Văn học 9: Phân tích vẻ đẹp của nhân vật Vũ Nương trong Chuyện Người Con Gái Nam Xương

Thảo luận trong 'Bài Sưu Tầm' bắt đầu bởi SeeYourEyes, 30 Tháng tám 2023.

  1. SeeYourEyes

    Bài viết:
    1
    Xuyên suốt chiều dài của triền đê mang tên "Văn học", ta bắt gặp hình ảnh người phụ nữ dẫu có "quốc sắc thiên hương" đến đâu, có phẩm hạnh hoàn mỹ và tài năng hơn người đi chăng nữa thì số kiếp và hạnh phúc của họ vẫn bị vùi dập tả tơi bởi những định kiến của một xã hội hoen ố và mục ruỗng, những tục lệ "trọng nam khinh nữ". Bằng ngòi bút mang cái "hồn" của riêng mình, Nguyễn Dữ đã khiến trái tim người đọc muôn đời không khỏi tiếc thương khi nhớ về số phận bi ai của Vũ Nương.

    [​IMG]

    Từ thế kỷ XVI, chế độ phong kiến Việt Nam đã bắt đầu có những biểu hiện suy thoái, Nguyễn Dữ bất mãn và bất lực trước thời cuộc, chán ghét cảnh quan trường điên đảo nên lui về ở ẩn. Theo Nguyễn Đăng Na nhận xét: "Ông là cha đẻ của loại hình truyền kì Việt Nam", là người "phóng thành công con tàu văn xuôi tự sự vào quỹ đạo văn chương nghệ thuật". "Chuyện người con gái Nam Xương" là thiên truyện thứ 16 của áng "thiên cổ kì bút" "Truyền Kì Mạn Lục". Từ một sự tình có thật trong dân gian, Nguyễn Dữ đã thể hiện thật tài tình, trọn vẹn vẻ đẹp của Vũ Nương. Nàng thật sự là một người phụ nữ hoàn mỹ, đẹp người đẹp nết, làm tròn bổn người vợ, người mẹ và nàng dâu thảo. Vũ Nương là khuôn vàng, thước ngọc của người phụ nữ, nàng xứng đáng sống trong hạnh phúc và vui vẻ. Thế nhưng "Hạnh phúc trong cuộc đời Vũ Thị Thiết là một thứ hạnh phúc vô cùng mong manh, ngắn ngủi. Mong manh như sương như khói, ngắn ngủi như kiếp sống của đóa phù dung sớm nở, tối tàn"


    Trước tiên, nhân vật Vũ Nương được khắc họa là một người phụ nữ xinh đẹp, có ngoại hình đáng mến. Ấn tượng của bạn đọc ngay từ những dòng đầu tiên của truyện đó là những miêu tả ngắn gọn nhưng cũng rất cụ thể về Vũ Nương: "Vũ Thị thiết, người con gái quê ở Nam Xương, tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp". Dung mạo của Vũ Nương hẳn là xinh đẹp, dịu dàng. Và cũng chính dung mạo ấy góp phần khiến cho con nhà hào phú như Trương Sinh đem lòng yêu mến và cưới nàng về làm vợ. Nhà văn Nguyễn Dữ đã khéo léo gợi mở vẻ đẹp của Vũ Nương qua thái độ của Trương Sinh, từ đó góp phần làm hoàn thiện hơn vẻ đẹp của người con gái này.

    Thêm vào đó, Vũ Nương được tác giả tập trung nhấn mạnh về phẩm hạnh vẹn toàn, khéo léo, khiêm nhường trong cách ứng xử, nói năng. Sự khéo léo, đoan trang, dịu dàng của Vũ Nương đã trở thành ngọn lửa giữ cho hạnh phúc gia đình luôn ấm nồng, gắn bó. Những lời nói của nàng trong mỗi hoàn cảnh khác nhau đều được tác giả Nguyễn Dữ dụng công xây dựng với nhiều điển tích, điển cố, nhịp điệu và giọng điệu hết sức ý nhị, thể hiện sự hiểu biết và phẩm chất đoan trang, thùy mị của người phụ nữ.

