- Xu
- 13,795,121
Bài viết: 2022 



Văn học dân gian là gì? Những đặc trưng cơ bản của văn học dân gian là gì?
Trong mạch suy cảm về đất nước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã cảm nhận và lí giải về sự hình thành các địa danh trên cơ thể đất nước bằng những lời thơ đậm chất dân gian:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương.
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên.
Trong mỗi dòng thơ Nguyền Khoa Điềm, ta đều nhận thấy bóng dáng của một tác phẩm văn học dân gian: Sự tích núi Vọng Phu, Sự tích hòn Trống Mái, Sự tích Thánh Gióng, Sự tích Hùng Vương, truyện cổ tích Cây bút thần... Có thể nói, kho tàng văn học dân gian của dân tộc ta thực sự là suối nguồn vô tận khơi mạch cảm hứng sáng tác thơ ca, nhạc họa. Vậy Văn học dân gian là gì? Vì sao văn học dân gian lại có sức sống lâu bền, có vai trò quan trọng như vậy?
1. Văn học dân gian là gì?
- Văn học dân gian là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng, sản phẩm của quá trình sáng tác tập thể nhằm mục đích phục vụ trực tiếp cho các sinh hoạt khác nhau trong đời sống cộng đồng.
2. Những đặc trưng cơ bản của văn học dân gian là gì?
Văn học dân gian có ba đặc trưng cơ bản:
+ Tính truyền miệng.
+ Tính tập thể.
+ Tính thực hành.

2.1. Văn học dân gian có tính truyền miệng.
Văn học dân gian là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng:
- Ngôn từ là đặc trưng cơ bản của văn học dân gian nói riêng và của văn học nói chung.
Nếu hình tượng hội họa được xây dựng bởi đường nét, màu sắc; nếu hình tượng âm nhạc được xây dựng bởi âm thanh và giai điệu; nếu kiến trúc dùng mảng, khối của những vật liệu, vật chất cụ thể như gạch, đất, đá, gỗ... để tạo tạc những bức tượng, những công trình kiến trúc; nếu vũ đạo dùng sự chuyển động của các bộ phận cơ thể để trình diễn vẻ đẹp tuyệt vời của con người thì văn học dùng ngôn từ để xây dựng hình tượng.
Ngôn từ là cơ sở để tạo nên những đặc trưng riêng biệt của văn học khi chúng ta đối chiếu văn học với các loại hình nghệ thuật khác.
Ngôn từ của tác phẩm văn học thường chứa đựng nhiều hình ảnh, cảm xúc.
Ca dao có câu:
"Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?"
Hai câu ca dao vừa gợi hình ảnh, vừa gợi cảm xúc.
Đó là hình ảnh của đêm trăng vằng vặc, có cô em đang say sưa tát nước. Từng gàu nước múc lên làm sóng sánh ánh trăng trên mặt sông, mặt ruộng. Trăng trên trời, trăng dưới nước... cả không gian đồng ruộng tan loãng trong ánh trăng ảo huyền.
Bài ca dao còn gợi cảm xúc thơ mộng, lãng mạn. Chất thi vị chan chứa đã làm mất đi cái nhọc mệt của công việc tát nước đêm.
- Văn học dân gian tồn tại và phát triển nhờ truyền miệng.
Truyền miệng là sự ghi nhớ thuộc lòng và truyền bá bằng lời nói hoặc bằng sự trình diễn cho người khác xem hoặc nghe.
Vì sao văn học dân gian có tính truyền miệng?
Văn học dân gian có tính truyền miệng vì: Chữ viết thời có văn học dân gian chưa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng nhân dân (đến Cách mạng tháng Tám – 1945, hơn 90% dân số Việt Nam không biết chữ), nên truyền miệng là thể sống, là phương thức tồn tại của văn học dân gian. Hay nói khác đi, văn học dân gian tồn tại dưới dạng ngôn bản.
Các hình thức truyền miệng của văn học dân gian:
+ Truyền miệng theo không gian:
Tác phẩm văn học dân gian di chuyển từ nơi này sang nơi khác theo các nhóm chủng tộc, quốc gia và châu lục.
