Yêu Thương Và Tự Do - Tôn Thụy Tuyết

Thảo luận trong 'Tổng Hợp' bắt đầu bởi Đặng Châu, 27 Tháng sáu 2018.

  1. Đặng Châu Cảm ơm vì sự cố gắng của bạn.

    Bài viết:
    397
    Chương 11: “DẠY” CON CŨNG CÓ THỂ LÀ NÔ DỊCH CON

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Cô giáo mỹ thuật phát hiện thấy trẻ vẽ cá trên trời, liền nói với trẻ: “Vẽ tranh đầu tiên phải vẽ đường chân trời”. Trong một tiếng đồng hồ, con trai tôi vẽ khoảng mười mấy bức tranh, bức nào cũng có một đường kẻ ngang. Một đứa trẻ sao có thể hiểu được thế nào là đường chân trời? Người lớn mang kinh nghiệm của mình ra để ép con trẻ, dùng mọi cách để tỏ rõ thái độ, nhưng cho dù những điều chúng ta nói đều đúng, thì sẽ thế nào? Người lớn chúng ta không thể thay trẻ trong kinh nghiệm nhận biết thế giới của trẻ.

    Khi tâm lý và ý chí của con trẻ có đủ điều kiện để phát triển, trẻ sẽ có mong muốn theo đuổi sự độc lập. Nhưng, các bậc cha mẹ thường làm thế nào? Ví dụ một đứa trẻ hơn 1 tuổi muốn tự cầm thìa để ăn cơm, dù xúc được cơm hay không cháu vẫn muốn tự mình làm, kết quả là thức ăn vương vãi đầy bàn. Đây chính là lúc trẻ đang học cách độc lập, học cách ăn cơm độc lập, nhưng phần đông các bậc cha mẹ lại làm điều ngược lại - xúc cho con ăn! Rất đơn giản, xúc cho con ăn, ăn xong, bàn ghế và quần áo vẫn sạch nguyên. Nhưng hành vi này của chúng ta đã tước đoạt đi quyền độc lập của các bé.

    Tôi nhớ lại lần gặp một bé gái trên xe buýt. Bé gái hơn 2 tuổi, bé muốn ăn khoai lang, mẹ mua cho bé một củ khoai lang nướng. Lên xe buýt, mẹ bóc khoai cho bé, bé vội vã la lên: “Để con bóc, để con bóc…”. Mẹ cô bé nói: “Con bóc bẩn lắm, ăn sẽ đau bụng đấy”. Bé gái khẩn thiết: “Con muốn bóc, mẹ cho con bóc đi!”. Mẹ bé nghiêm khắc nói: “Không được”. Khuôn mặt cô bé đầy vẻ cầu xin, đau khổ, bối rối, cuối cùng củ khoai cũng bóc xong, mẹ cô bé nói: “Xong rồi, con ăn đi, có vội mấy cũng phải ăn uống cho sạch sẽ”. Bé gái nói: “Con không ăn nữa”. Mẹ bé nói: “Sao hả?! Mất tiền mua, mất bao nhiêu công sức như thế, không ăn hả? Đúng là chỉ giỏi hành hạ người khác…”.

    Bé gái muốn bóc vỏ khoai lang tức là cần quá trình bóc vỏ khoai, cần kinh nghiệm và cảm giác của việc bóc vỏ khoai. Đây là nhu cầu của bản thân bé, là nhu cầu để phát triển tâm trí của bé. Kinh nghiệm ấy có tác dụng gì? Không ai biết được. Đó có thể chính là một mắt xích để trở thành nhà khoa học vĩ đại, nhà chính trị hoặc một nhân vật quan trọng nào khác. Người lớn lại không thể hiểu được điều này.

    Nhưng người lớn vẫn cần có tình yêu! Thế nào là tình yêu, tình yêu là sự khoan dung lớn lao và lý giải sâu sắc. Có tình yêu, thì dù là chưa hiểu về giáo dục cũng vẫn có thể cho con những quyền lợi cơ bản để phát triển, có thể cho trẻ tự do, để trẻ đi từ tự do đến độc lập.

    Rất nhiều đứa trẻ bị bố mẹ tước mất cơ hội tự đi giầy. Bởi vì khi trẻ con tự đi giầy, quá trình buộc dây giầy rất lâu, bạn phải ngồi ở đó để chờ đợi. Buổi sáng khi đi làm ai cũng vội, vì thế chúng ta phải đi giầy, cài cúc áo cho con, như thế đỡ mất thời gian. Lâu dần, trẻ đã bị tước mất khả năng đi giầy. Ở trường chúng tôi cũng có tình trạng này, khi rất nhiều cháu đã đi xong giầy và chạy nhảy ở ngoài, nhiều cháu vẫn đang khóc. Tại sao vậy? Cháu đang chờ cô giáo đến buộc dây giầy cho mình.

    Sự tước đoạt ở trên đây tương đối dễ hiểu. Trên thực tế vẫn còn một kiểu tước đoạt khác, đó là tước đoạt đi cơ hội độc lập về tư tưởng của con. Sự tước đoạt ấy khiến con trẻ bị mất tự do về tư tưởng. Mất tự do tất sẽ rơi vào tình trạng bị nô dịch.

    Sự trưởng thành của con trẻ, cho dù là sự trưởng thành về tư duy hay cơ thể đều là quá trình hướng tới sự độc lập một cách không ngừng nghỉ. Để được độc lập, con trẻ sẵn sàng mạo hiểm, tìm tòi, đến năm 30 tuổi con người sẽ có được sự độc lập hoàn toàn và cống hiến cho người khác, cho xã hội tất cả những gì mình đã tích lũy được. Trong quá trình này, nếu bị ngăn cản, con người sẽ không có được sự tự do, cũng là không thể độc lập. Không thể độc lập, cũng chính là không có khả năng sinh tồn, khả năng phát triển và khả năng học tập.

    Montessori đưa ra một ví dụ, có một chiếc xe ngựa, trên đó có bố, mẹ, con trai. Xe ngựa đi trên con đường nhỏ thì có một toán cướp xông ra chặn đường. Bọn cướp hét lên: “Muốn mất tiền hay mất mạng!”. Chúng ta hãy xem xem cách ứng xử của ba con người: Ông bố là một xạ thủ có kinh nghiệm, mang theo cả một khẩu súng lục, nên nhanh chóng giơ súng nhắm thẳng vào tên cướp cản đường mà bóp cò; cậu con trai có một đôi chân nhanh nhẹn, cậu bé kêu lên một tiếng rồi bỏ chạy; còn người mẹ không có súng, cũng không có năng lực tự bảo vệ mình, đôi chân của người mẹ chưa bao giờ phải chạy đi đâu, đang bị trói chặt trong chiếc váy. Điều quan trọng hơn cả là người mẹ chưa bao giờ độc lập về tinh thần, nên sợ quá mà run lẩy bẩy rồi ngã xuống đất bất tỉnh nhân sự.

    Chúng ta không nói đến những điều phi logic trong câu chuyện này, chỉ tính đến ba kiểu phản ứng khác nhau. Ba kiểu phản ứng này có quan hệ mật thiết với trạng thái độc lập và tự do của mỗi người. Một con người không độc lập về phương diện nào thì mất tự do về phương diện ấy. Ở những thời khắc quan trọng nhất, mỗi người đều dựa vào mức độ độc lập của bản thân mình để giải quyết vấn đề. Chúng ta đã đọc rất nhiều câu chuyện, khi một tên tội phạm đối mặt với một người, hắn sẽ nhanh chóng tìm được điểm thiếu sót, yếu ớt và thiếu độc lập trong tâm lý của người này, tạo ra một không khí đối ngược với sự yếu ớt để uy hiếp người đó. Có người gặp cướp thì run lẩy bẩy; có người thì cố sức đấu tranh; có người biết khả năng của mình không thể chống đỡ nổi thì dùng trí tuệ của mình để chiến thắng đối phương…

    Montessori nói: “Sự nguy hiểm của nô dịch và dựa dẫm không chỉ khiến con người ta phí hoài cuộc sống của mình, mà còn dẫn đến sự yếu đuối và bất lực. Hơn nữa trong quá trình phát triển cá tính của người bình thường, cũng thể hiện rõ ràng sự thoái hóa và tụt dốc khiến người ta nuối tiếc.

    Tôi muốn nói đến những hành vi hung hăng nạt nộ hay độc đoán bạo ngược. Những ví dụ này không hề hiếm gặp trong cuộc sống của chúng ta”.

    Montessori còn đưa ra một ví dụ về một người bình thường, nói về một người công nhân làm việc trong nhà máy, ở cơ quan anh ta là một người rất có năng lực, không những làm tốt công việc của mình mà còn đưa ra rất nhiều sáng kiến, kiến nghị hợp lý hóa sản xuất. Lúc này, anh ta là một người hoàn toàn bình thường. Nhưng khi trở về nhà, anh ta gác chân lên bàn, nạt nộ vợ mình: “Mang nước ra đây!”. Lúc này, anh ta trở nên độc đoán bạo ngược, bởi vì đang có một người “nô bộc” ra sức phục dịch anh ta. Có những người chỉ cần có cơ hội làm “chủ nhân” thì ngay lập tức sẽ ra sức độc đoán bạo ngược với “nô bộc” của mình, đây hoàn toàn không phải một trạng thái bình thường.

    Mỗi người đều căn cứ vào đối tượng để thể hiện bản thân mình. Lúc ở nhà anh ta không chịu làm gì, không muốn làm gì và không làm bất cứ việc gì. Nhưng ở cơ quan anh ta không như vậy. Anh ta là một người hai mặt. Khi ở trước mặt cấp trên anh ta bị ức chế, lúc gặp vợ mới được thoải mái nên lộ bản chất của mình. Và vợ anh phải bất đắc dĩ nhận lấy tất cả. Đó là bởi vì tuổi ấu thơ của anh ta trưởng thành không độc lập cũng không tự do! Vợ anh ta có thể chấp nhận những điều này cũng bởi vì cô ấy không độc lập, không tự do.

    Mỗi người đều dựa vào mức độ độc lập của bản thân mình để sử dụng sự tự do, mà tất cả những điều đó đều căn cứ trên một điều kiện. Điều kiện này là gì? Đó là ở tuổi ấu thơ, bố mẹ phải cho con được tình yêu và tự do một cách liên tục, không đứt đoạn. Montessori nói: “Chúng ta phải bồi dưỡng con cái chúng ta thành những người mạnh mẽ, cũng chính là người độc lập và tự do như đã nói ở trên”. Sự tự do ấy không nói về điều kiện, mà nói về phẩm chất. Có được phẩm chất này, chúng ta mới có thể tồn tại như một con người, mới không đánh mất quyền lợi làm người trong ý chí và tư tưởng của mình, mới không bị nô dịch.

    Trong nhiều trường hợp, nô dịch cũng là một tập tính. Ví dụ như việc dạy vẽ tranh: Có rất nhiều giáo viên mỹ thuật của các em không biết dạy vẽ và cũng không hiểu về việc dạy, nên đã xảy ra rất nhiều vấn đề trong việc dạy các em. Họ toàn dạy các em vẽ hoa, vẽ cỏ. Khi họ “ép” các em vẽ như vậy, trong đó đã có sự “nô dịch”. Khi một người muốn người khác nô dịch mình, họ sẽ không nói rõ ràng ra. Họ sẽ không nói: “Con là nô lệ của cô; cô là chủ nhân của con”.

    Trong câu chuyện “Hoàng tử bé”, Hoàng tử bé đến một hành tinh khác, gặp một kẻ “cuồng hư vinh”, người này nói với Hoàng tử bé: “Hãy ngưỡng mộ ta một lần đi, cháu hãy ngưỡng mộ ta một lần, chỉ một lần thôi”. Hoàng tử bé không thể hiểu nổi người này sao lại vậy, liền bay sang một hành tinh khác. Nhưng hành tinh ấy lại có một tên bạo chúa, hắn bắt Hoàng tử bé làm cái này, bắt Hoàng tử bé làm cái kia! Hoàng tử bé không hiểu sao người này lại vậy, lại tiếp tục bay đi. Lại đến một hành tinh khác, ở hành tinh đó có một người rất tham lam, hắn không ngừng tính toán xem hành tinh nào là của mình, bận đến nỗi không có thời gian ngẩng lên nói chuyện với Hoàng tử bé. Cuốn truyện này đã viết về rất nhiều trạng thái của người lớn và viết vô cùng chân thực.

    Rất có thể những người lớn này đang ở cạnh trẻ, nhiệt tình “dạy” trẻ. Chúng ta muốn dạy trẻ, chúng ta mang chủ kiến của mình ra để “áp đặt” trẻ phải thế này thế kia. Chúng ta động viên trẻ, dùng mọi cách để ám chỉ, trừng phạt trẻ cũng chính là đang nô dịch trẻ. Không tính đến mặt tiêu cực, chỉ tính đến mặt tích cực thì tình huống sẽ thế nào? Trẻ em đang ở vào thời kỳ kinh nghiệm trực tiếp, các con phải tự tích lũy kinh nghiệm cho mình. Nếu trẻ có được những kinh nghiệm từ chính quá trình sống của mình, thì trẻ mới là chủ nhân của chính mình. Nhưng trên thực tế, người lớn tự cho rằng kinh nghiệm của mình tốt và ép con trẻ tiếp nhận. Đa phần trẻ sau khi bị ép uổng như vậy, thì về mặt này trẻ đã bị người lớn nô dịch, trẻ không thể thoát ra khỏi khuôn mẫu của người lớn, đây chính là cái gọi là “bó hẹp hoạt động(1)”.

    Nhiều lúc chúng ta cũng không phát hiện ra mình đang “nô dịch”. Điều này được thể hiện trong chính hành vi “dạy” mà chúng ta vẫn coi trọng từ trước đến giờ. Tôi xin đưa ra một ví dụ. Cách đây không lâu, giáo viên mỹ thuật của trường chúng tôi dạy trẻ vẽ tranh, trong quá trình dạy, cô phát hiện ra có trẻ không vẽ cá dưới nước, mà vẽ cá trên trời. Cô giáo cảm thấy trò làm không đúng, nên nói với trẻ rằng: “Chúng ta vẽ tranh, đầu tiên là phải vẽ đường chân trời”. Lúc đó cũng đúng vào thời kỳ nhạy cảm hội họa của con tôi, khi thời kỳ nhạy cảm hội họa đến, trẻ sẽ vẽ cả ngày. Con muốn vẽ, tôi bảo: “Mẹ cho con giấy và bút, con cứ vẽ đi!”. Trong một tiếng đồng hồ, con tôi vẽ mấy chục bức tranh, lần nào vẽ xong con cũng đưa tôi xem, tôi phát hiện ra bức nào cũng có một đường kẻ ngang, bên dưới đường kẻ ngang có một vài thứ khác. Tôi hỏi: “Đây là cái gì?”. Con tôi nói: “Dầu mỏ”. “Tại sao đây lại là dầu mỏ?”. “Bởi vì đây là đường chân trời”. Tôi biết con mình chưa thể hiểu được khái niệm đường chân trời, trong đầu con chưa hình thành khái niệm này. Nhưng con tôi vẽ mười mấy bức tranh đều có đường chân trời. Con tôi cho rằng đường chân trời chính là phía dưới mặt đất, bên dưới đó chính là dầu mỏ. Tôi hỏi: “Tại sao con lại vẽ thế này?”. Con tôi nói: “Là thế này này, đầu tiên phải vẽ đường chân trời”. Tôi cảm thấy lạ, liền hỏi cô giáo: “Thằng bé nhà chị lạ thật đấy, đầu tiên nó vẽ đường chân trời”. Cô giáo nói: “Là em dạy các con thế, em cảm thấy các con nên…”. Tôi nói: “Em dạy sai rồi, đường chân trời của em đã bó buộc khả năng sáng tạo của bọn trẻ”.

    Trong thời gian mấy tháng đó, con tôi vẽ tranh đầu tiên là vẽ đường chân trời, phải làm thế nào? Tôi nghĩ không thể tiếp tục, tôi phải xóa bỏ ý nghĩ này, xóa bỏ tiềm thức này của con. Một hôm, tôi dẫn con đến trường Đại học Ninh Hạ, ngoài cổng là một bãi cỏ dài. Tôi nói: “Con ơi, bây giờ chúng ta sẽ đứng đây xem có đường chân trời không nhé?”. Con tôi nhìn thật kỹ, nói: “Không có, chỉ có bãi cỏ và tòa nhà”. Tôi nói: “Đúng rồi, thế lần sau vẽ con sẽ vẽ cái gì?”. Con nói: “Mẹ ơi, con hiểu rồi, có phải mẹ muốn con vẽ hai đường chân trời không?”. Thôi hỏng rồi, tôi còn làm hỏng cháu hơn. Sau hôm đó, tôi không dám nói gì thêm. Một buổi sáng sớm của mấy hôm sau nữa, tôi và con lên nóc nhà ngắm mặt trời mọc, tôi nói: “Con có nhìn thấy ở chân trời có một đường giao nhau giữa trời và đất không?” Con tôi nói: “Con có nhìn thấy!”. Tôi xúc động nói: “Đường chân trời!”.

    Có trời mới biết chúng ta đang cố dạy con những gì? Chúng tôi đã cố gắng lựa chọn giáo viên của mình, họ đều là những người xuất sắc. Trong từng phút từng giây quan trọng của tuổi thơ con trẻ, chúng ta đã lãng phí bao nhiêu phần cuộc sống quý giá của chúng? Vì thế, tôi đã nói với các cô giáo rằng, các cô đừng dạy trẻ gì cả, hãy cứ để trẻ tự vẽ tranh, cứ để cho sức sáng tạo và tư duy của trẻ được phát triển, đợi đến lúc sau 6 tuổi, khi các khái niệm cơ bản của trẻ đã được hình thành, lúc đó, hãy dạy trẻ các kỹ năng.

    An Kỳ là con một cô giáo trong trường chúng tôi, 3 tuổi rưỡi cháu vào trường. Trước đó, cháu chưa từng được tiếp xúc với phương pháp giáo dục Montessori, nên cháu được bắt đầu thao tác với các dụng cụ dạy học từ năm 2 tuổi rưỡi. Mẹ cháu rất nóng vội, hỏi An Kỳ: “An Kỳ, hôm nay con đã thao tác những đồ dùng nào rồi?”. Cháu nói: “Hôm nay con đã…”, nói ra đến mười mấy mục, mẹ vừa nghe đã biết ngay là con mình không tập trung, nên nói: “An Kỳ, con không được làm thế, con nên thao tác với một hoặc hai loại thôi, con nhớ chưa?”. An Kỳ nói: “Con nhớ rồi ạ”. Sáng ngày hôm sau, ăn cơm xong, khi cô giáo đưa các con trong lớp vào phòng học, An Kỳ đã vui vẻ chạy ra nói: “Mẹ ơi, hôm nay con đã thao tác một dụng cụ rồi”. Nói xong thì đi! Mẹ cháu nói: “Trời ơi, mình đâu có nói thế này”. Nhưng, chính xác là hôm đó, An Kỳ đã chỉ thao tác một dụng cụ.

    Sự việc này cũng chỉ rõ rằng, có những lúc sự “dạy” của chúng ta đã “nô dịch” trẻ, khiến trẻ mất đi sức sáng tạo, chúng ta cũng không biết rằng sự “dạy” của mình đã dẫn con đi đến đâu. Chúng ta không biết rằng trong một loạt những lời rối rắm của chúng ta có bao nhiêu khái niệm, con trẻ đã nắm được khái niệm nào và chưa nắm được khái niệm nào. Cho dù từng câu từng chữ của chúng ta đều là chân lý, cũng không thể dạy được con.

    Những gì chúng ta đã nói, đa phần con đều không hiểu. Bởi vì có rất nhiều lúc, con trẻ không hiểu nổi chúng ta đang nghĩ gì? Ví dụ như liên quan đến cái chết, chúng ta hãy lấy phương pháp đo sự phát triển đạo đức của Lawrence Kohlberg(2) để xem trạng thái nhận thức của trẻ em. Nội dung của phương pháp đo này như sau: Tại một thành phố nhỏ ở châu Âu, có một người phụ nữ đang cận kề cái chết vì mắc chứng ung thư. Trong thành phố có một dược sĩ phát minh ra loại thuốc mới có thể cứu sống người phụ nữ này. Nhưng dược sĩ này là một người làm kinh doanh, ông ta muốn thu tiền thuốc gấp mười lần tiền vốn bỏ ra. Heinz, chồng của người phụ nữ cố gắng đi vay mượn, nhưng chỉ được nửa số tiền, nên muốn xin vị dược sĩ kia giảm giá, nhưng người này không đồng ý. Heinz vì muốn cứu vợ nên nảy ra ý định đột nhập vào nhà người này để ăn trộm thuốc. Heinz có nên làm như vậy? Tại sao lại nên và tại sao không?

    Con trai tôi được tham dự thực nghiệm này, lúc đó cháu 4 tuổi. Cháu nói: “Làm thế là phạm pháp, ông ấy không được ăn trộm”. Tôi nói: “Nhưng vợ ông ấy sắp chết rồi!”. “Chết thì đành chịu vậy”. “Thế sao được? Chẳng lẽ người làm chồng lại không buồn sao?”. “Không đâu ạ, linh hồn của người chồng có thể bay vào không gian để gặp người vợ!”. Con tôi đã có khái niệm linh hồn từ khi nào vậy? Tại sao cháu lại hiểu vấn đề theo cách này? Tôi không trả lời được câu hỏi này. Tôi cảm giác rằng có rất nhiều việc mà người lớn chúng ta không thể hiểu được rõ ràng. Trẻ con tiếp nhận được rất nhiều khái niệm, bạn sẽ không thể biết sau khi xem một bộ phim hay một cuốn truyện nào đó, trẻ đã tiếp nhận được những gì. Chẳng hạn như sau khi xem xong bộ phim “Siêu nhân”, con tôi thường nói: “Mẹ ơi, mắt của siêu nhân kinh cực, xẹt một cái tia X phóng ra”. Sau này, con tôi bị ngã gãy tay, phải chụp X quang. Cháu vô cùng kiêu hãnh nói: “Mẹ ơi, con có hai tấm phim X quang này”. Mỗi khi nhà có khách, cu cậu lại hớn hở lấy ra cho khách xem, nói rằng đây là phim X quang. Cũng có thể, con tôi cho rằng mình đã có được một thứ giống siêu nhân. Mỗi ngày, con trẻ tiếp thu bao nhiêu thứ và bạn không biết rằng, khi nào thì trẻ hình thành nên khái niệm này.

    [Còn nữa]
     
  2. Đặng Châu Cảm ơm vì sự cố gắng của bạn.

    Bài viết:
    397
    Chương 12: LÀM THẾ NÀO ĐỂ HIỂU CON TRẺ?

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Làm xét nghiệm chức năng gan cho trẻ, nếu cố sức bắt ép trẻ lấy máu để xét nghiệm, đối với đứa trẻ vẫn chưa hiểu gì về thế giới này điều này đáng sợ biết bao! Chúng ta nên cho trẻ đứng ở bên cạnh quan sát, để trẻ dần dần hiểu và thích ứng với môi trường này. Để làm được điều này, chúng ta cần có sự nhẫn nại và thời gian, trong khi chúng ta lại thích những đứa trẻ luôn biết nghe lời, làm theo mọi sự sắp đặt của người lớn như một con rối gỗ, vì như vậy người lớn sẽ mất ít thời gian và công sức hơn.

    Dành trọn tình yêu cho con, để con được sống trong một môi trường tràn đầy tình yêu, điều này có ảnh hưởng rất lớn đến cả cuộc đời của con. Nhưng, nói thì dễ, làm được thì rất khó. Đây là quan điểm chung của đại đa số loài người. Sự việc luôn như thế này, những nguyên tắc, những thứ trừu tượng thì dễ dàng; còn những việc trong cuộc sống, những sự việc cụ thể lúc làm thường rất khó khăn. Thậm chí có thể nói rằng, chúng ta đã dành quá ít thời gian cho các con. Càng là những gia đình ở các thành phố lớn, con trẻ càng có ít cơ hội gần gũi với cha mẹ. Bởi vì cha mẹ rất bận, luôn cảm thấy thiếu thời gian, bao nhiêu việc đang xếp hàng chờ. Cha mẹ không có thời gian đọc sách, giao lưu, không có thời gian làm việc cùng con, không có thời gian cùng con thưởng thức thứ con muốn thưởng thức, không có thời gian lắng nghe nỗi lòng và cảm nhận của con. Một phần thời gian ít ỏi khi ở bên con, cha mẹ lại để tâm trí ở tận đâu đâu, không tập trung toàn bộ tâm sức để tìm hiểu con mình.

    Hiểu được con không phải một việc dễ dàng. Trước hết, phải hiểu được trạng thái tâm lý của con, đặc biệt là hiểu được trạng thái phát triển của con. Gà mẹ là một động vật rất yếu ớt, nhưng đứng trước kẻ thù dù lớn mạnh đến đâu, gà mẹ vẫn có thể dùng đôi cánh của mình để bảo vệ gà con; hổ là một loài vật dũng mãnh, nhưng khi vui đùa với con thì vẫn vô cùng kiên nhẫn. Lòng yêu con loài nào cũng có và cũng có thể làm được, thậm chí những người làm cha làm mẹ còn có thể làm rất tốt. Nhưng, khi con trẻ đã có ý thức về sự độc lập, cần cha mẹ hiểu về trạng thái trưởng thành của mình, cha mẹ lại không thể làm tốt sự “yêu thương” của mình. Chúng ta thường gặp tình trạng, khi đứa con bắt đầu có sự độc lập thì cha mẹ sẽ than rằng: “Đứa trẻ này quá bướng!”, “Sao con lại không nghe lời như vậy”. Thực tế là con cái chúng ta đang trưởng thành! Con cái trưởng thành theo ý chí của bản thân chúng, trong khi ý chí của con trẻ và ý chí của cha mẹ lại bắt đầu xảy ra mâu thuẫn. Chúng ta phải học cách tìm hiểu nhu cầu trưởng thành của trẻ.

    Theo phương pháp Montessori, trường chúng tôi quy định, trẻ không được can thiệp thô bạo tới người khác, không được đánh mắng người, phải đưa đồ dùng dạy học trở về nơi quy định, không được làm phiền người khác. Ngoài những quy định này, trẻ được tự do hoàn toàn. Mấy ngày trước, bác sĩ của viện bảo vệ sức khỏe đến kiểm tra sức khỏe cho các bé ở trường Montessori chúng tôi. Bọn trẻ đều rất tự do. Chúng tôi cho trẻ được độc lập để đưa ra lựa chọn. Lúc đó, tất cả bọn trẻ đều vây quanh, chúng sờ áo bác sĩ (chúng tôi có một tiết học là sờ mó để phân biệt sự thô mịn của các chất liệu vải), rồi sờ vào các dụng cụ y tế. Bọn trẻ không phá hoại, chỉ mân mê mọi thứ rất nhẹ nhàng. Bởi vì chúng chưa bao giờ được nhìn thấy những thứ này và những việc như thế này. Đặc biệt là khâu làm xét nghiệm cực kỳ thu hút bọn trẻ, trong đó có một bé rất bẩn, bị lấy máu đi làm xét nghiệm. Sau đó cháu đã đứng ở đấy đúng một tiếng. Tôi xem đồng hồ, đúng một tiếng cháu cứ giơ tay đứng yên ở đó, trong khi cháu mới hơn 2 tuổi một chút.

    Bác sĩ nói với tôi: “Trường chị nhốn nháo quá, sao lại để bọn trẻ thế này?”. Ý của ông ấy là, trường chúng tôi cũng nên giống với những trường mầm non khác, lũ trẻ ở đó (mặt mũi nghiêm trọng) xếp một hàng dài, từng cháu một vào phòng xét nghiệm, kiểm tra xong thì quay về lớp. Bọn trẻ phải yên tĩnh, nghe lời. Còn đám trẻ của chúng tôi đang chạy khắp hội trường, cô giáo chạy theo phía sau, có cháu thì đang khóc vì vừa bị lấy máu xong, những bé còn lại thì đang đứng xung quanh xem. Tôi rất kinh ngạc vì sự thiếu kiên nhẫn của vị bác sĩ này, tôi nói: “Anh là bác sĩ, càng phải hiểu tâm lý của trẻ con. Trong quá trình này, chúng ta phải cho các cháu một thời gian tương đối dài, để các cháu thích nghi với công việc của các anh, để các cháu tự do quan sát và giao lưu với các anh, và dần dần hóa giải được nỗi sợ hãi trong quá trình quan sát và tìm hiểu ấy”.

    Trẻ em quan sát được điều gì sẽ học theo điều ấy, tôi cho rằng đây là một cơ hội cực tốt để các bé học tập. Mẹ một cháu của trường chúng tôi đã nói rằng, trước đó chị đã cho con đi học một trường khác, em bé đó khi về đến nhà đã xếp một loạt những em búp bê của mình ở trên giường, từ bé đến lớn, rồi nói: “Không được nói chuyện, ngủ đi! Không ngủ thì cô phải trông các con à?”. Mẹ cô bé vừa nghe đã hiểu ra ngay, con bé đang lặp lại tất cả những hành động và lời nói của cô giáo mình.

    Trẻ em là tấm gương của người lớn. Cũng có người nói ngược lại, người lớn là tấm gương của trẻ em. Tôi thấy ý nghĩa của hai câu này là khác nhau. Người lớn làm thế nào, trẻ con sẽ làm theo thế ấy.

    Trẻ em bị mất đi cơ hội phát triển sự tự do của bản thân và cũng tập theo người lớn thói quen hạn chế sự tự do của người khác. Đây là nguyên nhân căn bản nhất lý giải cho việc người lớn hay khống chế và áp bức người khác. Chúng ta chưa từng có cơ hội tự do phát triển tiềm năng của mình, với một quan niệm thâm căn cố đế: Tự do là có hại.

    Thói quen của chúng ta không cho phép chấp nhận sự tự do của con trẻ, nhất là những khi con trẻ quá “ồn ã”. Nhưng, nếu bạn thực sự yêu con, bạn sẽ phát hiện ra rằng, khi con đang quan sát “việc làm xét nghiệm”, con thực sự rất đáng yêu, và không hề ồn ã. Có những bé không chịu làm xét nghiệm, bé sẽ đứng ở thật xa, kiên quyết từ chối. Chúng tôi muốn làm công tác tư tưởng với trẻ, để trẻ hiểu rõ “việc làm xét nghiệm” là như thế nào. Quá trình này là vô cùng chậm chạp, khi nào có được cảm giác an toàn, trẻ mới chịu tham gia, nếu không, việc này sẽ gây cho trẻ một sự kích động. Đặc biệt, khi xét nghiệm chức năng gan, phải lấy máu ở cổ, trong lúc trẻ còn chưa hiểu gì, người lớn đã ấn trẻ xuống bàn, quá trình ấy đâu có khác gì việc giết một con vật. Đối với một đứa trẻ còn chưa hiểu gì về thế giới này, điều đó thật đáng sợ biết bao! Vì thế, bạn nhất định phải kiên nhẫn giảng giải cho trẻ hiểu, để trẻ quan sát, thích ứng, ngoài ra không còn cách nào khác.

    Đáng tiếc là rất nhiều người lớn không có được sự kiên nhẫn này. Chúng tôi ngày càng phát hiện ra, không chỉ có bác sĩ, mà cả cô giáo và những bậc phụ huynh đều không chấp nhận cho trẻ tự do, để trẻ được tự do điều chỉnh thời gian và không gian của mình, để trẻ được tự do, vui vẻ làm những việc mình muốn làm. Người lớn sợ phiền phức, đơn giản là vì một đứa trẻ biết nghe lời như một con rối gỗ sẽ đơn giản hơn, người lớn muốn làm gì cũng nhanh chóng hơn. Trong khi với một đứa trẻ được tự do, chúng ta sẽ phải tốn rất nhiều thời gian, công việc và sức lực hơn. Phần đông người lớn thường không muốn tốn thời gian với con trẻ vì kiếm tiền quan trọng hơn, xem ti vi quan trọng hơn, tán phét quan trọng hơn, ngủ quan trọng hơn… Đây chính là vấn đến về quan niệm giá trị.

    Trong cuộc đời một con người, chúng ta bỏ ra thời gian sáu năm với các con và cùng với sự phát triển của các con mà phát triển bản thân mình, đó là điều giá trị nhất. Tôi đã biết có rất nhiều người mẹ đã hối hận vì chưa làm được điều này! Trong quá trình tập trung cho các con, chúng ta sẽ được trưởng thành từng phút từng giây, cả con chúng ta cũng thế. Chỉ có bỏ ra tâm huyết, tích cóp từng giây từng phút trưởng thành của con trẻ mới có thể nuôi dưỡng nên một đứa trẻ thành công và hạnh phúc.

    Sai lầm của người lớn luôn phổ biến đến kinh ngạc. Hôm nay, tôi lại gặp một câu chuyện “xưa như trái đất”. Ở lối rẽ vào công viên, một người mẹ của một đứa trẻ hơn 2 tuổi đang mua bánh cho con. Đứa trẻ cầm lấy cái bánh dứt khoát không buông tay, cả người mẹ cũng vậy: “Con không ăn hết được nhiều thế này đâu, ăn không hết phí lắm”. Nhưng đứa trẻ vẫn không chịu buông cái bánh, nói: “Con ăn được mà, ăn được mà”. Người mẹ không đồng ý. Tôi đứng đó nhìn hai mẹ con giằng co nhau, thấy chẳng có cách giải quyết nào, nên lên xe đi tiếp. Tại sao vẫn có những chuyện “xưa như trái đất” thế này? Người mẹ cho rằng đứa trẻ thật tham lam, không thể ăn hết cả cái bánh to mà cứ đòi cho bằng được. Ở trường Montessori, chúng tôi đã phát hiện ra tình huống này với rất nhiều em: Con trẻ luôn thích cái hoàn chỉnh, không thích nửa cái. Chúng tôi từng mở cả một cuộc họp để các giáo viên thảo luận vấn đề này, khi các cô đưa ra tình huống ở lớp mình, chúng tôi phát hiện ra con trẻ có một quan niệm thẩm mỹ “kiên quyết theo đuổi sự hoàn mỹ”. Yêu cầu thẩm mỹ của trẻ vượt xa người lớn, ví dụ như trẻ không bao giờ chịu đi vệ sinh ở toa lét có dính nước, hay cặn nước tiểu màu vàng.

    Khi người lớn không thể hiểu nổi một cách nghĩ nào đó của con trẻ, còn con trẻ đang gào khóc đòi làm theo ý mình, chẳng lẽ chúng ta lại không thể hỏi được một câu tại sao? Chẳng lẽ đó là vì con trẻ quá tham lam? Không, chúng ta không thể mang lối suy nghĩ đã vẩn đục sự đời mà áp đặt lên con trẻ. Khi bạn không biết nên làm thế nào, chẳng lẽ cho con trẻ tự do lại không phải là một cách hay? Nhất là khi trẻ còn nhỏ, cũng chính là lúc trẻ đang hình thành và xây dựng thẩm mỹ quan của mình, cả cha mẹ và thầy cô cần phải cung cấp cho trẻ điều kiện và cơ hội để trẻ hình thành thẩm mỹ quan của riêng mình.

