Vua Minh Mạng - Vị vua nhiều công trạng nhất triều Nguyễn

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi hòn đá nhỏ, 4 Tháng sáu 2021.

  1. hòn đá nhỏ

    Bài viết:
    86
    I. ĐÔI NÉT VỀ VUA MINH MẠNG

    Bấm để xem
    Đóng lại
    *Thân thế

    Tên húy của ông là Nguyễn Phúc Đảm (阮福膽), còn có tên khác là Nguyễn Phúc Kiểu (阮福晈). Ông là con trai thứ tư của vua Gia Long và Thuận Thiên Cao hoànTg hậu Trần Thị Đang . Ông sinh ngày 23 tháng 4 năm Tân Hợi, tức 25 tháng 5 năm 1791 tại làng Tân Lộc, gần Gia Định, trong lúc đang xảy ra Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1787-1802) .

    Con thứ nhất của Gia Longhoàng thái tử Nguyễn Phúc Cảnh mất sớm vào năm 1801. Do thái tử Cảnh và người con chịu nhiều ảnh hưởng của đạo Gia Tô từ Pháp nên sau khi hoàng tử Cảnh qua đời, vua Gia Long không chọn cháu đích tôn của mình (con của hoàng tử Cảnh) làm người người kế vì sợ những ảnh hưởng của Pháp tới triều đình.

    Mặc dù có nhiều đình thần phản đối (đặc biệt là Lê Văn Duyệt ) nhưng vua Gia Long vẫn quyết chọn Nguyễn Phúc Đảm làm người kế vị. Hoàng tử Đảm vốn là người hay bài xích đạo Gia Tô và không có cảm tình với người Pháp – tư tưởng này giống với Gia Long. Năm 1815, Nguyễn Phúc Đảm được phong Hoàng thái tử và từ đó sống ở điện Thanh Hòa để quen với việc trị nước.

    Theo ý kiến của các nhà nghiên cứu Nguyễn Phan Quang, Đặng Việt Thuỷ và Đặng Thành Trung, Minh Mạng là người được Gia Long lựa chọn truyền ngôi, không chỉ vì năng lực mà còn vì hy vọng gửi gắm vào ông thực hiện chính sách thoát khỏi ảnh hưởng và âm mưu áp chế của người Pháp, bởi khi còn sống, Gia Long đã chịu ơn người Pháp và không thể ra mặt giải quyết những mâu thuẫn giữa nhằm thoát khỏi ảnh hưởng đó.

    Minh Mạng (chữ Hán: 明命) hay Minh Mệnh, là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Nguyễn, vương triều cuối cùng của nền quân chủ Việt Nam . Ông trị vì từ năm 1820 đến khi qua đời (ngày 20 tháng 1 năm 1841) được truy tôn miếu hiệu là Nguyễn Thánh Tổ (阮聖祖).

    [​IMG]

    Chân dung Minh Mạng theo tranh minh họa​

    *Gia đình:

    Trong đời sống riêng tư, người ta cũng phải ngạc nhiên về sức cường tráng của ông. Không có tài liệu cho biết chân dung và thể lực của ông như thế nào, chỉ biết ông có nhiều vợ và rất đông các phi tần. Có một bài thuốc bổ dương mang tên Minh Mạng thang được quan Thái y căn cứ vào thể chất và sinh hoạt của ông để lập ra thang thuốc rượu.

    [​IMG]

    Lăng Minh Mạng​

    Ông không lập hoàng hậu, mà chỉ lập hoàng phi. Chỉ có vị Tá Thiên Nhân hoàng hậu (tước vị được phong sau khi mất), húy là Hồ Thị Hoa, còn có tên là Thật, sinh 1791. Bà qua đời năm 1807, 13 ngày sau khi sinh hạ Hoàng tử trưởng Nguyễn Phúc Miên Tông (tức vua Thiệu Trị sau này). Lăng của bà hiệu là Hiếu Đông Lăng, phía tả lăng Thiệu Trị, tại làng Cư Chánh, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên.

    Sách Minh Mạng chính yếu chép: Năm Minh Mạng thứ sáu, mùa Xuân, tháng giêng, trong Kinh Kỳ ít mưa, nhà vua lấy làm lo, chỉ dụ cho quan Thượng Bảo Khanh là ông Hoàng Quỳnh rằng:

    "Hai ba năm trở lại đây, hạn hán liên tiếp. Trẫm nghĩ tự đâu đến thế nhưng chưa tìm ra nguyên nhân, hoặc là trong thâm cung cung nữ nhiều âm khi uất tắc mà nên như vậy ư? Nay bớt đi, cho ra 100 người, ngõ hầu có thể giải trừ thiên tai vậy".

    Các phi tần của vua Minh Mạng:

    • Phi: Hiền phi Ngô Thị Chính và Gia phi Phạm Thị Tuyết
    • Tần: Trang tần Trần Thị Tuyến, Thục tần Nguyễn Thị Bửu, Huệ tần Trần Thị Huân, An tần Hồ Thị Tùy, Hòa tần Nguyễn Thị Khuê, Lệ tần Nguyễn Thị Thúy Trúc.
    • Tiệp dư: Lệ Thị Ái và Vũ Thị Viên.
    • Quý nhân: Lương Thị Nguyện, Cái Thị Trinh, Nguyễn Thị Tràng, Đỗ Thị Tùng, Đỗ Thị Tâm, Lê Thị Lộc, Nguyễn Thị Hạnh
    • Mỹ nhân: Nguyễn Thị Bân, Đoàn Thị Thụy.
    • Tài nhân: Đinh Thị Nghĩa, Trần Thị Tiền, Nguyễn Thị Tính, Đỗ Thị Cương, Trần Thị Thanh, Trần Thị Trúc, Trần Thị Sám, Bùi Thị Sơn.
    • Cung nhân: Lê Thị Cầm, Cao Thị Diệu, Đặng Thị Yểu Điệu, Lê Thị Đính, Trần Thị Mỹ, Trần Thị Nhã, Trần Thị Nhạn, Hồ Thị Thể, Nguyễn Thị Xuân, Lê Thị Thông, Phan Thị Viên, Trần Thị Viêm, Nguyễn Thị Vĩnh. Nguyễn Thị Được, Lê Thị Tường.

    Minh Mạng không chỉ có nhiều vợ mà ông còn có rất nhiều con cái. Ông có tới 142 người con trong đó có 78 hoàng tử và 64 công chúa.

    Minh Mạng thường dặn các con rằng:

    "Phàm con nhà giàu sang ăn ngon mặc đẹp không quen vất vả thì đến lúc làm việc làm chẳng nổi. Trẫm từ ngày lên ngôi coi chầu xét việc đến khi xế bóng mới nghỉ, dầu ở cung cũng xem xét các sớ chương ở các nơi gởi về. Trẫm nghĩ có siêng năng thì việc mới thành nên chẳng dám nhàn rỗi. Các con còn trẻ có sức mạnh nên tập làm việc chớ ham chơi bời, biếng nhác."

    Đế hệ phi và Phiên hệ phi:

    Năm 1823, Minh Mạng đã làm bài Đế hệ thi và 10 bài Phiên hệ thi để quy định các chữ lót đặt tên cho con cháu các thế hệ sau.

    Vua Minh Mạng cũng ban cho dòng họ của các con vua Gia Long 10 bài phiên hệ thi

    Chữ lót của mỗi đời dùng một chữ trong bài thơ, nhưng tên ở mỗi đời thì phải dùng một bộ trong ngũ hành theo thứ tự: Thổ, kim, thủy, mộc, hỏa và trở lại, vì thế tên của tất cả đời thứ nhất dùng bộ thổ.
     
  2. Đăng ký Binance
  3. hòn đá nhỏ

    Bài viết:
    86
    II. Trị vì đất nước

    Bấm để xem
    Đóng lại
    1) Thời gian đầu tiên sau khi Gia Long mất (1820)

    Tháng 12 năm Kỷ Mão (đầu năm 1820), vua Gia Long qua đời. Tháng giêng năm Canh Thìn (1820 ), Nguyễn Phúc Đảm lên nối ngôi, đặt niên hiệu là Minh Mạng. Bấy giờ ông đã 30 tuổi nên rất am hiểu việc triều chính. Nhiều lần sau buổi chầu, ông cùng một vài quan đại thần ở lại để bàn việc, hoặc hỏi về các sự tích xưa, hoặc hỏi về những nhân vật cùng phong tục các nước khác.

    Minh Mạng được xem là một vị vua siêng năng, luôn thức khuya dậy sớm để xem xét công việc, có khi thắp đèn đọc sớ chương ở các nơi gởi về đến trống canh ba mới nghỉ. Ông thường bảo với các quan:

    "Lòng người, ai chả muốn yên hay vì chuyện sinh sự để thay đổi luôn, lúc trẻ tuổi còn khoẻ mạnh mà không biết sửa sang mọi việc, đến lúc già yếu thì còn mong làm gi được nữa. Bởi thế trẫm không dám lười biếng bất kỳ lúc nào."

    Thật vậy, trong suốt thời gian trị vì của mình, vua Minh Mạng đã thay đổi rất nhiều việc, từ nội trị, ngoại giao cho đến những cải cách xã hội cùng những việc trong dòng họ.

    2) Quốc hiệu Đại Nam

    Sau khi lên ngôi, Minh Mạng đã xin triều đình Mãn Thanh cho phép đổi quốc hiệu Việt Nam thành Đại Nam, ngụ ý một quốc gia Phương Nam rộng lớn. Tuy nhiên triều đình Mãn Thanh không chính thức chấp thuận. Đến ngày 15 tháng 2 năm 1839, nhận thấy triều Mãn Thanh suy yếu, Minh Mạng đã chính thức công bố quốc hiệu Đại Nam. Quốc hiệu này tồn tại đến năm 1945 .

    3) Quan chế và tổ chức chính quyền trung ương

    Ngay từ khi mới lên ngôi, vua Minh Mệnh đã cho cải định và thiết đặt thêm một số cơ quan trong hệ thống bộ máy hành chính so với các triều đại trước như đổi đặt Văn thư phòng sau đổi làm Nội các để giúp việc; đổi Nội đồ gia thành Nội vụ phủ, Ngoại đồ gia thành Vũ khố; thành lập Cơ mật viện, Đô sát viện, Tôn nhân phủ; chỉnh đốn Lục Bộ, đặt thêm các Khoa; định lại toàn bộ hệ thống quan chế, viên ngạch, phẩm trật, lương bổng; cơ cấu lại tổ chức của hầu hết các cơ quan; đặt thêm nhiều chức danh mới; quy định lại số lượng, viên ngạch cho mỗi đơn vị.. Năm Minh Mệnh 12-13 (1831-1832), nhà vua thực thi một công cuộc cải cách hành chính lớn, trong đó chia định lại địa hạt trong cả nước; đổi các trấn, đạo thành tỉnh. Sau khi phân định lại các địa hạt, vua cho thiết đặt các chức quan coi giữ và định quy tắc làm việc.

    Vua cũng đặt lại các nghi thức thiết triều ở điện Thái Hòa, định lệ thiết triều tham dự tấu việc, quy định chế cấp "Lục đầu bài" cho các nha dâng lên khi cần tâu việc, định lệ các nha phụng giữ bản phê chữ đỏ (châu bản), định lại quy thức văn bản và đệ trình văn bản.. Vua cũng là người chăm chỉ mẫn cán, việc chính sự trong ngoài lớn nhỏ đều muốn xét qua, các văn bản quan trọng hầu như đều tự mình nghĩ soạn. Sách Đại Nam thực lục chính biên chép: "Vua sáng suốt cẩn thận về chính thể. Những chương sớ trong ngoài tâu lên nhất nhất xem qua, dụ tận mặt cho các nha nghĩ chỉ phê phát, việc quan trọng thì phần nhiều vua tự nghĩ soạn, hoặc thảo ra hoặc châu phê. Có bản phê bắt đầu từ đấy". Vua thấy từ trước tới nay chương sớ 4 phương tâu lên, các bộ thần đều mở phong bì phụ xem trước, thấy việc gì không quan trọng thì bỏ không tâu, bèn sắc cho Lục Bộ từ nay chương sớ có cái nào không hợp cũng đem việc trình rõ, không được tự ý bác đi để đề phòng sự che lấp. Vua chuẩn định các chiếu văn khi ban bố đều phải niêm yết ở Phu văn lâu, các Tri huyện 3 huyện trong Kinh kỳ phải dẫn kỳ lão, hương lý, thân hào đến trước lầu để lạy xem. Vua lại cho đặt thêm các trạm dịch ở Kinh và các tỉnh để việc chuyển phát công văn giấy tờ giữa các cơ quan được nhanh chóng kịp thời.

    Trong việc dùng người Minh Mạng chú trọng cả tài, đức và đặc biệt là học vấn. Ông cho rằng người không học thì không rõ pháp luật, lỡ khi xử đoán sai thì pháp luật khó dung, như thế sẽ làm hại dân. Việc dùng người không ngoài mục đích muốn yên dân. Muốn yên dân thì quan phủ huyện không được phiền nhiễu dân, tham nhũng. Vì vậy, nhà vua đã nghiêm trị nhiều viên quan tham nhũng . Từ thời Minh Mạng được xác định rõ rệt giai chế phẩm trật từ cửu phẩm tới nhất phẩm, mỗi phẩm chia làm chánh và tòng 2 bậc. Trừ khi có chiến tranh, loạn lạc còn bình thường quan võ phải dưới quan văn cùng phẩm với mình. Quan Tổng đốc (văn) vừa trị vì tỉnh vừa chỉ huy đội quân của tỉnh nhà. Minh Mạng còn định mức lương bổng cho quan lại, định tiền gạo cho mỗi cấp cùng thời hạn lãnh lương. Ngoài ra ông còn cấp tiền dưỡng liêm để tránh sự tham nhũng của quan lại.

    Từ cuối năm 1831 Minh Mạng cho bỏ các dinh, trấn mà thành lập các tỉnh, Năm 1832 cả nước có 30 tỉnh, gồm:

    • Bắc Kỳ (từ này đặt ra từ năm 1834) có 13 tỉnh: Hà Nội, Sơn Tây, Hưng Hóa Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình, Thái Nguyên.
    • Trung Kỳ (từ này đặt ra từ năm 1834) có 12 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận.
    • Nam Kỳ (từ này đặt ra từ năm 1834) có 06 tỉnh: Phiên An (năm 1836 đổi tên thành Gia Định), Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên.

    Minh Mạng đặt các quan Tổng đốc (đối với tỉnh lớn) hoặc Tuần phủ (đối với tỉnh nhỏ), riêng tỉnh Thừa Thiên là Phủ doãn; và các quan Bố Chính sứ, Án sát cùng Lãnh binh để trông coi mọi việc tại từng tỉnh. Trong triều, các cơ quan điều khiển cũng đổi mới, Thị Thư Viện được đổi thành Văn Thư Phòng vào năm 1820, rồi thành Nội Các vào năm 1829. Năm 1830, ông đặt ra Cơ Mật viện để trông coi những việc quốc quân trọng yếu. Ông đã cho thành lập Tôn Nhân Phủ, điều hành các Hệ, Phòng trong việc kê khai nhân thế bộ, cấp dưỡng và từ tế cũng như kiểm soát và đàn hạch trong quốc tộc.

    Đối với vùng thượng du và các khu vực sinh sống của các dân tộc thiểu số, chủ yếu là 6 ngoại trấn của Bắc Thành cũ, Minh Mạng quyết định nhất thể hóa về mặt hành chính cùng với các vùng miền xuôi. Năm 1829, ông bãi bỏ chế độ thế tập của các Thổ ti (tù trưởng dân tộc thiểu số) mà cho quan lại lựa chọn những thổ hào ở địa phương ".. thanh liêm, tài năng, cần cán làm dân tin phục" làm Thổ tri các châu, huyện. Tiếp đó, các châu huyện miền núi cũng được phân chia lại để phù hợp với diện tíchdân số của mỗi vùng. Sau đó, Minh Mạng còn đặt thêm một chức lưu quan do người Kinh nắm giữ nhằm khống chế các vùng này tốt hơn và tiến hành thu thuế như ở miền xuôi. Ông còn nghĩ đến việc giúp lưu chuyển tiền bạc, tránh cho người đi xa khỏi mang theo nhiều tiền như vào năm Bính thân (1836 ) đặt ra "Giao Tứ Vụ" ở Cao Bằng để chuyển đổi tiền bạc, cơ quan này có nhiệm vụ như ngân hàng ngày nay.

    Theo Giáo sư Phan Huy Lê: Trong lịch sử chế độ quân chủ Việt Nam, cải cách của vua Lê Thánh Tông năm 1471 và cải cách của vua Minh Mạng năm 1831 – 1832 là hai cải cách hành chính có quy mô toàn quốc và đạt hiệu quả cao nhất.

    Tuy nhiên, đánh giá về việc cải cách chính quyền của Minh Mạng, nhà sử học Văn Tạo cho rằng: Cũng giống như vua cha Nguyễn Ánh, Minh Mạng đi theo con đường Nho giáo của trường phái Tống Nho (đạo Nho thời Tống) mà nhà Lê trung hưng áp dụng - chứ không theo trường phái Minh Nho (đạo Nho thời Minh) tiến bộ hơn - mà các chúa Nguyễn trước kia từng áp dụng. Mục tiêu của Gia Long cũng như Minh Mạng chủ yếu nhằm củng cố vương quyền chứ không chăm lo phát triển kinh tế - xã hội theo xu hướng thời đại.

    Văn Tạo cho rằng:

    "Minh Mạng muốn trở thành một Lê Thánh Tông trong thời đại mới, nhưng thời đã khác thì sự nghiệp cũng khác. Thời của Lê Thánh Tông cũng sau những cuộc khủng hoảng toàn diện từ cuối thời Trần sang thời Hồ và đã được các vua từ Lê Thái Tổ đến Lê Nhân Tông bước đầu giải quyết. Mặt khác, thời của Lê Thánh Tông là lúc chế độ phong kiến Nho giáo ở Việt Nam còn đang có tác dụng tích cực trong xây dựng cơ chế hành chính" pháp trị "thay cho cơ chế" nhân trị "theo Phật giáo hình thành từ thời Lý Trần. Còn thời của Minh Mạng là lúc chủ nghĩa tư bản phương Tây đã phát triển, tìm đường bành trướng sang phương Đông.

    Xã hội Nho giáo phong kiến gốc rễ là của Trung Quốc, nhưng tới nhà Thanh đã đi vào bế tắc, trì trệ và suy yếu, phải nhượng bộ trước sự xâm phạm và cướp bóc của phương Tây . Việt Nam cũng không thoát khỏi tình trạng đó. Nhà Thanh kỳ thị Minh Nho (vì nhà Minh là kẻ thù), quay lại áp dụng Tống Nho; nhà Nguyễn phỏng theo đó áp dụng, cho nên hoài bão trở thành" Lê Thánh Tông mới "của Minh Mạng chẳng những không đúng mà còn không được".

    4) Quân đội và lãnh thổ Đại Nam thời vua Minh Mạng

    *Quân đội.

    Minh Mạng rất quan tâm đến mặt quân sự. Nhiều lần, ông thân hành ra thao trường để chứng kiến việc luyện tập của quân đội. Ông lấy phương Tây làm kiểu mẫu cho việc tổ chức quân đội, hướng tới việc quân cốt tinh nhuệ, không cốt đông, giảm bớt số lượng người cầm cờ từ 40 xuống 2 người trong đội ngũ đơn vị 1 vệ (500 người).

