Yêu Thương Và Tự Do - Tôn Thụy Tuyết

Thảo luận trong 'Tổng Hợp' bắt đầu bởi Đặng Châu, 27 Tháng sáu 2018.

  1. Đặng Châu Cảm ơm vì sự cố gắng của bạn.

    Bài viết:
    399
    Chương 21: VẤN ĐỀ TÂM LÝ VÀ SINH LÝ CỦA “ĂN”

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ăn là một lĩnh vực quan trọng của phát triển tâm lý và trí lực thời kỳ đầu của trẻ. Ăn có thể phát triển năng lực trí tuệ, xây dựng ý chí và sự tự tôn. Ví dụ khi chúng ta đưa trẻ đi mua đồ, nếu bạn giao cho con trẻ quyền “lựa chọn”, trẻ sẽ biết loại bỏ bao nhiêu những thực phẩm hấp dẫn bên ngoài để lựa chọn thứ trẻ cần nhất, đây là một quá trình xây dựng ý chí. Nhưng, trên thực tế rất nhiều cha mẹ đã muốn can thiệp vào quyết định của con trẻ.

    Có nhiều người làm cha mẹ cho rằng con mình thật ích kỷ. Khi trẻ ăn cơm cùng người lớn, nếu có đồ trẻ thích ăn, cho dù người khác cũng thích, thì trẻ vẫn không thèm nghĩ đến phần người khác. Hiện tượng này chứng tỏ điều gì?

    Lúc này, con trẻ chưa có ý thức “đạo đức”, nên càng không biết thế nào là “ích kỷ”. Montessori cho rằng quan niệm đạo đức được thành lập sau khi trẻ 12 tuổi. Đồ ăn rất quan trọng với trẻ, là cả thế giới của trẻ, trẻ chỉ thản nhiên và thành thực sử dụng bản năng tự nhiên của mình, giống như nhân vật trong “Tình yêu cuộc sống” của Jack London(1), sau khi trải qua trận đói thừa sống thiếu chết thì trở nên béo đến kinh người, khắp người giắt đầy bánh mì kiếm được từ khắp nơi. Kinh nghiệm đói ăn khiến anh ta thể hiện rõ bản năng.

    Nhưng khi hơn 2 tuổi, con trẻ đã có ý thức về “vật này”, “vật kia”, “của con”, “của bạn”, “của mọi người”. Cũng có thể nói một cách đơn giản là, trẻ đã có “quan niệm tư hữu” và “quan niệm của chung”. Trẻ biết cái gì là của mình, cái gì là của người khác. Lúc này, nên xây dựng cho trẻ quan niệm đạo đức là không được động đến đồ của người khác, và đồ của mình thì có thể thoải mái sử dụng và cho người khác mượn. Khi trật tự này (có thể chưa hình thành quan niệm) được thành lập, đây sẽ là một chuẩn mực cơ bản trong cuộc sống, và cũng là mầm mống của đạo đức.

    Ăn là một lĩnh vực quan trọng trong việc xây dựng tâm lý và trí lực thời kỳ đầu của trẻ. Ăn có thể phát triển khả năng trí tuệ, xây dựng ý chí và sự tự tôn. Ví dụ như chúng ta dẫn con trẻ đi mua đồ, nếu bạn giao cho trẻ quyền “lựa chọn”, trẻ sẽ biết loại bỏ bao nhiêu thực phẩm hấp dẫn bên ngoài để chọn thứ trẻ cần thiết nhất, đây chính là quá trình xây dựng ý chí. Nhưng trên thực tế, rất nhiều người làm cha mẹ muốn can thiệp vào quyết định của con trẻ. Con muốn mua thứ này thì bố mẹ liền nói: “Con đừng có lấy thứ này, ăn không tốt đâu, thứ này mới ngon”. Dụ dỗ con trẻ mua thứ mà mình cho là tốt. Kết quả là đã mua, nhưng tâm trạng trẻ không tốt, thậm chí là đau khổ. Thực tế là con trẻ luôn đánh giá cao những thứ mà chúng lựa chọn.

    Tự lựa chọn là tiêu chí để con trẻ ý thức được sự độc lập. Khi xuất hiện sự độc lập này, được nếm trải và ứng dụng, con trẻ sẽ cảm thấy vô cùng vui mừng và hưng phấn. Quá trình mua này rất có ích cho con trẻ. Nhưng con trẻ cũng sẽ dễ dàng cảm thấy bị ngăn trở và kìm nén, bởi vì ở đây liên quan đến “vấn đề kinh tế”. Tôi thường nói với các bậc cha mẹ thế này: “Bạn chọn đi, bạn dùng số tiền này để cho con một tâm trạng vô cùng vui vẻ giúp con phát triển hay là sợ lãng phí số tiền này, nên bắt con mua một thứ đồ mà bạn cho là thực dụng với con hơn”. Chúng ta phát hiện ra là rất nhiều người lựa chọn số hai.

    “Ăn” có nghĩa là sự phát triển về tâm lý và trí lực đối với trẻ, là cách nhận thức sự vật qua đường miệng, nghĩa là sự tự tôn, nghĩa là sự lựa chọn, nghĩa là sự hình thành ý chí. Vì thế ăn và chơi là hai nhiệm vụ chính của trẻ con.

    Nếu trẻ không được thỏa mãn về việc “ăn”, chắc chắn sự tự tôn của trẻ sẽ không được phát triển, lòng tự tôn của trẻ không cao. Trẻ sẽ thường xuyên nhìn đồ ăn của người khác, có những lúc không vì thỏa mãn cái bụng của mình, mà hoàn toàn chỉ là thỏa mãn cảm giác của cái miệng. Cũng giống như những đứa trẻ mới sinh cảm nhận thế giới bằng vòm miệng, cái gì con cũng cho lên miệng. Lúc này trẻ muốn nhận thức những thứ ở bên ngoài, mà thông qua đường miệng, ăn trở thành điều kiện để trẻ phát triển. Thế giới này rất phong phú, người lớn cũng thích “nếm trải”, có những lúc chỉ ăn một tí rồi thôi, có lúc chỉ muốn mua, mua về mà không làm gì. Lâu dần, tự nhiên người lớn sẽ hiểu được những thứ đó là thế nào. Người lớn còn như vậy, huống hồ là trẻ nhỏ. Ngăn cản trẻ nếm trải, cũng giống như ngăn trở chúng ta nhìn thấy thế giới đang gần trong gang tấc. Hãy cố gắng thỏa mãn mọi nhu cầu của trẻ từ 0 đến 6 tuổi, trẻ sẽ không vượt quá những điều trẻ cần. Ghi nhớ là, cố gắng thỏa mãn trẻ.

    Cách tốt nhất chính là một tuần cho trẻ mua một thứ. Cố định thời gian, ví dụ chủ nhật, vậy thì chủ nhật hàng tuần hãy đưa trẻ đi siêu thị. Chúng tôi từng hẹn ba, bốn gia đình làm thực nghiệm, sau một thời gian dài, chúng tôi phát hiện những thứ các con mua cũng không quá ba mươi tệ (một trăm nghìn tiền Việt). Bạn cho con tự do, cho con chọn lựa, không can thiệp. Tôi thường xuyên làm thực nghiệm này với con trai mình, phát hiện thấy con chỉ dùng khoảng hai mươi tệ là thôi. Tôi hỏi con có cần nữa không, cháu nói: “Thôi ạ!” và thỏa mãn ra về. Mỗi tuần một lần, cháu không xin đồ của ai, cũng không thèm thuồng đồ của ai, vô cùng tự tin. Nhìn dáng vẻ con trẻ tràn đầy tự tin lúc xách đồ và mua đồ, thật vô cùng ngây ngất.

    Theo tôi, điều kiện kinh tế cũng không ảnh hưởng đến sự phát triển của con trẻ, tiền nhiều tiền ít không quan trọng, bạn có thể căn cứ vào điều kiện kinh tế của mình để quyết định số tiền trẻ được tiêu. Mấu chốt của vấn đề nằm ở chỗ bạn có giao cho con quyền tự do lựa chọn hay không?

    Trên bàn ăn, cách ăn của trẻ con và người lớn cũng hoàn toàn khác nhau. Người lớn thích các món trên bàn ăn phải đa dạng, để thử mỗi món một tí. Trẻ con không như vậy, có lúc trẻ chỉ ăn một món rồi thôi. Có lúc con trẻ thích ăn thịt, ăn mãi không thôi, rồi một ngày thậm chí là hai ngày không ăn gì cả.

    Người lớn bắt đầu lo lắng, nghĩ đủ mọi cách bắt trẻ ăn. Nhiều khi trẻ cũng ăn để an ủi người lớn, kết quả là tiêu hóa không tốt, bị sốt, bị viêm amidan. Chúng ta thử nghĩ về con hổ mà xem, sau khi ăn xong một bữa thịt, nó phải nghỉ mấy bữa, chỉ uống nước, bao giờ đói mới ăn. Tôi tin là dạ dày của trẻ không thể tốt bằng dạ dày của hổ, tại sao không để trẻ tiêu hóa hết chỗ thịt đã ăn? Tôi để ý thấy con mình cũng như vậy, có bữa ăn hết cả đĩa thịt, có lúc chỉ ăn một bát cơm, có lúc chỉ ăn rau. Nhưng nếu xét trên cả tuần, lượng thức ăn của cháu tương đối cân bằng. Cháu khỏe mạnh, vui vẻ và ít ốm.

    Quá trình quan sát lâu dài khiến tôi nhận ra rằng, cơ thể con trẻ tự biết đói no và có thể tự điều tiết. Trẻ có thể điều chỉnh kết cấu của thức ăn qua cảm giác của cơ thể mình. Vì thế, tôi thường xuyên để các loại thức ăn khác nhau trên bàn cho con tự lựa chọn, thời gian ăn và thức ăn của mình. Đừng để con trẻ phải nói với nhau rằng: “Chúng mình khổ thật đấy, vừa phải ăn vừa phải ngủ”.

    [Còn nữa]
     
  2. Đặng Châu Cảm ơm vì sự cố gắng của bạn.

    Bài viết:
    399
    Chương 22: VẤN ĐỀ CỦA CON TRẺ TỪ ĐÂU?

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Trong một số nhà trẻ truyền thống, trẻ không được tự do hoạt động trong phần lớn thời gian mà phải ngồi rất quy củ để nghe giáo viên giảng bài. Như vậy, trẻ mất tự do, mất đi cơ hội tự phát triển bản thân. Ví dụ một đứa trẻ đang muốn đi nghịch nước, nhưng cô giáo lại bắt trẻ vẽ tranh. Khi nguyện vọng và hành động của trẻ không thống nhất, trẻ không thể tập trung vẽ tranh, vậy trẻ làm thế nào? Trẻ bắt đầu tưởng tượng, dùng sự tưởng tượng để bù đắp những hoạt động mình không thể thực hiện. Trẻ tưởng tượng mình đi nghịch nước, hoặc nghĩ ra một câu chuyện để an ủi bản thân. Lâu dần, tâm sức và hoạt động của trẻ bị tách rời nhau. “Con người bị phân liệt”.

    Montessori nói: “Kinh nghiệm cho thấy, sự phát triển bình thường của con trẻ sẽ làm biến mất những thói xấu, không chỉ đơn thuần là những gì vẫn bị cho là khiếm khuyết mà còn cả những phẩm chất chúng ta vẫn lầm tưởng là tốt đẹp”. “Những phẩm chất vẫn lầm tưởng là tốt đẹp” ở đây chỉ những “thay đổi bất thường” mà chúng tôi muốn nói đến. Montessori nói: “Trong những phẩm chất đã biến mất đó, không chỉ có sự luộm thuộm, không phục tùng, lười biếng, tham lam, tự cho mình là trung tâm, hay tranh cãi và không ổn định mà còn có cả những cái gọi là ‘tưởng tượng mang tính sáng tạo’, kể chuyện tưởng tượng, nhớ nhung người khác, trò chơi, thuận theo...”.

    Trong mắt rất nhiều người, kể những câu chuyện trong trí tưởng tượng, vui vẻ, khóc lóc, đau khổ với câu chuyện của mình là những hoạt động giàu trí tưởng tượng và sức sáng tạo. Montessori cho rằng, đây chính là những thay đổi bất thường của con trẻ. Montessori nói: “Những con người của hôm nay chưa nhận thức đúng đắn bản chất của con trẻ”.

    Montessori chỉ ra tám điểm trong những thay đổi bất thường của con trẻ. Bà nói: “Một khi con trẻ xuất hiện những thay đổi bất thường, trẻ sẽ thay đổi, có thể khiến trẻ toàn tâm toàn ý với một số hoạt động thể lực khi tiếp xúc với những hiện tượng của thế giới bên ngoài”.

    Tất cả những nguyên nhân dẫn đến thay đổi bất thường này là vì trẻ không được thực hiện những hoạt động bình thường của mình. Trước đây tôi đã nói “thực thể hóa” là mục đích phát triển của mỗi trẻ. Nhưng khi phôi thai tinh thần của con trẻ cần phát triển và chuẩn bị phát triển, thì bị người lớn ngăn cản. Ra lệnh cho con trẻ ngồi trước bàn học, nghe cô giáo giảng bài, không cho trẻ làm những việc trẻ muốn làm, lâu dần sẽ tạo thành những thay đổi bất thường ở trẻ.

    Montessori nói: “Tất cả những thay đổi bất thường ở trẻ đều có một căn nguyên - trẻ không thể thực hiện kế hoạch phát triển của bản thân, thời kỳ phát triển của trẻ gặp phải môi trường không thuận lợi. Lẽ ra năng lượng tiềm tàng của bản thân trẻ phải được thông qua quá trình thực thể hóa để thể hiện ra ngoài”.

    Montessori nói: “Khái niệm thực thể hóa có thể coi như một chỉ dẫn để giải thích tính chất của việc thay đổi bất thường ở con trẻ: Năng lực tâm lý phải được thực thể hóa trong quá trình vận động…”. Bà đã giải thích trong cuốn “Bí ẩn trẻ thơ” (The Secret of Child hood) như thế này:

    Nội tâm con trẻ có một mật mã tâm lý, mật mã tâm lý ấy chính là phôi thai tinh thần mà chúng ta đã nói ở trên. Chính con trẻ phải là người lý giải mật mã ấy trong quá trình phát triển từ 0 đến 6 tuổi của trẻ, người lớn không có khả năng và không thể lý giải mật mã này. Khi con trẻ sắp tiếp cận mục tiêu này, mật mã tâm lý nội tại của trẻ sẽ nói với trẻ: Hãy đi tiếp cận mục tiêu này, cố gắng hết sức vì việc này. Lúc này trẻ phải bước đi, nhưng người lớn lại ngăn trở. Có thể trẻ sẽ đấu tranh để thực hiện mục tiêu của mình, nhưng khả năng của trẻ yếu ớt, khi trẻ không thể làm được việc mình muốn làm, trẻ sẽ nghĩ trẻ sẽ làm những việc mình cần làm trong trí tưởng tượng, tâm sức và hoạt động của trẻ đã bị tách rời.

    Trong trường mầm non truyền thống, con trẻ không được tự do hoạt động trong phần lớn thời gian của mình, trẻ phải ngồi rất quy củ để nghe cô giáo giảng bài. Đó hoàn toàn là một trạng thái đứng yên, nhân cách bị phân liệt. Lâu dần, con trẻ sẽ trở thành một người có nhân cách không thống nhất. Nhưng loài người rất kỳ lạ, cho dù trong một môi trường như vậy, con trẻ cũng nghĩ cách để bù đắp bằng những phương thức khác. Ví dụ một đứa trẻ đang muốn đi nghịch nước, nhưng cô giáo bắt trẻ vẽ tranh, khi nguyện vọng và hành động không thống nhất, trẻ không thể tập trung vào việc vẽ tranh. Vậy trẻ phải làm thế nào? Trẻ bắt đầu tượng tượng, dùng sự tưởng tượng để bù đắp những hoạt động trẻ không thể thực hiện, tưởng tượng trẻ đang đi nghịch nước.

    Hiện tượng này không thể là tạm thời. Tại sao? Ví dụ khi đứa trẻ muốn đi làm một việc, bạn không cho trẻ làm, trạng thái của trẻ là: Tôi sẽ không làm gì cả mà chỉ ngồi đây đau khổ. Nhưng sự đau khổ ấy không thể kéo dài mãi, thế là con trẻ sẽ chuyển hướng sự chú ý, trẻ không đau khổ nữa, vì trẻ phát hiện ra điều đó là vô vọng, trẻ bắt đầu suy nghĩ lung tung. Tư tưởng là tự do, không ai có thể cấm cản nổi tư tưởng của một con người. Montessori nói, nếu con trẻ không đạt được sự “thống nhất”, cho dù người lớn chiếm giữ địa vị chi phối, hay là trẻ thiếu động lực, thì hai nhân tố cấu thành là năng lượng tâm lý và vận động sẽ phát triển theo hai đường riêng, “con người đã bị phân liệt”.

    Khoảng 2 tuổi, con trẻ sẽ liên tục đi tìm kiếm những thứ động, có âm thanh để chơi. Người lớn cho rằng như vậy thật nguy hiểm, họ ngăn cản con trẻ mà không giúp trẻ nhận thức và học cách làm thế nào để tránh sự nguy hiểm. Họ luôn dùng một thứ khác để đánh lạc hướng sự chú ý của trẻ, mà không tìm cách dạy trẻ sử dụng những động tác chính xác để đối diện với những điều trẻ cảm thấy hứng thú. Mỗi lần hoạt động, trẻ đều bị người lớn dùng một thứ khác để đánh lạc hướng. Hành động ấy của người lớn sẽ chỉ cho một kết quả, là dần dần che đậy đi phôi thai tinh thần nội tại của trẻ, trẻ không còn biết bản thân trẻ đang muốn làm gì. Trong quá trình ấy, trẻ sẽ nảy sinh một nhược điểm chết người: Hiếu động, không thể ngồi yên một phút nào! Bản thân đang chỉ dẫn trẻ đi làm một việc, nhưng một ngoại lực lại liên tục dẫn dụ trẻ đi làm một việc khác không phù hợp với mong muốn của trẻ. Montessori nói: Hiện tượng này gọi là năng lượng tâm lý và vận động không thể thống nhất.

    Trong lòng trẻ biết rõ mình nên đi làm một việc, nhưng việc trẻ bị buộc phải làm lại hoàn toàn ngược lại. Hiện tượng này thường xuyên tồn tại trong thế giới người lớn của chúng ta. Ví dụ như một người thất nghiệp, việc đầu tiên mà người đó cần làm là gì? Làm mới mình, ra bên ngoài tìm kiếm công việc mới. Nhưng tình hình lại không như vậy, anh ta ở nhà xem ti vi và oán thán. Trong lòng anh ta muốn tìm việc, nhưng những việc anh ta đang làm hoàn toàn đi ngược lại mong muốn ấy. Lại ví dụ chúng ta thấy một học sinh thi trượt đại học, nguyện vọng hàng ngày của em là làm thế nào để ôn tập, để thi đỗ đại học. Nhưng em cứ cầm đến quyển sách là lại nghĩ ngợi lung tung, những suy nghĩ lung tung ấy đã ngăn trở em. Em không thể ôn tập, tâm và lực của em đã bị phân tách. Montessori gọi sự phân tách ấy là du ngoạn trong trí tưởng tượng.

    Vậy tại sao ở con trẻ lại xuất hiện hiện tượng này? Montessori nói: “Nhìn từ bản chất thì không có thứ gì có thể bị sáng tạo hoặc mất đi, vì thế năng lượng tâm lý của con trẻ không phát triển theo phương thức nó nên có, mà hướng phát triển hoàn toàn sai lầm”. Hướng phát triển của con trẻ là như vậy, không được phát triển theo con đường đúng đắn thì sẽ phát triển theo con đường sai lầm, chứ không thể nằm ở vị trí trung gian. Trạng thái của con trẻ cũng như vậy, nếu trẻ không được hoạt động để thực thể hóa theo đúng quỹ đạo của mình (phôi thai tinh thần), thì trẻ sẽ bị kìm nén. Montessori nói: “Khi những năng lượng tâm lý này lớn đến nỗi đánh mất điểm cuối cùng, rồi dạo chơi không mục đích, nó sẽ trở thành thay đổi bất thường”.

    Con người phải có một mục tiêu cuối cùng, từ đầu đến cuối phải phát triển theo mục tiêu đó, trẻ con càng như vậy. Mục tiêu này rất rõ ràng. Nhưng mục tiêu này luôn hoạt động. Nếu bạn không cho trẻ phát triển, cũng có nghĩa là bạn đã cản trở mục tiêu cuối cùng của trẻ. Người lớn nói với trẻ: “Hôm nay con đừng hòng làm trò đó!”. Còn con trẻ lại nói với bạn: “Mẹ ơi, con rất muốn, mẹ hãy để con làm đi!”. “Không được, mẹ cấm con đấy, đừng bao giờ nói với mẹ chuyện này nữa”. Một khi con trẻ phát hiện thấy chúng không thể thực hiện việc này, chúng sẽ du ngoạn trong trí tưởng tượng, trẻ lớn nhỏ đều như vậy cả. Montessori nói: “Bản thân tâm hồn phải được điêu khắc từ những hoạt động thể lực tự phát”. Nhất định bạn phải hiểu rõ câu nói này, tâm hồn phải được thể hiện bằng những hoạt động thể lực tự phát, chứ không phải là nghe theo người lớn nói nên làm như thế nào. Ví dụ trẻ con dưới 3 tuổi, con phải đi khắp mọi chỗ, sờ mó, thậm chí là đập phá đồ đạc. Lúc này, người lớn phải thuận theo tự nhiên, chỉ cần không nguy hiểm thì hãy cứ để trẻ sờ mó. Chỉ có như vậy, con trẻ mới thực sự phát triển, tiến đến sự thành thục. Nếu không, trẻ sẽ trốn trong trí tưởng tượng để tự thỏa mãn tâm lý của mình. Tôi thường nói, khi một người bị thương, nếu không có ai an ủi, người đó sẽ tự an ủi mình, lấy tay chấm lên lưỡi rồi chấm chấm vào vết thương, sau đó tự nói với mình: “Mày thật là đáng thương!”, “Mày thật là đau đớn!” vì không được người khác an ủi. Con trẻ cũng như vậy, khi mục tiêu cuối cùng của trẻ bị phá hoại, trẻ sẽ trốn trong thế giới hoang tưởng.

    Một số người lớn chúng ta cũng vậy, chúng ta biết rõ là mình không thể thi đỗ đại học, mặc dù sự thực này đã rất chân thực, nhưng chúng ta vẫn cố tự nói với mình: Nếu mình đỗ đại học thì sẽ thế nào? Nghĩ rất nhiều, rất nhiều việc. Thậm chí, con người ta có thể chìm đắm trong sự hoang tưởng ấy đến hàng mấy tháng trời, để an ủi bản thân mình.