    Nói cách khác, thà rằng hãy để trẻ “lãng phí một chút”, chứ đừng phá hoại sự theo đuổi sự hoàn mỹ của trẻ. Bởi vì lúc này trẻ chưa thể hình thành nên quan niệm “tiết kiệm”, nhưng lại là thời cơ quyết định để hình thành quan niệm thẩm mỹ. Tiếng khóc của con trẻ luôn luôn có lý do. Theo các nhà tâm lý học, đây là giai đoạn trẻ hoàn thiện nhân cách và bắt đầu phát triển trí lực, cũng là giai đoạn nuôi dưỡng thẩm mỹ của trẻ. Quan niệm thẩm mỹ tốt hay xấu sẽ quyết định việc trẻ có tránh được cái xấu và tội ác hay không, hay nói cách khác, ở một trình độ nào đấy, thẩm mỹ cũng là đạo đức.

    Tất cả những sự việc này về cơ bản đều là sự tự do trong quá trình phát triển của trẻ. Có những lúc chúng ta biết con mình cần phát triển cái gì, nhưng điều đó đòi hỏi một quá trình nghiên cứu khách quan cẩn trọng. Điều này cần đến một nền tảng tri thức chuyên nghiệp, đòi hỏi một tình yêu sâu sắc dành cho con. Nhưng, phần nhiều là chúng ta đã bỏ bê những điều này, cho dù rất khó để hiểu rõ trẻ em. Tôi xin đưa ra một ví dụ nữa. Có một thời gian các bé ở nhà trẻ chúng tôi rất thích ngồi bên trong hốc cây, ở đó vừa đủ chỗ cho một bé ngồi cuộn tròn. Các bé ngồi trong đó, lưng đeo một con thỏ, ngoài cửa hốc đậy bằng một tấm bìa giấy. Vì không gian bên trong quá chật nên các bé phải ngồi im không động đậy, nhưng các bé cứ ngồi như thế hàng nửa tiếng đồng hồ, bên ngoài còn có vài “bảo vệ” đứng gác, nóng lòng chờ đến lượt mình. Bạn thấy việc này có lạ không? Các bé đang phát triển điều gì? Chúng ta không biết, nhưng các bé lại rất thích trò chơi này.

    Chỉ cần cho trẻ được tự do, có tự do trẻ sẽ tự động thực thi những phương thức phát triển “thần kỳ” mà người lớn không tài nào nghĩ ra và cũng không thể hiểu được. Montessori nói, khi một người đi dạo trong rừng cây, nếu đủ trầm tư sâu lắng, đủ liên tưởng lãng mạn, đúng vào lúc đó, từ xa vọng lại tiếng chuông ngân, thì cảm giác ấy còn sâu đậm hơn, như một bài thơ vậy. Montessori nói, điểm kiệt xuất của một người giáo viên Montessori ưu tú nằm ở chỗ, khi đứa trẻ đang dạo bộ trong rừng sâu, người giáo viên có thể là tiếng chuông tô đậm thêm cảm giác tốt đẹp của trẻ.

    Tôi cũng phát hiện ra thời kỳ nhạy cảm “theo đuổi sự hoàn mỹ” của chính con trai mình. Có một lần tôi cho cháu một cái bánh đậu ngọt, sau đó tôi nói: “Con cho mẹ một miếng được không?”. Cháu nói: “Được ạ”. Tôi véo một miếng bánh, thế là con tôi vứt miếng bánh, lăn ra khóc. Đây là tâm lý gì vậy? Lúc đó tôi cảm thấy thật lạ, cháu đã đồng ý cho tôi ăn một miếng bánh, tại sao lại thế này? Tôi nói: “Con nín đi, nín đi mẹ đổi cho con cái khác”. Tôi đổi cho cháu một cái khác. Con tôi vội đứng dậy, nói: “Mẹ, mẹ ăn đi”. Tôi cắn một miếng vào góc cái bánh của cháu. Cháu cười nói: “Lần này mẹ đúng rồi”. Rồi cháu lấy tay ra hiệu ở viền bánh, ý rằng lần này là cắn một cái, chứ không phải véo như lần trước. Véo có nghĩa là phá hoại sự hoàn chỉnh của tổng thể cái bánh, nhưng cắn một miếng thì không phải. Đây chính là tâm tư của con trẻ.

    Một đứa trẻ có thẩm mỹ tình cảm tao nhã, thì sau khi trưởng thành sẽ không phàm tục, tầm thường và càng không dung tục. Piaget(1) từng làm một thí nghiệm, ông muốn đo tình trạng trí lực của con trai mình. Ông đặt hai cái đệm lên hai cái ghế, sau đó giấu một vật vào dưới đệm. Ông mời con vào và nói: “Con hãy nói cho bố nghe xem, bố giấu một vật ở dưới cái đệm ghế nào?”. Con ông đi thẳng đến cái ghế không có gì, lật tấm đệm ghế lên, nói: “Không có gì”. Ông nói: “Thế thì con lại ra ngoài một chút nhé”. Sau khi con ông ra ngoài, ông lại giấu vật đó xuống cái đệm ghế khác, rồi lại mời con vào. Con ông đi vào lại đi thẳng đến cái ghế không giấu vật gì, lật đệm lên, nói: “Không có gì”. Piaget nói: “Thật là không thể hiểu nổi, sao lại có thể thế chứ?”. Montessori cười nói: “Ông không hề hiểu con trẻ, con ông đang muốn bố có cảm giác thành công”. Con trẻ đang chơi một trò chơi với bố mình, là để thỏa mãn một nhu cầu của bố. Trẻ cho rằng, chỉ cần mình không phát hiện ra, bố mình sẽ tự cảm thấy bố thật thông minh. Trẻ không biết bố đang muốn “đo” trí lực của mình. Vì thế Montessori nói rằng: “Người lớn chúng ta không có cách nào hiểu nổi trạng thái tâm lý thực sự của trẻ”.

    Thế giới nội tâm của con trẻ còn bao la hơn cả bầu trời! Chỉ cần chúng ta chú tâm để yêu con, con trẻ sẽ trở nên tốt đẹp. Chỉ có yêu trẻ, chúng ta mới có thể cho trẻ sự tự do. Có được tình yêu và tự do, con trẻ sẽ có đầy đủ điều kiện trưởng thành cơ bản. Khi tình yêu và sự tự do trải dài khắp tuổi thơ của trẻ, sẽ có một ngày, trẻ hình thành nên phẩm chất tốt đẹp nhất, cao quý nhất và đầy đủ sức hút nhân cách.

    Bất cứ một giáo viên và một người làm cha mẹ nào cũng phải hiểu được con trẻ, đây là điều quan trọng nhất. Nhưng có những lúc, tình yêu sẽ là một tình yêu giả tạo và con trẻ sẽ nổi cơn thịnh nộ với thứ tình yêu không xuất phát từ sâu thẳm tấm lòng. Tôi phát hiện ra rằng, con trẻ nhận biết người lớn mà không cần đo lường và phán đoán bằng ngôn ngữ và biểu hiện của họ. Trẻ con dùng tâm hồn để cảm nhận bạn. Tôi nghĩ, rất nhiều những người làm cha mẹ đã thể nghiệm được điều này. Chẳng hạn, nhiều người lớn giả vờ hỏi trẻ con: “Con bao nhiêu tuổi rồi? Con tên là gì?”. Trẻ con nhìn qua sẽ nhận ra ngay, biết ngay người này chỉ hỏi giả vờ, không chịu trả lời, quay đi. Người lớn lại nói: “Thật mất lịch sự quá!”, mà không biết, ai mới là người mất lịch sự. Có một lần, một người lớn hỏi một cô bé 5 tuổi của chúng tôi: “Con bao nhiêu tuổi rồi?”. Đứa bé nhìn người này một lúc rồi nói: “2 tuổi”. Người lớn này vô cùng ngạc nhiên, sau đó có nói với tôi rằng: “Trí lực của cháu có vấn đề à?”. Khi tôi gặp lại đứa bé này, nhắc đến chuyện này, bé hỏi tôi lạ lùng: “Sao người lớn lại luôn hỏi về vấn đề đần độn này thế?”. Cũng giống như là khi bạn đang bực bội, trẻ con càng dễ làm ồn, bạn càng bực bội, trẻ con càng khóc. Cũng có thể sự bực bội của bạn không thể hiện trên khuôn mặt hay trong lời nói, nhưng trẻ em có thể cảm nhận được sự bực bội trong lòng bạn bằng chính tâm hồn mình. Con trẻ biết, đó không phải là tình yêu.

    Không có tình yêu, thì sẽ thế nào? Phiền muộn! Hận! Ghét! Mệt mỏi! Tất cả đều có thể. Có một lần, một phụ huynh nói với tôi rằng, khi chị còn chưa thuyết giáo xong, con chị đã nói với chị rằng: “Mẹ hét lên, mẹ hét lên đi, mẹ hét cho đầu óc con loạn hết lên đi, mẹ có còn muốn cho con thi vào Havard nữa hay không?”. Một đứa trẻ bình thường, đáng lẽ cháu phải trầm tĩnh và bình thản. Trẻ sẽ đứng bên cạnh bạn hồi lâu và quan sát bạn. Rất nhiều người sau khi đến trường chúng tôi tham quan, đều phát hiện ra tình huống này, họ nói rằng: “Liệu đám trẻ ở trường này có chậm phát triển không mà cứ đứng đó nửa tiếng, thậm chí là hàng tiếng đồng hồ để nhìn chị”. Tôi nói: “Đây mới là những đứa trẻ bình thường, các cháu đang quan sát”. Trẻ cần rất nhiều thời gian để quan sát và suy nghĩ, trẻ càng nhỏ, cần càng nhiều thời gian hơn. Trẻ quan sát rồi suy nghĩ và hiểu rõ. Trẻ con sẽ nhìn thấu bạn. Sự quan sát lâu dài cũng là một sự tập trung. Montessori nói: “Quan sát là phẩm chất của một nhà khoa học”. Một con người nếu không có phẩm chất này thì sẽ không thể thành công.

    [Còn nữa]
     
  3. Đặng Châu Cảm ơm vì sự cố gắng của bạn.

    Bài viết:
    397
    Chương 13: TỰ DO VÀ KỶ LUẬT

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Khi được tự do, con trẻ sẽ lựa chọn những gì mình thích; vì thích, nên trẻ lặp đi lặp lại, rồi dần dần trở thành chăm chú; chăm chú trong một thời gian dài, trẻ sẽ cảm nhận và nắm chắc quy luật của sự vật; nắm chắc quy luật của sự vật, trẻ sẽ tự nguyện tuân theo quy luật đó và có được năng lực tự điều khiển bản thân. Bạn thử nghĩ xem, có kỷ luật nào có thể vượt qua được kỷ luật này của bản thân trẻ không?

    Cho con tự do hết mực, tự do phát triển hết tiềm lực của bản thân, tự do để thoải mái nhận biết. Được tự do, con trẻ mới có thể khám phá tường tận quy luật của sự việc, mới có thể nhận biết, nhận thức. Liệu đây có phải là tự do tuyệt đối? Hay còn cần thêm một sự ràng buộc nào? Ví dụ như cần thêm kỷ luật chẳng hạn? Đây là một câu hỏi mà tất cả chúng tôi đều đưa ra khi theo đuổi phương pháp giáo dục này. “Kỷ luật” trong phương pháp Montessori và “kỷ luật” theo ý nghĩa thông thường của chúng ta không giống nhau, cũng giống như khái niệm “tự do”, “kỷ luật” mang một hàm nghĩa sâu và rộng hơn nhiều.

    Ý nghĩa thông thường của “giữ kỷ luật” có nghĩa là vâng lời cô giáo, ngồi yên trong lớp. Nhưng kỷ luật và việc giữ kỷ luật trong phương pháp Montessori lại hoàn toàn khác hẳn. Khi bàn về vấn đề kỷ luật, Montessori nhấn mạnh: “Kỷ luật phải xây dựng trên cơ sở tự do”. Có thể chúng ta sẽ không hiểu, tại sao kỷ luật lại có thể xây dựng được trên cơ sở tự do? Montessori nói, con người phải làm chủ bản thân mình, đây là điểm thứ nhất. Khi bạn làm chủ được bản thân mình, khi bạn tự động tuân theo một quy chuẩn cuộc sống nào đó, bạn sẽ có được năng lực tự điều khiển bản thân, năng lực đó được gọi là kỷ luật.

    “Quy chuẩn cuộc sống” là gì? Một người như thế nào mới có thể làm chủ bản thân mình? Nghe thì có chút khó hiểu, nên tôi xin phép được giải thích từng khái niệm một.

    Con người phải làm thế nào mới có thể làm chủ bản thân mình? Tôi xin dẫn ra đây một ví dụ nổi tiếng của tâm lý học, tôi cảm thấy đây chính là ví dụ kinh điển về việc làm chủ bản thân mình. Có một bé gái ở với người trông trẻ. Các bạn chú ý, bé gái ở với người trông trẻ là chủ yếu. Khi ở với người trông trẻ, nếu bé định sờ vào vòi nước, người trông trẻ sẽ nói: “Bỏ tay ra ngay, ướt hết quần áo bây giờ”. Lần nào cũng lặp đi lặp lại y như vậy. Chú ý, lần nào cũng lặp đi lặp lại y như vậy. Chắc chắn là vì cô trông trẻ này sợ rách việc, vì quần áo ướt thì cô ấy sẽ phải làm thêm bao nhiêu việc nữa. Sau đó, bé gái đến nhà bà ngoại chơi, nhà bà ngoại có một vườn hoa, giữa vườn hoa có một vòi tưới nước. Bé gái rất muốn sờ vào vòi tưới nước đó, nhưng lại dừng lại. Bà ngoại bảo: “Con cứ động vào! Tại sao con lại không dám động vào?”. Bé gái vô cùng mâu thuẫn, nhưng cuối cùng vẫn nói: “Con không sờ đâu, cô trông trẻ bảo là không được sờ vào”.

    Như vậy, bé gái đã bị ràng buộc và cấm đoán, bé không được phép động vào đồ vật này. Bé muốn sờ vào vật, đó là do nội tâm tự mách bảo, nhưng nội tâm bé không thể ra quyết định. Bà ngoại cũng không thể ra quyết định này. Người có thể quyết định hành vi của bé chỉ có thể là cô trông trẻ.

    Nhưng bà ngoại nói: “Cô ấy không có ở đây, bà ngoại cho con động vào đấy”. Bé gái nói: “Không, con không chơi đâu”. Vậy là cả khi không có mặt cô trông trẻ, cô ấy vẫn đang điều khiển cô bé. Cô bé này không hành động theo tiếng lòng của mình, cô bé không làm chủ được bản thân mình. Khi một người không thể làm chủ bản thân mình, sẽ xảy ra mâu thuẫn và đấu tranh. Người đó sẽ đau khổ.

    Sự thực là, con trẻ rất thích tuân theo quy tắc. Con trẻ thường tự đặt ra một số quy tắc trong các trò chơi, trong khi chơi đùa với những trẻ khác và rất tự giác tuân thủ những quy tắc này. Ví dụ như quy tắc trò chơi, quy tắc vệ sinh, quy tắc giao thông... Nhưng những quy tắc này phải được phát triển hài hòa với con trẻ, do con trẻ tự thiết lập trong cuộc sống trong khi chơi đùa với những trẻ khác. Những quy tắc này không được xung đột với nhu cầu nội tại của bản thân trẻ. Những quy tắc đó phải ít về số lượng, chặt chẽ, khoa học và do trẻ tự sáng lập. Có như vậy, trẻ mới vui vẻ tuân thủ, và vô cùng đau khổ khi những quy tắc này bị phá bỏ, bởi vì chúng đã trở thành một phần trong cuộc sống của trẻ.

    Tại sao ví dụ này lại là một ví dụ kinh điển? Bởi vì cha mẹ, giáo viên và người trông trẻ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong thời kỳ ấu thơ của con trẻ. Trước 8 tuổi, trẻ em vẫn sùng bái và tuyệt đối yêu quý giáo viên của mình, nhưng đến trung học cơ sở, trẻ bắt đầu yêu bạn mình, yêu các thần tượng, đến phổ thông trung học, trẻ sẽ yêu hoặc yêu thầm một bạn học hoặc một người nào đó. Trong quá trình trưởng thành của trẻ, người lớn sẽ dần dần bị đẩy ra khỏi vị trí được “yêu và học theo”.

    Ở trường chúng tôi có rất nhiều những trẻ lớn chuyển từ những trường khác đến. Trước đó, có thể các bé đã rất nghe lời bố mẹ, rất nghe lời các cô. Tất cả hoạt động và sự vui chơi trong ngày của các bé đều theo sự sắp xếp của cô giáo. Cô giáo bảo bé làm gì, bé làm nấy. Nhưng khi bé đến trường Montessori của chúng tôi, các bé bỗng được tự do, nên không biết làm gì với sự tự do ấy. Các bé thường không động chân tay, cứ chờ các cô phân cho mình nhiệm vụ học tập. Nếu các cô không phân công việc gì, ngày hôm đó các bé cũng không làm gì cả. Trong phương pháp Montessori, điều này là không thể tưởng tượng, đây không phải là những đứa trẻ mà là những người già. Sự thực là sức sáng tạo đáng quý của nhân loại chúng ta đã dần dần bị mai một sạch vì những điều cấm kỵ. Những điều cấm kỵ vô hình trung đã khiến bạn không dám suy nghĩ, không dám vượt qua phạm vi đã được đặt ra.

    Con của một bạn học của tôi, mới 6 tuổi nhưng đã khá to khỏe. Một lần, cháu phải tìm một quả bóng bàn ở sau ti vi, không cẩn thận làm vỡ ti vi. Lúc đó, ti vi vẫn là của hiếm, chưa phổ biến như bây giờ. Mẹ, em gái và những người thân thích của bạn tôi đều nói cô ấy: “Một việc lớn như vậy mà không đánh con cái nào, không hiểu định chiều con đến mức nào?”. Cô ấy nói: “Không, tôi không mắng mỏ con, tôi chỉ nói: ‘Không sao đâu, con không cẩn thận thôi’”. Cô ấy nói, hồi nhỏ cô ấy động vào cái máy thu liền bị mẹ mắng, không cho động vào. Lần nào cũng vậy khiến cô ấy có những trở ngại về tâm lý, đến bây giờ cũng không dám động vào mấy cái nút bên trên máy thu, vì động vào là thấy sợ. Cô ấy biết rằng, trong rất nhiều việc, cô ấy bị những trở ngại về tâm lý ngăn cản. Vì thế, cô ấy sẽ không gây ra những trở ngại về tâm lý cho con mình.

    Rất ít người tự biết được mình đã gặp phải những trở ngại tâm lý, phần đông còn lại không hề biết bản thân mình đang gặp những trở ngại gì. Tôi có một người bạn, sau khi tốt nghiệp đại học làm kỹ thuật viên ở một công ty máy tính, nhưng cứ cầm đến cái tua vít là tay lại run lên cầm cập. Thật là không thể tưởng tượng. Mọi người giúp cậu ấy phân tích những việc đã xảy ra thời thơ ấu, nói đến chuyện bố cậu ấy đối với cậu ấy như thế nào. “Người con ngoan” này liên tục gật đầu, sau đó cậu ấy trở thành một người ủng hộ tích cực cho phương pháp giáo dục Montessori.

    Chúng ta làm thế nào để nuôi dưỡng cho con trẻ thói quen giữ kỷ luật trong một môi trường tự do, để con trẻ có thể tiết chế hành vi của mình, làm chủ bản thân mình?

    Montessori nói, chúng ta phải tuyệt đối tránh ngăn cản những hoạt động tự phát của trẻ. Ở đây rõ ràng là bà đang nói đến việc cho trẻ được tự do trong các hành vi. Trẻ có được tự do sẽ lựa chọn những thứ mình thích; và vì trẻ thích, nên trẻ sẽ lặp đi lặp lại hành động đó; trong quá trình lặp đi lặp lại ấy, trẻ sẽ trở nên chăm chú, trở nên có trật tự; khi trẻ có thể chăm chú trong một thời gian dài, trẻ sẽ dần dần cảm nhận và nắm chắc quy luật của sự vật và thuận theo quy luật đó, những kỷ luật đầu tiên cũng được hình thành.

    Vì thế, chúng ta có thể hiểu rằng, kỷ luật trong cuộc sống mà Montessori nói chính là trật tự. Kỷ luật của trí lực là chỉ sự chăm chú, kỷ luật của hành vi là chỉ sự thuận theo. Con trẻ có thể tuân theo những phép tắc của sự vật, cũng chính là thuận theo quy tắc. Liệu có kỷ luật nào có thể vượt qua những kỷ luật này?

    Chúng tôi phát hiện những bé từng bị ép buộc và áp chế, sau vài tháng bị ngợp trong tự do, các bé đã bắt đầu học được cách lắng nghe sự khơi gợi của tâm hồn mà có những hành động tự phát, ánh sáng của kỷ luật đã le lói xuất hiện. Cho đến hôm nay, gần như tất cả các bé đều đạt được hiệu quả này là nhờ có được tự do. Khi gặp phải một vấn đề, các bé thường phán đoán, nếu thấy đúng sẽ thuận theo. Rất nhiều điều kỳ diệu đã xảy ra ở nhà trẻ của chúng tôi, mặc dù quan niệm của mọi người khi nhìn nhận những vấn đề này là không giống nhau. Nhưng chúng tôi vẫn kinh ngạc phát hiện ra rằng, rất nhiều hiện tượng, quan niệm vốn không phải là sản vật của một dân tộc hay một vùng văn hóa nào, mà là một hiện tượng của cuộc sống được sinh ra trong môi trường của yêu thương và tự do. Nâng cao trạng thái sinh mệnh của con người đã trở thành một phương hướng nỗ lực của chúng tôi.

    Vậy, tự do được thực thi như thế nào trong quá trình dạy học theo phương pháp Montessori? Khi trẻ bước vào trường, tất nhiên sẽ xảy ra một số tình trạng hỗn loạn lúc ban đầu. Cái gọi là tình trạng hỗn loạn ở đây là những kiểu mất trật tự, ồn ã, đánh nhau…, những trẻ từng bị quản chặt lại càng có những hành vi kích động hơn. Trong trường Montessori của chúng tôi, chỉ có ba loại hành vi bị cấm chỉ: Một là làm phiền người khác; hai là những hành vi thô lỗ mất lịch sự như phá hoại, đánh người, mắng người hoặc một số động tác không văn minh như ngoáy mũi, móc mũi; ba là lấy đồ của người khác. Ba loại hành vi này bị cấm hoàn toàn, nhưng sự cấm chỉ ấy được xây dựng trên cơ sở nhắc nhở chứ không phải là trừng phạt. Ví dụ trong phòng học, một bé liên tục làm phiền một bé khác đang chuyên tâm làm việc, lúc này cô giáo phải thể hiện sự hứng thú rất lớn đối với đứa trẻ này, cô nói: “Chúng ta đi làm việc khác đi”. Lặp đi lặp lại như vậy, con trẻ dần dần trải nghiệm được: Khi mình làm vậy, cô giáo thường bế mình ra chỗ khác. Khái niệm không được làm phiền người khác dần dần được hình thành. Đa số trẻ sau khi có được sự tự do, sẽ dạo chơi khắp mọi nơi trong vườn trường. Trong quá trình ấy, trẻ sẽ dần dần thể hiện ra mình hứng thú với điều gì, khi đã thể hiện sự hứng thú, trẻ sẽ chăm chú, sẽ lặp đi lặp lại một việc. Trẻ cũng phát hiện ra những vấn đề khó hơn phải tự mình giải quyết. Đồ dùng dạy học Montessori đều có chức năng chỉnh sửa, trợ giúp trẻ. Sau khi giải quyết được vấn đề, trẻ sẽ có được cảm giác thành công, sau khi thành công, trẻ sẽ có được hành vi “tự điều khiển bản thân”. Lúc này, kỷ luật được sinh ra trong chính quá trình làm việc của trẻ. Đúng như Montessori nói: “Ánh sáng đầu tiên của kỷ luật đến từ công việc”.

    Tập trung là hoạt động tư duy, tập trung sản sinh ra trí tuệ. Trí tuệ cần có sự đảm bảo được tự do về thời gian và không gian, cần hơn nữa được tự do hành động. Trong công việc, người nào phát triển đến mức cực đại trí lực của nội tại bản thân, người đó càng giữ được bình tĩnh trong suy nghĩ, càng giữ kỷ luật. Khi được cung cấp đầy đủ điều kiện cho việc phát triển trí lực, tất cả trẻ em đều đặc biệt nổi bật về trí tuệ, bình tĩnh và giữ kỷ luật.

    Tại sao chúng ta phải cung cấp cho trẻ những điều kiện này? Bởi vì quá trình trưởng thành của trẻ khao khát những điều này. Con trẻ khác với người lớn, chúng ta cho người lớn được tự do, người lớn sẽ ngủ đẫy một giấc, hoặc là không làm gì cả, hoặc là làm việc gì mình muốn làm, buông thả bản thân mình. Ngoài ra, có thể người lớn không còn theo đuổi những hoạt động trí lực, “lười biếng” thật là dễ chịu! Đương nhiên, đây là những người lớn đã bị biến dạng. Còn trẻ em sau khi sinh ra (vẫn chưa bị biến dạng), bản thân trẻ có một phép tắc tự nhiên, phép tắc tự nhiên ấy không ngừng phát triển từng giây từng phút trong cuộc sống của trẻ, không bao giờ ngơi nghỉ. Vì thế những đứa trẻ liên tục hoạt động là những đứa trẻ bình thường nhất. Chúng ta là những người lớn bị lớn lên trong o ép, trong ép buộc, từ nhỏ đến lớn chưa được làm một việc gì theo ý bản thân (phần lớn trong chúng ta đã lớn lên như vậy), vì thế, chúng ta không thể đem quan điểm của mình để đối đãi với những đứa trẻ bình thường. Tôi đã nói ở trên, khi trẻ mới vào trường, hành động của trẻ chưa theo trật tự, chưa theo quy phạm, vẫn đang trong trạng thái hỗn loạn, nhưng để trẻ được tự do phát triển, trẻ sẽ xuất hiện một kiểu xu hướng “tự lựa chọn bản thân”. Khi xu hướng này xuất hiện, hoạt động trí lực của trẻ em sẽ bắt đầu phát triển theo một quỹ đạo.

    Đan Đan chính là một ví dụ điển hình nhất. Bé vào trường lúc 1 tuổi 9 tháng. Vì mẹ bé làm ba ca nên cuộc sống của bé ở nhà không tuân theo một trật tự thông thường, hay nói cách khác, bé có một trật tự riêng. Khi bé mới vào trường Montessori, đến mười một giờ, mọi người đều ăn cơm, bé lại ra cửa đứng khóc, đòi ra ngoài. Mấy hôm đầu, ngày nào cô giáo cũng cho bé ra ngoài đi mấy vòng, khi quay trở về, bé mới yên tâm. Tôi nghĩ: “Đứa trẻ này thật đặc biệt, cứ đến một khoảng thời gian, lại khóc đòi ra ngoài?”. Sau đó, mẹ bé nói, mình làm ba ca, nên cứ đến khoảng mười một giờ là giờ nghỉ nên dẫn bé ra ngoài chơi. Trong vòng một tháng, cô giáo lấy xe đạp đưa Đan Đan đi chơi ngoài phố. Một tháng sau, bé không còn có nhu cầu này, chỉ chơi quanh quanh trường… Ba tháng sau, bé bắt đầu vào lớp học, trật tự đã đến với bé trong tự do.

    Mẹ bé rất thích phương pháp giáo dục này, nên phối hợp với chúng tôi rất tốt. Khi bé hơn 2 tuổi, bé đã hoàn toàn trở thành một em bé Montessori điển hình, hoạt bát vui vẻ, như chúng tôi thường nói là “tự thấy vui vẻ”. Bé hay hát một mình, khuôn mặt lúc nào cũng rạng rỡ, rất có năng lực, làm việc gì cũng tự lập. Nước trong phích rất nóng, nhưng bé tự biết cách để không bị bỏng. Trạng thái trí lực của bé cũng rất tốt, “làm việc” trong phòng học rất lâu và vô cùng chuyên tâm. Bé nói còn chưa sõi, nhưng nếu bị người khác làm phiền, bé đã có thể nói rằng: “Xin đừng làm phiền”. Hàng ngày, bé tích cực theo đuổi hoạt động trí lực, cảm thấy kiêu hãnh khi “tự chinh phục chính mình”. Trong quá trình này, trước hết phải cảm ơn mẹ bé. Có sự phối hợp của mẹ, bé mới có thể phát triển tốt tất cả các phương diện trong một thời gian ngắn như vậy.

    “Hàng rào Montessori” (một loại đồ dùng dạy học thể dục) cao 1,8m, khi Đan Đan trèo lên, cô giáo muốn giúp bé, bé nói: “Mời cô tránh ra, mời cô tránh ra”. Trèo lên rồi, bé lại bắt chước những trẻ lớn nhảy từ trên xuống. Đối với khá nhiều cha mẹ, độ cao đó là rất nguy hiểm, nhưng bé không hề sợ, bé thoải mái trèo lên, rồi thoải mái nhảy xuống, lại còn học cách lộn nhào về phía trước. Những động tác này đều rất khó với bé. Cả trò xích đu trên cao và đu quay đứng cũng không đáng kể gì với bé! Có một lần bé còn đứng lên ngồi xuống trên xích đu cao, khiến những người tham quan đều rất ngạc nhiên hỏi: “Cô bé mấy tuổi rồi?”. Tôi nói 2 tuổi, ai cũng kinh ngạc. Đây là một đứa trẻ cực kỳ dũng cảm. Những thay đổi của bé đều bắt nguồn từ tự do.

    Các cô của trường chúng tôi ai cũng ngất ngây trước thay đổi của Đan Đan! Trong phương pháp giáo dục Montessori, chúng tôi không đặt phát triển trí lực lên hàng đầu mà coi trọng nhất là phát triển nhân cách. Nhân cách được phát triển, trí lực cũng phát triển theo, còn kỷ luật chẳng qua chỉ là việc con trẻ vui vẻ tuân thủ các quy tắc mà thôi. Tất cả những điều này đều dựa vào nền tảng tự do.

    Tôi xin đưa ra một ví dụ nữa, trường chúng tôi có một bé rất thích ăn vụng. Ăn vụng của ai? Đồ của những bé khác mang đến trường. Cô giáo để đồ của các bạn trên tủ, bé thường đến đó lấy, cô giáo không biết làm sao, hỏi tôi: “Chị ơi, đứa trẻ này thường xuyên lấy đồ của người khác, em không biết phải làm thế nào, không biết sau này có thành thói hư không?”. Tôi nói: “Không đâu, trẻ con ăn vụng đồ, dưới con mắt của người lớn, trẻ đang ăn trộm của người khác, nhưng với trẻ đây không phải là trộm, mà là trẻ cảm thấy trên đó có đồ ăn ngon, tại sao lại không cho trẻ ăn?”. Tôi hỏi các cô, bé ăn thế có ảnh hưởng đến những trẻ khác không? Các cô nói không ảnh hưởng, tôi bảo, thế thì chúng ta thử một cách này xem sao! Cô giáo nói, mỗi khi đứng trên ghế lấy đồ ăn, nếu bị cô giáo nhìn thấy, bé sẽ rất bối rối, có lúc còn nói dối là lấy cho ai đó. Tôi nói: “Những điều này đều không quan trọng, ở độ tuổi này của trẻ, ăn là quan trọng nhất, trẻ cảm thấy đồ ăn đó quá hấp dẫn nên quên hết mọi điều xung quanh, trẻ phải đi lấy đồ ăn này”. Tôi nói với cô giáo, lần sau khi trẻ lại lấy đồ ăn như thế, cô giáo sẽ nói: “Con có lấy được không, để cô giúp con nhé”. Lần nào cũng thế, liên tục ba tháng trời.

    Trong quá trình này, cô giáo phải đấu tranh với quan niệm của chính mình. Bởi vì cô có một nỗi lo lắng rất lớn, lo bé bị hư. Vì thế, cô phải đấu tranh với bản thân, kiềm chế bản thân. Sau ba tháng, đứa trẻ này không lấy đồ ăn của những bạn khác nữa, bé biết cách tự khống chế hành vi của mình.

    Đây là kết quả của sự tự do và tôn trọng. Giáo dục mà dựa trên sự trừng phạt chỉ có thể khiến con trẻ tạm thời khống chế hành vi của mình vì sợ hãi uy lực của người lớn. Nhưng giáo dục dựa trên sự tôn trọng, dựa trên thái độ tôn trọng trước sau như một của cô giáo đối với mình, lâu dần sự tôn nghiêm và tự tôn sẽ chiến thắng. Đối với con trẻ, tự do là tự do trong vui vẻ, kỷ luật chính là kỷ luật trong vui vẻ.

    [Còn nữa]
     
  4. Đặng Châu Cảm ơm vì sự cố gắng của bạn.

    Bài viết:
    397
    Chương 14: TỪ BỎ KINH NGHIỆM GIÁO DỤC CŨ KỸ LẠC HẬU, HƯỚNG TỚI TÌNH YÊU THẤU HIỂU

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ông ngoại mua cho bé một chiếc ô tô rất đẹp. Bé muốn dỡ bung chiếc ô tô ra để xem tại sao ô tô có thể đi được. Nhưng người lớn cảm thấy, nếu để bé dỡ bung chiếc ô tô thì thật là phí của, nên giấu chiếc ô tô tận trên nóc tủ quần áo. Mấy năm sau bé đã lớn hơn, người lớn mới mang xe ra, nhưng bé không thích chơi nữa. Người lớn đã tước đoạt của bé không phải là chiếc xe, mà là cơ hội nhận biết thế giới.

    Nếu nói là bố mẹ không dành đủ tình yêu cho con, rất nhiều người sẽ phản đối và tự biện hộ cho mình: “Làm gì có chuyện đó, tôi yêu con tôi lắm, tôi đã vì con mình mà hy sinh bao nhiêu sức lực, hy sinh bao nhiêu thời gian, tôi làm tất cả mọi việc đều là vì con…”. Montessori nói: “Tất cả những người làm cha làm mẹ đều phản đối và tự biện hộ cho mình. Tại sao tất cả chúng ta đều cho rằng mình rất yêu con, trong khi con trẻ lại phải lớn lên trong một môi trường thiếu thốn tình yêu? Tại sao cuộc sống của con trẻ lại không được phát triển bình thường?”. Bà nói, loại đối lập tương hỗ này một bên là ý thức, một bên là tiềm thức. “Chúng ta đều cảm thấy đau khổ khi phạm những sai lầm có ý thức, nhưng không hề biết đến những sai lầm vô thức…”.