    Theo Việt Nam sử lược, quân đội thời Minh Mạng gồm bộ binh, thuỷ binh, tượng binh, kị binh và pháo thủ binh. Bộ binh gồm kinh binh và cơ binh. Kị binh được chia làm doanh, vệ đội, đóng ở Kinh thành hoặc đóng ở các tỉnh. Mỗi doanh có 5 vệ, mỗi vệ có 10 đội, mỗi đội có 50 người, có đội trưởng và suất đội cai quản. Vũ khí của mỗi vệ gồm 2 khẩu thần công, 200 khẩu điểu thương và 21 ngọn cờ. Cơ binh là lính riêng của từng tỉnh, cũng được chia làm cơ và đội. Cơ có các quản cơ, đội có các suất đội cai quản. Tượng binh chia làm đội, mỗi đội có 40 con voi . Ở Kinh thành có 150 con, ở Bắc Hà có 110 con, ở Gia Định có 70 con, ở Quảng Nam có 35 con, ở Bình Định có 30 con, ở Nghệ An có 21 con, ở Quảng Bình, Quảng Ngãi, Thanh Hóa mỗi nơi có 15 con, ở Quảng Trị, Phú Yên, Bình ThuậnNinh Bình mỗi nơi có bảy con.

    Ông còn cho lập đồn ải ở những nơi hiểm yếu trong nước, còn ngoài biển thì lập pháo đài. Ông rất chú trọng đến thuỷ quân, các vùng hải đảo đều được đánh mốc giúp cho sự lưu thông dễ dàng. Thuỷ binh có 15 vệ, chia làm 3 doanh do quan đô thống cai quản, mỗi doanh được quan chương vê cai quản.

    Triều Minh Mạng lại lập thêm đội "Giáo dưỡng binh" để con các võ quan theo học cùng được lãnh lương hầu đào tạo giới trẻ. Học trình kéo dài sáu năm.

    Khi còn giao chiến với lực lượng Tây Sơn quân đội nhà Nguyễn có thu nạp một số sĩ quan và binh lính ngoại quốc trong số đó có người ở lại nhận quan tước vào triều Gia Long như Jean-Baptiste ChaigneauPhilippe Vannier, giúp huấn luyện quân sĩ theo phương thức Âu châu. Sang triều Minh Mệnh thì đa số chọn hồi hương và quân đội nhà Nguyễn mất đi nguồn kiến thức tân tiến về chiến thuật và chiến cụ.

    *Lãnh thổ Đại Nam.

    Minh Mạng là một trong những ông vua nổi tiếng nhất của triều Nguyễn. Theo nhiều nhà sử học, Minh Mạng là vị vua trị vì quốc gia của người Việt rộng lớn nhất trong lịch sử các triều đại phong kiến.

    Đại Nam dưới thời Minh Mạng, bao gồm cả các trấn ở Lào. Vùng thuộc phần đất Campuchia ngày nay là lãnh thổ Trấn Tây Thành mà nhà Nguyễn chiếm được trong 6 năm (1835-1841) trước khi bị đánh đuổi. Bản đồ bao gồm cả các các vùng đất bị cắt cho nhà Thanh năm 1887 theo công ước Pháp-Thanh, vẽ đè lên biên giới ngày nay.

    [​IMG]

    Bản đồ Đại Nam dưới thời Minh Mạng​

    *Vua Minh Mạng và việc xác định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.

    Không chỉ xác lập quyền sở hữu trên đất liền, vua Minh Mạng còn đặc biệt quan tâm việc lập chủ quyền của nước ta trên biển Đông, nhất là ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

    Trong hơn 20 năm trị vì đất nước, nhà vua đã xây dựng Đại Nam thành quốc gia mạnh trong khu vực. Quân đội được tổ chức rất quy củ, trong đó, thuỷ binh được lập thành bộ riêng, với trang bị khá hiện đại so với thời bấy giờ.

    Theo sách Đại Nam thực lục, Minh Mạng rất quan tâm việc xây dựng thuỷ quân. Ông cải tiến, định kích thước và kiểu dáng cho từng hạng thuyền, thống nhất trong phạm vi cả nước để các xưởng đóng cho chuẩn.

    Năm 1822, vua cho mua một chiếc thuyền bọc đồng của Pháp, đặt tên là Điện Dương, sau đó sai thợ đóng lại theo mẫu. Thuyền bọc đồng được phân thành 4 hạng khác nhau, hạng rất lớn, hạng lớn, hạng vừa và nhỏ.

    [​IMG]

    Châu bản triều Nguyễn, tư liệu quan trọng chứng minh Việt Nam đã thực thi chủ quyền ở Hoàng Sa, Trường Sa.​

    Sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ cho biết đến năm 1838, vua cho mua một chiếc tàu máy hơi nước cũ của Pháp, tháo ra nghiên cứu để lấy mẫu đóng thử. Tháng 4 năm sau, chiếc tàu máy hơi nước đầu tiên của nước ta đóng xong và chạy thử thành công. Không chỉ đóng tàu để thực hiện mục đích giao thương, vua Minh Mạng còn hướng tới trang bị cho thuỷ quân.

    Ông từng nói với Binh bộ Thượng thư Trương Đăng Quế rằng: "Trẫm muốn các ngươi trù tính kỹ càng, làm thành quyển sách thủy chiến, giao cho quân lính ngày đêm học tập, đó mới là cách phòng bị trước khi có việc".

    Sách sử cũng ghi lại lời ông: "Bờ cõi nước ta chạy dài theo ven biển, phái quân đi tuần bể, có nhiều đường ngách, hoặc phải bỏ thuyền mà đánh trên bộ, hoặc phải dời dinh mà vây dưới nước. Như thế thời bộ binh cần phải biết cách đánh dưới nước, thủy binh cũng cần phải biết cách đánh trên bộ, cần dụ các viên Thống quản ở kinh sức cho quân lính dưới quyền, cố gắng diễn tập sao cho hết thảy đều tinh, nên người quân mạnh".

    Năm 1834, vua Minh Mạng cho xây dựng pháo đài phòng thủ trên một số hòn đảo trọng yếu, lệnh cho quan chức các địa phương nơi có dân cư sinh sống tại các đảo, bãi ngoài biển phải dùng tiền công quỹ đóng thuyền cho họ đi lại và cấp cả gươm giáo, súng đạn để phòng bị giặc biển.

    Triều đình cũng ban quy định về lệ đi tuần để đánh đuổi cướp biển, thuyền ngoại quốc có ý đồ xâm phạm hải đảo của quốc gia.
     
  4. hòn đá nhỏ

    Bài viết:
    86
    II. Trị vì đất nước

    Bấm để xem
    Đóng lại
    5) Đinh điền và thuế khóa

    Thuế đinhthuế điền cơ bản cũng theo như vua Gia Long đã định. Theo Việt Nam sử lược, chỉ có năm Bính thân (1836 ), đất Nam Hà đạc điền xong, tính ra được hơn 630.075 mẫu và định lại các thứ thuế điền thổ ở đó. Còn như số dân đinh và điền thổ trong nước, thì theo số bộ tổng cộng lại được 970.516 suất đinh và 4.063.892 mẫu ruộng và đất.

    Đối với những người Hoa sang lập ấp ở Đại Nam (gọi là Minh Hương), triều đình có lệnh rằng mỗi người 1 năm phải nộp 2 lạng bạc và được miễn giao dịch. Những người già yếu và khuyết tật phải chịu 1 nửa.

    Đối với những người nhà Thanh sang Đại Nam buôn bán, người nào có vật lực thì 1 năm phải đóng 6 quan tiền; ai không có vật lực thì phải nộp một nửa, hạn cho 3 năm, thì chiếu lệ thu cả thuế.

    Theo Việt Nam sử lược, Minh Mạng còn đặt lệ đánh thuế muối. Mỗi ruộng muối 1 năm phải nộp bằng muối từ 6 phương đến 10 phương. Mỗi phương nộp bằng tiền thì phải nộp từ 3 tiền đến 4 tiền 30 đồng. Còn các thuế mỏ, thuế sản vật.. thì cơ bản cũng theo lệ Gia Long đã định, chứ không thay đổi gì mấy.

    [​IMG]

    Tiền đồng thời vua Minh Mạng​

    6) Văn hóa và giáo dục

    Vua Minh Mệnh là người rất coi trọng học vấn, khoa cử, bản thân vua cũng là một học giả từng làm thơ, soạn sách, luôn khuyến khích quần thần chăm chỉ đọc sách, biên soạn sách vở và mong muốn trọng dụng người có kiến thức. Vua từng dụ rằng: "Đạo trị nước chép ở sách vở, không xem rộng xét kỹ không thể biết hết được. Nay thư viện Thanh Hòa chứa nhiều sách lạ bốn phương, bọn khanh lúc rỗi việc mà có chí đọc sách thì mượn mà xem". Ngay năm Minh Mệnh (1820), nhà vua đã xuống chiếu sưu tầm sách cũ "Trẫm để ý điển xưa noi theo chí trước, nghĩ rằng nhờ công đức các đời mở đắp mới có ngày nay, càng muốn làm rõ rệt dấu xưa, giao cho sử quan thuật lại.. Vậy chuẩn cho quan dân trong ngoài, phàm nhà nào cất được những bản biên chép điển cũ của triều trước thì không kể tường hay lược đem nguyên bản tiến nộp hoặc đưa cho nhà nước sao chép, đều có khen thưởng"

    Do đó trong ngoài đều đem các bản biên chép đến dâng nộp như Thượng thư Trịnh Hoài Đức dâng sách Gia Định thông chí (3 quyển) và sách Minh Bột di ngư văn thảo, Chiêm hậu Hoàng Công Tài dâng sách Bản triều ngọc phả và sách Kỷ sự, Cung Văn Hy người phủ Quảng Đức dâng sách Khai quốc công nghiệp diễn chí (7 quyển), Nguyễn Đình Chính người Thanh Hoa dâng sách Minh tương khải cáo lục (34 điều), Võ Nguyên Biều người Quảng Ngãi dâng sách Cố sự biên lục (1 quyển), vua đều khen và cho thưởng vàng lụa theo các bậc khác nhau. Các năm sau đó quần thần tiếp tục biên soạn được khá nhiều sách có giá trị như Khâm định vạn niên thư, Lịch triều hiến chương loại chí (49 quyển), Liệt thánh thực lục, Lịch đại kỷ nguyên, Khang thế lục, Hội điển toát yếu (14 quyển).. Vua còn cho dựng Quốc sử quán và sai các nho thần biên soạn quốc sử thực lục; cho sửa sang tông miếu đặt các chức Miếu lang, Miếu thừa lấy người trong tôn thất để trông coi việc thờ cúng; hoàn chỉnh việc xây dựng Hoàng thành, đặt tên đường phố trong Kinh thành; thống nhất việc đo lường, y phục trong toàn quốc..

    Các bộ sách quý như: Gia Định thành thông chí, Lịch Triều Hiến Chương loại chí.. đều ra đời dưới thời Minh Mạng. Các con của ông, điển hình như Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, Tuy Lý Vương Miên Trinh và Tương An Quận Vương Miên Bửu, đều là những nhà văn, nhà thơ xuất sắc, và đều nổi tiếng dưới các triều vua Thiệu Trị, Tự Đức sau này.


    Để xã hội có qui củ cùng nề nếp, nhà vua cho thống nhất việc đo lường và thống nhất y phục. Năm Bính thân (1836 ) phủ huyện được cấp các cân mẫu, rồi năm Kỷ hợi (1839 ) được cấp các loại thước mộc, thước may, thước đo ruộng. Về y phục ông từng bảo: "Ngày nay nước nhà cương thổ đã hiệp nhất thì chính trị, phong tục lẽ nào khác biệt". Bởi thế, nên nhiều đạo dụ được ban bố để y phục ở miền Bắc và miền Nam giống nhau.

    Là người tinh thông Nho học, sùng đạo Khổng Mạnh, Minh Mạng rất quan tâm đến nền khoa cử, học vấn nhà vua thường nói:

    "Đạo trị nước phải gây dựng nhân tài"

    Minh Mạng​

    Năm 1821, ông đặt chức Tế tửu và Tư nghiệp, năm 1822 mở lại thi Hội, thi Đình . Ông còn cho đặt đốc học ở thành Gia Định, ông giao trọng trách cho nhà giáo Nguyễn Trọng Vũ người Nghệ An, giữ chức Phó Đốc học chăm lo việc học hành ở Nam Bộ . Bấy giờ, ở Gia Định có Trịnh Hoài Đức là người có học vấn cao nên được nhà vua tin dùng, phong làm Hiệp Biện Đại học sĩ, Thượng thư Bộ Lại kiêm Thượng thư Bộ Binh. Cũng trong năm 1821 mở ân khoa thi Hương đầu tiên dưới triều Minh Mệnh, năm sau mở khoa thi Tiến sĩ đầu tiên dưới triều Nguyễn, đồng thời cũng định lại quy chế thi cử. Trước đây, 6 năm tổ chức một khoa nay quy định thành 3 năm một khoa, năm trước thi Hương thì năm sau thi Hội và thi Đình; lại đổi đặt danh hiệu học vị những người trúng tuyển, Hương cống đổi thành Cử nhân, Sinh đồ đổi thành Tú tài; không lấy Tiến sĩ Đệ nhất giáp chỉ lấy Đệ nhị giáp và Đệ tam giáp; ngoài ra vua Minh Mệnh cho lấy đỗ thêm những người có số điểm gần sát với hạng Đệ tam giáp gọi là Phó bảng. Chỉ tính riêng các khoa thi Tiến sĩ, triều Minh Mệnh tổ chức được 6 khoa vào các năm Minh Mệnh 3 (1822), Minh Mệnh 7 (1826), Minh Mệnh 10 (1829), Minh Mệnh 13 (1832), Minh Mệnh 16 (1835), Minh Mệnh 19 (1838), lấy đỗ được 56 Tiến sĩ và 20 Phó bảng.

    Minh Mạng còn đặt ra lệ rằng ai được thăng quan, bổ nhiệm đều phải lên kinh gặp vua trước khi nhậm chức. Đây là cơ sơ để nhà vua kiểm tra đức độ, năng lực và khuyên bảo điều hay lẽ phải, cốt sao cho lợi ích nước nhà.

    Năm 1836, ông cho thành lập "Tứ dịch quán" để dạy ngoại ngữ (tiếng Pháp, Xiêm ).

    Vua Minh Mạng muốn canh tân việc học hành thi cử nhưng lại không biết tiến hành ra sao bởi triều thần của ông chỉ toàn là những hủ nho lạc hậu, không giúp đỡ được nhà vua trong một kế hoạch nào làm cho quốc phú, dân cường. Ông đã nói rằng:

    "Lâu nay cái học khoa cử làm cho người ta sai lầm, Trẫm nghĩ văn chương vốn không có quy củ nhất định, mà nay những văn cử-nghiệp chỉ câu nệ cái hư sáo khoe khoang lẫn với nhau, biệt lập mỗi nhà một lối, nhân phẩm cao hay thấp do tự đó. Khoa tràng lấy hay bỏ cũng do tự đó. Học như thế thì trách nào nhân tài chẳng mỗi ngày một kém đi. Song tập tục đã quen rồi, khó đổi ngay được, về sau dần dần đổi lại."

    Minh Mạng​

    7) Về nông nghiệp

    *Về khai hoang ruộng đất

    Ngay từ khi mới thành lập triều đình nhà Nguyễn đã rất quan tâm tới việc khai hoang ruộng đất, khi mói lên ngôi (1802-1803) Gia Long đã lệnh cho quan lại khuyến khích nhân dân và binh sĩ tích cực khai khẩn, phục hóa đất đai nhưng đến năm 1806, nhiều nơi ở Bắc Bộ nhân dân vẫn bị đói và phiêu tán ở hơn 370 xã, tới năm 1826 có khoảng 108 xã, ruộng đất bỏ hoang 12700 mẫu. Dưới triều Nguyễn có hai vị quan tổ chức khai khẩn nổi tiếng nhất là Nguyễn Tri Phương và Nguyễn Công Trứ; trong đó Nguyễn Công Trứ nổi lên vì là tác giả của chính sách khai hoang lớn: Đồn ddieefnf, doanh điền và khai khẩn ruộng hoang.

    Thời Minh Mạng, việc khẩn hoang rất được khuyến khích. Theo chính sách doanh điền, nhà vua cho quan lại mộ dân lập những ấp mới ở trong Nam cũng như ngoài Bắc, khiến cho việc phân phối ruộng đất được hợp lý, đây là lần đầu tiên triều đình và nhân dân cùng khai hoang và được bắt đầu vào năm 1828 dưới thời vua Minh Mạng. Cách thức cụ thể như sau: Triều đình sẽ bỏ ra một số vốn ban đầu và cử ra một quan chức sẽ đứng ra chiêu mộ và chỉ đạo quần chúng nhân dân đưa đi khai hoang theo hai trường hợp:

    • Số dân mộ được là 50 người đủ một lí, người đứng ra mộ sẽ được cử làm lí trưởng.
    • Số dân mộ được là 30 người đủ một ấp, người đứng ra tuyển một sẽ được làm chức ấp trưởng.

    Thời gian 6 tháng đầu triều đình sẽ cấp cho đân chúng đủ lương thực và phương tiện sản xuất. Từ tháng thứ bảy sẽ phải tự lo. Triều đình sẽ miễn thuế cho lí và ấp mói trong 3 năm. Được sự chuẩn y của Minh Mạng, Nguyễn Công Trứ đã tổ chức nhiều đợt khai hoang lập làng lớn, trong đó lớn nhất là việc thành lập 2 huyện mới: Huyện Tiền Hải thuộc tỉnh Thái Bình với 18.970 mẫu và 2350 đinh, huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình với 14.620 mẫu và 1260 đinh. Cũng từ đây xuất hiện hai hình thức tư điền thế nghiệp và tư điền quân cấp.

    *Về trị thủy

    Vua Minh Mạng cho hoàn chỉnh hệ thống đê điềuBắc Bộ, đặt quan khuyến nông, khai hoang ven biển Bắc Bộ, lập các huyện Kim Sơn và Tiền Hải. Ở Nam Bộ, công cuộc khai hoangthuỷ lợi cũng được đẩy mạnh. Minh Mạng còn thử nghiệm giải pháp bỏ đê phía nam Hà Nội, đào sông thoát lũ Cửu An (Hưng Yên ).

    Năm 1833, theo lệnh nhà vua, vị Tổng đốc Nam Định là Đặng Văn Thiêm đi khám xét đê điều đã tâu lên Minh Mạng chủ trương ".. Sửa đắp đê mới hay đê cũ, công trình nặng nhọc, phí tổn công khố cũng nhiều, thế mà khó nói trước có giữ được chắc chắn hay không. Nếu đổi ra làm việc khai sông.. như vậy không những bớt được chút phí tổn mà lại có thể phân được thế nước và bớt được sự xô mạnh dồn xuống." Vua Minh Mạng ra lệnh đình chỉ việc đắp đê để chờ xem tình hình ra sao rồi mới bàn định lại. Tuy nhiên năm 1834, vua sai Giám thành Phó sứ là Trương Viết Sùy kiểm tra lại thì ông này cho rằng "không thể bỏ đê được".

    *Các chính sách khác

    Năm 1832, vua Minh Mạng khai mở ngành tơ tằm Đại Nam.

    Ông còn ban dụ cho lập nhà dưỡng tế ở các tỉnh để giúp đỡ những người tàn tật, nghèo khổ, già cả và hoặc không nơi nương tựa. Triều đình cũng bắt quan lại ở các tỉnh phải xuất lúa giống ở kho cho dân nghèo vay để làm mùa sau, nhằm làm cho nông nghiệp không bị đình trệ và việc mất mùa không ảnh hưởng trong các năm sau.
     