    Sự tưởng tượng ấy đối với con trẻ vô cùng đáng sợ, đối với người lớn lại càng đáng sợ hơn. Rất nhiều người lớn chúng ta buổi sáng không chịu dậy mà nằm ì trên giường nghĩ ngợi lung tung. Trên thực tế những suy nghĩ ấy chẳng hề có ích gì cho họ. Có những người buổi tối đi ngủ rất sớm, nằm lên giường là nghĩ ngợi lung tung. Nguyên nhân là do đâu? Đó là vì thời thơ ấu của họ, năng lượng tâm lý và vận động bị phân tách nhau, lâu dần sự phân tách ấy hình thành một thói quen, đến khi họ trưởng thành, trở thành những người chỉ biết nghĩ mà không biết làm. Cũng giống như Montessori đã nói, người đó sẽ là một người rất đa cảm, rất lãng mạn nhưng không hề có ý chí. Có thể người đó sẽ nói: “Tôi thích tác phẩm văn học, tôi muốn làm một nhà văn”. Nhưng họ không có ý chí, vì muốn làm một nhà văn, không những cần năng khiếu, mà còn cần sự nỗ lực và quá trình lao động gian khổ. Họ không chịu lao động gian khổ và nỗ lực, tức là không có ý chí. Vì thế cả cuộc đời họ, có thể lúc này thì thích cái này, lúc khác lại thích cái kia nhưng không làm nên trò trống gì. Trạng thái này cũng chính do việc du ngoạn trong trí tưởng tượng của thời kỳ ấu thơ tạo thành.

    Montessori nói: “Khi những tâm hồn phiêu dạt không tìm thấy đối tượng công việc của mình, nó sẽ bị hấp dẫn bởi những hình ảnh và ký hiệu”.

    Chúng ta nên nhìn lại để kiểm điểm mình, tìm kiếm những sai lầm trong phương pháp giáo dục của chúng ta. Khi những tâm hồn phiêu dạt của con trẻ không tìm được đối tượng công việc của mình, có thể trẻ sẽ tìm đến hình ảnh và ký hiệu. Chúng ta hãy nghĩ về sự nghiệp giáo dục mà chúng ta đang theo đuổi, không những không cho con trẻ có cơ hội hoạt động mà còn cố ý, nỗ lực mang hình ảnh, ký hiệu dạy cho con trẻ, để con trẻ du ngoạn trong trí tưởng tượng. Bởi vì khi phần lớn giáo viên của chúng ta giảng bài cho trẻ, không phải là cho trẻ tự do hoạt động để phát triển tâm lý và trí tuệ, mà là thông qua những lời giảng của cô giáo để trẻ du ngoạn trong trí tưởng tượng. Ví dụ đề tập làm văn của một học sinh lớp ba là trồng cây, cô giáo kể cho học sinh nghe một câu chuyện về trồng cây để học sinh tả việc trồng cây. Con trẻ chưa bao giờ trải qua việc trồng cây, chỉ có thể dựa vào sự dẫn dụ của giáo viên và trí tưởng tượng hư cấu của mình để làm bài tập làm văn trên.

    Một người có ý chí từ thời thơ ấu, sau này sẽ có thể đối mặt với mọi khó khăn. Nếu không người đó chỉ có thể đứng bên và nghĩ. Thấy người khác làm được, họ sẽ nghĩ thế này: Có gì là hay ho chứ, tôi cũng làm được, chỉ là tôi không làm mà thôi. Ví dụ những người cùng thời với Columbo, họ nói rằng: “Phát hiện ra châu lục mới à? Chúng tôi cũng có thể làm được”. Cũng giống như việc thao tác đồ dùng dạy học, đứng ngoài nhìn cảm thấy rất đơn giản, phải bắt tay vào làm mới biết mình vụng về thế nào. Nhìn và làm là hai việc hoàn toàn khác nhau. Giáo dục Montessori nói với chúng ta: Quá trình phát triển tâm lý và trí tuệ của trẻ là một quá trình hoạt động, con trẻ thông qua những hoạt động của mình để phát triển tâm lý và trí tuệ của bản thân. Nếu trẻ không làm được điểm này, tâm hồn trẻ sẽ du ngoạn khắp nơi, vì trẻ không tìm được thứ để học, trẻ sẽ cảm thấy đau khổ. Trong đau khổ, cũng giống như Montessori từng nói: “Chịu đựng sự giày vò lạc điệu này khiến con trẻ đứng ngồi không yên, trẻ đang tràn đầy sức sống và không thể kìm nén mình, nhưng không có mục đích”.

    Vì thế mới xuất hiện tình cảnh khi bé Châu Châu vừa vào trường chúng tôi: Khi bé vừa đến, bé cầm lên một đồ vật, còn chưa làm xong, bé lại vứt nó xuống và cầm thứ khác, chưa làm xong lại vứt xuống. Cô giáo nói, khi bé nhìn thấy một mục tiêu, bé bước tới mục tiêu đó, thì có bảy, tám mục tiêu khác đang hấp dẫn bé. Những mục tiêu liên tục nảy sinh đó khiến tâm lý và trí tuệ của bé bị rối loạn. Một đứa trẻ bị kẹt trong những hỗn loạn sẽ đứng ngồi không yên, trẻ sẽ vô cùng hiếu động và lo lắng. Chúng ta biết rằng nỗi lo lắng của người lớn cũng là từ đây mà ra. Khi một người kiên định bước về phía mục tiêu của mình, người đó sẽ không lo lắng. Ngược lại, khi một người không biết mình nên làm gì, họ sẽ hoảng loạn, sẽ lo lắng. Vậy thì tất cả những điều này của người lớn đến từ đâu? Đến từ thời thơ ấu. Nếu một người trong cả quá trình ấu thơ của mình được thực thể hóa hết mọi hoạt động, trạng thái nhân cách của người đó sẽ được hình thành, họ sẽ được đứng lên như một con người. Nhưng rất nhiều người không như vậy, thời kỳ thơ ấu của họ không hoàn thành được quá trình thực thể hóa, nên chỉ có thể chìm trong trạng thái du ngoạn trong trí tưởng tượng, chờ đợi người lớn sáng tạo ra mình.

    Montessori nói: “Cho dù người lớn trừng phạt hay nhẫn nại chịu đựng những hành vi không quy phạm và thiếu mục tiêu của những trẻ em bất thường này, trên thực tế họ đã tán thành và cổ vũ con trẻ hoang tưởng và giải thích thành khuynh hướng tính sáng tạo của tâm hồn con trẻ”. Về điểm này tôi có một cảm nhận rất sâu sắc. Bạn tôi có con 4 tuổi, cô ấy thường khen con mình: “Con tớ thông minh lắm!”. Tôi hỏi: “Thông minh như thế nào, cậu nói cho tớ nghe xem”. Cô ấy nói: “Con tớ rất sáng tạo. Cậu xem, con trai tớ thường ngồi đó, tưởng tượng ra những câu chuyện, vừa nghĩ vừa khóc, có khi nghĩ xong lại cười”. Tôi nói với cô ấy: “Con trẻ không nên như vậy, vì câu chuyện ấy không có thật, nên cháu không cần phải khóc”. Nhưng bé vẫn chìm đắm trong câu chuyện đó, lúc khóc, lúc cười. Một lát sau cô ấy nói: “Cậu xem, nếu con tớ không sáng tạo, thì tại sao lại nghĩ ra được nhiều câu chuyện như thế!”. Tôi nghe và nghĩ, thôi hỏng rồi, đứa trẻ này đã mắc chứng hoang tưởng, nhưng người mẹ lại không hiểu. Nếu bạn nói với cô ấy rằng: “Con cậu mắc chứng hoang tưởng rồi”, chắc chắn cô ấy không chấp nhận hiện thực này. Cô ấy bảo: “Tại sao cậu lại nói như vậy? Đây là sáng tạo”. Điều đáng sợ nhất là những người làm cha mẹ không biết con mình đang gặp phải vấn đề, mà lại coi vấn đề ấy là ưu điểm của con. Chúng ta thường nhìn thấy rất nhiều trẻ dùng đồ dùng dạy học để “làm bánh ga-tô”, “chơi đồ hàng”. Lúc đó rất nhiều người hỏi: “Có nên để các con làm như vậy không?”. Lúc đó tôi đã suy nghĩ hơn cả tháng trời, tôi cảm thấy đây chính là du ngoạn trong thế giới tưởng tượng. Bao nhiêu trẻ con đang “chơi đồ hàng”, chúng ngồi ở đó, đứa làm bố, đứa làm mẹ… Tôi biết là những trẻ ở trường khác thường xuyên có hoạt động này, giả vờ làm bác sĩ, giả vờ mua hàng, giả vờ làm gia đình, giả vờ làm… và gọi đó là tiết học hứng thú, trò chơi phân vai. Một lần tôi đến nhà bạn học chơi, cố ý mang theo một số thứ để làm trắc nghiệm tâm lý cho con nhà bạn. Bé hơn 2 tuổi, năng lực ngôn ngữ rất tốt. Tôi hỏi cháu: “Con nói cho dì nghe, hôm nay con đã làm những việc gì?”. Bé đứng ở đó suy nghĩ một lúc rồi nói: “Cỏ, chim, mọc lên, máy bay trên trời, chim bay đi rồi”. Là người lớn, bạn có thể tưởng tượng ra cỏ, chim mọc lên không? Cỏ và máy bay có liên hệ gì với nhau? Mẹ bé cười, nói: “Là thế này, hôm nay lúc tớ và con ra ngoài vườn cắt cỏ thì có một chiếc máy bay bay ngang qua trên bầu trời”. Trạng thái này là bình thường vì cháu đang miêu tả một cảnh tượng. Chúng ta lại nói về một bé khác mới vào trường, bé ngồi đờ đẫn nhìn ra cửa sổ, cô giáo đi ngang qua hỏi: “Con đang nhìn gì thế?”. Đứa trẻ đó trả lời: “Có một cánh tay đang bay”. Đây rõ ràng là hoang tưởng, là du ngoạn trong trí tưởng tượng.

    Du ngoạn trong trí tưởng tượng cũng mượn đến cả đồ chơi, và các hoạt động chơi đồ chơi. Sau khi con trẻ cảm thấy tự do, có những trẻ không thao tác đồ dùng dạy học mà là chơi đồ dùng dạy học, cũng chính là những việc kiểu như “chơi đồ hàng”. Ở năm đầu tiên, hiện tượng này tương đối nghiêm trọng. Tôi có chút lo lắng, sau đó tôi nảy sinh ra hai cách nghĩ. Một là, con trẻ tiếp tục trạng thái du ngoạn trong trí tưởng tượng một thời gian nữa; một cách nghĩ khác là, liệu có phải vì thời kỳ nhạy cảm mô phỏng của trẻ chưa được thỏa mãn? Thời kỳ nhạy cảm mô phỏng xảy ra vào lúc trẻ khoảng 1 tuổi rưỡi. Khi con trẻ 2 tuổi, trẻ thích nhất là mô phỏng. Bạn đi mua rau, trẻ sẽ xách theo cái làn; bạn lau mũi, vứt giấy vào thùng giấy, trẻ cũng sẽ lau, cũng sẽ vứt giấy vào thùng, đến khi nào hết giấy thì thôi. Bạn làm gì trẻ cũng sẽ làm theo.

    Lúc đó tôi nghĩ, liệu có phải vì trong thời kỳ nhạy cảm mô phỏng của mình, trẻ vẫn chưa cảm thấy thật thoải mái. Ở trường chúng tôi, lớp nào cũng có đầy đủ cả bộ nồi, bát, muôi, đĩa, đồ gia dụng… Đầu tiên, bọn trẻ tranh nhau sử dụng, nhưng chơi được hơn một tháng thì bỏ. Tất cả trẻ đều vậy, nhưng ba năm sau, tình trạng này đã không còn nghiêm trọng, trong đó phần lớn trẻ đã không còn coi đồ dùng dạy học là đồ chơi, cũng không còn thấy trẻ chơi đồ hàng, rõ ràng những điều này không hề liên quan gì đến mô phỏng.

    Tự do, cho phép trẻ được làm những gì trẻ muốn là cách tốt nhất để trị liệu chứng du ngoạn trong trí tưởng tượng.

    Montessori cho rằng tất cả mọi thứ đều phải chân thực. Phương pháp giáo dục Montessori bao gồm cả giờ học kịch. Rất nhiều người cho rằng, giờ học kịch của trường Montessori cũng là đóng vai, cậu đóng vai mẹ, tớ đóng vai gì? Không phải, tất cả giờ học kịch của trẻ đều đến những địa điểm có thực. Ví dụ cửa hàng, bệnh viện, bưu điện, ga xe lửa… Nếu tiết học kịch hôm nay trẻ là đến bệnh viện, vậy thì cô giáo sẽ dẫn trẻ đi đến bệnh viện lấy số, khám bệnh. Tất cả cảnh tượng đều phải chân thực. Ví dụ như ống nghe, trường chúng tôi phải mua loại ống nghe thật để trẻ nghe.

    Dưới góc nhìn của người lớn, con trẻ là thật, nhưng những đối tượng hoạt động của con trẻ có thể là giả, thế là người lớn được thể giả vờ, và trẻ con phải tưởng tượng đó là thật. Montessori nói: “Người lớn dạy trẻ con quan sát họ lấy gỗ làm ngựa, tường thành hay xe lửa. Trí tưởng tượng của trẻ có thể gán cho mỗi loại vật thể một ý nghĩa tượng trưng, nhưng đây chính là một cảnh tượng được sinh ra từ trí tưởng tượng của tâm hồn con trẻ. Một trục xoay biến thành con ngựa, một cái ghế biến thành ngai vàng, một khối đá biến thành chiếc máy bay. Con trẻ có thể chơi những đồ chơi mà chúng có, nhưng những đồ chơi đó mang lại ảo giác mà không thể đem đến cho các con sự tiếp xúc với thực tại giàu tính xây dựng”. Khi con trẻ không có đủ tình yêu, những nguy cơ sẽ xuất hiện, đó chính là quá trình sinh ra sự thay đổi bất thường ở trẻ.

    Montessori nói: “Người lớn cho rằng, đối với những hoạt động tùy ý của con trẻ, đồ chơi là con đường duy nhất để phát tiết tinh lực của trẻ”. Nhưng phần lớn những phụ huynh của trường Montessori chúng tôi đều nói rằng, mua đồ chơi cho trẻ, trẻ chơi được mấy ngày là thôi, thậm chí có những thứ chỉ cầm lên là vứt. Đương nhiên, một đồ chơi có tuổi thọ đến một giờ đồng hồ đã là có ý nghĩa rồi.

    Nhưng con trẻ có một niềm yêu thích dài lâu với những đồ dùng dạy học Montessori. Có những trẻ ở trong trường ba năm, ngày nào cũng liên tục thao tác những đồ dùng dạy học này. Bởi vì đồ dùng dạy học Montessori có mục đích giáo dục, mục đích ấy khiến trẻ liên tục phát hiện ra những điều mới mẻ sau mỗi lần thao tác. Trẻ không ngừng thao tác, không ngừng phát hiện các bí mật, nên đây cũng là một công cụ giúp trẻ phát triển tâm lý và trí tuệ về lâu dài. Ví dụ như gậy dài, có trẻ thao tác gậy dài trong vòng ba tháng, có lúc trẻ xếp đứng những cây gậy, xếp xong thì bắt đầu sờ, sờ hết cây này đến cây khác. Cô giáo cũng không hiểu tại sao trẻ làm vậy? Nhưng con trẻ là vậy. Sờ xong, trẻ lại cầm cây gậy ngắn nhất, bắt đầu so sánh từng cây một, so sánh xong thì đẩy một cái, “ầm…”, những cây gậy đổ rạp xuống như trò chơi domino. Trong này, chắc chắn có những điều con trẻ đang cần, nếu không, sao trẻ có thể thao tác một đồ dùng dạy học trong ba tháng trời? Cũng có nghĩa là, bộ đồ dùng dạy học này có thể giúp cho trẻ thực thể hóa tinh thần phôi thai, trẻ đã đạt được mục đích của mình.

    Nhiều đồ chơi có tuổi thọ vô cùng ngắn. Tôi thường nghĩ, cả quá trình thao tác đồ dùng dạy học Montessori là có quy luật. Con trẻ sinh ra đã thích các quy tắc, vui mừng khi phát hiện ra những quy tắc, niềm vui ấy thúc đẩy trẻ tiến hành những hoạt động trí lực tự chủ tự giác, cao hơn. Thông qua sự phát triển tâm trí của mình, con trẻ không ngừng thay đổi phương pháp thao tác đồ dùng dạy học, sau đó căn cứ vào độ thành thục của thao tác mà phát hiện ra những bí mật bên trong. Nhưng tất cả những điều này phải được tiến hành trong trạng thái tự do, tự nguyện, trẻ có thể làm việc, cũng có thể ra ngoài chơi. Nếu không làm được điều này, trẻ không thể phát triển. Nhưng người lớn lại hay suy đoán trẻ. Montessori nói: “Mặc dù con trẻ nhanh chóng chán ngấy đồ chơi của mình, và làm hỏng chúng, nhưng niềm tin này của người lớn không bao giờ thay đổi”. Tất cả những người lớn vẫn đang tiếp tục mua đồ chơi cho trẻ con, cho trẻ con chơi, tưởng rằng đồ chơi là thứ duy nhất trên thế giới này có thể phát triển trí tuệ của trẻ. Montessori nói: “Đồ chơi là sự tự do duy nhất của con trẻ trên thế giới, nhưng trong khoảng thời gian quý báu này, con trẻ càng nên xây dựng một nền móng cơ bản để hoàn thiện cuộc sống của mình”. Nền móng ấy hoàn thiện nhờ vào sự phát triển tâm lý và trí tuệ của bản thân con trẻ. Đồ chơi trong mắt người lớn chỉ có tác dụng khi con trẻ không coi đó là đồ chơi. Nhưng người lớn không biết điều này. Vì thế, tại rất nhiều trường học và trong mắt rất nhiều người làm cha làm mẹ, sự “phân liệt” của trẻ lại được cho là sức sáng tạo và sức tưởng tượng. Khi chúng ta nhìn thấy con trẻ chơi đồ chơi, nghe thấy con trẻ tự tạo một câu chuyện, chúng ta tưởng rằng trẻ có óc tưởng tượng.

    Một đứa trẻ bình thường sẽ không làm thế. Trẻ vừa được sinh ra vài năm, tất cả sinh lực của trẻ và tất cả yêu cầu của bản thân trẻ liên tục nói với trẻ rằng: “Đi nhận biết thế giới để tự phát triển”. Mỗi phút của trẻ cần hoạt động và hoạt động, nhưng đứa trẻ lại ngồi đó để nghĩ ra những câu chuyện, đây có vẻ giống hoạt động của một người già hơn.

    Một hôm có một cô giáo nói với tôi: “Lớp em mới có một bé chuyển đến, em cảm thấy bé chẳng có hứng thú với bất cứ thứ gì, bé ngồi trên xe, ngồi rất nghiêm chỉnh, không muốn gì cả, cứ ngồi bất động như thế”. Tôi nói: “Có thể đứa trẻ này lớn lên cùng ông bà”. Cô ấy nói: “Đúng thế”. Một đứa trẻ thì không thể ngồi yên một chỗ, đó là trạng thái của người già. Một bên là mặt trời mới mọc, một bên là mặt trời sắp khuất núi, đây là hai kiểu người có cảm nhận hoàn toàn khác nhau về thế giới, nhưng lại bị ép gắn kết với nhau. Một người vừa bắt đầu cuộc sống của mình, tràn đầy hào hứng với thế giới này, người kia thì đã sắp đi đến cuối cuộc đời, dựa vào hồi ức để sống qua ngày, nhưng chúng ta lại ép hai người họ ở với nhau. Rõ ràng không thể nói là dạy cái gì, mà tâm thái ấy sẽ ảnh hưởng đến con trẻ, khiến trẻ không còn cảm hứng với thế giới. Ở trường chúng tôi cũng có những trẻ như vậy, lúc mới đến trẻ không hứng thú với việc gì, không thích cái gì. Bạn muốn bảo trẻ làm gì trẻ cũng không tham gia, trẻ không tập thể dục, không thích đi công viên, cứ ngồi ở đấy nhìn ông già phía đối diện, một, hai giờ không biết chán. Các cô đùa với nhau rằng: “Không hiểu điều gì có thể khiến một đứa trẻ hiếu động lại thành ra thế kia?”.

    Tại sao lại như vậy? Chúng ta biết là, khi một đứa trẻ sống với bà, việc bà thích làm nhất chính là “tự quyết định”. Khi đứa trẻ phát hiện bên kia đường có một con sâu nhỏ, trẻ hiếu kỳ bước về phía con sâu đang động đậy. Bà liền không do dự mà kéo trẻ đi, bà sợ phiền phức. Cách làm này khiến tinh thần trẻ phân liệt, phá vỡ quá trình thực thể hóa của con trẻ.

    Nhưng khi chúng tôi tạo cho con trẻ một môi trường tốt ở trường học, khi con trẻ có thể ngay lập tức hòa mình vào môi trường thì sự kích động, hoang tưởng và hiếu động của trẻ sẽ không còn nữa. Tôi biết ở Bắc Kinh có một trường học chuyên trị liệu chứng tăng động cho trẻ, trường học cho trẻ chơi, sờ mó một số đồ vật, và còn làm ra một số thiết bị rồi thu tiền rất đắt. Nhưng chúng ta biết rằng, sự hiếu động ở trẻ là hậu quả của một thời gian dài. Vì thế muốn điều trị cũng cần phải có một thời gian dài, cho trẻ một môi trường tự do, để trẻ lắng nghe tiếng lòng của mình, để trẻ liên tục được hoạt động. Vì thế một tiết học sẽ chẳng thay đổi được điều gì. Tôi đã nói với người bạn giới thiệu trường học đó là: “Trường Montessori không có đứa trẻ nào hiếu động. Muốn cho trẻ phát triển bình thường thì hãy thử dùng phương pháp giáo dục này”.

    Chỗ chúng tôi có một bé tên là Châu, ban đầu bé rất hiếu động. Cô giáo vừa quay đi, bé đã vứt toàn bộ cốc của lớp từ tầng hai xuống dưới. Động tác của bé cực nhanh, vừa cởi áo khoác của bé để cất lên mắc, cô quay ra cởi áo cho bạn khác thì bé đã kịp cho áo vào chậu. Bé nhìn thấy cô quay lại thì sẽ chạy biến đi, vì bé biết người lớn sẽ đuổi theo bé. Ở bé đã hình thành một tâm thái, nhìn thấy người lớn thì chạy càng nhanh hơn. Động tác của bé rất nhanh, nắm cái này bắt cái kia khiến cô giáo quay như con thoi. Tôi nói với mẹ của bé là: “Hai bên chúng ta cùng phối hợp, từ hôm nay trở đi, cháu có làm gì cũng không được nói, cho dù là cháu đang phá hoại cũng không được nói, cứ để cháu tự điều chỉnh bản thân mình”. Ba tháng sau, bé đã thay đổi. Một hôm khi mẹ bé chờ đón con, thấy con đang chơi ở bãi cát, cô ấy đã nói với tôi rằng: “Em rất cảm ơn nhà trường. Em quá mãn nguyện, mới ba tháng, con em đã có thể chơi trong bãi cát đến hai tiếng đồng hồ”. Vì thế tôi đã nói với rất nhiều người là: “Trường Montessori không có trẻ mắc chứng tăng động, không có đứa trẻ nào hiếu động. Bọn trẻ đều có thể ngồi rất lâu để nhìn ngắm, thao tác những thứ mình thích”.

    Montessori nói, khi mới vào trường Montessori, dù ít dù nhiều trẻ đều có những trở ngại về tâm lý, những trở ngại ấy hình thành từ gia đình. Vì thế trên thế giới, sau khi vào trường Montessori, trẻ sẽ có hai tháng rưỡi để tự điều chỉnh. Hai tháng rưỡi sau, nếu trẻ chưa yên tĩnh, chưa có được trạng thái làm việc tập trung, thì cô giáo chính là người phải tự kiểm điểm lại: Có thể cô chưa cho trẻ đủ tình yêu và tự do. Tiếp tục chờ đợi, nếu sau ba tháng con trẻ vẫn chưa thể bước vào trạng thái, cô giáo phải tự kiểm tra lại mình: Cô có cho trẻ đủ tự do không? Cô chưa làm tốt ở điểm nào? Hay là cô chưa dành cho trẻ đủ tình yêu? Tình trạng của cha mẹ như thế nào? Tự kiểm tra như thế, cô sẽ tìm ra nguyên nhân.