    Những người làm cha làm mẹ đều nói rằng: “Tôi rất yêu con tôi, tôi đã hy sinh rất nhiều”. Đó là những việc có ý thức. Ở trường Montessori của chúng tôi phát hiện có những bé đi xuống cầu thang mà không cần nhìn, cứ đi thẳng xuống. Đó là những đứa trẻ lớn lên trong sự che chở quá mức của ông bà cha mẹ, bản thân các bé không thể đo lường khả năng của chính mình. Cái gọi là tình yêu ở đây đã tước đoạt của bé khả năng phân biệt, khả năng tự vệ và khả năng tự lập. Trên thực tế, sự chăm sóc ở đây lại là người lớn tự chăm sóc cho tâm lý và quan niệm của mình.

    Trong cuộc sống hàng ngày, phần đông chúng ta đều kiên cường bảo vệ ý chí và cách nhìn của mình. Trong rất nhiều tình huống, cách làm của người lớn đối với con trẻ bị tiềm thức chi phối. Vì con trẻ yếu ớt, không có năng lực tự vệ, nên người lớn tha hồ thể hiện bản tính của mình trước mặt trẻ, một cách không cần che đậy hay xấu hổ. Không biết cách đối đãi với một đứa trẻ, tùy ý, thậm chí có lúc còn “làm phiền” con trẻ.

    Montessori nói, sự tiến bộ và phát triển của nhân loại nằm ở chỗ làm thế nào để biến tiềm thức thành ý thức, trong đó bao gồm cả việc giáo dục trẻ em. Cảnh giác với chính tiềm thức của mình, nâng cao tiềm thức, đó mới gọi là tình yêu chân chính.

    Ở trường Montessori của chúng tôi, nếu con trẻ leo trèo lên hàng rào “Montessori”, bất kể trẻ bao nhiêu tuổi, cô giáo cũng không được đứng phía sau đỡ trẻ, mà phải đứng cách trẻ gần 1m, cho trẻ một không gian tự do. Mỗi đứa trẻ phải tự đo lường phạm vi hoạt động dựa trên khả năng của bản thân, qua đó mà sau này có thể kiểm soát các hành động của mình, để ra quyết định chính xác cho các hành động tiếp theo. Bởi vì bản tính của con người luôn có sẵn sự xúc động sáng tạo và tìm tòi.

    Rất nhiều đứa trẻ lớn lên trong sự “che chở” của bố mẹ, sẽ trở thành thế này - không biết trời cao đất dày, cứ nhắm mắt mà vượt qua, đến khi thất bại lại oán trách bố mẹ không thể tạo cho mình một điều kiện lý tưởng, oán trách sao không có ai đến giúp mình.

    Ngay từ khi sinh ra, con trẻ đã có được khả năng tự bảo vệ, nhưng năng lực đó phải được sử dụng thường xuyên. Chúng tôi xem trong tư liệu, trẻ bốn tháng đã có khả năng này. Trong thí nghiệm “Vách đá trực quan”(1) kinh điển: Dưới nền kính thủy tinh đặt một bức tranh lưới ô vuông lập thể, khi bé bò qua bức tranh này, bé sẽ quan sát. Bức tranh này đem đến những cảm giác nông sâu khác biệt cho thị giác. Những chỗ nông, bé sẽ dễ dàng bò qua, khi phát hiện ra bên dưới rất giống một rãnh sâu, bé sẽ dừng lại, không tiến về phía trước và quan sát nét mặt của mẹ. Nếu khuôn mặt mẹ lo lắng, bé sẽ không bò nữa, nếu khuôn mặt mẹ vui vẻ, động viên, bé sẽ dũng cảm bò về phía trước.

    Rất nhiều cha mẹ ý thức được những sai lầm của mình thì sẽ đau khổ nhăn nhó: “Sao tôi lại phạm sai lầm này?”. Chẳng hạn đánh cho con một trận, nhưng phát hiện ra đã đánh oan con, thì người làm cha mẹ đó sẽ buồn bã nói với con rằng: “Bố, mẹ không đúng”. Nhưng chúng ta không ý thức được những sai lầm từ trong tiềm thức.

    Điều quan trọng nhất của việc yêu con nằm ở chỗ, chúng ta không thể đem những kinh nghiệm hiện có của mình ra để đối đãi với con trẻ vì những kinh nghiệm ấy đã quá lỗi thời. Tôi xin lấy một ví dụ, ở trường Montessori của chúng tôi, có vườn hoa, có bãi cát, có tự do nên phạm vi hoạt động của các bé tương đối rộng, từ phòng học ra vườn hoa, từ trước phòng ra sau phòng, từ xích đu đến nhà động vật… Vì thế, các bé rất dễ bị bẩn, trên người dính cát, dính bùn… Ở trạng thái tự do, các bé thích nhất là được nằm trên nền đất của vườn hoa. Có những đứa trẻ hôm đầu đến trường, vì còn bỡ ngỡ, không chịu hoạt động nên buổi chiều khi đến đón, mẹ bé nói có vẻ không vui: “Sao quần áo vẫn còn sạch nguyên thế này, chứng tỏ con tôi vẫn chưa được tự do hoạt động”. Một mẹ khác lại nói: “Các cô làm thế nào mà con tôi bẩn thỉu thế này?”. Đây rõ ràng là hai cách nhìn với chung một vấn đề.

    Còn nữa, ở trường Montessori, trẻ em có thể tự do ra vào bất cứ nơi nào trẻ thích. Một hôm, có phụ huynh đến trường tham quan, anh ta đang cân nhắc xem có nên gửi con mình vào đây không. Lúc đó, họ phát hiện ra hai bé đang đẩy cái ghế xoay trong phòng cô hiệu trưởng đi khắp mọi nơi, hết bé này đẩy lại đến bé kia… Vị phụ huynh cứ đứng đó nhìn hồi lâu, nhìn xong thì nói: “Tôi sẽ gửi con vào đây, bọn trẻ có thể đẩy cái ghế kia, chứng tỏ trẻ rất được tôn trọng”. Nhưng cũng có phụ huynh nhìn thấy cảnh này thì nói: “Thật không có quy củ gì hết, còn dám đẩy ghế của cô hiệu trưởng đi khắp nơi thế kia!”.

    Sau đó, vấn đề này được đem ra thảo luận. Tôi nói: “Montessori nói, trường mầm non phải là ngôi nhà của trẻ. Hiện nay chúng ta có ngôi nhà của công nhân, ngôi nhà của viên chức, ngôi nhà của trẻ em, nhưng chúng ta chưa hiểu được ý nghĩa của ngôi nhà? Nhà là gì?”. Tôi hỏi ngược lại, giả dụ cô có được một ngôi nhà to đẹp như biệt thự của trường Montessori thế này, liệu cô có cho con cô được vào chơi trong phòng khách nhà mình không? Phụ huynh và các cô đều nói: “Được chứ, con tôi thì phải được chơi ở bất cứ nơi nào trong nhà tôi chứ”. Tôi nói: “Nếu các vị đã coi đây là một ngôi nhà, tại sao bọn trẻ lại không được đến bất cứ nơi nào chúng muốn”. Mọi người đều nói: “Ồ, hóa ra là vậy”. Tôi nói: “Chúng ta cho phép trẻ đến bất cứ phòng nào chúng muốn trong ngôi nhà, nhưng khi căn phòng này có khách hoặc đang họp, các cô có thể nói với con là các cô đang làm việc, hoặc các cô đang họp, mời con tránh đi, các con sẽ hiểu”. Nếu trường mầm non là ngôi nhà của con trẻ, nếu các cô thực sự yêu trẻ, các cô sẽ phát hiện ra, khi trẻ được tự do hoạt động, tự do bày tỏ tình cảm của mình, trẻ sẽ coi ngôi trường này như chính ngôi nhà của trẻ. Trẻ sẽ thoải mái, sẽ vui vẻ, và đầu óc của trẻ hoàn toàn mạch lạc, trẻ sẽ phát triển tốt hơn. Một ngôi nhà thì không nên có quá nhiều quy tắc, mà chỉ cần vài quy tắc cơ bản là đủ rồi. Hãy để con trẻ được làm những việc mình muốn làm, tại sao lại không chứ? Tôi biết rằng, có rất nhiều nơi không cho phép trẻ chạy xuống bếp lấy đồ ăn trong giờ học, hoặc là không cho trẻ được tự do chơi khắp nơi trong trường.

    Yêu con, hãy để con được tự lập; yêu con, hãy để con có sự tự tôn; yêu con, hãy cho con đầy ắp tinh thần khám phá thế giới này. Nếu bạn yêu con trẻ, hãy để cho con trẻ được phát triển theo yêu cầu cuộc sống của chính bản thân chúng.

    Tôi có một người bạn, hai vợ chồng đều là tiến sĩ, nhưng họ chưa từng nghiên cứu về giáo dục trẻ em, phương pháp giáo dục đối với con cái chính là kinh nghiệm trưởng thành của bản thân họ hoặc những phương pháp có được qua cuộc sống hàng ngày, rất hay quản con, lúc nào cũng yêu cầu con chỉnh tề, hay nói với con bằng giọng điệu răn dạy. Vì thế, đứa trẻ này khá nhát gan, chỉ một việc nhỏ cũng thăm dò mệnh lệnh của mẹ. Khi nào cảm thấy có thể thoát khỏi sự quản giáo của bố mẹ, bé sẽ vô cùng ồn ã, vô cùng hiếu động.

    Tại sao thời kỳ tiền trưởng thành của con người lại dài như vậy? Bởi vì tuổi ấu thơ của con người bao hàm cả quá trình phát triển tinh thần. Trong trường chúng tôi có một em bé, ăn gì cũng vội, lần nào cũng lấy rất nhiều, nhưng trên thực tế bé không thể ăn được nhiều như vậy. Tôi cảm thấy em bé này có chút vấn đề. May là mẹ bé rất phối hợp với nhà trường, nên tôi đã hỏi chị ấy: “Chị mua đồ ăn về rồi làm thế nào?”. Chị ấy nói: “Tôi cất lên tủ, khi nào con muốn ăn thì tôi lấy cho cháu”. Tôi nói: “Theo chị, dùng chút quà vặt này thỏa mãn tâm lý con trẻ quan trọng, hay là tiết kiệm tiền không cho con lãng phí quan trọng hơn?”. Đúng là chị ấy rất thương con, chị ấy nói: “Tôi hiểu rồi, chị hãy chỉ cách cho tôi”. Tôi nói: “Nếu điều kiện kinh tế của chị không cho phép, một tuần chị chỉ mua đồ ăn vặt một lần thôi, nhưng dứt khoát chị phải đặt đồ ăn ở nơi con chị có thể tự do thoải mái lấy được. Hãy tạo cho con một môi trường thoải mái, vui vẻ. Chẳng có đứa trẻ nào không lãng phí, chỉ là trẻ chưa hiểu lãng phí là thế nào. Nhưng ít nhất cháu cũng có được tâm thế thoải mái”. Nếu ăn cũng không được thoải mái, thì tâm lý con trẻ thật đau khổ.

    Con trẻ dựa vào việc ăn để nhận thức thế giới. Trước 6 tuổi, ăn là con đường chính để trẻ nhận biết thế giới. Rất nhiều đứa trẻ ăn không phải thỏa mãn cái miệng của mình, mà ăn để thỏa mãn tâm lý. Tôi biết một đứa trẻ được ông ngoại mua cho một chiếc ô tô rất đẹp, bé định dỡ bung xe xem tại sao xe lại đi được. Tinh thần tìm tòi học tập này thật đáng quý biết bao! Nhưng những người lớn trong nhà cảm thấy một chiếc xe đẹp thế này mà để trẻ con tháo tung ra thì thật phí, nên đã cất lên tận nóc tủ quần áo. Sau mấy năm, họ cảm thấy đứa trẻ đã lớn, sẽ không tháo xe ra nữa, nên mang ra cho bé chơi, nhưng bé không chơi nữa. Khi đứa trẻ muốn chơi chiếc xe nhất thì đã bị tước đoạt mất cơ hội nhận biết chiếc xe.

    Yêu con cũng phải học cách, học cách thay thế tiềm thức tích lũy trong cuộc sống bằng ý thức khoa học chính xác. Sau đó, biến những ý thức chính xác đó thành tiềm thức. Một người lớn sinh tồn trong thế giới phàm tục này thì quan niệm cũng phàm tục. Đem quan niệm đó ra mà dạy dỗ trẻ con thì đứa trẻ ấy sao có thể trở nên vĩ đại, kiệt xuất được? Trừ phi người đó thay đổi quan niệm của mình. Một vị phụ huynh của trường chúng tôi đã nói thế này: “Tôi hoàn toàn tiếp nhận, tán thành tư tưởng giáo dục này, nhưng cứ đến những lúc then chốt lại quên mất, tôi không thể điều khiển tính khí của mình. Tôi có thể hiểu, có thể nói ra, nhưng không làm được, hình như nhân cách của tôi đã bị phân liệt mất rồi”. Đây là một vấn đề rất phổ biến của chúng ta.

    Những vấn đề về ý thức của một con người có thể tạo ra cả cuộc đời bất hạnh. Ví dụ như thường thì con trai quấn mẹ, con gái quấn bố. Nhưng đến một độ tuổi nào đó, con gái sẽ có khoảng cách với bố và bố nên thể hiện sự nghiêm khắc của mình. Đây là một quan niệm. Nhưng những tư liệu mà chúng tôi có được chứng tỏ rằng, trong quá trình trưởng thành, nếu con gái không có được sự khẳng định và khen ngợi của bố thì sau khi trưởng thành, việc hôn nhân của con gái thường không suôn sẻ, nguyên nhân là vì cô ấy vẫn vấn vương bóng hình của người con trai nào đó, vấn vương chứ không phải yêu. Khi bóng hình đó rời bỏ cô ấy, cô ấy sẽ rất đau khổ, tìm mọi cách để đạt được sự khẳng định của người này. Nếu cô ấy sống với người đàn ông này, thì vấn đề yêu và không yêu sẽ rối rắm không có hồi kết. Điều cô ấy cần không phải là tình yêu, điều này chưa đến mức thành tình yêu, chỉ là sự khẳng định. Chúng tôi biết bố yêu con, khẳng định con, khen ngợi con sẽ có tác dụng vô cùng quan trọng trong cuộc đời của con. Nhưng, rất nhiều những người làm cha mẹ không hiểu, không biết điều này, họ cho rằng con gái đã lớn, nên phải giữ khoảng cách. Bố là người đàn ông đầu tiên con gái tiếp xúc trong cuộc đời, tất cả hành vi của bố là nền tảng tiêu chuẩn để con gái lựa chọn bạn đời sau này.

    Sự trưởng thành của con người dựa trên điều gì? Pháp luật? Đạo đức? Lương tâm? Không, đều không phải, sự trưởng thành của con người dựa trên tình yêu xuất phát tự đáy lòng. Đó là điều đáng tin cậy nhất. Tôi tin rằng, cha mẹ đều mong muốn cho con những điều tốt đẹp nhất. Nhưng sau khi con cái trưởng thành, tại sao lại tồn tại nhiều vấn đề tâm lý đến vậy? Không nâng cao tiềm thức, chúng ta sẽ vô tình làm hại chính con cái của mình.

    Cha mẹ phải học cách yêu con. Cha mẹ phải làm được điều này, phải đấu tranh với tiềm thức của mình. Cho con một tình yêu trọn vẹn nhất, chính là phát hiện ra những điều ở bên ngoài ý thức chủ quan, “hiểu được quá trình phát triển cuộc sống của con, và đem cho con những thứ cần cho quá trình phát triển đó”.

    Trẻ lên 7 tuổi, đi học tiểu học. Lên lớp làm việc riêng, hiếu động, không tập trung, có gia đình đã cho trẻ uống thuốc. Thực ra, “không tập trung” bắt nguồn khi trẻ từ 0 đến 6 tuổi. Có vị cha mẹ lại hỏi, có nên dạy trẻ từ lúc 7, 8 tháng tuổi? Giáo dục con trẻ bắt đầu từ thuở nằm trong bụng mẹ, nên được bắt đầu ngay từ những ngày đầu tiên mẹ mang thai.

    Một hôm, tôi đến chơi nhà một người bạn, con của cô ấy đã 7 tuổi. Bạn tôi nói con mình quá hiếu động, phá tung sofa và đệm ghế bày ra khắp nhà, rồi nhảy nhót trên sofa. Tôi muốn quan sát trạng thái của cháu. Một lúc sau, tôi cười hỏi: “Cậu hay trách mắng con đúng không?”. Bạn tôi nói vì con mình quá bướng bỉnh, quả thật đã hết cách. Tôi hỏi, có phải cô ấy không cho phép con được chơi với sofa và đệm ghế? Cô ấy nói làm thế thì cả nhà sẽ rối tung hết lên. Tôi nói với cô ấy, trên thực tế, trẻ em chỉ chơi với sofa và đệm ghế từ 1 đến 2 tuổi, sau đó con sẽ hết hứng thú với việc này. Tại sao vậy? Bởi vì sofa và đệm ghế là “nguyên vật liệu” lý tưởng để con trẻ “xây nhà”.

    Trạng thái cuộc sống của cha mẹ càng tốt, càng có thể hiểu con. Khi tìm hiểu một người, chúng ta có thể biết được trạng thái của người đó qua cách họ đối xử với con. Người nào có được nhân cách thống nhất, thì tư tưởng, ngôn ngữ và hành vi của họ cũng hoàn toàn thống nhất.

    [Còn nữa]
     
  5. Đặng Châu Cảm ơm vì sự cố gắng của bạn.

    Bài viết:
    397
    Chương 15: PHÁT TRIỂN TÂM LÝ VÀ TRÍ TUỆ, NẮM VỮNG TRI THỨC

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Trong sáu năm đầu đời của trẻ, thời gian quý như vàng. Tôi biết rất nhiều bậc cha mẹ trong thời gian này đã bắt con học thuộc mấy chục, thậm chí mấy trăm bài thơ cổ. Những người làm cha mẹ cứ tưởng đây là phát triển trí lực. Thơ ca giãi bày nỗi lòng, cảnh ngộ…, là những thứ thuộc về thế giới của người lớn, con trẻ không thể hiểu. Biết được điểm này, liệu có ai còn ép trẻ con học thuộc thơ đây?

    Đối với con trẻ, việc nắm bắt tri thức không hề quan trọng, quan trọng là cách nắm bắt các tri thức. Thiên nhiên ban tặng cho chúng ta bản năng để trưởng thành, không ai có thể ngăn cản. Trong quá trình trưởng thành ấy, chúng ta có thể tiếp nhận tri thức ở bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào. Giả dụ bạn có kinh nghiệm về sự trưởng thành, hay nói cách khác khi bạn lặp đi lặp lại một kinh nghiệm rồi trở thành năng lực, bạn sẽ phát hiện ra quy luật nội tại của những kiến thức này và nhanh chóng nắm bắt chúng. Nhưng, nếu bạn bị động tiếp nhận những tri thức từ bên ngoài thì e là bạn cũng chỉ đang học thuộc lòng một cách máy móc những từ ngữ chuyên dụng và các kỹ năng đơn giản mà không hề phát hiện ra quy luật nội tại và tư tưởng của những tri thức này. Bởi vì bị động có nghĩa là chịu ép buộc, chịu ép buộc có nghĩa là bạn phải từ bỏ những việc bạn đang muốn làm để đi làm những việc không muốn làm. Lại giả dụ như thời gian của con người chỉ có một trăm phút, bạn buộc phải đưa ra lựa chọn. Bạn không thể đồng thời có được hai lần một trăm phút, điều này có thể không quan trọng với người lớn, nhưng sáu năm đầu của trẻ em, thời gian quý như vàng.

    Bắt trẻ em thuộc thơ cổ là một ví dụ điển hình nhất, rất nhiều trẻ em có thể học thuộc mấy chục thậm chí đến mấy trăm bài thơ cổ, nhưng sau khi trưởng thành thì quên sạch. Liệu điều này có thể mở mang điều gì cho trí lực của trẻ? Con của một giảng viên đại học có thể học thuộc mấy trăm bài thơ, cô ấy nói với tôi: “Chẳng có ích lợi gì ngoài khả năng ngôn ngữ của con có nhỉnh hơn các bạn cùng trang lứa một chút xíu, còn về các mặt khác thì hoàn toàn vô ích. Thực tế là các mặt khác của con tôi đều rất tệ”. Cô ấy còn nói: “Tôi nghiên cứu văn học Hán ngữ, về mặt này thì tôi tự thấy mình là một kẻ thất bại”. Nghe cô ấy nói chuyện, tôi vô cùng cảm thán: Tổn thất này còn vượt xa hơn cả những gì mà người lớn tưởng tượng. Bởi vì bạn đã chiếm dụng quãng thời gian vàng cho sự phát triển tâm trí và trưởng thành của con trẻ. Tôi chỉ có thể nói một cách nhẹ nhàng hơn: “Đúng là chị đã làm lỡ sự phát triển của con”.

    Trong thời gian từ 0 đến 6 tuổi, không quan trọng việc trẻ học cái gì, mà quan trọng ở việc trẻ tự phát triển tâm lý và trí tuệ, sức sống, khả năng nhận thức, kỹ năng nhận thức của bản thân trẻ, đây mới là điều quan trọng nhất.

    Thơ ca là gì? Là cách dùng những câu từ mang tính nhạc để diễn tả một tình cảnh, một ý cảnh, một loại cảm xúc, trong đó bao hàm những triết lý sâu sắc. Đó là thế giới của người lớn, là sự kiêu hãnh của người lớn. Biết được điểm này, liệu có còn ai muốn ép con mình học thuộc thơ? Chúng tôi đã phát hiện ra, trường mầm non ở những nước phát triển trên thế giới luôn có một số lượng lớn các đồ chơi và đồ dùng dạy học để con trẻ được chìm đắm trong thế giới của riêng mình, phát triển tự nhiên theo quy luật trưởng thành của bản thân.

    Người lớn thích dùng quan điểm của mình để phỏng đoán con trẻ. Trường chúng tôi có một cậu bé trai, tết hai bím tóc. Quê cậu bé ở An Huy, ở đó có phong tục tết tóc cho bé trai để trừ tà. Bố cậu lo rằng con mình đến trường sẽ bị các bạn chê cười, tôi nói không có chuyện này vì các bé ở trường chúng tôi không có thói quen này. Trên thực tế, trong lòng tôi cũng không chắc chắn lắm khi nói điều này, bởi vì trường hợp của bé cũng hơi đặc biệt. Nhưng cậu bé đã vào trường một năm, không có một cháu nào cảm thấy khác thường khi thấy bạn mình có hai bím tóc, mà vấn đề lại xuất hiện ở chính những người lớn đến tham quan trường. Hiện tượng này khiến chúng tôi vô cùng kinh ngạc, tất cả mọi vấn đề đều bắt đầu từ người lớn, bắt đầu từ tưởng tượng của người lớn.

    Ví dụ như một em bé hơn 2 tuổi đánh người, bố mẹ sẽ nói: “Không được đánh người, không được đánh người! Sao con lại làm thế?”. Con trẻ có đánh người giống người lớn đánh người không? Thực ra, rất nhiều người làm cha mẹ đều phát hiện ra rằng, trẻ em hơn 2 tuổi thường lấy tay để giải quyết vấn đề. Trong phần đông các trường hợp, trẻ em dùng động tác này để loại bỏ những việc trẻ không muốn hoặc những việc trẻ không thể giải quyết. Mấy tháng sau trẻ sẽ thay đổi. Nhưng khi trẻ giơ tay ra, người lớn ở bên cạnh lại cảm thấy quá kinh ngạc mà nói: “Không được đánh người!”. Trẻ sẽ biết đấy là đánh người. Hay rồi! Trẻ cảm thấy hưng phấn, bắt đầu đánh người thật. Trẻ em không hề có ý thức về cái ác, trừ phi là người lớn vô thức nhấn mạnh với chúng.

    Lại ví dụ về việc yêu cầu các bé trước 6 tuổi xây dựng khái niệm tập thể. Hiểu và sử dụng được một khái niệm lớn như thế này là một việc vô cùng khó khăn với trẻ. Ít nhất thì Montessori cho rằng, trước 6 tuổi trẻ không thể thiết lập khái niệm tập thể, trừ khi trẻ không có việc gì để làm, từ sáng đến tối không có cơ hội hoạt động, chỉ chăm chăm nghĩ cách làm thế nào để vừa lòng cô giáo, để lấy lòng những người bên cạnh. Như thế, trẻ sẽ xây dựng cái gọi là “ý thức tập thể” trong một trạng thái hoàn toàn không bình thường. Những đứa trẻ có trạng thái bình thường sẽ không bao giờ suy nghĩ như vậy. Montessori có một câu: “Không có đứa trẻ sai lầm, chỉ có người lớn sai lầm”.

    [Còn nữa]
     
  6. Đặng Châu Cảm ơm vì sự cố gắng của bạn.

    Bài viết:
    397
    Chương 16: THỰC TIỄN GIÁO DỤC CỦA “YÊU THƯƠNG VÀ TỰ DO”

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Một người bạn nói với con trai tôi: “Khi nhảy khỏi phi thuyền vũ trụ, cháu sẽ rơi vào vũ trụ!”. Con trai tôi nghĩ một lát nói: “Chúng ta hiện đang ở trong vũ trụ mà!”. Khái niệm của người lớn đã quá sai lệch. Con trẻ dùng đôi mắt của mình để nhìn nhận một thế giới khách quan, điều này không do ai dậy, mà đến từ nội tâm của trẻ, đến từ quá trình trẻ quan sát và thể nghiệm cuộc sống.

    Tôi xin nói đến “cái đẹp và môi trường” trước. Đối với chúng tôi, đầu tiên môi trường là một loại cảm giác, chúng tôi mong muốn một môi trường đơn giản sạch sẽ, sáng sủa rõ ràng, hài hòa. Giáo dục Montessori có một quy định về màu sắc cho việc bố trí môi trường của lớp học. Các cô có thể lựa chọn một trong ba màu trắng, hồng, kem để làm màu cơ bản trong lớp học của mình.

    Kiểu dáng và kích cỡ của đồ dùng gia đình cũng phải phù hợp với trẻ nhỏ, nên cũng có quy định. Việc cô giáo cần làm là làm đẹp môi trường lớp học trên cơ sở này. Tôi sẽ không nói về “cái đẹp”, vì mỗi người có một quan niệm thẩm mỹ khác nhau. Cũng giống như việc nhà bạn phải khác nhà tôi, phong cách của tôi không giống với phong cách của những người khác. Vì thế, mỗi người sẽ bố trí lớp học theo thẩm mỹ cá nhân của mình. Có cô giáo đem hoa ở nhà mình đến, có cô lại mang túi, mang sách…, lớp nào cũng rất đẹp, rất trang nhã. Nhưng phải ghi nhớ một điểm, thẩm mỹ của trẻ em cao hơn người lớn, nên không thể chủ quan mà cho rằng những bức tranh hoạt hình thiếu thẩm mỹ và gây cười sẽ có ích cho bọn trẻ, vì đó hoàn toàn chỉ là cảm giác và nhận định của người lớn. Khi các cô giáo treo trong lớp những bức danh họa của những họa sĩ nổi tiếng trên thế giới, chúng tôi đã phát hiện có một bé đứng đó nhìn chăm chú, cô giáo để ý thấy, bé đã đứng đó mười bốn phút. Vì thế, khi bố trí phòng học, phải lấy trình độ thẩm mỹ cao nhất làm điểm xuất phát, chứ không phải những cái gọi là “tâm hồn trẻ thơ”.

    Chúng ta lại nói tiếp đến việc giảng bài như thế nào? Điểm đầu tiên cần ghi nhớ chính là lời Dante (1265 - 1321, nhà thơ, nhà thần học người Ý) đã nói: “Mỗi câu nói đều phải chính xác”. Chúng ta không nên hiểu câu này thành: “Nói được làm được, phải làm cho bằng được”, mà phải hiểu là: “Đừng nói những lời thừa. Đã nói thì không phải lời thừa, đã là lời thừa thì đừng nói”.

    Về đồ dùng dạy học, giáo dục Montessori quy định không ai có quyền ép học sinh thao tác loại đồ dùng nào.

    Montessori nói, thông qua chế độ tự do, con trẻ sẽ bộc lộ khuynh hướng tự nhiên của mình ở trường học, chỉ có như vậy, trẻ mới tự biết mình cần thao tác cái gì, đi lấy đồ dùng dạy học nào. Vì thế ở trường Montessori, không có tiếng chuông vào lớp, không có tiết học cụ thể, trẻ tự do vào lớp học, tự do ra khỏi lớp. Ở giai đoạn này, trẻ được tự quyết định. Vì thế trường mầm non không có quy định bài này có giảng hay không, vì chúng tôi biết rằng, khi con trẻ mới bước vào phòng học, trẻ không thể có kỷ luật ngay. Trẻ phải qua một quá trình lâu dài, một quá trình hỗn loạn, mới dần dần hình thành nên khuynh hướng tự nhiên của mình, lúc đó cô giáo mới biết được con trẻ thích gì. Ở trạng thái ban đầu này, không có chỗ dành cho những tiết học tập thể, bởi vì khi cô giảng bài, có thể trẻ không nghe, cũng có thể trẻ sẽ ra ngoài. Điểm hứng thú của mỗi đứa trẻ bị phân tán thành nhiều điểm, trẻ lại chưa hình thành kỷ luật nội tại, nên các cô không thể ngăn trẻ ra ngoài, trừ phi là các cô khiến cho trẻ sợ hãi.

    Thế nên, ở trường Montessori về cơ bản không có các tiết học tập thể. Con trẻ sẽ hoạt động dựa theo nguyện vọng của chính mình. Những bé mới vào trường dành phần lớn thời gian vào việc chơi đùa, ra ra vào vào, có lúc tụ tập làm ồn, có lúc đứng lên trên bàn, có lúc lại chui xuống gầm bàn… Nhưng hai tháng sau, khi trẻ đã tìm thấy những việc mình thích, có lúc trẻ chơi đi chơi lại một món đồ trong vườn trường, có lúc lại vào phòng học lấy một đồ dùng dạy học, rồi liên tục thay đổi đồ dùng dạy học. Trong quá trình này, trẻ dần dần học được cách quan sát, có được bước thành công đầu tiên, trẻ mới có thể bước vào trạng thái làm việc, cuối cùng là có được kỷ luật.

    Ở trường Montessori dường như rất ít bài học tập thể. Chúng tôi gần như bỏ qua kiểu bài học tập thể vì nó không quan trọng. Vậy kiểu bài tập này nên dạy vào thời gian nào? Chính là khi con trẻ đồng thời đạt trạng thái tốt và bước vào thời kỳ nhạy cảm.

    Montessori nói, hình thức đơn giản nhất của giảng bài là ngắn gọn, rõ ràng, khách quan. Đây cũng có nghĩa là điều chúng ta vừa nói, “Mỗi câu nói đều phải chính xác”.

    “Rõ ràng” là một yêu cầu không dễ dàng. Trong quá trình giao lưu với chính con trai mình, tôi phát hiện ra, muốn nói một việc rõ ràng thật không dễ dàng gì, ví dụ như từ “kiêu”. “Mẹ ơi, sao câu này cũng là kiêu, câu kia cũng là kiêu thế ạ?”, con trai tôi hỏi. Đến hôm nay tôi vẫn không thể cắt nghĩa rõ ràng với con mình. Bởi vì tôi đã nói cả một tá những lý lẽ, đó cũng là một tá những khái niệm. Lấy khái niệm để giải thích khái niệm thì thật rối rắm với trẻ con. Trong quá trình tiếp xúc với trẻ, tôi cảm nhận thấy đây cũng là quá trình để các cô tự uốn nắn mình. Các cô tự rèn luyện và nâng cao tố chất của mình trong quá trình đối thoại và tiếp xúc với con trẻ.

    Trong cuộc sống có biết bao nhiêu vấn đề chúng ta không hiểu, không rõ, điều đó bắt buộc chúng ta phải học tập. Ví dụ nói “vũ trụ”. Có một hôm, một người bạn của tôi nói với con trai tôi: “Khi nhảy khỏi phi thuyền vũ trụ, cháu sẽ rơi vào vũ trụ”. Con tôi lại nói: “Không phải, chúng ta đang ở trong vũ trụ mà”. Đúng vậy, chúng ta cũng là một phần của vũ trụ, tại sao lại rơi vào vũ trụ? Rõ ràng là con tôi đã xây dựng đúng khái niệm này. Khái niệm của người lớn đã sai quá nhiều. Trẻ con quan sát, sau đó nắm bắt và xây dựng khái niệm chính xác.

    Có một lần, mẹ một cháu nói với tôi, cứ chín giờ tối là chị bảo con đi ngủ, nhưng giờ đó con gái chị đang xem hoạt hình nên không muốn ngủ. Chị liên tục đứng bên cạnh thúc giục, con gái chị cuống lên nói: “Mẹ không cho con tự do à?”. Mẹ nói: “Mẹ cho con tự do còn gì!”. Con gái nói: “Không phải, cứ đến chín giờ, mẹ lại nhốt tự do của con trong cái đồng hồ!”.

    Trước 6 tuổi, con trẻ xây dựng khái niệm dựa trên những trải nghiệm của mình với cuộc sống và sự vật chứ không dựa trên những điều học được từ người khác.

    Có một lần, vì con trai làm sai nên chồng tôi đã nổi nóng, con tôi khóc mãi. Tôi ôm con lên và nói: “Bố yêu con, chỉ là bố quá nghiêm khắc”. Con tôi không khóc nữa, suy nghĩ một lúc, rồi nói với tôi: “Mẹ ơi, phải nói thế này, có lúc bố yêu con, có lúc lại không yêu”. Tôi cảm thấy thật may mắn, con tôi có thể hiểu ra hiện thực khách quan, nên chắc chắn cũng sẽ hiểu ra chân lý. Điều này có được không phải do ai dạy trẻ, mà đến từ bản thân trẻ, đến từ sự khái quát cao độ và sự thể nghiệm của trẻ đối với cuộc sống.

    Một giáo viên Montessori ưu tú trước tiên sẽ không giảng giải gì, mà chỉ đảm bảo sự tự do cho trẻ. Nhớ lại quá trình trưởng thành của chúng ta, bao nhiêu quan niệm và khái niệm không đến từ những trải nghiệm của bản thân mà đến từ thế giới bên ngoài, đến từ bố mẹ, cô giáo và một đống những kiến thức sách vở không phù hợp với cuộc sống thực tế. Khi chúng ta trưởng thành, phát hiện thế giới không giống như những điều mà người khác hoặc sách vở đã nói, lúc đó chúng ta đã không thể xây dựng những thứ của chính mình. Có một lần, bác bảo vệ lớn tuổi trông vườn sau của chúng tôi trách mắng một bé, bé nhào vào lòng mẹ khóc nói: “Ông ấy nói dối, tại sao ông ấy lại thế, ông ấy còn là ông nữa”. Mẹ nói: “Ông ấy già rồi, con…”. Bé vẫn hét lên: “Không phải! Ông ấy chưa hề được yêu!”. Tôi tin rằng, ngày hôm nay, 70% người lớn chúng ta không biết thế nào là yêu, hoặc không hiểu rõ ràng khái niệm yêu là thế nào.