    Love cà phê sữa thích bài này.
  5. hòn đá nhỏ

    Bài viết:
    86
    II. Trị vì đất nước

    Bấm để xem
    Đóng lại
    8) Xét xử công thần quá cố

    Vua Minh Mạng và Tả quân Lê Văn Duyệt (1764 – 1832) vốn có nhiều hiềm khíchtư thù . Dù không ưa Lê Văn Duyệt nhưng ông không dám làm gì, do công lao và uy quyền quá lớn của Lê Văn Duyệt với triều đình.

    Năm 1833, Lê Văn Duyệt qua đời, con nuôi là Lê Văn Khôi (? – 1834) nổi loạn chiếm thành Phiên An (tức thành Gia Định), Minh Mạng trong khi đánh dẹp cuộc nổi dậy này vẫn thường ban trách Lê Văn Duyệt.

    Năm 1835, sau khi dẹp xong cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi, Minh Mạng bèn làm án Tả quân, giao cho nhóm nội các là Hà Quyền, Nguyễn Tri Phương và Hoàng Quýnh nghị tội Tả quân có sáu điều, có bảy tội phải chém, hai tội phải thắt cổ, một tội phải sung quân. Bản án quyết định truy đoạt quan chức, phá bỏ quan quách giết thây. Mộ Lê Văn Duyệt ở Gia Định bị cuốc bằng và bị xiềng xích, phía trên khắc đá dựng bia ở trên viết to mấy chữ: Đây chỗ tên lại cái lộng quyền Lê Văn Duyệt chịu phép nước; các ngôi mộ cha mẹ của Lê Văn Duyệt bị đục bỏ tước hiệu khắc trên bia.

    Sang năm sau (1836), Minh Mạng lại sai đình thần làm án Lê Chất (1769 – 1826), một công thần từ thời Gia Long, đã qua đời năm 1826. Bài dụ về tội trạng của Lê Chất như sau:

    ".. Lê Chất cùng với Lê Văn Duyệt, dựa nhau làm gian, tội ác đầy chứa, nhổ từng cái tóc mà tính cũng không hết..

    Vậy cho Tổng đốc Bình Phú Võ Xuân Cẩn san phẳng mộ của hắn, khắc bia dựng lên trên đề to mấy chữ" Chỗ này là nơi Lê Chất phục pháp "để làm gương cho kẻ gian tặc muôn đời. Còn vợ hắn là Lê Thị Sai.. cùng con là Lê Cẩn, Lê Trương, Lê Thường, Lê Kỵ, đều.. trảm giam hậu. Lại tịch biên gia sản, được hơn 12.000 quan tiền, giao tỉnh chứa cả vào kho."

    Nhà sử học Trần Trọng Kim bình luận về việc làm án các công thần đã chết này trong sách Việt Nam sử lược như sau:

    "Quan quân bình xong giặc Lê Văn Khôi rồi vua Thánh Tổ sai phá thành Phiên An đi, xây lại chỗ khác và ngài xuống chiếu định truy tội Lê Văn Duyệt và tội Lê Chất. Cứ bình tĩnh mà xét, thì chẳng qua là vua Thánh Tổ vốn có ý không ưa hai ông ấy, rồi đình thần lại nhân đó mà bới việc ra để chiều ý ngài, cho nên thành ra hai cái án thật là không đáng."

     Trần Trọng Kim​

    9) Vua Minh Mạng và những độc chiêu trị qian tham

    Dưới thời trị vì của mình, để giữ yên xã tắc, vua Minh Mạng có những biện pháp xử lý rất nặng đối với quan lại có hành vi tham nhũng.

    Theo sách Chín đời chúa, mười ba đời vua Nguyễn, Minh Mạng là ông vua hết sức cần mẫn, làm việc không biết mệt mỏi, hết lòng vì nước, là tấm gương sáng cho các bậc đế vương noi theo.

    Dù Gia Long là người đặt nền móng, nhưng phải dưới thời Minh Mạng, kỷ cương đất nước mới đi vào quy củ. Năm Tân Mão (1831), nhà vua tiến hành cải cách hành chính trên toàn quốc, chia đất nước làm 31 tỉnh theo từng địa hình và cương vực hợp lý như ngày này.

    Dưới thời Minh Mạng, Đại Nam trở thành quốc gia rộng lớn và hùng mạnh hàng đầu khu vực, các nước lân bang đều phải kiêng nể.

    Để đất nước thịnh trị, một trong những biện pháp Minh Mạng rất coi trọng đó là trị quan tham. Nhà vua thường đưa ra những hình phạt rất nặng với những ai có hành vi đục khoét của công.

    [​IMG]

    Vua Minh Mạng​

    Theo sách Đại Nam thực lục, vào năm 1823, Lý Hữu Diệm làm quan tại phủ nội vụ lấy trộm hơn một lạng vàng. Theo luật, tội này sẽ bị chém đầu, nhưng xét thấy trước đây có ít nhiều công trạng nên Bộ Hình giảm xuống thành tội bắt đi đày viễn xứ.

    Khi án được tâu lên, Minh Mạng không chấp nhận đề nghị giảm án. Thay vào đó, vua ra lệnh phải đem can phạm ra trước chợ Đông Ba chém đầu, cho mọi người trông thấy mà sửa mình với khẩu dụ:

    "Thời Gia Long, bọn Nguyễn Đăng Được thông đồng với thợ bạc đúc trộm ấn giả, để trộm đổi ấn cất ở kho, đều xử chém ngay. Nay Hữu Diệm ở đấy cân vàng mà còn dám công nhiên lấy trộm. Thế là trong mắt hắn không có pháp luật. Chi bằng theo đúng tội danh mà định để răn người sau. Lý Hữu Diệm phải giải ngay đến chợ Đông, chém đầu cho mọi người biết. Hồ Hữu Thẩm phải truyền cho bọn viên lại Nội vụ phủ cùng đến xem, hoặc giả mắt thấy lòng sợ mà tự khuyên răn nhau để khỏi mắc tội, há chẳng là một phương thuốc hay cho bọn người sao?".

    Tháng 11/1831, Tư vụ Nội vụ phủ Nguyễn Đức Tuyên lại ăn bớt nhựa thơm, rồi lấy mật trộn lẫn vào, để ít hóa nhiều. Gian dối bị phát hiện, đáng lẽ cũng bị xử tử và chặt tay treo ở kho.

    Thấy chưa đủ độ răn đe và muốn thủ phạm phải ăn năn, hối lỗi, ông ra chỉ dụ: "Lũ Nguyễn Đức Tuyên đã ăn bớt từ trước, lại dám lấy mật trộn lẫn vào để ít hóa nhiều, ý định lừa gạt che giấu. Trước còn chối cãi, đến lúc cả kho xưng ra, mới chịu thổ lộ thực tình, những người tai nghe mắt thấy ai mà không ghét. Đáng lẽ cho trói đem ra chợ Cửa Đông chém đầu, nhưng lần này tạm chặt một bàn tay thủ phạm Nguyễn Đức Tuyên đem treo, xóa tên trong sổ làm quan, để lại cho nó cái đầu, khiến nó suốt đời hối hận và nhờ đó để làm cho mọi người đều biết tỉnh ngộ, răn chừa. Thế cũng là một cách trừng trị kẻ gian".

    Năm 1834, tuần phủ Trịnh Đường tham ô tới một nghìn quan tiền nhưng lại nói dối là bị giặc lấy mất. Đến khi vụ việc bị phát hiện, vua Minh Mạng rất tức giận, tuyên dụ. Sau khi thành án, Trịnh Đường bị xử tội giảo quyết (thắt cổ cho chết ngay).

    Năm 1834, trước việc thuyền công ở tỉnh Quảng Yên mục nát, sau khi cho người tra xét, vua Minh Mạng được biết tuần phủ Lê Đạo Quảng đã để của công bị hủy hoại. Hộ phủ Vũ Tuấn che giấu việc này, còn Án sát Doãn Văn Xuân thì không can ngăn.

    Vua Minh Mạng liền cách chức Vũ Tuấn và đưa về kinh nghị tội, Án sát Doãn Văn Xuân bị cách chức, Tuần phủ Lê Đạo Quảng bị giáng 2 cấp.

    Vua dụ Nội các rằng: "Vũ Tuấn vốn là một chức quan nhỏ, được thăng chức lớn quá mau thế mà không lo cố gắng báo đáp, trong sạch giữ mình, lại mượn việc công để mưu lợi riêng, không còn một chút tư cách quan tư. Lập tức cách chức, giao bộ Hình nghị tội".

    Cũng vào năm 1834, mặc dù không có công trình nào lớn xây dựng, vua Minh Mạng thấy gỗ trong Bộ Công hết rất nhanh, liền sai Bộ Hộ và Viện Đô sát tra xét kỹ.

    Kết quả điều tra cho thấy Quản mộc Hồ Văn Hạ thông đồng với thợ thuyền tham ô. Để răn đe, vua lập tức đưa ra xử chém. Không chỉ có vậy, liên đới trách nhiệm, Đốc công Trần Văn Hiệu không quản lý sát sao cũng bị nhà vua cách chức, bắt làm việc chuộc tội.

    Theo sách Đại nam thực lục: Mùa hạ tháng 4/1835, tỉnh Gia Định quyên góp được 109.200 quan nhưng các quan quản lý đã phân phát không đúng, sử dụng gần hết. Vua Minh Mạng liền truy xét, phát hiện có kẻ khai man đội tên để nhận, có kẻ sai người lĩnh thay và cũng có chuyện "tư túi".. liền cách chức Bố chính Hoàng Văn Đản, Phủ huyện Nguyễn Khắc Biểu. Riêng Án sát Hoàng Văn Minh cũng bị cách lưu vì không làm hết trách nhiệm.

    Sách sử kể lại rằng, vua Minh Mạng luôn xử nghiêm với quan tham dù giá trị kinh tế của tài sản thất thoát không lớn. Với những biện pháp mạnh tay và cực kỳ nghiêm khắc với quan lại tham nhũng, vua Minh Mạng đã phần nào làm nhụt chí bọn "sâu mọt", giúp đất nước phát triển cường thịnh. Đó chính là bài học đáng suy ngẫm cho hậu thế.
     
  6. hòn đá nhỏ

    Bài viết:
    86
    II: Trị vì đất nước






    Bấm để xem
    Đóng lại
    10) Công cuộc trấn áp nổi dậy

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Thời nhà Nguyễn nói chung và thời Minh Mạng nói riêng cho thấy các cuộc nổi dậy của nông dân và các tầng lớp khác bùng nổ dữ dội. Theo sử gia Phạm Văn Sơn, các cuộc nổi dậy ở suốt Trung, Nam, Bắc dưới triều Minh Mạng (kể từ 1822 ) có nhiều nguyên nhân:

    A) Về phía ngoại bang, nước Xiêm La vẫn giữ thái độ về vấn đề Chân Lạp nên ngoài mặt tuy êm dịu nhưng bên trong Xiêm La vẫn tìm cơ hội để quấy rối Việt Nam.

    B) Ngoài Bắc, một phần nhân tâm còn luyến tiếc Lê triều, vẫn chờ dịp nổi lên chống triều Nguyễn và khôi phục lại dòng họ Lê.

    C) Bọn quan lại hay nhũng nhiễu dân chúng, dèm pha nhau, tâng công, nịnh hót mà vua lại thường không minh, nhất là đối với kẻ công thần, nhiều người trung lương đâm ra chán nản, trái lại phe gian nịnh nẩy nở mỗi ngày một nhiều, nước tất nhiên phải sinh loạn do đó ngoại quốc mới dám dòm ngó vào

    *Tại Bắc Hà:

    Từ năm 1822, Minh Mạng thứ 2, tại Bắc Hà có tới 254 cuộc nổi dậy của nhân dân diễn ra. Tiêu biểu là các cuộc nổi dậy của Phan Bá VànhNam Định, Lê Duy LươngNinh BìnhNông Văn VânTuyên Quang . Quân nhà Nguyễn phải vất vả lắm mới dẹp được các cuộc nổi loạn này.

    *Cuộc nổi dậy Phan Bá Vành:

    Nguyên nhân và bối cảnh:

    Mặc dù các vua đầu triều Nguyễn có nhiều cố gắng, nhưng các mặt nông, công, thương.. đều suy đốn và đình trệ, làm cho các tầng lớp nhân dân mà đại bộ phận là dân lao động nghèo lâm vào cảnh sống ngày càng cơ cực. Chẳng những nhà Nguyễn không cải thiện được tình tình mà trái lại, ngày càng thêm rối ren. Nạn chiếm đoạt và tập trung ruộng đất của giới địa chủ, nạn những nhiễu của giới quan lại, chế độ thu tô thuế và lao dịch khắc nghiệt, thêm vào đó là nạn thiên tai và ôn dịch xảy ra luôn.. tất cả đã làm cho mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt, càng làm bùng lên làn sóng đấu tranh quyết liệt của các tầng lớp nhân dân nghèo đói ở khắp mọi miền đất nước chống lại chế độ cai trị của nhà Nguyễn .

    Căn cứ sử biên niên của triều Nguyễn, thì chỉ tính trong nửa đầu thế kỷ 19 đã có gần 400 cuộc nổi dậy, trong đó riêng thời Minh Mạng có tới 254 cuộc, lớn nhất là các cuộc nổi dậy của: Lê Văn Khôi (1833-1836), Nông Văn Vân (1833-1836), Lê Duy Lương (1832-1838) và cuộc nổi dậy này.

    Trong Đặng gia thế phả có đoạn chép:

    ".. Nhân lúc triều Nguyễn nhu nhược, chuyên lo dùng của cải xây đắp thành quách cung điện, bê trễ đê điều, đồng ruộng nông trang luôn năm lụt lội, dân tình đói rách, làng mạc điêu tàn, nhũng loạn khắp nơi.. Có ông Phan Bá Vành ở miền Thái Bình, nhân nạn đói năm 1821 tập hợp dân chúng chống lại triều đình, được dân đi theo, lập căn cứ chính ở Trà Lũ."

    Sơ lược về thân thế Phan Bá Vành:

    Phan Bá Vành (? -1827), tục gọi Ba Vành (vì là con thứ ba trong gia đình), sinh trưởng tại làng Minh Giám, thuộc huyện Vũ Tiên (nay là huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình ). Cha ông làm nghề chèo đò và nuôi bán cá giống, nhưng vì cha mất sớm nên Phan Bá Vành phải sớm đi làm thuê để phụ nuôi sống gia đình. Trong một bài vè ở Thái Bình có câu:

    "Minh Giám quê của Bá Vành

    Mẹ tên là Vẻ, cha sinh chèo đò

    Thêm nghề bán cá con so,

    Vành trên lưng mẹ nằm thò cổ ra.."

    Tương truyền, Phan Bá Vành là người rất khỏe mạnh, giỏi võ nghệ và có tài ném lao.

    Sau này Phan Bá Vành chọn Trà Lũ (Nam Định) làm căn cứ chính.

    Diễn biến cuộc nổi dậy:

    Bất mãn vì đường lối cai trị của nhà Nguyễn, khoảng năm 1821, Phan Bá Vành tập hợp dân nghèo khổ vùng Nam Định, Thái Bình (tức vùng Sơn Nam Hạ cũ) nổi dậy chống triều đình nhà Nguyễn .

    Với chủ trương "lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo", ngay từ giai đoạn đầu, người đi theo đã có hơn 5.000, về sau thêm mấy ngàn quân của thủ lĩnh Ba Hùm (người Mường ) từ thượng du Thanh Hóa cùng với quân nổi dậy ở các tỉnh lân cận kéo đến hiệp lực, thì lực lượng của ông đã lên đến hàng vạn.

    Những năm 1824-1825, nạn đói diễn ra ở Hải Dương, Sơn Nam ; khiến dân nghèo theo ông càng đông. Lại được sự giúp đỡ của Nguyễn Hạnh (tướng cũ của nhà Tây Sơn, được Ba Vành phong chức hữu quân), Vũ Đức Cát (quan nhà Nguyễn bị cách chức), Ba Hùm (thủ lĩnh người Mường).. và một số nhân vật có tiếng ở địa phương như Trần Bá Hựu, Hai Đáng, Chiêu Liễn.. nên thanh thế Ba Vành ngày càng tăng. Bởi vậy sau này trong Vè Ba Vành ở vùng Thái Bình có câu:

    "Nghênh ngang một cõi biên thùy,

    Thiếu gì tướng tá, thiếu gì binh lương.."

    Tháng 2 (âm lịch ) năm Minh Mạng thứ 7 (1826 ), từ đại bản doanh tại thôn Phú Nhai, thuộc làng Trà Lũ (nay thuộc 3 xã Xuân Trung, Xuân Bắc, Xuân Phương huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định), Phan Bá Vành dẫn quân đi đánh chiếm đồn Trà Lý và đồn Lân Hải (Kiến Xương, thuộc Thái Bình ), giết được hai viên thủ ngự sứ là Đặng Đình Liễu và Nguyễn Trung Diễn. Tiếp đó, thủ lĩnh Ba Vành cho quân đánh lan ra vùng Kiến Xương, Vũ Tiên, Chân Ninh (thời Thành Thái đổi thành Trực Ninh ).. Trấn thủ Sơn Nam Lê Mậu Cúc hay được, mang quân đến đàn áp. Hai bên giao chiến ác liệt tại Cồn Tiên (Tiền Hải ). Đến khi trấn thủ Cúc tử trận, thì quân triều quăng vũ khí, bỏ thuyền bè mà chạy cả.

    Nghe tin cấp báo, vua Minh Mạng sai thống chế Trương Phúc Đặng kéo quân ra Bắc để tiễu trừ. Đến nơi, tướng Phúc Đặng cho quân đánh bất ngờ Giao Thủy . Thua trận, quân sư Vũ Đức Cát chạy ra An Quảng, rồi đến xã Đông Hào thì bị bắt và bị giết ngay.

    Tháng 12 (âm lịch ) năm ấy, Phan Bá Vành và Nguyễn Hạnh lại tập hợp được hơn 5.000 quân, mang đi tấn công vào hai huyện là Tiên MinhNghi Dương thuộc tỉnh Hải Dương . Tiếp theo, hai ông liên kết với nhóm Tàu Ô để mở rộng hoạt động ra các vùng ven biển thuộc vịnh Bắc Bộ .

    Liệu chống không nổi, trấn thủ Hải Dương là Nguyễn Đăng Huyên lại phải cầu cứu đến triều đình Huế . Vua Minh Mạng liền thăng cho Trương Văn Minh làm tiền phong đô thống chế chuyên quản lýnh Bắc thành, để hiệp đồng với tham hiệp Nghệ An là Nguyễn Hữu Thận coi việc quân.

    Không yên tâm, nhà vua lại chuẩn cho tham hiệp Thanh HóaNguyễn Công Trứ, tham biện Nghệ An Nguyễn Đức Nhuận, quản cơ Thanh Hóa Vũ Văn Bảo, quản cơ Nghệ An Trương Văn Tín cùng mang quân thủy bộ và 14 chiến thuyền ra gấp Hải Dương hội tiễu.

    Mặc dù vậy, đầu năm Đinh Hợi (1827 ), quân Ba Vành vẫn kiên trì hoạt động mạnh ở vùng phủ Thiên Trường (Nam Định ) và phủ Bo (tức phủ thành Kiến Xương ). Nhận được tấu sớ xin thêm quân, vua Minh Mạng bèn sai hậu quân phó tướng Ngô Văn Vĩnh mang hai vệ quân ở Kinh đô Huế, cùng một số lính thuộc vệ quân Thần Sách ở Nghệ An đi gấp ra Bắc.

    Tính ra, vua Minh Mạng đã điều động hầu hết lực lượng quân đội ở Bắc thành, Nghệ An, Thanh Hóa và một phần ở Huế để đối phó với quân của Phan Bá Vành.