    Có những đứa trẻ trong vòng một tuần đã bước vào trạng thái, những trẻ chậm hơn chút thì một tháng. Trong những trạng thái bình thường, từ hai tháng rưỡi đến ba tháng là con trẻ sẽ bước vào trạng thái. Chỉ có những trẻ 5 tuổi trở lên, hoặc những trẻ đã học trong trường truyền thống quá lâu mới cần đến thời gian từ nửa năm đến một năm. Cô giáo phải liên tục điều chỉnh, vì trẻ đã bị đè nén quá lâu, lại cộng thêm tâm lý và trí tuệ mang tính hấp thu của trẻ đã sắp mất đi, nên các cô giáo rất vất vả, các cô rất sợ khi lớp nhận thêm những học sinh kiểu thế này.

    Môi trường mà chúng tôi mang đến cho trẻ có thể giúp cho những hành vi không mục đích, những hành vi hiếu động của trẻ trở nên có phương hướng. Montessori nói: “Bàn tay và khối óc con trẻ trở thành công cụ của tâm hồn cho những khát vọng tìm hiểu và nhận thức chân thực hiện thực xung quanh. Sự nghiên cứu tri thức đã thay thế cho sự hiếu kỳ không mục đích”. Những thay đổi tâm lý bất thường ở trẻ lớn càng nghiêm trọng và phức tạp hơn, trong môi trường tự do, những đè nén trong quá khứ cũng cần đến một thời gian dài để dần dần giải tỏa. Bởi vì du ngoạn trong trí tưởng tượng là một kiểu trốn tránh, trốn trong những trò chơi hoặc trốn trong thế giới hoang tưởng để che giấu tâm lý và trí lực đã bị phân liệt. Trạng thái du ngoạn trong trí tưởng tượng cũng là một kiểu tự phòng vệ vô thức, một kiểu tự trốn tránh khỏi nguy cơ và hiểm nguy, ẩn mình sau lớp mặt nạ. Người lớn cũng vậy, khi chúng ta không có cách nào để giải quyết một vấn đề, chúng ta sẽ chìm đắm trong sự hoang tưởng, để tự an ủi và lẩn tránh mình. Nếu một người lớn trở thành như vậy, thì sự tự mâu thuẫn của anh ta lại càng trầm trọng, những vấn đề về tâm lý giống như một bức tường, anh ta không thể vượt qua bức tường ấy, nên cứ ở trong đó chơi trò chơi mà không biết thế giới bên ngoài như thế nào? Thế giới bên ngoài rất rộng lớn, anh ta muốn ra, nhưng không ra được, anh ta liên tục bị húc đầu vào tường, liên tục tự an ủi trong sự tự đấu tranh. Bởi vì con người thật khổ sở, những lúc không được ai an ủi, anh ta sẽ tự an ủi mình. Có những lúc chúng ta tự lừa dối bản thân, ví dụ như trong tình yêu, tôi phát hiện ra phần đông phái nữ có một đặc điểm: Cô ấy đã phát hiện ra người đàn ông có vấn đề, mà toàn là những vấn đề quan trọng, nhưng cô ấy vẫn tự nói với mình “không phải thế”. Sau đó cô ấy tự tìm một lý do để “rũ tội” cho anh ta. Để đến sau khi kết hôn mới phát hiện ra sự tưởng tượng đã tan biến, cô ấy đau khổ vô cùng, cô ấy sẽ nói rằng: “Anh là kẻ lừa đảo”.

    Cách đây không lâu tôi có đọc được một báo cáo nghiên cứu của người Mỹ, một đứa trẻ dù là trai hay gái, thì trong mắt trẻ, người đàn ông đầu tiên chính là bố mình, người phụ nữ đầu tiên chính là mẹ mình. Nếu bé gái không được bố mình công nhận, sau khi trưởng thành sẽ có một đặc điểm là, khi con tìm được người đàn ông của mình, cô ấy sẽ lưu luyến người này, nếu người này rời bỏ cô ấy, cô ấy sẽ vô cùng đau khổ, cô ấy phải tìm mọi cách để có được sự khẳng định của người này. Đã có rất nhiều người, khi đối phương nói là không yêu họ, vốn dĩ họ có thể từ bỏ và đi tìm một tình yêu và hạnh phúc mới, nhưng không, cô không yêu tôi, tôi sẽ giết cô, tôi sẽ tìm mọi cách để cô yêu tôi. Trên thực tế anh ta có yêu cô ấy không? Anh ta không yêu, mà chỉ quá lưu luyến mà thôi. Anh ta đang tìm kiếm điều gì? Anh ta đang tìm kiếm sự khẳng định của mẹ mình, tìm kiếm sự khẳng định của bố mình. Bi kịch của nhân loại chính là ở đây, những điều đó đã được hình thành từ thời thơ ấu của những người này.

    Chúng ta biết, một đứa trẻ cho dù bị mẹ đánh đến thế nào vẫn sẽ yêu mẹ, muốn mẹ khẳng định mình. Nếu con trẻ cần tình yêu của bạn, tại sao bạn không thể cho con tình yêu? Con được thỏa mãn, bạn cũng thỏa mãn, đây chính là một việc tốt trúng cả hai mục đích, nhưng chúng ta lại không thể. Rất nhiều đứa trẻ nói: “Mẹ ơi bế con!”. Người mẹ nói: “Không bế được, con lớn rồi, con đã độc lập, con phải học cách tự đi đi”. Đứa bé chạy theo nói: “Mẹ ơi bế con, mẹ ơi con mệt lắm, con đau bụng”. Đứa con nghĩ ra mọi cách để được mẹ bế, người mẹ thì cho rằng không nên bế con, mà phải để con học cách độc lập.

    Từ những đứa trẻ, tôi đã phát hiện ra rằng, trẻ trên 5 tuổi có một nỗi lo lắng, nỗi lo lắng ấy đến từ chính sự trưởng thành của trẻ. Trẻ 5 tuổi rưỡi, trẻ cảm nhận được sau 6 tuổi trẻ sẽ thay đổi, sự thay đổi ấy khiến trẻ sợ hãi, vì thế trẻ lại quay ra quấn mẹ. Giống như một đứa trẻ 12 tuổi, trẻ cảm nhận được cuộc sống của trẻ đang thay đổi, và sợ hãi sự thay đổi ấy. Trên thực tế, sự thay đổi ấy là sự thay đổi hướng tới độc lập, trẻ ngày càng cách xa mẹ, cách xa bến bờ an toàn của bản thân trẻ, trẻ phải tự bơi ở thế giới bên ngoài. Ý thức tiềm tàng ấy thật mãnh liệt. Bạn hãy quan sát xem, trẻ 7, 8 tuổi quấn mẹ nhất, hơi một tí là chạy ra bên cạnh mẹ. Đây gần như là sự lưu luyến trước lúc chia xa, từ 3 đến 6 tuổi, rồi đến 9 tuổi, trẻ phải liên tục vươn tới sự độc lập, nhưng có chút lo lắng và sợ hãi, trẻ cần có một sức mạnh để bước tiếp, trẻ muốn có tình yêu của mẹ.

    Lúc con tôi 5 tuổi, ngày nào cũng bắt mẹ bế lên bế xuống cầu thang, lên xe không chịu ngồi sau mẹ mà ôm hẳn lấy mẹ, hai tay ôm cổ mẹ. Tôi bế con xuống xe, rất nhiều người bảo: “Chiều con thế, chiều lắm con sinh hư”. Tôi nghĩ, con thích cảm giác nào thì cho con cảm giác ấy, tôi cảm thấy điều này không thể làm hư một đứa trẻ. Yêu thương sao có thể làm hư một đứa trẻ? Giúp con trẻ trưởng thành, vì con thiếu thốn sự giúp đỡ, bởi vì chúng ta là tất cả những gì con trẻ có. Nếu người làm mẹ mà không thể bảo vệ quá trình trưởng thành của con mình, bạn thử suy nghĩ xem, thế gian còn có ai có thể làm được việc này?

    Chúng ta hãy cùng đọc một câu chuyện trên “Reader’s Digest” (tạp chí chuyên về gia đình của Mỹ): Một thợ săn đang săn đuổi một đàn hươu, đuổi đến một ngọn núi, bên dưới là một vách đá, vách đá này cách vách đá đối diện một khoảng khá xa. Khi người thợ săn đuổi đến đây, đàn hươu bỗng trở nên yên lặng, hình như chúng đang mở một cuộc họp. Sau khi cuộc họp kết thúc, một con hươu già nhảy về phía vách đá bên kia, khoảnh khắc ấy, một con hươu già khác cũng nhảy theo. Bởi vì không con hươu nào có khả năng nhảy sang vách bên kia, chỉ khi con hươu đằng trước đang cố sức vượt qua, con hươu đằng sau cũng cất bước, giẫm móng sau của mình lên thân con hươu đằng trước, mới có thể nhảy được sang bờ bên kia. Hai con hươu già đầu tiên là hai con hươu đang thử nghiệm, những con hươu tiếp theo bắt đầu xếp thành hai hàng, con hươu đầu tiên nhảy, rồi các con khác nhảy theo, một con hươu già một con hươu non, cho đến khi tất cả các con hươu non sang được bờ bên kia, những con hươu con được cứu, những con hươu già đã hy sinh. Con hươu cuối cùng là con hươu đầu đàn, nó kiên quyết nhảy qua bờ bên kia, rồi rơi xuống vực. Tôi nghĩ, không ai đọc xong câu chuyện này mà không cảm động, nếu câu chuyện này là thật, chẳng lẽ chúng ta không cảm thấy xấu hổ khi làm người sao?

    Cho nên, trong cuốn sách “Nghệ thuật yêu” (The art of loving), Erich Fomm đã nói rõ với chúng ta rằng: Tình yêu đích thực mà cha mẹ dành cho con chính là quan tâm đến sự trưởng thành của con. Đây là điều mà chỉ có bạn mới có thể làm tốt nhất. Bởi vì quan tâm đến sự trưởng thành của người khác là một quá trình vô cùng phức tạp, vô cùng gian nan. Nếu một người mẹ quan tâm đến sự trưởng thành của con mình, điều đó không chỉ có nghĩa là quan tâm đến niềm hy vọng của gia đình, mà còn là quan tâm đến sự hưng thịnh của cả một xã hội, cả một dân tộc.

    Chúng ta đã nói về du ngoạn trong trí tưởng tượng, tôi có cảm giác rằng, chúng ta đều là thành viên trong tập thể du ngoạn ấy. Sau đây tôi xin nói đến những phiền phức mà trạng thái du ngoạn này mang đến cho người lớn chúng ta. Montessori nói, trong nhà trường truyền thống, những trẻ giàu tưởng tượng, cũng chính là những trẻ đang du ngoạn trong thế giới tưởng tượng đều được coi là những trẻ có trạng thái tốt, có óc tưởng tượng, nhưng những trẻ đó đều không có kết quả học tập tốt, cũng có nghĩa là trẻ không có một thành tích lý tưởng. Nhưng những người lớn không thấy được một điều, đó là những trẻ có vấn đề. Montessori nói: “Người ta vẫn cho rằng trí tuệ giàu sức sáng tạo khiến người ta không thể tập trung vào thực tế”. Phần đông người lớn cho rằng một người hay tưởng tượng chính là một người có “sức sáng tạo”, vì quá giàu sức tưởng tượng mà không thể làm tốt những việc hiện thực trong cuộc sống.

    Tình huống trí lực có thể phát triển bình thường hay không có liên quan đến vấn đề được yêu thương hay không. Trường chúng tôi có một bé là Viên Viên, khi bé 2 tuổi, mẹ bé sinh thêm một em trai nên không có thời gian chăm sóc bé, thường xuyên gửi bé sang nhà người khác. Sau đó, bố mẹ gửi bé học nội trú trong trường chúng tôi. Tâm lý và trí tuệ của bé chưa từng bình thường. Hôm đó, tôi mua cho con mình một đôi giày mới, con tôi rất vui, gặp ai cũng nói: “Mẹ mua giày mới cho con, mẹ mua giày mới cho con”. Viên Viên nhân lúc con tôi không để ý, đã giẫm lên đôi giày mới một cái. Con tôi khóc ầm lên, thế là Viên Viên nở một nụ cười sung sướng. Buổi chiều, khi tôi đến đón con, hoặc chồng tôi đến đón con, Viên Viên đều đòi bế hoặc là “Cho con đi xe với”, thế là chồng tôi cũng cho bé lên xe đi một vòng. Vì lúc đó Viên Viên ở nội trú, nên chúng tôi khá quan tâm đến con bé. Tôi cũng thường nói với chồng mình bế con bé để bù đắp sự thiếu thốn tình yêu của nó. Ngày nào cũng vậy, kết quả là con trai tôi đau khổ trong một thời gian dài, đến nỗi các cô còn phải nói với chồng tôi: “Sao anh lại như vậy? Anh có biết anh làm thế là không đúng không? Trạng thái tâm lý của con trai anh giờ cũng gần giống như Viên Viên”. Sau đó tôi phát hiện ra, khi chúng tôi không có ở đó, Viên Viên đã nói với con trai tôi: “Tớ sẽ không cho bố cậu làm bố của cậu nữa mà làm bố của tớ, tớ không cho bố cậu bế cậu, mà bế tớ”. Con tôi bị giày vò đến nỗi khóc ầm lên. Sau đó tôi phải nói với Viên Viên là: “Con không được như vậy. Mẹ hiệu trưởng yêu con, bố Tân Tân cũng yêu con, nhưng con không được làm thế với Tân Tân”.

    Mỗi khi trường có khách, Viên Viên lại ra đón nói: “Chào dì, con dẫn dì đi tham quan nhé”. Sau đó, bé sẽ dẫn mọi người đi: “Thưa dì, đây là phòng âm nhạc của chúng con, đây là đàn piano”. “Thưa dì, đây là phòng nghệ thuật…”. Tất cả mọi người đều cho rằng bé thông minh. Còn những trẻ thật sự thông minh thì không hề quan tâm đến việc trường có khách, mà luôn chuyên tâm vào công việc của mình. Còn Viên Viên, vì tâm lý và cả trí tuệ của bé đều phát triển không bình thường, nhưng tất cả mọi người lại tưởng rằng bé thông minh. Tất cả khách đến trường, những người chưa hiểu về phương pháp giáo dục này đều nói con bé thật thông minh, vì bé biết quan sát sắc mặt của người khác, chỉ một thoáng qua cũng đủ để bé biết người đó có ý gì. Bé cũng thích khi người lớn tỏ ra thích thú bé. Sự chú ý của Viên Viên chỉ tập trung vào hai điểm: Một là tìm kiếm tình yêu ở khắp mọi nơi, hai là tìm cơ hội thể hiện. Viên Viên không còn chút sức lực nào để tập trung vào việc phát triển trí lực của bản thân!

    Đặc điểm thứ hai của trạng thái du ngoạn trong trí tưởng tượng là khiến cho con người ta xa rời con đường và mục tiêu phát triển của bản thân.

    Tôi nhớ có một lần, một cô giáo tiếng Anh đến dạy ở trường chúng tôi. Cô giáo này đang thử nghiệm một phương pháp dạy, phương pháp này đang tiến hành ở khắp mọi nơi, gọi là làm động tác, cũng giống như biểu diễn, lúc ngồi xuống, lúc lại đứng lên, vừa làm động tác vừa nói tiếng Anh. Lần này, cô muốn thử nghiệm ở trường chúng tôi. Tôi nói: “Phương pháp này không phù hợp với học sinh trường chúng tôi”. Cô ấy nói: “Tôi đã thử nghiệm phương pháp này ở rất nhiều trường mầm non, tất cả trẻ đều rất thích, tại sao lại không thích hợp?”. Tôi nói: “Phương pháp giáo dục của chúng tôi không giống thế”. Cô ấy nói: “Thế thì chị cho phép tôi thử nghiệm một buổi chiều, nếu không thành công thì thôi”. Đầu tiên, cô gom bọn trẻ lại, đứng lên nói thế nào, ngồi xuống nói thế nào, xua tay nói thế nào, lắc đầu nói thế nào…, cô giáo vô cùng hưng phấn. Bạn đoán xem, lũ trẻ trường chúng tôi, nếu không ngơ ngác quan sát thì bụm miệng cười, có trẻ còn nói: “Cô giống con khỉ”. Sau đó cô giáo đó nói: “Em thất bại rồi, học sinh trường chị không chịu học theo em”.

    Trò chơi là trò chơi, khi chúng ta có ý định lồng ghép tri thức vào trò chơi, lâu dần sẽ khiến trẻ có những trở ngại tâm lý khi phải học thực sự. Nhưng trường chúng tôi chỉ có một trẻ học theo được, đó chính là Viên Viên. Bé đứng dậy nói “up”, ngồi xuống nói “down”…, bé làm y hệt cô giáo kia, tất cả những trẻ còn lại đều bụm miệng cười, nói bé giống con khỉ. Lúc đó, tôi có một cảm nhận sâu sắc rằng: Phương pháp này thực sự phù hợp với những trẻ như Viên Viên. Hơn nữa, phương pháp ấy còn phù hợp với đa số trẻ ở trường mầm non truyền thống. Có thể thấy rằng, nếu chúng ta không hiểu giáo dục, chúng ta sẽ đẩy trẻ vào con đường sai.

    Nếu bản thân giáo viên cũng là một người du ngoạn trong trí tưởng tượng, thì bản thân người đó cũng không có sức sáng tạo, khi người đó giảng bài, sẽ nói với con trẻ “1” là cây gậy, “2” là con vịt, “3” là cái tai… Tôi đoán là người soạn ra những nội dung này muốn dùng cách ghi nhớ bằng sự liên tưởng để giúp trẻ nhớ nhanh, nhưng trí nhớ của trẻ rất tốt, không phát sinh bất cứ trở ngại nào, nên cách làm này sẽ chỉ làm phân tán sự chú ý của trẻ, làm hỏng trí nhớ của trẻ.

    Trạng thái tâm lý tốt mới có thể đón nhận thử thách, và để đón nhận thử thách còn cần cả dũng khí. Chúng ta biết trí lực và dũng khí đều vô cùng quan trọng với một con người. Nếu một con người mất đi trí lực hoặc dũng khí, thì cả cuộc đời của họ sẽ thất bại. Ngay từ đầu Montessori đã nói rằng, thông thường, trí lực của con trẻ là ngang nhau, không có gì khác biệt. Nhưng khi trạng thái tâm lý của trẻ gặp trở ngại, thì sự khác biệt của toàn bộ trạng thái là rất lớn. Montessori đã so sánh điều này tương đương với một người bị gãy xương và một người không bị gãy xương. Chúng ta hãy tưởng tượng mà xem, nếu một người gãy xương mà không được băng bó cố định lại, thì người đó không thể làm gì nữa, cả cuộc đời sẽ thành tàn phế.

    Trạng thái tâm lý tốt còn có thể chịu đựng những áp lực và bất trắc. Trong công việc và trong cuộc sống, áp lực là việc hoàn toàn bình thường. Quá trình tự điều tiết nên như thế này: Áp lực càng lớn, sức chịu đựng của con người càng cao. Nhưng trong rất nhiều tình huống, mọi việc hoàn toàn ngược lạc, rất nhiều người không chịu nổi áp lực. Đó là vì tuổi thơ của những người đó không được phát triển bình thường, họ không có sức mạnh tâm lý, không có năng lực tự kiểm điểm bản thân. Montessori nói: “Một tâm hồn bị thay đổi bất thường thì không thể chịu những sức ép lớn”. Trong xã hội này, trong mọi công việc, trong cuộc sống tương lai, chúng ta không thể tránh khỏi áp lực, vì áp lực là một trạng thái hoàn toàn bình thường, cũng có nghĩa là con người đối diện với áp lực là một hiện tượng bình thường. Mỗi con người đều phải có khả năng chịu đựng áp lực, nhưng khi một người gặp phải trở ngại về tâm lý, sức chịu đựng của họ sẽ suy giảm rất nhiều.

    Những đứa trẻ gặp trở ngại về tâm lý sẽ không phát hiện ra những phép tắc của sự vật và bí mật của cuộc sống. Ví dụ như toán học, vốn dĩ toán học là một quá trình logic, chứa đựng bao nhiêu bí mật bên trong. Khi chúng ta thao tác gậy dài, chúng ta sẽ phát hiện ra cây gậy dài nhất dài hơn cây gậy tiếp theo đúng bằng một khoảng cách nhất định, và tương tự thế. Ở đây có logic và quy luật của toán học, khi trẻ phát hiện ra bí mật này, trẻ sẽ cảm thấy vui mừng. Sau đó, trẻ sẽ tự chủ tự giác thực hiện các hoạt động trí lực, ví dụ khi trẻ đếm liên tục từ 0 đến 99, trẻ sẽ phát hiện từ 0 đến 99 có 10 đến 19, 20 đến 29, 30 đến 39…, tất cả đều là 0 đến 9, tất cả đều là một quy luật. Nhưng những đứa trẻ đã gặp trở ngại về tâm lý, trẻ không phát hiện ra được bí mật này, trẻ không thể tìm hiểu sự thật, trẻ chỉ thích nghi với những gì cô giáo đã dạy, còn bản thân trẻ thì không phát hiện ra được điều gì.

    Một người lớn như thế này sẽ bài trừ thế giới bên ngoài, trạng thái tình cảm thường thấy của người này là oán trách và cho rằng mọi việc thật bất công, phẩm chất ấu trĩ được thể hiện bởi trí lực chưa phát triển. Một vị phụ huynh tên là Đường Hà kể với tôi rằng, khi chị nói chuyện với một người bạn làm công an về trường Montessori, người đó đã nói: “Phi thực tế, sớm muộn gì họ cũng sẽ bị xóa sổ!”. Nói xong anh ta còn bổ sung thêm: “Theo tôi, trường này chuyên dạy ra những phần tử phạm tội, kết quả của tự do chính là tội phạm!”. Chị Đường Hà đã nói với anh ta là: “Khi tâm lý một người bị đè nén, bị trấn áp quá lâu, họ mới có thể bùng phát, có thể phạm tội. Còn một người tâm lý thoải mái thì họ phạm tội để làm gì?”. “Tôi không cần biết, nhưng chắc chắn chỗ đó sẽ giáo dục ra một loạt những tội phạm, rồi cũng bị xóa sổ mà thôi”. Đường Hà nói với tôi: “Anh ấy không hiểu và cũng không chịu hiểu. Anh ấy bài xích trường này. Đây chính là một người gặp trở ngại tâm lý nghiêm trọng. Nhưng anh ta cứ tưởng mình hiểu, cái này gọi là hiểu trong một phạm vi hạn hẹp. Kiểu người này chiếm số đông. Có những phụ huynh còn nói là: “Không đánh không thành tài”. Còn anh công an kia thì nói với Đường Hà là: “Tôi phải cảm ơn mẹ đã đánh tôi, đánh đến thừa sống thiếu chết. Chị xem, tôi được đánh mà trưởng thành, nhờ ăn đánh mà được làm việc trong ngành công an”. Anh ta còn nói: “Giáo dục mà không trừng phạt thì có mà loạn à!”.