    Con trẻ thường hay hỏi tại sao, cái gì? Nếu chúng ta không thể cho trẻ một câu trả lời chính xác, thì điều đầu tiên yêu cầu các cô là, nếu các cô không hiểu thì đừng bịa đặt lung tung. Trường chúng tôi có một cô ban đầu cũng có tật này, cô ấy không biết giáo dục Montessori yêu cầu mình làm thế nào, nhưng có thể tưởng tượng bà Montessori đang bảo mình làm thế này. “Cô ơi, tại sao lại thế này?”. Cô giáo nghĩ một lúc, rồi tự bịa ra câu trả lời. Tôi hỏi cô: “Tại sao cô không tra sách?”. Cô giáo nói: “Em cảm thấy chắc là thế”.

    Trước đây tôi cũng đã nghĩ rằng, tưởng tượng một chút là có thể trả lời câu hỏi của con trai mà không cần quan tâm xem điều đó có đúng không, bởi vì người lớn luôn cảm thấy đúng hay không trước mặt con trẻ cũng không hề mất mặt. Nếu chúng ta nói với con: “Cô không biết cái này, chúng ta cùng đi tra sách nhé”, như thế kết quả có thể hay hơn nhiều. Tôi đã đọc câu chuyện trong một tạp chí về một du học sinh Trung Quốc đi dạy gia sư ở Mỹ, một lần bị học sinh hỏi liên tục mà cảm thấy rối tung, bạn gia sư này nói: “Cháu mà hỏi nữa thì mèo bắt đấy”. Mẹ cháu đang nấu cơm nghe thấy câu nói này, chị nghiêm khắc chỉ ra vấn đề và dừng ngay việc nấu cơm lại, mang cuốn “Bách khoa toàn thư” ra giảng cho con nghe “những động vật họ mèo”. Chị không muốn con mình còn nhỏ mà đã lại xây dựng khái niệm “mèo” một cách đáng sợ như vậy.

    Chồng tôi hay lôi sói xám ra để dọa con. Bạn thử nghĩ xem nếu chúng ta thường xuyên nhắc đến việc sói xám sẽ ăn thịt con, buổi tối nào trước khi đi ngủ cũng dọa để con ngủ sớm, liên tục như thế thì hình ảnh sói xám trong đầu óc con trẻ sẽ thế nào? Trong một lần trắc nghiệm về trí lực có sử dụng hình ảnh của sói và dê. Tuyệt đại đa số trẻ nhìn thấy đều nói: “Sói xám ăn thịt dê”. Con tôi chẳng sợ gì, chỉ sợ mỗi sói xám. Sau đó, khi cô giáo giảng đến loài cáo, con tôi hỏi: “Cô ơi, cáo có đến lớp chúng ta được không?”. Cô giáo nói: “Tất nhiên là không, cáo ở trong rừng sâu, hoặc ở trong vườn bách thú, sao có thể đến lớp học được?”. Sau khi suy luận, con tôi cho rằng sói cũng không thể đến được. Khi về nhà, cháu nói: “Mẹ ơi, bố là kẻ lừa đảo, sói ở trong rừng sâu, hoặc ở trong vườn bách thú, không thể chạy đến đây được”.

    Mẹ tôi không muốn cháu ra mương nghịch nước, nên nói ở đó có “con ma nước”. Con tôi hỏi: “Mẹ ơi, con ma nước là gì ạ?”. Tôi nói: “Con ma nước là con quỷ nước đấy”. Con tôi nghe xong thì cười hì. Nó không sợ. Nhưng từ hôm đó trở đi, con tôi không ở một mình với bà ngoại nữa, nó bảo: “Bà ngoại nói dối. Bà bảo có con ma nước, nhưng kỳ thực là không có! Thế mà bà bảo là yêu con, con không tin bà nữa”. Sau đó tôi cảm nhận thấy, nếu chúng ta không xây dựng cho con trẻ một khái niệm chính xác, điều đó có thể ảnh hưởng đến cả cuộc đời chúng, bởi vì có thể cả đời này bạn sẽ sử dụng một khái niệm không thay đổi được hình thành từ thời niên thiếu. Đây là điểm đầu tiên.

    “Rõ ràng” chính là không nói lời thừa. Ví dụ nói về hình vuông, giáo viên khi giảng bài thường nói với học sinh: “Các con nhìn xem!”. “Các con nhìn xem” chính là lời thừa. “Các con nhìn xem, đây là hình vuông, hình vuông có bốn cạnh bằng nhau…” liệu có phải là lời thừa không? Toàn là những lời thừa. Giảng đến hình tam giác, “Các con nhìn xem, trong tay cô đang cầm cái gì nào? Đây là hình tam giác, hình tam giác có ba góc, một góc, hai góc, ba góc”. Toàn là những lời thừa. Phương pháp đúng đắn là, cầm hình tam giác lên, nói: “Hình tam giác”. “Cái nào là hình tam giác?”. “Cái này”. “Đây là cái gì?”. “Hình tam giác!”. Đây chính là cách giảng theo “tam đoạn thức”.

    Tôi đã tiến hành phương pháp giảng “tam đoạn thức” với chính con mình. Có một lần chúng tôi đến vùng nông thôn tìm thợ làm vườn nghệ thuật. Ngoài cổng đang có một con bò kêu “ò ò”. Tôi nói với con: “Con nhìn xem, đây là con bò. Con bò cho chúng ta sữa uống hàng ngày. Đây là phân của con bò”. Tôi nói với con bao nhiêu là thứ, lúc đó con tôi hơn 2 tuổi. Nói xong, chúng tôi lại ra sau vườn, ở đó có một cái chuồng lợn. Tôi sử dụng phương pháp tam đoạn thức. Tôi chỉ vào con lợn nói: “Lợn, lợn”. Tôi lại hỏi: “Đây là con gì?”. Cháu nói: “Lợn”. Đến chiều, tôi nhớ đến thực nghiệm này, liền bế con đến chỗ con bò, hỏi: “Đây là con gì?”. “Không biết”. Tôi lại bế con ra chuồng lợn: “Đây là con gì?”. “Lợn”. Thật là hiệu nghiệm! Sau đó tôi thường bế con ra ngoài, dùng phương pháp “tam đoạn thức” để dạy con, cháu nhớ rất tốt. Nếu không dùng phương pháp này thì cháu quên nhiều hơn, nhớ ít hơn. Đây có thể là một trong những nguyên nhân khiến cho khái niệm của con trẻ không rõ ràng.

    “Rõ ràng” là một cách hay để dạy con trẻ. Nó bóc tách từ ngữ, chỉ thẳng vào đối tượng. Nó loại bỏ những “sóng nhiễu” xung quanh đối tượng chú ý, trực tiếp chỉ ra từ ngữ chính của hoàn cảnh tức thời. Làm nổi bật từ ngữ chính, bỏ qua những thứ vặt vãnh chung quanh - phương pháp này vô cùng đối ứng với đặc điểm “ngôn ngữ điện báo” trong thời kỳ đầu của con trẻ.

    Một giáo viên Montessori ưu tú sẽ không có một lời thừa nào. Cô giáo dài dòng lôi thôi sẽ khiến con trẻ rối loạn, bởi vì cô không cách ly con trẻ với khái niệm cần nắm bắt, cô cũng không thể biết trẻ đang chú ý vào câu nói nào của mình. Ví dụ nói về màu sắc, khi tôi đến một trường mầm non ở Bắc Kinh, một cô giáo đang giảng: “Các con nhìn đây, đây là quả bóng bay màu đỏ… các con nhìn xem lớp chúng ta có những màu gì?”. Lúc thì lớp học, lúc thì quần áo, lúc thì…, con trẻ không thể hiểu sao mà lại lắm khái niệm đến thế? Tất cả lộn xộn hết lên.

    “Rõ ràng” là phương pháp quan trọng nhất trong giáo dục Montessori, phương pháp này cố gắng cách ly một khái niệm với những sự vật khác. Cũng giống như việc ta sắp đũa khi ăn cơm, chúng ta muốn dùng những đôi đũa để xây dựng khái niệm số cặp ở trẻ, nhưng con trẻ lại tập trung toàn bộ sự chú ý của mình để xem ai còn thiếu đũa chứ không hề tập trung vào bản thân con số. Điều này đã đi chệch khỏi mục đích, cũng chính là những “thứ thừa” trong mục đích giáo dục vốn dĩ của chúng ta.

    Trí nhớ của con trẻ rất lạ lùng, giống như những bức tranh âm tiết mà chúng tôi đã nói ở trên. Chữ “A” trong bức tranh bác sĩ cầm ống nghe, một em bé há miệng rất to: “A…”. Chữ “O” trong bức tranh con gà trống. Chữ “E” trong bức tranh em bé. Khi chúng tôi chỉ vào chữ “A”, các con nói “Ống nghe!”, chỉ chữ “O” hỏi: “Đây là chữ gì?”. “Con gà trống”. Chỉ chữ “E”, các con nói “Em bé!”.

    Dùng tranh trợ giúp trí nhớ là phương pháp ghi nhớ có tính phụ trợ, có ích cho người già, có ích cho người có trí nhớ kém, người có bộ óc đã chịu tổn thương mà không hề có bất cứ ích lợi nào cho con trẻ. Không những là không có ích, mà còn đem lại hậu quả tệ hại, đều là những “thứ thừa”. Vì thế, trường chúng tôi đã dán giấy trắng che đi toàn bộ phần hình ảnh, rồi mới hỏi: “Đây là chữ gì?”. Trẻ đáp: “A”. “Đây là chữ gì?”. Trẻ nói: “O”. “Đây là chữ gì?”. Trẻ nói: “E”. Trẻ được trực tiếp nhìn thấy bản thân chữ cái, từ đó trở đi, nếu trẻ thấy chữ trên ti vi, trên màn ảnh rộng, cho dù là chữ gì, trẻ cũng sẽ nói: “Đây là chữ cái”. Rõ ràng trẻ hiểu được chữ cái là một ký hiệu trừu tượng, trẻ đã xây dựng được khái niệm “chữ cái” cho mình.

    Tôi xin nói thêm một mẩu chuyện vui về phương pháp ghi nhớ có tính phụ trợ. Bức tranh dạy chữ “Q” vẽ hai mẹ con trâu nghé đang đi dạo bên một gốc cây và đống rơm, xa xa là những ngôi nhà, núi non…, nói chung là phong cảnh làng quê. Rất nhiều đứa trẻ vừa nhìn thấy đã bảo con trâu. Có thể lúc này trẻ đang ở thời kỳ nhạy cảm, thích thú với những con vật, nên không hề để ý đến những thứ xung quanh. Những đứa trẻ lớn hơn thì lại nói “Nhà”… Thật là hay ho! Tôi nghĩ, không có ai giải quyết vấn đề này? Chỗ nào cũng có lời thừa, vật thừa. “A” phải chính là “A”, “O” phải chính là “O”, “Q” phải chính là “Q”.

    Giáo viên của chúng ta soạn giáo án, viết mục tiêu dạy học, viết phương pháp dạy học, nhưng dạy học thực sự là thế nào? Một hôm, tôi bảo con thao tác “thẻ số”, con thao tác một lượt với tốc độ nhanh nhất, rồi nói với tôi: “Được chưa mẹ? Con cất đi nhé?”. Ý của con là: Mẹ đã vừa ý rồi chứ! Tôi nói: “Mẹ dạy hay là con tự học được điều này?”. Con tôi nói: “Con tự học ngày kia”. Con tôi còn chưa biết cả hôm qua, hôm kia, ngày kia, thì tôi nên dạy toán cho con như thế nào?

    Có lần trong phòng học, một bé 2 tuổi đi thẳng tới, khuôn mặt không hề biểu lộ cảm xúc, đặt phịch mông xuống, ngồi cả lên tấm thảm làm việc của em bé phía sau. Em bé này đang đổ đầy bản cắm đinh ra đất, thấy vậy thì lấy bàn chân nhỏ xíu đạp vào mông bé đằng trước. Đạp một cái, em bé chúi về phía trước một tí, rồi đạp liền mấy cái, nhưng dù có đạp thế nào, em bé vẫn ngồi yên ở đó mân mê mấy con số của mình, “8”, “5”… liên tục như thế. Sau đó em bé kia phát hiện có đạp cũng không ích gì, đành mặc kệ. Em bé 2 tuổi vẫn hoàn toàn không biết gì, vẫn ở đó mà mân mê thẻ số… Đây thật là một cảnh tượng mê đắm lòng người! Hóa ra, khi học tập trẻ em có thể tập trung đến vậy. Thật là đẹp!

    Khi thu dọn đồ dùng dạy học, tôi đặt theo thứ tự: “10”, “9”, “8”…, em bé thấy vậy, lại xếp ngược lại. Xếp “1” ở đầu tiên, rồi “2” cho đến hết thì mới vừa ý. Như vậy, “trật tự” của em bé này đã được thiết lập.

    Điểm quan trọng thứ ba trong việc dạy học là “khách quan”. Montessori nói: “Trong lúc giảng bài, người giáo viên không được thể hiện cá tính của mình mà phải làm nổi bật đối tượng khách quan mà học sinh đang chú ý tới”. Ví dụ khi cho trẻ nhận biết màu sắc, chúng ta chỉ hướng sự chú ý của trẻ tập trung vào màu sắc, tránh việc trẻ chú ý tới giáo viên. Bởi vì tính cách và thói quen của mỗi giáo viên là khác nhau. Tôi phát hiện các bé ở trường chúng tôi có các hành động tương tự một số hành động của cô giáo. Sau đó, tôi quan sát kỹ hơn, do trong trường có cô để tóc dài, khi làm việc, tóc cô thường xõa xuống phía trước nên phải lấy tay vuốt ra phía sau. Lâu dần, các bé cũng học theo cô y như vậy. Vì thế tôi yêu cầu các cô phải búi tóc lên, vì khi các cô đang làm việc, nếu tóc tai lòa xòa, sẽ xao nhãng sự chú ý của các bé. Khi tính năng động của các cô quá mạnh, các bé không đạt được trạng thái khách quan. Tại sao giáo dục Montessori lại yêu cầu các cô phải quỳ thế nào, ngồi xếp vòng tròn ra sao, yêu cầu tất cả mọi động tác đều phải nhất quán. Điều này hoàn toàn là để quy phạm mọi hành vi của giáo viên.

    Ngay cả việc đi bộ, mỗi cô có dáng đi khác nhau, dáng đi của mỗi lớp cũng khác nhau, có cô đi bước dài khiến học sinh đi như chạy theo sau, có cô đi khá chậm, nên các bé trong lớp cũng đi chậm theo. Khi ra đến ngoài, mỗi lớp đi một kiểu khác nhau.

    Con trẻ đang phát triển. Khi con trẻ không đạt được khả năng của người lớn, chúng sẽ nhìn bạn, mô phỏng bạn và tiếp thu bạn. Giống như việc làm bánh sủi cảo của người Trung Quốc, có đến 90% kiểu dáng bánh của bạn là giống với bánh mẹ làm. Rất nhiều thói quen, phương thức hành vi của chúng ta được hình thành từ ngày nhỏ, sẽ được sử dụng trong suốt cuộc đời mà bạn không hề có cảm nhận trên tầng diện ý thức. Những thói quen và phương pháp này có thể đến từ môi trường của tuổi ấu thơ, mà ngay cả bản thân chúng ta cũng không hề biết.

    Vì thế tôi yêu cầu giáo viên hết sức khách quan. Khách quan đến mức nào? Vứt bỏ hoàn toàn tất cả những thói quen không văn minh của các cô! Đừng có cho rằng quan niệm về đạo đức, giá trị, thẩm mỹ của các cô đều chính xác, và càng đừng bao giờ có ý đồ áp đặt lên con trẻ. Ngay như việc đi vệ sinh, tôi đã đến rất nhiều trường mầm non hàng đầu, trẻ phải đi vệ sinh ở một phòng chung, nhiều lúc còn có cả cô giáo đứng ở đó. Đứa trẻ nào cũng có tính xấu hổ bẩm sinh, con trẻ không thích có người đứng bên cạnh hay bị ai nhìn thấy khi đang làm những việc này. Nhưng không có ai tôn trọng điều này, người lớn không cảm thấy làm thế sẽ tạo ra những hậu quả gì. Hãy nhìn thế giới của những người lớn mà xem, khạc nhổ bừa bãi, lớn tiếng xì mũi giữa bao nhiêu người, đâu có khác gì với việc đi vệ sinh ngay trước đám đông? Chúng ta đang phá hoại cảm giác xấu hổ của cả một lớp người kế tiếp.

    Nghĩ cho kỹ, chúng ta chỉ còn cách cẩn thận kiểm điểm lại bản thân, cố gắng khắc phục mọi thành kiến, nhược điểm, và tầng ý thức thấp, cố gắng hết khả năng để nói những lời hay nhất, làm những hành động đẹp nhất trước mặt trẻ, mới có thể gọi là khách quan.

    Một giáo viên tốt phải tổ chức tốt trật tự ở lớp, tạo cho con trẻ trạng thái khách quan để thoải mái làm việc không bị quấy nhiễu. Khi dạy học có thể sẽ xảy ra những tình huống như, con trẻ không có cảm hứng thì phải làm thế nào? Dừng lại. Trẻ có sai không? Không sai. Tuyệt đối không được nói “Con ngu (ngốc) lắm”, cũng không được ám thị trẻ. Vì con trẻ không có hứng thú với việc này, nên không được khiển trách trẻ. Montessori yêu cầu giáo viên nắm vững hai điểm: Một là, trong những trường hợp thế này thì trẻ không cần phải tiếp tục; hai là, đừng để trẻ cảm thấy mình đã sai, hoặc trẻ cảm thấy không hiểu vấn đề này. Chỉ có như vậy chúng ta mới có thể chờ đợi thời cơ, đến khi con trẻ có hứng thú sẽ tìm hiểu vấn đề này. Sự tự tin của con trẻ được xây dựng từ việc nắm chắc khả năng của mình, chứ không phải từ việc so đo trí thông minh của mình với người khác, bởi vì bạn mãi mãi không thể so trí thông minh của mình với bất cứ ai. Tự nhiên ban tặng cho mỗi người chúng ta một đặc tính độc đáo khác nhau, chúng ta không cần phải tự ti khi thấy bản thân mình kém hơn so với người khác về một điều gì đó, chúng ta phải phát triển bản thân mình, thì thế giới này mới trở nên phong phú và nhiều màu sắc. Hãy để con trẻ được phát triển bản thân mình trong một môi trường trật tự, đó chính là một thái độ khách quan vô cùng tuyệt vời.

    Montessori từng kể một câu chuyện có tên “Người chú triệu phú của tôi”. Người chú tên là Fufu, khi học mầm non, trong một lần đang định ăn cơm thì phát hiện ra một bạn gái đang rất đói nên đã ấn phần cơm của mình vào tay cô bé kia và chạy đi. Sau khi chạy khỏi chỗ bạn gái vài bước thì đưa hai cánh tay lên che mắt. Lần đầu tiên Fufu có cảm giác xúc động, một sự xúc động lương thiện, Fufu không biết phải diễn đạt cảm giác ấy thế nào nên đã chạy đi. Cô bé kia đi đến, kéo tay Fufu xuống, hôn cậu một cái, Fufu cũng thuận theo, hôn và ôm cô bé kia. Montessori nói: “Lúc này lần đầu tiên Fufu cảm nhận được sự xúc động lương thiện”. Nhưng đúng vào lúc đó, cô giáo đang đứng ở đằng xa rít lên những tiếng chói tai: “Hai con đang làm gì thế hả? Về lớp học ngay”. Montessori nói: “Cảm giác xúc động lần đầu tiên của đứa trẻ đã bị giọng nói thô bạo kia bóp nghẹt”.

    Montessori nói, sự gợi ý, khai sáng của cô giáo tương đương với điều gì? Giống như một người đang đi dạo bộ trong rừng sâu, yên tĩnh, vui vẻ, trầm tư, mặc cho thế giới nội tâm của mình từ từ hé mở. Lúc này, từ xa vẳng đến tiếng chuông du dương nhịp nhàng, tiếng chuông ấy thức tỉnh bạn, khiến bạn cảm nhận rõ ràng hơn sự tĩnh lặng và nét đẹp của nơi này. Sự gợi ý, khai sáng của người lớn chính là tiếng chuông giúp cho những cảm giác mông lung của con trẻ trở nên rõ rệt.

    Tuy rằng trẻ em có một tiềm năng to lớn, nhưng trẻ cần một quá trình phát triển từ từ. Quá trình ấy cần sự gợi mở của người lớn. Đồ dùng dạy học chính là công cụ để những năng lực tiềm tàng của trẻ được thực thể hóa, đồ dùng dạy học là môi trường tự nhiên của trẻ. Nếu các cô mượn đồ dùng dạy học của trẻ, thì nhất thiết phải trả từng đồ dùng về đúng vị trí. Nếu đồ dùng dạy học không về đúng vị trí, liệu cô giáo có đủ năng lực để sáng tạo ra những đồ dùng dạy học tốt hơn không? Nếu không, con trẻ sẽ không được sử dụng đồ dùng dạy học đúng mục đích, bởi vì trẻ không có được thứ mình cần thì trẻ sẽ “chơi” chứ không phải là “làm việc” với đồ dùng dạy học. Vì thế, thao tác đồ dùng dạy học cần phải chuẩn xác, như những linh kiện tiêu chuẩn của xe hơi, đây là yêu cầu đối với các cô, chứ không phải yêu cầu đối với trẻ. Đồ dùng dạy học chính là môi trường khách quan phù hợp với cơ cấu trưởng thành nội tại của trẻ.

    Montessori nói: “Người lớn chúng ta tưởng rằng có thể lấy lời nói tác động lên đôi tai của trẻ, có thể dùng hình ảnh tác động lên thị giác của trẻ, mang những câu chuyện về hoàng tử công chúa để phát triển sức tưởng tượng và sức sáng tạo của con trẻ, điều này là không thể”. Vậy thì, những câu chuyện cổ tích có thể mang đến cho trẻ những điều gì? Nếu con trẻ cảm nhận thế giới bằng cơ quan cảm giác chứ không từ sự truyền thụ bằng ngôn ngữ, thì chúng tôi cho rằng những câu chuyện cổ tích chỉ có một tác dụng, đó là tăng thêm lượng từ vựng và phát triển khả năng logic của con trẻ. Đây cũng là quá trình luyện tập ngôn ngữ, không liên quan gì đến quá trình phát triển sức sáng tạo. Các hành vi của giáo viên luôn được tiến hành dựa trên cảm giác của chính mình.

    Trong quá trình dạy học và nhiều trường hợp khác, khi trẻ chuyên tâm, có thể trẻ sẽ không làm đúng thứ tự một số chi tiết và kỹ năng đã được rèn luyện trong cuộc sống, lúc này, chúng ta không thể cứng nhắc nhất nhất đều theo những quy tắc hàng ngày. Bình thường, nếu trẻ quên đưa đồ dùng dạy học trở về vị trí, có thể chúng ta sẽ hỏi: “Con có quên việc gì không?”. Nguyên tắc của chúng tôi là không được mắng mỏ, mà chỉ nhắc nhở. Nếu bạn mắng mỏ trẻ, khi ở trước mặt bạn, trẻ sẽ đem trả mọi vật về vị trí cũ, nhưng khi bạn rời đi, thì mọi thứ vẫn y nguyên. Nếu như mỗi lần bạn đều nói với trẻ: “Con có quên việc gì không?”, đến khi con trẻ hình thành được thói quen, thì hành vi của trẻ sẽ hoàn toàn nhất quán mà không hề phụ thuộc vào việc bạn có mặt ở đó hay không, có như thế, trẻ cũng giữ được nhân cách nhất quán của mình. Quá trình rèn luyện trong cuộc sống hàng ngày, chủ yếu là để cô giáo “quan sát mọi thứ trở về vị trí”, tức là không ngừng nhắc nhở trẻ. Nhưng, một người giáo viên Montessori ưu tú phải hiểu trẻ, có thể phân biệt trạng thái của trẻ, biết được lúc nào nên tạm thời bỏ qua những nguyên tắc này.

    Tôi xin đưa ra một ví dụ, trường chúng tôi có một bé, một hôm, bé bỏ quên giày ngoài cửa, có thể vì khi ở ngoài cửa, bé nhìn thấy những bé khác đang thao tác đồ dùng dạy học rồi hoàn toàn chìm đắm trong việc quan sát ấy, bé có một sự hứng thú muốn ngay lập tức được thao tác những đồ dùng dạy học kia. Bé bỏ giày rồi vào lớp ngay, hào hứng tập trung vào công việc của mình. Cô giáo phát hiện giày đang ở ngoài cửa, liền bước tới nói: “Con có quên việc gì không?”. Em bé ngẩng đầu lên, cảm thấy rất lạ, vì bé đang rất tập trung vào công việc của mình nên đã quên mất chuyện đôi giày, cô giáo lại nói: “Con nghĩ lại cho kỹ xem, lúc nãy khi ở ngoài cửa...”. Lúc này, bé mới nhìn ra ngoài cửa sổ, thấy đôi giày thì đứng dậy đi cất về chỗ. Tôi có nói với cô giáo ấy thế này: “Nếu cô cứ thế này thì lớp cô sẽ không có được trạng thái tập trung”. Việc “quan sát mọi thứ trở về vị trí” trong quá trình rèn luyện của cuộc sống hàng ngày không phải là mục đích mà chỉ là một phương pháp dạy học, trong khi tất cả các phương pháp của chúng ta đều vì một mục đích là bồi dưỡng sự tập trung của con trẻ. Chúng ta không nên vì một quy tắc mà làm hỏng mục đích thực sự của cả quá trình dạy học, bởi vì tập trung là điểm mấu chốt để hình thành nên tất cả các phẩm chất của con trẻ.

    Tôi xin đưa thêm một ví dụ nữa. Một bé gái đang làm công việc của mình. Sự tập trung của bé đã lên đến đỉnh điểm, đến nỗi bé còn không biết nước mũi mình đang chảy. Khi nước mũi chảy xuống làm trở ngại công việc, bé chỉ cố hít mạnh vào. Cô giáo để ý thấy, lập tức đứng lên làm đứt đoạn công việc của bé, bảo bé đi lau mũi. Cô bé miễn cưỡng lấy tay lau nước mũi, cô giáo lại nói: “Mời con đi lấy giấy lau mũi”. Cô bé đành phải đi lấy giấy. May mà, lúc đó cô bé đã hình thành được phẩm chất tập trung, nếu không, rất có thể chính cô giáo đã làm hỏng kinh nghiệm này của bé.

    Quy luật và tính logic nội tại của đồ dùng dạy học được phát hiện một cách ngẫu nhiên và bất ngờ trong quá trình thao tác đồ dùng suốt một thời gian dài. Khi niềm vui ấy được hình thành, ngày mai con trẻ sẽ tiếp tục làm vậy. Nhưng, nếu chúng ta làm phiền con trẻ vào chính cái thời khắc con trẻ cảm nhận được niềm vui, thì kinh nghiệm ấy sẽ bị phá vỡ và không thể xuất hiện. Chúng ta đã biết quá trình hình thành kinh nghiệm là một quá trình vô cùng gian nan, nhưng lại rất dễ bị phá vỡ.

    Tôi còn câu chuyện khác về một em bé chuyên tâm thao tác đế cắm trụ tròn đã cả tiếng đồng hồ, bé đang sắp xếp đối ứng từng đôi một, rất có thể bé đã sắp sang giai đoạn thứ hai. Đây chính là quá trình phát triển trí lực. Nhưng đúng vào lúc đó, cô giáo lại bế bé lên nói: “Cô đưa con đi tiêm nhé!”, rồi bế bé đi. Em bé đã làm việc cả tiếng đồng hồ, chuẩn bị có kinh nghiệm thứ hai thì bị cô giáo làm đứt mạch công việc. Có thể phải cả tháng sau nữa, em mới lại có được kinh nghiệm này. Chúng ta thử nghĩ xem, nếu trong một tuần mà có đến ba lần xảy ra tình trạng trên thì chứng tỏ rằng cô giáo này đã thường xuyên làm vậy. Hậu quả là học sinh của lớp này rất khó bước vào trạng thái tập trung tinh thần.

    Trong các tình huống thông thường, sau khi vào trường khoảng hai tháng rưỡi, trẻ sẽ bước vào trạng thái tập trung. Chúng tôi không tính các em bé chuyển từ các trường truyền thống vào trong danh sách này, vì các bé đã bị ép buộc quá nhiều. Nếu một lớp quá ba tháng mà không bước vào trạng thái này, thì giáo viên của lớp đó sẽ phải kiểm điểm lại mình, xem xem cô có từng làm phiền, từng ám thị, từng ép buộc trẻ, xem xem liệu có phải cô chưa cho trẻ được tự do, hoặc là, cô chưa yêu trẻ hay không.

    Một ví dụ khác, trong thao tác ổ cắm trụ tròn, chúng tôi có mấy khái niệm sau: cao thấp, to nhỏ, thô mịn. Khi trẻ tiếp xúc đồ dùng dạy học này, một giáo viên Montessori ưu tú sẽ nói: “Mời con đưa cho cô cái thô nhất!”. Nếu con trẻ chưa hiểu được khái niệm này của bạn, trẻ sẽ chưa thể thao tác với đồ dùng dạy học này. Với mỗi lần thao tác của mỗi loại đồ dùng dạy học chỉ được đưa vào một khái niệm, tuyệt đối không được đưa vào từ hai khái niệm trở lên.

    Khi dẫn lớp, mỗi tuần mỗi lớp chỉ nên thêm một đến hai học sinh. Việc đầu tiên khi trẻ đến trường mầm non là để cho trẻ làm quen với nhà vệ sinh, các cô sẽ làm mẫu cho trẻ việc cởi quần, vệ sinh, sau đó dẫn trẻ đến phòng ngủ. Việc thứ hai là dẫn trẻ đi làm quen với quang cảnh của toàn trường. Khi trẻ quen với toàn cảnh của trường, trẻ sẽ có cảm giác an toàn. Trong tuần đầu tiên trẻ sẽ chưa thể làm việc, mà thường dạo chơi trong và ngoài trường. Với những trẻ quá sợ trường mầm non, cô giáo sẽ dẫn trẻ đi ra phố, đi siêu thị, ra công viên, dẫn trẻ đi quan sát khắp các nơi. Tại sao lại phải dẫn trẻ ra cả bên ngoài trường? Bởi vì con trẻ có một tiềm thức, có thể trẻ sẽ nghĩ rằng, bước vào trường mầm non là không thể ra ngoài? Trẻ đang có cảm giác sợ hãi những nơi lạ lẫm

    Sau khi có được cảm giác an toàn với trường mầm non, trẻ sẽ vào phòng học. Cửa lớp học luôn luôn mở để trẻ cảm thấy có thể ra vào thoải mái. Sau khi vào lớp, bước đầu tiên là nghe giáo viên đọc, sau đó ngồi yên lặng. Việc đọc luôn bắt đầu cho một ngày, cũng là một trong những nội dung quan trọng nhất. Tiếp sau là ngồi yên lặng. Chúng ta đã từng đọc được rất nhiều rằng, ngồi yên lặng mở mang trí tuệ và năng lực của con người. Ngồi yên lặng xong, chúng ta phải nói với các con, sau khi dùng xong, mọi đồ đạc phải quay về vị trí. Bài luyện tập trong cuộc sống hàng ngày là “trả về vị trí”. Bài học chủ đề “trả về vị trí” này thường được kéo dài trong một tuần. Tuần này giáo viên chủ yếu quan sát trẻ tự do hoạt động. Trẻ muốn làm gì cũng được, chỉ cần trẻ không làm phiền người khác và trẻ không có hành vi mất lịch sự. Có lúc, trẻ sẽ đi giằng đồ dùng dạy học của một bé khác, lúc này cô sẽ cho trẻ khái niệm ai lấy trước thì thuộc về người đó, những người còn lại phải chờ đợi. Nói với trẻ khái niệm “chờ đợi”, bởi vì trong cuộc sống chắc chắn xảy ra vấn đề này. Chúng tôi phát hiện ra rằng, học được cách “chờ đợi” sẽ mang đến cho trẻ những lợi ích rất bất ngờ, học được cách “chờ đợi”, trẻ có thể giải quyết rất nhiều vấn đề và từ đó xây dựng những thói quen đạo đức tốt đẹp.

    Ví dụ mấy đứa trẻ cùng tranh nhau một đồ dùng dạy học hoặc một thứ nào đó, lúc này cô giáo phải tìm hiểu “ai cầm trước tiên”. Chắc chắn, bé nào cầm lấy trước tiên sẽ nói “Con cầm trước tiên”. Cô giáo sẽ nói với các trẻ còn lại: “Bạn ấy cầm trước nên sẽ dùng trước, mời các con chờ đợi”. Từ ngữ của cô giáo cũng phải quy phạm, không thể hôm nay nói “chờ đợi”, ngày mai lại nói thành một từ khác. Việc cần làm tiếp theo của giáo viên là quan sát trẻ thật tỉ mỉ. Trẻ muốn lấy đồ dùng dạy học nào cũng được, nhưng sau khi thao tác xong phải trả về vị trí để rèn luyện thói quen này. Cũng có thể lúc mới bắt đầu, trẻ vẫn chưa trả đồ vật về vị trí, có thể trẻ còn quên mất mình đã lấy đồ dùng dạy học đó từ chỗ nào. Lúc này, chúng ta nên luyện tập trò chơi “trả về vị trí”, nhưng không được ép buộc trẻ, nên để trẻ dần dần điều chỉnh. Giáo viên cũng có thể thông qua quy tắc trò chơi để trẻ ghi nhớ vị trí, phương hướng của đồ dùng dạy học. Cũng có thể, có những trẻ không hiểu thế nào là “trả về vị trí”, thì cô giáo sẽ cầm đồ dùng dạy học của trẻ lên, nói: “Cô dẫn con ra”. Khi “trả về vị trí”, cô giáo phải nói ra từ này, để trẻ ghép đôi lời nói và hành động, lặp đi lặp lại như thế, con sẽ hiểu thế nào là “trả về vị trí”.