    Thế nhưng, hạnh phúc thì mong manh, ngắn ngủi mà đau khổ thì lâu dài, bất tận.. Trước cảnh đất nước binh đao loạn lạc, phu quân phải đi đến nơi biên ải xa xôi. Ngày Trương Sinh phải lên đường ra trận, nàng tiễn chồng với lời tống biệt dịu dàng, thiết tha mà chân thành: "Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi..". Đó là một tấm lòng của người phụ nữ Việt Nam dung dị, không màng danh lợi, chỉ mong vun quén cho một mái ấm gia đình.

    Trong những năm tháng đằng đẵng chồng còn ngoài nơi chiến địa, cả giang sơn nhà chồng đè nặng trên đôi vai nhỏ bé của người thiếu phụ đáng thương. Nàng thầm lặng mà sinh con ra, rồi lại một mình tần tảo nuôi nấng, dạy dỗ con thơ. Biết mẹ chồng đau ốm vì nhớ thương con, nàng tận tâm tận tụy chăm sóc, "hết sức thuốc thang, lễ bái và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn". Khi mẹ chồng vĩnh biệt thế gian nàng cũng hết lòng xót thương, lo liệu ma chay tế lễ như đối với cha mẹ ruột. Một mình Vũ Nương đảm đương tất cả, nàng vừa là mẹ, là dâu con. Nàng lo toan mọi việc lớn nhỏ như "một đấng nam nhi" duy nhất trong gia đình.

    Những ngày sống trong cảnh "chăn đơn gối chiếc", sự cô đơn, lẽ loi cùng nỗi nhớ kéo dài theo năm tháng cứ cứa từng vết khiến trái tim nàng rỉ máu. Nàng khắc khoải nhớ nhung Trương Sinh "thổn thức tâm tình thương người đất thú". Vẻ đẹp tâm hồn nàng được đẩy lên đến cao độ qua hình ảnh chiếc bóng trên vách. Một chi tiết tưởng đơn giản ấy nhưng bao hàm biết bao ý nghĩa về lòng yêu thương, thủy chung son sắt của nàng đối với chồng. Dù chiến tranh ngăn cách nhưng trong tâm hồn nàng, hình bóng Trương Sinh vẫn khăng khít, gắn bó với nàng như hình với bóng không rời nhau. Vũ Nương ngày ngày đợi chờ, ngóng trông đến thổn thức. Hình ảnh "bướm lượn đầy vườn" vốn gợi cho ta một khung cảnh đẹp, cũng rất mơ hồ hay "mây che kín núi" thơ mộng nhưng cũng man mác. Giống như tâm trạng của nàng bấy giờ, lệ sầu phủ kín tâm can, nỗi buồn "không thể nào ngăn được". Quả là lấy cảnh mà lột tả đươc cái tình của con người. Nỗi nhớ triền miên của người thiếu phụ cũng được nhắc đến trong thi phẩm "Chinh Phụ Ngâm" – Đoàn Thị Điểm:

    ".. Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời.

    Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu

    Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.."

    (Chinh phụ ngâm)

    Dường như số phận cuộc đời đã định sẵn cho người con gái này một cuộc sống chẳng mấy hạnh phúc mà chỉ toàn khổ đau, bất hạnh:

    "Đau đớn thay phận đàn bà,

    Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung."