    Tháng 2 (âm lịch ) năm Đinh Hợi (tháng 3 năm 1827 ), nhà vua cho Thân Văn Duy coi tào binh Bắc thành, kiêm tham tán việc quân.

    Sau khi bị đánh lui ở sông Bổng Điền, quân Ba Vành lại kéo đến vây chặt cánh quân của Phạm Đình Bảo (hay Bửu) ở chợ Quán, buộc các tướng Phạm Văn Lý, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Văn Phong phải mang ba đạo quân đến cứu, đuổi quân nổi dậy chạy về căn cứ ở làng Trà Lũ. Để chống cự lâu dài, Phan Bá Vành cho quân đào đắp thêm hào lũy ở đây.

    Tương truyền, có nhiều chỉ huy dưới quyền đã khuyên Phan Bá Vành nên đánh ngay lúc quân triều mới đến, tức lúc họ đang mệt nhọc và chuẩn bị chưa xong. Nhưng vì nghe theo lời người vợ lẽ là Trần Thị Tú (con gái của viên trấn thành Phủ Bo mà ông đã bắt được khi đánh chiếm nơi này), nên ông cứ đóng chặt cửa thành cố thủ. Sau khi quân triều từ các nơi kéo về vây kín Trà Lũ, các tướng nhà Nguyễn liền cho phát pháo tấn công. Quân nổi dậy chống cự quyết liệt, bị chết quá nửa. Biết vợ lẽ thông đồng với đối phương là tướng Phạm Văn Lý, Ba Vành liền sai quân chém chết.

    Một đêm, Ba Vành cho quân khơi một con ngòi chạy từ sông Cát thông đến sông Ngô Ðồng (sau dân gian gọi con ngòi này là Cống Vành), để mở đường chạy ra biển. Rạng sáng, quân nổi dậy theo con đường thủy ấy ào ạt phá vây, nhưng rồi bị quân triều do Phan Bá Hùng chỉ huy chặn đánh tan tác hết.

    Trong cơn binh lửa, Phan Bá Vành bị thương rồi bị bắt sống, cùng với 765 thuộc hạ. Trên đường áp giải, Phan Bá Vành cắn lưỡi tử tử, còn số quân lính trên đều bị xử cực hình.

    Ngay sau đó, theo lệnh của vua Minh Mạng, làng Trà Lũ bị tháo dỡ phá hết nhà cửa, lũy tre, cây cối, không sót một thứ gì.

    *Cuộc nổi dậy Lê Duy Lương:

    Cuộc nổi dậy Lê Duy Lương (khởi phát: 1832, kết thúc: 1837 hoặc 1838 ) là cuộc nổi dậy của đa số người MườngHòa BìnhThanh Hóa dưới sự lãnh đạo của con cháu nhà Lê, của các tù trưởng họ Quách và họ Đinh với danh nghĩa "phù " trong lịch sử Việt Nam .

    Đôi nét về Lê Duy Lương:

    Lê Duy Lương (黎維良, 1814 - 1833 ) là thủ lĩnh cuộc nổi dậy ở Sơn Âm-Thạch Bi (đều thuộc tỉnh Hòa Bình ) dưới triều vua Minh Mạng trong lịch sử Việt Nam .

    Bối cảnh lịch sử:

    Mặc dù các vua đầu triều Nguyễn có nhiều cố gắng, nhưng các mặt nông, công, thương đều suy đốn và đình trệ, làm cho các tầng lớp nhân dân mà đại bộ phận là dân lao động nghèo lâm vào cảnh sống ngày càng cơ cực.

    Chẳng những nhà Nguyễn không cải thiện được tình tình mà trái lại, ngày càng thêm rối ren. Nạn chiếm đoạt và tập trung ruộng đất của giới địa chủ, nạn những nhiễu của giới quan lại, chế độ thu tô thuế và lao dịch khắc nghiệt, thêm vào đó là nạn thiên tai và ôn dịch xảy ra luôn.. tất cả đã làm cho mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt, càng làm bùng lên làn sóng đấu tranh quyết liệt của các tầng lớp nhân dân nghèo đói ở khắp mọi miền đất nước chống lại chế độ cai trị của nhà Nguyễn .

    Căn cứ sử biên niên của triều Nguyễn, thì chỉ tính trong nửa đầu thế kỷ 19 đã có gần 400 cuộc nổi dậy, trong đó riêng thời Minh Mạng có tới 254 cuộc, lớn nhất là các cuộc nổi dậy của: Phan Bá Vành (1821-1827), Lê Văn Khôi (1833-1836), Nông Văn Vân (1833-1836) và Lê Duy Lương (1832-1838).

    Nguyên nhân nổi dậy:

    Giữa năm Nhâm Tuất (1802 ) vua Gia Long chiếm xong Bắc Hà . Để ngăn ngừa những ý đồ "phù Lê", nhà vua cho thi hành chính sách mua chuộc con cháu nhà Lê. Trong số đó, có Lê Duy Hoán là cháu vua Lê Hiển Tông, được phong tước Diên Tự công cùng một vạn mẫu đất ruộng và 1.016 dân ở Thanh Hóa để dùng vào việc thờ tự các vua Lê.

    Theo quyển Quốc triều sử toát yếu, thì tháng 5 năm Đinh Sửu (1817), Lê Duy Hoán và Nguyễn Văn Thuyên (con tướng Nguyễn Văn Thành ) có tội phải giết[2] .

    Theo giáo sư Nguyễn Phan Quang thì âm mưu chống lại nhà Nguyễn của con cháu nhà Hậu Lê đã có mầm mống từ đó (1817).

    Đến khi Minh Mạng nối ngôi, nhà vua lần lượt ban hành một số chính sách nhằm thâu tóm mọi quyền hành một cách độc đoán. Trong đó có một chính sách đã làm nên hai cuộc nổi dậy rộng lớn, đó là cuộc nổi dậy của Nông Văn Vân và cuộc nổi dậy này. Theo sử liệu thì:

    Tháng 12 năm Mậu Tý (1828 ), vua Minh Mạng cho đặt chế độ "lưu quan", tức cử quan lại người Kinh đến ở cạnh các thổ ti, nhằm trực tiếp khống chế họ và tiến hành thu thuế các loại như miền xuôi. Sau đó (1829 ), nhà vua còn cho bỏ lệ thế tập (cha truyền con nối) của các thổ ti vùng dân tộc ít người, phân chia các đất ấy thành châu, huyện lớn nhỏ tùy theo diện tích và dân số.

    Ở các triều đại trước, các thổ ti (hay lang đạo) được hưởng nhiều ưu đãi, thỉnh thoảng họ chỉ phải triều cống nhà vua mà thôi. Khi ấy tại Hòa Bình, có họ Đinh và họ Quách là hai trong số những họ lang đạo lớn, vốn từng được các vua Lê trọng đãi nên âm thầm tính chuyện khôi phục lại nhà Lê, để địa vị và quyền lợi của họ vẫn được như cũ.

    Vì hàm ơn xưa, và cũng vì mưu tính lật đổ chế độ đương thời, nên khi Lê Duy Hoán bị bắt giam, đứa con nhỏ (3 tuổi) thứ hai của ông là Lê Duy Lương, liền được các thủ hạ là anh em họ Quách (Quách Tất Công, Quách Tất Tại, Quách Tất Tế) đem về cất giấu ở Sơn Âm (Hòa Bình ).

    Vừa lớn lên, anh em họ Quách đưa Lê Duy Lương vào ở Thạch Bi (Hòa Bình ) âm thầm khai khẩn ruộng, rèn vũ khí, vận động binh lính và nhân dân, chuẩn bị làm cuộc nổi dậy đánh đổ nhà Nguyễn, lập lại nhà Lê .

    Diễn biến:

    Cuộc khởi nghĩa Lê Duy Lương gồm hai giai đoạn chính:

    Giai đoạn 1 (1832-1833) :

    Trải qua một thời gian dài chuẩn bị, mở đầu là cuộc binh biến ở đồn Ninh Thiện (thuộc Nghệ An ) vào tháng 2 năm Nhâm Thìn (1832 ). Khoảng thời gian ấy, ở phủ Trấn Ninh có hai viên chỉ huy là Trần Tứ và Đỗ Bảo cũng theo tờ thư của Lê Duy Lương, hô hào quân các đội giết chết chánh đội Đỗ Trọng Thai và 8 người lính, đoạt khí giới, rồi theo đường núi Kỳ Sơn, Hội Nguyên mà đi ra Bắc . Dọc đường bị tổng đốc An Tĩnh Tạ Quang Cự sai quân chặn bắt được và cả hai đều phải tội lăng trì.

    Hai vụ khởi binh thiếu đồng bộ này, làm cho vua Minh Mạng khiến các địa phương là Thanh Hóa, Ninh Bình, Hà Nội, Sơn Tây phải "phòng triệt cho nghiêm".

    Vì bị theo dõi nghiêm nhặt, nên mãi đến tháng 3 năm sau (Quý Tỵ [1833] ), cuộc nổi dậy mới chính thức bùng nổ với trận đánh chiếm đồn Chi Nê (nay thuộc huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình ).

    Nhờ Lê Duy Nhiên đi liên hệ từ trước nên cùng thời gian này, các lang đạo họ Đinh (Đinh Thế Giáp, Đinh Thế Đức, Đinh Công Trịnh) ở Thạch Bi (thuộc Hòa Bình ) cùng Ba Nhàn-Tiền Bột ở Sơn Tây, mang khoảng 3000 quân đến hiệp lực, rồi chia nhau đi đánh phá các nơi. Sau đó, quân nổi dậy (đa phần là người Mường ở ba huyện là Lạc Hóa, Phụng Hóa, An Hóa cùng lưu dân nghèo đến từ vùng đồng bằng Bắc Bộ ), đã chiếm giữ được ba châu huyện là Lạc Thổ, Phụng Hóa, Yên Hóa, và bao vây thành trấn Hưng Hóa .

    Sách Quốc triều sử toát yếu chép:

    Tháng 3 năm Quý Tỵ (1833), giặc trốn ở Ninh Bình là Lê Duy Lương cùng thổ ty xã Sơn Âm là anh em Quách Tất Công hiệp đảng khởi ngụy. Lương làm Minh chúa, tự xưng Đại Lê huyền tôn, tạo ấn ngụy, phong chức ngụy; đem dân thổ ba huyện là Lạc Thổ, Phụng Hóa, An Hóa làm quân, cùng những tù phạm trốn và dân đói ở các hạt gần đó theo nhiễu, quân nó đến vài ngàn; quan quân thường bị hại.

    Việc tâu lên, vua Minh Mạng liền phái Tổng đốc An Tĩnh Tạ Quang Cự cùng Tham tán Hoàng Đăng Thận mang 2.000 biền binh, năm con voi đến Ninh Bình . Nhà vua lại cử thêm các tướng là: Hộ phủ Thanh Hóa Nguyễn Đăng Giai, lãnh binh Hưng Hóa Phạm Văn Điển, phó lãnh binh Nam Định Lương Văn Liễu, thủy sư Hà Nội Nguyễn Văn Quyền; tức tốc mang quân thủy bộ do mình coi quản tới hội tiễu, rồi cùng tiến đánh giải vây và chiếm lại các nơi trên. Trước lực lượng hùng mạnh này, quân nổi dậy chống giữ không nổi đành phải bỏ các nơi chiếm được, rút về Xích Thổ và Sơn Âm.

    Để tận diệt, tháng 4 (âm lịch ) năm 1833, vua Minh Mạng lại bổ thống chế Nguyễn Văn Trọng lãnh chức tổng trấn Thanh Hóa, phó đô ngự sử Hà Duy Phiên sung làm than tán quân vụ, dẫn thêm quân đến phối hợp, rồi chia ra làm nhiều mũi cùng kéo đến vây đánh Sơn Âm, nơi đặt đại bản doanh của quân nổi dậy. Trong đạo dụ của nhà vua có đoạn chỉ thị các tướng như sau:

    ".. Đánh thẳng vào sào huyện Sơn Âm.. Đốt hết của ăn của để và bắt hết dân làng ấy, cho giặc mất chỗ nương tựa.. Bè đảng tộc thuộc của thủ nghịch phải giết hết, không được để sót một mống nào. Vợ con, của cải người Sơn Âm, theo như dụ trước, đều tịch thu hết để làm của thưởng.."

    Trước hàng vạn quân triều cùng voi và đại bác, các căn cứ chính của quân nổi dậy lần lượt bị phá vỡ. Sau nhiều ngày giáp chiến ác liệt, đến khoảng tháng 6 (âm lịch ) cùng năm (1833 ) thì Lê Duy Lương và Lê Duy Nhiên đều bị tham tán Hoàng Đăng Thuận bắt sống.

    Ngay sau đó, Lê Duy Lương và Lê Duy Nhiên đều bị đóng cũi đưa về Huế xử lăng trì .

    Giai đoạn 2 (1836-1838) :

    Mặc dù Lê Duy Lương không còn nữa, nhưng cuộc nổi dậy do ông làm "minh chủ" vẫn chưa chấm dứt. Khoảng ba năm sau (1836 ), các thủ lĩnh họ Quách, họ Đinh chạy thoát, lại suy tôn một người họ Lê khác tên là Lê Duy Hiển làm "minh chủ", lại liên kết với các lang đạo Mường ở Quan Hóa, Cẩm Thủy, Lang Chánh (vùng thượng du Thanh Hóa ), để tiếp tục công cuộc đang dở dang.

    Cuối năm đó, quân nổi dậy đánh chiếm được châu lỵ Quan Hóa là Hồi Xuân. Nhờ vậy, thế lực của quân nổi dậy nhanh chóng lan đến các vùng Lôi Dương, Thủy Nguyên, Nông Cống (Thanh Hóa), Quỳ Châu (Nghệ An ) ở phía Nam, và Ninh Bìnhphía Bắc .

    Hay tin, tháng 2 năm Đinh Dậu (1837 ), vua Minh Mạng phong tướng Tạ Quang Cự làm Ninh Bình kinh lược đại thần, phong tham tán Hà Duy Phiên làm phó, để cùng đem quân đến đàn áp. Đang lúc ấy, Hà Công Kim và Đinh Kim Bảng chỉ huy một đạo quân nổi dậy đánh chiếm được châu Lang Chánh, giết chết viên tri châu là Hồ Tố Thiện. Lập tức nhà vua điều động thêm hai tướng nữa, đó là đại thần Trương Đăng Quế làm kinh lược đại sứ Thanh Hóa, để hiệp với tổng đốc mới của An Tĩnh là Phạm Văn Điển cùng mang quân đi phối hợp.

    Bị các đạo quân triều tấn công dữ dội và dồn dập ở khắp nơi, lực lượng nổi dậy phải lui dần. Ở mặt trận Ninh Bình, tướng Tạ Quang Cự phái lãnh binh Trần Hữu Lễ đem quân chặn đường núi Thạch Bi, rồi tự mình đốc quân tiến đánh Quỳnh Côi. Vì địa hình hiểm trở, quan quân trải bao khóc nhọc mới bắt được Quách Tất Công ở Thượng Lũng, rồi bị tướng Cự lôi ra chém chết.

    Theo thông tin trong sách Đại cương lịch sử Việt Nam thì quân nổi dậy tiếp tục bị bao vây và truy đuổi, đến năm 1838, thì "minh chủ" Lê Duy Hiển cùng các tướng lĩnh nghĩa quân lần lượt bị bắt giải về Huế . Đến lúc đó, cuộc đấu tranh này mới chấm dứt hẳn.

    Tuy nhiên theo Quốc triều sử toát yếu thì Lê Duy Hiển bị Tạ Quang Cự và Hà Duy Phiên bắt sống vào tháng 4 (âm lịch ) năm Đinh Dậu (1837 ). Trong khoảng thời gian đó, các tướng lĩnh cũng lần lượt bị bắt hoặc bị giết chết. Đến tháng 5 (âm lịch ) thì vua Minh Mạng đem việc đã dẹp yên đảng giặc trong hai tỉnh là Ninh BìnhThanh Hóa thông dụ trong ngoài đều biết.

    Sau khi dẹp loạn:

    Vua Minh Mạng cho xóa sổ xã Sơn Âm, chia hết ruộng đất cho xã khác, đồng thời đày dân làng này ra ở các xã duyên hải của tỉnh Ninh Bình để quản thúc.

    Vì có chuyện Lê Duy Lương dấy binh, cho nên nhà vua truyền bắt dòng dõi nhà Lê đem đày vào ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định . Cứ chia cho 15 người ở một huyện và phát cho 10 qua tiền và 2 mẫu ruộng để làm ăn. Mãi đến Tự Đức năm thứ hai (1849 ), nhờ lời tâu của Thái bảo Tạ Quang Cự và Đại học sĩ Võ Xuân Cẩn, nhà vua chấp thuận cho sửa sang đền miếu nhà Lê, cấp tự điền và cử người coi sóc các nơi ấy. Con cháu nhà Lê đều được tùy tiện chọn nơi yên ở.

    Và cũng vì chế độ lưu quan đã gây nhiều bất mãn và phiền toái, vào những năm trước khi thực dân Pháp xâm lược, vua Tự Đức cũng đã bỏ chế độ này.

    *Khởi nghĩa Nông Văn Vân:

    Cuộc khởi nghĩa của Nông Văn Vân là một cuộc đấu tranh chống nhà Nguyễn của các dân tộc thiểu sốViệt Bắc (Việt Nam ) do Nông Văn Vân làm thủ lĩnh, xảy ra từ đầu tháng 7 (âm lịch ) năm Quý Tỵ 1833 đến khoảng giữa tháng 3 (âm lịch ) năm Ất Mùi (1835 ) thì bị triều đình dập tắt. Cuộc nổi dậy kết thúc khi quân nhà Nguyễn phóng hỏa đốt rừng Thẩm Pát (hay Thẩm Bát) ở Tuyên Quang và tuyên bố đã tìm thấy thủ lĩnh Nông Văn Vân bị chết cháy ở trong đó. Theo một số nhà nghiên cứu thì đây là cuộc đấu tranh rộng lớn và tiêu biểu nhất của các dân tộc thiểu số ở nửa đầu thế kỷ 19 tại Việt Nam .

    Đôi nét về Nông Văn Vân:

    Nông Văn Vân (農文雲, ? -1835 ) là thủ lĩnh cuộc nổi dậy chống Nguyễn của các dân tộc vùng Việt Bắc trong lịch sử Việt Nam . Cuộc nổi dậy nổ ra từ đầu tháng 7 (âm lịch ) năm Quý Tỵ (1833 ) đến khoảng giữa tháng 3 (âm lịch ) năm Ất Mùi (1835 ) thì bị đối phương dập tắt với việc phóng hỏa đốt rừng Thẩm Pát ở Tuyên Quang, và nói là đã tìm thấy Nông Văn Vân bị chết cháy ở trong đó. Tuy không đầy hai năm, nhưng đây là một cuộc đấu tranh rộng lớn và tiêu biểu nhất của các dân tộc thiểu số ở thế kỷ 19, và đã làm cho quan quân nhà Nguyễn khá vất vả.

    Nguyên nhân:

    Vào đời Minh Mạng, ở các tỉnh Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng.. nhà vua đặt chức lưu quan do người Kinh nắm giữ ở bên cạnh các quan đứng đầu là người dân tộc các quan lại do triều đình cử đến. Theo sử liệu thì họ thường có thói ức hiếp, tham nhũng, nên các thổ quan (trong đó có Nông Văn Vân ) và người dân Bảo Lạc rất bất mãn, chỉ chờ dịp nổi lên đánh đuổi.