    Cũng có trẻ sau khi vào phòng học thì ném hết mọi đồ dùng dạy học xuống đất. Lúc này hai cô giáo tuyệt đối không được đi ra chỗ khác. Ví dụ trong lớp có năm học sinh mới, trong đó có hai bé “đại náo thiên cung”. Một giáo viên phải ở lại lớp quan sát ba học sinh còn lại, một giáo viên sẽ dẫn hai bé kia ra ngoài chơi. Nếu tình trạng của cả mấy em đều không tốt, thì cả hai giáo viên sẽ cùng dẫn các em ra nhận biết thế giới bên ngoài. Sau khi dạo chơi ở bên ngoài, sẽ có học sinh tự giác quay trở về lớp. Sau khi vào lớp, cũng sẽ vẫn có bé lại vứt toàn bộ đồ đạc xuống đất, lúc này cô giáo không thể bảo bé trả về vị trí, cũng không được nói nhiều, chỉ nói: “Chúng ta phải trả về vị trí”, rồi giúp trẻ trả đồ vật về vị trí. Lòng nhẫn nại và tình yêu thương là một trong những tố chất cần có của người giáo viên Montessori. Các cô phải tin là sau những hỗn loạn thuở ban đầu, ánh sáng của trật tự sẽ đến trong yêu thương và tự do.

    Còn nữa, giáo viên nhất thiết phải nói với cha mẹ các em là tại sao phải làm như vậy, để họ cùng phối hợp. Bởi vì chỉ có một cách để trẻ yên tĩnh, đó chính là tự do. Trường chúng tôi từng có một trẻ, hiếu động y hệt một con khỉ, không bao giờ chịu ngồi yên, lúc thì ngồi trên bàn, trên tủ, trèo lên hàng rào. Cô giáo cho bé hoàn toàn tự do, một, hai tháng sau, bỗng có một hôm, bé ngồi yên tĩnh bên cầu thang, tay để yên trên đùi. Chỉ khi đôi tay của một đứa trẻ yên tĩnh, trẻ mới có thể dần dần trở nên yên tĩnh.

    Sau khi trẻ luyện được thói quen này, việc rèn luyện trong cuộc sống hàng ngày có thể tiến hành sang một nội dung khác. Rèn luyện phải bắt đầu từ chính cuộc sống của trẻ. Ví dụ như việc cầm cốc uống nước, bê bát ăn cơm, đi vệ sinh… Quá trình rèn luyện những thói quen trong cuộc sống này là bài tập chủ đề được bắt đầu vào mỗi buổi sáng hàng ngày. Bài học chủ đề không được quá mười phút, cô giáo không được “diễn giảng”, mà phải tiến hành với vật thực và tình huống thực tế. Sau bài học chủ đề giáo viên phải quan sát xem học sinh nắm được bao nhiêu phần. Một tuần sau, nếu tất cả các em đều nắm vững nội dung của bài học chủ đề, nhưng chưa được thực hiện, thì tuần sau nữa chúng ta vẫn tiếp tục nội dung này và chỉ thêm vào một nội dung mới. Chỉ khi nào nội dung này được thực hiện, mới tiếp tục nội dung rèn luyện khác.

    Quá trình này vô cùng chậm chạp, nhưng không được sốt ruột. Ví dụ rèn luyện “giấy phải bỏ vào thùng giấy”, không được chỉ nói mỗi một câu này với con trẻ, như thế sẽ không có tác dụng. Cô giáo nên cầm một tờ giấy, lau nước mũi, rồi mang ra thùng giấy, nói với trẻ đây là thùng giấy, rồi dùng một động tác cường điệu vứt giấy vào đó. Sau khi con trẻ hiểu được khái niệm, giáo viên phải quan sát hành vi của trẻ để xem khái niệm đó đã được thực thể hóa hay chưa? Khi con trẻ vứt giấy bừa bãi, giáo viên nói với trẻ: “Con quên mất việc gì nhỉ?”. Sau vài lần lặp lại như vậy, trẻ sẽ vĩnh viễn xây dựng được trật tự này.

    Phải đối xử với đồ đạc của người khác như thế nào? Cô giáo phải nói với trẻ: “Không được lấy đồ của người khác”. Chúng ta cũng phải tôn trọng đồ đạc riêng của trẻ, bao gồm cả việc chia sẻ, hưởng thụ. Nếu trẻ không đồng ý đưa đồ của mình cho người khác, thì không ai có quyền ám thị hoặc ép buộc trẻ đưa đồ của mình, cũng không được dùng lời khen và sự tán tụng để kích động trẻ đưa đồ của mình cho người khác. Bởi vì lúc này chính là thời kỳ nhạy cảm của cảm giác “tư hữu tài sản” ở trẻ, ép con trẻ đưa đồ đạc riêng của mình cho người khác cũng không khác gì dạy trẻ ngang nhiên lấy đồ không phải của mình.

    Nếu con trẻ giữ chặt đồ của người khác, cô giáo nên nói với trẻ “Không được giữ đồ của người khác”, nếu con không nghe, cô giáo sẽ lấy lại vật đó trả cho bạn kia. Không cần giảng giải đạo lý, có thể cho phép trẻ khóc hoặc tức giận một lúc. Nhưng sau vài lần như vậy, con trẻ sẽ tự rút ra là không được lấy đồ của người khác. Người lớn thường dùng ngôn ngữ để dạy dỗ trẻ con, nhưng điều đó không có tác dụng. Nhưng trong quá trình lặp đi lặp một hành động, trẻ sẽ tự hình thành kinh nghiệm của bản thân mình.

    Nếu đã hoàn thành tất cả các công việc nói trên, các cô sẽ xây dựng cơ sở quan trọng nhất để tiến thêm một bước quan sát trạng thái tâm lý của trẻ, trật tự của trẻ đã được hình thành ở trường học.

    Sau khi vào trường một tháng, trẻ đã có thể bắt đầu thao tác đồ dùng dạy học, lúc này không cần giúp đỡ trẻ, vì khi chưa tập trung, trẻ vẫn coi đồ dùng dạy học như một trò chơi. Giáo viên chưa cần uốn nắn, mà trước hết cần nuôi dưỡng cho trẻ sự tập trung, khi trẻ đạt đến sự tập trung mới bắt đầu chỉnh lại các thao tác với đồ dùng dạy học. Con trẻ thích làm việc hơn chơi, chơi không có mục đích trí lực, sau khi trò chơi kết thúc trẻ không có cảm giác thành tựu, cảm giác thành tựu chỉ đến khi trẻ kết thúc công việc của mình.

    Montessori đã nói, tất cả những bé khi bước vào trường mầm non đều có bước chuyển về tâm lý, vì thế hai, ba tháng đầu là thời kỳ chỉnh sửa, quá trình này không cần phải tiến hành nghiêm khắc theo quy trình. Con trẻ muốn chơi thì chơi, muốn làm việc thì làm việc. Ví dụ có trẻ mới đến trường không chịu vào phòng học, một tháng sau trẻ vẫn đứng ở cửa lớp xem, vài ngày sau, trẻ đã ngồi xuống ngoài cửa lớp để xem, lại vài ngày sau nữa trẻ mới cởi giày vào lớp. Khoảng thời gian này, cô giáo không được ép buộc trẻ, không được làm trẻ sợ, như thế trẻ mới có thể tự mình dần dần chủ động.

    Bài học chủ đề thường kéo dài từ mười đến mười lăm phút. Nội dung chính của bài học chủ đề là nói cho trẻ những quy tắc của cuộc sống hàng ngày, nếu thời gian quá dài sẽ sinh ra cảm giác nhàm chán. Có những trẻ không muốn tham gia giờ học chủ đề thì không nhất định phải ép trẻ ngồi ở đó, trẻ có thể đi ra những chỗ khác, cũng có thể đến phòng học lấy đồ dùng dạy học. Trong trò chơi yên tĩnh, nếu con trẻ không đủ yên tĩnh cũng không sao, bởi vì trẻ đang dần dần đạt đến sự yên tĩnh, nếu thúc ép có những trẻ sẽ giả vờ yên tĩnh để tự bảo vệ mình. Đối với những trẻ không chịu yên tĩnh, chúng ta phải từ từ, vì trẻ có một kiểu ý thức “tập thể”, trẻ cảm nhận được nên khống chế bản thân. Khi trẻ tạo ra âm thanh trong một môi trường yên lặng, trẻ sẽ cảm thấy mình đã phá vỡ không khí của nơi này. Không ai muốn phá vỡ không khí tự nhiên, cũng giống như trong một buổi lễ, khi người dẫn Chương trình đang nói về một việc rất nghiêm túc, chắc chắn bạn sẽ không thể đùa cợt hoặc pha trò với mọi người. Nhìn chung, chúng ta tự biết khống chế bản thân mình, con trẻ cũng vậy, cũng sẽ tự động khống chế bản thân mình cho phù hợp hoàn cảnh.

    Nếu trẻ không thể khống chế bản thân mình cũng không sao, Montessori đã nói trong sách của bà rằng, khi cô giáo nói “Mời các con yên tĩnh, bây giờ chúng ta chơi trò yên tĩnh”, có một bạn nhỏ cố ý phát ra tiếng động, kết quả là khiến cho các bạn khác bật khóc. Thực ra, bạn nhỏ này chỉ đang làm một thực nghiệm về “đúng” và “không đúng” nên cố ý thử mà thôi. Lúc này, cô giáo chỉ nên cười xòa cho qua và tiếp tục công việc của mình. Khi con trẻ hiểu được yên tĩnh và không yên tĩnh, trẻ sẽ cố ý tạo ra sự không yên tĩnh, để cảm giác rõ hơn tình huống này. Cũng giống như khi tôi nói với con tôi “Tay con bẩn lắm, đừng động vào áo mẹ”, cháu càng cố ý sờ, nhưng sau một, hai lần như vậy, cháu sẽ không làm thế nữa, thậm chí còn nhắc nhở mẹ.

    Dành cho trẻ sự khoan dung nhất định phải khoan dung đến độ cho phép trẻ cố ý phá hoại chút xíu, để trẻ cảm nhận đúng và sai. Con trẻ không giống như người lớn, người lớn cảm thấy đúng là đúng, sai là sai, nhưng trẻ em cần phải cảm nhận. Đây là một kiểu tâm lý của trẻ, những lúc này chúng ta chỉ cần cười xòa cho qua là đủ. Hoặc có cô giáo lại ôm bé vào lòng nói: “Con biết như thế đúng hay sai mà”. Cả con trẻ cũng cười, trẻ biết là cô hiểu mình.

    Ngồi yên lặng cần một quá trình lâu dài, không được bắt ép trẻ, vì khi bị bắt ép, trẻ sẽ ghét hoạt động này. Trẻ sẽ nghĩ về việc ngồi yên lặng hàng ngày giống như một công việc khổ sai.

    Sau đây là những việc mà giáo viên cần chú ý khi đứng lớp:

    1 - Trước khi bắt đầu, giáo viên phải quyết định mình sẽ làm việc trên bàn hay trên thảm. Ví dụ “trò chơi của số 0”, có mấy trẻ cùng tham dự. Đầu tiên, giáo viên phải biết mình làm việc ở đâu, trẻ sẽ tự quyết định công việc của mình, trẻ có thể làm ở chỗ trẻ muốn, nếu không thích hợp, trẻ sẽ tự điều chỉnh.

    2 - Ngồi bên phải trẻ.

    3 - Để con trẻ dễ hiểu, khi gợi ý cho trẻ, động tác của giáo viên phải chậm rãi, rõ ràng. Trong quá trình thao tác đồ dùng dạy học, tất cả các động tác đều phải chậm.

    4 - Giáo viên phải đặc biệt nhấn mạnh phương pháp khơi gợi ở những điểm cần trẻ tập trung sự chú ý. Có rất nhiều phương pháp khơi gợi. Mục đích của tất cả những phương pháp này là hướng trẻ tập trung sự chú ý trên các đồ dùng dạy học trong một thời gian dài.

    5 - Ngôn ngữ khơi gợi phải xác đáng. Nếu động tác không đủ để nhắc nhở trẻ, bất đắc dĩ phải chèn thêm lời thì nhất thiết phải ghi nhớ câu Montessori đã nói: “Chúng ta nhất định phải cách ly sự chú ý của trẻ vào một cảm giác”. Chúng ta phải làm được điều này trong trường hợp dùng ngôn từ để nhắc nhở trẻ.

    6 - Lời nói phải đơn giản ngắn gọn, phát âm bình thường. Trong lớp học Montessori, người ta không nghe thấy tiếng của giáo viên, cho dù là tiết học buổi chiều, cũng rất ít lời của giáo viên. Montessori nói: “Không nói một câu thừa”, bởi vì rất có thể lời nói của cô sẽ làm đứt đoạn sự chú ý của các trẻ, khiến trẻ liên tưởng đến nhiều thứ.

    7 - Trong quá trình khơi gợi, từ đầu đến cuối động tác của giáo viên cần chắc chắn. Động tác chắn chắn để con trẻ có thể sản sinh ra một khái niệm rõ ràng chính xác về sự vật. Chắc chắn là vô cùng quan trọng.

    8 - Trong quá trình khơi gợi phải chú ý vẻ mặt của trẻ. Một giáo viên xuất sắc khi đến lớp, công việc đầu tiên sẽ là quan sát học sinh như Montessori nói: “Giống như một nhà thiên văn học quan sát thiên thể”.

    9 - Trong quá trình khơi gợi phải phán đoán chính xác về việc trẻ có cần tiếp xúc với đồ dùng dạy học hay không.

    10 - Khi khơi gợi phải hướng trẻ chú ý đến chỗ kiểm soát sai sót (mỗi đồ dùng dạy học đều có chức năng tự sửa chữa).

    11 - Sau khi khơi gợi hãy nói những lời khuyến khích. Sự khuyến khích này không phải là lừa gạt trẻ, cô giáo chỉ nói: “Con có muốn tự làm không?”. Đưa ra vấn đề để tăng thêm khát vọng của con trẻ với công việc.

    12 - Sau khi khơi gợi tạo cho con trẻ cơ hội thao tác, giáo viên đứng bên cạnh quan sát.

    13 - Giáo viên đã có thể phân biệt trẻ đang chơi và trẻ đang làm việc. Chơi không có ý nghĩa gì, sau khi chơi con trẻ không thu nhận được điều gì, và bản thân con trẻ cũng không thích chơi. Trạng thái của một đứa trẻ tốt hay xấu là phụ thuộc vào người giáo viên. Khi con trẻ không có việc gì làm, thần thái mơ màng, người giáo viên phải gợi ý cho trẻ. Khi không có lòng tin với đồ dùng dạy học, trẻ muốn từ bỏ, sự khơi gợi của giáo viên sẽ giúp ích cho trẻ. Nếu giáo viên tạo ra một không khí không tốt, con trẻ sẽ dễ bị hỗn loạn. Con trẻ rất thích phát hiện ra quy luật và logic nội tại qua một sự vật, điều đó mang đến niềm vui cho con trẻ. Nếu giáo viên không đem đến cho con trẻ những tác động tích cực, tất sẽ là tác động tiêu cực. Trạng thái đích thực của con trẻ nên là: Ngồi ở đó làm việc lâu dài. Trạng thái này xuất hiện hay không được quyết định bởi trình độ của giáo viên cao hay thấp. Montessori nói giáo viên là người khơi gợi, người quan sát, người bảo vệ môi trường, chứ không cần phải dạy học sinh làm thế nào.

    14 - Trạng thái “du ngoạn trong trí tưởng tượng” của con trẻ sẽ biến đồ dùng dạy học thành trò chơi. Nếu con trẻ không thể bước vào trạng thái tập trung, thì cũng không được làm phiền trẻ, cứ để trẻ chơi.

    15 - Khi sửa chữa lỗi của học sinh phải hết sức thận trọng. Phát hiện ra học sinh đúng hay sai chính là mắt xích quan trọng trong công việc của giáo viên.

    16 - Tạo cho trẻ cơ hội được lặp đi lặp lại một hoạt động nào đó, không được ép trẻ.

    17 - Khi con trẻ đưa ra câu hỏi, giáo viên phải có câu trả lời thích đáng, chuẩn xác. Nếu giáo viên không hiểu vấn đề mà giải thích lung tung, giáo viên sẽ phá hỏng khả năng tìm hiểu vấn đề này của con trẻ.

    18 - Kết thúc công việc nhắc nhở trẻ cách thu dọn, chỉnh lý đồ dùng dạy học. Điểm này không hoàn toàn phù hợp với tinh thần của phương pháp giáo dục Montessori. Khi giảng về những giai đoạn phát triển của trẻ em, bà đặc biệt nhấn mạnh, khi mức tập trung của trẻ đã đạt đến một trạng thái nào đó, sau khi thao tác đồ dùng dạy học trẻ không cần thu dọn. Lúc này, trẻ cần thời gian để chỉnh lý, tổ chức và suy nghĩ, Montessori gọi đó là “giai đoạn nghỉ ngơi đầy suy nghĩ”. Trong trạng thái làm việc này, trẻ sẽ có ba tình huống: Một là ngồi trên thảm làm việc của mình quan sát những trẻ khác làm việc, hai là quan sát kết quả làm việc của mình, ba là kéo người khác đến quan sát kết quả công việc của mình. Ba tình huống này là một phần rất quan trọng cần thiết cho sự phát triển trí lực ở trẻ, điều này chứng tỏ rằng: Ở tình huống thứ nhất, con trẻ đang nghiên cứu “so sánh” kết quả của mình và của người khác một cách tự nhiên; ở tình huống thứ hai, trẻ đang nhận thức kết quả của chính bản thân mình; ở tình huống thứ ba, trẻ đang giao lưu cùng môi trường và những người khác.

    Đối với tình huống thứ nhất, giáo viên phải hiểu lúc này trẻ tuyệt đối không ngồi không, mà trẻ đang trong quá trình chỉnh sửa tư duy. Lúc này, nếu nhắc trẻ dọn dẹp đồ dùng dạy học sẽ làm ảnh hưởng đến trạng thái tư duy của trẻ. Sau khi trẻ chỉnh lý tư duy, trẻ quyết định kết thúc công việc này, trẻ sẽ tự thu dọn đồ đạc.

    Ngoài tình yêu thương, giáo viên Montessori còn cần có lòng nhẫn nại, cho phép trẻ được làm việc theo thời gian, tốc độ và tiết tấu của trẻ. Làm được như vậy là bạn đang ghi nhận trẻ. Lòng nhẫn nại của giáo viên không chỉ là yêu cầu công việc mà hơn thế, còn là một đức tính tốt đẹp, vô cùng quan trọng.

    Dạy học bằng phương pháp Montessori rất khó, cho dù bạn đã học thuộc lòng tất cả những điều trên, cho dù bạn đã được đào tạo chính quy ba năm cũng không tác dụng gì. Điều cần làm là thực hiện tư tưởng của Montessori. Làm được điều này, bạn đã trẻ thành một người làm công tác tâm lý trẻ em hoặc một chuyên gia về trẻ em ưu tú.

    [Còn nữa]
     
  7. Đặng Châu Cảm ơm vì sự cố gắng của bạn.

    Bài viết:
    397
    Chương 17: VÌ YÊU NÊN TỰ NGUYỆN THUẬN THEO, VÌ CÓ Ý CHÍ NÊN CÓ THỂ THUẬN THEO

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Trên lớp có người đến nghe giảng, cô mong trẻ thể hiện tốt một chút, con trẻ có thể cảm nhận được tâm tư của cô. Để phối hợp với cô, bạn Lã Từ tính toán và viết đáp án trong cả tiếng đồng hồ. Cô biết trẻ làm thế hoàn toàn là vì cô. Sự thuận theo của con trẻ gần như là vô hạn, trẻ có thể xách đồ cho cô đến tê cả tay, có thể đi theo cô đến phồng cả chân, con trẻ quyết định thuận theo trong tình yêu dành cho cô, chấp hành sự thuận theo bằng ý chí của mình.

    Khi bàn về phẩm giá của con trẻ, chúng ta phải nói đến hai điểm, một là thuận theo, hai là ý chí. Đối với người lớn, chúng ta nói đến sự thuận theo chân lý và bản chất khách quan của sự vật, là ý chí chủ quan kiên trì và tìm tòi chân lý. Đương nhiên, nhận thức về chân lý của mọi người khác nhau rất nhiều. Ở đây tôi chỉ xin bàn ở khía cạnh tích cực, trên nghĩa khẳng định.

    Rất nhiều người làm cha mẹ biết rằng, trẻ trong trường mầm non sợ đổi giáo viên, con trẻ sợ, bố mẹ sợ, hiệu trưởng cũng sợ. Sợ cái gì? Sợ con trẻ không thích nghi? Giáo viên chủ nhiệm lớp “Thiên Thần” của trường chúng tôi, cô giáo Tống mà học sinh yêu quý đột ngột chuyển đi Bắc Kinh, nhưng tình hình của lớp vẫn không hề biến động.

    Trường Montessori đổi giáo viên dựa trên tình hình phát triển và hiệu quả công việc của giáo viên, dựa trên tình hình phát triển của con trẻ. Mỗi lần điều chuyển, con trẻ đều vô cùng bình tĩnh, mọi sinh hoạt vẫn diễn ra bình thường. Cô giáo mới đến hỏi: “Nam Nam, con làm đề này được không?”. Nam Nam nói: “Con đang bận, con đang làm việc, mong cô đừng làm phiền con”. Cô giáo mới lại hỏi: “Lã Từ, đàn khúc này cho cô nghe được không?”. Lã Từ nói: “Con không đàn, vì hiện giờ con không muốn đàn”. Cô trưởng ban cảm khái nói: “Trẻ con lớp này không thừa nhận giáo viên, chỉ thừa nhận chân lý”. Vì thế trường chúng tôi không sợ thay giáo viên.

    Nhưng khi phát hiện cô giáo có khách, con trẻ sẽ cảm nhận được cô đang mong mình đi làm việc. Trẻ sẽ làm việc chăm chỉ, thật lòng phối hợp với cô. Bạn Lã Từ làm phép tính, viết đáp án trong một tiếng đồng hồ. Cô giáo biết, trẻ không thật sự tự nguyện, trẻ làm vậy là vì cô. Bỗng chốc, trong lòng cô trào dâng cảm giác yêu thương và cảm kích đối với trẻ.

    Sự thuận theo của con trẻ không những gần như là vô hạn, mà còn vô cùng cảm động. Khi con trẻ xuất hiện tình trạng thuận theo, bạn muốn trẻ làm gì cũng được. Mang đồ đạc, bưng bát đĩa, chăm sóc các em nhỏ… Trẻ sẽ cố gắng bằng mọi cách để hoàn thành những công việc khó khăn nhất, vô cùng vui vẻ khi làm tốt công việc của mình. Trong sự thuận theo này, sức mạnh ý chí của trẻ cũng đã xuất hiện.

    Trong một buổi dạy tối, chị Lý Thục Ba (mẹ một cháu trong trường Montessori Ninh Hạ của chúng tôi) không có ai trông con nên phải mang theo con lên lớp. Chị nói với con: “Đông ơi, chúng ta đang ở trong lớp của mẹ, con không được làm ồn, mà phải ngồi thật yên lặng. Con vẽ tranh nhé, con có làm được không?”. Con chị gật đầu. Cậu bé mới chưa đầy 3 tuổi có thể ngồi yên lặng trong vòng hai tiếng đồng hồ. Đây chính là điều khiến chị Ba cảm động nhất.

    Ở đây vừa có sự thuận theo mãnh liệt lại có cả ý chí kiên cường. Có lúc con trẻ còn chưa quyết định được hành vi theo lý trí của mình, trẻ chỉ quyết định thuận theo vì tình yêu, và chấp hành sự thuận theo nhờ lý trí. Con trẻ có thể xách đồ cho bạn đến nỗi tê cả tay, đi bộ theo bạn đến sưng cả chân. Có được ý chí này, thì dù là việc gì trẻ cũng có thể vượt qua.

    Nền giáo dục cũ luôn hy vọng con trẻ tuyệt đối thuận theo người lớn, con càng thuận theo thì càng được khen ngoan, khen hiểu biết. Sự đối xử của người lớn với trẻ em gần như chỉ là thuyết giáo và nêu gương, chúng ta muốn dùng cách này để đứa trẻ thuận theo mình. Nhưng trên thực tế, điều này không thể xảy ra, bởi vì cho dù trẻ có thuận theo, nhưng đó chỉ là thái độ “bằng mặt không bằng lòng”. Montessori nói với chúng ta rằng, ở một mức độ nhất định, phương pháp giáo dục truyền thống đang ép buộc và cưỡng bức con trẻ. Lâu dần, đến một ngày nào đó, trẻ bỗng phát hiện ra, trẻ bị buộc phải phục tùng những ai đó hay chính cô giáo của mình, trong lòng trẻ đã sinh ra một áp lực vô cùng to lớn, áp lực ấy sẽ bùng phát khi không có cô giáo hoặc khi không có ai kìm nén, trẻ sẽ phá phách. Đây chính là “có áp bức tất có phản kháng”.

    Sự thực là như vậy. Với những trẻ chuyển từ trường mầm non truyền thống đến trường chúng tôi, lúc mới đến các bé vô cùng quy củ, luôn khoanh tay thẳng lưng khi ngồi trong lớp. Nhưng mấy hôm sau, các bé phát hiện ra nơi này rất tự do, các cô cực kỳ tôn trọng các con. Phát hiện này thật tuyệt vời làm sao! Chúng hò hét, làm “người máy”, “siêu nhân”, tung đồ chơi và đồ dùng dạy học lên trần nhà! Đẩy giá đồ dùng dạy học đổ xuống đất, rồi nhảy múa ngay ở đó… phá phách mấy ngày liền. Bạn thử nghĩ xem phải mất bao nhiêu công sức để những đứa trẻ này có thể yên tĩnh, để chúng có được trạng thái thuận theo xuất phát tự đáy lòng. Chỉ có thể dùng lòng yêu thương! Dùng sự tự do! Dùng nụ cười rạng rỡ! Vì thế mỗi khi nghe nói sắp có trẻ từ trường khác chuyển vào, các cô đều cảm thấy rất đau đầu.

    Cho đến tận bây giờ vẫn có người hỏi tôi, khi bước ra khỏi mái trường Montessori, con trẻ làm thế nào để thích ứng với xã hội này? Lý do để họ nghi ngờ là vì trẻ của trường chúng tôi quá tự do, họ cho rằng đám trẻ Montessori không biết giữ kỷ luật. Sự thực hoàn toàn ngược lại, trẻ được giáo dục theo phương pháp Montessori rất biết tuân thủ các quy tắc và chuẩn mực xã hội. Trẻ nói được làm được, biết được ý chí của mình có thể làm được những gì. Khi đám trẻ của chúng tôi đến sân vận động xem hội thao, chúng không khác gì những chiến sĩ bộ đội, có thể đứng yên lặng ở đó hàng tiếng đồng hồ, không hề chạy nhảy lung tung, khiến ai cũng phải ngạc nhiên. Trên thực tế, đám trẻ của chúng tôi đi tới đâu cũng thế, vì kỷ luật của chúng xuất phát từ bản thân, chứ không vì tiếng la hét và sự ép buộc của các cô.

    Những trẻ em được giáo dục theo phương pháp Montessori đều có khả năng kiềm chế bản thân trong những tình huống thông thường, trẻ biết nên làm gì ở đâu. Các cô giáo thường xuyên dẫn trẻ ra sân bay, ga tàu hỏa, thư viện… trẻ biết cần phải giữ yên lặng ở những chỗ nào. Trong tự do, nếu không bị ai làm phiền, trẻ có thể quan sát, cảm nhận môi trường xung quanh và điều tiết bản thân cho phù hợp.

    Những đứa trẻ như thế tồn tại như một người có tinh thần tự do, trong bất cứ hoàn cảnh nào, cũng có thể cảm nhận được những nguyên tắc mình cần phải tuân theo và có tư thế thích hợp với hoàn cảnh. Những trẻ không thể cảm nhận được môi trường xung quanh là những trẻ đã chịu quá nhiều sức ép. Khi sức ép ấy lớn đến mức đủ để khiến trẻ đau khổ, thì không những trẻ không thể cảm nhận được hoàn cảnh, mà tệ hại hơn, khi phát hiện ra không có ai bó buộc mình, trẻ sẽ bắt đầu phá phách.

    Trong môi trường tự do, trẻ được tôn trọng, được tự quyết định mọi cử chỉ và hành động của mình, nên hiện tượng không giữ kỷ luật lại trở thành hiện tượng cá biệt.

    Có rất nhiều người làm cha mẹ cho rằng: Có hai thứ trẻ em nhận được từ người lớn, một là kiến thức, hai là đạo đức. Chúng tôi lại có nhận định hoàn toàn khác hẳn. Tự nhiên ban tặng cho bản thân mỗi người một loại sức mạnh tinh thần vĩ đại nhất, cao thượng nhất; và Montessorri nói rằng, sự hình thành phẩm giá, nhân cách, trí lực của con trẻ hoàn toàn dựa vào chính bản thân trẻ, chứ không phải dựa vào những người đã trưởng thành. Thông qua công việc của mình, trẻ mới có thể xây dựng bản thân, nhưng sau 6 tuổi, năng lực ấy sẽ hoàn toàn biến mất. Sau 6 tuổi, con trẻ sẽ dùng cơ sở của sáu năm đầu đời bắt đầu tiếp thu kiến thức. Nói một cách khác, nền móng của tòa nhà cuộc đời được xây dựng trong sáu năm đầu đời, và quá trình ấy là dựa vào bản thân trẻ, mà không dựa vào thầy cô hay cha mẹ.

    Ở đây tôi muốn nói thêm một chút, sau mười mấy năm làm công tác giáo dục thực tiễn, chúng tôi phát hiện vẫn cần bàn thêm về quan điểm này của Montessori. Khả năng hấp thu của trẻ em sau 6 tuổi vẫn chưa hoàn toàn mất đi, ở một số trẻ, khả năng này có thể kéo dài đến 8 tuổi, thậm chí là muộn hơn.

    Ý chí theo nghĩa thông thường chúng ta thường nói là khả năng khắc phục khó khăn một cách có mục đích. Ví dụ chúng ta cho rằng một đứa trẻ có thể khắc phục khó khăn là một đứa trẻ có ý chí. Trên thực tế, trẻ em luôn hứng thú với việc khắc phục khó khăn, hoàn thành công việc. Trẻ em không sợ khó khăn, chỉ có người lớn chúng ta sợ. Montessori cho rằng, tinh thần đấu tranh đến cùng với mệnh lệnh người lớn của trẻ em chính là ý chí. Khi trẻ gặp phải vấn đề về tâm lý, trẻ sẽ không thể phản kháng lại người lớn. Khi khả năng này mất đi, trẻ bắt đầu khuất phục người lớn, quan sát sắc mặt của người lớn. Khi trẻ bắt đầu quan sát sắc mặt của người lớn cũng chính là lúc ý chí của trẻ đã bị tước đoạt hoàn toàn.

    Những thần đồng là người như thế nào? Thâm tâm trẻ có sự thúc giục, cũng giống như chúng tôi đã nói ở trên, một khi trẻ đã hình thành phẩm chất của bản thân mình, phẩm chất đó liên tục nói với trẻ rằng “đi làm việc này”, nếu không được làm thì cảm thấy rất đau khổ. Trước sự thúc giục của sức mạnh này, con trẻ sẽ hoàn thành rất tốt công việc đó, và được gọi là thần đồng, trẻ không cần dựa dẫm vào sự ép buộc và trợ giúp của bất cứ ai.

    Sức mạnh ý chí cũng được hình thành như vậy, con trẻ tự hình thành sức mạnh ý chí của mình trong quá trình phát triển của bản thân. Ở vấn đề này, Montessori đã đưa ra quan điểm: “Giống như những gì người ta từng nói, chúng ta cũng sẽ cảm thấy nhu cầu chi phối ý chí hoặc phá vỡ ý chí. Vì chúng ta cảm thấy điều đó là cần thiết, nên chúng ta sẽ lấy ý chí của mình để ép con trẻ phục tùng”. Hiện tượng này xảy ra rất phổ biến, chúng ta luôn cho rằng không được nuông chiều con trẻ, những việc gì trẻ làm được thì để trẻ làm, việc gì không làm được thì không được cho trẻ làm.

    Chúng ta có một quan niệm sai lầm, ý chí là một từ trung tính. Ví dụ chúng ta cho rằng, tuy người xấu là rất xấu, nhưng người đó có sức mạnh ý chí, vì khi làm việc xấu họ có thể làm đến cùng. Thực tế không phải là như vậy, phôi thai tinh thần của con trẻ chỉ dẫn trẻ đi làm một việc đều là những hành vi mang tính xây dựng. Quá trình phát triển phôi thai tinh thần từ 0 đến 6 tuổi, quá trình thực thể hóa phôi thai tinh thần ấy mang tính xây dựng. Nếu những hành vi mang tính xây dựng đó đều được thỏa mãn, giống như Montessori đã nói, tất cả hành vi của trẻ đều là “tính bản thiện”, thì mục đích cả cuộc đời của trẻ sẽ là không ngừng hoàn thiện bản thân, bao gồm cả tình yêu và lý tưởng.

    Khi một người có lý tưởng, thì quá trình thực hiện lý tưởng ấy chính là quá trình thể hiện sức mạnh ý chí. Trước 30 tuổi là quá trình chuẩn bị bản ngã, sau 30 tuổi là quá trình không ngừng hướng tới sự hoàn thiện, là một quá trình không ngừng hoàn thiện bản thân, không ngừng gột rửa tâm hồn ngay từ lúc sinh ra đến lúc từ giã cõi đời. Giả dụ trạng thái bình thường của một con người chính là trạng thái đã nói ở trên, thì ý chí vô cùng quan trọng trong cuộc đời con người.

    Trên thực tế, quá trình phát triển tự nhiên, bình thường của con người chính là quá trình sức mạnh ý chí hình thành. Con trẻ được làm điều mình muốn thì sẽ chìm đắm vào công việc, sự chìm đắm ấy trở thành tập trung và hình thành ý chí.

    Rất nhiều người không thấy được rằng, trường mầm non truyền thống bắt trẻ ngồi yên một chỗ, cô giáo giảng bài lại có gì không hợp lý. Quan niệm về giáo dục mầm non trên thế giới đã thay đổi từ đầu thế kỷ trước, người ta đã không còn “dạy” trẻ bằng cách truyền miệng, mà con trẻ tự xây dựng bản thân thông qua những hoạt động hàng ngày. Tại sao đến tận hôm nay chúng ta vẫn đang tiếp tục dùng quan niệm giáo dục và phương pháp giáo dục đã lạc hậu đến cả thế kỷ để “giáo dục” con em chúng ta. Chúng ta vẫn tiếp tục dùng phương pháp giáo dục của cha ông chúng ta mà không hề hấp thu thêm một quan niệm mới nào. Bạn có thể đến bất cứ một nơi nào trên thế giới mà xem, ngay cả những nước châu Phi cũng không còn dùng phương pháp truyền miệng để giáo dục con trẻ. Dùng phương pháp này, con trẻ không được dùng hành vi để thực hiện phôi thai tinh thần của bản thân nên đành phải ngồi yên ở đó mà “nghe giảng”. Con trẻ quá yếu đuối, lúc nào cũng phải “ngưỡng vọng” người lớn, như Montessori nói là, chúng ta khống chế ý chí của con trẻ, có lúc chúng ta ủng hộ, có lúc lại tước đoạt ý chí của trẻ. Dạy theo cách truyền miệng chính là quá trình tước đoạt ý chí của con trẻ.

