

Liên Xô tan rã năm nào?
Công cuộc cải tổ của Liên Xô bắt đầu từ năm 1986 đã sụp đổ hoàn toàn vào năm 1991.
Vì sao Liên Xô tan rã?
Nguyên nhân khiến Liên Xô tan rã bao gồm nguyên nhân sâu xa và nguyên nhân trực tiếp.
1. Nguyên nhân sâu xa của sự khủng hoảng và sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội của Liên Xô
Sau khi Lenin qua đời, Chính sách kinh tế mới của Liên Xô không tiếp tục mà chuyển sang một chương trình tập trung cao độ. Lúc đầu, kế hoạch hóa tập trung có vai trò mạnh mẽ, nhưng nó trở thành kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô tiếp tục duy trì mô hình này. Trong mô hình này, cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao độ đã tuyệt đối hóa, chủ quan từ bỏ hoặc hầu như từ bỏ ý chí kinh tế hàng hóa, cơ chế thị trường, thực hiện bao cấp tràn lan, triệt tiêu nhiệt huyết và sức sáng tạo của người lao động.
Do chậm đổi mới cơ chế kinh tế và hệ thống quản lý, đổi mới mô hình xã hội chủ nghĩa nói chung, nên từ chỗ: Khoảng cách phát triển kinh tế giữa Liên Xô và các nước ngày càng thu hẹp, lại trở thành: Mọi thứ diễn ra theo hướng ngược lại, bắt đầu từ khoảng thời gian giữa những năm 1970. Bất lợi rõ ràng của Liên Xô là về công nghệ và năng suất lao động. Nhưng như Lenin đã nói, đây là điều cuối cùng quyết định sự thắng lợi hoàn toàn của chế độ mới.
Những sai sót chủ quan nghiêm trọng, lâu dài nêu trên đã cản trở sự đổi mới đúng đắn và là nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự suy yếu, khủng hoảng của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Đây không phải là những khuyết tật do bản chất của hệ thống xã hội chủ nghĩa mà là bởi quan điểm giáo điều về xã hội chủ nghĩa. Kinh tế trì trệ lâu dài là do những khuyết điểm của mô hình xã hội chủ nghĩa cũ và sự tụt hậu về khoa học công nghệ đã dẫn tới khủng hoảng.
2. Những lý do trực tiếp của sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô
Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu có hai nguyên nhân trực tiếp.
Thứ nhất: trong quá trình cải cách, Đảng Cộng sản Liên Xô lúc bấy giờ đã mắc phải những sai lầm nghiêm trọng về đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đây là đường lối cực hữu, cơ hội, xét lại, xa rời tôn chỉ của chủ nghĩa Marx - Lenin, và nguy hiểm hơn là bắt nguồn từ hầu hết các lãnh đạo cao nhất của đảng và nhà nước.
Đường lối cải cách của Liên Xô về bản chất là một sự trượt dài từ Chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh (thiên về thỏa hiệp, muốn cải biến chủ nghĩa tư bản thành chủ nghĩa xã hội, từ bỏ đấu tranh giành thắng lợi thực sự về tay giai cấp công nhân) đến chủ nghĩa xét lại hữu khuynh (muốn xét lại Chủ nghĩa Marx - Lenin, thay thế những quan điểm của Chủ nghĩa Marx - Lenin bằng những quan điểm, cải cách tư sản), cuối cùng là hoàn toàn bác bỏ chủ nghĩa Marx - Lenin.
Các tuyên bố sơ bộ: Cải cách để dân chủ hơn, chủ nghĩa xã hội hơn, tiến tới chủ nghĩa xã hội tốt hơn, tìm kiếm câu trả lời cho các vấn đề trong khuôn khổ của chủ nghĩa xã hội, không ngoài cuộc sống.. Cuối cùng, đó chỉ là những lời nói suông, giả mạo, ý đồ phản quốc.
Từng bước, những người lãnh đạo công cuộc đổi mới đã rút lui, và ngày càng từ bỏ những mục tiêu xã hội chủ nghĩa đã từng hứa hẹn.
Chính sách ban đầu là tăng trưởng nền kinh tế để chấm dứt tình trạng trì trệ.