    Tháng 5 năm Quý Tỵ (1833 ), Lê Văn Khôi (em vợ Nông Văn Vân ) vì bất mãn đã khởi binh chiếm lấy thành Phiên AnGia Định . Vua Minh Mạng lập tức cử quân đi đánh dẹp, đồng thời lệnh cho quan lại ở Cao Bằng truy nã vợ con và họ hàng Lê Văn Khôi đang cư ngụ ở đó. Theo sử liệu, thì viên án sát Cao Bằng là Phạm Đình Trạc liền ra lệnh bắt lấy hai con, 1 người em ruột và 14 người thân thuộc của Lê Văn Khôi . Đình Trạc lại sai đào mả ông nội (Bế Văn Sĩ) và cha đẻ (Bế Văn Kiện hay Viên) của Lê Văn Khôi rồi đốt hài cốt ra tro. Nông Văn Vân lúc bấy giờ đang làm Tri châu Bảo Lạc cũng bị truy nã vì là anh vợ Khôi.

    Trong tình thế ấy, Nông Văn Vân liền phát động cuộc nổi dậy. Việc làm đầu tiên của ông, là thích bốn chữ "Tỉnh quan thiên hối" (quan tỉnh thiên vị, ăn hối lộ) vào mặt phái viên do tỉnh phái đến rồi đuổi về.

    Ngày 2 tháng 7 (âm lịch ) năm Quý Tỵ (1833 ), Nông Văn Vân tự xưng là "Tiết chế Thượng tướng quân," lập đại bản doanh ở Vân Trung (thị trấn Bảo Lạc ngày nay) thuộc châu Bảo Lạc, tập họp các thổ mục, một số họ hàng của Lê Văn Khôi, một số thợ mỏ người Hoa, và nhân dân bị áp bức, được khoảng sáu ngàn người cùng đứng lên chống Nguyễn .

    Tóm tắt diễn biến:

    Khi Nông Văn Vân phất cờ chống nhà Nguyễn thì ở miền Bắc đang có cuộc nổi dậy của Lê Duy Lương và ở miền Nam đang có cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi .

    Trong cục diện ấy, Nông Văn Vân chia quân đi đánh phá các tỉnh miền ngược. Các quan sở tại chống không nổi, phải xin quân cứu viện. Tháng 8 (âm lịch ) năm 1833, vua Minh Mạng cho Tổng đốc Sơn Hưng TuyênLê Văn Đức làm Tổng đốc Tam Tuyên quân vụ, Thự tổng đốc Hải AnNguyễn Công Trứ làm Tham tán, cùng đến mặt trận Tuyên Quang . Lại sai Tổng đốc Ninh TháiNguyễn Đình Phổ đem binh tượng tới mặt trận Thái Nguyên . Sau thấy hai thành tỉnh là Cao BằngLạng Sơn bị vây ngặt quá, tháng 10 (âm lịch ) nhà vua lại sai An Tĩnh tổng đốc là Tạ Quang Cự làm Tổng thống Đại thần lên đánh ở hai mạn đó.

    Tháng Chạp năm Quý Tỵ (1833 ) đạo quân của Tạ Quang Cự giải vây được tỉnh Lạng Sơn và lấy lại thành Cao Bằng . Đạo quân của Lê Văn ĐứcNguyễn Công Trứ vào đến Vân Trung ở Bảo Lạc là đại bản doanh của quân nổi dậy, khiến Nông Văn Vân phải chạy trốn sang Trung Quốc . Nhưng khi quân triều vừa rút đi, thì Nông Văn Vân lại về rủ đồ đảng đánh phá như cũ. Nhà vua lại sai các đạo quân tiến lên phòng giữ các tỉnh mạn ngược. Đến tháng 9 (âm lịch ) năm Giáp Ngọ (1834 ), Lê Văn ĐứcPhạm Văn Điển đi từ Sơn Tây lên Tuyên Quang ; Tạ Quang Cự, Nguyễn Tiến LâmHồ Hữu đi từ Cao Bằng ; Nguyễn Đình PhổNguyễn Công Trứ đi từ Thái Nguyên ; ba mặt quân cùng tiến lên hội tiễu.

    Tháng Chạp năm ấy, cả ba đạo cùng đến hội ở Vân Trung, rồi sai người đưa thư sang nhờ quan nhà Thanh (Trung Quốc ) ngăn không cho quân nổi dậy chạy sang bên ấy. Nên khi Nông Văn Vân chạy sang Trung Quốc thì bị quân nhà Thanh đuổi bắt, phải trở về Tuyên Quang .

    Tháng 3 (âm lịch ) năm Ất Mùi (1835 ), biết chỗ Nông Văn Vân ở, quan quân nhà Nguyễn liền lần theo truy đuổi khiến ông Vân phải chạy ẩn vào trong rừng Thẩm Pát ở Thái Nguyên, rồi bị thiêu chết khi quân triều phóng hỏa đốt rừng. Cuộc nổi dậy do ông và các đồng đội đã dày công gầy dựng đến đây là kết thúc.

    Một số sự kiện nổi bật của cuộc khởi nghĩa tại một số mặt trận:

    Cuộc nổi dậy do Nông Văn Vân làm thủ lĩnh là một cuộc đấu tranh "rộng lớn". Sách Bắc Kỳ tiễu phỉ (Quyển 47), chép:

    Thổ phỉ Tuyên, Cao, Thái, Lạng lan tràn, chỗ nào cũng có đứa hùng trưởng, mà đều lấy giặc (Nông Văn) Vân làm chủ..

    Sách Đại Nam thực lục (Quyển 18), chép:

    Việc nổi loạn là do (Nông Văn) Vân xướng xuất, tù trưởng các châu đều họa theo và đều nhận chức quan của Vân..

    Sau đây là một số sự kiện nổi bật:

    Tại mặt trận Tuyên Quang:

    Để thông đường tới thành tỉnh Tuyên Quang (gọi tắt là thành Tuyên), Nông Văn Vân cho quân đánh chiếm đồn Ninh Biên (sau đổi tên là An Biên, nay thuộc thị xã Hà Giang ) và đồn Phúc Nghi (nằm bên hữu ngạn sông Gâm ).

    Sau khi cho người đưa thư dụ hàng viên trưởng đồn Ninh Biên là Hoàng Kim Thuận không được, Nông Văn Vân liền đem quân lẻn theo đường núi thuộc châu Vị Xuyên (nay là một huyện của tỉnh Hà Giang ) đến đánh đồn Ninh Biên. Cùng lúc ấy, làm theo lệnh của thủ lĩnh Vân, Ma Sĩ Vinh dẫn quân đi đánh đồn Phúc Nghi. Sách Việt Nam thế kỷ XIX kể:

    Cuối tháng 7 (âm lịch ) năm Ất Tỵ (1833 ), nghĩa quân do thủ lĩnh Ma Sĩ Vinh chỉ huy từ các cao điểm kéo đến vây chặt bốn mặt đồn Phúc Nghi. Đồng thời, một cánh quân khác cưỡi thuyền độc mộc từ thượng lưu bơi qua phía trước đồn, rồi bỏ thuyền lên bờ giáp lại cùng đánh.. Lực lượng của nghĩa quân ước hơn 1000 tên.

    Hay được tin, Bố chính Phạm Phổ cùng Thành thủ úy Trương Phúc Nguyên kéo quân đi ngăn lại. Đầu tháng 8 (âm lịch ) năm Ất Tỵ (1833 ), một trận kịch chiến sau đó nổ ra tại sông Tiểu Miện. Quân triều đình đánh thua, Hoàng Kim Thuận bị giết tại trận. Quân nổi dậy bèn vây kín đồn Ninh Biên. Do thiếu quân và thiếu lương ăn, Phạm Phổ tự vẫn, Trương Phúc Nguyên cùng hơn 400 biền binh trong đồn đều bị bắt sống.

    Lấy được hai đồn trên, Nông Văn Vân liền chia quân thủy bộ ra làm ba cánh đi tấn công thành Tuyên. Theo kế hoạch thì cánh thứ nhất đi tới địa đầu phủ Đoan Hùng, ngăn không cho viện binh ở Sơn Tây kéo lên. Cánh thứ hai (có quân của Nguyễn Đình Liêm từ Thái Nguyên qua phối hợp) tới đánh mặt trước thành. Cánh thứ ba từ châu Ninh Biên theo sông Tiểu Miện tới đánh mặt sau thành. Tuy nhiên vì cánh quân thứ ba không đến kịp và vì tướng Lê Văn Đức kịp thời đưa quân tới cứu nên việc đánh chiếm thất bại.

    Sách Việt Nam thế kỷ XIX, kể:

    Vào hạ tuần tháng 8 (âm lịch ) năm Quý Tỵ (1833), nghĩa quân chủ động đi chiếm lĩnh các cao điểm xung quanh tỉnh thành ở hai bên bờ sông Lô, xây dựng đồn lũy dã chiến. Ngày 21 tháng 8, khoảng 4000, 5000 quân nổi dậy tiến đến chiếm đồn Cao Tụ ở phía sau tỉnh thành. Tuy nhiên do quân triều tập trung đông với voi chiến và súng lớn, mà cánh quân ở Ninh Biên chưa đến kịp, nên quân nổi dậy không thể chiếm được tỉnh thành, đành phải lui về đồn Núi Đền (trên núi Đùm hay Tràng Đà) ở bên kia sông Lô . Quân triều đình đuổi theo đến bờ sông nhưng không qua được vì không có thuyền.

    Ngoài ra, để quân triều không ứng cứu lẫn nhau, Lưu Trọng Chương và Hoàng Trinh Tuyên dẫn 2.000 quân nổi dậy đi đánh đồn Đại Đồng thuộc châu Thu (Thái Nguyên ). Tướng Lê Văn Đức bèn phái Lãnh binh Nguyễn Văn Quyền, Quản cơ Nguyễn Hữu Du và Tri phủ Đoan Hùng là Nguyễn Đức Hoành đem hơn ngàn quân cùng hai thớt voi chia đường đi cứu. Hai bên giáp chiến tại địa phận rừng Hoàng Loan; cuối cùng quân nổi dậy bị đẩy lui. Theo Quốc triều sử toát yếu thì khi ấy Nông Văn Vân "đã thua" ở trận thành Tuyên nhưng vì "đồng đảng nó chưa biết nên tới đó khuấy nhiễu".

    Tháng 10 (âm lịch ) năm 1833, tướng Lê Văn Đức và tướng Nguyễn Công Trứ cùng đưa quân vào đánh phá đại bản doanh Vân Trung và Ngọc Mạo (Đồng Mu ngày nay) định tìm bắt Nông Văn Vân .

    Mặc dù quân nổi dậy ở đồn Phúc Nghi, đồn Ninh Biên, Đèo Ve (Kẻm Ve), Đèo Hoạch (Kẻm Kiếng), Tòng Bá, đồn Bắc Cái (thuộc xã Bạch Đích), Pắc Phấn, v. V. Dựa vào chỗ hiểm phục binh đón đánh, và được lực lượng ở Thái Nguyên "chia lửa" nhưng vì quân triều đình mạnh quá nên đều phải rút chạy.

    Dù vào được Vân Trung và Ngọc Mạo nhưng quân triều không bắt được Nông Văn Vân vì lúc này (tháng Chạp năm 1833 ) ông đã lánh sang Trung Quốc . Do không hợp thủy thổ và thường bị phục kích, cuối tháng Chạp năm 1833 Lê Văn ĐứcNguyễn Công Trứ cho quân rút về Tuyên Quang . Theo tài liệu, trên đường đi và về, quân triều phải chịu nhiều khó nhọc và tổn thất.

    Sách Việt Nam thế kỷ XIX kể:

    Từ Ninh Biên vào đại bản doanh Vân Trung (Bảo Lạc ) phải mất một tháng rưỡi. Điểm lại quân số, khi đi có một vạn quân, vào đến Vân Trung đã có 2.400 lính ốm với hơn 100 tên bỏ mạng dọc đường, nhiều thổ dũng bỏ trốn, lúc đến Vân Trung chỉ còn non một nửa.

    Việc "thắng lợi nhưng lắm hao tổn" này đã bị nhà vua kết tội. Sử nhà Nguyễn chép:

    * * *Lê Văn ĐứcNguyễn Công Trứ kéo quân từ Vân Trung về đến tỉnh Tuyên Quang, đem những tình trạng quân giặc cứ hiểm thiết phục, dọc đàng đón lương cướp súng, và quân sĩ nhiễm bệnh lam chướng, lương ăn không đủ, dâng sớ xin nhận tội. Ngài (Minh Mạng ) dụ rằng: "Quân đi ngàn dặm quý là thần tốc, mình chẳng tới mau để giặc giữ chỗ hiểm, thừa (thời) gian cướp bậy. Khi quân mình về, giặc lại phòng bị các nơi, đến nỗi quân mình chết hại, súng ống bỏ mất, uổng công bấy lâu qua lại, tội chẳng đáng sao? Vậy giao cho bộ nghị xử". Bộ khép (Lê Văn) Đức vào tội tử. Vua cho là nặng quá, chuẩn cho tước bỏ mũ áo, giáng bốn cấp, cất lương, khiến cho Đức phải cố gắng thu công chuộc tội..

    Tháng Giêng năm Giáp Ngọ (1834 ), Nông Văn Vân trở về nước. Sau đó ông sai Nông Văn Sĩ dẫn hơn ngàn quân đi đánh nhau với quân triều ở Cao Bằng . Tham tán Võ Văn Từ đem việc báo lên. Vua Minh Mạng nổi giận sai Lê Văn ĐứcNguyễn Công Trứ lập tức đem đại binh từ Tuyên Quang vào lại Vân Trung và Ngọc Mạo để "đạp bằng sào huyệt giặc, làm sao bắt chém được thằng Vân (Nông Văn Vân), thằng Đản (Bế Văn Đản), thằng Cẩn (Bế Văn Cẩn).. mới cho đem quân về."

    Theo lời tâu của tướng Lê Văn Đức và tướng Nguyễn Công Trứ thì việc tiến quân vào Vân Trung lần thứ hai cũng hết sức khó khăn vì phải luôn đánh nhau mà lại thường hay thiếu lương do địa hình hiểm trở khó vận chuyển. Do vậy mãi đến cuối năm 1834 ba đạo quân do các tướng là: Lê Văn ĐứcPhạm Văn Điển đi từ Sơn Tây ; Tạ Quang Cự, Phạm Tiến LâmHồ Hữu đi từ Cao Bằng ; Nguyễn Đình PhổNguyễn Công Trứ đi từ Thái Nguyên ; mới vào được đại bản doanh Vân Trung.

    Mặt trận Thái Nguyên và Bắc Kạn:

    Tháng 8 (âm lịch ) năm 1833, khi đội quân chủ lực đang bận ở mặt trận thành Tuyên, thì Nông Văn Sĩ nhận lệnh của Nông Văn Vân, đem một đội quân khác đi đánh châu Bạch Thông thuộc tỉnh Thái Nguyên . Bố chính Thái Nguyên là Nguyễn Đôn Tố liền phái Suất đội Trần Đình Dự, Dương Đình Ất cùng viên thủ bảo Chợ Rã (nay đổi tên là huyện Ba Bể ) là Bế Văn Đức đem quân đi cản phá. Từ đất Bằng Thành thuộc Chợ Rã quân nổi dậy chia ba mũi xông vào đánh giáp lá cà. Đình Dự và Đình Ất thua chạy; Văn Đức đầu hàng. Chiếm cứ được Chợ Rã, "thổ dân theo vào đảng (giặc) đến hơn nghìn người."

    Lúc ấy Quang Toản đang đóng quân ở đồn Na Miêu cũng bị hơn 2.000 quân nổi dậy tấn công nhưng vì quân ít hơn, phải lui về giữ đất Na Cù. Lãnh binh Bắc Ninh là Trần Văn Duy đánh thua ở đồn Chợ Mới (nay là một huyện của tỉnh Bắc Kạn ), khiến tướng Nguyễn Đình Phổ (lúc này đã mặt ở Thái Nguyên ) phải xin nhận tội.

    Đồng thời từ đất Bằng Lũng hơn nghìn quân nổi dậy xông tới uy hiếp đồn Bắc Kạn (nay viết là Bắc Kạn) ở châu Bạch Thông. Yếu thế hơn, Bố chính tỉnh Thái Nguyên là Nguyễn Đôn Tố cho quân lui về Chợ Mới, rồi sai Lãnh binh Nguyễn Văn Cát dẫn quân tới đồn Bắc Cạn, phái Quang Toản và Đinh Quang Tiến dẫn quân tới Tượng Đầu làm rào cản. Sau đó đôi bên đụng độ ác liệt ở đồn Bắc Kạn . Lãnh binh Cát bị trúng đạn pháo chết tại trận; quân triều bị đánh tan. Đang hăng, quân nổi dậy liền kéo đi đánh phá Tượng Đầu, giết chết Suất đội Nguyễn Đình Du, bắt sống Quang Toản và Đinh Quang Tiến. Quang Tiến chịu hàng, còn Quang Toản, vì không chịu nên bị giết chết. Nghe tin thất trận, Bố chính Nguyễn Đôn Tố liền đem quân voi đến cứu nhưng vừa đến Tông Hóa thì bị quân nổi dậy cản lại, không tiến được.

    Tháng 10 (âm lịch ) năm đó (1833 ) hơn 1.000 quân nổi dậy lại kéo tới vây đánh thành tỉnh Thái Nguyên khiến Nguyễn Đình Phổ vừa cầu cứu, vừa đánh. Tháng sau quân nổi dậy lại tổ chức tấn công lần nữa nhưng cả hai lần đều bị Tổng đốc Phổ đốc quân đánh đuổi.

    Sang tháng 3 (âm lịch ) năm Giáp Ngọ (1834 ) quân nổi dậy lại tràn xuống phố Bắc Nẫm. Án sát đạo Thái Nguyên lúc bấy giờ là Nguyễn Mưu và Phó lãnh binh Nguyễn Văn Ưng ra sức ngăn lại nhưng thua. Quản cơ Nguyễn Văn An, Chính đội Nguyễn Đình Cát và Vệ úy Võ Văn Sơn đều tử trận; Án sát Nguyễn Mưu bị bắt sống. Thừa thắng, quân nổi dậy tiến đánh đồn Chợ Rã (nay là một thị trấn thuộc huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn ) và Chợ Mới . Không chống nổi, Lãnh binh Nguyễn Văn Ưng cho quân lui về đồn Chợ Đô. Tướng Tạ Quang Cự đem việc báo lên, nhà vua liền sai tỉnh thần Hà NộiNam Định đưa thêm lính và voi lên tiếp sức. Tháng 7 (âm lịch ) năm đó (1834 ) Nồng Văn Sĩ và Nồng Văn Hoành lại nhóm quân ở hạt Cẩm Hóa thuộc Thái Nguyên đến hơn 1.000 người, chia làm 3 đạo: Một đạo đi đánh đồn Bắc Cạn ở châu Bạch Thông, một đạo đinh đánh đồn Gia Bằng ở Cao Bằng, một đạo tới núi Tiêm Lĩnh (ở địa giới tỉnh Cao BằngLạng Sơn ) để cướp lương. Các quan ở Cao BằngThái Nguyên đều phái binh chống cự và đem việc tâu lên.

    Mặt trận Cao Bằng:

    Sau trận đánh mở đầu ở Nước Hai (châu lỵ Thạch Lâm, nay là thị trấn huyện Hòa An ) ngày 1 tháng 9 (âm lịch ) năm 1833, hơn nghìn quân nổi dậy kéo đến bao vây thành tỉnh Cao Bằng (lần thứ nhất) vào ngày hôm sau. Nhận được tin cầu cứu của Bố chính Bùi Tăng Huy, vua Minh Mạng liền ra lệnh cho Tuần Phủ Lạng Bình (Lạng SơnCao Bằng ) là Hoàng Văn Quyền đang đóng quân ở Lạng Sơn cấp tốc đem quân sang cứu viện.