    “Con trẻ phải được tự lập trong cuộc sống để có sự độc lập về cơ thể; phải được tự do lựa chọn để có được sự độc lập về ý chí; phải được tự do làm việc để có được sự độc lập về tư tưởng”.

    Một con người được độc lập về cả ba phương diện này thì nhân cách mới hoàn thiện. Chúng ta phải tôn trọng tất cả các hoạt động tự phát của con trẻ. Trẻ phải sử dụng ý chí để tự lựa chọn mình sẽ làm gì. Quá trình lựa chọn ấy chính là quá trình không ngừng sử dụng ý chí của bản thân trẻ, vì thế bạn không được phép để cho ý chí của trẻ nhàn rỗi, giống như bạn đang cất những cuốn sách không đọc tới trên giá sách nhà mình. Không được sử dụng ý chí, sức mạnh ý chí luôn thay đổi, con trẻ cũng mất luôn cả khả năng làm việc.

    Con trẻ phải liên tục lựa chọn, khi bạn không đồng ý trẻ dám phản kháng lại, đó chính là cách con trẻ hình thành sức mạnh ý chí của mình. Montessori nói: “Sự thực là ý chí không hề dẫn tới sự hỗn loạn và bạo hành. Hỗn loạn, bạo hành chính là biểu hiện của rối loạn cảm xúc và đau khổ”. Montessori cho rằng, nếu từ 0 đến 6 tuổi trẻ không được phát triển tốt, trẻ sẽ bị trói trong những sự việc vụn vặt và lợi ích vật chất tầm thường, cả cuộc đời không thể thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn này, giống như là bị nhốt trong bốn bức tường giam. Bên ngoài bức tường là cả thế giới tươi đẹp và chân trời khoa học, nhưng trẻ không thể thoát ra. Tất cả nỗ lực của con người nằm ở chỗ vượt qua những ham muốn của bản thân để đạt đến một trạng thái tinh thần. Ngày hôm nay chúng ta đã đi chệch khỏi quỹ đạo phát triển bình thường của loài người, chúng ta cũng không biết trạng thái của con người là phải như thế nào, chúng ta rất hiếm khi được nhìn thấy một người bình thường, nên lại coi những người không bình thường thành những người bình thường. Nếu con người không thể đạt tới trạng thái bình thường, tất nhiên quan hệ giữa người với người chính là quan hệ đấu tranh.

    Montessori đưa ra ví dụ, một vị phu nhân hỏi đứa trẻ: “Các con thích làm gì thì làm sao?”. Câu hỏi này cũng có nghĩa rằng, tất cả hành động của các con đều tùy tiện. Bé trả lời: “Không, thưa phu nhân, không phải là chúng con thích làm gì thì làm, mà là chúng con thích tất cả những việc chúng con làm”. Đây đã trở thành một công việc có ý thức, cũng có nghĩa là mỗi đứa trẻ thích công việc của chúng, chứ không phải chúng thích gì làm nấy. Montessori nói, có những việc vốn đã là không cần nói đã hiểu, ý chí và ý thức chính là một khả năng phát triển đồng thời với sự vận động và hoạt động của con trẻ.

    Khả năng ấy được phát triển thế nào? Chúng ta thử làm một phép so sánh đơn giản, như việc đi bộ. Lúc 1 tuổi, các bé bắt đầu tập đi, khi bạn nói với bé là không được đi, bé sẽ không nghe theo lời bạn, từng phút từng giây bé muốn tách khỏi bạn để đi. Vậy đi để làm gì? Bởi vì đôi chân bé liên tục nói với bé rằng “muốn đi”, nên bé phải thuận theo đôi chân mình. Bé bắt đầu liên tục luyện tập cho đến khi cơ năng đi của đôi chân có thể thành thục, khi có thể đi vững thì bé lại thay đổi: “Mẹ bế”. Con người là như vậy, khi có một nguyện vọng, con người ta sẽ không ngừng thực hiện nguyện vọng đó. Đến khi thực hiện được rồi, nguyện vọng ấy sẽ bị đóng đinh lại. Con trẻ thông qua hoạt động có ý thức để luyện tập đôi chân của mình, khi trẻ có được khả năng ấy, trẻ sẽ từ bỏ nó để được bố mẹ bế.

    Điều cốt lõi của vấn đề là, sự phát triển của ý chí là một quá trình lâu dài, chậm chạp, phát triển theo một chuỗi các hoạt động có liên quan đến hoàn cảnh, nên cũng rất dễ bị cản trở. Montessori nhắc đến, trong quá trình hình thành ý chí, tinh thần con người là một tòa nhà tự xây dựng trong bí mật mà người xây nên nó không phải là cha mẹ hay thầy cô mà là bản thân con trẻ. Cho dù là cha mẹ hay thầy cô, thì điều lớn nhất mà những người lớn có thể làm là giúp đỡ trẻ làm việc, “giúp đỡ” chính là nhiệm vụ và mục đích của người lớn chúng ta.

    Chúng ta bằng lòng với việc giáo dục theo tấm gương. Một nhân vật trong câu chuyện kể sẽ trở thành điển hình mẫu mực đáng mô phỏng cho trẻ, trở thành trọng tài đánh giá sự đúng sai của trẻ, bỏ qua sức tưởng tượng và ý chí của bản thân con trẻ. Đây là cách nhìn sai lệch của quan niệm giáo dục thông thường. Sự thực là ý chí chỉ có thể phát triển dựa trên sức mạnh tự thân của một người. Sức tưởng tượng, sức sáng tạo và sức mạnh ý chí của con trẻ được xây dựng trong những hoạt động tự phát của trẻ, chứ không dựa vào những bài thuyết giáo không bao giờ có hồi kết của người lớn. Chúng ta không được phép để cho ý chí và tưởng tượng của con trẻ nhàn rỗi. Một khi ý chí bị nhàn rỗi, con người đó sẽ mất luôn cả phẩm chất thành công.

    Montessori nói: “Trong phương pháp giáo dục truyền thống, giáo viên sẽ suy luận theo một phương pháp logic, anh ta nói rằng: ‘Muốn dạy người khác, tôi phải thật tốt, thật hoàn thiện. Tôi biết mình phải làm gì và không nên làm gì. Vì thế, khi con trẻ mô phỏng tôi, phục tùng tôi, tất cả sẽ khiến người khác vừa ý’. Bí mật cơ bản của mọi sự vật nằm ở sự phục tùng, điều này khiến cho công việc của giáo viên trở nên dễ dàng, thậm chí là khiến người ta tự hào. Anh ta còn biện luận rằng: ‘Đứng trước tôi là một đứa trẻ vô tri, không bình thường. Tôi phải cải chính lại, biến đứa trẻ ấy thành một người ưu tú như tôi’. Anh ta đang làm một việc trong ‘Kinh thánh’ đã đề cập tới: ‘Thượng đế tạo ra con người theo hình tượng của mình’. Anh ta đang đóng vai trò của Thượng đế”. Montessori nói: “Người lớn không ý thức được mình đang đóng vai trò của Thượng đế, và cũng quên luôn cả câu chuyện ma quỷ đã biến thành ma quỷ như thế nào trong ‘Kinh thánh’. Nói cách khác là, anh ta cảm thấy tự hào mà muốn thay thế vai trò của Thượng đế”. Trong khi thực tế, người giáo viên đang phá hoại sức sáng tạo và ý chí của con trẻ.

    Bản thân tinh thần con trẻ đang tiến hành công việc tôn quý hơn nhiều so với những gì mà các giáo viên và cha mẹ con có thể tưởng tượng. Từ 0 đến 6 tuổi, trẻ đang làm một việc, đó là xây dựng tinh thần của bản thân mình. Cha mẹ và thầy cô cũng chỉ có thể làm một việc, đó là giúp đỡ trẻ.

    [Còn nữa]
     
  8. Đặng Châu Cảm ơm vì sự cố gắng của bạn.

    Bài viết:
    397
    Chương 18: BA GIAI ĐOẠN ĐỂ TRẺ ĐẠT ĐƯỢC SỰ THUẬN THEO

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Đối với trẻ em mà nói, thuận theo là vinh dự, là niềm vui. Cũng giống như trong tình yêu, khi đang trong giai đoạn tìm hiểu, nếu được làm một điều gì cho người mình yêu thì thật vinh dự biết chừng nào! Người thuận theo là người tự thể hiện bản thân. Có lúc trẻ thuận theo, có lúc không, đó là bởi vì trẻ chưa có đầy đủ khả năng thuận theo. Một khi trẻ có đầy đủ khả năng này, trẻ sẽ có thể làm theo người lớn và tự kiểm điểm bản thân mình trong cuộc sống thực tế. Sau cùng, con trẻ sẽ khao khát được thuận theo, vì trẻ đang thuận theo chân lý.

    Montessori cho rằng, trạng thái bình thường của con người là phục tùng, là thuận theo. Đối với con trẻ, phục tùng có thể trở thành niềm vui, thành sự vinh dự. Đối với người lớn thì ví dụ điển hình nhất chính là lúc đang yêu, nhất là khi tấm khăn che mặt của tình yêu vẫn chưa được vén lên, nếu được đối tượng mà mình đang ngưỡng mộ nhờ một việc, thì thật là sung sướng và vinh dự đến chừng nào!

    Thuận theo là một cảm giác thế này: Vinh quang và sung sướng. Ý chí là cơ sở của sự phục tùng, ý chí có trước, phục tùng có sau. Điều này có ý nghĩa thế nào? Trên đây tôi đã nói, khi đứa trẻ 1 tuổi đang tập đi, liệu bé có thể phục tùng mệnh lệnh của bạn không? Chẳng hạn bạn ra lệnh cho bé tập đi hoặc không cho bé tập đi. Câu trả lời là không. Khi chân bé đã phát triển tương đối hoàn thiện, có thể đi vững, bé sẽ bắt đầu phục tùng. Khi người lớn nói với trẻ, trẻ sẽ suy nghĩ, mình có thể phục tùng không? Sự phục tùng này có thể khiến bố mẹ mình vui mừng không? Con trẻ phục tùng theo khả năng của bản thân mình.

    Ở trường tiểu học, rất nhiều trẻ em hiếu động, thích nói chuyện. Giáo viên liên tục nhắc nhở các bé “Trên lớp không được nói chuyện”, vậy các bé có làm được điều này không? Không làm được thì cô giáo sẽ phạt: “Đứng lên cho cô!”. Một lúc sau, trẻ vẫn nói chuyện, vừa đứng vừa nói. Trẻ không thể kiềm chế bản thân, bởi vì chính trẻ không thể thực hiện theo suy nghĩ của mình. Suy nghĩ và hành vi của trẻ không thống nhất với nhau. Nguyên nhân là trong quá trình trưởng thành của mình, ý chí của trẻ đã bị tổn thương nghiêm trọng, trẻ đã đánh mất khả năng tự khống chế bản thân. Một lần, chúng tôi mang cuốn “Mở mang và phát triển EQ ở trẻ em” ra để trắc nghiệm với các trẻ 7 tuổi rưỡi. Chúng tôi hỏi: “Con có thể tuân thủ quy định không?”. Một trẻ trầm tư một lúc rồi nói: “Một nửa có thể tuân thủ, một nửa không!”. Tôi hỏi: “Tại sao?”. Bé đáp: “Ví dụ bài âm nhạc quá khó, con không thể tuân thủ được!”. Tôi chợt tỉnh ngộ, khi trẻ không có đủ năng lực để thực hiện những quy tắc quá khó so với bản thân, nếu cố cưỡng ép thì còn tạo thêm cho trẻ một tính cách không thành thực. Những năm đầu đời là giai đoạn mấu chốt để hình thành ý chí, con trẻ học cách tuân thủ quy tắc theo khả năng của mình, thuận theo quy luật của sự vật, xây dựng sự thuận theo thực sự, nhưng khi độ khó vượt quá khả năng của trẻ có thể sẽ gây ra một hậu quả xấu mà chúng ta không thể tưởng tượng được.

    Thuận theo mới là trạng thái bình thường của con trẻ. Khi trẻ không thuận theo chính là vì trẻ chưa đủ khả năng để thuận theo, đó là vì sức mạnh ý chí của trẻ vẫn chưa được hoàn thiện.

    Hiếu động hoàn toàn là hệ quả xuất hiện sau khi các hoạt động tự phát của con trẻ bị ngăn cản, trẻ không còn mục tiêu để phát triển. Montessori nói: “Sự phục tùng mà chúng tôi nói ở đây có ý nghĩa sâu sắc hơn nhiều so với sự phục tùng theo nghĩa thông thường. Sự phục tùng ở đây chỉ sự thăng hoa của ý chí. Phục tùng là sự thăng hoa của ý chí cá nhân”. Một lần tôi hỏi cháu mình rằng: “Linh ơi, cháu thấy nhà bên ai là người nghe lời nhất”. Linh nói: “Cháu cảm thấy thầy giáo Vương là người nghe lời nhất”. Đúng là thầy giáo Vương vô cùng “nghe lời”. Bạn nhờ thầy giáo Vương cầm cái gì, thầy giáo Vương sẽ cầm ngay, bạn muốn thầy giáo Vương đi xào rau, thầy giáo Vương cũng xào ngay. Trong mắt những người khác, thầy giáo Vương là một người chồng tốt, hiền lành, “nghe lời”, nhân nhượng. Khi người khác có quan điểm khác mình, thầy vẫn yên lặng lắng nghe. Những người bình thường không thể hiểu nổi sự tốt đẹp, sự bình tĩnh, sự sâu sắc của thầy. Thầy không bao giờ tham dự vào những việc phàm tục ở đời. Khi bạn quan sát thầy thật kỹ, bạn sẽ phát hiện ra đó là vì trạng thái cuộc sống của thầy cao hơn hẳn người khác, thầy luôn nhân nhượng và chăm sóc người xung quanh mình. Thầy là một nhà khoa học, nhưng thầy không chỉ là một nhà khoa học, thầy giống một bậc thánh hiền chỉ nói một câu vào những lúc cần thiết nhất, còn bình thường thì không bao giờ chiếm dụng không gian và thời gian của ai. Thầy là người có nhân cách phát triển bình thường nhất trong tất cả những người tôi đã gặp.

    Một người thuận theo, theo cách nói của Maslow(1), chính là người có nhu cầu thể hiện chính mình. Họ thể hiện chính mình, quan sát và giúp đỡ người khác thể hiện chính mình.

    Nhưng, nếu khi một đứa trẻ đang phát triển một thời kỳ nhạy cảm nào đó của mình, ví dụ như trẻ đến thời kỳ nhạy cảm sờ mó, trẻ sờ mó khắp mọi nơi, bạn lại bắt trẻ thuận theo mình, ngồi yên một chỗ không động đậy, trẻ sẽ không thể thuận theo bạn. Montessori nói với chúng ta rằng, nếu linh hồn loài người không có đầy đủ phẩm chất này, nếu loài người không trải qua quá trình sâu sắc hóa để có được khả năng phục tùng, thì sẽ không thể có được cuộc sống xã hội. Đầu tiên con trẻ phải được thể hiện mình, mới có thể vượt qua chính mình, mới có thể hài hòa với xã hội.

    Trước đây hàm nghĩa của thuận theo là, cô giáo và cha mẹ bảo con trẻ làm gì thì con trẻ làm cái đó. Đây là sự thuận theo trong giáo dục truyền thống. Trong giáo dục Montessori, thuận theo chia làm ba giai đoạn.

    Giai đoạn thứ nhất, có lúc con trẻ thuận theo, nhưng không nhất thiết lúc nào cũng vậy. Điều này có thể tạo cho bạn ấn tượng “tùy tiện”. Rất nhiều trẻ của chúng tôi khi về nhà đã khiến cha mẹ phải đau đầu: “Phương pháp giáo dục này không được rồi, con mình vừa mới học hai tháng, về nhà đã tùy tiện không thể chịu nổi”.

    Chúng ta hãy xem xem con trẻ “tùy tiện” như thế nào? Khi con trẻ đang phát triển một cơ chế hay quan niệm nào đó, ví dụ khi trẻ đang phát triển quan niệm “hoàn mỹ”, bạn lại làm hỏng cảm giác này của trẻ, trẻ sẽ “đấu tranh đến cùng”. Ví dụ như con trẻ không bao giờ đồng ý bạn chia một cái bánh ra thành hai phần. Thế mà người bố lại mua một cái bánh, rồi chia ra làm hai phần, phần to cho bố, phần nhỏ cho con. Thế là đứa con cầm nửa cái bánh khóc ầm lên, vứt xuống đất. Người bố vừa bối rối vừa tức giận. Và rồi người bố hiểu vấn đề thành: Đứa bé này quá tham ăn. Trên thực tế, đứa trẻ này đang xây dựng quan niệm “hoàn mỹ”, người bố đã phá hỏng cảm giác này ở trẻ. Con trẻ vô cùng đau khổ, để bảo vệ cho sự theo đuổi cảm giác hoàn mỹ của trẻ với sự vật, trẻ phải “đấu tranh đến cùng” với người lớn. Phần đông người lớn chúng ta gọi tình huống này ở trẻ là “tùy tiện”.

    Vậy khi nào thì con trẻ có thể phục tùng bạn? Sau khi phát triển hoàn thiện quan niệm này, khi trẻ có đầy đủ khả năng, trẻ sẽ phục tùng. Ví dụ khi trẻ đã biết đi nhưng vẫn muốn người lớn bế, bạn hãy nói với con: “Mẹ bế con một lúc, con tự đi một lúc, được không?”. Trẻ sẽ suy nghĩ, sau đó nói: “Vâng”. Bởi vì không phải là trẻ không biết đi bộ, trẻ chỉ muốn bạn bế trẻ đi một lúc, rồi trẻ lại tự đi bộ. Trạng thái này thuộc về trạng thái nửa thuận theo, nửa không thuận theo. Đây là trạng thái thứ nhất.

    Trẻ em thuận theo hay không có liên quan đến việc trẻ có đủ khả năng hay không. Vì thế khi phán đoán trẻ có thuận theo hay không, chúng ta bắt buộc phải liên hệ với khả năng hiện có của con trẻ. Montessori cho rằng, từ 0 đến 3 tuổi, con trẻ không thể thuận theo. Lúc này, bắt trẻ nghe lời thế nào? Ví dụ lúc này trẻ muốn nghịch nước, bạn nói với trẻ: “Đi nghịch nước đi”. Lúc này sự xúc động bản năng của trẻ vừa trùng hợp với mệnh lệnh của bạn, trẻ thuận theo bạn. Nếu không trùng hợp, chắc chắn trẻ sẽ không thuận theo bạn. Trẻ không thể hiểu những lời bạn nói, trừ phi sự trừng phạt thay cho lời thuyết giáo khiến trẻ cảm thấy sợ hãi, trẻ bắt buộc phải thuận theo. Montessori nói, nhất thiết phải tìm hiểu xem con trẻ đã đến giai đoạn phát triển nào. Ra lệnh cho một người ăn cơm bằng mũi là hoang đường. Ra lệnh cho một người không biết chữ viết chữ cũng là hoang đường, vì khả năng của họ không thể làm được điều đó. Trước 3 tuổi, con trẻ không thể thuận theo, trừ phi mệnh lệnh trẻ nhận được trùng hợp với sự xúc động của bản thân trẻ.

    Trong những trường mầm non truyền thống, chúng ta thường nhìn thấy hiện tượng như thế này: Khi cô mang một đồ dùng dạy học ra giữa lớp, tất cả học sinh sẽ cùng ùa tới, tất cả các học sinh đều muốn có giáo cụ này! Montessori nói, những trẻ này không hình thành cá tính riêng, đây là điều không bình thường. Bởi vì, thông thường khi mang một đồ dùng dạy học ra, sẽ chỉ có một, hai đứa trẻ ra lấy, cũng giống như những người trưởng thành bình thường. Các bé ở trường chúng tôi cũng thế, khi cô giáo mang ra một đồ dùng dạy học mới, ban đầu sẽ không ai phát hiện ra, rồi ngẫu nhiên, một bé phát hiện thấy, liền mang ra thao tác. Một lúc sau, một đứa trẻ khác lại phát hiện ra bạn đang có một đồ dùng mới. “Mình chưa thấy cái này bao giờ!”. Sau đó, đứa trẻ này sẽ nói: “Lớp mình có đồ dùng mới”. Nếu trẻ muốn dùng, trẻ sẽ chờ đợi, đợi đến khi nào bạn kia đặt trả món đồ dùng đó về chỗ cũ, trẻ mới ra lấy.

    Con trai tôi nhìn thấy một bạn khác đang chơi một đồ dùng mới - bảng số, tôi phát hiện con trai tôi ở bên cạnh ngồi đúng ba mươi phút (tôi đã xem đồng hồ), đợi đến khi bạn kia không chơi nữa đặt trả đồ dùng dạy học về chỗ, mới vội vàng ra lấy về chơi. Con rất muốn được thao tác đồ dùng dạy học này, nhưng trước hết, cháu phải tự kiềm chế bản thân mình. Đó là quy tắc của bản thân cháu. Điều đó chứng tỏ rằng, con trẻ có khả năng này, trẻ có thể tuân thủ, thuận theo quy tắc này.

    Chúng ta có thể phát hiện ra một tình huống thế này, đứa trẻ 2 tuổi đã bắt đầu biết nói, lúc này người lớn chúng ta bắt đầu có ý đồ muốn con trẻ phục tùng mình. Chỉ là, người lớn chưa dùng bạo lực hoặc các hành vi chuyên quyền khác, mà chủ yếu là thuyết phục một cách liên tục như: Cái này không được, cái kia cũng không được. Kết quả là con trẻ cảm thấy rối loạn. Một vị phụ huynh thấy con đang nghịch nước, thì nói: “Con yêu, đây là nước uống, con không được chơi, con phải ra lấy nước ở ngoài kia”. Em bé lại đổ nước uống vào cốc, mẹ lại nói: “Con yêu, đây không phải là cốc uống nước, đây chỉ là cốc đồ chơi thôi”. Những lời này khiến cho đầu óc con trẻ hoàn toàn rối loạn, biến thành trở ngại ngăn cản sự phát triển tâm trí của con trẻ. Nếu lúc này trẻ có thể thuận theo người lớn, đó là vì ý chí và cá tính của trẻ đã bị mài mòn.

    Giai đoạn trước 3 tuổi là giai đoạn quan trọng để phát triển cá tính của con trẻ. Montessori nói, sau 3 tuổi, trước khi con trẻ có thể thuận theo, chắc chắn trẻ đang phát triển phẩm chất nào đó. Trẻ không thể ngay lập tức làm theo ý chí của người khác, cũng không thể chỉ trong một đêm đã hiểu được những điều người lớn yêu cầu. Trong 3 năm này, con trẻ hoạt động để dần dần hình thành phẩm chất nội tại của mình. Chỉ sau khi phẩm chất của trẻ được xây dựng một cách chắc chắn mới có thể phục vụ ý chí. Chúng ta biết rằng, rất nhiều trẻ trong một số trường hợp nào đó đã không chịu tuân theo trật tự công cộng. Trẻ con trèo lên trèo xuống ghế, phần vì lạ lẫm, phần vì muốn luyện tập trèo cao trèo thấp, phần vì còn quá nhỏ bé nên muốn đứng trên đó để quan sát. Lúc này bạn không được và cũng không thể yêu cầu trẻ không làm thế. Nhưng cùng với sự lớn lên của trẻ, sự quan sát sẽ giúp cho trẻ xây dựng được một trật tự: Ở những nơi trang nghiêm, thì mình không được làm vậy. Nếu bạn không mắng mỏ mà chỉ nhắc nhở, khoan dung trẻ, cho trẻ thời gian quan sát và tự điều chỉnh, trẻ sẽ phát hiện được quy tắc này, và thử làm theo. Tuy rằng sẽ có lúc trẻ thành công, có lúc trẻ thất bại, nhưng đều không hề gì vì trẻ đang dần hiểu những khái niệm này. Montessori gọi đó là “học tập và nắm bắt”. Khi thói quen này được củng cố, nó sẽ có ích cho con trẻ, cũng có nghĩa là thói quen này sẽ có ích cho ý chí của trẻ.

    Vì thế ở trường Montessori, chúng tôi không mắng mà chỉ nhắc nhở trẻ. Nhờ đó, con trẻ có thể giữ được chừng mực trong bất cứ hoàn cảnh nào. Còn nhớ một lần, con trai đến cơ quan tôi làm việc, lúc đó cháu mới hơn 2 tuổi, vẫn còn rất bé. Một đồng nghiệp mua cho cháu chiếc bánh, bảo cháu ngồi ở ghế ăn. Cháu ăn xong, muốn trả ghế về chỗ cũ. Cháu đứng sau ghế, chiếc ghế quá to so với cháu, cháu chỉ cao bằng một nửa cái ghế. Con tôi lấy tay đẩy không nổi, thì dùng vai đẩy, cố sức đẩy ghế về chỗ. Lúc đó tôi đứng ở cửa quan sát, xung quanh không có một ai. Cháu làm thế vì cháu thấy rằng mình nên làm, chứ không vì muốn ai nhìn thấy. Lúc này, cháu đã có đầy đủ sức mạnh ý chí, cháu biết mình phải làm gì ở bất cứ hoàn cảnh nào.

    Một lần khác, tôi đưa con đi ăn ở nhà hàng. Tôi nói, con ngồi ở đây, mẹ đi lấy đồ ăn. Sau đó cháu không nhìn thấy tôi, liền đứng luôn lên trên ghế gọi ầm lên: “Mẹ, mẹ!”. Tôi vội quay lại nói: “Đang ở chỗ công cộng, con không được làm ồn”. Nghe vậy, con tôi vội ngồi xuống ghế, không gọi to nữa. Lúc này biểu hiện của cháu là thuận theo, cháu đã có được đầy đủ khả năng tự kiềm chế bản thân mình.

    Hiểu được điều này vô cùng quan trọng: Ở giai đoạn này, đầu tiên con trẻ phát triển khả năng của mình để thuận theo. Trong một lần chấp hành mệnh lệnh, có thể trẻ thành công, nhưng không chắc chắn là trẻ sẽ thành công ở những lần tiếp theo. Con trẻ đều như vậy. Ví dụ con muốn rót nước vào bình, lần thứ nhất có thể trẻ thành công, vừa rót đã vào bình ngay. Nhưng lần thứ hai có thể trẻ sẽ không thành công. Lúc này, người lớn chúng ta cứ nên mặc kệ trẻ, để cho trẻ luyện tập đôi tay của mình. Tất cả sự thành công của giai đoạn trước đã bị chìm khuất bởi lần thất bại lần này, lần thất bại này thúc giục trẻ làm lại, quá trình lặp đi lặp lại ấy tôi luyện khả năng của trẻ. Giống như bé Lập Lập ở trường chúng tôi, bé muốn móc dây vào đinh, mỗi lần móc không tới nơi đều thúc giục bé làm lại, đến khi nào làm bằng được. Thông qua quá trình lặp đi lặp lại sự luyện tập, con trẻ đã đóng đinh được khả năng này. Cứ như thế, trẻ sẽ cố định và nắm bắt được tất cả. Nhưng, chúng ta thường thấy người lớn nói: “Con ngốc thật đấy!”. Hoặc là: “Để đấy, bố (mẹ) làm cho con!”. Người lớn không cho phép con trẻ phạm sai lầm. không cho con trẻ cơ hội phạm sai lầm.

    Sai lầm không có ý nghĩa gì với con trẻ, con trẻ không biết thế nào là sai lầm, con chỉ cảm thấy, lần này chưa làm được thì làm thêm lần nữa. Trẻ liên tục làm việc, liên tục lặp đi lặp lại, cuối cùng trẻ đã làm được. Trẻ đã có được cảm giác thành tựu. Quá trình này đã hình thành khả năng của trẻ. Nhưng người lớn lại hay oán trách, nếu con trẻ không làm theo ý mình, bố mẹ sẽ trách mắng con: “Ngốc thật đấy, sao lại có đứa trẻ ngốc thế không biết, con nhìn bố (mẹ) làm thế này này…”.

    Lâu dần, người lớn có một tiềm thức: để cho con trẻ thấy người lớn thật tuyệt vời. Nhà giáo dục vĩ đại của Thụy Sĩ Johann Heinrich Pestalozzi (1746 - 27) cũng cho rằng không thể dung túng cho thói tùy tiện, lúc thuận theo, lúc không của con trẻ. Montessori nói, ngay cả Johann cũng nghĩ vậy thì sai lầm của các giáo viên cũng là chuyện lâu dần thành quen.

    Vì thế, rào cản lớn nhất của trường Montessori chúng tôi chính là các ông bố bà mẹ. Thường là khi con trẻ vào trường khoảng từ hai đến ba tháng, mọi sự của trẻ bỗng hoàn toàn thay đổi. Trẻ trở nên cực kỳ tùy tiện, hoàn toàn khác với trước đây. Ví dụ như bé Thanh, trước đây bé là cục cưng của bố, bố bảo làm gì cũng làm. Khi vào trường mầm non Montessori khoảng một tháng, bé đã bắt đầu thao tác đồ dùng dạy học, được các cô khen là: “Em bé này có trạng thái tốt”. Nhưng sang tháng thứ hai, tình hình đã khác, bé về nhà đã bắt đầu biết “gây chuyện”. Lúc đi xuống cầu thang còn yêu cầu: “Mẹ bế!”. Mẹ không bế: “Con lớn thế này rồi, sao còn bắt mẹ bế nữa chứ?”. Bé Thanh nghe thế thì nằm lăn ra khóc! Bố bé nói: “Phương pháp giáo dục Montessori đã biến một đứa bé ngoan ngoãn trở nên tùy tiện thế này!”. Trong quá khứ bé Thanh lúc nào cũng nghe lời bố là bởi vì bé bị răn dạy phải làm thế này thế kia. Trạng thái bình thường của bé là: bé muốn được người khác bế, cũng giống như những người đang yêu muốn được ôm nhau. Có những lúc tôi bế bé đi xuống cầu thang, bé cười khanh khách… rồi giấu khuôn mặt bé nhỏ vào trong cổ tôi, cười mãi không thôi. Cảm giác ấy thật là ngây ngất. Khi con trẻ muốn chúng ta bế, đó hoàn toàn là một nhu cầu tâm lý, kết quả là nhu cầu tâm lý mãnh liệt ấy lại bị người lớn cho là “tùy tiện”.

    Tôi còn nhớ một lần khác, một vị phụ huynh mua kẹo cho con mình. Mua xong xé toạc giấy bọc kẹo ra, rồi đưa viên kẹo cho con. Ngay lập tức, đứa con vứt viên kẹo đi, lăn ra khóc. Mẹ bé thấy thế nói: “Chị xem, nó có bướng không? Lũ trẻ của trường này đứa nào cũng vậy!”. Tôi nói: “Trẻ con đều muốn tự bóc kẹo cho vào miệng. Chị đã làm hỏng kẹo của con, nên con mới nổi giận như thế”.

    Lúc này, con trẻ có thuận theo bạn không? Chắc chắn là không, vì thông qua động tác bóc kẹo, con trẻ hoàn thành sự phát triển năng lực và trí tuệ của mình. Thông qua việc “bóc”, trẻ nhận được nhiều điều khác. Cũng giống như em bé đòi mua khoai trong phần trước, bé đòi mua khoai vì muốn bóc khoai, nhưng mẹ không cho bé bóc mà bóc hộ cho bé một cách cẩn thận, sạch sẽ. Kết quả là bé tức điên lên, cũng không thèm ăn khoai nữa. Mẹ không thể hiểu tường tận những suy nghĩ của bé. Chúng ta biết rằng, bọn trẻ tức giận, ăn vạ đều có nguyên nhân, đều do nhu cầu hoặc nguyện vọng phát triển nào đó không được đáp ứng.

    Trong tình huống này, chúng ta thử tưởng tượng xem, nếu con trẻ có ý chí kiên cường, trẻ cứ “liều chết để đấu tranh”, làm ầm ĩ lên thì kết quả sẽ thế nào? Một cuộc “chiến tranh” có thể sẽ nổ ra. Rất có thể, người lớn sẽ dùng bạo lực để “trấn áp” sự “nổi loạn vô lý” của trẻ.

    Tôi tin rằng chỉ cần tình yêu thương thì sẽ không có những câu chuyện hoang đường như trên. Có được sự yêu thương, sẽ không có cách nhìn và cách nói “nghe qua có lý mà sự thực là vô lý” đối với sự tùy tiện ở trẻ. Nhưng đối với phần đông người lớn chúng ta, rất khó để có được một tình yêu thực sự.

    Thực ra có những bậc cha mẹ đã cho con một môi trường thoải mái, cha mẹ không mắng mỏ con, nhưng ở bên cạnh thuyết giáo cũng khiến con trẻ đánh mất lòng tin. Montessori nói không gì có hại hơn việc đánh mất lòng tin ở trẻ. Sự tự tin đã bị mất đi như thế nào? Ví dụ bạn đang làm việc và làm không tốt, một người lớn khác nói: “Làm sai rồi, cậu xem phải làm thế này này…”. Rồi người kia làm mẫu một lần. Bạn cảm thấy lo lắng, lâu dần chỉ cần bên cạnh có người đứng chỉ chỗ nọ, chỗ kia là bạn đã đánh mất sự tự tin. Trẻ con cũng như vậy, Montessori nói, khi trẻ còn chưa thể thuận theo ý chí của mình thì không thể nói đến việc trẻ thuận theo ý chí của người khác.

    Khi con trẻ có những hành vi tự phát, liệu có phải trẻ đang thuận theo ý chí của bản thân mình? Câu trả lời đã chắc chắn. Khi con trẻ xây dựng được khả năng này, trẻ mới có thể thuận theo ý chí của người khác.

    Vì thế, giai đoạn đầu tiên của thuận theo là: Con trẻ có thể thuận theo, nhưng không nhất thiết phải lúc nào cũng vậy. Ở giai đoạn này, thuận theo và không thuận theo là đan xen.

