập đếm bước Chỉ có bây giờ - Dù đã vững hai chân, tôi đi trọn nghề mình bước nào không dễ vấp Hiểu con đường đến lớp cũng cheo leo. Đất nước trở trăn trong thiếu thốn và nghèo Chúng tôi nhiều khi phải tự góp thêm công để các em có đủ ghế ngồi và tự sớt đồng lương cho những lần thiếu phấn Có thể nào khác hơn? Khi tôi đưa ngón tay mình lên môi và cắn Biết rằng viên phấn cũng đau. Đồng nghiệp tôi mái tóc đã phai màu Giọng nói khàn như dây đàn cũ, Có hiểu điều ấy chăng, bụi phấn biết nghiêng mình lễ độ Không rơi vào lồng ngực, trái tim trong. Các em mở ra những trang sách ruộng đồng Tôi cúi xuống gieo vào hạt chữ Có giọt mồ hôi và cả dấu tay mình ấp ủ Lặng thầm nói với mai sau Mải miết đôi tay đầy bụi phấn trắng phau Như nhà nông bốn mùa lấm láp. Viên phấn tự mài mình chết đi để đâm chồi sự thật Nhẹ nhàng ơi cái chết vô tư Chúng tôi gìn giữ trái tim chân thực hằng giờ Các em hồn nhiên mà ánh mắt long lanh soi rọi thế Cái bục giảng không cao nhưng đã có bao người vấp té Viên phấn của lòng mình không giữ nổi trên tay. Buông thả đấy rồi, những ngón loay hoay Sẽ mỏi mòn đi và rơi rụng Như người lính không tự cầm lấy súng Vách chiến hào đâu dễ ấm lưng. Trong giấc mơ tôi, những viên phấn hằng đêm vạch sáng những hành trình Bảng xanh trước các em là chân trời rộng mở Thì bụi phấn ơi, cứ tan mình trong gió Nơi trăm miền sẽ còn có dấu tay tôi. 1980 Đoàn Vị Thượng * * * Lời người sưu tập: Bài thơ Bụi Phấn của nhà thơ Đoàn Vị Thượng viết vào những năm đầu tiên của thập niên 80 thế kỷ 20; những năm mà đất nước vẫn còn chìm trong bao cấp và đói nghèo, những năm mà những người đứng trên bục giảng phải chạy ăn từng bữa để có sức giảng dạy: "Thầy giáo tháo giầy / cô giáo xé giáo án dán áo", "Giáo chức dứt cháo" (không có cháo để ăn), "Phấn trắng bàn tay trắng, mực đen cuộc đời đen"... Tôi bỗng rợn người khi đọc lại những câu thơ: "Đất nước trở trăn trong thiếu thốn và nghèo Chúng tôi nhiều khi phải tự góp thêm công để các em có đủ ghế ngồi và tự sớt đồng lương cho những lần thiếu phấn Có thể nào khác hơn? Khi tôi đưa ngón tay mình lên môi và cắn Biết rằng viên phấn cũng đau."
3. Bàn Chân Thầy Giáo Thầy ngồi ghế giảng bài Xếp cạnh bàn đôi nạng gỗ Một bàn chân đâu rồi Chúng em không rõ. Sáng nào bom Mỹ dội Phượng đổ ngổn ngang, mái trường tốc ngói Mặt bảng đen lỗ chỗ vết bom bi Thầy cầm súng ra đi Bài tập đọc dạy chúng em dang dở Hoa phượng Hoa phượng cháy một góc trời như lửa. Năm nay thầy trở về Nụ cười vui vẫn nguyên vẹn như xưa Nhưng một bàn chân không còn nữa Đôi bàn chân Ôi bàn chân In lên cổng trường những chiều giá buốt In lên cổng trường những đêm mưa dầm Dấu nạng hai bên như hai hàng lỗ đáo Chúng em nhận ra bàn chân thầy giáo Như nhận ra cái chưa hoàn hảo Của cả cuộc đời mình. Bàn chân thầy gửi lại Khe Sanh Hay Tây Ninh, Đồng Tháp? Bàn chân đạp xuống đầu lũ giặc Cho lẽ sống làm người Em lắng nghe thầy giảng từng lời Rung động bao điều suy nghĩ Nghe thầm vọng bàn chân đi đánh Mỹ Nghe âm vang tiếng gọi của chiến trường Em đi suốt chiều dài yêu thương Chiều sâu đất nước Theo những dấu chân người thầy năm trước. Và bàn chân thầy, bàn chân đã mất Vẫn dẫn chúng em đi trọn vẹn cuộc đời... 1972 Trần Đăng Khoa Lời người sưu tập: Trần Ðăng Khoa, sinh ngày 26.4.1958 tại thôn Ðiền Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Thanh, Hải Dương. Hiện ở Hà Nội. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1977). Ông tốt nghiệp Trường Viết văn Nguyễn Du, tốt nghiệp Học viện Văn học Thế giới mang tên M.Gorki (CHLB Nga), từng là lính Hải quân, học viên trường Sĩ quan Lục quân. Hiện là biên tập viên tạp chí Văn nghệ quân đội.
