- Xu
- 34,403


I. ĐÔI NÉT VỀ VUA MINH MẠNG
*Thân thế
Tên húy của ông là Nguyễn Phúc Đảm (阮福膽), còn có tên khác là Nguyễn Phúc Kiểu (阮福晈). Ông là con trai thứ tư của vua Gia Long và Thuận Thiên Cao hoànTg hậu Trần Thị Đang . Ông sinh ngày 23 tháng 4 năm Tân Hợi, tức 25 tháng 5 năm 1791 tại làng Tân Lộc, gần Gia Định, trong lúc đang xảy ra Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1787-1802) .
Con thứ nhất của Gia Long là hoàng thái tử Nguyễn Phúc Cảnh mất sớm vào năm 1801. Do thái tử Cảnh và người con chịu nhiều ảnh hưởng của đạo Gia Tô từ Pháp nên sau khi hoàng tử Cảnh qua đời, vua Gia Long không chọn cháu đích tôn của mình (con của hoàng tử Cảnh) làm người người kế vì sợ những ảnh hưởng của Pháp tới triều đình.
Mặc dù có nhiều đình thần phản đối (đặc biệt là Lê Văn Duyệt ) nhưng vua Gia Long vẫn quyết chọn Nguyễn Phúc Đảm làm người kế vị. Hoàng tử Đảm vốn là người hay bài xích đạo Gia Tô và không có cảm tình với người Pháp – tư tưởng này giống với Gia Long. Năm 1815, Nguyễn Phúc Đảm được phong Hoàng thái tử và từ đó sống ở điện Thanh Hòa để quen với việc trị nước.
Theo ý kiến của các nhà nghiên cứu Nguyễn Phan Quang, Đặng Việt Thuỷ và Đặng Thành Trung, Minh Mạng là người được Gia Long lựa chọn truyền ngôi, không chỉ vì năng lực mà còn vì hy vọng gửi gắm vào ông thực hiện chính sách thoát khỏi ảnh hưởng và âm mưu áp chế của người Pháp, bởi khi còn sống, Gia Long đã chịu ơn người Pháp và không thể ra mặt giải quyết những mâu thuẫn giữa nhằm thoát khỏi ảnh hưởng đó.
Minh Mạng (chữ Hán: 明命) hay Minh Mệnh, là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Nguyễn, vương triều cuối cùng của nền quân chủ Việt Nam . Ông trị vì từ năm 1820 đến khi qua đời (ngày 20 tháng 1 năm 1841) được truy tôn miếu hiệu là Nguyễn Thánh Tổ (阮聖祖).
*Gia đình:
Trong đời sống riêng tư, người ta cũng phải ngạc nhiên về sức cường tráng của ông. Không có tài liệu cho biết chân dung và thể lực của ông như thế nào, chỉ biết ông có nhiều vợ và rất đông các phi tần. Có một bài thuốc bổ dương mang tên Minh Mạng thang được quan Thái y căn cứ vào thể chất và sinh hoạt của ông để lập ra thang thuốc rượu.
Ông không lập hoàng hậu, mà chỉ lập hoàng phi. Chỉ có vị Tá Thiên Nhân hoàng hậu (tước vị được phong sau khi mất), húy là Hồ Thị Hoa, còn có tên là Thật, sinh 1791. Bà qua đời năm 1807, 13 ngày sau khi sinh hạ Hoàng tử trưởng Nguyễn Phúc Miên Tông (tức vua Thiệu Trị sau này). Lăng của bà hiệu là Hiếu Đông Lăng, phía tả lăng Thiệu Trị, tại làng Cư Chánh, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên.
Sách Minh Mạng chính yếu chép: Năm Minh Mạng thứ sáu, mùa Xuân, tháng giêng, trong Kinh Kỳ ít mưa, nhà vua lấy làm lo, chỉ dụ cho quan Thượng Bảo Khanh là ông Hoàng Quỳnh rằng:
"Hai ba năm trở lại đây, hạn hán liên tiếp. Trẫm nghĩ tự đâu đến thế nhưng chưa tìm ra nguyên nhân, hoặc là trong thâm cung cung nữ nhiều âm khi uất tắc mà nên như vậy ư? Nay bớt đi, cho ra 100 người, ngõ hầu có thể giải trừ thiên tai vậy".