+ Truyền miệng theo thời gian:
Tác phẩm văn học dân gian được bảo lưu từ đời này qua đời khác thông qua các thế hệ tiếp nối.
- Biểu hiện của phương thức truyền miệng là diễn xướng dân gian:
Văn học dân gian có nhiều hình thức diễn xướng khác nhau: tục ngữ thì nói, truyện thơ thì ngâm, ca dao thì hát, cổ tích thì kể, chèo tuồng thì diễn...
Chỉ trong môi trường truyền miệng, tác phẩm văn học dân gian mới thể hiện đầy đủ tính hấp dẫn của nó. Nó là "cây đời mãi mãi xanh tươi". Chỉ có trong môi trường truyền miệng, nó mới thể hiện giá trị toàn vẹn, giá trị đích thực của nó.
Do tồn tại, lưu hành bằng phương thức truyền miệng nên tác phẩm văn học dân gian thường ngắn gọn, dễ nhớ và có thể dễ dàng thêm bớt bởi người đời sau.
2.2. Văn học dân gian là sản phẩm của quá trình sáng tác tập thể (tính tập thể).
- Tập thể: theo nghĩa hẹp là một nhóm người, nghĩa rộng là một cộng đồng dân cư.
- Cơ chế sáng tác tập thể:
Tính tập thể phản ánh phương thức sáng tác của văn học dân gian : lúc đầu, tác phẩm do một người khởi xướng. Người này đọc tác phẩm cho những người khác nghe. Tác phẩm hay sẽ được tập thể tiếp nhận. Sau đó những người khác thuộc những địa phương khác nhau hoặc các thế hệ khác nhau tiếp tục lưu truyền và sáng tác làm cho tác phẩm biến đổi dần, thường là phong phú hơn, hoàn thiện hơn về mặt nội dung và hình thức nghệ thuật.
- Vì sao văn học dân gian có tính tập thể?
Văn học dân gian có tính tập thể vì: văn học dân gian là sản phẩm của cá nhân lúc mới hình thành, nhưng sau đó, nhiều người (tập thể) đã tham gia chỉnh sửa, hoàn thiện để tác phẩm ngày càng trọn vẹn hơn, hay hơn. Sáng tác tập thể ở đây không có nghĩa là mọi người cùng ngồi với nhau, cùng sáng tác một tác phẩm.
Như một hệ quả tất yếu của tính tập thể, văn học dân gian còn có tính dị bản.
Khác với tác phẩm văn học viết tồn tại dưới dạng văn bản, sau khi hoàn thiện là một chỉnh thể thống nhất, ổn định thì tác phẩm văn học dân gian lại là một hệ thống mở.
Do quá trình tham gia sáng tạo tập thể ở những không gian khác nhau, những thời gian khác nhau, bởi những nghệ nhân khác nhau, tạo nên những nét dị biệt giữa các văn bản của cùng một tác phẩm.
Ví dụ:
- "Đường vô xứ Huế quanh quanh,
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ."
Và:
"Đường vô xứ Nghệ quanh quanh,
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ."
- "Núi Hồng ai đắp mà cao,
Sông Lam ai xới, ai đào mà sâu."
Và:
"Núi Voi ai đắp mà cao,
Sông Cầu ai xới, ai đào mà sâu"...
Nhân dân lao động là lực lượng chính tạo ra kho tàng văn học dân gian đồ sộ của mỗi dân tộc.
2.3. Văn học dân gian gắn bó với đời sống (tính thực hành).
- Văn học dân gian gắn bó và phục vụ trực tiếp cho các sinh hoạt khác nhau trong đời sống cộng đồng
- Sinh hoạt cộng đồng gồm các hoạt động chủ yếu:
+ Lao động tập thể
+ Đời sống gia đình
+ Nghi lễ thờ cúng, tang ma, cưới hỏi
+ Các hoạt động hội hè, vui chơi, giải trí.