    Trên đường đi, ông Quyền cho dừng quân ở đồn Na Lãnh rồi sai Cai đội Dương Văn Phong đem quân đánh đồn Tiêm Lĩnh vừa bị đối phương chiếm giữ. Quân nổi dậy tạm lui nhưng ngay đêm đó lại lén đến vây kín rồi dùng pháo lớn bắn vào loạn xạ. Quân triều nhiều người bị thương vong. Sau đó quân nổi dậy kéo đi tấn công đồn Na Lãnh. Tuần phủ Quyền đánh thua phải cho quân lui về trạm Lạng Chung ở châu Thất Tuyền (Lạng Sơn ).

    Quân triều chạy về trạm Lạng Chung, theo sách Bắc Kỳ tiễu phỉ thì:

    Sáng sớm ngày 23 tháng 9 (âm lịch ) lũ giặc đông đến 5.000 tên vây đánh úp trạm Lạng Chung. Tri châu Thất Tuyền Nguyễn Khắc Hòa cùng 7 anh em của nó đem dân phu hùa theo giặc.. Biền binh chống đánh không được, lùi ra ngoài đồng. Giặc thừa thế đuổi bắn, Tuần phủ Quyền bị giặc bắt được.. Bọn quản cơ, cai đội, kẻ thì chết kẻ thì chạy, binh lính trong trận đều vứt bỏ khí giới chạy về. Thừa thắng, quân nổi dậy tiến lên vây hãm thành tỉnh Lạng Sơn .

    Lúc bấy giờ thành tỉnh Cao Bằng thiếu đạn, thiếu lương vì bị vây cả tháng mà viện binh thì vừa bị đánh tan. Biết không chống cự nổi, ba ông quan đầu tỉnh là Bố chính Bùi Tăng Huy, Án sát Phạm Đình Trạc, Lãnh binh Phạm Văn Lựu đều tự tử.

    Cuối tháng 11 (âm lịch ) năm 1833, tướng Tạ Quang Cự đưa quân lên cứu thành tỉnh Cao Bằng . Xét mình yếu thế hơn, Nông Văn Vân gom quân chạy sang Trung Quốc để bảo toàn lực lượng. Ngày 27 tháng 11 (âm lịch ) tướng Quang Cự lấy lại thành mà không cần phải đánh, sau đó gửi về bản tâu, trích:

    Thần vừa tới Cao Bằng, thì được biết từ tối hôm trước bọn giặc đã phóng lửa đốt hết nhà cửa trong và ngoài thành mà bỏ đi rồi.. Từ ngày 2 tháng 9 (âm lịch), giặc đến tỉnh thành vây hãm, trong thành thuốc đạn, muối gần hết, biền binh mỏi mệt đau ốm.. Ngày 5 tháng 10 (âm lịch) (Bố chính) Bùi Tăng Huy thắt cổ, (Án sát) Phạm Đình Trạc đào lỗ tự chôn, (Lãnh binh) Phạm Văn Lựu cũng thắt cổ chết, (Lãnh binh) Vũ Văn Lợi hàng giặc..

    Tháng Giêng (âm lịch ) năm Giáp Ngọ (1834 ), Nông Văn Vân trở về nhóm quân ở miền thượng du Cao Bằng . Sau đó ông sai Nông Văn Sĩ đem hơn ngàn quân từ làng Thông Sơn tới đánh nhau với quân triều ở đồn Trung Thảng. Tức giận, vua Minh Mạng cử Lê Văn Đức làm Tổng đốc đạo Tuyên Quang, Nguyễn Công Trứ làm Tham tán, cùng đem đại binh từ Tuyên Quang vào lại Vân Trung.

    Tháng 2 (âm lịch ), quân đạo Cao Bằng đánh nhau với quân nổi dậy ở Đinh Lãm bị thua, hai tướng là Tạ Quang Cự và Võ Văn Từ đều bị cách tước. Nhưng sau đó hai ông lén đánh phá tại núi Công Lãnh, gây cho quân nổi dậy một số thiệt hại.

    Khoảng giữa tháng 6 (âm lịch ), Nông Văn Vân, Bế Văn Cận (hay Cẩn), Bế Văn Huyền (em vợ Văn Vân), đem khoảng 6.000 quân đi đánh chiếm thành tỉnh Cao Bằng (lần thứ hai). Đôi bên giao chiến với nhau nhiều trận, đều bị thiệt hại nhưng nhờ có viện binh nên quân nổi dậy đánh thắng. Thừa thắng, Nông Văn Vân cho quân tràn tới đốt phá châu Thạch Liêm, rồi tiến chiếm thành tỉnh Cao Bằng .

    Hay được tin, tướng Nguyễn Tiến Lâm và Phó vệ úy Nguyễn Tình Lộc mang tượng binh định tiến lên lấy lại nhưng mới tới sơn ải Lạng Chỉ thì bị đối phương chặn đánh, Tình Lộc chết tại trận, Tiến Lâm lui về đồn Lạc Dương ở Cao Bằng . Tạ Quang CựNguyễn Công Trứ kéo quân lên chi viện. Bắt được tin, quân nổi dậy lên núi giữ chỗ hiểm chia đặt hơn 20 trại quyết đối đầu với quân triều. Tướng Quang Cự bèn thân đốc biền binh từ xã Hoa Sơn (nay đổi là Cẩm Sơn) tiến lên Lạc Dương (Cao Bằng), đi đến đâu quân nổi dậy bị đánh tan đến đấy. Liệu không thể giữ được thành tỉnh Cao Bằng, Nông Văn Vân cho quân rút đi. Quản cơ ở Cao Bằng là Nguyễn Hựu Đĩnh (hay Đình) liền đem quân vào lấy lại thành mà không phải đánh. Biết Bế Văn Cận đang ở Lạc Dương định lui quân, Quản cơ Đĩnh liền cho phục binh ở phía sau đồn Ninh Lạc. Quả nhiên Bế Văn Cận lọt vào vòng vây, bị Chính đội trưởng Trình Văn Châu giương súng bắn trúng; thổ dũng Hà Đình Bảo sấn vào chém được đầu tướng Cận.

    Mặt trận Lạng Sơn:

    Tháng 10 (âm lịch ) năm 1833 hai tướng của Nông Văn Vân là Nguyễn Khắc Hòa và Bế Văn Đản đem hơn 10.000 quân vây thành tỉnh Lạng Sơn . Án sát Trần Huy Phác vội chạy giấy tới quân thứ và các tỉnh lân cận cầu cứu. Vua Minh Mạng liền sai Tổng đốc Tạ Quang Cự và Tham tán Võ Văn Từ đem quân lên đó. Phó lãnh binh Hà Nội là Hồ Văn Vân khi ấy cũng nhận lệnh đem binh lên cứu Lạng Sơn nhưng vừa tới trạm Lạng Nhơn thì bị quân nổi dậy chặn đánh, trúng phải đạn chết tại trận.

    Tháng 11 (âm lịch ) năm đó (1833 ) tướng Tạ Quang Cự đánh phá quân nổi dậy ở đồn Quang Lang thuộc Lạng Sơn rồi tiến lên đánh phá ở phía Đơn Sa, An Bài, và giải vây được thành tỉnh Lạng Sơn . Sau đó ông nhận lệnh đến Cao Bằng và thâu phục lại được thành tỉnh này.

    Kết quả của cuộc nổi dậy:

    Tháng Chạp năm Giáp Ngọ (1834 ) cả ba đạo quân xuất phát từ Tuyên Quang, Cao BằngThái Nguyên cùng đến hội ở Vân Trung thuộc châu Bảo Lạc . Sách Việt Nam thế kỷ XIXđã kể lại một phần cục diện lúc bấy giờ như sau:

    * * *Tuy cố sức kình chống, nhưng từ giữa tháng 11 (âm lịch ) năm Giáp Ngọ (1834 ), cuộc nổi dậy do Nông Văn Vân làm thủ lĩnh cứ diễn biến xấu dần, và trên thực tế đang bước vào giai đoạn cuối. Ở mặt trận Thái Nguyên, nhiều căn cứ quan trọng của quân nổi dậy ở các xã Nhạn Môn, Bằng Thành, Bộc Bố, nhất là hệ thống đồn trại ở Bắc Niệm.. đều đã lọt vào tay quân triều. Ở Tuyên Quang, sau trận quyết chiến ở khu rừng Bạch Đích thì "cổ họng vào Bảo Lạc ở phía tây" coi như đã bị cánh quân của Lê Văn Đức chọc thủng.. Ngày 14 tháng 11 (âm lịch ), được tin đạo quân Tuyên Quang của tướng Đức đã vào đến Vân Trung, tướng Tạ Quang Cự liền tập trung hơn 2.500 quân thuộc đạo Cao Bằng, nhân đêm tối vượt qua lũng Dầu, theo đường tắt đánh thẳng vào Cạm Bẻ (Bế Lĩnh), là cửa ngõ phía đông của căn cứ Ngọc Mạo, rồi tràn xuống thung lũng Ngọc Mạo.. Tháng 12 (âm lịch ), Nguyễn Đình PhổNguyễn Công Trứ vừa đi vừa đánh, lần lượt chiếm lấy Bắc Nẫm, Cổ Đạo, Giai Lạc.. Khi ba đạo quân Tuyên, Cao, Thái hội ở Vân Trung, thì "nghịch Vân đã đem vợ con trốn sang Tàu ."

    Đồng thời với việc cho quan quân tiến vào đánh phá Vân Trung, vua Minh Mạng còn sai bộ Lễ gửi công văn nhờ các quan nhà Thanh hỗ trợ phòng khi Nông Văn Vân chạy sang Trung Quốc lần nữa. Ngoài hai việc ấy, nhà vua còn cho đổi châu Bảo Lạc thành huyện Để Định, lựa hai thổ ty đắc lực đặt làm Tri huyện và Huyện thừa cốt để triệt phá hậu phương lớn của thủ lĩnh Vân. Quả nhiên cũng như lần trước, Nông Văn Vân chạy sang Trung Quốc, bị quân nhà Thanh đuổi bắt, lại phải trở về Bảo Lạc, định củng cố lại lực lượng. Quân triều lại tập trung đánh vào nơi ấy khiến Vân phải rút vào rừng. Bị cả ba đạo quân triều truy lùng ráo riết, nhiều chỉ huy của quân nổi dậy bị bắt hoặc ra hàng. Trong số ra hàng có viên Chính quản lữ là Nông Tịnh Hòa. Vì lời khai của Tịnh Hòa mà quân triều biết được chỗ trú ẩn của Nông Văn Vân.

    Được tin Nông Văn Vân đang ẩn ở xã Ân Quang, quan quân nhà Nguyễn liền đi truy bắt nhưng ông đã chạy thoát vào rừng Thẩm Pát (ở gần căn cứ Ngọc Mạo). Sau khi cho quân vây kín, ngày 11 tháng 3 (âm lịch ) năm 1835, viên chỉ huy quân triều ra lệnh phóng hỏa đốt rừng và tâu về là đã tìm thấy Nông Văn Vân bị chết cháy ở trong đó. Vua Minh Mạng được tin, mừng rỡ "truyền mở tiệc rượu mua vui, lại sai cung tần khoác tay nhau làm kiệu ngồi mà múa hát, hô lên liền mấy tiếng:" Cao Bằng yên rồi! Cao Bằng yên rồi! "

    Kể lại đoạn thủ lĩnh Vân bị diệt, sách Đại Nam chính biên liệt truyện chép:

    Tên ra thú là Nông Tính Hòa dò được thực đi báo nơi quân thứ, Lê Văn ĐứcPhạm Văn Điển tức thì phái Vệ úy Nguyễn Văn Quyền đem hơn ngàn binh dũng tới ngay vây bắt.. Sợ (Nông Văn) Vân trốn thoát, (Nguyễn Văn) Quyền cho phóng hỏa đốt cả bốn mặt.. (Nông Văn) Vân ở trong lỗ đá chui ra chết về lửa rơi nằm bên cạnh núi, bên cạnh mình có một đĩnh lớn vàng và kèm theo một lưỡi dao bằng bạc mạ vàng. Bọn (Lê Văn) Đức cho đệ lá hồng kỳ chạy như bay về báo tiệp và đóng hòm đầu Vân đưa dâng, rồi lấy sào cao treo ngược thây ở đỉnh núi Vân Trung. Thủ cấp Vân đưa tới, vua sai đem treo ở chợ búa ba hôm. Lại truyền cho các tỉnh từ Quảng Nam trở vào Nam và từ Quảng Trị trở ra Bắc treo ba hôm, sau đâm nát quẳng xuống hố xí. Mộ của tổ phụ Vân, (vua) sai người đào hài cốt ném xuống sông. Con Vân là Lôi đưa về Kinh xử trị, còn gia quyến và đồng đảng Vân đều bị giết hết, không còn sót mống nào.

    Theo nhiều nhà nghiên cứu, thì cuộc nổi dậy Nông Văn Vân đến đây (tháng 3 âm lịch năm 1835 ) là kết thúc.

    TỔNG QUÁT VỀ KHỞI NGHĨA NÔNG VĂN VÂN:

    Mặc dù cuộc khởi nghĩa kéo dài không quá lâu (non 2 năm) tuy nhiên theo một số nhà nghiên cứu thì Nông Văn Vân quả là một thủ lĩnh có tài bởi ông lôi kéo được đông đảo các tù trưởng và nhân dân dân tộc thiểu số cùng theo. Khéo lợi dụng địa thế rừng núi hiểm trở trong tấn công và phòng ngự, như lời nhà sử gia Trần Trọng Kim:" Nông Văn Vân nhân được chỗ mường mán lắm núi rừng, bèn chia quân di tản ra mọi nơi, tìm chỗ hiểm yếu trong núi rừng mà ẩn nấp. Hễ có quan quân đến, đánh được thì tiến, không đánh được thì lui, cứ ra vào lui tới không nhất định. Quan quân đi đánh thật là khó nhọc và lại hao binh tổn tướng rất nhiều ".

    Đề cập tới cuộc nổi dậy, sách Đại cương lịch sử Việt Nam (tập 1) có đoạn:

    " Bất bình với chính sách của tộc nhà Nguyễn, năm 1829, Nông Văn Vân đã có ý định kêu gọi nhân dân Tày, Nùng nổi dậy. Tuy nhiên đến tháng 8 (dương lịch) năm 1833, cuộc khởi nghĩa mới thực sự bùng nổ.. Cuộc khởi nghĩa này không chỉ thể hiện sự bất bình của nhân dân dân tộc ít người ở phía Bắc đối với nhà Nguyễn mà còn là của chung dân nghèo đương thời. "

    Là một thủ lĩnh tài giỏi Nông Văn Vân không chỉ dấy binh khởi nghĩa riêng lẻ mà ông còn ngầm hợp tác liên kết với một số lãnh đạo các cuộc nổi dậy khác nhằm phân tán lực lượng triều đình như:

    Với Ba Nhàn, Tiền Bột:

    Đầu năm 1834, từ Trung Quốc trở về, để tăng sức mạnh và cũng để phân tán lực lượng của quân triều, Nông Văn Vân ngầm liên kết với hai thủ lĩnh cuộc nổi dậy ở Sơn Tây là Lê Văn Bột (Tiền Bột) và Nguyễn Văn Nhàn (Ba Nhàn). Sự kiện này được sử nhà Nguyễn là Quốc triều sử toát yếu chép như sau:

    Năm Giáp Ngọ (1834 ), tháng 6 (âm lịch ).. Tướng giặc tỉnh Sơn Tây Lê Văn Bột, Nguyễn Văn Nhờn theo lời nghịch (Nông Văn) Vân tụ đảng hơn 6, 7 ngàn người.. Tỉnh thần đem việc phi tâu lên. Ngài (Minh Mạng ) dụ quan Tổng đốc Hà Ninh là Đoàn Văn Trường, Tổng đốc Ninh Thái là Nguyễn Đình Phổ, với Lê Văn Đức bốn mặt hội lại đánh giặc..

    Theo sách Bắc Kỳ tiễu phỉ (Quyển 50), thì Ba Nhàn và Tiền Bột định đưa quân lên Tuyên Quang cả thảy 2 lần để hiệp đồng với Nông Văn Vân nhưng đều không thực hiện được.

    Với Lê Văn Khôi:

    Nông Văn Vân là anh vợ của Lê Văn Khôi . Khi cuộc binh biến ở thành Phiên An nổ ra, vua Minh Mạng liền ban mật dụ cho các quan tỉnh Cao Bằng là phải tìm bắt cho được vợ con và thân thích của Lê Văn Khôi . Cuộc truy nã kéo dài ngót ba tháng, hàng trăm người lần lượt đã bị bắt giữ. Ngoài ra nhà vua cũng ra lệnh đón chặn các đường biển và đường núi, không cho quân nổi dậy cùng vũ khí từ Gia Định kéo ra Bắc và ngược lại..

    Sau khi nghiên cứu Tộc phả Bế-Nguyễn và một số tư liệu khác, bước đầu GS. Nguyễn Phan Quang đã đưa ra một ý kiến như sau:

    Kế hoạch phối hợp nổi dậy giữa Lê Văn KhôiNông Văn Vân đã được ghi trong" Bản triều bạn nghịch liệt truyện "của Kiều Oánh Mậu và trong một số truyền thuyết ở Cao Bằng.. Cả hai ông đã thống nhất một ý đồ chung là phát động cuộc nổi dậy đồng thời trong phạm vi cả nước nhằm lật đổ triều Nguyễn.. Rõ ràng không phải Lê Văn Khôi nổi dậy chỉ nhằm mục đích trả thù cho Lê Văn Duyệt, càng không phải vì thân thuộc của Lê Văn KhôiCao Bằng bị truy nã mà nổ ra cuộc nổi dậy Nông Văn Vân.. Ý đồ trên đây đã chuẩn bị từ lâu và được xúc tiến khẩn trương khi Minh Mạng lên ngôi..

    *Tại Nam Hà:

    Cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi:

    Cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi, hay còn được gọi là: Cuộc binh biến của Lê Văn Khôi, khởi nghĩa của Lê Văn Khôi, sự biến thành Phiên An, là một cuộc nổi dậy chống lại triều đình xảy ra vào thời vua Minh Mạng . Sự kiện này diễn ra từ năm 1833 đến năm 1835 ở các tỉnh miền Nam Việt Nam, lãnh đạo của cuộc nổi dậy này là Lê Văn Khôi, con nuôi của Lê Văn Duyệt .

    Nguyên nhân:

    Vua Minh Mạng và tả quân Lê Văn Duyệt vốn có nhiều hiềm khíchtư thù . Minh Mạng tuy ghét nhưng không dám làm gì Lê Văn Duyệt vì công lao và uy quyền quá lớn của ông với triều đình.

    Năm 1832, ngay sau khi Lê Văn Duyệt mất, vua Minh Mạng bèn tìm cách giành lại quyền lực của mình ở thành Gia Định . Vua bãi bỏ chế độ tổng trấn, tất cả đổi là tỉnh, trực thuộc vào triều đình Huế, cắt đặt quan lại vào thay. Trong những quan lại ấy có Nguyễn Văn Quế làm tổng đốc, Bạch Xuân Nguyên làm bố chính, Nguyễn Chương Đạt làm án sát .

    Theo sách Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, thì: Vốn là người tham lam, tàn ác; nên khi đến làm bố chính ở Phiên An, Bạch Xuân Nguyên nói rằng phụng mật chỉ truy xét việc riêng của Lê Văn Duyệt, rồi đòi hỏi chứng cớ, trị tội bọn tôi tớ của ông Duyệt ngày trước.