Các phi tần của vua Minh Mạng:
Minh Mạng không chỉ có nhiều vợ mà ông còn có rất nhiều con cái. Ông có tới 142 người con trong đó có 78 hoàng tử và 64 công chúa.
Minh Mạng thường dặn các con rằng:
"Phàm con nhà giàu sang ăn ngon mặc đẹp không quen vất vả thì đến lúc làm việc làm chẳng nổi. Trẫm từ ngày lên ngôi coi chầu xét việc đến khi xế bóng mới nghỉ, dầu ở cung cũng xem xét các sớ chương ở các nơi gởi về. Trẫm nghĩ có siêng năng thì việc mới thành nên chẳng dám nhàn rỗi. Các con còn trẻ có sức mạnh nên tập làm việc chớ ham chơi bời, biếng nhác."
Đế hệ phi và Phiên hệ phi:
Năm 1823, Minh Mạng đã làm bài Đế hệ thi và 10 bài Phiên hệ thi để quy định các chữ lót đặt tên cho con cháu các thế hệ sau.
Vua Minh Mạng cũng ban cho dòng họ của các con vua Gia Long 10 bài phiên hệ thi
Chữ lót của mỗi đời dùng một chữ trong bài thơ, nhưng tên ở mỗi đời thì phải dùng một bộ trong ngũ hành theo thứ tự: Thổ, kim, thủy, mộc, hỏa và trở lại, vì thế tên của tất cả đời thứ nhất dùng bộ thổ.
Tên húy của ông là Nguyễn Phúc Đảm (阮福膽), còn có tên khác là Nguyễn Phúc Kiểu (阮福晈). Ông là con trai thứ tư của vua Gia Long và Thuận Thiên Cao hoànTg hậu Trần Thị Đang . Ông sinh ngày 23 tháng 4 năm Tân Hợi, tức 25 tháng 5 năm 1791 tại làng Tân Lộc, gần Gia Định, trong lúc đang xảy ra Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1787-1802) .
Con thứ nhất của Gia Long là hoàng thái tử Nguyễn Phúc Cảnh mất sớm vào năm 1801. Do thái tử Cảnh và người con chịu nhiều ảnh hưởng của đạo Gia Tô từ Pháp nên sau khi hoàng tử Cảnh qua đời, vua Gia Long không chọn cháu đích tôn của mình (con của hoàng tử Cảnh) làm người người kế vì sợ những ảnh hưởng của Pháp tới triều đình.
Mặc dù có nhiều đình thần phản đối (đặc biệt là Lê Văn Duyệt ) nhưng vua Gia Long vẫn quyết chọn Nguyễn Phúc Đảm làm người kế vị. Hoàng tử Đảm vốn là người hay bài xích đạo Gia Tô và không có cảm tình với người Pháp – tư tưởng này giống với Gia Long. Năm 1815, Nguyễn Phúc Đảm được phong Hoàng thái tử và từ đó sống ở điện Thanh Hòa để quen với việc trị nước.
Theo ý kiến của các nhà nghiên cứu Nguyễn Phan Quang, Đặng Việt Thuỷ và Đặng Thành Trung, Minh Mạng là người được Gia Long lựa chọn truyền ngôi, không chỉ vì năng lực mà còn vì hy vọng gửi gắm vào ông thực hiện chính sách thoát khỏi ảnh hưởng và âm mưu áp chế của người Pháp, bởi khi còn sống, Gia Long đã chịu ơn người Pháp và không thể ra mặt giải quyết những mâu thuẫn giữa nhằm thoát khỏi ảnh hưởng đó.
Minh Mạng (chữ Hán: 明命) hay Minh Mệnh, là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Nguyễn, vương triều cuối cùng của nền quân chủ Việt Nam . Ông trị vì từ năm 1820 đến khi qua đời (ngày 20 tháng 1 năm 1841) được truy tôn miếu hiệu là Nguyễn Thánh Tổ (阮聖祖).
Chân dung Minh Mạng theo tranh minh họa
*Gia đình:
Trong đời sống riêng tư, người ta cũng phải ngạc nhiên về sức cường tráng của ông. Không có tài liệu cho biết chân dung và thể lực của ông như thế nào, chỉ biết ông có nhiều vợ và rất đông các phi tần. Có một bài thuốc bổ dương mang tên Minh Mạng thang được quan Thái y căn cứ vào thể chất và sinh hoạt của ông để lập ra thang thuốc rượu.