    Liệu có phải chúng ta cũng giống như thế, không ít thì nhiều? Tư tưởng của chúng ta không dễ dàng tiếp nhận cái mới? Kỳ thực thế giới bên ngoài rất phong phú, nhưng chúng ta lại nhốt mình trong thế giới riêng. Đối với con trẻ, tư tưởng của chúng ta là gì? Cũng có thể chúng ta cho rằng, bao nhiêu những thứ mà Montessori đã nói chính là tư tưởng. Nhưng thời kỳ trẻ em thì không thế, rất nhiều điều được thể hiện trong từng việc nhỏ. Ví dụ tôi thường hay dẫn con trai đi mua đồ, có lúc không đủ tiền, tôi nói: “Mẹ chỉ có mười tệ, không đủ tiền để mua tất cả những thứ này, nên con chỉ được chọn hai thứ”. Con tôi nhanh chóng chọn ra được hai thứ, trả những thứ còn lại về chỗ cũ còn mình thì vui vẻ ra về. Nhưng một đứa trẻ khác thì không như vậy. Mỗi lần bé thấy Tân Tân nhà tôi được mua gì thì lại đòi: “Mẹ ơi, con cũng cần”. Mẹ bé bảo: “Thế thì con đi mua đi”. Nhưng mỗi khi đứng trước tủ hàng có bao nhiêu thứ, bé lại bị rối loạn. Bạn hỏi bé: “Con có cần thứ này không?”. Bé nói: “Không cần”, nhưng vẫn đứng mãi ở đó. Mỗi lần tôi dẫn bé đi, tôi đã đứng đó hàng tiếng đồng hồ, sau đó thì tôi cũng sốt ruột mà phát cáu: “Sao mãi mà con không chọn ra thứ mình thích thế. Thế con muốn mua cái gì?”. Nhưng bé vẫn không chọn được, bé vừa định cầm thứ này lên thì lại buông ra: “Con không lấy cái này nữa, con muốn đổi cái khác”. Bé đã không thể điều khiển được bản thân mình.

    Sự việc này khiến tôi suy nghĩ mãi. Nếu là một lần, tôi còn có thể cảm thấy là một việc ngẫu nhiên, nhưng hai lần, ba lần... tôi phát hiện ra lần nào bé cũng vậy, hoảng loạn không biết phải làm gì, bé đã giống như Montessori từng nói, không thể “điều khiển tư tưởng của bản thân”. Một em bé như thế này chắc chắc không thể phát triển trí lực một cách bình thường.

    Chúng ta biết rằng, con trẻ tuân theo sự chỉ dẫn của phôi thai tinh thần, thông qua các hoạt động của mình thực thể hóa phôi thai tinh thần, từ đó đạt tới sự phát triển bình thường. Nếu tâm lý và trí lực của trẻ vấp phải trở ngại, trẻ sẽ bắt đầu du ngoạn trong trí tưởng tượng, trẻ không thể phát triển trí lực của mình, trẻ sẽ đi chệch khỏi quỹ đạo phát triển bình thường.

    Một lần con của hàng xóm nhà tôi bị đứt tay. Hôm đó là mùa đông, tôi đi làm về nhìn thấy, tôi nói: “Lê ơi, cháu bị đứt tay rồi, bây giờ đang là mùa đông, dễ bị nhiễm trùng lắm”. Lúc đó cháu bé 3 tuổi. Tôi bảo: “Cháu phải vào nhà nhờ mẹ băng tay cho”. Cô bé nói: “Không sao đâu, cháu không sao đâu”. Khả năng ngôn ngữ của cô bé rất tốt. Tôi nói: “Không được đâu, tay cháu sờ vào đất cát thế này, rất dễ nhiễm trùng, cháu phải về nhờ mẹ băng lại cho”. Tôi khuyên mãi, cô bé nói: “Vâng ạ, cháu với bác cùng đi”. Tôi đi theo sau cô bé, kết quả là cô bé vừa vào đến cửa thì khóc òa lên, vừa khóc vừa kêu: “Mẹ ơi con bị đứt tay”. Mẹ cô bé nói: “Đưa đây mẹ xem nào”. Rồi mẹ cô bé đi tìm một miếng vải, quấn tay cô bé một vòng, không cần sát trùng, cũng không buộc lại, nói: “Con thật là anh hùng”. Nói xong thì vội đi làm việc khác. Cô bé đó vội giơ ngón tay lên nói: “Anh hùng, mình là anh hùng!” rồi chạy mất.

    Thật là! Lúc đó tôi cảm thấy con người thật là cẩu thả, cuộc sống là khổ nạn. Ai cũng nhìn thấy tâm thái trước và sau của cô bé. Tại sao cô bé không muốn đi tìm mẹ mình? Tại sao cô bé không cần ai cả? Tại sao cô bé vào gọi mẹ lại phải khóc òa lên? Tại sao cô bé cũng gọi mình là anh hùng? Con đường trưởng thành của con người thật là tàn khốc. Ứng phó với con trẻ là hành vi thường thấy của người lớn, cho dù trình độ của họ thấp hay cao.

    Một người bạn của tôi khi học lên đại học, thành tích học tập toàn là 88 hoặc 89 điểm(1), nhưng cô ấy không hiểu tại sao. Một lần cô ấy ngồi cùng một bạn học khác của tôi là Dương Bình, cô ấy nói: “Lần nào cậu thi cũng được trên 90 điểm, còn tớ thì chưa bao giờ được 90 điểm cả. Rõ ràng là khi cô giáo chấm điểm, cô đã quy định một số người được trên 90 điểm và một số người phải dưới 90 điểm”. Tôi ở cùng cô ấy một năm, tôi phát hiện thấy cô ấy và Dương Bình hoàn toàn khác nhau. Đặc điểm của cô ấy là học cái gì cũng chỉ học một lần, nên chỉ mơ hồ, không rõ ràng. Vì thế, khi hỏi đến những chi tiết nhỏ, cô ấy sẽ không hiểu. Còn Dương Bình thì không như vậy, Dương Bình có một cảm giác sắc sảo, có thể phân biệt đến từng chi tiết của sự việc. Dương Bình nắm bắt những vấn đề lớn một cách gọn gàng, chắc chắn, và khi được hỏi đến những chi tiết nhỏ, cũng trả lời một cách rành mạch. Rõ ràng là cô ấy nắm bắt tri thức một cách rất có hệ thống.

    Còn người bạn kia, cô ấy học dựa vào trí nhớ. Hãy nhìn thành tích của cô ấy, chưa bao giờ vượt quá 90 điểm. Hỏi đến chi tiết thì cô ấy không biết, vừa nghe câu hỏi cô ấy đã thấy sợ, tại sao mình không nghĩ đến vấn đề này nhỉ? Trên thực tế, thực chất của vấn đề lại phát sinh từ quá trình phát triển trí lực của những năm đầu đời, đây là vấn đề về tư duy. Từ tư duy chi tiết đến toàn bộ cục diện, rồi lại phải quay về từng chi tiết; từ cảm giác đến khái niệm, rồi lại phải quay về cảm giác. Nhưng rất nhiều người chúng ta dừng ở giữa chừng. Chúng ta có thể tiến hành khảo sát, những đứa trẻ có kết quả học tập không tốt đa phần là những đứa trẻ có cha mẹ độc đoán, việc gì cũng phải nghe theo bố mẹ. Còn những trẻ có thành tích tốt hơn, đa phần sống trong một gia đình dân chủ, tư duy của chúng cũng hoàn chỉnh hơn.

    Tất cả những điều này đều bắt nguồn từ tuổi ấu thơ, cả trạng thái của con trẻ không được phát triển tốt. Con của em họ tôi hay bị bố mắng mỏ, mỗi lần trẻ đọc “Bách khoa toàn thư”, cháu cũng nắm bắt nhanh hơn Tân Tân. Nhưng đó chỉ là những kiến thức chung. Tri thức rải rác ở khắp mọi nơi, cháu không thể sắp xếp, liên tưởng và phân loại tri thức. Nguyên nhân của trạng thái trí lực này là vì tâm hồn cháu đã lạc đến một thế giới khác, cũng có thể nói là cháu đã du ngoạn đến một thế giới tưởng tượng, nên vừa gặp khó khăn đã mất lòng tin. Trạng thái của một người bình thường là tiếp tục tiến lên khi gặp khó khăn: “Có khó khăn rồi, đây là lúc thể hiện khả năng của mình”. Nhưng cũng nhiều người lùi bước khi gặp phải khó khăn, họ cúi đầu đau khổ: “Biết làm thế nào bây giờ?”.

    Con trẻ cũng vậy, ví dụ như ngày quốc tế thiếu nhi 1 tháng 6, trường mầm non tổ chức trình diễn thời trang. Có những cháu nghe thấy biểu diễn thời trang là vui vẻ lên sân khấu, nhưng có những cháu bình thường luyện tập rất tốt, nhưng đến lúc lên sân khấu thì bị “ngợp” trước khán giả. Điều này là biểu hiện của một đặc điểm điển hình nhất: Gặp phải khó khăn là lùi bước, sự tự tin bị dao động. Tôi xin đưa ra một ví dụ, trường chúng tôi có bé Cửu Cửu, bé và mẹ đến nhà dì chơi. Dì của bé có một bé gái tên là Hàng Hàng. Hàng Hàng lớn hơn Cửu Cửu. Trước đây, mẹ của Hàng Hàng kiêu lắm, lúc nào cũng cảm thấy con của mình xuất sắc hơn. Họ sống chung với nhau ba tháng, trong ba tháng này, Hàng Hàng hay biểu diễn tiết mục cho người lớn xem như đọc thơ, múa hát… rất vui vẻ. Bé Cửu Cửu vào học trường chúng tôi một năm, hai đứa trẻ lại gặp nhau. Có một lần, hai bé chơi với nhau rồi nảy sinh mâu thuẫn, Hàng Hàng đánh Cửu Cửu một cái, Cửu Cửu mặc kệ, Hàng Hàng lại đánh cái nữa. Lúc này, Cửu Cửu quay lại đánh cho Hàng Hàng một cái mạnh hơn. Hàng Hàng ngồi khóc, Cửu Cửu không đi tìm mẹ mình mà đi tìm mẹ Hàng Hàng nói: “Lần thứ nhất Hàng Hàng đánh cháu, cháu không phản ứng. Lần thứ hai Hàng Hàng đánh cháu, cháu mới đánh trả”. Cửu Cửu sử dụng từ “đánh trả” vừa có lý, vừa có sức mạnh. Cửu Cửu đã có đủ dũng khí để tự bảo vệ mình.

    Một người bạn của tôi có con không được xinh, người lớn thường hay nói: “Đứa trẻ này xấu quá!”. Bé Cửu Cửu đứng dậy nói: “Cô không được nói người khác như thế!”. Người lớn đó nói: “Cô đâu có nói con”. “Cô không được nói ai cả”. Người bạn tôi thấy thế rất kinh ngạc, bởi vì chưa có ai nói rõ ràng về việc này như thế. Tôi cảm thấy đây chính là khả năng phân biệt đúng sai, cũng là biểu hiện của khái niệm rõ ràng và tràn đầy dũng khí. Nếu tâm hồn của một đứa trẻ được phát triển bình thường, trẻ sẽ nhìn nhận được thực chất của vấn đề. Khi trẻ nhìn được thực chất của vấn đề, trẻ sẽ nói ra được cách nhìn nhận của mình, vì trẻ có đủ dũng khí. Nếu trẻ không nói, thì đó không phải vì vấn đề dũng khí mà đó là sách lược của trẻ. Đó là những đứa trẻ phát triển bình thường. Còn với những đứa trẻ thiếu dũng khí, có thể trẻ cũng có suy nghĩ như vậy, nhưng trẻ không nói ra. Nhưng phần đông trẻ em không có được suy nghĩ này. Suy nghĩ là trí lực, dám làm là dũng khí, cách làm là sách lược.

    Có một lần, cả nhà tôi tranh luận về một việc. Nói qua nói lại mãi, con tôi đứng dậy nói: “Cả nhà không nói nữa, mẹ có lý, nghe mẹ đi!”. Vốn dĩ sự việc này cũng chẳng có gì, nhưng tôi cảm giác được, cả quá trình con nghe bao lời phức tạp như thế, nhưng vẫn giữ được chủ kiến của mình. Một đứa trẻ muốn ăn thịt dê xiên, bé bảo: “Bố ơi, đúng ra là chiều nay con đã ăn cơm rồi, nhưng con vẫn đói. Giờ con đang thấy đói, không về được đâu”. Bố bé nói: “Thế thì chúng ta về nhà ăn nhé”. Cậu bé ngồi sau khóc ấm ức. Bố hỏi: “Con khóc cái gì?”. Bé bảo: “Con muốn ăn thịt dê xiên”. Sau đó bố bé hỏi tôi: “Sao nó không nói thẳng ra?”. Tôi nói: “Vì cậu bé sợ anh!” Trên thực tế, trẻ hoàn toàn có thể nói thẳng với bạn, tại sao lại không chứ? Nhưng mỗi lần bé làm vậy, mỗi lần bé nói vậy, mỗi lần bé tuân theo sự phát triển của bản thân bé, thế nào cũng xảy ra vấn đề. Nhưng nếu mỗi lần bé đã lấy hết dũng khí ra mà vẫn phải nói vòng nói vo, lâu dần cũng xảy ra vấn đề. Nhưng cuộc sống thì lâu dài và tinh tế, tâm lý và thói quen của chúng ta cũng phát huy tác dụng lâu dài và tinh tế như thế.

    [Còn nữa]
     
  3. Đặng Châu Cảm ơm vì sự cố gắng của bạn.

    Bài viết:
    399
    PHỤ LỤC

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Mỗi đứa trẻ sinh ra đều mang theo phôi thai tinh thần. Phôi thai tinh thần chứa đựng toàn bộ mật mã trưởng thành của cuộc sống. Phương pháp giáo dục mới cho rằng, quá trình trưởng thành của trẻ không phải là một quá trình dạy dỗ và nhồi nhét, mà là trong quá trình tìm hiểu thế giới, trẻ không ngừng giải mã cuộc sống, sáng tạo bản thân.

    Tạo cho con môi trường “yêu thương và tự do, quy tắc và bình đẳng” để con trẻ giải mã cuộc sống theo những phép tắc tự nhiên của quá trình trưởng thành. Thời kỳ này rất cần sự hoàn thành tốt quá trình phát triển của mỗi thời kỳ nhạy cảm, và tận dụng hết những phẩm chất đặc biệt của trẻ từ 0 đến 6 tuổi, đó là tâm lý và trí tuệ mang tính hấp thu.

    Đây là sự trưởng thành hoàn chỉnh bao gồm cả cơ thể, cảm giác, tình cảm, nhận thức, tâm lý, tinh thần, tâm hồn của bản thân trẻ, từ đó hình thành và sáng tạo ra bản ngã, trở thành một con người hoàn chỉnh. Điều này khác với giáo dục truyền thống chỉ quan tâm đến trạng thái nhận thức của con trẻ.

    “Yêu thương và tự do” là môi trường của giáo dục, hình thành một con người hoàn chỉnh là mục đích của giáo dục. Đây thực sự là một kỷ nguyên mới của công tác giáo dục!

    [Còn nữa]
     
  4. Đặng Châu Cảm ơm vì sự cố gắng của bạn.

    Bài viết:
    399
    YÊU THƯƠNG VÀ TỰ DO, QUY TẮC VÀ BÌNH ĐẲNG

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Dùng tình yêu đánh thức tính tích cực trong quá trình trưởng thành của con trẻ;

    Dùng không gian tự do để xác lập nhiệt tình sáng tạo và ý thức bản ngã của con trẻ;

    Dùng việc thực thể hóa những quy tắc để hình thành trật tự xã hội và trí tuệ của bản thân con trẻ;

    Dùng quan hệ bình đẳng dẫn dắt xã hội tương lai phát triển hài hòa văn minh.

    Cho con tình yêu như thế nào?

    Sinh mệnh của chúng ta là một quá trình vô cùng kỳ diệu. Từ lúc được sinh ra, chúng ta đã nhận thức thế giới bằng nội tâm sâu thẳm của mình. Nhưng từng giây từng phút chúng ta phải liên kết với nội tâm ấy. Sự liên kết ấy bền chắc bao nhiêu, chúng ta sẽ cảm thấy vững tin vào thế giới này bấy nhiêu. Chúng ta sẽ trở thành một con người không bao giờ cảm thấy cô độc. Khi con trẻ đến với thế giới này, cơ thể trẻ phải rời khỏi nguồn năng lượng to lớn đã sinh ra trẻ, nhưng tinh thần trẻ lại đang mở ra, trẻ sẽ khơi gợi bản năng yêu thương của người mẹ, đây chính là một trình tự mà tự nhiên đã sắp xếp. Cảm giác an toàn của con trẻ dựa trên sự gắn kết với bố mẹ, đó cũng chính là điều mà chúng ta gọi là tình yêu thương. Có tình yêu, trẻ mới tiếp tục sống trong cõi đời này. Tình yêu thương đối với con trẻ sinh ra sự gắn kết giữa cha mẹ và con, xây dựng cho trẻ cảm giác an toàn cơ bản.

    Tình yêu thương không phải là một cách nghĩ được sinh ra trong đầu óc chúng ta. Ví dụ tất cả các bậc làm cha mẹ đều nghĩ thế này: Không có cha mẹ nào lại không yêu con mình. Tôi yêu con tôi lắm. Tất cả mọi việc làm của chúng ta đều được núp dưới cái tên gọi “tôi yêu con tôi”. Nhưng, kết quả mà chúng ta nhìn thấy là, con trẻ vẫn thiếu tình yêu.

    Vậy mấu chốt vấn đề nằm ở đâu?

    Chúng tôi phát hiện ra rằng, vấn đề nằm ở chỗ, khoảng cách khác nhau giữa người lớn và trẻ em quá xa. Thuở ban đầu, trẻ em chính là sự sống, khi trẻ bước ra từ sự sống, trẻ mang theo sự sống để đến cuộc đời này. Nhưng người lớn chúng ta đã quá xa rời sự sống. Cũng giống như khi chúng ta ngồi cạnh nhau trong một cuộc hội nghị, chúng ta ngồi cạnh nhau nhưng không thể gắn kết sức sống của bản thân mình với sức sống của người bên cạnh để trở thành một dòng chảy. Chúng ta mãi mãi sẽ: tôi là tôi và anh là anh. Nếu tôi và anh muốn hiểu nhau thì phải dùng lời nói để trao đổi. Lời nói chính là phương tiện yếu ớt nhất, sử dụng đến ngôn ngữ là việc bất đắc dĩ của loài người.

    Nhưng trẻ em không như vậy. Thuở ban đầu, trẻ chưa biết nói, sau đó khả năng biểu đạt ngôn ngữ của trẻ vẫn chưa tốt, trẻ vẫn chưa thể hình thành khả năng ngôn ngữ đủ để biểu đạt tư duy và logic. Vậy, trẻ giao tiếp với bố mẹ bằng cách nào? Con dùng sự sống, dùng tình cảm, cảm giác và tâm hồn trong cuộc sống để gắn kết với người lớn. Mỗi người mẹ đều phải khởi động hình thái sức sống cao cấp này, bỏ lại tư duy của người lớn và cách thức giao tiếp vẫn hay dùng của người lớn. Khi bạn là một người mẹ, bạn có thể phát hiện ra một bí mật: Con của bạn không cần nghe thấy bạn nói gì mà có thể cảm nhận được hàm nghĩa thực sự phía sau lời nói của bạn. Con càng khóc mẹ càng lo lắng, bạn có giả vờ bình tĩnh cũng không tác dụng gì, bạn có nói gì con cũng không chịu nghe. Trẻ con có một khả năng cảm nhận chân tướng sự việc một cách cao độ. Nếu bạn nói gì con cũng chịu nghe thì thế giới này sẽ đơn giản biết chừng nào.

    Tất cả những người làm cha làm mẹ đều nói với con mình: “Mẹ mong con tốt hơn, mẹ mong con có thành tích, mẹ mong con có phẩm chất đạo đức tốt”. Nhưng chúng ta vẫn nhìn thấy những đứa trẻ của ngày hôm nay không làm được điều này. Tại sao vậy? Bởi vì con trẻ biết chắc, bạn nói bao nhiêu điều, nhưng đằng sau đó còn bao nhiêu điều khác thế. Trạng thái của con trẻ có thể hiểu được trực tiếp những điều đằng sau đó. Sự mê muội và hỗn loạn khiến bạn không hiểu được con mình như thế nào, cuối cùng cũng khiến con bạn hỗn loạn theo.

    Ngày hôm nay, có rất nhiều bậc cha mẹ nói với tôi, con tôi đã 14, 15 tuổi rồi, tối ngày lên mạng, tối ngày chơi game, có tiền là lặn mất tăm, không chịu học hành... Sau đó họ nhờ tôi giúp con cái họ. Tôi nói tôi không thể giúp được con cái họ, vì chính họ đã biến chúng trở thành như thế. Nếu bạn thực sự muốn con mình thay đổi, bạn phải thay đổi mình trước. Vì thế người tôi cần phải giúp là bạn, nếu bạn thay đổi được dạng thức hiện tại của mình, con bạn cũng sẽ thay đổi.

    Tất cả những người làm cha mẹ đều cho rằng họ đang yêu thương con mình. Con thi trượt, họ sẽ nói: “Sao con được có 60 điểm? Sao con lại kém cỏi thế không biết! Ngày nào con cũng vùi đầu vào game thế này thì học hành thế nào? Thật là mất mặt quá đi…”. Bạn có bao giờ ngồi xuống cùng con và nói: “Mẹ và con cùng suy nghĩ xem vấn đề là do đâu?”. Là vì khái niệm không rõ ràng? Suy nghĩ không mạch lạc? Vì độ tuổi nhận thức của con trẻ chưa đến lúc để học những thứ đó? Là vì thầy cô giáo? Hay là con trẻ chưa đến lúc có tư duy trừu tượng? Hay là chưa đến độ tuổi về tâm lý?...

    Nhưng bạn không muốn biết gì hết, bạn chỉ biết một điểm: Con bạn không tốt. Sau một mớ ngôn từ, bạn quay ra nói với người khác rằng: “Tôi nói nó vì tôi yêu nó, vì muốn tốt cho nó, vì đứa trẻ này mà tôi đã bóp nát cả trái tim mình”. Đạo lý này có đầy đủ không? Nếu đầy đủ, chỉ là trên góc độ của bạn. Và kết quả của những lời nói này là con bạn sẽ không nghe bạn, con bạn sẽ chỉ trích bạn, oán trách bạn. Tâm lý của con trẻ là: “Mẹ không cho con chơi đúng không? Thế thì con sẽ chơi cho mẹ xem. Mẹ muốn con học đúng không? Thế thì con sẽ không học đâu”. Thậm chí trẻ cũng không biết rằng tiềm thức của trẻ đang mâu thuẫn, nhưng kết quả dẫn đến là như vậy. Tuyệt đại đa số những người làm cha làm mẹ đều gây ra những vấn đề của con trẻ bằng cách này.

    Rất nhiều người sẽ nghĩ tại sao đối thoại của chúng ta với con trẻ lại thành ra thế này? Đó là vì bản thân chúng ta cũng lớn lên trong những lời chỉ trích. Từ nhỏ chúng ta đã đấu tranh với quyền uy để lớn lên, khi trưởng thành chúng ta cũng tự nhiên áp dụng theo công thức này, và thành ra không biết nói chuyện với con cái.