    Giai đoạn thứ hai, con trẻ không còn cảm thấy trở ngại vì không khống chế được bản thân mình. Ví dụ di chuyển khi bê nước, nước sẽ sánh ra ngoài. Lúc này, mẹ nói: “Con để ý đi chứ, đừng để nước sánh ra ngoài”. Liên tục lặp lại những câu này liệu có khiến con trẻ không làm sánh nước ra ngoài nữa không? Điều này là không thể, chắc chắn nước vẫn sánh ra ngoài, vì khả năng của trẻ vẫn chưa thật tốt. Ở trường chúng tôi có bé Nghênh Nghênh, mẹ bé nói: “Thật là, tôi chán lắm ấy, con gái tôi bê nước, chỉ cần sánh ra ngoài một tí là nó khóc ầm lên, lại còn đổ cốc nước đó đi, lấy một cốc khác. Chỉ đến khi nào bưng cốc nước đến nơi mà không bị sánh ra ngoài một giọt nào, nó mới vừa ý”. Rõ ràng là lúc này trẻ đang rèn luyện khả năng thăng bằng của mình, trẻ đang cố gắng làm việc một cách hoàn mỹ nhất. Theo đuổi sự hoàn mỹ trong từng công việc là bản tính tự nhiên của con người, tất cả các trẻ em bình thường khác cũng đều làm như vậy: Cẩn thận, chậm rãi, run lẩy bẩy bê một cốc đầy nước từ nơi này sang nơi khác. Con trẻ cũng sẽ vận chuyển những đồ đạc khác, cái hộp, cái chậu, cái cốc… Khi trẻ thực hiện được thời kỳ nhạy cảm này, phát hiện được quy luật nội tại của sự vật, đến khi trưởng thành trẻ sẽ hình thành được gout thẩm mỹ của những nhà nghệ thuật.

    Ở giai đoạn hai, nếu con trẻ đã có được khả năng này, trẻ sẽ không gặp phải trở ngại trong công việc. Ví dụ như khi bê nước trẻ đã có thể kiểm soát được đôi tay và cơ thể mình để nước trong cốc không sánh ra ngoài. Trẻ không cảm thấy một trở ngại nào. Khi khả năng này đã được hình thành, nếu thầy cô và bố mẹ nhờ trẻ giúp đỡ, trẻ sẽ vui vẻ và hào hứng đi làm. Lúc này trẻ có thể thuận theo và kiểm nghiệm khả năng của mình trong cuộc sống thực tế. Có như thế, trẻ mới có thể củng cố khả năng này và bước một bước dài về phía con đường thuận theo. Cũng giống như một người có khả năng tiếng Anh rất tốt, nếu nhờ anh ấy phiên dịch, đó sẽ là một việc vô cùng thoải mái với anh ấy. Nhưng với một người không có khả năng ngoại ngữ, nếu nhờ anh ấy phiên dịch, anh ấy sẽ cảm thấy trở ngại, bởi anh ấy biết năng lực của mình không đủ. Tôi nghĩ đến Lucy, cô giáo ngoại ngữ của trường chúng tôi, vì tôi không biết lượng từ vựng tiếng Hán của cô ấy khoảng bao nhiêu, nên khi nói chuyện với cô ấy, tôi đã hỏi: “Em ở Mỹ bao lâu rồi?”, cô ấy không hiểu, nhưng khi tôi hỏi: “Em đã ở Mỹ bao nhiêu thời gian rồi?”, cô ấy mới hiểu. Tôi hỏi: “Trường học có tốt không?” thì cô ấy hiểu, nhưng nếu tôi hỏi: “Em thấy trường chị và trường của em có gì khác nhau không?” thì cô ấy không hiểu. Không đợi tôi kịp nói gì thêm, Lucy đã chạy mất.

    Còn có một lần, con trai tôi muốn ăn ngô, Lucy hỏi: “Ngô là cái gì?”. Tôi nói: “Ngô là một loại bắp của thực vật dài bây nhiêu, từng hạt từng hạt một”. Rõ ràng cô ấy không hiểu khái niệm “thực vật”, cô ấy lại hỏi: “Thực vật là gì?”. Kết quả là, tôi không thể giải thích rõ ràng cho cô ấy “ngô” là gì. Cô ấy đi hỏi một người bạn: “Ngô là gì?”. Bạn cô ấy nói: “Ngô, gần giống như quả cà, là một thứ ăn được”. Cô ấy hiểu ra ngay, nói: “À, tớ hiểu rồi”.

    Bạn cô ấy đã dùng cách so sánh để giúp cô ấy nắm bắt từ ngữ này. Từ câu chuyện này, tôi cũng nghĩ đến tình hình học từ vựng, học ngôn ngữ của con trẻ. Rất nhiều người lớn nói chuyện này chuyện kia với trẻ, nói vừa nhiều vừa phức tạp, nhưng trẻ càng nghe càng thấy rối rắm. Hiển nhiên là con trẻ nắm bắt lượng tự vựng cơ bản bằng cách vận dụng vào những sự vật thực trong cuộc sống hiện thực, cho đến khi lượng từ vựng của trẻ đạt đến một mức nào đó mới có thể dùng từ để giải thích từ, dùng tranh vẽ, dùng phép so sánh và những thứ khác để giải thích từ, giống như trong từ điển.

    Quá trình phát triển nhận thức của con người cũng rất lạ lùng. Có người hỏi: “Có phải trường chị không thích cô giáo nước ngoài này không?”. Tôi hỏi: “Sao vậy?”. Cô ấy nói: “Đám trẻ 3 tuổi thấy cô ấy là đã khóc ầm lên”. Tôi nói: “Không phải là không thích, mà là các con chưa đạt đến trạng thái tâm lý ấy. Con trẻ đột nhiên phát hiện ra giữa những khuôn mặt da vàng mũi tẹt của chúng ta là khuôn mặt khác lạ của cô ấy. Điều này không phù hợp với những trật tự và khái niệm con đã có”. Vì thế khi cô ấy tiếp cận trẻ, trẻ cảm thấy sợ, và đứng quan sát từ xa. Nhưng, những trẻ lớn hơn thì không thế, trạng thái tâm lí của trẻ đã phát triển đến mức có thể tiếp cận với cô. Trẻ đã biết trên thế giới này có người da trắng, người da đen… Vì thế, khi cô giáo nước ngoài xuất hiện, các con nhìn cô, rất thích cô và còn gọi cô là “mẹ”.

    Để giáo viên nước ngoài dạy lớp của trẻ 3 tuổi có vẻ như không đạt được mục đích học ngoại ngữ. Lúc này, đối tượng nhận thức của bọn trẻ là khuôn mặt của cô giáo. Chẳng lẽ những đứa trẻ này chưa có sức mạnh ý chí? Không phải, mà là khả năng của trẻ chưa đạt đến mức có thể kiểm soát bản thân mình, trẻ vẫn đang nhận thức thế giới này. Bỗng nhiên trẻ phát hiện ra, thế giới này còn tồn tại một kiểu người khác, có mắt khác, mũi khác với những người xung quanh. Ở giai đoạn hiện tại, nhận thức này vô cùng quan trọng đối với con. Lúc này, ép trẻ thuận theo việc học tiếng Anh là không thể, vì trong cả tiết học, trẻ chỉ quan sát cô giáo để phát triển khả năng phân biệt trong tương lai, trẻ không thể học thêm điều gì về tiếng Anh. Chỉ khi nào quá trình nhận thức này hoàn thành, trẻ mới có thể học kiến thức.

    Giai đoạn thứ ba, con trẻ sẽ có khát vọng được thuận theo. Lúc này sự thuận theo chỉ hướng về người mà trẻ cho là ưu tú. Trẻ phát hiện ra có thể nhận được sự dẫn dắt, sự giúp đỡ của con người ưu tú này, rồi từ đó sinh ra sự nhiệt tình, để trở thành khát vọng thuận theo. Khi con người đạt đến một trạng thái nào đó, họ có khát vọng thuận theo. Con trẻ đã ý thức được cô giáo có thể làm được những việc mà mình không làm được, trẻ tự nói với bản thân: “Cô giáo thông minh là thế, chắc cô cũng có thể khiến mình thông minh được như cô”. Rồi một ngày con trẻ nhận thức ra khả năng của một người lớn vượt xa trẻ, trẻ sẽ tình nguyện thuận theo. Đó chính là cuộc sống. Montessori nói, sự thuận theo đem lại lợi ích cho cuộc sống xã hội của loài người. Nếu không có sự thuận theo, cuộc sống xã hội sẽ trở nên lộn xộn và không có quy tắc.

    Montessori đã đưa ra một ví dụ về việc luyện tập ngồi yên lặng. Bà nói: “Chỉ khi nào tất cả những người có mặt đều cảm thấy vui vẻ, mới có thể đạt được sự yên tĩnh hoàn toàn, vì cho dù chỉ một người cũng có thể làm hỏng sự yên tĩnh ấy”. Rất nhiều người nói có một điểm mà trẻ trong trường Montessori không bằng được trẻ trong trường mầm non truyền thống, đó là cảm giác vinh dự tập thể. Ví dụ mỗi lần chạy tiếp sức, đám trẻ của chúng tôi chạy đến nửa đường, bỗng nhìn thấy chú cảnh sát đang đứng nói chuyện với ai đó, rất có thể trẻ sẽ dừng lại, cầm cây gậy tiếp sức quan sát chú cảnh sát nói chuyện, cho đến khi chú ấy nói chuyện xong và đi ra chỗ khác, đứa trẻ đó mới chạy tiếp, đưa cây gậy tiếp sức cho bạn khác. Lúc này, các cô cũng cuống lên: “Chạy nhanh lên, nhanh lên!”. Nhưng đám trẻ đâu có vội, chúng vẫn đứng yên ở đó. Cô giáo mới đến nói trẻ không có cảm giác vinh dự tập thể. Montessori cho rằng, đó là vì trẻ không tập trung sự chú ý của mình vào việc thi chạy. Cho dù chú cảnh sát đó không xuất hiện, trẻ cũng không đạt được đến trạng thái đó. Đến khi con trẻ có thể thuận theo trạng thái này, trẻ sẽ phát hiện ra, nếu có một người phá hỏng trạng thái, sẽ phá hỏng luôn cả không khí, cả môi trường chung.

    Hôm đó tôi vào lớp “Thiên Thần Nhỏ”, cô giáo đang chơi trò yên tĩnh với các con, tôi nhớ lúc đó có bé Kỳ đang cầm đế cắm trụ tròn, đưa cho cô, cô giáo nói: “Được rồi, mời con trả về vị trí”. Bé Kỳ rất vui vẻ nhận lấy, đế cắm trụ tròn tương đối nặng, bé Kỳ lại còn nhỏ, vì thế khi bé đặt một phần đế cắm trụ tròn lên trên giá làm phát ra tiếng động rất mạnh. Bé luống cuống, đầu còn lại của đế cắm trụ tròn cũng phát ra tiếng động mạnh như thế. Bé Kỳ vội ngồi xuống. Một bé khác nói: “Ầm quá”. Sau đó, một bé khác cầm cây gậy dài, cây gậy quá dài nên khi đi qua tủ, gậy quệt vào tủ ầm một tiếng, tất cả đám trẻ đều rụt cổ lại, một bé còn nói: “Khó nghe quá”. Lúc này, phải chăng đám trẻ của chúng tôi đã có cảm giác vinh dự tập thể? Các bé biết khi một người phát ra tiếng động, làm hỏng không khí yên tĩnh của lớp học. Đây mới gọi là cảm giác vinh dự tập thể đích thực.

    Con trẻ đã cảm nhận được rằng, không được làm hỏng cảm giác vinh dự tập thể, vì như vậy sẽ đánh mất mỹ cảm. Khi con trẻ biết không được làm hỏng cảm giác này, trẻ sẽ có khả năng tự kiềm chế bản thân, thì bạn còn phải lo lắng điều gì? Khi chúng tôi học trung học, phải xếp hàng đi đâu đó, chỉ cần cô giáo vắng mặt một chút, ngoài mấy hàng đầu tiên còn ra hàng lối, phía sau đã loạn hết lên. Đám trẻ mầm non của chúng tôi thì không như thế. Khi chúng tôi dẫn các bé đi xem triển lãm khủng long, hướng dẫn viên đã nói liền bốn mươi phút. Sau cùng, cô ấy cũng phải ngạc nhiên kêu lên: “Em đã hướng dẫn cho người lớn, học sinh trung học, học sinh tiểu học nhưng chưa có đoàn nào lại trật tự như những bé mầm non này!”. Lúc này, trẻ đã có được khả năng kiểm soát ở nơi công cộng, trẻ đã đạt được trạng thái thuận theo. Những trẻ lớn thuận theo, kéo theo cả các trẻ bé hơn cũng thuận theo.

    Trong sáu năm đầu đời, trẻ không ngừng phát triển tâm lý và trí lực. Sau khi trẻ đã xây dựng được một khả năng tương đối, trẻ sẽ bắt đầu nắm bắt bản chất và quy luật của sự vật, bắt đầu thuận theo quy luật ấy. Giai đoạn thứ ba của sự thuận theo đã được hình thành: Thuận theo chân lý. Đó cũng là những gì mà đám trẻ trường chúng tôi đã thể hiện: “Con yêu cô giáo, con càng yêu chân lý!”. Kết quả cuối cùng, trẻ không phải tuân theo người lớn, mà là tuân theo phép tắc phát triển của sự vật.

    Montessori nói, thuận theo là giai đoạn sau cùng của phát triển ý chí, trình độ thuận theo của con trẻ cao như vậy, cuối cùng lại trở thành tấm gương của người lớn.

    [Còn nữa]
     
  9. Đặng Châu Cảm ơm vì sự cố gắng của bạn.

    Bài viết:
    397
    Chương 19: PHẨM CHẤT ƯU TÚ CỦA TRẺ ĐƯỢC HÌNH THÀNH NHƯ THẾ NÀO?

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Rất nhiều người lớn theo đuổi chân-thiện-mỹ, nhưng thực sự đó là một quá trình rất gian nan, vì phần lớn thời gian chúng ta đang tự giãy giụa, cả đời chúng ta sống trong sự khổ hạnh. Nhưng, nếu một đứa trẻ được hình thành phẩm cách kiện toàn từ lúc 0 đến 6 tuổi, thì hướng thiện sẽ trở thành mục đích tự nhiên của trẻ, cả cuộc đời trẻ sẽ không ngừng hoàn thiện chính mình.

    Có gì quan trọng hơn phẩm giá của một con người? Phẩm giá của một người là chính bản thân của con người đó. Một dân tộc khẳng định vị thế của mình trên thế giới bằng phẩm giá của cả dân tộc. Một con người đứng vững trong xã hội bằng phẩm giá của chính mình.

    Phẩm giá của một con người được phát triển từ những năm đầu đời. Phán đoán này có đúng đắn không? Liệu có phải tự bản thân trẻ đã xây dựng và phát triển phẩm giá của mình? Đúng thế. Đây là một phán đoán hoàn toàn đúng đắn. Montessori nói: “Trẻ con là cha của người lớn”.


    Liệu ở đây có chút khoa trương? Montessori cho rằng một chuỗi những hoạt động chậm rãi và dài kỳ của trẻ em từ 3 đến 6 tuổi đã xây dựng phẩm giá của trẻ.

    Montessori dùng một hình tròn, chính giữa hình tròn là hình tròn màu đỏ, biểu thị cho trung tâm hoàn thiện. Xung quanh tâm màu đỏ là một khu màu xanh, đại diện cho những người bình thường có phẩm giá hoàn thiện, kiên cường, cân bằng, có sức hút. Khu màu trắng biểu thị cho phần đông những người vẫn chưa đạt được trạng thái bình thường ở những mức độ khác nhau, bên ngoài cùng là một vòng tròn mỏng màu đỏ sẫm, biểu thị cho những người nằm ngoài phạm vi bình thường, ví dụ như những người mắc chứng thần kinh, những người phạm pháp.

    Vậy thì sự khác nhau căn bản giữa phương pháp giáo dục cũ và mới là nằm ở chỗ nào? Montessori nói, khả năng thích ứng với thế giới bên ngoài được hình thành trong sáu năm đầu đời. Nếu trẻ được phát triển đúng theo sự chỉ dẫn nội tại của bản thân, trẻ sẽ dễ dàng trở thành số người trong vòng tròn màu xanh mà không cần ai chỉ dẫn. Kể cả khi bị người khác đánh đập, ngăn trở, không cho trẻ theo đuổi sự hoàn mỹ, trẻ cũng sẽ theo đuổi sự hoàn mỹ đến cùng.

    Một người chân-thiện-mỹ luôn được người khác yêu quý. Jeanne d'Arc, Abraham Lincoln, Mahatma Gandhi(1)… và những nhân vật kiệt xuất trong tất cả các lĩnh vực như khoa học, nghệ thuật, chính trị… những người công nhân, giáo viên, chiến sĩ ưu tú và cả những nhân vật chính trực khác… Tất cả những người có hành vi xây dựng xã hội đều là chân-thiện-mỹ.

    {(1) Jeanne d'Arc (1412-1431) là một nữ anh hùng người Pháp trong cuộc chiến tranh trăm năm giữa Pháp và Anh. Ngày 16 tháng 5 năm 1920, Jeanne d'Arc được Giáo hoàng Benedictus XV chính thức phong thánh, và là thánh quan thầy Giáo hội nước Pháp.

    Abraham Lincoln (1809-1865) là Người giải phóng vĩ đại, là tổng thống thứ mười sáu của Hoa Kỳ từ tháng 3 năm 1861 cho đến khi bị ám sát vào tháng 4 năm 1865. Ông được xem là một nhân vật lịch sử tiêu biểu hàng đầu của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ đã giải phóng chế độ nô lệ da đen.

    Mahatma Gandhi (1869-1948) là anh hùng dân tộc Ấn Độ, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống chế độ thực dân của Đế quốc Anh và giành độc lập cho Ấn Độ với sự ủng hộ nhiệt liệt của hàng triệu người dân.}

    Bao nhiêu người đã phấn đấu hy sinh để theo đuổi chân lý. Tôi đã đọc cuốn tiểu thuyết “Người” của nữ nhà văn người Ý Oriana Fallaci. Nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết là một chính trị gia nổi tiếng của Hy Lạp, cả cuộc đời ông bị giày vò đến chết đi sống lại, bị lưu đày hết nhà tù này sang nhà tù khác… nhưng ông không bao giờ chịu từ bỏ sự theo đuổi của mình. Cho dù bao nhiêu đau khổ và giày vò cũng không thể làm mài mòn ý chí phấn đấu của ông. Tổng thống Nam Phi Nelson Mandela cũng vậy. Ông đã cống hiến cả cuộc đời mình cho lý tưởng và tự do. Sự giam cầm, lưu đày và cả cái chết cũng không thể ngăn ông hướng tới sự hoàn thiện. Vì thế Montessori nói những người trong hình tròn tâm màu đỏ là những người có tính cách kiên cường. Những người còn lại, bao gồm cả những người trong vòng tròn trắng, được cho là có phẩm giá tương đối yếu ớt.

    Chúng ta hãy nhìn hiện thực xung quanh mình. Trong cuộc sống của chúng ta, một số người có thể kêu gào vì những việc chính nghĩa. Ví như một cô bạn của tôi, cô ấy có thể đi khắp mọi nơi để báo động về cái cây sắp đổ có thể gây nguy hiểm cho người qua đường. Cô ấy có thể dành cả ngày để đi từ cơ quan này sang cơ quan khác. Trên thực tế, việc này không hề liên quan đến cô ấy, nhưng cô ấy đi để báo động, chạy vạy khắp nơi để giải quyết việc cái cây. Bởi vì phẩm giá của cô liên tục thúc giục cô phải làm vậy. Nhưng phần lớn những người khác lại thờ ơ cho qua, vậy họ đang làm gì? Họ đang bị trói chân trong những việc vụn vặt, trong lợi ích vật chất thực tế. Lại ví dụ như một người đàn ông gặp đau khổ trong hôn nhân, anh ấy rất buồn rầu vì vợ mình. Tâm trí anh ấy vẫn chưa thực sự trưởng thành, nên không có khả năng yêu con của chính mình. Anh ấy yêu một người khác. Vậy phải làm thế nào? Anh ấy tự giày vò, tự giãy giụa trong mâu thuẫn của cuộc đời mình. Nếu anh ấy không đi làm những việc tệ hơn, đó là vì những quy chuẩn đạo đức của cuộc đời đã nói với anh ấy rằng, làm thế sẽ trở thành người xấu.

    Làm điều xấu, anh ấy sẽ phải sống trong áy náy và cảm giác tội lỗi, sống trong cảm giác tự trách mình.

    Tôi nghĩ, không ai cố ý làm người xấu. Để đảm bảo mình không đến nỗi trở thành người xấu, người ta phải cố hết sức để kìm chế bản thân mình. Montessori gọi những người này là những kẻ khổ hạnh. Sự tiến lên và thụt lùi của cả cuộc đời họ liên tục bị ngoại lực trói buộc. Trong khi những người ở trong vòng tròn màu xanh thuộc trạng thái tự do, họ dành cả cuộc đời mình để hướng về chân-thiện-mỹ, không ai, không thứ gì có thể trói buộc được họ, kể cả những cái gọi là quy chuẩn đạo đức của cuộc đời, bởi vì họ đã vượt quá những quy chuẩn này. Những người này đã hoàn toàn đạt đến trạng thái tự do, cả cuộc đời họ không ngừng hoàn thiện chính mình. Khi một người không ngừng hoàn thiện bản thân mình, thì những công việc họ làm cũng đang hoàn thiện xã hội.

    Nhưng những người trong vòng tròn trắng lại không như vậy. Trong vòng tròn này có hai loại người, loại người thứ nhất đờ đẫn chậm chạp, họ dành tinh lực cả cuộc đời để tự giãy giụa. Đây cũng chính là những người tầm thường mà chúng ta đã từng nói đến. Loại người thứ hai có khuynh hướng vượt ra ngoài vòng tròn này. Những người này hay bị dụ dỗ, nếu không nỗ lực, họ sẽ trở thành những người có phẩm chất thấp kém. Họ cần những rào cản đạo đức để ép bản thân mình tránh khỏi cám dỗ. Trong cuộc sống, tôi thường xuyên gặp những người này. Ví dụ như việc ăn trộm, với một số người, ăn trộm đã trở thành thói quen. Trong bản thân những người này cũng có sức mạnh hướng thiện, nhưng sức mạnh ấy quá yếu ớt, họ bị thao túng bởi sự tức giận, lòng báo thù và những trạng thái tâm lý mờ ám khác. Montessori quy những người này thuộc vào phần tử phạm tội và những người mắc chứng thần kinh. Montessori từng nói một câu: “Tình trạng không có đạo đức không bắt nguồn từ bản thân đạo đức mà bắt nguồn từ ý chí, vì người ta không kiểm soát nổi bản thân mình”.

    Tiểu thuyết “Mười ngày” của nhà văn Ý Giovani Boccacino nói về tình huống của con người sau một trận dịch hạch. Lúc này, phần đông không còn chịu sự trói buộc về đạo đức, vì đằng nào họ cũng sắp chết. Bình thường, những con người này bị ràng buộc bởi những quy tắc của xã hội, pháp luật, tôn giáo, tín ngưỡng nên không làm điều bậy. Và vì ngày nào cũng phải đấu tranh với những ràng buộc nên họ rất mệt mỏi, năng lượng cuộc sống của họ đã bị cạn kiệt vì những điều này. Tất cả họ đều có một đặc điểm chung lớn nhất, đó là tính khuynh hướng.

    Ví dụ như Hitler, chỉ trong một đêm, ông ta hiệu triệu nhân dân để đi xâm lược nước khác, đi giết người. Những người này khuynh hướng hướng thiện hay hướng ác đều như nhau, họ là những người tầm thường, họ không ngừng ràng buộc mình bằng những quy tắc đạo đức, nội tại của họ như những bức tường bằng cỏ lau, không có khả năng phân biệt, vì vậy những quan niệm đạo đức của họ cũng hết sức mù mờ, cách nhìn sự vật cũng mù mờ. Trong trạng thái mù mờ ấy, họ sẵn sàng thuận theo kẻ nào mạnh hơn mình, dù chỉ là chút ít.

    Nhưng những đứa trẻ từ 0 đến 6 tuổi được phát triển tâm lý tốt, tuyệt đối sẽ không chạy theo đám đông. Tôi còn nhớ đã đọc trong “Jean Christophe”(2) một đoạn như thế này: Những người vĩ đại đều ở “bên này của bức tường”, nếu bạn chọn bên này của bức tường, bạn phải chịu đựng sự “cô độc và hoang vắng”. Trong khi ở bên kia thật ồn ào và náo nhiệt, ở bên này cũng có thể cảm nhận được. Đương nhiên, “hoang vắng” cũng là một vẻ đẹp, “hoang vắng” có thể đối thoại với những tâm hồn vĩ đại, cũng có thể dẫn dụ đám đông.

    Một giáo viên Montessori giỏi sẽ không bắt cả đám trẻ con phải “yêu” cô, không thể rời xa cô. Tất cả những việc cô làm là để cho trẻ phát triển tự nhiên. Nếu trẻ được phát triển tự nhiên, mỗi phút mỗi giây của trẻ đều chìm đắm trong sự phát triển nội tại của bản thân, trẻ sẽ không quan tâm đến những sự vật không liên quan bên ngoài. Những người làm cha làm mẹ có trách nhiệm cũng phải như vậy, họ không nên làm cho trẻ cảm thấy trên thế gian này chỉ có mẹ là tốt nhất, còn lại là nguy cơ đầy rẫy bốn bề. Rất nhiều đứa trẻ rời xa mẹ là cảm thấy thế giới này thật đáng sợ. Một đứa trẻ bình thường thì nên yêu mẹ, quấn quýt mẹ, không muốn xa mẹ, nhưng trẻ vẫn phải xa mẹ, trẻ thường xuyên xa mẹ, khi trẻ rời xa mẹ, trẻ vẫn có thể phát triển bản thân mình.

    Khi đánh giá một đứa trẻ phát triển bình thường, chúng tôi đã phát hiện, dường như đứa trẻ này đang “cô độc”. Trẻ chìm đắm vào thế giới của riêng mình, không dựa dẫm, không phán đoán thế giới bên ngoài. Rất nhiều những người làm cha mẹ nói rằng con họ không “hòa nhập” với thế giới bên ngoài như họ tưởng tượng. Tôi cảm thấy đây là một trạng thái hết sức bình thường. Một đứa trẻ kết bạn, chơi với người khác, trẻ kết bạn vui vẻ, chơi cũng vui vẻ là trạng thái hết sức bình thường. Vậy người thế nào thì không bình thường? Là người mà nội tâm họ luôn lưu luyến và bị phụ thuộc! Những đứa trẻ bình thường không muốn tiếp xúc với bất cứ ai, bởi vì có một số người không hiểu trẻ. Cho dù là người lớn, nếu tâm thái của người đó là luôn luôn hướng thiện, luôn luôn hoàn thiện bản thân, họ dành cả cuộc đời mình để theo đuổi chân lý, phục vụ xã hội, thì họ sẽ không còn thời gian để quan tâm đến những việc vụn vặt trong cuộc sống.

    Áp lực của môi trường càng lớn thì điều kiện sinh tồn càng kém, càng khiến con người ta nghiêng về cái ác. Bởi vì một điều kiện sinh tồn thấp kém khiến con trẻ đi chệch khỏi quỹ đạo phát triển, khi trẻ còn chưa kịp xây dựng mục tiêu của cuộc đời mình, thì đã bị ảnh hưởng mà tạo thành những phẩm giá phi nhân tính.

    Đối với rất nhiều người lớn mà nói, trang bị chân-thiện-mỹ cho bản thân là một kiểu niềm vui và sự an ủi, nhưng “quá trình trang bị” này lại trở thành một quá trình sống gian nan, một kiểu khổ hạnh. Khổ hạnh không thể có niềm vui. Vì thế, họ bằng lòng sống dựa và sống theo những người mạnh hơn mình, giúp bản thân mình kiềm chế sự cám dỗ. Nhưng nếu từ 0 đến 6 tuổi chúng ta đã hình thành phẩm chất của mình, chúng ta sẽ không phải khổ hạnh. Phẩm chất hướng thiện đã trở thành động lực từ bên trong. Không được hướng thiện, chúng ta sẽ cảm thấy đau khổ.

    Montessori nói, giáo viên luôn bắt mình trở thành một tấm gương, bởi vì họ luôn cảm thấy lo sợ, nên họ phải tự nói với mình: “Mình phải trở thành một tấm gương tốt, nếu không học sinh của mình sẽ ra thế nào?”. Câu nói này hàm ý rằng, họ có thể trở thành người xấu, vì thế họ rất lo học sinh của mình trở thành người xấu. Chúng ta cứ nghĩ trẻ con cũng như vậy, bởi vì người lớn không tránh được cám dỗ, ngày nào cũng phải tự đấu tranh, vì thế khi dạy học sinh, họ cũng đem tâm thế ấy để nhìn nhận con trẻ. Hãy nhìn ra cuộc sống ở xung quanh, phần đông người lớn đang lo lắng: “Làm thế này con trẻ sẽ hư mất”. Nhưng một người bình thường, phát triển hoàn thiện sẽ không nghĩ như vậy. Chúng ta luôn nhắc nhở răn đe con trẻ, là bởi vì chúng ta không tin bản thân mình, chúng ta luôn lo sợ.

    Montessori nói: “Bi kịch của nhân loại nằm ở chỗ những người trong vòng tròn trắng đang dạy dỗ những trẻ trong vòng tròn xanh”. Khi những đứa trẻ trong vòng tròn xanh đang phát triển theo quỹ đạo hoàn thiện bản thân mình, thì những người ở vòng tròn trắng lại kéo chúng ra khỏi quỹ đạo ấy. Trong suốt thời kỳ trưởng thành trẻ không hiểu thế nào là không tốt, trẻ phát triển theo yêu cầu của bản thân. Trạng thái tự nhiên của trẻ đã là theo đuổi sự hoàn thiện mà không cần bất cứ sự cố gắng nào. Đối với trẻ, theo đuổi sự hoàn thiện không phải là một sự hy sinh, mà vốn dĩ cuộc sống của trẻ phải vậy.

    Đối với những người theo đuổi quyền-tiền-sắc-dục, nếu ngăn cấm ham muốn của họ, họ sẽ vô cùng đau khổ, bởi vì họ không thể cưỡng lại sự cám dỗ của quyền tiền sắc dục. Nếu bắt họ cả cuộc đời không được nghĩ đến điều này thì đó là khổ hạnh. Vì thế họ phải nghiêm chỉnh chấp hành quy định và pháp luật do người khác tạo ra, hoặc nghiêm chỉnh chấp hành những tín ngưỡng mà lãnh tụ tinh thần của họ đã quy định để giúp họ chống lại cám dỗ. Trong khi đó, những người trong vòng tròn xanh không cần ai truyền bá giáo điều gì, bởi vì họ nghiêm chỉnh chấp hành một cách trung thực những tín ngưỡng của bản thân họ. Họ không cần một lãnh tụ, cũng không cần những giáo quy tôn giáo, mà chỉ cần tuân thủ những quy tắc của bản thân mình. Vấn đề cốt lõi ở đây là, những quy tắc ấy được xây dựng trong sáu năm đầu đời. Vì thế những người nằm trong vòng tròn trắng và những người nằm gần vòng tròn đỏ ngoài cùng đó có nằm mơ cũng không thể tưởng tượng nổi những người trong vòng tròn xanh luôn vui vẻ như thế nào.

    Trẻ em có trạng thái cao hơn người lớn. Montessori cho rằng, một người có cảnh giới tư tưởng đạt được trình độ cao thì sẽ có vai trò thúc đẩy xã hội. Đó chính là những người được chúng ta gọi là người sáng tạo thế giới, hay nói cách khác họ là những người vui vẻ, những người tự hoàn thiện mình. Tuy rằng trên thế giới này, những người trong vòng tròn trắng chiếm phần đông, người trong vòng tròn xanh chỉ chiếm số ít, nhưng tinh thần và thành quả lao động của họ có tác dụng thúc đẩy nhân loại tiến bộ.

    Nhìn lại lịch sử, chúng ta có thể thấy rằng ở mỗi thời đại lịch sử đều có những người phấn đấu vì lý tưởng của mình. Ví dụ Abraham Lincoln xóa bỏ chế độ nô lệ da đen, Nelson Mandela giải quyết vấn đề kỳ thị chủng tộc. Những người trong vòng tròn màu xanh không cần lãng phí sức lực của mình để đấu tranh chống lại sự cám dỗ. Vậy mục đích của cả nhân loại là gì? Tôi cho rằng đó là hoàn thiện chính bản thân mình.

    Cho dù bạn có một tỷ đô-la Mỹ, có toàn thế giới này, nhưng rồi bạn phát hiện ra, mình vẫn là mình, vẫn đứng trên chỗ cũ, thế nên những gì bạn có đều trở nên vô nghĩa. Nhưng khi bạn không ngừng hoàn thiện bản thân mình, bạn sẽ phát hiện ra một bí mật, đó là khi bạn hoàn thiện chính mình, cũng có nghĩa là bạn đang hoàn thiện xã hội.

    Trong cuốn tiểu thuyết “Xơ Carrie(3)” có viết: Có những người sinh ra đã có tiền bạc và danh vọng; có những người trải qua bao nỗ lực mới có được tiền bạc và danh vọng; có những người sinh ra trên cả tiền bạc và danh vọng, lại có những người cố gắng hết cả cuộc đời mình vẫn không chạm đến được điều này. Điều này giống y như những gì Montessori đã nói. Đứng trước một sự việc, rất nhiều người đều nói rằng: “Việc này là không thể”. Tại sao vậy? Nguyên nhân là những người này luôn phải tự đấu tranh với bản thân mình. Còn những người làm được, vì họ không phải tự đấu tranh với bản thân, họ tập trung toàn bộ tinh lực để làm việc, để khắc phục khó khăn, và họ đã thành công.

    Vì thế những người trong vòng tròn màu xanh và những người trong vòng tròn màu trắng là hoàn toàn khác nhau. Người trong vòng tròn màu xanh tập trung toàn bộ sức lực vào việc hoàn thiện chính mình, trong khi người trong vòng tròn màu trắng thì tập trung toàn bộ sức lực để đấu tranh với bản thân.

    Montessori nói, tóm lại nhìn từ góc độ phẩm giá, những người trong vòng tròn màu trắng chiếm phần đông, tất cả bọn họ phải dùng gậy để chống đỡ cuộc đời mình. Nếu chúng ta vẫn giữ nguyên phương pháp giáo dục như trước nay, trình độ của nhân loại sẽ tiếp tục bị hạ thấp. Nếu con trẻ từ 0 đến 6 tuổi của cả một dân tộc không được phát triển tốt thì tố chất của dân tộc đó sẽ ngày càng đi xuống. Những người trong vòng tròn màu trắng đang dạy dỗ những đứa trẻ trong vòng tròn màu xanh, có thể họ sẽ nói rằng: “Không được tham quyền-tiền-sắc, điều đó có thể dẫn đến tội ác”. Nhưng trẻ con lại nói rằng: “Chúng con không tham quyền-tiền-sắc, chúng con thích chân-thiện-mỹ”. Hiển nhiên là, những người giáo viên của vòng tròn màu trắng sẽ hạ thấp trình độ của các em, không dẫn dắt các em đi đến sự hoàn thiện. Đây chính là điểm khác nhau giữa giáo dục cũ và giáo dục mới mà Montessori đã nói.