    Trước khi đi, Bạch Xuân Nguyên đã được Minh Mạng bí mật dặn dò về việc dựng nên một bản án chống lại Lê Văn Duyệt. Ngay khi tới nơi, Bạch Xuân Nguyên làm một báo cáo dày nhiều tập trong đó lên danh sách, tìm bằng chứng, rồi buộc Lê Văn Duyệt nhiều tội trong đó có các tội tham nhũng, lạm dụng quyền lực, đơn cử như việc Lê Văn Duyệt mở rộng thành Bát Quái, đóng thêm tàu được xem là một bằng chứng xác đáng về tội ác chống triều đình của Lê Văn Duyệt, nhưng vì ông đã
    chết nên cho người đánh mộ 100 roi. Đồng thời nhiều thuộc hạ của Lê Văn Duyệt cũng bị bắt, và 16 người nhà của Lê Văn Duyệt bị giết chết.

    Những hành động này đã thúc đẩy các thuộc hạ của Lê Văn Duyệt, trong đó có con nuôi ông là Lê Văn Khôi, lo sợ cho số phận của mình, nên họ dấy binh nổi dậy dưới sự lãnh đạo của Lê Văn Khôi.

    *Lê Văn Duyệt:

    Lê Văn Duyệt (
    1763 hoặc 1764 - 28 tháng 8 năm 1832 ) còn gọi là Tả Quân Duyệt, là một nhà chính trị, quân sự tài ba người Việt Nam .

    Ông được biết đến khi tham gia phò tá Chúa
    Nguyễn Ánh , trong cuộc chiến với quân Tây Sơn . Khi chiến tranh kết thúc và Nhà Nguyễn được thành lập, ông trở thành một vị quan cấp cao trong triều đình và phục vụ hai triều Vua Gia Long (tức Nguyễn Ánh ) và Minh Mạng .

    Ông nội quê Quảng Ngãi, vào Tiền Giang lập nghiệp nên ông sinh ra tại
    Tiền Giang . Lê Văn Duyệt gia nhập quân đội của Nguyễn Ánh chống lại nhà Tây Sơn từ năm 1781 . Nhờ tài năng quân sự Lê Văn Duyệt nhanh chóng thăng tiến trong hàng ngũ của quân Nguyễn tới chức chỉ huy Tả Quân vào thời điểm cuộc chiến kết thúc. Sau khi Nhà Nguyễn thành lập, ông trở thành một vị quan, tướng quân giữ nhiều chức vụ quan trọng của triều đình; nhiều lần công cán ở cả phía Bắc thành và hai lần được cử làm tổng trấn Gia Định .

    Việc cai trị của ông đã góp công lớn giúp ổn định và phát triển khu vực Nam Bộ, khiến cho vùng này từ một khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh thành một khu vực bình yên và giàu có. Thêm vào đó, Lê Văn Duyệt phản đối việc nối ngôi của Vua Minh Mạng và bảo vệ các tín đồ Công giáo khỏi chính sách bế quan tỏa cảng và trọng Nho giáo của Vua. Những việc này đã khiến ông thường xuyên xung đột với Vua và dẫn đến việc Triều đình đã hạch tội và cho phá hoại lăng mộ sau khi Lê Văn Duyệt mất. Vì việc này, người con nuôi của ông là Lê Văn Khôi đã nổi dậy chống lại Triều đình . Sau khi cuộc nổi dậy bị dập tắt, Lê Văn Duyệt tiếp tục bị truy tội đến mãi đời Thiệu Trị thì vụ án mới được xét lại, và ông mới được phục hồi danh dự.

    [​IMG]

    Khuôn mặt tượng đồng Lê Văn Duyệt trong Thượng Công miếu (Lăng Ông). Khuôn mặt được chế tác dựa trên chân dung Lê Văn Duyệt trên tờ tiền giấy 100 đồng của chính quyền Việt Nam công hòa in năm 1966.

    Diễn biến:

    A) Nổi dậy:

    Nguyên trước Lê Văn Khôi có tên là Nguyễn Hữu Khôi, người ở Cao Bằng, do khởi binh làm loạn, bị quân triều đình đuổi đánh, mới chạy vào Thanh Hóa, gặp Lê Văn Duyệt làm kinh lược ở đấy, bèn xin ra thú. Lê Văn Duyệt tin dùng cho làm con nuôi, đổi tên họ là Lê Văn Khôi, rồi đem về Gia Định cất nhắc cho làm đến chức phó vệ úy. Theo Quốc triều chính biên toát yếu, khi nổi dậy, Lê Văn Khôi giữ chức Tả quân Minh nghĩa Vệ úy.

    Khi Bạch Xuân Nguyên tuyên bố phụng mật chỉ trị tội các thủ hạ của Lê Văn Duyệt, Lê Văn Khôi bị bắt giam. Ông bèn mưu với mấy người cùng cánh khởi binh chống triều đình.

    Lê Văn Khôi ngầm liên hệ được với binh lính bên ngoài, vào đêm 18 tháng 5 năm Quý Tỵ (tức 5 tháng 7 năm 1833 ), ông cùng 27 lính hồi lương đồng mưu đột nhập dinh giết cả nhà Bạch Xuân Nguyên và thuộc hạ Nguyễn Trương Hiệu, người trực tiếp lo vụ án Lê Văn Duyệt, cùng thủ hạ. Lúc đó ở Gia Định lại có những người có tội ở Bắc Kỳ đem đày vào, hoặc cho làm ăn với dân sự, hoặc bắt làm lính gọi là hồi lương; những lính ấy đều theo Lê Văn Khôi nổi dậy.

    Quân Lê Văn Khôi chiếm được Thành Bát Quái . Họ tổ chức một lễ thắp đuốc tại mộ Lê Văn Duyệt và tại đây, Lê Văn Khôi tuyên bố bất phục triều đình, ủng hộ An Hòa, con trai của Nguyễn Phúc Cảnh (hoàng tử Cảnh). Tối cùng ngày, quân nổi dậy giết vị quan tổng đốc An -Biên mới nhận chức của triều đình là Nguyễn Văn Quế, người chịu trách nhiệm việc xây dựng lại quyền lực của triều đình trung ương ở vùng Gia Định, khi ông đang mang quân đến cứu Bạch Xuân Nguyên. Án sát Phiên An là Nguyễn Chương Đạt sợ hãi mở cửa thành, đang đêm chạy trốn. Nhân đó, quân nổi dậy phá ngục thả lính hồi lương để gia tăng lực lượng.

    Sách Đại Nam chính biên liệt truyện của nhà Nguyễn chép sự việc này hơi khác. Theo đó, khi Lê Văn Khôi cùng 60 người đến đánh Bạch Xuân Nguyên và Nguyễn Văn Quế. Xuân Nguyên thấy động lẻn trốn thoát, còn Quế cùng vài thủ hạ chống cự bị giết chết. Sau đó Lê Văn Khôi đuổi theo bắt được Bạch Xuân Nguyên, mang về nhà Lê Văn Duyệt để tế Duyệt. Sau đó Lê Văn Khôi mới giết nốt Xuân Nguyên. Thành Gia Định thất thủ vào tay quân nổi dậy.

    Quân triều đình thuộc các tỉnh còn lại trong Nam Kỳ Lục tỉnh chậm trễ ứng cứu khi thành Gia Định thất thủ. Theo Doãn Uẩn, án sát Vĩnh Long mới nhậm chức, thì đến ngày 27 tháng 5 năm Quý tỵ (14/7/1833), tổng đốc Long Tường là Lê Phúc Bảo mới dẫn quân cứu viện từ bản doanh là thành Vĩnh Long tiến đánh Gia Định, nhưng đến tỉnh Định Tường thì đóng quân lại không tiến. Tổng đốc An Lê Đại Cương trước đó từ An Giang thân cầm đại binh đi cứu viện, khi đến Định Tường cũng dừng quân không tiến.

    Tới tháng 7 năm đó, cả Văn Quế và Xuân Nguyên đều bị triều đình truy đoạt chức tổng đốc An Biên và Bố chính Phiên An.

    B) Diễn biến:

    Đánh chiếm 6 tỉnh

    Nhiều quan lại do triều đình bổ nhiệm đều bị giết chết và hoặc chạy khỏi thành Gia Định . Cuộc nổi dậy bất ngờ này đã không được triều đình dự phòng trước. Quân nổi dậy nhanh chóng tràn đi các tỉnh đồng bằng Nam Bộ và đánh chiếm. Trong vòng 3 ngày lục tỉnh Nam Kỳ đã nằm trong tay lực lượng nổi dậy. Lê Văn Khôi làm chủ thành Phiên An, nhiều tướng văn võ của triều đình đầu hàng. Ông đúc ấn tự xưng là đại nguyên soái, phong cho Thái Công Triều, Lê Đắc Lực làm trung quân; các tướng người Bắc Kỳ là Nguyễn Văn Đà, Nguyễn Văn Thông làm tiền quân; Dương Văn Nhã, Hoàng Nghĩa Thơ làm Tả quân; Võ Vĩnh Tiền, Võ Vĩnh Tải làm Hữu quân; Võ Vĩnh Lộc, Nguyễn Văn Bột làm hậu quân; Lưu Tín, Trần Văn Tha làm thủy quân; Nguyễn Văn Tâm, Nguyễn Văn Chân, Quách Ngọc Chấn làm Tượng quân.

    Trong tháng 6 âm lịch năm đó, quân nổi dậy đánh chiếm Biên Hòa . Các quan lại nhà Nguyễn như Thự tuần phủ Biên Hòa Võ Quýnh, án sát Lê Văn Trác, lãnh binh Hồ Kim Truyền đều bỏ chạy.

    Vài ngày sau, Võ Quýnh khôi phục lại được Biên Hòa . Minh Mạng lệnh cho tổng đốc Long Tường là Lê Phúc Bảo, tổng đốc An Hà là Lê Đại Cương đốc quân cùng đến Phiên An đánh Lê Văn Khôi. Nhưng khi quân triều đình chưa kịp điều thì quân nổi dậy dưới sự chỉ huy của Thái Công Triều lại đánh chiếm Định Tường, khiến cho Phúc Bảo, Đại Cương đều bị cách chức làm lính cùng với tuần phủ Định Tường là Tô Chấn và Án sát Ngô Bá Toán.

    Tại tỉnh Định Tường, quân nhà Nguyễn của tổng đốc Phúc Bảo gặp quân nổi dậy Dương Văn Nhã dẫn 10 thuyền và mấy trăm quân đánh tới. Bảo sai Phó quản cơ Lê Tiêu dẫn thổ binh Lạc Hóa đánh nhau với quân nổi dậy ở Tra Giang (giáp giới 2 tỉnh Gia Định-Định Tường). Tiêu tử trận quân binh vỡ. Lê Thúc Bảo bèn trong đêm tối, tự bỏ mấy ngàn binh thuyền, chèo chiếc thuyền con chạy về Vĩnh Long (ngày 10 tháng sáu âm về tới nơi). Lê Đại Cương đến Định Tường thấy vậy cũng lập tức lui binh, tự nói rằng về giữ địa hạt. Tuần phủ Định Tường Tô Trân bất đắc dĩ cũng đi Vĩnh Long, để trống tỉnh thành, quân nổi dậy thừa cơ tiến đóng Định Tường.

    Lê Văn Khôi còn nhiều người trong gia đình ở ngoài Bắc, bị triều đình bắt giữ ở Cao Bằng.

    Thái Công Triều mang quân từ Định Tường đến đánh chiếm Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên . Ngày 14 tháng 6 âm (tức 30/7/1833), quân nổi dậy theo Tiền Giang vượt Vĩnh Long tiến đánh Lê Đại Cương ở xứ Cái Tàu . Doãn Uẩn và phó lãnh binh An Giang là Võ Văn Vĩ đem quân cứu viện Lê Đại Cương. Quân nhà Nguyễn thua tan tác, Võ Văn Vĩ tử trận, Đại Cương chạy trốn về đất Chế Lăng (vùng đất Cao Miên đương thời nằm trong lòng Nam Kỳ), Doãn Uẩn lui về Vĩnh Long. Sau đó cùng ngày, quân nổi dậy với hơn bốn mươi chiến thuyền tiến đánh Vĩnh Long. Quân binh nhà Nguyễn trong thành chống giữ không nổi. Tổng đốc, bố chính bỏ thành chạy trốn, thành Vĩnh Long thất thủ. Một hai ngày sau thành Châu Đốc và thành Hà Tiên cũng chung số phận với Vĩnh Long. Quân nổi dậy chia nhau đi giữ các huyện và đặt quan chức cai trị tại đó. Tháng 7 năm 1833, quân nổi dậy tấn công Biên Hòa nhưng bị đánh lui. Sau đó, Lê Văn Khôi tiếp tục mở cuộc tấn công lần nữa và chiếm được thành, giết tướng nhà Nguyễn là Tôn Thất Gia. Cùng lúc, anh vợ Lê Văn Khôi là Nông Văn Vân làm tri châu Bảo Lạc thuộc Tuyên Quang cũng nổi dậy, tự xưng là Thiết chế thượng tướng quân.

    Thất thế

    Vua Minh Mạng liền cử
    Tống Phúc Lương , Nguyễn Xuân , Phan Văn Thúy , Trương Minh Giảng Trần Văn Năng đem thủy bộ binh tượng vào đánh Khôi.

    Ngay trong tháng 8 năm 1833, quân triều đình đã phản công và bắt đầu lấy lại các tỉnh Nam Bộ. Tướng Ngô Bá Toán chuộc tội, lấy lại được Định Tường, được phong chức Bố Chính Sứ .

    Trong tháng (ngày 17 tháng bảy âm tức 31/8/1833), Án sát Vĩnh LongDoãn Uẩn chiếm lại được thành Vĩnh Long. Sau đó Án sát An GiangBùi Văn Lý cũng chiếm lại An Giang và Hà Tiên . Trương Minh GiảngHoàng Đăng Thuận lấy lại được Biên Hòa .

    Địa chủ, phú hào các nơi dao động, không dám ủng hộ Lê Văn Khôi nữa. Tiếp đó, một tướng giỏi của ông là Thái Công Triều cũng đầu hàng triều đình, khiến lực lượng nổi dậy suy yếu nhanh chóng.. Triều mang quân về đánh Khôi ở Gia Định.

    Cố thủ và thất bại

    Lê Văn Khôi yếu thế, bèn nhờ
    giáo sĩ phương Tây đi sang cầu viện Xiêm La . Xiêm La nhân muốn lấn chiếm Đại Nam bèn nhận lời giúp.

    Lê Văn Khôi còn mời một vị giáo sĩ người Pháp tên Marchand đến và ở trong thành. Việc mời vị giáo sĩ này và việc ủng hộ con của hoàng tử Cảnh (đã cải đạo sang Cơ đốc giáo trước đó) là An Hòa là nhằm có được sự ủng hộ của những người Công giáo địa phương. Lê Văn Khôi còn kêu gọi những người theo Công giáo vào thành và sống dưới sự bảo trợ của ông. Những giáo sĩ người Việt giữ vai trò lãnh đạo lực lượng Công giáo địa phương đánh lại quân triều đình và liên lạc với bên ngoài khi thành bị vây khốn.

    Năm 1834, quân triều đình đánh bại quân Xiêm, chiếm lại toàn bộ các tỉnh miền nam và chuyển sang vây quân nổi dậy trong thành Bát Quái . Lê Văn Khôi bị bệnh mất ở trong thành Phiên An khi thành đang bị vây ngặt. Con trai ông là Lê Văn Cù mới 8 tuổi được cử lên thay.

    Dù Lê Văn Khôi đã chết, quân nổi dậy vẫn giữ được thành trước quân triều đình cho tới tháng 9 năm 1835. Lúc bấy giờ, hiện trạng rất nguy ngập: Thành bị bao vây, dịch tả hoành hành, súng đạn hư hỏng vơi cạn dần, lương thực tuy nhiều nhưng bị ẩm mốc, tinh thần và sức lực quân dân đều suy kiệt và ly tán.. Cho nên đến ngày 16 tháng 7 năm Ất Mùi (tức 8 tháng 9 năm 1835 ), khi quân triều đình chia làm 8 mũi, tấn công ồ ạt vào thành. Quân nổi dậy chống cự không nổi, bị thua trận. Quân nổi dậy cả thảy 1.831 người đều bị giết chết và chôn chung một chỗ, sau này gọi là Mả Ngụy hay Mả Biền Tru, nay thuộc khu vực Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.

    Sau chiến tranh

    [​IMG]

    Joseph Marchand bị xử lăng trì

    Sáu người bị kết tội" chủ mưu "bị đóng cũi giải về Huế và nhận lãnh án lăng trì, trong đó có con trai của Lê Văn Khôi mới 8 tuổi, một linh mục người PhápMarchand, một người Hoa là Mạch Tấn Giai

    Theo GS. Nguyễn Phan Quang thì các" tội nhân "đó là: Nguyễn Văn Cù (con Khôi), giáo sĩ Marchand (Cố Du), Mạch Tấn Giai (gốc người Triều Châu ), Nguyễn Văn Hoành, Nguyễn Văn Trắm, Nguyễn Văn Bột..

    Sau khi dẹp xong cuộc nổi dậy, triều thần Phan Bá Đạt dâng sớ xin kể tội Lê Văn Duyệt, vua Minh Mạng đồng ý và nhóm nội các là Hà Quyền, Nguyễn Tri PhươngHoàng Quýnh ra án nghị Lê Văn Duyệt có bảy tội phải chém, hai tội phải thắt cổ, một tội phải sung quân, nhưng vì ông đã chết nên chỉ cho người tước sắc phong, phá và xiềng xích mồ mả. Mãi cho tới đời vua Thiệu Trị án mới được dỡ bỏ.

    Cuộc nổi dậy này đã khiến vua Minh Mạng phá hủy tòa thành kiên cố cũ là Thành Bát Quái và cho xây tòa thành nhỏ hơn, ít kiên cố hơn là Thành Gia Định (hay Phượng Thành, Phụng Thành).