    Lời ai oán trên đã hơn một lần xuất hiện trong sáng tác của đại thi hào Nguyễn Du giống như một điệp khúc rùng rợn. Đây không phải là một lời nói quá mà điều này lại được thể hiện khá phổ biến trong văn học Việt Nam. Trong một xã hội phong kiến suy tàn lúc bấy giờ, số phận của người phụ nữ thật bé nhỏ, long đong, lận đận. Văn học thời ấy cũng đã nhắc nhiều đến kiếp đời của người phụ nữ, mà có lẽ điển hình trong số ấy là nhân vật Vũ Nương. Vũ Nương là một bi kịch của gia đình, của số phận phũ phàng của người phụ nữ trong xã hội đầy bất công oan trái. Lấy chồng chưa được bao lâu thì niềm vui "nghi gia nghi thất" của Vũ Nương bị mất đi khi chồng nàng phải đi lính. Nàng thiếu phụ tuổi xuân còn phơi phới đã phải gánh chịu nỗi buồn "chiếc bóng năm canh" của đời người chinh phụ:

    Mặt biếng tô miệng càng biếng nói

    Sớm lại chiều dòi dõi nương song

    Nương song luống ngẩn ngơ lòng

    Vắng chàng điểm phấn tô hồng với ai

    (Chinh phụ ngâm)

    Những nỗi khổ về vật chất đề nặng lên đôi vai mà nàng phải vượt qua hết. Những tưởng khi giặc tan Trương Sinh trở về sau ba năm cách biệt, ngỡ đâu vị thần hạnh phúc sẽ gõ cửa gia đình nàng. Thế nhưng, chính vì thói đa nghi và ghen tuông che mờ lí trí, Trương Sinh mù quáng tin vào những lời nói ngây thơ của bé Đản mà đinh ninh phán cho Vũ Nương cái danh "vợ hư". Trương Sinh bỏ ngoài tai những lời khuyên can của mọi người và cũng chẳng thèm đếm xỉa tới lời biện bạch của nàng. Rồi từ chỗ "la um lên cho hả giận", chàng đã nhẫn tâm mắng nhiếc và đánh đuổi vợ đi.

    Vũ Nương đã tìm đủ mọi cách để thanh minh với chồng, bằng cả lời nói và hành động. Trong lời thanh minh đầu tiên, nàng đã nói đến thân phận của mình với sự tha thiết, chân thành: "Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh". Vũ Nương không chỉ khẳng định phẩm tiết của bản thân mà còn cầu xin chồng cởi bỏ mối nghi ngờ: "Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp". Bao nhiêu buồn khổ nàng không nói, bấy nhiêu gian nan trong tình cảnh vắng bóng chồng nàng không tỏ bày, chỉ nhất nhất khẳng định phẩm hạnh của mình, nhất nhất khẳng định tấm lòng trinh bạch không từng làm điều mất nết hư thân như lời Trương Sinh nói.

    Nàng cũng đã sáng suốt khi hỏi chồng "chuyện kia từ ai nói ra" bởi hiểu rõ muốn cởi dây thì phải tìm người buộc dây và cũng bởi nàng muốn điều tra để tháo gỡ mối nghi ngờ cho chồng và chứng minh phẩm giá cho mình. Nhưng Trương Sinh vẫn một mực không tin, lại còn giấu nhẹm chuyện do con nói ra mà "lấy bóng gió này nọ mà mắng nhiếc nàng". Ngay cả khi mọi cố gắng của nàng đều thất bại trước sự cố chấp của chồng, Vũ Nương vẫn khẳng định mong muốn được gắn bó cùng Trương Sinh để được hưởng "thú vui nghi gia nghi thất" "yên ổn được tựa bóng cây cao".

    Phải chăng xã hội phong kiến với chế độ nam quyền độc đoán, bất công và tàn bạo, với thói "trọng nam khinh nữ" đã bám chặt vào huyết quản, đã dung túng cho phép người người đàn ông được quyền coi thường, rẻ rúng, mặc nhiên định đoạn thậm chí giẫm đạp lên quyền sinh, quyền tử và phẩm giá cao quý của người vợ. Vũ Nương đức hạnh, ngoan hiền vậy mà lại phải mang bản án ô nhục, nhuốc nhơ "hư thân mất nết". Thuở xưa, nàng Thị Kính còn biết ngọn nguồn nỗi oan khuất của mình. Còn Vũ Nương, đến khi gieo mình xuống đáy sông nàng vẫn chẳng hiểu vì sao lại bị người từng đầu ấp tay gối với mình mắng nhiếc và đánh đuổi đi. Nỗi oan của nàng thấu tận trời xanh vậy mà nàng cũng chẳng được quyền phản kháng, bảo vệ chính mình.