Đẩy nhanh tốc độ phát triển không có gì sai, nhưng câu hỏi đặt ra là làm thế nào để tăng tốc?
Không có câu trả lời đúng.
Sự đổi mới công nghệ đã bị đình trệ ở một mức độ nào đó. Ngay lập tức người ta đổ lỗi cho cơ chế quản lý kinh tế, nhưng sau đó lại bị trục trặc; cải cách chính trị nhanh chóng được coi là "chìa khóa" của mọi thứ. Năm 1988, Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản lần thứ 19 chủ trương cần chuyển trọng tâm sang đổi mới hệ thống chính trị trên cơ sở cái gọi là "tư tưởng chính trị mới". Về bản chất, đây là sự thỏa hiệp vô kỷ luật, đầu hàng, từ bỏ địa vị giai cấp, phản bội chủ nghĩa Marx - Lenin, phản bội sự nghiệp chủ nghĩa xã hội.
Đổi mới hệ thống chính trị tác động trực tiếp vào hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, trước hết là tổ chức đảng. Nhóm lãnh đạo cải cách đã cố gắng loại khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng một số lượng lớn những người không đồng tình với đường lối đổi mới sai lầm và tuân theo đường lối Marx - Lenin. Những kẻ thù địch với chủ nghĩa Marx - Lenin đều chiếm giữ những vị trí chủ chốt trong bộ máy đảng và nhà nước.
Cuộc cải cách nhanh chóng gây ra làn sóng chỉ trích và công kích, bởi đã bôi nhọ chủ nghĩa xã hội liên quan đến lịch sử 70 năm xây dựng và chỉ đơn giản là phủ nhận mọi thành quả của chủ nghĩa xã hội. Nó đẩy sự hỗn loạn của tư tưởng xã hội lên đến cực điểm và làm lung lay niềm tin của công chúng vào các giá trị xã hội chủ nghĩa. Toàn bộ các phương tiện thông tin đại chúng được sử dụng cho việc này và tuyên truyền, bới móc, phủ nhận quá khứ, được các đài phát thanh và báo chí phương Tây ủng hộ mạnh mẽ, và bị điều khiển bởi mục đích xấu xa của phương Tây.
Thứ hai: chủ nghĩa đế quốc thực hiện các hành động can thiệp toàn diện tinh vi và trắng trợn nhằm thực hiện "diễn biến hòa bình" trong nội bộ Liên Xô và các nước Đông Âu.
Chủ nghĩa đế quốc thường tiến hành chiến tranh, đôi khi bằng súng đạn, đôi khi bằng "diễn biến hòa bình" chống lại chủ nghĩa xã hội, chống lại Liên Xô. Chủ nghĩa đế quốc châm ngòi cho Chiến tranh Lạnh sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Các chiến lược gia phương Tây nhanh chóng nhận ra điểm yếu cải cách: Đó là đường lối xét lại, hệ tư tưởng tư sản, chính sách thỏa hiệp, chính sách nhân nhượng vô kỷ luật với Mỹ và phương Tây, tập trung vào "chính trị mới". Các thế lực chống chủ nghĩa xã hội bên ngoài đã theo sát công cuộc đổi mới và cố gắng bằng mọi cách để điều hướng công cuộc đổi mới.
Các lực lượng bên ngoài tác động cải cách về mặt tư tưởng, chính trị và tổ chức. Lời hứa về viện trợ kinh tế là một vũ khí rất mạnh để thúc đẩy cải cách đi theo quỹ đạo mà phương Tây mong muốn. Chủ nghĩa đế quốc tăng tốc "diễn biến hòa bình" trong Liên Xô và Đông Âu. Nixon đã nói trong 1 cuốn sách rằng mặt trận ý thức hệ là quyết định nhất.
Tóm lại: việc chủ nghĩa đế quốc phá hoại và sự phản bội từ bên trong, từ giới lãnh đạo cao nhất là nguyên nhân ngay lập tức dẫn đến sự sụp đổ của Liên bang Xô viết. Hai nguyên nhân này gắn bó chặt chẽ với nhau và tác động cùng chiều, sản sinh ra lực cộng hưởng rất mạnh và nhanh chóng, giống như một cơn lốc chính trị trực tiếp hủy hoại xã hội chủ nghĩa của Liên Xô.