    Ngày hôm nay, chúng tôi đang theo đuổi một phương pháp giáo dục mới. Có thể, có người đã ý thức được điều này, một người tầm thường vì thời thơ ấu của anh ta không nhận được một sự giáo dục đúng đắn. Trên thực tế, năng lực thấp kém của một người hoàn toàn bắt nguồn từ việc bị người lớn khống chế từ 0 đến 6 tuổi.

    Montessori nói, nếu chúng ta tiến hành phương pháp giáo dục mới, chúng ta sẽ loại bỏ được những hạn chế mà con người gây ra với con trẻ. Chúng ta sẽ không còn chú trọng đến việc làm thế nào để làm việc lớn, hô to khẩu hiệu, mà chúng ta sẽ bắt đầu từ hiện thực, tức là để trẻ em hoàn toàn tự do được lắng nghe và làm theo sự thúc giục từ trái tim trẻ. Chỉ cần chúng ta làm được điều này, con trẻ của chúng ta sẽ được phát triển tốt.

    Một con người có thể đọc bao nhiêu sách lịch sử, triết học mà vẫn thiếu năng lực. Về điểm này tôi càng thấm thía hơn ai hết. Bạn thân của tôi và chồng cô ấy sống với nhau mười mấy năm trời. Mấy năm đầu cô ấy đọc bao nhiêu sách, vẫn phát hiện ra mình thiếu năng lực, không biết làm việc. Nhưng trong quá trình trưởng thành của mười năm sau, vì được sống trong tình yêu đích thực và tự do chưa từng có, cô ấy phát hiện ra mình đã có đủ khả năng, sự nghiệp cũng phát triển. Năng lực của một người không căn cứ trên người đó đã đọc bao nhiêu quyển sách, mà căn cứ vào sự hoàn thiện nhân cách của người đó, vì họ không còn cảm thấy những trở ngại tâm lý cản trở mình.

    Những người không gặp trở ngại bản thân họ có một sức mạnh. Sức mạnh ấy dẫn dắt họ tập trung toàn bộ sức lực vào một việc. Và họ toàn tâm toàn ý để làm tốt việc đó.

    Vì thế rất nhiều người phát hiện ra rằng, có những người chưa từng được học hành lại phát triển rất tốt, có những người học hành nhiều, lại sống rất hồ đồ. Điều này ít nhất cũng chứng minh một điều: Bạn đọc nhiều sách, nhưng có thể vẫn thiếu khả năng. Nếu bạn nhìn mọi người, nhìn thế giới bằng một tâm thái tích cực, bạn sẽ cảm thấy dễ chịu. Còn nếu bạn cảm thấy nơi đâu cũng đầy nguy hiểm rình rập, việc gì cũng khó khăn, có người hãm hại hay cản trở thì bạn sẽ phân tâm, chán nản, thất vọng, không thể tập trung sức lực vào mục tiêu chính. Những điều vụn vặt sẽ trói chân chúng ta vào những sự việc tầm thường, xa rời mục tiêu cuộc đời của mỗi con người.


    [Còn nữa]
     
  10. Đặng Châu Cảm ơm vì sự cố gắng của bạn.

    Bài viết:
    397
    Chương 20: LÀM THẾ NÀO ĐỂ TẠO MÔI TRƯỜNG TỐT CHO CON TRẺ?

    Bấm để xem
    Đóng lại
    “Môi trường phải có sức sống, giáo viên phải luôn tự hoàn thiện mình… Nếu giáo viên không chịu thay đổi, thì không thể tạo cho trẻ một môi trường có sức sống”. Câu nói này cũng phù hợp với những người làm cha mẹ. Nếu một người lớn luôn cứng nhắc, khép kín thì môi trường gia đình đó cũng sẽ thiếu sức sống, kiềm chế sự trưởng thành của con trẻ. Nếu trạng thái của người lớn là cởi mở, chuyển động… thì họ cũng cảm nhận được sự cởi mở và trưởng thành trong cuộc sống của con trẻ, hỗ trợ con trẻ trưởng thành.

    Tự nhiên sáng tạo ra mỗi con người, mỗi sinh mạng đều không giống nhau. Mỗi con người đều có thể xây dựng hệ thống sinh tồn và phát triển tự phát của mình. Đây chính là bản năng tự nhiên đã ban tặng cho chúng ta, có như vậy thế giới này mới trở nên nhiều màu sắc, sáng tạo và tràn đầy sức sống.

    Một nhà tâm lý học đã nói một câu thế này, cá tính và sức sáng tạo có liên hệ với nhau. Trên thực tế, cá tính nào cũng đẹp.

    Con trẻ căn cứ trên cá tính của mình để xây dựng tư duy và phương thức tình cảm của riêng trẻ. Ví dụ về mặt ngôn ngữ, có những đứa trẻ có thời kỳ nhạy cảm ngôn ngữ rất muộn, hơn 2 tuổi mới bắt đầu tập nói; có những đứa trẻ mới hơn 1 tuổi đã nói được cả câu. Chúng tôi phát hiện thấy những trẻ biết nói muộn rất phát triển về khả năng tư duy logic; những trẻ biết nói sớm thì nhanh nhẹn, khả năng phản ứng, khả năng ứng biến tốt. Thế nên, bạn không thể nói trẻ biết nói sớm hay biết nói chậm thông minh hơn.

    Phương pháp giáo dục Montessori tạo điều kiện phát triển cho từng trẻ, trong đó tự do là điều kiện phát triển tốt nhất. Có tự do, con trẻ học được cách luyện tập lặp đi lặp lại một sự vật và thực thể hóa sự vật đó. Đứa trẻ nào cũng theo đuổi hoạt động này, và hoạt động chuyển hóa tri thức thành năng lực này gọi là sức sáng tạo. Khi mốc 6 tuổi qua đi, một khi tâm trí mang tính hấp thu cũng không còn, trẻ sẽ bắt đầu hấp thu những tri thức được giảng giải bằng lời từ bên ngoài. Sức sáng tạo và cơ chế chuyển hóa tri thức thành năng lực đã được xây dựng một cách kiên cố trong bản thân trẻ, để trẻ sử dụng suốt cả cuộc đời. Vì thế mục đích và phương pháp giáo dục mới hoàn toàn khác hẳn so với quan niệm giáo dục trong quá khứ.

    Ví dụ như ngôn ngữ. Chúng ta phát hiện rất nhiều trẻ có sức sáng tạo về mặt ngôn ngữ. Con trẻ thích trốn ở những nơi không người, ví dụ góc nhà, gầm bàn, vách tủ, trong hốc cây để nói chuyện với nhau. Ở trường mầm non Montessori có một bé khi theo mẹ đến ăn cơm ở nhà ăn, lúc đó là mùa đông, khi bé há miệng, hơi bốc ra, bé nói: “Mẹ ơi nhìn xem đây là cái gì?”. Mẹ bé nói: “Hơi nước”. Bé bảo: “Không phải, đây là lòng nhiệt tình như lửa”. Lúc đó tất cả mọi người đều cười. Mẹ bé hỏi sao lại nói như vậy, bé trả lời: “Giờ âm nhạc mấy hôm nay chúng con đang học bài hát ‘Nữ thần vui vẻ’, trong đó có một câu là: ‘Chúng tôi mang lòng nhiệt tình như lửa đến với các bạn’. Mẹ thấy chưa, lòng nhiệt tình như lửa, vì thế con phải thổi nó ra”.

    Nhưng, hãy nhìn những người lớn chúng ta mà xem! Có lần, một cô giáo trường chúng tôi đi ngang qua cổng một trường mầm non, thấy cô giáo và học sinh đang chuyền bóng. Cô giáo ném bóng cho học sinh, học sinh không bắt được, cô nói: “Ngốc thật đấy, có thế mà cũng không bắt được”. Em bé vội chạy đi nhặt bóng. Nhặt được bóng, bé ném bóng cho cô, lần này cô cũng không bắt được. Lúc đó, cô giáo của chúng tôi nghĩ, bây giờ chắc học sinh đã có thể nói là cô ngốc thật đấy. Nhưng không, cô giáo kia nói: “Ngốc thật đấy, chuyền bóng cũng không biết chuyền”. Nghe xong, cô giáo của chúng tôi mắt chữ O mồm chữ A, trở về nói với chúng tôi: “Đúng là muốn nói ngoa làm cha mà nói, giờ thì muốn nói ngoa làm cô mà nói”.

    Đây chính là cách nói của một số người lớn. Khi chúng ta đối diện với trẻ, kinh nghiệm trưởng thành và các thói quen trong quá khứ đã bộc lộ hết. Chúng ta thích thuyết giáo, bởi vì chúng ta bị đè nén quá lâu, không có cách nào để đối phó lại với những người lớn, nên đành đối phó với những trẻ nhỏ yếu hơn mình. Người lớn không ý thức được những yếu kém của mình. Những trẻ trưởng thành trong môi trường này không có sức sáng tạo, những gì trẻ học được chỉ là quan sát sắc mặt của người khác, làm việc tùy theo tình thế để giảm bớt điều kiện sinh tồn thấp kém của mình. Nhưng người lớn sẽ nói: “Đứa trẻ này thông minh thật đấy!”. “Một đứa trẻ thông minh như thế mà không chịu khó học tập”.

    Vậy thông minh là gì?

    Hãy để chúng tôi dùng lý luận của Montessori xây dựng khái niệm liên quan đến sức tưởng tượng và sức sáng tạo. Montessori cho rằng: Sức tưởng tượng và sức sáng tạo là khả năng trời phú cho con người, được phát triển sau khi năng lực tâm lý và trí tuệ được hình thành trong quá trình trẻ tương tác với môi trường. Bởi vì trẻ phải tổ chức lại những tri thức mà mình đã cảm nhận được, nên môi trường nhất thiết phải chân thực. Có như vậy, con trẻ mới có thể trừu tượng hóa những phẩm chất riêng, chủ yếu của sự vật, từ đó có thể liên kết thành công hình tượng các sự vật và lưu giữ ở mặt ngoài cùng của ý thức. Montessori nhấn mạnh rằng, khả năng trừu tượng này đòi hỏi ba phẩm chất riêng: Thứ nhất, cần phải có sức chú ý đáng kinh ngạc và khả năng tập trung toàn phần, đây gần như một loại trạng thái chỉ xuất hiện khi trầm tư; thứ hai, cần có sự tự chủ tương đối và năng lực phán đoán độc lập; thứ ba, cần phải có lòng tin chờ đợi để tiếp nhận chân lý và sự thực bất cứ lúc nào.

    Có người hỏi, phương pháp giáo dục Montessori chỉ tiến hành ở cấp mầm non, vậy thì gia đình và xã hội có thể phối hợp được không? Liệu giáo dục ở gia đình và giáo dục ở trường mầm non có thể thống nhất với nhau? Ngoài ra, sau khi rời khỏi trường mầm non, trẻ còn phải học tiểu học, trung học cơ sở… Lúc này, phương pháp giáo dục trẻ cũng hoàn toàn khác biệt, vậy làm thế nào để phương pháp Montessori có thể vươn xa, tỏa rộng?

    Đây là câu hỏi mà rất nhiều người làm cha mẹ đã đưa ra, bởi vì có những trẻ sống cùng ông bà, hoặc người giúp việc nên gia đình không thể phối hợp với nhà trường. Khi trẻ vào trường Montessori, chúng tôi luôn yêu cầu gia đình phối hợp với nhà trường, nếu gia đình không phối hợp, chúng tôi không nhận trẻ. Chúng tôi phát hiện ra, sự phối hợp của bố mẹ và nhà trường khiến con trẻ phát triển rất tốt.

    Trên thực tế những người gửi con đến trường Montessori đều là những người có quan niệm hết sức tiến bộ, có tầm nhìn xa. Cho dù làm phép so sánh thì mức học phí của trường Montessori cao hơn mặt bằng chung, nhưng rất nhiều người làm cha mẹ vẫn chấp nhận. Vấn đề là phương pháp giáo dục mới và cũ quá khác nhau khiến cho những người thực thi cảm thấy quá áp lực, bên cạnh đó là cảm giác trách nhiệm và sứ mệnh cao cả. Thay đổi quan niệm của cha mẹ, để cha mẹ cùng trưởng thành với con cái, để trưởng thành trở thành trách nhiệm chung của cả gia đình và nhà trường, trưởng thành đem lại niềm vui cho tất cả mọi người.

    Trường Montessori yêu cầu tố chất của giáo viên rất cao, mỗi lớp chỉ từ hai mươi đến hai mươi lăm trẻ. Trẻ có đầy đủ không gian và thời gian để tiếp xúc với giáo viên, được sử dụng đầy đủ những giáo cụ và công việc mà giáo viên đã chuẩn bị cho con. Sau khi tiếp nhận phương pháp giáo dục Montessori, gia đình đã phát hiện ra những thay đổi không thể tưởng tượng của con trẻ.

    Ngoài ra, một số cha mẹ khác thì lo lắng khi con vào học lớp một sẽ thế nào? Theo hiểu biết của chúng tôi, giáo dục Montessori không những đặt nền móng cơ bản cho tiểu học, mà còn đặt nền móng cho cả cuộc đời con trẻ. Giáo dục Montessori không chú trọng đến những kiến thức cụ thể, nên cho dù trẻ lên bậc tiểu học, cũng vẫn cần chú trọng quá trình tri thức chuyển hóa thành năng lực. Trên thực tế, rất nhiều cha mẹ phát hiện ra rằng, khi trẻ có được tư duy tính sáng tạo, trẻ nắm vững các quy luật và chuẩn mực của cuộc sống, trẻ sẽ biết mình nên làm gì, vào lúc nào. Con trẻ nắm vững khái niệm một cách chuẩn xác, một, hai năm sau, bạn phát hiện ra rằng, không những trẻ có sức khỏe tốt, ý chí hơn người, thích làm toán mà còn có thể thảo luận với bạn những vấn đề khá có chiều sâu. Bạn ngạc nhiên hỏi: “Con học khi nào?”. Trẻ nói con không biết. “Ai dạy con?”. Trẻ cũng nói con không biết. Con trẻ đã tiếp nhận tri thức một cách tự nhiên, vui vẻ và tự giác vận dụng tố chất ấy, khả năng ấy vào cả cuộc đời của mình.

    Trong quá trình dạy học, chúng tôi cũng phát hiện, rất nhiều học sinh không học theo phương pháp của giáo viên, tự các em tổng kết ra “phương pháp riêng” của mình, đây chính là điều quan trọng nhất, cũng là điều khiến giáo viên chúng tôi tâm đắc nhất.

    Vậy khi nào thì con trẻ cần đến cái gọi là tri thức?

    Sau 6 tuổi, “tâm lý và trí lực mang tính hấp thu” của con trẻ về cơ bản sẽ mất đi, trẻ bắt đầu tiếp nhận “tri thức”, cũng chính là bắt đầu tiếp nhận những thứ được truyền thụ bằng hình thức “tri thức”. Trước 6 tuổi, trẻ không tiếp nhận những tri thức trừu tượng, trẻ chỉ tự lựa chọn ra một số sự việc để không ngừng phát triển tiềm năng và sức sáng tạo của trẻ. Đối với trẻ trước 6 tuổi, tri thức và kỹ năng giống như đồ ăn trong bức ảnh, là những đồ vật mang tính gián tiếp.

    Piaget (1896 - 1980) là nhà tâm lý học nổi tiếng của Thụy Sĩ, cũng là một nhà tâm lý học giáo dục mầm non hiện đại, ông nói với mọi người rằng, trẻ em thông qua các hoạt động để xây dựng bản thân. Ví dụ trẻ cầm cốc, trẻ liên tục cầm lên, đặt xuống... Trong quá trình ấy trẻ đã hình thành kinh nghiệm, kinh nghiệm ấy sinh ra trí lực, trí tuệ của con trẻ. Kinh nghiệm đó nói với trẻ rằng, lần sau phải làm thế nào cho tốt hơn. Những lời thuyết giáo của người lớn không thể giúp gì cho trẻ trong những việc này, người lớn bảo: “Con ơi, con để cái bát thế này sẽ không vỡ”. Không tác dụng gì, lần sau trẻ vẫn làm vỡ bát. Nhưng khi trẻ con được sử dụng cái bát, được luyện tập việc sử dụng, quá trình ấy sinh ra kinh nghiệm, kinh nghiệm sinh ra trí tuệ.

    Giáo dục truyền thống dạy học theo phương pháp “nhồi nhét”, không cần biết trẻ có hứng thú hay không mà cứ dụ dỗ và khích lệ để kêu gọi lòng nhiệt tình của học sinh, cố gắng nhồi nhét những thứ gọi là “tri thức” vào đầu con trẻ. Trong trạng thái giáo dục này, sức sáng tạo của con trẻ bị vùi dập, một khi con trẻ qua ngưỡng 6 tuổi thì không có cách nào khai phá trở lại. Phương pháp giáo dục mới không chỉ khiến con trẻ biết tên mà còn biết bản chất, và quy luật nội tại của sự vật.

    Biết sự vật đó như thế nào cũng chưa phải mục đích cuối cùng, mà chỉ là một kết quả. Bởi vì trẻ cảm thấy hứng thú nên sẽ lặp đi lặp lại nhiều lần, vì lặp đi lặp lại mà tập trung, từ tập trung mà sinh ra khả năng tự khống chế bản thân, trẻ có thể tự điều khiển bản thân rồi có ý chí, có ý chí nên có thể đào sâu bản chất của sự việc. Vì thế, biết sự vật mới chỉ là một công cụ, con trẻ mượn công cụ ấy để phát triển bản thân. Đây vốn là một quá trình tự nhiên. Trong quá trình này, tri thức, học tập chỉ là thứ bổ sung. Nhưng giáo dục truyền thống lại làm ngược lại, lại coi tri thức và học tập là mục tiêu cuối cùng, và thế là tai nạn đã xảy ra với con trẻ. Chúng ta biết rằng, rất nhiều tai nạn đều bắt nguồn từ đây.

    Công việc của chúng ta chính là cho trẻ một môi trường phát triển tốt, đây là một công việc rất khó khăn.

    Xuất phát từ nguyên tắc, môi trường của trẻ cần sự tự do, đẹp, chân thực, tự nhiên, trong đó điều kiện cốt lõi chính là giáo viên. Giáo viên là môi trường quan trọng nhất. Vậy thì một giáo viên như thế nào mới có thể giúp trẻ phát triển? Montessori nhấn mạnh rằng: “Môi trường phải có sức sống, giáo viên phải tự hoàn thiện bản thân mình … Nếu giáo viên không chịu thay đổi mình, thì không thể tạo cho trẻ một môi trường có sức sống”. Điểm này đặc biệt quan trọng. Nhà bạn tôi sạch sẽ, gọn gàng, ngăn nắp, có trật tự, đơn giản, sáng sủa… Tất cả những điểm này đều phù hợp với tiêu chuẩn Montessori, nhưng mỗi khi đến nhà họ tôi đều có cảm giác không thoải mái. Cô ấy bảo: “Vì con gái tớ, cậu nhất định phải tìm cho tớ nguyên nhân”. Sau đó, tôi bỗng nhận ra, tôi nói: “Hình như nhà cậu thiếu sức sống”. Cô ấy bảo: “Thế chúng tớ không phải là sự sống sao?”. Tôi nói: “Các cậu có tự mình trưởng thành không?”. Cô ấy trầm tư, sau đó nghi ngờ hỏi: “Chúng tớ phải tự trưởng thành sao?”. Đó chính là điều Montessori đã nói, nếu cuộc sống của một người trưởng thành không thay đổi, thì cá tính của người đó sẽ rất cứng nhắc. Một người không chịu thay đổi thì sẽ không có quá trình tự trưởng thành. Khi bạn thay đổi, bạn giống như một dòng sông không ngừng chảy. Bạn phải là một dòng sông chảy, nếu không bạn sẽ không bao giờ cảm nhận được con mình.

    Giáo viên chính là dòng sông chảy trong môi trường này. Khi giáo viên không ngừng phát triển bản thân mình, cả môi trường sẽ trở nên có sức sống. Trong “Jean Christophe”, Romain Rolland có nhắc tới một người hàng xóm làm giáo viên, người đó lúc nào cũng quay như con thoi, hết ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác, luôn luôn bận rộn, không bao giờ thay đổi. Điều này khiến người ta cảm thấy thật bi ai. Nó đem đến cho người ta một cảm giác, dường như làm giáo viên là phải như thế, nhưng một giáo viên Montessori tuyệt đối không được như vậy. Tất cả giáo viên ở trường chúng tôi đều đang không ngừng phát triển. Tất cả mọi người đều nói rằng, giáo viên của chúng tôi luôn thay đổi, nếu không thay đổi, cô không thể mang lại cho trò một môi trường có sức sống.

    Tôi biết, rất nhiều bạn học xa nhau mấy chục năm, gặp lại nhau luôn nói: “Cậu vẫn thế!”. Thật không biết nên cảm thấy vinh dự hay bi ai, vì trạng thái của một con người không nên là như vậy. Cả quá trình từ lúc sinh ra cho đến lúc mất đi là một quá trình không ngừng hoàn thiện, không ngừng tự trưởng thành, cho dù là đã sau tuổi ba mươi (bởi vì có rất nhiều người sau ba mươi tuổi sẽ không tiếp tục trưởng thành). Khi bạn đem tình yêu của mình cho người khác, cho con cái, cho bạn đời, cho xã hội… cả cuộc đời bạn sẽ thay đổi. Giống như Russell(1) đã nói, con người khi mới sinh ra giống như một giọt nước ngưng tụ trong không trung, rồi trở thành giọt mưa hay bông hoa tuyết rơi xuống núi cao và đất rộng; lại giống như những bông tuyết trên núi cao, tan chảy hòa vào dòng suối nhỏ chảy xuống; đến thời niên thiếu, dòng suối ấy ngày một lớn rộng, cuồn cuộn chảy xiết; đến thời thanh niên hội tụ thành dòng sông gào thét chảy về xuôi; đến thời trung niên trở thành dòng trường giang hiền hòa, sông rộng nước nhiều; đến khi về già, dòng chảy ấy trở nên khoáng đạt hiền hòa, sau cùng đổ ra biển lớn. Trạng thái phát triển của một con người nên là như vậy. Khi con người có được trạng thái phát triển như thế này, môi trường mà con người tạo ra cũng sống động, đầy sinh khí.

    Trong một môi trường giàu sức sống, con trẻ được tự do phát huy mọi tiềm năng của mình. Nếu bạn tạo ra một môi trường không có sức sống, môi trường ấy sẽ kìm hãm con trẻ phát triển, bởi vì ở trong môi trường này, chính bạn cũng không thể cảm nhận được sự trưởng thành của con trẻ. “Giáo viên phải có thái độ cởi mở với cuộc sống”. Nếu giáo viên cũng trưởng thành cùng con trẻ, cô sẽ có thái độ cởi mở với
    bản thân, với con trẻ và với cả trạng thái cuộc sống, cô biết chờ đợi con trẻ. Còn nếu cô đứng yên, cô sẽ không thể nhận ra sự thay đổi của con trẻ.

    Chỉ khi giáo viên thay đổi, giáo viên mới cảm nhận được sự thay đổi của trẻ. Trạng thái cuộc sống có sức lan truyền, sức hút lớn lao nhất. Mỗi khi đi qua một bóng cây râm mát, không khí mát mẻ ùa đến đó cho chúng ta một cảm giác thật đặc biệt. Cảm giác đó là cảm giác của sinh mệnh với sinh mệnh, một sự tương đồng, một sự hài hòa, một sự truyền sức mạnh, cho đi sức mạnh. Hãy thử xem, những lúc tinh thần bạn không vui nhất, chạy vào rừng sâu, hoặc chạy vào dưới tán cây, đứng ở đó, bạn sẽ cảm thấy tinh thần của mình ổn định hơn hẳn. Bạn nhận được điều gì từ bóng cây? Đó là năng lượng. Khi bạn cảm thấy khô kiệt tâm tư, khả năng nhất, hãy chạy vào rừng sâu, bạn sẽ có những linh cảm mới. Nếu trạng thái của bạn rất mạnh mẽ, bạn vẫn luôn không ngừng phát triển, bạn sẽ cho con trẻ một môi trường giàu sức sống, con trẻ có thể cảm nhận được môi trường không ngừng phát triển ấy từ chính bản thân bạn.

    Con trẻ cảm nhận nguồn năng lượng từ đâu? Nhờ có tình yêu của chúng ta, trẻ sẽ có cảm giác an toàn để phát triển bản thân mình. Nếu chúng ta không cho trẻ đầy đủ năng lượng của tình yêu, trẻ không thể phát triển tốt.

    Con trẻ là một bộ phận của tự nhiên, không giống như người lớn chúng ta đã xa rời tự nhiên, càng ngày càng cách xa. Ví dụ như con trẻ chơi với chó mèo, rất thân thiết, rất gần gũi. Các con vật cũng không đề phòng, không trả đũa trẻ. Trước đây, nhà tôi có nuôi một con mèo, đầu tiên quan hệ giữa mèo và con tôi rất tốt. Khi con tôi hơn 1 tuổi, còn hay cầm đuôi nhấc con mèo lên, hoặc cưỡi cả lên con mèo. Đối với con tôi, con mèo không khác gì con ngựa, con mèo bị nó giày vò đến nỗi “tinh thần phân liệt”. Mèo cứ thấy cu cậu ở đâu thì lập tức trốn ngay. Con tôi đi khỏi, mèo mới bò ra, nằm trên bàn của chồng tôi, nhìn chồng tôi viết sách, hoặc là tự chơi một lúc. Khi căn phòng hoàn toàn yên tĩnh, có một chú mèo ở đó càng khiến cho sự yên tĩnh thêm sâu sắc. Điều lạ là mèo không hề tức giận với trẻ con, nó không hề trả đũa con trai tôi, nó chỉ trốn mà không cào, không bắt. Có những lúc, chúng tôi còn lôi cả mèo và người từ trong gầm giường ra cùng một lúc.

    Montessori nói: “Trẻ em là một phần của tự nhiên”. Hãy nhớ kỹ, trẻ em tồn tại như một phần của tự nhiên. Trẻ em phải nhận được một phần ưu tú nhất từ tinh thần của người lớn. Chỉ khi giáo viên cũng trưởng thành, con trẻ cảm nhận được điều đó từ bản thân giáo viên, đó mới là môi trường và trạng thái tốt nhất cho trẻ. Đến tuổi 40, thậm chí là trước đó, người lớn đã từ bỏ lý tưởng và hy vọng của mình, điều đó cũng có nghĩa là từ bỏ sự phát triển bản thân. Vạn vật đều đang phát triển, tại sao một con người ngừng phát triển lại được coi là bình thường? Không phát triển có nghĩa là sa sút về tinh thần, có nghĩa là không còn cảm giác với thế giới này, có nghĩa là chúng ta không còn những niềm vui đích thực. Không còn những điều căn bản ấy, thì cuộc sống của chúng ta còn có nghĩa lý gì với con trẻ?

    Chị của bạn gái tôi, khi kết hôn không được mẹ chồng mua cho chăn len. Những năm 50 của thế kỷ XX, Trung
    Quốc vẫn rất nghèo, một chiếc chăn toàn len rất quý. Chiếc chăn len ấy cùng năm tháng cũng biến thành một nỗi khúc mắc trong lòng chị. Suốt mấy chục năm nay chỉ cần cãi nhau với chồng, câu chuyện cái chăn len lại được nhắc tới. Bây giờ điều kiện đã tốt hơn, thừa sức mua một cái chăn len khác, nhưng không được, phải là cái chăn len năm ấy. Trạng thái tâm trí và cuộc sống ấy, rõ ràng là của một đứa trẻ 3 tuổi. Một người phụ nữ như thế không bao giờ có thể trở thành một người mẹ tốt, một người vợ tốt. Người phụ nữ ấy sẵn sàng tranh cãi với con vì một việc nhỏ, đương nhiên là người lớn sẽ giành phần thắng. Phần lớn những người làm cha mẹ có khuynh hướng bạc đãi con cái đều là những người đã gặp bất hạnh ở tuổi ấu thơ. Họ không thể hiểu tại sao con trẻ lại làm như vậy, họ không thể khoan dung con trẻ, và họ càng thích bắt ép con trẻ hơn. Họ đã mất đi khả năng tìm hiểu, cho dù là đối với con trẻ hay là đối với cả thế giới này.

    Vì thế trong thực tiễn giáo dục của chúng tôi có một kinh nghiệm, nếu cha mẹ không tán đồng quan niệm giáo dục Montessori, chúng tôi sẽ không nhận con cái họ. Chúng tôi biết rằng, khi cha mẹ không tán đồng quan niệm giáo dục này, họ sẽ chỉ trích trước mặt con, con trẻ bị cha mẹ ám thị, sẽ không thể chung sống hài hòa với môi trường. Ví dụ trường chúng tôi có một trẻ, bé được chuyển từ trường khác đến. Sau khi mẹ bé tìm hiểu về phương pháp giáo dục này thì đưa bé đến đây. Nhưng bố bé và ông bà bé đều phản đối. Vì bé được chuyển từ trường mầm non truyền thống đến nên bé rất thích sự tự do ở nơi đây, ngày nào bé cũng chơi rất vui vẻ, chơi xong thì ăn, ăn xong thì chơi, không hề vào lớp học. Đây là hiện tượng bình thường của những trẻ mới chuyển từ trường truyền thống vào trường Montessori. Nhưng khi bé về nhà, để lấy lòng bà, bé nói cô không cho bé ăn, không cho bé uống sữa, không cho bé ngủ. Mẹ bé đến hỏi, thì cô giáo rất ngạc nhiên, nói: “Ngày nào con ăn xong một bát em cũng lấy thêm cho con bát thứ hai, con ăn rất tốt mà”. Tôi đã đi hỏi riêng cô giáo, cô giáo nói bé có thói quen nói dối, sau đó tôi phát hiện ra vì bà của bé phản đối phương pháp giáo dục này, nên bé nói vậy để lấy lòng bà. Một đứa trẻ như vậy, bé sẽ biết dựa theo thái độ và yêu cầu của những thành viên trong gia đình mà nói dối để lấy lòng mọi người. Cứ như vậy, thì cho dù cô giáo có cố gắng đến bao nhiêu thì bé vẫn phát triển rất chậm, nhân cách vẫn phân liệt. Sự phát triển của con trẻ chịu sự ảnh hưởng lớn từ gia đình. Vì thế, chúng tôi không nhận những trẻ này. Sự ám thị của người lớn rất nặng nề. Ví dụ như tự do, có những cha mẹ nói trường quá tự do, nên rất nhiều trẻ em hỏi: “Mẹ ơi, tự do là gì hả mẹ?”. Điều này khiến con trẻ cảm thấy nghi ngờ.

    Một con người không trưởng thành thì rất ngoan cố, có thể họ không chịu thay đổi một quan niệm từ mười mấy năm trước. Còn nhớ một lần, tôi có nói với một bạn học của mình rằng, nuôi con cần phải hiểu con, yêu con, tự tay chăm sóc con. Cô ấy nhờ người trông trẻ trông con, nên cô ấy nói: “Thuê người trông trẻ nhàn lắm, người ta vừa nấu cơm, vừa trông con cho”. Tôi nói với cô ấy: “Con là con của cậu, cậu không thể để người trông trẻ thay thế vai trò của người mẹ, điều đó có nghĩa là mẹ và con đang có một khoảng cách rất nghiêm trọng”. Đạo lý này vô cùng đơn giản.

    Trường học phải chịu trách nhiệm đối với tiền đồ của con trẻ, đối với tố chất của cả dân tộc. Chúng tôi phải có những giáo viên tốt nhất, phải tạo cho trẻ một môi trường nhân văn nhất, đây cũng là nguyên tắc cao nhất. Trên thực tế, khi chúng tôi chọn giáo viên, chúng tôi luôn mong muốn người này có được một trạng thái tinh thần tốt nhất, giáo viên ấy phải tự giác, không ngừng và mạnh dạn phát triển bản thân mình. Nếu bạn phát hiện ra một sự vật đã giúp đỡ cho mình, bạn phải ngay lập tức nắm bắt sự vật ấy, bởi vì nó có thể thay đổi bạn. Liên tục nắm bắt, liên tục nắm bắt, mười năm sau, bạn sẽ thay đổi hoàn toàn, bạn phát hiện ra mình đã vượt xa những người xung quanh mình. Được như vậy bạn sẽ trở nên ưu tú, nếu bạn ưu tú, sẽ có một ngày bạn thành công. Bạn hãy kiên định niềm tin này. Xã hội này sẽ dùng những người ưu tú nhất. Xã hội không dùng bạn, chắc chắn là vì bạn còn có một nhược điểm chết người nào đó. Tôi luôn quan sát kỹ những con người và những sự việc ở xung quanh mình, tôi phát hiện ra, những người tài hoa rõ nét mà vẫn không được trọng dụng là vì bản thân người đó còn những nhược điểm chết người khác. Vì thế khi bạn tin vào bản thân mình, nâng cao bản thân, bạn sẽ tìm được vị trí thích hợp với mình, bạn sẽ có thể đặt mình vào vị trí mà bạn cảm thấy thích.

    Nếu người lớn có thể không ngừng thay đổi bản thân mình, chúng ta sẽ phát hiện ra chúng ta đã tiếp thu được bao nhiêu phẩm chất ưu tú từ con trẻ. Vì con trẻ của chúng ta chưa từng “nhiễm sự đời”, không những trẻ mong chờ được phát triển, mà đồng thời trẻ cũng phản ánh những vấn đề của người lớn chúng ta. Ví dụ hai đứa trẻ tranh nhau một cái mũ, đánh lộn nhau. Một lát sau đứa bé đó lặng lẽ đến phía sau đứa kia, cô giáo nhìn thấy thì chột dạ: “Thôi chết, con cầm cái gì ra đánh bạn thế kia?”. Nhưng không phải! Bé mang cái mũ đó ra, đội cho cậu bạn ở phía trước, và còn đứng đó ngắm nghía một lúc, rồi đi! Nhưng người lớn chúng ta lại nghĩ rằng cậu bé đi báo thù. Đó là một việc nhỏ, nhưng chứng minh rằng dù ít dù nhiều người lớn chúng ta đã quan niệm như vậy. Trên thực tế, nếu bạn nhìn người khác với một tâm thái tích cực, bạn sẽ cảm thấy thế giới này vẫn tràn đầy hy vọng.

    Thế nên, có thể tự phát triển bản thân là một phần quan trọng nhất khi theo đuổi phương pháp giáo dục này. Chỉ cần bạn không ngừng phát triển bản thân, bạn sẽ đạt được một trình độ nhất định. Vì thế, Montessori nói: “Giáo viên có thể tham dự vào những thay đổi liên tục trong cuộc sống của con trẻ hay không, mấu chốt là ở đây”.


    [Còn nữa]
     
Trạng thái chủ đề:
Đã bị khóa
Trả lời qua Facebook
Đang tải...