    Một số nhận xét về khởi nghĩa Lê Văn Khôi:

    " Cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi là cuộc nổi dậy không thành công to lớn nhất của Nam Kỳ. Nó quy tụ được nhiều thành phần của Sài Gòn đương thời. Họ bất mãn với sự thay đổi chính sách thống trị của Minh Mạng ngay sau khi Lê Văn Duyệt chết. Họ cùng bị bách hại, kết tội, bóc lột bởi nhóm quan lại mới đến. Nhưng họ chỉ biết kết hợp chống đối, mà thiếu hẳn một đường lối để tạo thành một sức mạnh gắn bó, cuốn hút được những người còn ở xa. Chỉ trong việc Lê Văn Khôi tức tốc cầu viện quân Xiêm đã đủ cho nhân dân lục tỉnh phản đối rồi, nên suốt thời gian bị bao vây, không có một cuộc nổi dậy nào của dân ở các tỉnh, nhằm chia sẻ lực lượng quân triều. Điều đó đã nói lên mức độ bị cô lập của một cuộc binh biến.. "

     Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu

    " Phe Khôi nổi lên, chủ yếu là với lực lượng quân đội địa phương, chống lại triều đình Minh Mạng, đó là một biểu hiện của mâu thuẫn giữa các cánh phong kiến. Khôi dùng hàng ngũ cố đạo người Pháp và những tay phiêu lưu người Tàu. Khôi lại cầu viện quân Xiêm.. Ý định của Khôi là cát cứ ở phương nam. Cho nên, dù ban đầu, cuộc khởi binh của Khôi có trùng hợp với một số cuộc khởi nghĩa nông dân trên cả nước Việt Nam, nó không tránh khỏi sớm mất đà, rốt cùng chỉ có thể dựa vào hào sâu, tường cao, lương thực đủ, súng đạn nhiều. Khôi chống cự với quân triều được gần ba năm. Trong ba năm đó, nhân dân Gia Định–Sài Gòn vì chiến tranh mà thêm đồ thán. Hai bên đánh qua đánh lại, phố phường tan tác, thôn xóm tiêu điều. Cuối cùng quân Minh Mạng toàn thắng.. "

     Giáo sư Trần Văn Giàu

    " Chúng ta không nên xếp sự biến Lê Văn khôi vào phạm trù nông dân khởi nghĩa bởi vì động cơ bao trùm sự biến là mâu thuẫn nội bộ giai cấp thống trị, thậm chí, mang dấu vết thanh toán tư thù và chừng mực nào đó - cũng như Nông Văn Vân và Lê Văn Phụng ở Bắc Bộ - có bàn tay các cố đạo ngoại quốc nhúng vào, nhưng nó vẫn báo hiệu chấm dứt thời kỳ dân đất Đồng Nai cảm tình với nhà Nguyễn và nhà Nguyễn nương tay với dân Đồng Nai.. "

    Nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng

    " Cuộc binh biến này, thực chất chỉ là một cuộc đảo chính quân sự của một tầng lớp thống trị địa phương, nhằm chống lại nhà nước phong kiến trung ương, chứ không phải là cuộc khởi nghĩa của nhân dân, mặc dù nó đã lôi cuốn được nhiều thành phần, như: Giáo dân Thiên chúa, một số Hoa kiều, một số dân tộc ít người vùng Tây Ninh, binh lính quê ở miền Bắc, miền Trung, một số địa chủ, dòng dõi công thần và một số quan lại dưới quyền Lê Văn Duyệt.. Nhưng cuộc binh biến chưa có biểu hiện nào cho thấy nó đã nổ ra vì nguyện vọng và vì lợi ích của đông đảo các tầng lớp nhân dân.. "

     Trong sách Sài Gòn - TP. HCM

    Và hiện nay các sử gia vẫn còn tranh cãi về nguyên nhân chính của cuộc khởi nghĩa này là do việc triều đình

    làm nhục Lê Văn Duyệt hay tình trạng quan chức địa phương mất quyền lực..

    Cuộc chiến tranh Việt-Xiêm:

    Chiến tranh Việt – Xiêm (1833-1834) là một cuộc chiến gồm hai đợt tấn công của quân Xiêm vào lãnh thổ
    Đại Nam ( Việt Nam ngày nay). Đợt đầu khởi từ tháng 11 năm 1833, rồi tạm ngưng ngày nào chưa rõ. Đợt hai tấn công từ tháng Giêng năm Giáp Ngọ (1834), đến tháng Năm cùng năm thì kết thúc. Sau cùng, quân Việt chiến thắng. Theo Việt sử tân biên , Quyển 4, thì:

    " Nhờ cuộc chiến thắng này, mà uy danh của chính quyền Việt Nam được nổi hơn bao giờ hết, các nước chư hầu càng thêm kính phục. Quốc vương Xiêm La phải cử một sứ bộ qua
    Huế xin giảng hòa.. "

     Phạm Văn Sơn

    11) Về đối ngoại:

    Với Trung Quốc:

    Giống như vua cha, Minh Mạng chủ trương tiếp tục triều cống và giữ quan hệ ngoại giao hữu hảo với nhà Thanh . Khi lên ngôi, ông đã nhận sự phong vương của vua nhà Thanh. Tuy nhiên, triều Nguyễn duy trì đường lối đối nội tự chủ. Theo nhận xét của giáo sư Yu Insun, các vua nhà Nguyễn chỉ xưng thần với nhà Thanh một cách hình thức, còn thực chất họ cho rằng họ bình đẳng với nhà Thanh. Các phái đoàn đi cống của ĐạiNam ngoài việc đưa đồ tiến cống còn thực hiện việc trao đổi mua bán sản phẩm không có trong nước, vì Trung Quốc không cho phép thương nhân Đại Nam sang Trung Quốc, còn Đại Nam duy trì lệnh cấm dân chúng xuất cảnh để ngăn chặn việc xuất lậu vật phẩm sang Trung Quốc như gạo, muối, vàng bạc, đồng, sừng trâu, ngà voi, v. V..

    Việc duy trì quan hệ triều cống chỉ có ý nghĩa tượng trưng, vì đến cuối đời Minh Mạng, cứ bốn năm một lần nhà Nguyễn mới phải cử sứ sang cống, đồng thời nhà Thanh cắt giảm yêu cầu vật phẩm triều cống cho triều Tây Sơn và nhà Nguyễn chỉ còn phân nửa so với nhà Lê, nên giá trị vật chất không đáng kể. Tuy nhiên các đoàn đi sứ đều được lệnh ghi chép cẩn thận tình hình bên Trung Quốc để báo cáo lại cho nhà vua. Các sứ thần không hoàn thành nhiệm vụ này đều bị trách phạt. Đây có lẽ là một phần lý do khiến vua Minh Mạng có thể nhận định đúng việc nhà Thanh ngày càng suy yếu, và dự đoán chính xác nhà Thanh sẽ thất bại trong cuộc xung đột với nước Anh một khi cuộc chiến tranh Nha phiến nổ ra.

    Với Xiêm La:

    Thời Minh Mạng, giữa Xiêm La (Thái Lan, do nhà Chakri trị vì) với Đại Nam thường xảy ra chiến tranh. Trước đây, vua Gia Long và vua Minh Mạng có mối quan hệ tốt với các vua Rama I, Rama II nên hai nước Việt - Xiêm chưa xảy ra xung đột. Tuy nhiên, sau khi vua mới của Xiêm là Rama III lên ngôi, ông và Minh Mạng đã có thái độ thù nghịch nhau do không còn mối thâm tình như các vua trước. Năm 1827, vua Rama III cử tướng Chất Tri (tức Bodin) đem quân Xiêm sang xâm lược Vạn Tượng, vua xứ này là A Nộ (Anouvong) chống không nổi, phải cầu cứu triều đình Đại Nam. Minh Mạng sai thống chế Phan Văn Thúy mang viện quân sang giúp nhưng bị quân Xiêm đánh bại. Năm 1828, Phan Văn Thúy và Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Khoa Hào tiếp tục đem 3.000 quân và 24 voi chiến đưa A Nộ về Trấn Ninh, rồi tiến vào Vạn Tượng (Vientiane ) nhưng đạo quân Nhà Nguyễn – A Nộ lại bị quân Xiêm đập tan. Chán nản, vua Minh Mạng hạ lệnh bãi bỏ và chỉ phòng vệ ở vùng biên giới. A Nộ sau đó chạy về Trấn Ninh và bị bắt nộp cho quân Xiêm.

    Quân Xiêm được đà đánh sâu vào các miền phụ cận Quảng Trị . Thống chế Phạm Văn Điển cùng Tham tán Quân vụ Lê Đăng Doanh cùng với các đạo quân Nguyễn ở Lào phải đi ngăn quân Xiêm, đằng khác gửi thư trách cứ họ. Xiêm La trả lời khiêm nhượng rồi rút quân. Tuy vậy, họ vẫn ngấm ngầm giúp Chân Lạp nổi lên chống triều đình Nguyễn hoặc lấn lướt Vạn Tượng và các xứ quy phục triều đình.

    Năm 1833-34, theo lời kêu gọi của Lê Văn Khôi, Xiêm La mang đại quân xâm lấn Nam Kỳ nhưng bị quân Đại Nam đánh tan.

    Với Ai Lao (Lào) :

    Thời Minh Mạng, lãnh thổ Đại Nam rộng lớn hơn cả. Nhiều vùng ở Ai Lao đã xin thuộc quyền bảo hộ của Đại Nam. Các vùng nay là Sầm Nứa, Trấn Ninh, Cam Môn (Khammuane ) và Savannakhet giáp với các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Trị đều được sáp nhập và trở thành các châu, phủ của Đại Nam .

    Với Chân Lạp (Campuchia) :

    Từ năm 1833, sau khi phá được quân Xiêm, tướng quân Trương Minh Giảng cùng Tham tán Lê Đại Cương lập đồn Đại Nam gần Nam Vang (tức Phnôm Pênh ) để bảo hộ Chân Lạp (Campuchia).

    Cuối năm Giáp Ngọ (1834 ), vua Nặc Ông Chân (Ang Chan II) của Chân Lạp qua đời mà không có con trai nối dõi, quyền bính chuyển sang cho Trà Long và Lê Kiên - hai người Chân Lạp - làm quan cho Đại Nam. Đến năm Ất Mùi (1835 ), Trương Minh Giảng lập con gái Nặc Ông Chân là công chúa Ang Mey (tức Ngọc Vân công chúa) lên làm Cao Miên quận chúa. Trương Minh Giảng đổi nước Chân Lạp thành Trấn Tây thành, rồi chia làm 32 phủ và 2 huyện, và đặt các chức quan cai quản mọi việc quân sự và dân sự.

    Do quan lại người Việt ở Chân Lạp làm nhiều điều ức hiếp, nhũng nhiễu dân Chân Lạp; quân Nguyễn lại bắt Ngọc Vân quận chúa đem về Gia Định, đổi thành Mỹ Lâm quận chúa (do không còn nước Cao Miên nữa) ; đày các quan người Chân Lạp là Trà Long và Lê Kiên ra miền Bắc Đại Nam. Do đó dân Chân Lạp oán hận và nổi dậy chống quân Đại Nam ở khắp nơi.

    Em trai của Nặc Ông Chân là Nặc Ông Độn (Ang Duong ) và Ang Em (hoặc Ang Im) đã làm loạn với sự giúp đỡ của Xiêm La . Quan quân nhà Nguyễn đánh dẹp không nổi, nên sau khi vua Minh Mạng qua đời, quan quân Đại Nam phải bỏ Trấn Tây thành mà rút về An Giang .

    Với Phương Tây:

    Vua Minh Mạng không có thiện cảm với người châu Âu cũng như thái độ của người Á Đông trước đó, xem người Âu là bọn man di đi cướp bóc. Với những người Pháp đã từng giúp Gia Long trước kia, Minh Mạng tỏ thái độ lạnh nhạt nên khi ông Chaigneau trở lại Đại Nam không được trọng dụng nữa. Nhà vua cho Chaigneau hay rằng không cần phải ký thương ước giữa hai chính phủ, người Đại Nam vẫn đối xử tử tế với người Pháp là đủ, ông chỉ thỏa thuận mua bán với người Pháp, nhưng không chấp nhận thành lập quan hệ ngoại giao chính thức với nước Pháp, quốc thư của Pháp xin cho Chaigneau làm lãnh sự Pháp cũng không được Minh Mạng đếm xỉa đến.

    Thời bấy giờ, Đại Nam là nước Á Đông đầu tiên mà Hoa Kỳ muốn thiết lập quan hệ ngoại giao. Các năm 1832 và 1836, Tổng thống Hoa Kỳ Andrew Jackson đã gửi đại sứ Edmund Robert sang đàm phán với Minh Mạng về quan hệ mậu dịch song phương cả hai nước nhưng đều không thành công. Chính sách thụ động này đã kìm hãm sự phát triển của Đại Nam .

    Việc cấm đạo Công giáo

    [​IMG]

    Cảnh hành hình giáo sĩ Pierre Borie năm 1838

    Minh Mạng cũng không thích đạo Công giáo của châu Âu . Từ khi lên ngôi, ông đã có ý không cho người ngoại quốc vào giảng đạo này ở trong nước. Đến năm Ất Dậu (1825 ), khi chiếc tàu Thetís vào cửa Đà Nẵng, có giáo sĩ tên Rogerot ở lại đi giảng đạo khắp nơi, Minh Mạng khi ấy mới ra dụ cấm đạo, và truyền cho quan quân phải khám xét các tàu thuyền của ngoại quốc ra vào cửa bể. Trong dụ nói rằng:

    " Đạo phương Tây là tà đạo, làm mê hoặc lòng người và huỷ hoại phong tục, cho nên phải nghiêm cấm để khiến người ta phải theo chính đạo."

     Minh Mạng

    Ông còn sai tìm nhiều giáo sĩ ở trong nước đem về kinh đô Huế để dịch sách Tây ra tiếng Việt, nhằm mục đích ngăn các giáo sĩ giảng đạo ở chốn hương thôn.

    Theo Việt Nam sử lược, lúc bấy giờ không phải một mình nhà vua ghét đạo Công giáo mà thôi, phần nhiều các quan cũng đều một ý cả, cho nên sự cấm đạo ngày càng khắc nghiệt thêm. Nhưng mà dẫu cấm thế nào đi nữa, trong nước vẫn có người đi giảng đạo, Minh Mạng lại ra dụ lần nữa truyền cho tín đồ Công giáo phải bỏ đạo, và ai bắt được giáo sĩ đem nộp thì sẽ được thưởng. Năm ấy ở kinh đô có một giáo sĩ bị khép tội xử giảo, và ở các địa phương cũng rối loạn vì sự bắt và giết giáo sĩ.

    Từ năm 1822, trong Nam ngoài Bắc có rất nhiều cuộc nổi dậy, nhà vua cho là dân đạo theo giúp các đạo quân nổi dậy, sự cấm đạo lại càng khắc nghiệt hơn. Từ năm Giáp Ngọ (1834 ) đến năm Mậu Tuất (1838 ), có nhiều giáo sĩ và giáo dân bị giết, nhất là từ khi bắt được ông Joseph Marchand (Cố Du), một giáo sĩ tham gia vào cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi . Các giáo sĩ phương Tây đã so sánh Minh Mạng với Nero - một hoàng đế La Mã đã bách hại hàng loạt các tín đồ Công giáo. Tuy nhiên, các giáo sĩ phương Tây vẫn liều chết để truyền đạo cho được, có người còn phải đào hầm ở dưới đất hàng mấy tháng để truyền đạo.

    Theo Việt Nam sử lược, từ năm 1838, vua Minh Mạng cảm thấy không thể nào cấm được các giáo sĩ truyền đạo Công giáo trong nước, ông bèn sai sứ sang Pháp để điều đình về việc này. Song khi sứ thần Đại Nam tới nơi, Hội Thừa sai Paris xin vua Louis Philippe I đừng tiếp. Sứ Đại Nam phải trở về, khi về đến Huế thì Minh Mạng đã qua đời.

    Tuy nhiên theo Nguyễn Văn Kiệm trong cuốn Triều Nguyễn và lịch sử của chúng ta đã đánh giá lại việc cấm đạo của vua Minh Mạng với cái nhìn mới công bằng hơn: Lệnh bắt đạo của Minh Mạng tuy ngặt, có gây khó khăn và thiệt thòi cho tín đồ Công giáo, song trong khoảng hai thập kỷ dưới thời Minh Mạng, không hề diễn ra những cuộc tàn sát lớn đối với dân Công giáo. () có thể thấy chính sách của Minh Mạng đối với Công giáo về đại thể là có lý, có tình và khó có thể chê trách nếu đặt nó vào bối cảnh lịch sử cụ thể của nước ta lúc đó, khi họa xâm lăng đang tới gần. Riêng biện pháp cưỡng chế giáo dân bỏ đạo cùng với những hình phạt kèm theo là quá khắc nghiệt và cũng chính vì thế mà đã thất bại so với yêu cầu. Mặc dù biện pháp cưỡng chế bỏ đạo của Minh Mạng là đáng phê phán, song gọi Minh Mạng là 'tên bạo chúa, là kẻ khát máu, là Néron của Việt Nam là một sự xuyên tạc sự thật lịch sử cần phải được đính chính.
     
  7. hòn đá nhỏ

    Bài viết:
    86
    III. Nhận định về vua Minh Mạng:

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Trong bộ Quốc Triều chính biên toát yếu (Cao Xuân Dục chủ biên), sử thần nhà Nguyễn đã ca ngợi vua Minh Mạng:

    "Đức Thánh tổ ta thiên tư là bậc thượng thánh, nối nghiệp lúc thiên hạ đại định rồi, chăm lo chánh trị, sửa sang thái bình, xét điển xưa, sửa lễ nhạc, cẩn thận đồ cân lượng, xét kỹ các pháp độ, đặt khoa thi để lựa kẻ sĩ, cày tịch điền để khuyên việc nông, thường tuần hành để xem địa phương, năng khảo sát để xét quan lại, chăm việc võ thời mùa xuân duyệt binh, cẩn việc hình thời mùa thu thẩm án, quy mô kỹ càng, phẩm tiết đều đủ. Đến như ức quyền những người cấm cận, nghiêm răn các bọn hoạn quan, không cho Hoàng thân quốc thích tự dự việc chánh sự, ý chăm lo việc thường như một ngày; những giấy tờ phê phó dụ chỉ chế cáo ban ra, đều là Ngự chế thức mới; văn giáo khắp cả dân Mường dân Thổ, Võ oai vang đến nước Xiêm, nước Lào; thánh đức thần công không thể hình trạng hết được! Vả lại lúc vạn cơ thong thả, lưu ý về việc văn chương; ngự chế 5 tập thơ, 2 tập văn và các bài Thiên cơ dự triều, Cổ khí minh văn, đều là phát minh đạo mầu, mở rộng phép học. Ngài thiệt là bậc Đại thánh chế tác khác xa tầm thường, đổi hết những thói quê mùa từ Lê, Lý trở về trước, mở lối trị văn minh ngàn muôn đời cho nước Đại Nam ta. Tốt thay! Thạnh thay!"

     Quốc triều chính biên toát yếu​

    Sử gia Trần Trọng Kim viết sách Việt Nam sử lược có nhận xét trung lập hơn:

    "Trong đời vua Thánh Tổ làm vua, pháp luật, chế độ, điều gì cũng sửa sang lại cả, làm thành một nước có cương kỷ. Nhưng chỉ vì ngài nghiêm khắc quá, cứ một mực theo cổ, chứ không tùy thời mà biến hóa phong tục; lại không biết khoan dung cho sự sùng tín, đem giết hại những người theo đạo, và lại tuyệt giao với ngoại quốc làm thành ra nước Nam ta ở lẻ loi một mình.

    Đã hay rằng những điều lầm lỗi ấy là trách nhiệm chung cả triều đình và cả bọn sĩ phu nước ta lúc bấy giờ, chứ không riêng chi một mình ngài, nhưng ngài là ông vua chuyên chế một nước, việc trong nước hay dỡ thế nào, ngài cũng có một phần trách nhiệm rất to, không sao chối từ được. Vậy cứ bình tình mà xét, thì chính trị của ngài tuy có nhiều điều hay, nhưng cũng có nhiều điều dở; ngài biết cương mà không biết nhu, ngài có uy quyền mà ít độ lượng, ngài biết có dân có nước mà không biết thời thế tiến hóa. Bởi vậy cho nên nói rằng ngài là một ông anh quân thì khí quá, mà nói rằng ngài là ông bạo quân thì không công bằng. Dẫu thế nào mặc lòng, ngài là một ông vua thông minh, có quả cảm, hết lòng lo việc nước, tưởng về bản triều nhà Nguyễn chưa có ông vua nào làm được nhiều công việc hơn ngài vậy."
     
  8. hòn đá nhỏ

    Bài viết:
    86
    Đây là một bài tập lịch sử của mình trong môn Lịch sử Việt Nam với đề tài tìm hiểu về vua Minh Mạng mong sẽ giúp các bạn có thêm hiểu biết về nhân vật lịch sử này vì là tài liệu mình tự tìm hiểu và tổng hợp nên còn thiếu sót nếu bạn nào có thêm thông tin gì về vị vua này hãy góp ý nhé! Thank all!

    Linh thảo luận - góp ý: [Thảo luận - Góp ý] - Các tác phẩm của Hòn đá nhỏ
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...