4. Nghe Thầy Đọc Thơ Kính tặng thầy Lê Thường Em nghe thầy đọc bao ngày Tiếng thơ đỏ nắng, xanh cây quanh nhà Mái chèo nghiêng mặt sông xa Bâng khuâng nghe vọng tiếng bà năm xưa Nghe trăng thở động tàu dừa Rào rào nghe chuyển cơn mưa giữa trời... Đêm nay thầy ở đâu rồi Nhớ thầy, em lại lặng ngồi em nghe... 1967 Trần Đăng Khoa Nguồn: tập thơ Góc sân và khoảng trời, NXB Văn hóa dân tộc 1999 * * * Lời người sưu tập: Bài thơ Nghe Thầy Đọc Thơ của nhà thơ Trần Đăng Khoa có rất nhiều phiên bản, nguyên nhân là do sự sai biệt từ nhiều nguồn khác nhau
4a. Nghe Thầy Đọc Thơ (Phiên bản sách giáo khoa) Em nghe thầy đọc bao ngày Tiếng thơ đỏ nắng, xanh cây quanh nhà Mái chèo nghe vọng sông xa Bâng khuâng nghe tiếng của bà năm xưa Nghe trăng thở động tàu dừa Rào rào nghe chuyển cơn mưa giữa trời Thêm yêu tiếng hát nụ cười Nghe thơ em thấy đất trời đẹp ra. Trần Đăng Khoa Nguồn: SGK Tiếng Việt 4, tập 1, NXB Giáo dục, 2002
5. Dạy Học Hè năm học lớp sáu Mới hơn mười tuổi thôi Vai còn đeo khăn đỏ Mình đã đi dạy rồi! Buổi sáng mình đi học Trưa về nhà ăn cơm Chiều đi bộ lóc cóc Đến nơi thành "cô" liền! Đây hiệu kem Hồng Vân Ở góc Bờ Hồ ấy Chiều chiều mình đến đấy Dạy cho bà chủ nhà. Ối giời ôi buồn ngủ Mình ngượng quê lắm cơ Ra bài cho bà viết Là mình ngồi lơ mơ. Chẳng xứng là cô giáo Mà dạy suốt cả hè Đi dạy học năm ấy Là lần đầu, thích ghê. Phan Thị Thanh Nhàn Lời người sưu tập: Phan Thị Thanh Nhàn sinh ngày 9.8. 1943 tại Tứ Liên, quận Tây Hồ, Hà Nội. Bà làm thơ từ sớm, đầu những năm 1960 đã có thơ đăng báo. Năm 1969, bài thơ Hương thầm của bà đoạt giải nhì cuộc thi thơ của báo Văn nghệ . Bà là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Uỷ viên Ban chấp hành hội trong giai đoạn 2001-2005. Ngoài làm thơ, bà còn viết báo, truyện ngắn, truyện cho thiếu nhi. Phan Thị Thanh Nhàn kết hôn với nhà thơ Thi Nhị và người bạn đời của bà đã mất năm 1979, hiện bà đang sống cùng con gái duy nhất tại Hà Nội. Phan Thị Thanh Nhàn được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2007.
6. Bài Thơ Dâng Thầy Như ngàn con sóng dạt dào Vòng tay rộng mở ngọt ngào yêu thương Thời gian bụi phấn còn vương Tóc thầy thêm những vui buồn tháng năm. Lòng thầy khắc một chữ tâm Bao chuyến đò, bấy nghĩa nhân vời vời Tình thầy cao rộng biển trời Làm sao con viết thành lời... khó thay! Đã bao năm, con làm thầy Cũng đưa bao chuyến đò đầy sang sông Nhưng sao vẫn thấy trong lòng Chưa làm tròn những hoài mong của thầy. Vụng về câu chữ đêm nay Dâng thầy một chút lòng này cỏn con Gieo câu lục bát chưa tròn Bài thơ con viết vẫn còn... dở dang. 20.11.2008 Nguyễn Lãm Thắng Lời người sưu tập: Nguyễn Lãm Thắng vừa là bút danh vừa là tên thật, ngoài ra còn có các bút danh danh khác là Lãm Thắng, Lam Thuỵ và các bút danh viết cho thiếu nhi: Nguyễn Trần Bảo Nghi, Du Lãm, Nhật Quang... Anh sinh ngày 14.8 năm 1973 (Quý Sửu), quê tại làng Tịnh Đông Tây (Hà Dục), Đại Lãnh, Đại Lộc, Quảng Nam. Tốt nghiệp cử nhân văn-hoạ Trường Đại học Sư phạm Huế năm 1998, hiện là giảng viên Khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Huế, là hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, trưởng Gia đình Áo trắng Huế.