Công cuộc cải tổ của Liên Xô bắt đầu từ năm 1986 đã sụp đổ hoàn toàn vào năm 1991.
Vì sao Liên Xô tan rã?
Nguyên nhân khiến Liên Xô tan rã bao gồm nguyên nhân sâu xa và nguyên nhân trực tiếp.

1. Nguyên nhân sâu xa của sự khủng hoảng và sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội của Liên Xô
Sau khi Lenin qua đời, Chính sách kinh tế mới của Liên Xô không tiếp tục mà chuyển sang một chương trình tập trung cao độ. Lúc đầu, kế hoạch hóa tập trung có vai trò mạnh mẽ, nhưng nó trở thành kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô tiếp tục duy trì mô hình này. Trong mô hình này, cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao độ đã tuyệt đối hóa, chủ quan từ bỏ hoặc hầu như từ bỏ ý chí kinh tế hàng hóa, cơ chế thị trường, thực hiện bao cấp tràn lan, triệt tiêu nhiệt huyết và sức sáng tạo của người lao động.
Do chậm đổi mới cơ chế kinh tế và hệ thống quản lý, đổi mới mô hình xã hội chủ nghĩa nói chung, nên từ chỗ: Khoảng cách phát triển kinh tế giữa Liên Xô và các nước ngày càng thu hẹp, lại trở thành: Mọi thứ diễn ra theo hướng ngược lại, bắt đầu từ khoảng thời gian giữa những năm 1970. Bất lợi rõ ràng của Liên Xô là về công nghệ và năng suất lao động. Nhưng như Lenin đã nói, đây là điều cuối cùng quyết định sự thắng lợi hoàn toàn của chế độ mới.
Những sai sót chủ quan nghiêm trọng, lâu dài nêu trên đã cản trở sự đổi mới đúng đắn và là nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự suy yếu, khủng hoảng của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Đây không phải là những khuyết tật do bản chất của hệ thống xã hội chủ nghĩa mà là bởi quan điểm giáo điều về xã hội chủ nghĩa. Kinh tế trì trệ lâu dài là do những khuyết điểm của mô hình xã hội chủ nghĩa cũ và sự tụt hậu về khoa học công nghệ đã dẫn tới khủng hoảng.
2. Những lý do trực tiếp của sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô
Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu có hai nguyên nhân trực tiếp.
Thứ nhất: trong quá trình cải cách, Đảng Cộng sản Liên Xô lúc bấy giờ đã mắc phải những sai lầm nghiêm trọng về đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đây là đường lối cực hữu, cơ hội, xét lại, xa rời tôn chỉ của chủ nghĩa Marx - Lenin, và nguy hiểm hơn là bắt nguồn từ hầu hết các lãnh đạo cao nhất của đảng và nhà nước.
Đường lối cải cách của Liên Xô về bản chất là một sự trượt dài từ Chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh (thiên về thỏa hiệp, muốn cải biến chủ nghĩa tư bản thành chủ nghĩa xã hội, từ bỏ đấu tranh giành thắng lợi thực sự về tay giai cấp công nhân) đến chủ nghĩa xét lại hữu khuynh (muốn xét lại Chủ nghĩa Marx - Lenin, thay thế những quan điểm của Chủ nghĩa Marx - Lenin bằng những quan điểm, cải cách tư sản), cuối cùng là hoàn toàn bác bỏ chủ nghĩa Marx - Lenin.
Các tuyên bố sơ bộ: Cải cách để dân chủ hơn, chủ nghĩa xã hội hơn, tiến tới chủ nghĩa xã hội tốt hơn, tìm kiếm câu trả lời cho các vấn đề trong khuôn khổ của chủ nghĩa xã hội, không ngoài cuộc sống.. Cuối cùng, đó chỉ là những lời nói suông, giả mạo, ý đồ phản quốc.
Từng bước, những người lãnh đạo công cuộc đổi mới đã rút lui, và ngày càng từ bỏ những mục tiêu xã hội chủ nghĩa đã từng hứa hẹn.
Chính sách ban đầu là tăng trưởng nền kinh tế để chấm dứt tình trạng trì trệ.