    Mấy hôm trước, khi tôi ở Bắc Kinh, có một phụ huynh đến tìm tôi. Con chị ấy chín tuổi, đang ngồi trên ghế, mẹ thì nói liên tục, thao thao bất tuyệt, nói chính xác là “bọt tung nghìn dặm” chứ không phải là “tuôn trào nghìn dặm”. Nào là cô giáo đã nói với mẹ như thế nào, vấn đề này của con ra sao, vấn đề kia của con ra sao… rồi liên tục khiển trách con. Người mẹ này có trình độ giáo dục rất cao, kiểu khiển trách con của chị thế này: “Tại sao con lại nói chuyện trong lớp?”, “Con nói cho mẹ nghe, tại sao con lại nói chuyện trong lớp?”. Còn chưa đợi con trả lời, chị ấy đã nói tiếp. Gần như “nói” là cốt lõi của vấn đề, chị ấy cần phải nói liên tục... Và đã liên tục hơn hai giờ đồng hồ. Tôi nhìn thấy mắt con chị ấy cứ chớp hoài. Chị ấy hỏi tôi: “Tại sao con tôi cứ chớp mắt như thế? Tại sao con tôi cứ nhún vai như thế?”. Tôi nói đó là vì áp lực. Chị nói bao nhiêu như thế, con chị có thể ngồi yên nghe không phản đối đã là tuyệt vời lắm rồi. Và đương nhiên là con chị chỉ có thể chớp mắt mà thôi.

    Tôi hỏi bé: “Mẹ nói thế con có cảm thấy áp lực không?”.

    Bé gật đầu.

    Tôi nói: “Thế tại sao cô giáo hay phải nhắc con, lại còn mời cả mẹ con đến, con giải thích việc này như thế nào?”.

    Bé nói: “Bởi vì con hay nói chuyện với bạn bên cạnh”.

    Tôi hỏi: “Thế tại sao con hay nói chuyện với bạn bên cạnh?”.

    Bé nói: “Có hai nguyên nhân, thứ nhất, giờ ra chơi chúng con chưa nói hết chuyện nên vào lớp phải nói nốt. Con không thể đợi đến giờ ra chơi tiếp theo được. Thứ hai, con cảm thấy phần thứ hai trong bài giảng của cô toàn những thứ linh tinh, con không muốn nghe”.

    Tôi hỏi: “Thế con đã nói với mẹ chưa?”.

    Bé nói: “Nhưng mà mẹ không cho con cơ hội để nói”.

    Tôi liền hỏi mẹ bé: “Chị có biết tại sao cô giáo lại nói con chị và muốn chị về nhà dạy bảo con mình không?”.

    Chị nói: “Vì nó nói chuyện trong lớp”.

    Tôi nói: “Cô giáo cũng không muốn biết nguyên nhân, cô giáo cũng giống như chị, muốn nói ra để gây áp lực. Cô giáo liên tục nói với chị, gây áp lực với chị, chị lại liên tục nói với con, đem toàn bộ áp lực ấy đổ lên đầu con. Chị trút bỏ toàn bộ áp lực lên con trai chị”.

    Tôi nói: “Chị hãy thử phân tích xem, giọng điệu và thái độ khi cô giáo nói với chị, có phần nào là bắt nguồn từ trạng thái tình cảm của cô ấy, và phần nào bắt nguồn từ tình hình thực tế của con chị?”.

    Tôi hỏi bé có cách nào giải quyết hai vấn đề trên không. Bé nghĩ rồi nói: “Lần sau con sẽ tranh thủ thời gian nói hết chuyện với bạn, thời gian nghỉ trưa cũng dài, con sẽ cố nói cho hết chuyện”.

    Tôi nói: “Thế vấn đề thứ hai, khi con cảm thấy cô giáo dạy không hay, con sẽ làm gì?”.

    Bé nói: “Con chẳng có cách gì cả”.

    Tôi nói: “Con có thể làm bài tập hoặc đọc sách không?”.

    Bé nói: “Không được, làm như thế cô giáo sẽ tức giận. Cô nói, cô không cần biết các con có nghe không, nhưng mắt các con phải nhìn vào cô, điều này thể hiện sự tôn trọng của các con dành cho cô”.

    Đây là sự miêu tả của con trẻ, chuẩn xác, rõ ràng…

    Cô giáo coi việc trẻ phải dõi theo mình là sự tôn trọng. Cô giáo có một phần “cái tôi” yếu ớt ở trong đó. Đây chính là hiện thực, một hiện thực tàn khốc. Nếu cô giáo chịu nghe học sinh nói, liệu các cô có thể tự kiểm điểm lại mình?

    Tôi nói: “Khi mẹ con nói xong, con làm thế nào để giải tỏa tâm lý căng thẳng của mình?”.

    Bé nói: “Con có hai cách, một là con lấy cái đệm ghế ra đập cho hết tức; hai là lúc nào mẹ con không có ở đây, con sẽ hét ầm lên trong phòng”.

    Tôi vô cùng cảm khái. Một đứa trẻ trí tuệ đến nhường ấy, một đứa trẻ bình tĩnh đến nhường ấy, gần như không nói một câu thừa. Nhưng cháu không thể đối diện với những người lớn này, và họ cũng không buông tha cho cháu, mẹ cháu không tha cho cháu, ngày nào cũng phải dạy dỗ cháu, cô giáo cũng không tha cho cháu, muốn dạy dỗ cháu. Tất cả những điều đấy cứ thế xảy ra một cách không hề hay biết.

    Cổ trẻ đã cong, lưng trẻ đã hơi gù. Nhưng trẻ vẫn nhẫn nại ngồi nghe, kiên nhẫn mà bình tĩnh.

    Đây là một người mẹ điển hình của tầng lớp trí thức. Người mẹ nói tiếp: “Con tôi còn có một đặc điểm, đó là thỉnh thoảng nói leo cô, những chỗ cô nói không xác đáng, nó lại thêm vào một câu khiến cho cả lớp cười ầm”.

    Đây là một quá trình đấu trí đấu dũng, từ đó có thể thấy, tâm thái của cô giáo đã phải chịu đựng áp lực và sự phẫn nộ đến chừng nào. Thế giới này đã tồn tại như thế đấy.

    Người mẹ nói: “Cứ mỗi khi tan học, cô giáo lại xông vào văn phòng, cầm lấy điện thoại gọi cho tôi, giáo huấn một trận, tôi về nhà cũng lại giáo huấn con một trận”.

    Người mẹ nói với con: “Con nên biết là, hôm qua mẹ vừa nói chuyện với con ba tiếng đồng hồ. Con nghĩ xem, mẹ yêu và quan tâm đến con biết chừng nào”.

    Ba tiếng đồng hồ, trẻ vẫn nghe mẹ nói, thật là một khoảng thời gian dài đến đáng sợ. Tôi có cảm giác rằng, đứa bé này chính là người trị liệu tâm lý cho mẹ nó, là người để mẹ nó trút bỏ mọi áp lực. Mẹ cứ nói, con cứ nghe, và nghe…

    Người mẹ đó vẫn đang nói với tôi rằng, chị ấy yêu con mình đến chừng nào.

    Rốt cuộc thế nào là tình yêu?

    Con trẻ sẽ giúp chúng ta hiểu được thế nào là tình yêu. Con trẻ sẽ giúp chúng ta thay đổi trạng thái sinh tồn từ trước đến giờ.

    Hai hôm trước, tôi có hỏi một cô giáo: “Em đến trường được ba tháng rồi, em đã có những trải nghiệm gì?”.

    Cô giáo nói: “Trải nghiệm đầu tiên của em là, con trẻ hiểu được tình yêu, còn em thì không”. Nghe cô giáo nói, tôi thực sự cảm động, vì cô ấy đã nói thực.

    Tôi hỏi cô ấy: “Em làm thế nào mà cảm nhận được điều này?”.

    Cô ấy nói: “Có một hôm, một bé chạy từ phía sau đến ôm em, nói với em rằng: ‘Con yêu cô lắm!’. Em quay lại, quỳ xuống nhìn con, nhưng giây phút đó em không biết nói với con thế nào”. Con trẻ thể hiện tình yêu thật tự nhiên, nhưng cô giáo lại không biết thể hiện tình yêu thế nào, bởi vì cô vừa vào trường chưa được bao lâu. Vì thế, cô phải nghĩ một lúc rất lâu mới cố nói được một câu: “Cô cũng rất yêu con”. Con bước đi, vô cùng vui vẻ, vô cùng thoải mái.

    Cô ấy nói, giây phút đó cô ấy thực sự xúc động, cô ấy nghĩ tại sao mình không thể thể hiện tình yêu đối với trẻ? Tôi tin rằng cô ấy sẽ trở thành một cô giáo tốt, bởi vì cô ấy có thể cảm nhận được những thay đổi của bản thân mình.

    Điều tôi muốn nói ở đây là tại sao những người làm cha mẹ cảm thấy trách mắng con mình dễ dàng bao nhiêu thì lại cảm thấy nói những lời yêu thương con mình khó khăn bấy nhiêu? Điều gì đã ngăn trở chúng ta làm vậy? Đó là vì quá trình trưởng thành đã ngăn cản chúng ta.

    Nhân loại không thể thiếu tình yêu. Cho dù bạn có bao nhiêu thành tích, bạn muốn thể hiện giá trị của mình đến mức nào, nguyện vọng căn bản nhất của loài người chính là yêu và được yêu, quan tâm và được quan tâm, công nhận và được công nhận, cảm giác được giá trị của bản thân, được tôn trọng và cảm giác an toàn. Đây chính là những yêu cầu căn bản nhất của con người. Cho dù là một đứa trẻ con, một em bé sơ sinh, một người trưởng thành mạnh mẽ, hay một người già, cho dù là bạn hay là ai đi nữa cũng đều có những nhu cầu tâm lý căn bản này, và những nhu cầu này không hề liên quan đến việc bạn có bao nhiêu thành tích.

    Trong quá trình trưởng thành thuở ấu thơ của mình, trẻ em phải nhận được sự quan tâm và tình yêu thương của bố mẹ, phải được bố mẹ coi trọng. Trong thời gian từ 0 đến 12 tuổi, khi trẻ ở trường mầm non và trường học, trẻ phải nhận được sự tôn trọng của mọi người. Sự yêu thương, cảm giác giá trị ấy mới ăn sâu bám rễ vào cuộc sống của trẻ. Con trẻ xác định rằng, trẻ có giá trị rất cao, trẻ là đáng yêu, trẻ là quan trọng, trẻ sẽ mang niềm vui đến cho rất nhiều người. Thế giới này nếu không có trẻ sẽ có rất nhiều người phải đau khổ. Trạng thái ấy được trẻ tự xây dựng vào thời kỳ ấu thơ của bản thân trẻ chứ không hề dựa vào những giá trị bên ngoài. Đây cũng chính là lý do tại sao chúng tôi lại nói rằng, phương pháp giáo dục này khác với phương pháp giáo dục trong quá khứ ở những điểm sau đây:

    Cô giáo yêu trẻ vì trẻ là trẻ chứ không vì một nguyên nhân nào khác. Cô không vì trẻ kể chuyện hay, không vì trẻ thi được 100 điểm, không vì hôm nay trẻ đã làm được những việc gì, mà vì chính bản thân trẻ. Bản thân trẻ đã đủ những lý do để cô yêu trẻ. Đây chính là trạng thái chí tôn của cuộc sống mà chúng ta đã từng nói. Cuộc sống vốn cao quý. Vì cuộc sống vốn cao quý nên tất cả năng lượng cuộc sống mà trẻ thể hiện ra chính là tình yêu.

    Vì thế rất nhiều người nói: “Tôi cho con tôi tình yêu!”. Tôi đã nói với rất nhiều người mẹ là, họ phải nói rằng: “Con tôi đã đánh thức tình yêu sâu thẳm của tôi”. Bạn hãy nhìn những em bé mới chào đời, cho dù là ở bất cứ nơi nào trên thế giới này, em bé sơ sinh và thế giới này luôn là một thể thống nhất. Và tất cả những người còn lại, cho dù là một người xấu, khi nhìn thấy một em bé sơ sinh, cũng sẽ “ô”, “a” với bé. Điều đó có phải vì tình yêu? Không phải, đó là vì trạng thái của con trẻ sẽ khơi gợi một thứ mà từ lâu anh ta đã quên lãng, đã vứt bỏ, đã không còn tin tưởng, đó chính là tình yêu.

    Trẻ sơ sinh liên tục dẫn dắt chúng ta. Vì thế trên quả địa cầu này, khi các em bé sơ sinh chào đời, các bé cũng mang theo tình yêu thương vô tận và đầy đủ, dẫn dụ bạn tìm lại tình yêu mà bạn đã đánh mất.

    Yêu trẻ, thể hiện trong từng chi tiết của cuộc sống

    Yêu không bao giờ là những suy nghĩ trong đầu óc bạn, yêu cũng không phải muốn yêu là có thể yêu. Yêu thể hiện trong từng ánh mắt, từng động tác, thần thái, suy nghĩ, ý thức, thể hiện trong từng chi tiết của cuộc sống.

    Điều tôi muốn nói là, yêu thương là một loại quan hệ; bạn không thể cất giữ tình yêu trong tâm hồn mình; bạn cũng không thể nhìn thấy; nhưng khi chúng ta gắn kết lại, chúng ta sẽ nhìn thấy tình yêu trong quan hệ của hai bên.

    “Con làm sao thế hả?”. Đấy không phải là tình yêu. “Sao con lại làm hỏng của mẹ rồi?”. Đấy cũng không phải là tình yêu. Nếu con trẻ làm sai một việc, bạn hãy cầm lấy đôi bàn tay bé nhỏ của con nói: “Mẹ yêu con, nhưng việc này con không được làm thế”. Đó là tình yêu. Nếu bạn gặp nhiều áp lực, bạn cảm thấy mình sắp nổi nóng, bạn không thể tiếp tục kiềm chế bản thân, bạn hãy nói với con rằng: “Hiện giờ mẹ không được thoải mái, mẹ muốn ở một mình để giải tỏa tâm trạng của mình. Nhưng tâm trạng của mẹ không liên quan gì đến con, không phải lỗi của con. Đây là áp lực công việc của mẹ”. Đó mới là tình yêu.

    Thế nên, tình yêu phải được thể hiện trong từng chi tiết của cuộc sống. Tình yêu không thể ẩn giấu một cách trừu tượng trong bộ não của chúng ta. Bạn nói với con là: “Sao con lại mặc bộ này?”. Con nói: “Vì con thích”. Bạn nói: “Bộ này xấu lắm, con không được mặc, chỉ mấy đứa lưu manh mới ăn mặc thế này”. Đây không phải là tình yêu, bạn đang yêu chính bản thân mình. Bạn không thể đem con mình ra để phục vụ cho mục đích của mình. Bạn thấy chồng chưa về, bạn nói với con mình: “Đi ra gọi bố về, nhanh lên”. Đấy không phải là tình yêu, mà là bạn đang lợi dụng con mình để phục vụ cho lợi ích của mình.

    Những chi tiết nhỏ ấy đã tạo nên sinh mệnh. Con bạn sẽ trưởng thành như thế nào là tùy thuộc vào việc bạn đã đối xử với con ra sao trong từng chi tiết của cuộc sống, chứ không liên quan đến những nguyện vọng trong suy nghĩ của bạn. Vì thế tất cả các nguyện vọng của bạn có thực hiện được hay không là phụ thuộc vào quá trình giao lưu của bạn và con trẻ!

    Chúng ta phải học những cách để thể hiện tình yêu khác nhau. Chúng ta thấy, tất cả những người yêu nhau đều nắm tay nhau, ôm nhau để thể hiện tình yêu. Nhưng chúng ta không làm vậy với trẻ. Chúng ta cũng nên nắm tay con trẻ, dung dăng dung dẻ cùng con, chứ không phải để con đi theo sau chúng ta. Nếu chúng ta quá vội vã, hãy nói với con bạn rằng, mẹ đang rất vội, nên không thể đi chậm rãi với con, để mẹ bế con nhé. Đó chính là tình yêu.

    Chúng ta hãy học cách làm cho tình yêu chuyển động trong từng phút từng giây của cuộc sống chúng ta.

    Học cách làm thế nào để ở bên con trẻ, cũng chính là chủ đề học tập cho tất cả những người làm cha mẹ.

    Văn hóa của chúng ta không thiên về việc thể hiện tình yêu. Mặc dù là như vậy, nhưng khi người lớn yêu nhau, họ vẫn ôm hôn nhau, dành thời gian ở bên cạnh nhau, quan tâm đến sự tốt xấu của nhau để thể hiện tình yêu. Nhưng tình yêu giữa người lớn với nhau lại dễ bị ngăn trở, dễ bị lường gạt. Con trẻ thì không thế, bạn không cần phải lo lắng đến tâm thái của trẻ, con trẻ thuần khiết, không có tâm thái. Bạn có thể thể hiện tình yêu đối với con thật thoải mái, nếu bạn chưa biết, bạn có thể học ngay con bạn, học con cách làm thế nào để thể hiện tình yêu. Cảm nhận cảm giác khi con nhào vào lòng bạn, cảm nhận cái cảm giác khi con dụi đầu vào cổ bạn, cảm nhận tình yêu thuần khiết không hề vụ lợi của con.

    Đối với con trẻ, tình yêu không phụ thuộc vào cơ thể chúng ta, không phụ thuộc vào cơ thể trẻ. Con trẻ cho rằng, yêu chính là yêu, khi gắn kết trẻ sẽ cảm nhận được tình yêu.

    Có một lần, bọn trẻ thảo luận thế nào là tình yêu, một bạn nhỏ nói: “Yêu cho roi cho vọt”. Sau đó nhiều cha mẹ rất buồn bã nói: “Con nhà ai mà nói vậy?”. Khi biết là con mình, người mẹ đó buồn bã nói: “Chẳng lẽ những gì tôi dành cho con lại chỉ thế thôi sao?”.

    Làm công tác giáo dục trong một thời gian dài, chúng tôi cảm nhận sâu sắc rằng người châu Á chúng ta không thiên về việc thể hiện tình yêu. Chúng ta cất giữ tình yêu trong lòng không cho ai nhìn thấy. Nhưng ngày hôm nay, bạn hãy học cách thể hiện tình yêu qua từng động tác, qua từng cái ôm với con trẻ, qua từng ánh mắt, từng cảm giác. Có như vậy, con bạn mới cảm nhận được tình yêu. Nếu không, con bạn sẽ không cảm nhận được. Cũng giống như việc bạn gửi đi một bức thư, con bạn không nhận được, thế là tình yêu cũng bặt vô âm tín, cũng có nghĩa là không có tình yêu.

    Yêu con, để con trở thành chính mình

    Nếu chúng ta biết cách yêu con, chúng ta hãy cho con trở thành chính mình. Rất nhiều người nói, trẻ trở thành chính mình và không trở thành chính mình có khác nhau không? Khác biệt ấy nằm ở đâu? Câu trả lời là có một sự khác biệt rất lớn. Khi con trẻ được trở thành chính mình, trẻ sẽ trở thành một người có bản ngã, sau đó trẻ được thể hiện bản thân mình, và cuối cùng trẻ có thể vượt qua chính mình. Không phải cha mẹ chúng ta vẫn luôn theo đuổi những thành công thực tế đó sao? Không có bản ngã, sẽ không có khả năng thể hiện bản thân mình, cũng không thành công.

    Khi con trẻ được yêu thương và tôn trọng, trẻ sẽ dùng toàn bộ tinh lực của mình để sáng tạo và hình thành bản ngã. Đây là bản năng và phép tắc của sinh mệnh. Hiện tượng sinh mệnh độc đáo của giai đoạn này hoàn toàn thuộc về sinh mệnh, với bản ngã là trung tâm. Toàn bộ tinh lực và sự chú ý đều tập trung vào sự sáng tạo bản ngã. Đây là sáu năm cực kỳ quan trọng đời người, tính rộng ra là mười hai năm. Bỏ lỡ mười hai năm này thì sẽ vô cùng gian nan khi muốn xây dựng lại bản thân. Bỏ lỡ mười hai năm này, khi trẻ đến kỳ trưởng thành, trẻ vẫn thấy mình là trung tâm, đó chính là chướng ngại và bệnh hoạn.

    Khi con trẻ xây dựng được bản thân, trẻ sẽ sử dụng thời gian của giai đoạn tiếp theo, cũng là thời kỳ thanh xuân đến năm 18 tuổi. Trẻ sẽ sử dụng bản ngã và thế giới thực tại bên ngoài để xây nên một cây cầu, gắn kết trẻ và thế giới bên ngoài đó.

    Khi trẻ xây xong cây cầu nối với hiện thực, trẻ đã hoàn thành lịch trình sáng tạo bản ngã, trẻ bắt đầu thể hiện giá trị của một con người xã hội. Khi một con người bước ra khỏi bản ngã tự nhiên, họ có thể thể hiện con người xã hội của mình. Đây là một hành trình tự nhiên trong quá trình trưởng thành của con người, không cần bồi dưỡng, chỉ cần không bị ai phá hoại.

    Bây giờ tình hình đã thay đổi. Tình huống thực tiễn là, khi con trẻ hình thành cái tôi, cha mẹ không cho trẻ hình thành bản ngã, mà nói với con rằng, điều này không đúng, điều kia không tốt. Trẻ không thể trở thành chính mình, trẻ phải thực hiện theo nguyện vọng của cha mẹ, giúp cha mẹ hình thành nên “cha mẹ”. Đây mới là sứ mệnh của trẻ. Sau đó, khi trẻ đến 18 tuổi, trẻ không thể bước ra khỏi bản thân, trẻ vẫn coi mình là trung tâm, và cha mẹ bắt đầu tức giận. Cha mẹ không có gì phải tức giận, vì đó là báo ứng nhân quả, chỉ là người lớn quá dễ quên, hoặc vì thời gian dài quá mà quên. Người tức giận phải là đứa trẻ, trẻ đã không thể sáng tạo ra điều gì. Chúng ta có thể nhìn thấy nhiều người lớn luôn suy nghĩ mọi vấn đề từ góc độ của mình, đó là vì họ không thể bước ra khỏi bản thân họ, họ vẫn chưa xây dựng được bản ngã, họ vẫn không bước ra khỏi trạng thái của đứa trẻ 5, 6 tuổi. Một đứa trẻ 5, 6 tuổi sao có thể chịu trách nhiệm về bản thân?

    Nhưng cha mẹ, thầy cô và cả đất nước này không thể chịu trách nhiệm hộ họ khi họ đã trưởng thành. Đây là một hiện thực tàn khốc. Và họ thì ôm lòng thù hận và nỗi oán trách mà không hay biết.

    Một người lớn không thể bước ra khỏi bản thân sẽ luôn oán trách và thù hận. Oán trách là trạng thái của con trẻ, thù hận là kết quả hiển thị bên ngoài của nỗi lo lắng không thể sáng tạo bản thân. “Tôi không làm tốt là trách nhiệm của lãnh đạo”, “Tôi không hạnh phúc là vì anh đối với tôi không tốt, anh là người khiến cả đời tôi bất hạnh, nếu tôi tìm một người khác, tôi sẽ hạnh phúc”, “Sếp này chán lắm, vì ông ta mà tôi mới trở thành thế này”... Bạn sẽ mãi mãi oán trách người khác. Trên thực tế, khi nào thì bạn biết oán trách người khác? Trước khi 6 tuổi bạn đã biết oán trách người khác rồi. Khi nguyện vọng của trẻ không được đáp ứng, trẻ sẽ nói thế này: “Con đánh chết mẹ!”, “Mẹ xấu lắm!”, “Con đánh chết mẹ”. Sau này lớn lên không ai dám đánh nữa, nếu đánh, người khác sẽ nghĩ bạn có vấn đề. Sau khi trưởng thành sẽ đổi thành thế này: “Tại mẹ không tốt nên con mới thế này. Sở dĩ con như thế này là vì mẹ”. Chúng ta chỉ đang thay đổi động tác của một đứa trẻ 6 tuổi mà thôi. Đó là vì một người chưa bước ra khỏi trung tâm bản ngã của mình, họ không thể có nguyện vọng thể hiện bản thân.