Sinh hoạt cộng đồng là môi trường sinh thành, lưu truyền, biến đổi văn học dân gian, chi phối nội dung, hình thức của văn học dân gian.
- Biểu hiện tính thực hành của văn học dân gian :
+ Các bài ca nghề nghiệp, bài ca lao động, hò chèo thuyền, dân ca hát phường vải, phường dệt, hát đối đáp,... ra đời từ cuộc sống lao động, từ công việc hàng ngày.
+ Các bài ca quan họ, các điệu chèo, hát chầu văn, hát tuồng... ra đời và phát triển gắn bó với các lễ hội (hội Lim...).
+ Các bài ru con, ru em, ca dao tình cảm cha mẹ, con cái, anh chị em... ra đời và gắn bó với đời sống gia đình.
+ Những sử thi, khan, truyện thơ ... ra đời cùng với những nghi lễ thờ cúng tổ tiên, thần linh, tang ma... (hát mo Đẻ đất, đẻ nước của người Mường).
- Mối quan hệ giữa văn học dân gian với môi trường diễn xướng:
+ Văn học dân gian đóng vai trò phối hợp hành động theo nhịp điệu của chính hành động đó.
+ Văn học dân gian gây không khí để kích thích hành động, gợi cảm hứng cho người trong cuộc.
Ví dụ: hò chèo thuyền, hò kéo lưới, hò giã gạo...
Văn học dân gian luôn luôn tồn tại và gắn bó với các sinh hoạt khác nhau trong đời sống cộng đồng. Sinh hoạt cộng đồng là môi trường sinh thành, lưu truyền, biến đổi của văn học dân gian, chi phối cả nội dung và hình thức tác phẩm.
3. Hệ thống thể loại của văn học dân gian Việt Nam.
Văn học dân gian Việt Nam có một hệ thống thể loại phản ánh nội dung cuộc sống theo những cách thức riêng.
Hệ thống này gồm 12 thể loại: Thần thoại, sử thi, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười, tục ngữ, câu đố, ca dao, vè, truyện thơ, chèo.
4. Giá trị của văn học dân gian
- Văn học dân gian là kho tri thức vô cùng phong phú
Tri thức của văn học dân gian thuộc nhiều lĩnh vực: tự nhiên, xã hội, con người. Văn học dân gian là những kinh nghiệm lâu đời của nhân dân được đúc kết từ kinh nghiệm thực tiễn, tri thức ấy thể hiện trình độ và quan điểm nhận thức tiến bộ của nhân dân.
Kho tàng tri thức đó vô cùng phong phú và đa dạng vì nó được xây dựng từ các kho tàng văn học của 54 tộc người trên đất nước Việt Nam.
Ví dụ:
Nhờ văn học dân gian, ta hiểu được quan niệm hình thành trái đất của người Mường (Đẻ đất đẻ nước), biết được những quan niệm về tình yêu đôi lứa của người Thái (Tiễn dặn người yêu), quan niệm về người anh hùng của người Ê đê (Bài ca Đăm săn)...
Những điệu hò chèo thuyền trên sông Mã (Thanh Hóa) có nhịp điệu nhanh, mạnh cho ta hiểu con người cũng như cuộc sống của những người dân nơi đây: khỏe khắn, mạnh mẽ, hăng say lao động. Hò chèo thuyền trên sông Hương lại nhẹ nhàng, khoan thai rất phù hợp với cốt cách con người xứ Huế.
Riêng kho tàng văn học dân gian của người Việt, cung cấp cho ta tri thức:
Tri thức về tự nhiên:
"Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng
Ngày tháng mười chưa cười đã tối".
"Trăng quầng trời hạn, trăng tán trời mưa".
"Chớp đông nhay nháy, gà gáy thì mưa".
Tri thức về lịch sử: Truyền thuyết An Dương Vương, truyền thuyết Thánh Gióng, truyền thuyết Hồ Gươm...
Tri thức xã hội:
"Con ơi nhớ lấy câu này
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan".
"Con vua thì lại làm vua
Con sãi ở chùa thì quét lá đa...".