    Với Vũ Nương, "cái thú vui nghi gia nghi thất" chính là lí tưởng, mục đích sống và tồn tại của nàng. Nhưng Vũ Nương đã không vì mong muốn chính đáng ấy mà hạ mình để sống trong sự dèm pha, tủi nhục và bị vùi dập tả tơi bởi nỗi oan thất tiết. Lòng tự trọng của Vũ Nương bộc lộ rất rõ trong ý thức về mối quan hệ của nàng với Trương Sinh trong hiện tại: "Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió, khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồn xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa.". Với hàng loạt những hình ảnh ước lệ ngụ ý chỉ sự lụi tàn, thê lương của mối nhân duyên đổ vỡ đã lột tả thành công nỗi thất vọng, ê chề, đau đáu xâm chiếm cõi lòng của nàng. Vũ Nương quyết định trầm mình xuống sông Hoàng Giang để rửa sạch nỗi oan khuất, giải bày tấm lòng ngay thẳng, tấm thân trinh bạch của mình.

    Dường như, trong xã hội phong kiến, tất cả mọi thứ đều bất công với người phụ nữ. Tình yêu không, hạnh phúc không, tiếng nói cũng không. Nhưng, chính những áp bức đó đã làm sáng ngời lên những đức tính, phẩm hạnh đáng quý, đáng trân quý của người phụ nữ.

    Trước khi nàng tự tử, nàng ngửa mặt lên trời cao để phân trần cùng trời đất "Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ.. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ". Nàng đã nêu hậu quả của mình nếu không lòng trinh tiết chờ chồng để minh oan với trời đất. Đắng cay đến thế! Một người vợ thủy chung, một người con dâu ngoan hiền như người mẹ chồng đã nói lúc lâm chung "xanh kia quyết chẳng phụ con..", thế mà nàng phải mượn dòng nước Hoàng Giang cuốn trôi nỗi đau đời.

    Cái chết của Vũ Nương thực chất là do bị chồng bức tử vậy mà Trương Sinh cũng chẳng một chút động lòng hay ân hận, day dứt. Hãn hữu lắm trong cái xã hội ấy, một hành lang đạo lí hay một ai đó đứng ra bảo vệ, chở che cho thân phận bèo dạt mây trôi của Vũ Nương nói riêng và những người phụ nữ trong xã hội phong kiến nói chung. Rõ ràng chính xã hội cũ đã sinh ra bao Trương Sinh với thói độc đoán là nguyên nhân của những khổ đau mà người phụ nữ phải gánh chịu.

    Suy cho cùng, Vũ Nương phải chịu sự ràng buộc của lễ giáo khắc khe, ngặt nghèo, chấp nhận cuộc hôn nhân với Trương Sinh. Nàng đã có quyền lựa chọn đâu khi mà xã hội phong kiến vẫn còn đó tư tưởng "cha mẹ đặt đâu con ngồi đó". Chàng xin mẹ trăm lạng vàng để cưới nàng bởi thế đồng tiền đã phát huy uy lực của nó khiến Vũ Nương luôn sống trong mặc cảm "con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu". Còn Vũ Nương, nàng nương tựa vào Trương Sinh cũng vì cái thú vui "nghi gia nghi thất". Đây là một cuộc hôn nhân không chứa chan ái tình và cũng chẳng có âm hưởng của sự rung động cất lên từ hai trái tim chân thành. Chính bức tường vô hình mang tên "giàu – nghèo" đã đàn áp quyền lợi của người phụ nữ và là cái thế để Trương Sinh mặc nhiên đối xử vũ phu, tàn bạo với nàng.