    Vì thế, chúng tôi mới nói, điều ác nhất trong cuộc đời này là không cho một con người trưởng thành. Trong một môi trường không có yêu thương và tự do, một đứa trẻ khổ sở sống đến năm 18 tuổi, bạn nghĩ rằng trẻ sẽ bắt đầu phục vụ người khác sao? Không bao giờ. Nguyện vọng đầu tiên của trẻ sẽ là: “Ta phải thể hiện bản thân ta thế nào, ta phải nhào nặn mình đúng như ta mong muốn”. Chúng ta tự gọi điều đó là lý tưởng. Bạn có biết điều gì khiến con bạn sống không có lý tưởng không? Là bởi vì tâm lý của con bạn chưa trưởng thành đến mốc 18 tuổi, có thể con bạn mới chỉ trưởng thành đến tuổi thứ 6 của cuộc đời. Con bạn chỉ nói với bạn rằng: “Con muốn chơi, bố mẹ không cho con chơi, bố mẹ là bố mẹ tồi”. Bạn sẽ liên tục áp đặt con, mắng mỏ con, chỉ trích con… Áp lực đó rất lớn, nhưng con bạn vẫn có thể chống lại áp lực của bạn, con bạn cần phải chơi. Bạn có bao giờ nghĩ đến nguyên nhân của việc này? Nguyên nhân chỉ có một, con bạn vẫn đang dừng lại ở độ tuổi lên 4. Một đứa trẻ 4 tuổi, thì cho dù bạn có giết nó, nó cũng không thể làm như bạn hy vọng. Trừ khi bạn để cho tâm hồn của con tiếp tục trưởng thành, đó chính là con đường duy nhất.

    Vì thế, sáng tạo và hình thành bản ngã rất quan trọng. Phá vỡ sự vận hành của bản thân con trẻ, để con trẻ phục vụ cho người lớn cũng là một kiểu phạm tội. Bởi vì kiểu giáo dục này sẽ dẫn tới rất nhiều vấn đề trong xã hội. Thế nên chúng ta phải quan sát một cách kỹ lưỡng, liệu có phải chúng ta đang bắt con trẻ trưởng thành theo “nguyện vọng” của mình?

    Khi con trẻ trưởng thành đến thời kỳ thanh xuân, trẻ bắt đầu có những suy nghĩ với thế giới bên ngoài, trẻ đã hoàn thành việc xây dựng bản thân, bắt đầu thực hiện ước mơ; khi 30 tuổi, người ta phải hoàn thành tất cả bản ngã của mình, để đến năm 40 tuổi, họ bắt đầu suy nghĩ lại. Một người 40 tuổi lại suy nghĩ về giá trị và ý nghĩa của cuộc sống. Tại sao họ lại suy nghĩ về những vấn đề này? Chỉ có một nguyên nhân là, họ đã hoàn thành bản thân họ, họ đã chứng minh họ đến thế giới này để làm những việc gì. Khi bạn đi hết bước này, 40 tuổi, một lứa tuổi tuyệt vời, bạn đang suy nghĩ xem ý nghĩa của cuộc sống là gì? Sống thế nào để có giá trị hơn? Lúc này, vượt qua bản ngã mới trở thành khả năng.

    Rất nhiều nhà tâm lý học và nhà giáo dục học cho rằng, đến năm 40 tuổi, con người mới hoàn thành sự trưởng thành của bản thân. Một vòng tuần hoàn đến bốn mươi năm mới hoàn thành, ý nghĩa thực sự của cuộc sống lại được bắt đầu. Người này đang tìm kiếm ý nghĩa thực sự của cuộc sống ở đâu? Ý nghĩa của cuộc sống đang nằm ở chỗ nào? Đây là hành trình trưởng thành của cả nhân loại.

    Thế nên điều chúng ta muốn nói, sinh mệnh có một bản tính, đó là suy nghĩ theo nguyện vọng của mình để hành động, để trưởng thành. Con người đến thế giới này để học tập, để tiến hóa, nhưng tại sao họ lại không thích học? Tại sao họ không cần trưởng thành? Bởi vì khi người đó còn nhỏ, trưởng thành đến một giai đoạn nào đó thì bị người lớn ngăn cản, và người đó dừng lại.

    Yêu con trẻ là quan tâm đến sự trưởng thành của con trẻ

    Chúng ta nói yêu là gì? Yêu đơn thuần là một điều kiện và môi trường. Bao nhiêu năm nay chúng tôi nói về phương pháp giáo dục này, chúng tôi đều nói rất rõ ràng với các bậc cha mẹ rằng, chúng tôi không nói về giáo dục, chúng tôi không hề nói về những vấn đề giáo dục. Tôi chỉ nói về một điều kiện sinh tồn của nhân loại chúng ta. Chúng ta ai cũng biết, loài vật cũng yêu con của mình, chúng ta biết tình yêu của các loài vật dành cho con của mình, ở một góc độ nào đó còn vượt qua cả loài người chúng ta. Nhưng sự khác biệt của loài người và loài vật nằm ở đâu? Nằm ở chỗ tình yêu của loài người quan tâm đến sự trưởng thành của con, sự trưởng thành bất tận chính là đặc trưng của loài người. Loài vật không có đặc trưng này.

    Bạn có quan tâm đến sự trưởng thành của con mình không? Thế nào gọi là quan tâm đến sự trưởng thành của con người? Tôi từng xem một bộ phim: Một em gái khoảng 13, 14 tuổi, một hôm em đưa bạn trai về nhà. Hai người ngồi trên ghế sofa nói chuyện, nói chuyện mãi, bạn trai muốn hôn em. Em gái không đồng ý, hai người giằng co qua lại. Trong lúc giằng co đã làm đổ đèn và mấy thứ trên bàn. Người bạn trai đứng phắt dậy, chỉ vào em gái nói: “Mẹ mày bị bệnh thần kinh, mày cũng bị thần kinh. Mày là đứa thần kinh”. (Mẹ em gái có tiền sử bệnh thần kinh, thường xuyên phải vào điều trị ở bệnh viện tâm thần, bệnh dứt lại về nhà). Người bạn trai mắng xong thì đẩy cửa bước đi. Nghe những lời này, em bé gái cũng hết sức chịu đựng, cũng chạy ra khỏi nhà.

    Người mẹ trở về nhà, nhìn thấy trong phòng bừa bộn, suy nghĩ một lát thì lái xe đi tìm con.

    Em gái ngồi co ro ở một nơi, cảm thấy rất tuyệt vọng. Buổi tối mẹ tìm thấy em, hai người lặng lẽ lên xe. Im lặng một lát, mẹ em vừa lái xe vừa hỏi: “Con đưa bạn về nhà à?”.

    Em gái không nói gì.

    Mẹ hỏi: “Bạn con nói con phải không?”.

    Em gái vẫn không nói gì.

    Mẹ nói: “Bạn nói mẹ con bị bệnh, con cũng bị bệnh, con cũng bị thần kinh phải không?”.

    Em gái kinh ngạc ngẩng lên nói: “Sao mẹ biết?”

    Mẹ nói: “Có những lúc, chúng ta gặp được một người tốt, nhưng cũng có những lúc, chúng ta gặp một người xấu”.

    Chỉ câu nói này đã giải quyết được những khúc mắc trong lòng cô con gái. Đó chính là giúp con trưởng thành. Người mẹ này biết rằng, giúp con trưởng thành là điều quan trọng nhất, và chị ấy biết cách giúp con mình.

    Còn vấn đề của chúng ta ở đâu? Chúng ta thường xuyên đối xử với con mình là: “Con đừng có làm phiền mẹ!”, “Con đừng có làm như vậy, tại sao con làm thế?”. Chúng ta chưa từng chú trọng vấn đề trưởng thành của con.

    Một người mẹ biết con mình đi gặp bạn gái sắp đi học xa, mẹ nói: “Mẹ mong là con có thể chỉnh tề đi gặp bạn mình”. Người con nói: “Vâng ạ”. Sau đó người con tắm rửa, ăn mặc sạch sẽ.

    Người mẹ nói: “Con cầm tiền đi, cũng có thể con sẽ mời bạn ấy ăn cơm”. Người con chuẩn bị xong thì đi. Sau khi con về, hai mẹ con nói chuyện rất tự nhiên. Con gặp bạn thế nào? Hai đứa có ăn cơm không?... Con trả lời rất vui vẻ, con sẽ coi đấy là một hoạt động xã giao hết sức bình thường. Bởi vì cuộc đời tương lai của con, con phải giao tiếp với nhiều người khác nữa. Trong quá trình ấy con sẽ xử sự với những người khác như thế nào, điều ấy có liên quan đến định hướng tinh thần đầu tiên này. Con yêu quý người khác là vì định hướng tinh thần của con, chứ không vì bất cứ điều gì khác. Trong quá trình này, bạn đã nói với con mình như thế nào, đã giúp đỡ con mình như thế nào, điều ấy sẽ đặt nền móng cho việc sau này con bạn sẽ đối diện với thế giới này ra sao. Chúng tôi nói, đây chính là giúp con trưởng thành, chứ không phải chúng ta cứ luôn luôn thẩm vấn con rằng tại sao con không làm việc theo những tiêu chuẩn của xã hội, tại sao con không làm việc theo sự kỳ vọng của mẹ. Chúng ta cần phải nói với con của chúng ta rằng, con làm sai là hoàn toàn bình thường. Tất cả những người bắt đầu làm công việc này cũng thất bại nhiều hơn thành công. Chúng ta phải nói với con của chúng ta rằng, đây là một hiện tượng hoàn toàn phổ biến.

    Yêu thương là điều kiện cơ bản nhất để chúng ta sinh tồn và trưởng thành. Con người cần tình yêu cũng giống như một chiếc xe cần xăng để chạy. Bạn làm thế nào để con bạn trưởng thành? Trước hết, bạn cần phải yêu con.

    Đây là điều đầu tiên chúng tôi muốn nói. Tình yêu đánh thức những cảm thụ của bản thân trẻ, tình yêu giúp con chúng ta có sự tự tôn, có định hướng, có nguyện vọng gắn kết với người khác, và có những suy nghĩ mang tính xây dựng.

    Tự do chính là làm chủ bản thân

    Sự trưởng thành của con người bắt buộc cần hai thứ, một là tình yêu, một là tự do.

    Tự do là làm chủ bản thân. Tôi thường hỏi người khác rằng, khi nào thì bạn làm chủ bản thân? Rất nhiều người nói khi tôi tốt nghiệp đại học, khi tôi kết hôn, khi tôi về hưu. Có những người kết hôn chỉ vì muốn một lần làm chủ bản thân, kết quả là kết hôn xong, họ vẫn không thể làm chủ chính mình. Có người nói với tôi rằng, tôi kỳ vọng sau khi về hưu sẽ làm chủ bản thân. Bạn tưởng rằng cả đời làm nô lệ, đến lúc đó bạn sẽ làm chủ bản thân hay sao? Điều này nghe có vẻ tàn khốc, nhưng bạn không làm chủ bản thân mình, thì người khác sẽ làm chủ bản thân bạn. Trong nhà lúc nào chẳng có người.

    Có một câu chuyện kể về một anh diễn viên ở đoàn xiếc thú, khi biểu diễn hay phải trói mình lại để thực hiện các động tác khó. Sau khi diễn xong, để bớt việc và tiết kiệm thời gian, anh ta dứt khoát không cởi dây ra mà cứ để nguyên thế mà sinh hoạt và đi ngủ. Một hôm, có con vật định ăn thịt anh ta, nên mọi người phải cởi dây trói ra. Nhưng mà, khi tay chân anh ta được tự do, anh ta bỗng không biết phải làm mọi thứ như thế nào…

    Thế nên, bạn khó mà tưởng tượng một đứa trẻ được tự do sẽ ưu tú thế nào, bạn khó mà tưởng tượng một đứa trẻ tự do sẽ biết quản lý bản thân, giàu trí tuệ, có những nhận thức rõ ràng với thế giới ra sao. Những điều này cũng chính là hai phần quan trọng nhất trong quan niệm giáo dục của chúng tôi.

    Vì thế chúng tôi nói, tự do là chỉ việc hành vi, tâm lý, ý chí, tình cảm của con trẻ không bị kìm nén và chi phối bởi ngoại lực. Tự do thể hiện ở tính độc lập và tính tự chủ của con trẻ trong môi trường và sự tôn nghiêm của nhân cách và cơ thể trẻ. Do vậy tự do trở thành tiêu chí để một con người được thực sự làm người.

    Bạn làm thế nào mới có thể hình thành bản thân? Ai cũng biết công thức để hình thành bản thân, đó là tự nhiên ban cho chúng ta một mật mã của bản thân chúng ta, bạn làm thế nào để giải được những mật mã đó, làm thế nào để cuộc sống của bạn được là chính bạn, cách duy nhất là bạn phải có được tự do. Khi bạn có được tự do, bạn mới có thể trở thành chính mình, nếu không bạn sẽ là vật thay thế cho người khác. Bạn có thể sẽ là mẹ bạn, bố bạn, thầy giáo ngữ văn của bạn, thầy giáo đại học của bạn, sếp của bạn, tất cả những người xung quanh bạn, nhưng bạn không thể là mình.

    “Bản thân” là một hệ thống tự mình xây dựng duy nhất để gắn kết với thế giới này. “Bản thân” này biết cách quản lý tình cảm của bạn, quản lý cơ thể của bạn, quản lý trí tuệ của bạn, quản lý tâm lý của bạn, quản lý tinh thần của bạn. Không có bản ngã, thì bạn chẳng là gì cả. Có một câu là có xác không có hồn, sống cũng như chết, bởi vì nội tại của bạn không có bạn, cũng giống như một gian phòng, nếu nội tại của bạn không có bạn, có nghĩa là bạn đang để gian phòng đó trống rỗng sao? Thực tế không phải vậy. Nếu bạn không ở trong nội tại của bạn, thì sẽ có người khác ở đó. Và những người khác đó sẽ liên tục cãi nhau trong đầu óc bạn. Bởi vì người này nói thế này, người khác nói thế khác. Và bạn sẽ làm theo tín ngưỡng của người giành phần thắng trong những cuộc tranh giành quyền lực. Đó cũng là lý do vì sao chúng ta thường thấy rất nhiều người như thế này trong cuộc sống. Ví dụ khi bạn nói với một người về cách giáo dục này, cô ấy cảm thấy bạn nói rất có lý: “Quá đúng, chị nói quá đúng, em sẽ làm theo chị, em sẽ yêu con em”. Một thời gian sau có người nói: “Không có quy củ thì không thể làm nên trò trống gì. Con người phải được dạy, không dạy, không thành tài”. Cô ấy lại nói: “Có lý, không thể nuông chiều bọn trẻ và cho bọn chúng quá tự do”. Một hôm sau nữa lại có người nói với cô ấy rằng: “Chị biết không, có những người vì quá tự do mà làm bậy, rồi phải vào tù đấy”. Cô ấy lại nghĩ: “Cũng có lý”. Cả cuộc đời này của họ giống như những nhân vật trong tiểu thuyết của Chekhov(1), có trái tim như hạt đậu, hết lăn về bên này lại lăn sang bên kia. Đời người sao mà buồn đến vậy.

    Tại sao lại như vậy? Bởi vì cô ấy không có bản ngã. Bản ngã là hệ thống liên kết trong và ngoài, cô ấy sẽ biết tích hợp những thứ có ích, những chân lý trong cuộc đời cô ấy. Làm thế nào để tích hợp? Dựa vào những mật mã cuộc sống của bản thân con trẻ, một sự chỉ dẫn của bản thân. Bản ngã giống như một cái trục chính, chắc chắn như xương sống của một con người, đứng thẳng, để người ấy được thực sự làm người. Những điều ấy, nếu không có tự do thì không thể nào làm được.

    Quy tắc

    Chúng ta nói đến tình yêu thương và sự tự do, nhưng chúng ta lấy gì để đảm bảo con người này được lớn lên trong tình yêu thương và sự tự do? Chúng ta phải dựa vào quy tắc chứ không phải dựa vào quyền uy và sự quản chế.

    Quy tắc để làm gì?

    Chúng ta biết cuộc sống có những phép tắc riêng ngay từ khi mới sinh ra. Nhưng vì nền văn hóa hiện có của chúng ta, vì nền giáo dục hiện có của chúng ta vẫn thường cho rằng nhân định thắng thiên, chúng ta rất khó nắm bắt được quy luật trong phép tắc tự nhiên, vì thế mà phóng đại chức năng của con người. Phóng đại chức năng của con người, chúng ta sẽ bị văng ra khỏi con đường chân lý của phép tắc tự nhiên. Khi chúng ta bị văng khỏi con đường ấy, chúng ta sẽ xảy ra một vấn đề, đó là có người nắm bắt và khống chế tất cả mọi tiêu chuẩn. Quan hệ bất bình đẳng đã xuất hiện, quyền lực cũng xuất hiện mà không phải là quy tắc. Giáo dục không còn đề cao tố chất của con trẻ, giáo dục đã trở thành một đặc quyền của sự sàng lọc và đào thải. Tố chất của cả đất nước đã xuất hiện vấn đề như thế.

    Vậy chúng ta làm thế nào để đảm bảo một đứa trẻ được trưởng thành trong tự do và tình yêu? Chính là tất cả chúng ta đều phải tuân theo quy tắc này, bởi vì chỉ có quy tắc và trật tự mới có thể đảm bảo sự bình đẳng của con người.

    Chúng ta phải dựa vào quy tắc để đảm bảo mỗi người hoạt động trong phạm vi quy tắc đều phải tuân theo quy tắc, đây chính là bước khởi đầu của bình đẳng. Mỗi người chúng ta đều hiểu rõ ràng quy tắc là gì, không có bất kỳ ai được độc đó sẽ liên tục cãi nhau trong đầu óc bạn. Bởi vì người này nói thế này, người khác nói thế khác. Và bạn sẽ làm theo tín ngưỡng của người giành phần thắng trong những cuộc tranh giành quyền lực. Đó cũng là lý do vì sao chúng ta thường thấy rất nhiều người như thế này trong cuộc sống. Ví dụ khi bạn nói với một người về cách giáo dục này, cô ấy cảm thấy bạn nói rất có lý: “Quá đúng, chị nói quá đúng, em sẽ làm theo chị, em sẽ yêu con em”. Một thời gian sau có người nói: “Không có quy củ thì không thể làm nên trò trống gì. Con người phải được dạy, không dạy, không thành tài”. Cô ấy lại nói: “Có lý, không thể nuông chiều bọn trẻ và cho bọn chúng quá tự do”. Một hôm sau nữa lại có người nói với cô ấy rằng: “Chị biết không, có những người vì quá tự do mà làm bậy, rồi phải vào tù đấy”. Cô ấy lại nghĩ: “Cũng có lý”. Cả cuộc đời này của họ giống như những nhân vật trong tiểu thuyết của Chekhov(1), có trái tim như hạt đậu, hết lăn về bên này lại lăn sang bên kia. Đời người sao mà buồn đến vậy.

    Tại sao lại như vậy? Bởi vì cô ấy không có bản ngã. Bản ngã là hệ thống liên kết trong và ngoài, cô ấy sẽ biết tích hợp những thứ có ích, những chân lý trong cuộc đời cô ấy. Làm thế nào để tích hợp? Dựa vào những mật mã cuộc sống của bản thân con trẻ, một sự chỉ dẫn của bản thân. Bản ngã giống như một cái trục chính, chắc chắn như xương sống của một con người, đứng thẳng, để người ấy được thực sự làm người. Những điều ấy, nếu không có tự do thì không thể nào làm được.

    Quy tắc

    Chúng ta nói đến tình yêu thương và sự tự do, nhưng chúng ta lấy gì để đảm bảo con người này được lớn lên trong tình yêu thương và sự tự do? Chúng ta phải dựa vào quy tắc chứ không phải dựa vào quyền uy và sự quản chế.

    Quy tắc để làm gì?

    Chúng ta biết cuộc sống có những phép tắc riêng ngay từ khi mới sinh ra. Nhưng vì nền văn hóa hiện có của chúng ta, vì nền giáo dục hiện có của chúng ta vẫn thường cho rằng nhân định thắng thiên, chúng ta rất khó nắm bắt được quy luật trong phép tắc tự nhiên, vì thế mà phóng đại chức năng của con người. Phóng đại chức năng của con người, chúng ta sẽ bị văng ra khỏi con đường chân lý của phép tắc tự nhiên. Khi chúng ta bị văng khỏi con đường ấy, chúng ta sẽ xảy ra một vấn đề, đó là có người nắm bắt và khống chế tất cả mọi tiêu chuẩn. Quan hệ bất bình đẳng đã xuất hiện, quyền lực cũng xuất hiện mà không phải là quy tắc. Giáo dục không còn đề cao tố chất của con trẻ, giáo dục đã trở thành một đặc quyền của sự sàng lọc và đào thải. Tố chất của cả đất nước đã xuất hiện vấn đề như thế.

    Vậy chúng ta làm thế nào để đảm bảo một đứa trẻ được trưởng thành trong tự do và tình yêu? Chính là tất cả chúng ta đều phải tuân theo quy tắc này, bởi vì chỉ có quy tắc và trật tự mới có thể đảm bảo sự bình đẳng của con người.

    Chúng ta phải dựa vào quy tắc để đảm bảo mỗi người hoạt động trong phạm vi quy tắc đều phải tuân theo quy tắc, đây chính là bước khởi đầu của bình đẳng. Mỗi người chúng ta đều hiểu rõ ràng quy tắc là gì, không có bất kỳ ai được độc chiếm quy tắc, mà quyền lực và tiêu chuẩn phán đoán nằm trong tay tất cả những người ở trong phạm vi quy tắc ấy, đây cũng là một kiểu giám sát công khai. Chẳng hạn, chúng ta đang ở trong một rạp hát, bỗng nhiên tất cả những phần khác trong quả địa cầu này biến mất, chỉ còn lại mỗi cái rạp hát này, chúng ta phải sống cùng nhau, không ai được ra khỏi đó. Chúng ta phải cùng hưởng một cách công bằng tất cả tài nguyên của rạp hát này. Nếu không có quy tắc, thì những kẻ yếu hơn sẽ nhanh chóng trở thành đối tượng của bất bình đẳng và bạo lực, con người chúng ta sẽ quay sang trạng thái cá lớn nuốt cá bé, kẻ mạnh bắt nạt kẻ yếu của động vật. Vậy chúng ta phải làm thế nào để người lớn, trẻ con, người già, kẻ mạnh, kẻ yếu, đàn ông, đàn bà, người có quyền lực và người không có quyền lực trong rạp hát này được sống trong bình đẳng? Chỉ có thể dựa vào một thứ, đó là quy tắc. Chúng ta ai cũng biết, nếu bạn làm vậy, bạn sẽ vượt ra ngoài phạm vi, bạn sẽ vi phạm quy tắc, và tôi sẽ ngăn cản bạn. Ai cũng có quyền ngăn cản bạn. Nhưng nếu quyền lực nằm trong tay một người nào đó, để người đó phán đoán đúng và sai, thử nghĩ xem sẽ cái rạp hát ấy sẽ trở thành thế nào? Cũng giống như tiểu thuyết “Ruồi trâu”(2) đã viết, có đấu tranh là có tàn khốc. Đó cũng là đặc trưng của động vật có vú: Kẻ mạnh bắt nạt kẻ yếu, kẻ khỏe ở lại, kẻ yếu bị đào thải.