7. Nắng Ấm Sân Trường Cây điệp già xòe rộng tán yêu thương Lá lấp lánh cười duyên cùng bóng nắng Giờ đang học, mảng sân vuông lặng vắng Chim chuyền cành buông tiếng lạnh bâng quơ. Chúng em ngồi nghe thầy giảng bình thơ Nắng ghé theo chồm lên ngồi bệ cửa Và cả gió cũng biết mê thơ nữa Thổi thoảng vào mát ngọt giọng thầy ngâm. Cả lớp say theo từng nhịp bổng trầm Điệp từng bông vàng ngây rơi xoay tít Ngày vẫn xuân, chim từng đôi ríu rít Sà xuống sân tắm nắng ấm màu xanh. Em ngồi yên uống suối mật trong lành Thời gian như dừng trôi không bước nữa Không gian cũng nằm yên không dám cựa Ngại ngoài kia nắng ấm sẽ thôi vàng. Sân trường căng rộng ngực đến thênh thang Kiêu hãnh khoe trên mình màu nắng ấm Lời thơ thầy vẫn nhịp nhàng sâu lắng Nắng ấm hơn nhờ giọng ấm của người... Nguyễn Liên Châu Lời người sưu tập: Nhà thơ Nguyễn Liên Châu tên thật là Bùi Tấn Tiến, sinh năm 1955, quê nội ở Hải Phòng, quê ngoại ở Thừa Thiên – Huế. Ông sinh ra và lớn lên tại Đà Lạt, chuyển về Sài Gòn sinh sống từ sau năm 1975. Ông còn dùng các bút danh khác là Bùi Hữu Miên, Hồ Quốc Nhạc, Hắc Ngưu. Hiện nay ông là Giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn Tuổi Ngọc, từng thực hiện các tủ sách, tập san, tạp chí: Tuổi hồng, Sinh viên, Hoa niên, Gieo & Mở, Văn chương, Mỹ thuật thời nay, Mỹ thuật cười, Áo trắng, Tuổi ngọc, Hạnh ngộ, Văn tuyển... Nhà thơ Nguyễn Liên Châu đã tuyển nhiều thơ của Thanh Trắc Nguyễn Văn vào các tập thơ tuyển của anh, trong đó có bài thơ Chiều Trên Sông Hàn trong tập thơ Lục Bát Tình của ông. Ông có tặng cho Thanh Trắc Nguyễn Văn quyển thơ tuyển này. Còn những tuyển thơ khác do lúc đó tôi còn là giáo viên nghèo (những năm trước năm 2000) nên không có tiền mua để giữ làm lưu niệm!
8. Không Đề Cầm bút lên điều đầu tiên con nghĩ Đâu là cha, là mẹ, là thầy... Chỉ là những cảm xúc vu vơ, tầm thường, nhỏ nhặt... Biết bao giờ con lớn được, Thầy ơi ! Con viết về thầy, lại "phấn trắng", "bảng đen" Lại "kính mến", lại "hy sinh thầm lặng"... Những con chữ đều đều xếp thẳng Sao lại quặn lên những giả dối đến gai người. Đã rất chiều bến xe vắng quạnh hiu Chuyến xe cuối cùng bắt đầu lăn bánh Cửa sổ xe ù ù gió mạnh Con đường trôi về phía chẳng là nhà... Mơ màng nghe tiếng ngày cũ ê a Thầy gần lại thành bóng hình rất thực Có những điều vô cùng giản dị Sao mãi giờ con mới nhận ra. Nguyễn Thị Chí Mỹ Nguồn: Văn nghệ Tiền Giang * * * Lời người sưu tập: Nguyễn Thị Chí Mỹ là một nữ tác giả thường được chọn đăng thơ trên trang web văn học Văn nghệ Tiền Giang Online. Bài thơ Không Đề của cô đã được đem vào trong Đề thi học kì 1 môn Ngữ văn lớp 11 trường THPT Tôn Đức Thắng, niên học 2019 - 2020, tỉnh Ninh Thuận