Lăng Minh Mạng
Ông không lập hoàng hậu, mà chỉ lập hoàng phi. Chỉ có vị Tá Thiên Nhân hoàng hậu (tước vị được phong sau khi mất), húy là Hồ Thị Hoa, còn có tên là Thật, sinh 1791. Bà qua đời năm 1807, 13 ngày sau khi sinh hạ Hoàng tử trưởng Nguyễn Phúc Miên Tông (tức vua Thiệu Trị sau này). Lăng của bà hiệu là Hiếu Đông Lăng, phía tả lăng Thiệu Trị, tại làng Cư Chánh, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên.
Sách Minh Mạng chính yếu chép: Năm Minh Mạng thứ sáu, mùa Xuân, tháng giêng, trong Kinh Kỳ ít mưa, nhà vua lấy làm lo, chỉ dụ cho quan Thượng Bảo Khanh là ông Hoàng Quỳnh rằng:
"Hai ba năm trở lại đây, hạn hán liên tiếp. Trẫm nghĩ tự đâu đến thế nhưng chưa tìm ra nguyên nhân, hoặc là trong thâm cung cung nữ nhiều âm khi uất tắc mà nên như vậy ư? Nay bớt đi, cho ra 100 người, ngõ hầu có thể giải trừ thiên tai vậy".
Các phi tần của vua Minh Mạng:
- Phi: Hiền phi Ngô Thị Chính và Gia phi Phạm Thị Tuyết
- Tần: Trang tần Trần Thị Tuyến, Thục tần Nguyễn Thị Bửu, Huệ tần Trần Thị Huân, An tần Hồ Thị Tùy, Hòa tần Nguyễn Thị Khuê, Lệ tần Nguyễn Thị Thúy Trúc.
- Tiệp dư: Lệ Thị Ái và Vũ Thị Viên.
- Quý nhân: Lương Thị Nguyện, Cái Thị Trinh, Nguyễn Thị Tràng, Đỗ Thị Tùng, Đỗ Thị Tâm, Lê Thị Lộc, Nguyễn Thị Hạnh
- Mỹ nhân: Nguyễn Thị Bân, Đoàn Thị Thụy.
- Tài nhân: Đinh Thị Nghĩa, Trần Thị Tiền, Nguyễn Thị Tính, Đỗ Thị Cương, Trần Thị Thanh, Trần Thị Trúc, Trần Thị Sám, Bùi Thị Sơn.
- Cung nhân: Lê Thị Cầm, Cao Thị Diệu, Đặng Thị Yểu Điệu, Lê Thị Đính, Trần Thị Mỹ, Trần Thị Nhã, Trần Thị Nhạn, Hồ Thị Thể, Nguyễn Thị Xuân, Lê Thị Thông, Phan Thị Viên, Trần Thị Viêm, Nguyễn Thị Vĩnh. Nguyễn Thị Được, Lê Thị Tường.
Minh Mạng không chỉ có nhiều vợ mà ông còn có rất nhiều con cái. Ông có tới 142 người con trong đó có 78 hoàng tử và 64 công chúa.
Minh Mạng thường dặn các con rằng:
"Phàm con nhà giàu sang ăn ngon mặc đẹp không quen vất vả thì đến lúc làm việc làm chẳng nổi. Trẫm từ ngày lên ngôi coi chầu xét việc đến khi xế bóng mới nghỉ, dầu ở cung cũng xem xét các sớ chương ở các nơi gởi về. Trẫm nghĩ có siêng năng thì việc mới thành nên chẳng dám nhàn rỗi. Các con còn trẻ có sức mạnh nên tập làm việc chớ ham chơi bời, biếng nhác."
Đế hệ phi và Phiên hệ phi:
Năm 1823, Minh Mạng đã làm bài Đế hệ thi và 10 bài Phiên hệ thi để quy định các chữ lót đặt tên cho con cháu các thế hệ sau.
Vua Minh Mạng cũng ban cho dòng họ của các con vua Gia Long 10 bài phiên hệ thi
Chữ lót của mỗi đời dùng một chữ trong bài thơ, nhưng tên ở mỗi đời thì phải dùng một bộ trong ngũ hành theo thứ tự: Thổ, kim, thủy, mộc, hỏa và trở lại, vì thế tên của tất cả đời thứ nhất dùng bộ thổ.