    Nhưng ngày hôm nay mọi thứ đã khác đi, nhân loại chúng ta đang có một tinh thần tốt đẹp nhất, chúng ta có thể xây dựng sự bình đẳng trong trạng thái quy tắc, quan hệ giữa người với người dựa trên phương thức yêu thương và kết tụ, cho phép ai cũng được sống trong bình đẳng. Điều này được gọi là nhân quyền.

    Chúng ta muốn xây dựng một xã hội bên ngoài và một môi trường sinh tồn như thế, bắt buộc phải bắt đầu từ giáo dục. Chúng ta cho con trẻ được sống trong yêu thương và bình đẳng, trong trạng thái tự do thì sau này con cái chúng ta sẽ đối xử với mọi người xung quanh như vậy. Người với người sống với nhau sẽ dễ chịu và vui vẻ hơn. Bởi vì tài nguyên trên thế giới này đủ cho chúng ta sinh tồn, chúng ta không thể để một người ăn một bữa vài chục triệu, khi người khác đang chết đói ngoài kia. Nhân loại chúng ta có một tiềm năng tiềm tàng để yêu thương người khác, chúng ta cũng có một nền tảng biết yêu thương, tôn trọng. Vì thế chúng ta phải tiến hóa từ trạng thái động vật có vú sang trạng thái người, mà chặng đường tiến hóa là vứt bỏ công thức đấu tranh vì quyền lực, vứt bỏ công thức kẻ mạnh bắt nạt kẻ yếu, hướng tới công thức của tình yêu và sự gắn kết của tình yêu.

    Chỉ đến khi ấy chúng ta mới trở nên vui vẻ, chúng ta mới có thể xóa bỏ chiến tranh của nhân loại, rời xa tật bệnh; giải quyết trở ngại của chúng ta; giải quyết nạn đói; giải quyết vấn đề thiếu thốn tài nguyên; giải quyết ô nhiễm không khí; chúng ta mới có thể xây dựng được những trường học tốt hơn, một môi trường giáo dục tốt đẹp hơn; chúng ta mới có thể sống trong một trạng thái dễ chịu, vui vẻ, hài hòa; chúng ta mới có thể xây dựng được một gia đình êm ấm, các thành viên luôn ủng hộ nhau; chúng ta mới có thể thực hiện được nguyện vọng xã hội hài hòa. Để thực hiện nguyện vọng ấy mỗi người làm cha làm mẹ phải bắt đầu từ việc yêu thương con cái mình, chỉ khi mỗi người chúng ta đều phải bắt tay vào làm, yêu thương con cái chúng ta. Làm được điều này, chúng ta sẽ thành công. Không phải là cả xã hội này sẽ làm thế nào, mà là mỗi người làm cha làm mẹ chúng ta phải học được cách ngồi xuống nói chuyện với con cái bạn; mỗi ngày khi con bạn đi học, thể hiện tình yêu của bố mẹ với con: “Bố mẹ yêu con”; mỗi buổi chiều về, cho con một cái ôm, nói với con rằng: “Mẹ yêu con”; khi con bạn gặp phiền phức, bạn phải học cách hỏi một câu: “Nói cho mẹ biết tại sao”, rồi lắng nghe con nói. Chỉ cần làm được như vậy cũng đủ để thay đổi thế hệ kế tiếp bạn. Vì vậy giáo dục là con đường nhanh nhất để thay đổi trạng thái con vật hướng tới trạng thái con người, mà tất cả những điều này điều phải dựa vào yêu thương, tự do, quy tắc và bình đẳng.

    Các nhà tâm lý học đã nói, không xây dựng quy tắc là đồng nghĩa với bạo lực. Vì nếu không xây dựng quy tắc, thì quyền lực sẽ nằm trong tay người lớn. Bạn sẽ đối xử với con theo tình cảm, suy nghĩ của bạn. Khi bạn ở cơ quan, đồng nghiệp hỏi: “Con chị mấy tuổi rồi?”.

    “Con chị 4 tuổi, thế con em mấy tuổi rồi?”.

    “Con em cũng 4 tuổi, con em đã thuộc bảng chữ cái, biết đánh vần rồi đấy, con chị biết đọc chưa?”.

    “Con chị vẫn chưa biết chữ nào, trường mầm non nói là con chị vẫn chưa đến thời kỳ nhạy cảm học tập”.

    “Chị ơi, chị đã thua ngay ở vạch xuất phát rồi, chị không thể để con mình cũng thua ở vạch xuất phát được. Con em còn đọc được rồi đấy”.

    Hay rồi, bạn vừa về đến nhà, nhìn thấy con đang xem ti vi, biết ngay cha mẹ sẽ nói gì: “Con còn xem ti vi hả, con nhà người ta đã thuộc bảng chữ cái, biết đánh vần, còn đọc được rồi kia kìa”. Bạn đã mang tình cảm của mình ra để đối đãi với con trẻ.

    Nhưng, nếu bạn xây dựng được quy tắc, quy tắc đó là sáu đến bảy giờ có thể xem ti vi, vậy thì bạn phải tuân thủ quy tắc khi con đang xem ti vi, cho phép con làm vậy. Bạn phải dựa vào quy tắc để quản lý bản thân mình, dựa vào quy tắc để quản lý con của bạn, dựa vào quy tắc để quản lý gia đình bạn. Bạn phải có một quy ước với con của mình, vợ chồng bạn cũng phải có quy ước với nhau. Không ai được bước ra khỏi quy ước ấy.

    Quy ước ấy là gì? Là phải tôn trọng bản thân, tôn trọng người khác, tôn trọng môi trường. Có thể bạn không hiểu thế nào là tôn trọng, vì rất nhiều người lớn chúng ta không hiểu thế nào là tôn trọng. Đó là khi hành vi của con trẻ không phương hại đến sức khỏe, không phương hại đến cuộc sống, không phương hại đến đạo đức. Trong phạm vi này, con trẻ có thể sử dụng mọi quyền lợi của mình. Đặc biệt là trẻ trước 6 tuổi, nếu hành vi của trẻ gây tổn hại đến người khác thì sao? Chúng ta không chỉ trích trẻ, không nói: “Con lại thế rồi!” mà bế trẻ đi chỗ khác. Mỗi lần chúng ta bế trẻ đi chỗ khác, bản thân trẻ sẽ tự đúc rút, trẻ sẽ nghĩ: “Mỗi lần mình làm thế, hình như không được, mẹ đều bế mình đi chỗ khác”. Thế là, lần sau trẻ sẽ biết mình nên làm thế nào.

    Chúng ta còn biết quy tắc là nói cho trẻ biết cách làm chính xác.

    Có một người mẹ nói với tôi rằng: “Tôi rất cảm kích con gái mình!”. Tôi hỏi tại sao? Cô ấy nói: “Chồng tôi tìm thịt bò khô cho con bé, con nói: ‘Bố ơi con cần gân bò, không cần thịt bò’. Bố đi lấy cho con gái một miếng thịt bò, con bé không nói gì. Đến hôm sau, con bé cầm ra hai cái túi giống hệt nhau nói: ‘Bố ơi, con muốn mời bố quan sát một chút, gân bò màu đỏ, thịt bò màu cam, bố phát hiện ra chưa?’. Bố nói: ‘Bố phát hiện ra rồi, hôm qua bố cầm nhầm cho con, đúng không?’. Con nói: ‘Vâng!’. Nói xong thì bình tĩnh đi ra chỗ khác”.

    Cô ấy lại nói tiếp: “Tôi rất cảm kích con gái mình, con đã dùng một phương pháp hết sức chính xác để nói với chồng tôi, con biết dùng cơ hội tốt nhất để nói với bố mình. Còn tôi thì hôm trước đã làm ầm lên, tôi nói với bố con bé rằng: ‘Nhờ anh lấy đồ mà cũng lấy nhầm, lấy nhầm mà cũng không biết lấy nhầm!’”, trong khi con bé mới 4 tuổi.

    Trường chúng tôi xây dựng bảy quy tắc, chỉ cần nghiêm chỉnh tuân thủ bảy quy tắc này, còn lại là tự do. Nhưng con trẻ đã học được cách giúp đỡ bố mẹ một cách chính xác nhất.

    Bảy quy tắc đó là:

    1. Không được có những hành vi thô lỗ, thô tục.

    2. Không được lấy đồ của người khác, đồ đạc của con thuộc quyền quyết định của riêng con, con có quyền tự chi phối đồ đạc của mình (những thứ không phải của con thì đều là của người khác).

    3. Đồ đạc lấy ở đâu phải trả về chỗ đó. (Mời trả về vị trí).

    4. Ai lấy trước người đó được sử dụng, người đến sau nhất thiết phải chờ đợi. (Mời con chờ đợi).

    5. Không được làm phiền người khác.

    6. Làm sai phải xin lỗi và có quyền yêu cầu người khác xin lỗi. Con trẻ có quyền bảo vệ quyền lợi của mình, bất cứ ai cũng không có quyền làm tổn thương và xâm phạm người khác.

    7. Học cách nói: “Không!”.

    Xây dựng quy tắc có tính linh hoạt, và tiến hành trong từng hoàn cảnh riêng.

    Quy tắc có thể giúp con trẻ có được sức mạnh tâm lý, giúp trẻ có cảm giác an toàn, giúp trẻ chung sống với môi trường và những người khác một cách có trật tự.

    Tôi xin lấy một ví dụ, bé trai nọ sống trong một gia đình mà người ông rất có quyền uy, mẹ cậu bé nói với tôi: “Bố em rất gia trưởng, gia đình em là gia đình gia trưởng, bố em không sợ ai hết. Em đã lớn lên như thế, hơi một tí là bị mắng. Một hôm khi bố em mắng em, con trai em đã đứng dậy nói: ‘Ông ơi, ông không được mắng mẹ cháu như thế. Ông làm thế là tổn thương đến mẹ cháu, vì thế ông phải xin lỗi mẹ cháu’. Kết quả là bố em phát cáu: ‘Cái gì? Cháu muốn ông xin lỗi mẹ cháu hả…’. Con em im lặng đứng bên cạnh, đợi đến khi ông nổi nóng xong mới nói: ‘Mời ông xin lỗi mẹ cháu’. Bố em lại phát khùng lên, lại nói một trận. Bố nói xong, con em lại nói: ‘Mời ông xin lỗi mẹ cháu, ông phải xin lỗi mẹ cháu’. Bố em thật đã hết cách, đành phải xin lỗi. Từ đó trở đi, con em đã trị được chứng hay mắng của ông. Bố em đã bị choáng váng bởi sự công bằng, dũng khí và lòng kiên định của cháu mình. Bố em không sợ ai, nhưng đã phải sợ cháu. Đương nhiên em biết rằng, bố em rất yêu cháu”. Đứa trẻ ấy mới 5 tuổi, cho dù ông nổi nóng đến mức nào… Ông đã hết nóng giận chưa? Vâng, mời ông xin lỗi mẹ cháu! Ông lại tức giận, ông tức giận xong chưa? Cháu vẫn mời ông xin lỗi mẹ cháu! Tóm lại, hôm nay cháu đã nhìn thấy hành vi thô lỗ của ông, ông đã sai, ông phải xin lỗi mẹ cháu.

    Mọi người đều có thể phát hiện một bí mật trong từng quy tắc, những quy tắc không hề ràng buộc con trẻ, mà đảm bảo cho con trẻ nhận được tình yêu thương và sự tự do, đạt được sự tôn trọng trong môi trường sinh tồn của mình. Chỉ có như vậy, chúng ta mới có thể đảm bảo cho sự trưởng thành của mỗi con trẻ. Chúng ta không thể để cho sự trưởng thành của con trẻ mang tính ngẫu nhiên, mà phải làm cho sự trưởng thành ấy mang tính tất nhiên. Tính tất nhiên này được hình thành như thế nào? Dựa vào trật tự và quy tắc để nắm bắt, cả hiệu trưởng, cô giáo và con trẻ đều như vậy.

    Đây chính là nguyên nhân tại sao cơ cấu giáo dục này lại đề cao tình yêu thương và tự do, quy tắc và bình đẳng. Giáo dục là như vậy, quản lý cũng nhất thiết trở thành như vậy. Nếu không, bạn không thể thực hiện phương pháp giáo dục này, mà thay vào đó sẽ trở nên cứng nhắc bởi sự đấu tranh vì quyền uy và quyền lực.

    Những con người đấu tranh vì quyền lực, không có ai không bị ức chế. Cô giáo bị ức chế vì hiệu trưởng, học sinh bị ức chế bởi cô giáo. Nói đơn giản là, hiệu trưởng trút giận lên cô giáo, vậy cô giáo trút giận lên chỗ nào? Có ai còn yếu ớt hơn? Chính là học sinh. Cũng có nghĩa là bản thân tôi đã gián tiếp trút giận lên ai? Lên chính bản thân các học sinh của tôi. Tôi gián tiếp làm việc này, bởi vì người dễ bị cướp đoạt nhất chính là con trẻ, con trẻ không có khả năng tự vệ, vì thế tôi đã giống như một dây dẫn điện, dẫn điện từ hiệu trưởng sang các cô, rồi sang học sinh. Tôi đã làm tổn thương con trẻ, con trẻ là những người dễ bị tổn thương nhất, trong khi rất khó khăn để con trẻ thể hiện ra và phản kháng lại. Ở đây làm gì có tình yêu? Làm gì có cảm giác của cuộc sống.

    Vì thế, “Yêu thương và tự do, quy tắc và bình đẳng” là sợi chỉ đỏ xuyên suốt qua cả hệ thống lý luận dạy học của trường chúng tôi, hệ thống phương pháp dạy học, hệ thống đào tạo giáo viên và hệ thống quản lý, xuyên suốt qua từng chi tiết. Như thế mới có thể đảm bảo phẩm chất của phương pháp giáo dục này. Đây chính là “Yêu thương và tự do, quy tắc và bình đẳng”.

    Tôi hy vọng trong mỗi người chúng ta đều sẵn sàng đi từ trạng thái kẻ mạnh bắt nạt kẻ yếu đặc trưng của loài động vật có vú sang tinh thần và văn minh của nhân loại tiến bộ. Đây chính là yêu thương và tự do, quy tắc và bình đẳng.

    [Còn nữa]
     
  5. Đặng Châu Cảm ơm vì sự cố gắng của bạn.

    Bài viết:
    399
    TỰ DO TRONG QUÁ TRÌNH TRƯỞNG THÀNH CỦA CON TRẺ

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Nếu bạn muốn trẻ được trở thành chính mình, bạn phải cho trẻ một thứ, đó là tự do. Chỉ khi trẻ có tự do, trẻ mới có thể trở thành chính mình, nếu không trẻ sẽ bị tách rời khỏi “bản ngã” của mình. Đây cũng chính là một câu mà tâm lý học thường nói: “Việc duy nhất bạn có thể làm trong cả cuộc đời của bạn là trở thành chính mình”. Bạn phải trở thành chính bản thân mình, và con đường duy nhất để bạn trở thành bản thân mình, là bạn phải được tự do.

    Nói đến tự do, nhất thiết phải gắn kết với một vấn đề, đó là phôi thai tinh thần.

    Tại sao phải nói đến phôi thai tinh thần? Có thể nói thế này, nội dung chủ yếu nhất của phương pháp giáo dục này là phôi thai tinh thần, đây chính là khái niệm quan trọng nhất. Nếu không thể hoàn toàn lý giải và tiếp nhận khái niệm này, thì sẽ không có đoạn mở đầu triết học của phương pháp giáo dục Montessori.

    Ý tưởng của phương pháp giáo dục cũ cho rằng con trẻ sinh ra không hề mang theo thứ gì, tất cả những gì trẻ có đều là do người lớn thêm vào cho trẻ. Sự thêm vào ấy đã xảy ra vấn đề.

    Ví dụ bạn là con tôi, tôi cho rằng bạn không có bất cứ thứ gì, tất cả những gì bạn có đều là do tôi cho bạn. Bạn dựa vào tôi mới có cái ăn cái uống, kể cả những thứ trong đầu óc của bạn cũng là do tôi mà có. Khi một người hoàn toàn phụ thuộc vào một người, thì quan hệ giữa hai người sẽ là quan hệ phụ thuộc và bị phụ thuộc, quan hệ cưỡng chế và bị cưỡng chế. Vấn đề này cứ tự nhiên sinh ra, không phải vì bạn muốn thế, mà là tự nhiên đã có sẵn công thức này.

    Trong ý tưởng của phương pháp giáo dục này, và trong phạm trù của tất cả những nhà tâm lý học hiện đại mà chúng ta từng biết đều nói với chúng ta rằng, tuy rằng khi trẻ ra đời, trẻ không biết gì về thế giới này, nhưng trẻ vẫn mang theo một thứ, một thứ không thể thiếu trong cuộc đời của mỗi con người. Đó chính là tiềm lực của sự trưởng thành. Chỉ là mọi người gọi nó theo những cách khác nhau mà thôi. Montessori gọi nó là “phôi thai tinh thần”; Freud gọi nó là “năng lượng cuộc sống”; giáo dục Waldorf(1) gọi đó là “linh tính”; trong phần lớn lý luận tâm lý học, người ta gọi là “tồn tại”, “bản thể”; trong một số học thuyết nào đó, người ta gọi nó là “cao ngã”; cũng có người gọi nó là “sức sống”; và cả một số người khác gọi nó bằng những cái tên khác. Nhưng cho dù nó được gọi là gì, chúng ta đều biết vào thời khắc chúng ta chào đời, hoặc là vào thời khắc chúng ta hình thành trong bụng mẹ, tự nhiên đã ban tặng cho bản thân chúng ta một thứ.

    Chính điều này sẽ dẫn dắt con trẻ. Theo phép tắc tự nhiên trong sự trưởng thành của cuộc sống mà nói, bạn phải tuân theo sự dẫn dắt của điều này để khám phá thế giới, giải những mật mã trưởng thành mà nó chứa đựng bên trong. Chỉ cần tuân theo sự dẫn dắt này, bạn sẽ có thể xây dựng và sáng tạo bản ngã của mình, bạn sẽ dần dần có được cảm giác lớn mạnh, vui vẻ và chân thực.

    Bạn có phát hiện ra rằng, bản thân chúng ta có rất nhiều suy nghĩ. Những suy nghĩ ấy sinh ra những mâu thuẫn và đấu tranh trong bản thân chúng ta, nguyên nhân là vì sao? Bởi vì những suy nghĩ ấy không phải là của bạn, mà là người khác nhồi nhét vào đầu óc bạn trong quá trình sau này. Khi bạn được làm theo những gì mà bản tính bạn mách bảo, bạn sẽ phát hiện ra mình rất vui vẻ.

    Một đứa trẻ lúc mới sinh ra, trẻ tồn tại cùng phôi thai tinh thần của mình. Khi con trẻ chào đời, trẻ không biết mình phải làm gì, vậy tại sao trẻ có thể biết hôm nay trẻ sẽ chọn thứ gì khiến trẻ cảm thấy vui mừng, khiến trẻ cảm thấy phù hợp. Ở đây phôi thai tinh thần đang phát huy tác dụng, phôi thai tinh thần mách bảo trẻ rằng, trẻ hãy chọn những việc có lợi cho bản thân trẻ, và bài trừ những thứ khác. Khi người lớn nói với trẻ vô số những thứ “không được”, trong vô số lần “không thể” mà người lớn cưỡng chế trẻ, trẻ sẽ bị tách rời khỏi phôi thai tinh thần. Trẻ phải nghe theo người lớn, sự tách rời ấy càng lúc càng xa, trẻ càng ngày càng xa rời bản ngã của mình.

    Vì thế, nếu bạn muốn một người được trở thành bản thân họ, để phôi thai tinh thần của họ ngày càng lớn mạnh, và thực thể hóa trong cuộc sống của họ, bạn phải cho họ một thứ, đó chính là tự do. Chỉ khi có tự do, họ mới có thể trở thành chính mình, nếu không họ sẽ bị tách rời khỏi “bản ngã” của mình. Đây cũng chính là một câu mà tâm lý học thường hay nhắc tới: “Việc duy nhất bạn có thể làm trong cả cuộc đời của bạn là trở thành chính mình”. Bạn phải trở thành bản thân bạn, và con đường duy nhất để trở thành chính bạn, là bạn phải có tự do.

    Thế nào gọi là tự do?

    Trích dẫn một khái niệm của các nhà tư tưởng, tự do là một người không bị chế ngự bởi người khác, hoặc không bị rơi vào trạng thái cưỡng chế do những ý chí đơn phương được gọi là một người tự do hoặc trạng thái nhân thân tự do. Tự do mà chúng tôi muốn nói ở đây chỉ đề cập đến quan hệ giữa người với người.

    Một đứa trẻ trưởng thành có cần đến sự dạy dỗ của giáo viên hay không? Hay là cần có một thể chế giáo dục đứng ra đảm bảo, giáo viên phải đảm bảo cho mỗi trẻ được tự do phát triển tiềm năng của mình. Con trẻ có thể tự xây dựng bản ngã của mình. Chúng tôi kỳ vọng tất cả những người lớn đều phát hiện ra bí mật này. Chúng ta cũng phải phát hiện ra rằng, trưởng thành là một việc xảy ra trong bản thân mỗi sinh mệnh. Quá trình học tập là một quá trình dựa vào những lĩnh vực bên trong sinh mệnh của chúng ta. Việc dạy của giáo viên là một môi trường, nhưng môi trường ấy không đóng vai trò mấu chốt. Giáo viên không thể xây dựng quá trình trưởng thành của con trẻ, đặc biệt là trong sáu năm đầu. Giáo viên tạo cho trẻ một môi trường để trẻ tự xây dựng bản thân, mà điều này lại vô cùng quan trọng. Đây chính là nguyên nhân tại sao chúng ta phải cho con trẻ có tự do.

    Bây giờ chúng ta sẽ nói đến nhận thức về tự do của chính bà Montessori. Bà cho rằng, tự do bao hàm hai nội dung: Nội dung thứ nhất là “tự do hoạt động”, nội dung thứ hai là “tự do làm chủ bản thân mình”.

    Ngay từ khi trẻ chào đời, trẻ phải được người khác chăm sóc, nếu không trẻ không thể sống nổi. Vì trẻ cần sự chăm sóc của người khác nên nảy sinh quan hệ giữa trẻ và những người đó. Kiểu quan hệ này chỉ có hai tình huống: Một là tự do bình đẳng, hai là cưỡng chế, không thể có tình huống thứ ba.