    [​IMG]

    Vũ Nương còn là nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa, "sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh". Chiến tranh loạn lạc đã đẩy gia đình nàng vào cảnh li tán, vợ chồng xa cách đôi người hai ngả. Ngày qua ngày, niềm tin dành cho nhau cứ thế mà kiệt quệ, dẫn đến hiểu lầm. Có lẽ, trận chiến chính là cửa ải thử thách tình yêu và niềm tin của Trương Sinh dành cho vợ. Và chàng đã thất bại, mù quáng nghĩ oan và vu khống cho Vũ Nương. Rõ ràng, chiến tranh phong kiến chính là ngòi nổ tiếp tay cho những bi kịch, giông bão trong cuộc đời người phụ nữ bất hạnh ấy.

    Ở chốn "làng mây cung nước" nàng được sống một cuộc đời bất tử và sung mãn, một cuộc đời mà biết bao người trần mắt thịt mong ước. Thế nhưng, Vũ Nương chẳng hề tận hưởng kiếp sống ấy và nàng cũng chẳng thể chạm tay đến thứ hạnh phúc thật sự. Bởi nàng "bất tử" nên nỗi nhớ gia đình cứ đeo đẳng nàng mãi. Nỗi đau đáu ấy trở thành một vết sẹo trong tim nàng mà chẳng có một hào nhoáng xa hoa nào có thể chữa khỏi. Bên cạnh đó, sự trở về của Vũ Nương trên sông Hoàng Giang rất lộng lẫy nhưng lại ở rất xa, rất mơ hồ "lúc ẩn lúc hiện" và "chỉ trong phút chốc". Cảnh đoàn tụ chỉ là ảo ảnh nhanh chóng tan biến. Còn việc Vũ Nương "chẳng thể trở về nhân gian được nữa", nỗi khổ đau li biệt cho cả gia đình nàng, lứa đôi chia lìa hai cõi âm – dương là sự thật, là mãi mãi. Với kết thúc không trọn vẹn, Nguyễn Dữ đã cho thấy một quan niệm rằng hạnh phúc khó có, khó giữ mà đã đổ vỡ rồi thì sẽ chẳng thể nào hàn gắn lại được, như bát nước đã đổ đi thì chẳng thể vớt lại cho đầy.

    Tóm lại, có thể nói, điểm hội tụ nét đẹp của văn chương chính là sự đồng điệu trong tâm hồn của trái tim nhà nghệ sĩ đó chính là tinh thần nhân đạo cao đẹp, là ước mơ về hạnh phúc cuộc đời. Nguyễn Dữ đã thể hiện thế giới thủy cung tuy huyền bí, hoang đường nhưng vẫn đầy ấp nhân nghĩa thủy chung. Văn học là một hoạt động sáng tạo của con người nhằm khám phá và khẳng định những giá trị của đời sống. Nguyễn Dữ đã nhìn thấy những bất công, những nghịch cảnh, nghịch lí đối với con người và thủ phạm của nó. Ông thể hiện sự quan tâm, niềm thương cảm sâu sắc đối với những con người phải chịu đau khổ, thiệt thòi. Thể hiện thái độ căm ghét, lên án, tố cáo những cái xấu, cái ác. Quan trọng hơn, nhà văn đã khẳng định và ca ngợi vẻ đẹp của con người, thể hiện niềm tin vào cái đẹp, vào công lý. Trân trọng vẻ đẹp của người con gái Vũ Nương, tác giả đề cao giá trị nhân nghĩa: "Ở hiền gặp lành", thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân.

    Qua số phận và cuộc đời của nhân vật Vũ Nương, tác giả đã phản ánh số phận bi thương của người phụ nữ thời phong kiến, ngợi ca số phận tốt đẹp của họ. Nguyễn Dữ đã cho ta thấy được cái tâm cái tài của người nghệ sĩ lớn. Những trang viết của Nguyễn Dữ chắc chắn sẽ vượt qua sự băng hoại của thời gian, khẳng định được chỗ đứng của mình trong khu vườn văn học để rồi ta nhớ mãi về tác phẩm để hoài niệm về quá khứ xa vắng, để đau xót, để yêu thương.
     
  2. Đăng ký Binance
Trả lời qua Facebook
Đang tải...