Đẩy nhanh tốc độ phát triển không có gì sai, nhưng câu hỏi đặt ra là làm thế nào để tăng tốc?
Không có câu trả lời đúng.
Sự đổi mới công nghệ đã bị đình trệ ở một mức độ nào đó. Ngay lập tức người ta đổ lỗi cho cơ chế quản lý kinh tế, nhưng sau đó lại bị trục trặc; cải cách chính trị nhanh chóng được coi là "chìa khóa" của mọi thứ. Năm 1988, Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản lần thứ 19 chủ trương cần chuyển trọng tâm sang đổi mới hệ thống chính trị trên cơ sở cái gọi là "tư tưởng chính trị mới". Về bản chất, đây là sự thỏa hiệp vô kỷ luật, đầu hàng, từ bỏ địa vị giai cấp, phản bội chủ nghĩa Marx - Lenin, phản bội sự nghiệp chủ nghĩa xã hội.
Đổi mới hệ thống chính trị tác động trực tiếp vào hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, trước hết là tổ chức đảng. Nhóm lãnh đạo cải cách đã cố gắng loại khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng một số lượng lớn những người không đồng tình với đường lối đổi mới sai lầm và tuân theo đường lối Marx - Lenin. Những kẻ thù địch với chủ nghĩa Marx - Lenin đều chiếm giữ những vị trí chủ chốt trong bộ máy đảng và nhà nước.
Cuộc cải cách nhanh chóng gây ra làn sóng chỉ trích và công kích, bởi đã bôi nhọ chủ nghĩa xã hội liên quan đến lịch sử 70 năm xây dựng và chỉ đơn giản là phủ nhận mọi thành quả của chủ nghĩa xã hội. Nó đẩy sự hỗn loạn của tư tưởng xã hội lên đến cực điểm và làm lung lay niềm tin của công chúng vào các giá trị xã hội chủ nghĩa. Toàn bộ các phương tiện thông tin đại chúng được sử dụng cho việc này và tuyên truyền, bới móc, phủ nhận quá khứ, được các đài phát thanh và báo chí phương Tây ủng hộ mạnh mẽ, và bị điều khiển bởi mục đích xấu xa của phương Tây.
Thứ hai: chủ nghĩa đế quốc thực hiện các hành động can thiệp toàn diện tinh vi và trắng trợn nhằm thực hiện "diễn biến hòa bình" trong nội bộ Liên Xô và các nước Đông Âu.
Chủ nghĩa đế quốc thường tiến hành chiến tranh, đôi khi bằng súng đạn, đôi khi bằng "diễn biến hòa bình" chống lại chủ nghĩa xã hội, chống lại Liên Xô. Chủ nghĩa đế quốc châm ngòi cho Chiến tranh Lạnh sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Các chiến lược gia phương Tây nhanh chóng nhận ra điểm yếu cải cách: Đó là đường lối xét lại, hệ tư tưởng tư sản, chính sách thỏa hiệp, chính sách nhân nhượng vô kỷ luật với Mỹ và phương Tây, tập trung vào "chính trị mới". Các thế lực chống chủ nghĩa xã hội bên ngoài đã theo sát công cuộc đổi mới và cố gắng bằng mọi cách để điều hướng công cuộc đổi mới.
Các lực lượng bên ngoài tác động cải cách về mặt tư tưởng, chính trị và tổ chức. Lời hứa về viện trợ kinh tế là một vũ khí rất mạnh để thúc đẩy cải cách đi theo quỹ đạo mà phương Tây mong muốn. Chủ nghĩa đế quốc tăng tốc "diễn biến hòa bình" trong Liên Xô và Đông Âu. Nixon đã nói trong 1 cuốn sách rằng mặt trận ý thức hệ là quyết định nhất.
Tóm lại: việc chủ nghĩa đế quốc phá hoại và sự phản bội từ bên trong, từ giới lãnh đạo cao nhất là nguyên nhân ngay lập tức dẫn đến sự sụp đổ của Liên bang Xô viết. Hai nguyên nhân này gắn bó chặt chẽ với nhau và tác động cùng chiều, sản sinh ra lực cộng hưởng rất mạnh và nhanh chóng, giống như một cơn lốc chính trị trực tiếp hủy hoại xã hội chủ nghĩa của Liên Xô.