    Tự do bao hàm cả sự tôn trọng sinh mệnh, tôn trọng quy tắc trưởng thành của sinh mệnh, tôn trọng người khác. Còn trong quan hệ cưỡng chế, gần như tất cả quyền lực đều tập trung về phe cưỡng chế. Chúng ta đều biết một câu chuyện ngụ ngôn: Một con sói và một con dê uống nước bên bờ sông, sói nói với dê: “Tao sẽ ăn thịt mày”. Dê hỏi: “Tại sao?”. Sói nói: “Tại vì mày uống nước làm bẩn nguồn nước của tao”. Dê nói: “Anh ở thượng nguồn, em ở hạ nguồn, sao em có thể làm bẩn nước của anh?”. Nhưng sói vẫn ăn thịt dê. Sói muốn ăn thịt dê có cần đến lý do không? Không cần! Một người cưỡng chế, một người không có năng lực tự phản tỉnh, vô hình trung sẽ trở thành con sói, thậm chí từ trong tiềm thức, bởi vì họ thuộc về trạng thái của kẻ mạnh. Khi một người mẹ muốn đánh con mình sẽ không cần đến lý do, bởi vì tất cả chân lý đương nhiên đang nằm trong tay người mẹ: “Mẹ đánh con vì mẹ yêu con, con đã biết lỗi của mình chưa?”. Nguyên nhân chỉ có một, vì mẹ là mẹ của con! Điều bất hạnh là, việc này đã hình thành một thói quen.

    Đối với con trẻ, tự do chính là khi trẻ được hoạt động theo nguyện vọng của bản thân, trẻ phải được học dựa trên cảm giác.

    Ngôn ngữ của người lớn chúng ta đã trừu tượng hóa rất nhiều khái niệm, ví dụ khái niệm “cửa”. Tại sao chúng ta lại gọi đó là cái “cửa”? Tại vì trong quá trình tiến hóa, chúng ta dần dần phát hiện ra, nếu chúng ta có thể giao tiếp tốt với nhau, chúng ta có thể hiểu được đối phương đang nói gì, nên chúng ta phải trừu tượng hóa khái niệm ấy, để mọi người đều được biết. Khi nói đến cửa, mọi người đều hiểu ngay đó là cái gì, vô cùng đơn giản.

    Nhưng khi con trẻ chào đời, trẻ không hề biết những thứ này. Trẻ không biết, nên trẻ phải cảm giác cửa, sử dụng cửa, bạn không cho trẻ hoạt động có nghĩa là bạn không cho trẻ học tập và suy nghĩ.

    Trong trường mầm non, một số trẻ mới đến khá hiếu động và lộn xộn, chắc chắn vì ở nhà trẻ không được tự do hoạt động. Cho trẻ tự do hoạt động, mấy tháng sau trẻ sẽ được thỏa mãn, sau khi thỏa mãn trẻ sẽ bình tĩnh, sau khi bình tĩnh trẻ sẽ xuất hiện khuynh hướng và sự dẫn dắt của bản thân. Cũng giống như bản thân bạn sau khi được thỏa mãn, bạn sẽ thả lỏng hơn. Bạn sẽ nghĩ: “Mình cần phải làm gì cho cuộc sống của mình?”. Khi bạn không thể tự do lèo lái ý chí của mình, bạn sẽ tập trung để làm thế nào đột phá những hạn chế. Vì thế, mối lo lắng của trưởng thành khởi nguồn từ việc bị hạn chế chứ không vì bất cứ điều gì khác.

    Hoạt động vô cùng quan trọng với con trẻ. Không cho con trẻ hoạt động cũng đồng nghĩa với việc không cho chúng suy nghĩ. Sự trưởng thành của con trẻ dựa trên những hoạt động. Khi được tự do hoạt động, trạng thái trí lực của trẻ sẽ phát triển rất cao, trạng thái tâm lý cũng rất tốt, tình cảm cũng trưởng thành.

    Tự làm chủ bản thân, điều này không giống như quan niệm muốn làm gì thì làm trong quá khứ, mà là bạn làm theo ý chí của bản thân, chấp hành kế hoạch của bản thân, và không có ai được phá hoại kế hoạch của chính bạn.

    Chúng ta không thích để người khác làm chủ bản thân mình. Người da đen đã phải trải qua hàng trăm năm nỗ lực đấu tranh để giành được tự do, sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của mình. Ngày hôm nay, chúng ta cũng cố gắng để giành lại sự tự do cho con trẻ. Chúng ta phải làm chủ bản thân mình, bắt đầu ngay từ lúc mới sinh ra.

    Tự do là chỉ hành vi, tâm lý, ý chí, tình cảm, tinh thần của con trẻ không bị ngoại lực chi phối và tác động. Làm thế nào để đảm bảo tự do của bạn không bị xâm hại? Đây chính là vấn đề “quy tắc” mà chúng ta đã nói ở trên, dùng một chế độ để đảm bảo sự tự do chứ không phải là đặt quyền lợi tự do vào tay người lớn.

    Chúng tôi có một trường mầm non ở Bắc Kinh, ở đó có trẻ Ai Cập, trẻ Đức, trẻ Pháp, trẻ Thụy Sĩ, trẻ Canada, trẻ Mỹ… Tiêu chuẩn chọn trường mầm non của bố mẹ trẻ là gì? Họ sẽ hỏi bạn là: “Ở đây có được tự do không?”. Chúng tôi nói: “Tự do!”. Họ nói: “Chúng tôi phải quan sát, xem trẻ có thực sự được tự do hay không”. Sau khi quan sát họ phát hiện ra, chính xác là con trẻ được tự do. Tự do quan trọng với họ như vậy sao? Còn tiêu chuẩn đánh giá của đa phần những phụ huynh của chúng ta là: Xem điều kiện ăn ở của trường có tốt không.

    Tôi còn nhớ vào một buổi sớm, hai người mẹ ngoại quốc ngồi dựa vào tường nói chuyện: “Vẫn nơi này, vẫn những con người ấy, nhưng phương pháp giáo dục đã hoàn toàn thay đổi”.

    Khi trẻ ngã, người mẹ sẽ nói: “Sao cô không trông cháu cho cẩn thận? Cháu ngã cô cũng không bế cháu lên, đấy là trách nhiệm của cô mà”. Còn khi người mẹ Đức nhìn thấy con mình ngã sẽ ra hiệu cho cô đừng bế cháu lên. Khi cô bế cháu lên rồi, người mẹ còn nói một cách tiếc nuối: “Đừng, cô đừng bế cháu!”. Hai nền văn hóa, hai kiểu tâm thái và hai quan niệm giá trị hoàn toàn khác nhau.

    Một thời đại mới đang đến, một thời đại mới phát hiện những bí mật của con trẻ, ngay từ lúc này, những thay đổi đang diễn ra ngay xung quanh chúng ta.

    Chúng ta phải giải quyết những nỗi sợ hãi sâu thẳm của con trẻ. Chúng ta cho trẻ tình yêu thương để trẻ cảm thấy an toàn, không còn sợ hãi môi trường xung quanh. Chúng ta cũng phải giải quyết đặc trưng cuộc sống làm người, sáng tạo ra bản ngã.

    Có tự do và không có tự do hoàn toàn khác nhau. Có bản ngã và không có bản ngã còn khác nhau nhiều hơn.

    Một hôm, hai bé trai đang bò dưới gầm bàn của cô hiệu trưởng thì một người mẹ dẫn con gái đến ghi tên. Bé trai đang bò dưới gầm bàn bỗng bò ra nói: “Cậu đi đi, tớ không thích cậu”. Người mẹ nói: “Tại sao cháu lại nói thế với bạn gái này?”. Bé trai nói: “Hai chúng cháu đang ngủ dưới này, bạn ấy dùng chân đá vào nền gỗ dưới bàn, nên bọn cháu không thích bạn ấy”. Người mẹ kinh ngạc nói: “Cháu còn nhỏ thế này mà có thể nói chuyện rõ ràng như thế?”. Nói chuyện rõ ràng như thế là vì con trẻ hiểu rõ hành vi của mình, hiểu rõ tâm lý của mình. Vì thế trong trạng thái tự do thoải mái, trạng thái của cả con người mới tốt được.

    Thế nào là quyền uy?

    Mượn cách nói của Fromm, quyền uy chia thành hai loại: Một là quyền uy rõ ràng, một là quyền uy nặc danh. Quyền uy rõ ràng trên phương diện sinh lý, trực tiếp và không cần che giấu. Quyền uy nặc danh trên phương diện tâm lý. Quyền uy rõ ràng là chỉ những người nắm giữ quyền uy, họ trực tiếp truyền đạt những mệnh lệnh mang tính xử phạt lên những người thuộc địa vị phụ thuộc. Ví dụ phải làm như thế nào! Bạn phải làm thế nào, nếu không sẽ bị phạt. Còn quyền uy nặc danh thì lại ẩn mình, những người nắm giữ quyền lực này sẽ giả vờ như mình không hề có quyền lực gì, khiến bạn cảm thấy hình như mình đang được làm theo nguyện vọng của cá nhân, nhưng thực tế là họ đang khống chế tâm lý của bạn.

    Tuy quyền lực nặc danh bị che giấu, nhưng lại tồn tại khắp mọi nơi. Ví dụ: “Cô tin là em thích làm như vậy, đúng không?”.

    “Đối với những trò không nghe lời, cô không bao giờ xử phạt, nhưng cô sẽ nói với con là ‘Con làm cô xấu hổ quá!’”.

    “Cô biết là con rất nghe lời mà, con ra ngồi lên cái ghế kia đi”.

    “Con có phải là một em bé ngoan không? Lại đây, con có muốn có cái này không? Con ngồi xuống đi”.

    “Bông hoa to đẹp này để dành cho bạn nào làm tốt nhất, được không?”.

    Sử dụng các cách dẫn dụ, dụ dỗ, khen thưởng… để xoay chuyển tư duy của người khác thay đổi theo công thức của chúng ta. Tiếp sau đó là điều khiển tâm lý của họ, đó cũng là một kiểu quyền uy nặc danh.

    Trên thực tế, cách mà chúng ta điều khiển người khác cũng không nằm ngoài hai kiểu quyền uy trên. Chúng ta có phát hiện ra rằng, bố mẹ chúng ta cũng có hai kiểu quyền uy này? Nghiêm trọng thì đánh con một trận, chưa nghiêm trọng lắm thì nói những lời uy hiếp con cái. Về cơ bản, chúng ta đã lớn lên như thế, vì thế chúng ta không thể tưởng tượng con trẻ lớn lên trong tự do sẽ thế nào. Chúng ta dùng một bộ óc chưa từng được tự do để tưởng tượng về tự do thì sẽ khó khăn vô cùng. Việc này chẳng khác gì bắt chúng ta tưởng tượng về một người ở trên sao Hỏa, có tưởng tượng thế nào thì cũng lại quay về hình dáng của người trái đất mà thôi.

    Nếu người làm cha mẹ tiếp tục duy trì thái độ cũ, không chịu tự phản tỉnh về quyền uy của mình đối với con trẻ, con trẻ sẽ không có tự do thực sự. Bởi vì bạn nắm giữ tiêu chuẩn đúng sai, con trẻ chỉ có một cách là phục tùng và phụ thuộc vào bạn, mà không được phục tùng động lực trưởng thành và mật mã tinh thần của bản thân trẻ.

    Sự ra đời của một sinh mệnh mới là niềm vui của cuộc sống, cuộc sống ấy là của bạn, bạn được trở thành chính mình chứ không phải trở thành bất cứ ai lớn mạnh hơn bạn. Nếu không được như vậy, thì cuộc sống ấy trở nên vô nghĩa. Đây chính là việc tàn nhẫn nhất.

    Tự do giải phóng

    Khái niệm này cũng của Montessori. Bà nói: “Tự do giải phóng là chỉ những phản ứng thể hiện ra khi cự tuyệt trạng thái bị điều khiển bởi quyền uy, cũng có nghĩa là sự giải phóng khỏi sự trói buộc áp bức hoặc sự phục tùng quyền uy. Kết quả của nó là sự vô trật tự, thô lỗ, xúc động. Đó không phải là tự do theo ý nghĩa thực sự”.

    Một đứa trẻ lớn lên không có tự do, bị áp bức, bị điều khiển… bỗng được chuyển đến môi trường tự do, sẽ trở nên lộn xộn và không có trật tự, trở nên thô bạo và vô lễ… Trẻ được giải phóng, chúng ta không thể gọi trạng thái đó là tự do, chúng ta gọi trạng thái đó là giải phóng. Trẻ được giải phóng, kèm theo đó là một loạt các hành vi mang tính phá hoại. Nếu muốn trẻ quay lại quỹ đạo của phép tắc tự nhiên, nhất thiết phải cho trẻ được “giải phóng” một, hai tháng… và có thể lâu hơn. Đến khi nào trẻ giải phóng hết mọi áp lực, đạt đến một trình độ nào đấy, trẻ sẽ quay về quỹ đạo.

    Chúng ta đều lớn lên không có tự do, nên chúng ta luôn tưởng tượng tự do là không có phép tắc. Đó chỉ là giải phóng, mục đích của giải phóng là tự do. Giải phóng không phải là trạng thái bình thường của con người, cũng không phải trạng thái tự do thực sự. Mục đích thực sự của tự do là để phát triển bản ngã và sáng tạo bản ngã, chứ không phải là phá hoại.

    Bạn có tưởng tượng được những đứa trẻ được giải phóng không? Nhất là những trẻ lớn, chúng phá hoại, không tin tưởng người lớn, lạnh nhạt, đờ đẫn, phòng vệ, thù địch. Nhưng sau hai tháng, chúng bắt đầu thay đổi.

    Bé Khai Khai vào trường lúc 5 tuổi, hai tháng sau, một hôm bé bò trên thành lan can trường, chân đá vào chậu hoa phía dưới. Cô giáo nhắc con: “Không được như vậy!”. Bé vẫn đá. Cô giáo nói: “Cây cũng giống con, cũng có sự sống. Mời con tôn trọng sự sống này”.

    Bé Khai Khai nói: “Nếu con vẫn đá, cô sẽ làm gì con?”.

    Cô giáo nói: “Cô không làm gì con cả, cô vẫn tôn trọng con. Nhưng cô sẽ bế con đi chỗ khác, ra khỏi chỗ này”.

    Bé Khai Khai gật đầu, đi ra chỗ khác.

    Đây là một thay đổi lớn trong sự trưởng thành của trẻ, bởi vì kinh nghiệm của trẻ nói với trẻ rằng, người lớn sẽ mắng mỏ và trừng phạt trẻ, nên trẻ mới hỏi cô giáo: “Cô sẽ làm gì con?”. Kết quả cô giáo trả lời là không làm gì cả, trẻ đã yên tâm. Điều này chỉ thay đổi kinh nghiệm vốn có của trẻ, thay đổi sự phá hoại của trẻ. Trẻ vẫn chưa trở nên mềm mại và nhạy cảm hơn, nhưng sự thay đổi trong yêu thương và tự do đã đang bắt đầu.

    Có rất nhiều đứa trẻ như vậy. Có trẻ yếu, có trẻ mạnh. Hai tuần đầu, những trẻ yếu hơn mất hút, những trẻ mạnh hơn chạy nhảy khắp nơi trong trường. Trẻ con thay đổi rất nhanh. Ba tháng sau, khi trẻ dần dần yên tĩnh, khuôn mặt trẻ cũng trở nên dịu dàng, bắt đầu có sự gắn kết, cuộc sống của trẻ cũng trở nên tinh tế và nhạy cảm.

    Nếu con chúng ta lớn lên trong sự kiểm soát, người làm cha mẹ sẽ phải đối diện với những vấn đề này. Khi con trẻ được giải phóng, có thể trẻ sẽ trả lại cha mẹ những áp bức từ trước tới nay. Cha mẹ phải có sự chuẩn bị tâm lý từ trước, bạn phải trải qua thời kỳ này trước khi trẻ được tự do thực sự, trước khi trẻ tuân theo những quy tắc. Đây là một quá trình tất yếu, những giáo viên chúng tôi làm được, thì những người làm cha mẹ các bạn cũng nhất định sẽ làm được.

    Tự do thực sự

    Thế nào là tự do thực sự?

    Con trẻ sinh ra đã có một công thức phát triển tinh thần hoàn hảo, điều đó chứa đựng trong những mật mã cuộc sống của chúng ta, và không phải ai cũng giải được hết những mật mã này. Có thể giải mã được nhiều hay ít là dựa vào tình yêu thương và tự do. Yêu thương và tự do không phải là mục tiêu cuối cùng của chúng ta, mà là điều kiện cần để chúng ta giải những mật mã của cuộc sống. Điều kiện này đảm bảo cho con trẻ có thể giải những mật mã của mình.

    Mỗi con người đều là độc nhất vô nhị. Sự tự do thực sự là quyền tự do giải mật mã cuộc sống, tự khám phá bản thân mình. Bạn không thể biết được tư chất bẩm sinh của con người cao đến mức nào! Bạn có bao giờ thử nghĩ xem tại sao lại có những người vĩ đại, kiệt xuất đến như vậy? Điều này quyết định bởi những điều bản thân chúng ta đã thực hiện ở tuổi ấu thơ của mình. Đó chính là tư chất bẩm sinh của mỗi con người.

    Thế nào là tự do? Montessori nói: “Tự do là một điều kiện để trợ giúp cho phương pháp giáo dục này, giúp cho những khả năng tiềm tàng được phát triển”. Dùng một câu đơn giản hơn để nói, là chúng ta giải mã phôi thai tinh thần, đây chính là toàn bộ nội hàm của sự tự do.

    Sự trưởng thành của con trẻ cần có sự tự do như thế nào?

    Thứ nhất, trẻ em được tự do lựa chọn những thứ thu hút trẻ. Trẻ được tự do lựa chọn những gì trẻ cảm thấy hứng thú.

    Thứ hai, thể hiện ở sự tự do về hành động, tự do ra vào lớp học. Làm thế nào để biết được một trường học có tự do hay không? Trong lớp học, trẻ được hoạt động theo nguyện vọng của mình, trẻ cũng có thể làm việc ở bên ngoài lớp học; trẻ đã phá vỡ cách nghĩ từ trước đến nay của chúng ta cho rằng, phải ở trong lớp mới gọi là học tập, còn bên ngoài lớp học thì không gọi là học tập. Montessori nói: “Có trần nhà cũng là lớp học, không có trần nhà cũng là lớp học”. Điều này hoàn toàn quyết định bởi sự nắm bắt của trẻ với bản thân trẻ mà không hề liên quan gì đến giáo viên. Vì thế Montessori mới nói: “Tinh lực sinh mệnh sáu năm đầu đời của trẻ là một quá trình tự sáng tạo”. Quá trình tự sáng tạo, nên cần có tự do.

    Thứ ba, trẻ em có quyền tự do không bị can thiệp khi yên tĩnh. Trẻ em có quyền tự do được ở một mình, tự do lựa chọn không gian của mình. Trong những kinh nghiệm trước đây, chúng ta cho rằng, chúng ta phải dõi theo trẻ từng giây từng phút, trẻ không có không gian riêng của mình, vì như vậy là nguy hiểm. Nhưng trên thực tế, chúng tôi nói rằng, trẻ đến một độ tuổi nào đó, nếu được ở một mình, đó sẽ là một quá trình tự sáng tạo của riêng trẻ, vì thế khoảng thời gian trẻ được ở một mình là khoảng thời gian đặc biệt quan trọng nhất trong cuộc sống của trẻ.

    Thứ tư, trẻ em được tự phát hiện vấn đề, nghĩ ra cách giải quyết và kế sách, được tự do lựa chọn câu trả lời.

    Câu nói này hàm nghĩa điều gì? Theo kinh nghiệm và công thức dạy học trong quá khứ, cô giáo sẽ nói với học sinh cả quá trình, nói với học sinh cả những đáp án đã có. Đây là một quá trình nhồi nhét. Chúng ta không có được niềm vui sướng khi phát hiện ra vấn đề, không có được sự vui thích khi tìm kiếm, không có được cảm giác thành tựu khi tìm ra câu trả lời. Trẻ em phải có những quyền đó. “Lúc này trẻ chưa biết, nhưng sớm muộn gì trẻ sẽ biết”. Trẻ đi trái giày, nhưng sẽ có một ngày trẻ vui sướng phát hiện ra rằng, bí mật nằm ở ngay đây. Khi phát hiện ra, trẻ sẽ có được niềm vui của sự trưởng thành. Nếu bạn nói với trẻ là: “Con đi trái giày rồi”. Bạn sẽ mãi mãi đi theo trẻ để nói trẻ chưa đúng, trẻ ngốc nghếch. Trẻ con ai cũng ngốc, chỉ có người lớn thông minh mà thôi.

    Trả lại cho con trẻ quyền lợi và niềm yêu thích được phát hiện. Bởi vì chắc chắn trẻ sẽ phát hiện ra! Sự phát hiện của trẻ là tất nhiên chứ không phải ngẫu nhiên, đây chỉ là một quá trình. Vì thế hãy để trẻ tự phát hiện, tự nghĩ cách và tự giải quyết.

    Thứ năm, trẻ em có quyền tự do ý chí của mình để trao đổi và chia sẻ những phát hiện của mình với người khác.

    Sự tự do cuối cùng, tự do cao nhất của mỗi con người chính là điều này. Chúng ta có phát hiện ra rằng, dù đau khổ hay hạnh phúc, chúng ta đều có một nguyện vọng, đó là chia sẻ với người khác. Ví dụ điển hình nhất là những người yêu nhau, nếu thực sự yêu, họ sẽ chia sẻ cùng người ấy. Khi chúng ta đau khổ, chúng ta càng muốn chia sẻ, chia sẻ để vợi bớt nỗi đau.

    Chia sẻ cùng người khác, chứ không phải để trút giận, để oán thán. Chúng ta phải học cách chia sẻ, biết chia sẻ sẽ không trút giận và oán thán.

    Mấy hôm trước, một đứa trẻ mang theo sôcôla, nhưng không cho những bạn khác ăn, chỉ để khoe là: “Bố tớ mua cho tớ đấy”. Mục đích là gì? Mục đích chính là câu sau mà con chưa nói ra: Các cậu nhìn xem, bố tớ có yêu tớ không. Đây là cách thể hiện tình yêu.

    Đợi đến lúc chúng ta trưởng thành, chúng ta sẽ không chia sẻ nữa, chúng ta sẽ phát hiện ra mình ngày càng trở nên cô độc, ngày càng lãnh đạm với người khác, khoảng cách giữa người với người cũng ngày một xa, và ngày càng không thể tin ai. Nhưng trên thực tế, mỗi người chúng ta đều cần phải gắn kết, có sự gắn kết chúng ta mới không cô độc. Chúng ta và những người xung quanh ta hòa làm một, đấy mới là trạng thái cao nhất. Nếu chúng ta mới chỉ hòa làm một khi yêu, thì đó chỉ là cách nguyên thủy. Nhưng bằng cách chia sẻ, chúng ta hoàn toàn có thể có được sự liên kết về tâm lý và tâm linh, đạt được sự hòa vào làm một. Có như vậy, quan hệ giữa người với người mới trở nên dễ chịu, vui vẻ.

    Quá trình giáo dục cũng vậy, chúng ta phải cho trẻ thời gian, cho trẻ được chia sẻ. Thế nên chúng ta mới hay nhìn thấy con trẻ cầm đồ ăn ngon, đồ chơi hoặc những thứ được bố mẹ mua cho, liên tục ngắm nghía và khoe với mọi người...

    Đây là trạng thái tự do mà trường mầm non tạo ra cho trẻ. Một lớp học lý tưởng cho trẻ tự do vận động. Mỗi đứa trẻ được hành động một cách có hiệu quả, lý tính, tự động tự phát, trẻ không có những hành vi thô bạo, dã man. Trẻ hoạt động độc lập, không tụ tập, mà thường là chỉ có một hai trẻ ngồi với nhau. Cảnh tượng của cả trường là như vậy. Đây chính là tự do mà chúng tôi đã nói ở trên.

    [Hết]
     
Trạng thái chủ đề:
Đã bị khóa
Trả lời qua Facebook
Đang tải...