Tri thức về con người trong các mối quan hệ với thiên nhiên, đất nước, với gia đình, anh em, bè bạn...
- Văn học dân gian có giá trị giáo dục sâu sắc về đạo lí làm người.
Văn học dân gian giáo dục con người tinh thần nhân đạo, lạc quan, lòng yêu thương đối với đồng loại, tinh thần đấu tranh chống sự bất công và niềm tin bất diệt vào chiến thắng của cái thiện.
Văn học dân gian góp phần hình thành những phẩm chất tốt đẹp, bồi dưỡng cho chúng ta những tình cảm cao đẹp, lẽ sống quan điểm sống đúng đắn, góp phần định hướng phát triển, hoàn thiện nhân cách.
Ví dụ:
Sử thi "Đăm Săn" là bài ca về người anh hùng đã biết chiến đấu vì lẽ sống, niềm vui, danh dự, hạnh phúc và sự thịnh vượng của thị tộc. Qua đó, tác phẩm bồi dưỡng cho chúng ta những tình cảm cao cả: trọng danh dự, gắn bó với hạnh phúc gia đình, thiết tha với cuộc sống bình yên và hạnh phúc của cộng đồng.
Truyền thuyết "An dương Vương, Mị Châu, Trọng Thủy" lại là bài học về lòng yêu nước, tinh thần cảnh giác với kẻ thù và cách xử lí đúng đắn mối quan hệ riêng chung, giữa nhà với nước, cá nhân với cộng đồng...
Truyện cổ tích "Tấm Cám" giáo dục con người tinh thần đấu tranh không biết mệt mỏi trước cái xấu và cái ác, tạo dựng niềm tin bất diệt vào chiến thắng cuối cùng của chính nghĩa, của cái thiện.
Truyện cười phê phán thói hư, tật xấu cũng là nhằm mục đích hướng con người tới sự hoàn thiện: trung thực, chăm chỉ, cần kiệm, giàu lòng yêu thương...
Ca dao hài hước là bài học tinh thần lạc quan, yêu đời. Trong khi đó tiếng hát than thân, yêu thương, tình nghĩa lại dạy ta bài học về tình yêu quê hương, đất nước, sự hiếu thảo với cha mẹ, tình cảm vợ chồng chung thủy, tình anh em, bạn bè gắn bó, tình yêu lứa đôi thiết tha, sâu nặng...
- Văn học dân gian có giá trị thẩm mĩ to lớn, góp phần sáng tạo nên bản sắc riêng của nền văn học dân tộc.
+ Văn học dân gian được chắt lọc, mài giũa qua không gian và thời gian và khi đến với chúng ta, đã trở thành những viên ngọc sáng. Nhiều tác phẩm đã trở thành mẫu mực về nghệ thuật để cho chúng ta học tập.
+ Trải qua hàng ngàn năm, văn học dân gian là nơi lưu giữ những giá trị thẩm mĩ to lớn của mỗi vùng miền, tạo bản sắc riêng biệt, là cơ sở cho nền văn học sau này. "Văn học dân gian là cội nguồn, là bầu sữa mẹ nuôi dưỡng tâm hồn dân tộc Việt Nam". Không ít nhà thơ, nhà văn lớn của dân tộc như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Hồ Chí Minh,.... đã tiếp thu văn học dân gian để sáng tạo nên những tác phẩm văn chương lớn.
Ví dụ: Trong "Truyện Kiều", Nguyễn Du đã vận dụng sáng tạo tư tưởng dân gian cũng như thể lục bát của ca dao.
Trong thơ hiện đại Nguyễn Bính ta cũng bắt gặp nhiều hình ảnh đậm tính dân gian: bến, đò, hoa, bướm, trầu cau:
Bạn cần đăng nhập và nhấn Thích để xem
Hay những vần thơ hiện đại của Nguyễn Khoa Điềm phần đầu bài viết cũng mang đậm dấu ấn của văn học dân gian.
Văn học dân gian đã trở thành nguồn mạch sáng tạo không bao giờ vơi cạn cho văn học viết.
Xem thêm bên dưới...
Last edited by a moderator: