Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ vào XD đội ngũ sinh viên nữ HV BC&TT hiện nay

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Góc bình yên, 24 Tháng bảy 2022.

  1. Góc bình yên

    Bài viết:
    846
    NỘI DUNG

    CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI PHÓNG PHỤ NỮ

    1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ

    1.2. 1 Phụ nữ là mục tiêu trong sự nghiệp giải phóng của cách mạng

    1.2. 1.2 Mục tiêu giải phóng phụ nữ là giải phóng một cách toàn diện


    Download:

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã có ý định đi ra nước ngoài tìm đường cứu nước, cứu dân. Suốt hành trình bôn ba tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc không chỉ mang hoài bão cứu nước, mang lại nền hòa bình, tự do cho dân tộc và cho toàn thể nhân loại mà còn có những suy nghĩ về thân phận người phụ nữ và công cuộc giải phóng phụ nữ - lớp người trong những thời kỳ lịch sử trước đây không được coi là một phần của xã hội, là thành phần không đáng để tâm, bị xem thường, bị trói buộc trong vòng lễ giáo, khuân phép phong kiến, bị kìm kẹp, hành hạ, áp bức dưới đòn roi của bọn thực dân, đế quốc. Đồng thời, Hồ Chí Minh đã nhận thấy rằng, ở đâu người dân mất nước cũng đau khổ và tủi nhục như nhau cả. Dưới chế độ thuộc địa, mọi quyền tự do, dân chủ của con người đều bị thủ tiêu. Nhân dân và chính bản thân Hồ Chí Minh càng bị đọa đầy bao nhiêu thì Người càng thấy ý nghĩa to lớn của hai chữ "tự do" bấy nhiêu. Theo Người: "Trên đời ngàn vạn điều cay đắng, cay đắng chi bằng mất tự do" 1 . Ách áp bức của đế quốc, thực dân ở thuộc địa càng tàn bạo thì người dân càng thấy "tự do" là giá trị vô cùng cao quý. Người đi đến khẳng định: " Không có gì quý hơn độc lập, tự do" 2, điều đó đã thôi thúc Người ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân, tìm đến với chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản do giai cấp công nhân lãnh đạo. Cuộc cách mạng vô sản có ý nghĩa vô cũng lớn lao, cách mạng vô sản thành công đã giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người một cách toàn diện và triệt để.

    Giải phóng con người, vì con người là mục tiêu cao cả của cuộc cách mạng vô sản, mà ở đó phụ nữ là trung tâm điểm. Có thể thấy, vị trí, vai trò của người phụ nữ là rất quan trọng, thể hiện ở cả vai trò duy trì nòi giống và cả trên lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội . Xuất phát từ vị trí, vai trò không thể thiếu và những đóng góp vô cùng quan trọng của mình trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, phụ nữ cần được giải phóng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.. Họ cần phát huy khả năng của mình một cách mạnh mẽ và công bằng trong các cuộc cách mạng và trước những biến đổi to lớn của nhân loại. Người đã từng nghiên cứu và rút ra kết luận: "Xem trong lịch sử cách mệnh, chẳng có lần nào là không có đàn bà, con gái tham gia" 3 . Dù đang bôn ba nơi đất khách quê người để tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh vẫn luôn nhận thấy một nhân tố quan trọng quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam là sự tham gia của phụ nữ: "An Nam cách mệnh cũng phải có nữ giới tham gia mới thành công" 1 . Tại lễ kỷ niệm 36 năm ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (20/10/1966), Bác Hồ nói: " Từ đầu thế kỷ thứ nhất, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa đánh giặc cứu dân cho đến nay, mỗi khi nước nhà gặp nguy nan thì phụ nữ ta đều hăng hái đứng lên góp phần xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc" 2 . Trong Thư gửi phụ nữ nhân kỷ niệm chiến thắng của Hai Bà Trưng và ngày Quốc tế phụ nữ 8/3/1952, Hồ Chí Minh cũng khẳng định: "Non sông gấm vóc nước Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp rực rỡ" 3 .

    [​IMG] Người khẳng định công cuộc 3 giải phóng và xây dựng chủ nghĩa xã hội phải gắn liền với sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Và "Nói phụ nữ là nói phân nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội mới chỉ một nửa" 3 . Mỗi bước đi trên hành trình tìm đường cứu nước của Người, đều thể hiện niềm khát khao hòa bình cho dân tộc và cho nhân loại.

    1 . Sđd. T3, tr332

    2 . Sđd. T12, tr615

    3 . Sđd. T2, tr228

    1 . Sđd. T2, tr289

    2 . Sdd. T12, tr148

    3 . Sđd. T. 6, tr432

    3 . Sđd. T 9, tr524


    - Còn tiếp -
     
  2. Góc bình yên

    Bài viết:
    846
    NỘI DUNG

    CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI PHÓNG PHỤ NỮ

    1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ

    1.2. 1 Phụ nữ là mục tiêu trong sự nghiệp giải phóng của cách mạng


    1.2. 1.3 Phấn đấu hướng tới bình đẳng giới cho phụ nữ

    Download:

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Hồ Chí Minh khẳng định mục tiêu cụ thể của cuộc cách mạng vô sản là: "Phải kính trọng phụ nữ.. làm cách mệnh để tranh lấy quyền bình đẳng, trai gái đều ngang nhau, trai gái đều ngang quyền như nhau" 4 . Hồ Chí Minh đã luôn luôn khẳng định mục tiêu nhất quán của cách mạng Việt Nam không chỉ là độc lập, tự do cho dân tộc, quyền của con người nói chung mà còn bao gồm cả việc giành quyền bình đẳng nam nữ. Sau này, người đề cập một cách cụ thể hơn về mục tiêu của công cuộc giải phóng phụ nữ là: "Chúng ta làm cách mạng là để tranh lấy quyền bình đẳng, trai gái đều ngang quyền như nhau" 5 . Tư tưởng của Người thấm đẫm tính nhân văn cao cả, ngời sáng tỏa ra từ một vị Cha già dân tộc, tỏa ra từ một danh nhân văn hóa trong trái tim các thế hệ người Việt Nam và nhân loại tiến bộ trên thế giới.

    Từ xa xưa, nhiều truyền thuyết của dân tộc đã cho thấy sự hiện diện của chế độ mẫu hệ ở Việt Nam, như việc mô tả việc Bà Sao Cái dạy nhân dân trồng lúa nước, ca ngợi các nữ anh hùng dân tộc là Hai Bà Trưng và Bà Triệu.. Nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa cũng cho thấy, ảnh hưởng của các định kiến bất bình đẳng với phụ nữ của Nho giáo ở Việt Nam không nặng nề như ở Trung Quốc, Triều Tiên hay Nhật Bản.. Dẫn chứng sinh động cho nhận định này có thể tìm thấy trong bộ Quốc Triều Hình luật (Bộ luật Hồng Đức) đời Hậu Lê. Mặc dù được ban hành cách đây mấy trăm năm, song Bộ luật nổi tiếng này đã thừa nhận quyền của phụ nữ được ly hôn, tái hôn, quyền thừa kế tài sản, quyền được chia tài sản chung trong hôn nhân.. không chỉ vậy, Bộ luật này còn có những quy định nhằm trừng trị tội gian dâm; tội buôn bán phụ nữ, trẻ em; giảm án và hoãn thi hành án đối với phụ nữ có thai, đang nuôi con nhỏ (xem Quốc Triều Hình luật, NXB Chính trị Quốc gia, HN, 1995).. Như vậy, có thể thấy rằng mặc dù Việt Nam là một quốc gia Phương Đông song có nhiều nét đặc thù so với nhiều nước khác trong khu vực về truyền thống văn hóa, trong đó có vấn đề bình đẳng GIỚI. Ở mức độ nhất định, đó có thể coi là yếu tố thuận lợi cho việc xây dựng và thực hiện các quy phạm pháp lý về quyền bình đẳng với phụ nữ ở nước ta sau này.

    Thời kỳ thuộc Pháp là giai đoạn mà các quyền con người cơ bản của người dân Việt Nam, kể cả đàn ông lẫn phụ nữ đều bị tước bỏ. Bởi những đặc trưng về giới tính, phụ nữ còn phải chịu những hạn chế khắc nghiệt khác: Dưới chế độ thực dân, lao động cực nhọc, cướp bóc, nghèo đói và bệnh tật đã đẩy hầu hết phụ nữ vào tình trạng mù chữ và ngu dốt. Mặc dù ở thời kỳ này, do tác động của văn minh Thề giới vấn đề bình đẳng nam nữ đã được đề cập, với việc Phạm Quỳnh đưa một số môn học khoa học tự nhiên và xã hội như: Toán, Lịch sử, Văn học Việt Nam, Tiếng Pháp và một số môn học dành riêng cho phụ nữ như cắt may.. vào nhà trường. Tuy nhiên, số lượng phụ nữ được đi học chiếm tỷ lệ rất nhỏ, địa vị của phụ nữ hầu như chưa có sự cải thiện gì đáng kể so với thời phong kiến.

    Cách mạng Việt Nam coi việc đấu tranh cho quyền bình đẳng của phụ nữ như một mục tiêu quan trọng của sự nghiệp cách mạng. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam năm 1930 đã khẳng định mục tiêu đấu tranh cho nam nữ bình quyền. Cũng năm đó, Hội phụ nữ cứu quốc (tiền thân của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam sau này) đã được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thành lập trở thành một trong những tổ chức xã hội của phụ nữ lâu đời nhất trên Thế giới.

    Hơn ai hết, Hồ Chí Minh là người nhận thấy rõ nguồn gốc căn nguyên của những bất công đối với phụ nữ. Đó là quan niệm phong kiến lỗi thời, là tư tưởng trọng nam khinh nữ đã tồn tại và trở thành thói quen mấy nghìn năm trong các thế hệ người Việt Nam, "nó đã ăn sâu trong đầu óc của mọi người, mọi gia đình, mọi tầng lớp xã hội. Để xóa bỏ những tư tưởng đó không phải là một sớm một chiều mà làm được, nó cần phải có thời gian và phải làm dần dần, trước hết từ nhận thức của từng người, từng gia đình, từng bản thân mỗi người phụ nữ.

    Cách mạng thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra:" Cũng có một số người chưa thấy rõ vai trò của phụ nữ hiện nay cũng như sau này, nên còn tư tưởng xem thường khả năng của phụ nữ ". Hoàn cảnh lịch sử đã thay đổi, công cuộc giải phóng được tiến hành thành công nhằm một mục tiêu giành lại quyền cho mỗi con người, trong đó có quyền lợi của người phụ nữ, hay nói cách khác đó chính là quyền bình đẳng nam- nữ. Nhưng có thể thấy rằng, tư tưởng" trọng nam khinh nữ "đã ăn sâu bén rễ quá lâu trong suy nghĩ và tâm niệm của người Việt nên rất khó để thay đổi. Trong thời kỳ mới, cần có những con người mới với những lối tư suy và quan điểm mới. Tuy nhiên, vai trò của người phụ nữ cũng không vì thế mà được nhìn nhận và đề cao hơn. Do đó, muốn tiến tới làm cuộc cách mạng về bình đẳng giới cần phải giáo dục từ ngay sự tự nhận thức trong mỗi người phụ nữ. Họ cần phải thấy được vai trò quan trọng của bản thân mình đối với xã hội, đối với sự phát triển đi lên của đất nước.

    Để tiến hành cuộc cách mạng lớn lao trong quá trình giải phóng phụ nữ, theo Người không thể dùng vũ lực mà tranh đấu, hay dùng các biện pháp hành chính cưỡng bức mà có thể thực hiện được, mà cần phải thông qua các cuộc cách mạng tư tưởng, vận động giáo dục, phê phán và thuyết phục để xóa bỏ dần các tư tưởng lạc hậu đó, xây dựng những tư tưởng tiến bộ và tích cực.

    Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:" Phải kính trọng phụ nữ, chúng ta làm cách mạng để tranh lấy quyền bình đẳng, trai gái đều ngang nhau, trai gái đều ngang quyền như nhau ". Có nghĩa là, một trong những mục tiêu được đặt lên hàng đầu của cách mạng đó chính là việc giành quyền lợi cho toàn thể mỗi người dân Việt Nam, ai ai cũng được hưởng lợi ích của mình, trong đó người phụ nữ là đối tượng được chú trọng, ưu tiên hàng đầu. Bởi, phụ nữ là một nửa của xã hội, là lực lượng quan trọng của cách mạng, có họ mới có thành công của công cuộc giải phóng đất nước." Đàn bà con gái cũng nằm trong nhân dân. Nếu cả dân tộc được tự do, đương nhiên họ cũng được tự do. Ngược lại nếu dân tộc còn trong cảnh nô lệ thì họ và con cái họ cũng sẽ sống trong cảnh nô lệ đó thôi ". Giải phóng đất nước mà không giải phóng cho được quyền lợi của người phụ nữ, không đem lại sự bình quyền nam nữ thì cách mạng mới tiến hành được một nửa và không hề triệt để.

    Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy tầm quan trọng của việc đoàn kết rộng rãi mọi tầng lớp phụ nữ: Công nhân, nông dân, trí thức, tiểu tư sản, tiểu thương.. và tất cả phụ nữ có tinh thần cách mạng, có tinh thần yêu nước thương nòi thành một lực lượng thống nhất đấu tranh cho mục tiêu chung là độc lập, tự do của dân tộc, bình đẳng cho giới mình. Người đã nêu lên tấm gương của Bà Trưng để cổ vũ tinh thần cách mạng của chị em:" Như buổi ấy là buổi phong kiến mà đàn bà, con gái còn biết kách mệnh. Huống chi bây giờ hai chữ "nữ quyền" đã rầm rầm khắp thế giới, chị em ta lại gặp cảnh nước suy vi, nỡ lòng nào ngồi yên được! Chị em ơi! Mau đoàn kết lại! ". Trong Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng do Người soạn thảo cũng đã nêu rõ:" Thực hiện nam nữ bình quyền ". Sau cách mạng tháng Tám thành công, tư tưởng đó của Người ghi trong Luận cương của Đảng đã được thể chế hóa sớm nhất trong Điều 09 Hiến pháp năm 1946:" Đàn bà ngang quyền với đàn ông ". Từ đó vấn đề bình đẳng giới được xã hội quan tâm và chú trọng hơn cả. Nó đã được thực hiện một cách sâu rộng trong quần chúng nhân dân cũng như trong chính nhận thức của từng phụ nữ. Trong vấn đề đoàn kết các tầng lớp chị em phụ nữ, Người đặc biệt lưu ý tới hoàn cảnh của những phụ nữ dân tộc thiểu số, vì họ là nạn nhân nặng nề nhất của những phong tục tập quán lạc hậu, mê tín dị đoan. Người luôn dõi theo từng bước tiến bộ của họ và dặn dò:" Đảng ủy các cấp ở miền núi cần phải ra sức phát triển Đảng viên và Đoàn viên phụ nữ, cần phải đào tạo và giúp đỡ cán bộ phụ nữ các dân tộc. Đó là nhiệm vụ mà Trung ương và Bác giao cho các đồng chí phải làm tốt ". Người đã đề ra các biện pháp thiết thực trên từng lĩnh vực của đời sống nhằm nâng cao vai trò, quyền lợi của chị em phụ nữ. Khi người phụ nữ được bình đẳng một cách toàn diện trên tất cả các mặt của đời sống thì họ mới có cơ hội phát triển để cống hiến tài năng, trí tuệ một cách bình đẳng như nam giới.

    Trước hết, cần làm cho người phụ nữ bình đẳng về mặt chính trị. Có nghĩa là, người phụ nữ được trang bị về mặt lý luận, tổ chức sau đó là sự đảm bảo cho họ quyền tham gia các hoạt động chính trị (quyền bầu cử, quyền ứng cử) ; đồng thời, đảm bảo quyền ngôn luận, đi lại, cư trú và quyền bình đẳng trước pháp luật.. Tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ 03/09/1945, trong những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Người đã nêu ra:" Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái 18 tuổi đều có quyền bầu cử và ứng cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống.. "Những lời đề nghị của Người đã trở thành hiện thực khi lần đầu tiên trong lịch sử ngày 01/06/1946, phụ nữ nước ta thể hiện quyền công dân, quyền bình đẳng của mình thông qua việc đi bỏ phiếu. Trong Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, năm 1946, quan điểm bình đẳng giới của Người đã được quy định cụ thể. Trong Điều 09 quy định: Đàn bà ngang quyền đàn ông về mọi phương diện; trong Điều 18 quy định rõ về phương diện chính trị:" Tất cả các công dân từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt trai gái đều có quyền ứng cử, bầu cử, trừ những người mất trí và những người mất công quyền.. ". Bản Hiến pháp thứ hai năm 1959 mà Người trực tiếp chỉ đạo soạn thảo cũng bổ sung về quyền bình đẳng của phụ nữ:" Công dân không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, từ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và từ 21 tuổi trở lên đều có thể được bầu vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, trừ những người mất trí và những người bị pháp luật hoặc tòa án nhân dân tước quyền đó ". Có thể thấy rằng, chính trị là lĩnh vực thể hiện rõ nhất quyền lợi của mỗi người phụ nữ, nếu họ không có quyền công dân tối thiểu trong việc góp phần ổn định về mặt chính trị tức là họ chưa có quyền tự do, quyền bình đẳng và lợi ích, trách nhiệm như nam giới đối với sự nghiệp phát triển đất nước. Và điều đó đã được chứng minh qua các thể chế, Hiến pháp cũng như những điều luật của Nhà nước, của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

    Một đất nước muốn phát triển phải dựa trên một nền kinh tế phát triển. Để làm được điều đó yêu cầu mỗi người công dân trong đất nước đó đều phải tham gia sản xuất, đóng góp vào nền kinh tế nước nhà. Muốn người phụ nữ có quyền bình đẳng cho giới của họ thì việc quan trọng là xã hội phải tạo sự bình đẳng về mặt kinh tế cho phụ nữ. Có nghĩa là tạo ra cơ hội cho người phụ nữ có việc làm, có thu nhập như nam giới, bình đẳng với nam giới trong quan hệ tài sản.. Điều đó được khẳng định trong Điều 05 Hiến pháp năm 1946:" Tất cả mọi công dân đều ngang quyền về kinh tế "và Điều 07:" Quyền tư hữu tài sản được đảm bảo ".

    Bình đẳng về mặt kinh tế cho người phụ nữ được thể hiện rõ trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, nhất là trong công cuộc tiến hành cải cách ruộng đất do Người trực tiếp chỉ đạo, đã nhấn mạnh rằng:" Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải làm gì? Nhất định phải tăng gia sản xuất cho thật nhiều. Muốn có nhiều sức lao động, thì phải giải phóng sức lao động phụ nữ ". Điều đó sẽ xác định quyền bình đẳng của người phụ nữ, xóa bỏ mọi ràng buộc phong kiến, tạo điều kiện để phụ nữ có thể tham gia bình đẳng với nam giới.

    Trong lĩnh vực văn hóa, Hồ Chí Minh nói:" Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu ". Chính vì thế, sau cách mạng tháng Tám, Người đã phát động chiến dịch diệt giặc dốt để xóa bỏ tình trạng dốt nát của nhân dân. Bởi theo Người, sự dốt nát còn nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm. Trong Lời kêu gọi chống nạn thất học tháng 10/1945 Người nói rõ:" Mọi người Việt Nam phải hiểu rõ quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới, có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ "." Phụ nữ lại cần phải học, đã lâu chị em bị kìm hãm. Đây là lúc chị em phải cố gắng để theo kịp nam giới, để xứng đáng moinhf là phần tử trong nước, có quyền bầu cử và ứng cử ". Người đã nhấn mạnh chị em phụ nữ cần phải nâng cao trình độ văn hóa để từ đó tự tin vươn lên làm chủ về mọi mặt một cách vững chắc. Thoát khỏi sự lệ thuộc của những tư tưởng phong kiến hà khắc. Những tư tưởng cổ hủ, lạc hậu, sai lầm trói buộc và từ đó người phụ nữ có điều kiện để phát huy tài năng, trí tuệ cho đất nước. Những vấn đề trên được cụ thể hóa trong Hiến pháp 1946 và Hiến Pháp 1959 đã bổ sung cụ thể ở Điều 24:" phụ nữ nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa có quyền binh đẳng với nam giới về sinh hoạt văn hóa ", Điều 33:" Có quyền học tập ", Điều 34:" quyền tự do nghiên cứu khoa học, sáng tác văn học, nghệ thuật và tiến hành các hoạt động văn hóa khác ".

    Trong lĩnh vực gia đình – xã hội, đó là lĩnh vực mà người phụ nữ gắn liền, gần gũi nhất và thể hiện rõ vai trò của mình trong gia đình. Hồ Chí Minh là người đã nhận rõ vai trò đó của người phụ nữ và thấy được những hạn chế của thực tế xã hội do tàn tích của lịch sử để lại vẫn còn tồn tại mà không thể xóa bỏ ngay được. Từ thực tế đó, Người chỉ ra rằng, muốn thực hiện bình đẳng nam nữ trước hết là phải giải phóng phụ nữ ra khỏi những trói buộc của tư tưởng" trọng nam khinh nữ ", ra khỏi sự bất công ngay trong gia đình họ. Để giải quyết vấn đề này, Người đã cùng các thành viên của Quốc hội soạn thảo ra Luật hôn nhân và gia đình, sau đó tuyên truyền rộng rãi cho toàn dân biết và cùng thực hiện nghiêm chỉnh đạo luật đó. Người còn quan niệm vai trò của phụ nữ trong xã hội được thể hiện chính từ vai trò của họ trong gia đình. Vì gia đình là tế bào của xã hội." Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt ".

    Nói tóm lại, vấn đề bình đẳng nam nữ đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng, cùng với Đảng Cộng sản Việt Nam những vấn đề thực hiện bình đẳng nam nữ đã được đề ra và thực hiện một cách nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Mặc dù vẫn còn tồn tại những tập quán lạc hậu, cổ hủ hàng nghìn năm của xã hội phong kiến không dễ gì xóa bỏ trong một sớm một chiều mà cần có một quá trình lâu dài và bền bỉ. Chính vì thế, việc thực hiện bình đẳng cho phụ nữ phải gắn với chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, những chính sách và pháp luật đó phải dựa trên thực tiễn, điều kiện, đặc điểm cụ thể của phụ nữ. Người luôn nhắc nhở:" Các cấp lãnh đạo đi sát hơn, thiết thực hơn, thì phong trào phụ nữ chắc rộng hơn, mạnh hơn nữa ". Việc thực hiện bình đẳng cho phụ nữ không chỉ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội mà còn là sự nghiệp của bản thân phụ nữ:" Mỗi một người và tất cả phụ nữ phải hăng hái nhận lấy trách nhiệm của người làm chủ đất nước, tức là phải thi đua tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm để xây dựng nước nhà, xây dựng chủ nghĩa xã hội ". Trước lúc đi xa, Người vẫn không quên nhắc nhở:" Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ". Qua đó, ta có thể thấy được việc thực hiện quyền bình đẳng cho người phụ nữ có thành công hay không thì cần phải có sự quan tâm, giúp đỡ của Đảng, Nhà nước và toàn thể xã hội trên tất cả các lĩnh vực của cuộc sống, cùng với bản thân mỗi người phụ nữ sẽ làm nên một cuộc cách mạng to lớn, tiến bộ nhằm giải phóng hoàn toàn cho phụ nữ.

    4 . Sđd. T12, tr195

    5 . Sđd. T12, tr195


    - Còn tiếp -
     
    Chỉnh sửa cuối: 9 Tháng tám 2022
  3. Góc bình yên

    Bài viết:
    846
    NỘI DUNG

    CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI PHÓNG PHỤ NỮ

    1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ

    1.2. 2 Phụ nữ là động lực của cách mạng

    Download:

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Trong thời kỳ hoạt động bí mật, nhiều chị em đã giác ngộ, tham gia hoạt động cách mạng rất anh dũng, mặc vượt qua muôn ngàn gian khổ, khó khăn, nguy hiểm. Rất nhiều chị em khác cũng đã bảo vệ cách mạng rất gan góc. Thời ký đó căn cứ địa cách mạng của nước ta còn ở Việt Bắc, do đó đã có rất nhiều chị em, phụ nữ dân tộc thiểu số không những vượt qua gian nguy mà còn gạt cả mê tín để bảo vệ cách mạng và cán bộ hoạt động cách mạng.

    Thời kỳ kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những ví dụ để đánh giá một cách khái quát về động lực của phụ nữ trong cuộc cách mạng dân chủ nhân dân của Việt Nam, tiến lên làm chủ nghĩa xã hội giai đoạn đầu và chủ nghĩa cộng sản giai đoạn sau. Bác nói: "Ngoài những đội nữ du kích rất anh dũng đánh địch còn có các bà mẹ rất hiền từ tổ chức nhau lại thành hội các bà mẹ chiến sỹ, giúp đỡ bộ đội đánh giặc, giúp đỡ, an ủi thương binh. Trong các chiến dịch, phụ nữ đi dân công, tải lương thực, đạn dược, làm đường, v. V.. rất đông; 2/3 số dân công là phụ nữ. Mặc dầu, bị máy bay địch theo dõi thả bom dữ dội, nhưng chị em vẫn vui vẻ ca hát, động viên nhau làm tròn nhiệm vụ" 2 . Cách mạng tháng Tám thành công và sự thành lập chính quyền dân chủ nhân dân mở ra một triển vọng hết sức tươi sáng cho phụ nữ. Chỉ trong thời gian ngắn phụ nữ đã có những tiến bộ vượt bậc và cống hiến lớn lao vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày nay đất nước ta hòa bình. Có hòa bình vì đã có bao nhiêu gương đấu tranh, hy sinh anh dũng của toàn dân ta, toàn Đảng ta, trong đó có phụ nữ. Phụ nữ với tư cách là động lực của cách mạng được Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích rõ trong hai thời kỳ của cách mạng Việt Nam.

    Một là, thời kỳ chiến tranh, phụ nữ thể hiện rõ động lực trong cách mạng.

    Trên mặt trận quân sự, người phụ nữ luôn là bộ phận không thể thiếu cấu thành lực luợng cách mạng, cả lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang. Họ đã gan góc đấu tranh chống lại các âm mưu, thủ đoạn và hành động dã man của kẻ thù. Họ đã chứng tỏ được khả năng và thể hiện được lòng yêu nước, ý chí giết giặc của mình như nam giới xông pha nơi chiến trường. Bất kể lứa tuổi, hậu phương hay tiền tuyến, vùng tạm chiếm hay vùng sau lưng địch, ở đâu họ cũng phát huy mạnh mẽ tinh thần và khả năng của mình, là một trong những động lực không thể thiếu trong cách mạng.

    Ở tiền tuyến, người phụ nữ đã đóng góp sức mình, nỗ lực tranh đấu cho tự do, độc lập của dân tộc. Họ chiến đấu anh dũng và kiên cường như nam giới. Ngay từ những ngày đầu kháng chiến, ở Hà Nội, trong Trung đoàn Thủ đô, đã có trên 100 chị em làm công tác trinh sát, địch ngụy vận, cứu thương, tiếp tế.. Ở khắp các chiến trường Tây Bắc, Tả Ngạn sông Hồng.. ở các vùng ngoại thành đến nông thôn, rừng núi đều có tổ chức nữ dân quân, du kích. Chị em làm nhiệm vụ canh gác, giữ gìn trật tự an ninh thôn xóm, vừa bám quê hương sản xuất, gây cơ sở, vừa phối hợp chiến đấu với bộ đội chủ lực. Phụ nữ đã góp phần tích cực xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang, vận động chồng con tòng quân giết giặc. Thậm chí có những bà già có tuổi vẫn đầy nhiệt huyết tham gia đánh giặc, trẻ em còn nhỏ cũng học cách đánh du kích để giết giặc. Họ đã không quản ngại công việc nặng nhọc hay khó khăn, lòng nhiệt huyết muốn giúp nước giúp dân khiến họ có thể làm nên những điều kì diệu, vượt qua những khó khăn nguy hiểm to lớn, như: Nữ anh hùng Trần Thị Lý bị địch đánh khảo chết đi sống lại bao nhiêu lần, nữ anh hùng Nguyễn Thị Châu suốt 1.300 ngày bị địch dùng cực hình tra tấn nhưng vẫn kiên trung với Đảng với cách mạng, nữ anh hùng Nguyễn Thị Minh Khai, đã bị đế quốc tử hình ở hai nơi, mà lúc hy sinh vẫn rất oanh liệt.. Rất nhiều tấm gương phụ nữ điển hình giết giặc lập công, vượt qua khó khăn gian khổ vì thắng lợi của cách mạng đã trở thành động lực to lớn cho toàn quân tham gia chiến đấu, như lời Hồ Chủ tịch: "Đó là những đoạn văn chương mới mẻ và tươi sáng do phong trào thi đua và cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta nảy nở ra" 1 .

    Từ năm 1947 trở đi, cuộc đấu tranh với địch trong vùng tạm chiếm rất gay go, quyết liệt. Càng vấp phải thất bại liên tiếp, thực dân Pháp càng ra sức chống phá các lực lượng kháng chiến của ta, hủy diệt hàng trăm làng mạc, hàng nghìn hécta ruộng vườn, dồn hàng chục vạn đồng bào ta vào vùng chúng kiểm soát. Chúng ra sức thực hiện chính sách "lấy chiến tranh để nuôi chiến tranh, dùng người Việt để đánh người Việt", thi hành lệnh tổng động viên, ráo riết bắt lính, cướp lúa gạo. Để thực hiện âm mưu bần cùng hóa nhân dân, phá cuộc kháng chiến của ta, chúng tập trung binh lực, càn quét lâu ngày và liên tiếp trong từng khu vực. Chiếm đóng đến đâu, chúng khủng bố ác liệt, lập máy ngụy quyền tay sai bảo an.. và trắng trợn bóc lột nhân dân đến đấy. Chúng còn tiến hành càn quét, bắt bớ nhân dân ở các vùng ven đô thị, các vùng tranh chấp, lập ra các "vành đai trắng" để ngăn chăn việc phát triển phong trào kháng chiến. Phụ nữ đã phát huy mạnh mẽ vai trò truyền thống đánh giặc "giặc đến nhà đàn bà cũng phải đánh", hàng vạn phụ nữ đã cầm vũ khí trực tiếp tham gia giết giặc. Ngoài những nữ chiến sỹ trong hàng ngũ các đơn vị chính quy, các binh chủng và các đơn vị kỹ thuật, còn có đông đảo phụ nữ tham gia chiến đấu trong phong trào dân quân, du kích ở khắp mọi nơi.

    Ở hậu phương, mỗi căn nhà, mỗi bản làng có thể thiếu bóng dáng những người cha, người chồng, người anh nhưng trong công tác phục vụ kháng chiến, trong sinh hoạt hàng ngày thì không thiếu vắng những bàn tay lao động, sản xuất với tinh thần và sức lực của phụ nữ . Những người mẹ, người vợ đã đảm trách những công việc của nam giới rất tốt. Họ sản xuất phục vụ kháng chiến, họ tham gia kháng chiến, họ đảm trách những vị trí trọng yếu trong chính quyền ở hậu phương, họ nuôi giấu cán bộ, chiến sỹ cho cách mạng. Họ không chỉ đóng góp sức mình mà còn tạo cơ sở nền tảng vật chất và tinh thần cho kháng chiến.

    Một trong những công tác quan trọng của phong trào phụ nữ vùng địch hậu là bảo vệ, nuôi giấu cán bộ cách mạng . Hàng vạn các bà mẹ, các chị đã không ngại khó khăn, nguy hiểm, không quản hy sinh, hết lòng giúp đỡ che giấu cán bộ. Khi địch lùng sục tìm bắt cán bộ, biết bao bà mẹ và chị em đã bị địch bắt và tra tấn hết sức dã man, nhưng các mẹ, các chị nhất mực thà chết chứ không bao giờ khai báo làm hại phong trào cách mạng. Lực lượng phụ nữ tham gia dân quân du kích ngày càng nhiều. Hầu hết các ban chỉ huy xã đội, ban công an xã đều có phụ nữ tham gia lãnh đạo chính quyền và thông qua công tác chính quyền, phụ nữ đã tiến bộ nhanh chóng. Đó cũng là biểu hiện rõ nét quyền bình đẳng thật sự của phụ nữ làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Hàng nghìn chị em giao thông viên vùng địch tạm chiếm đã ngày đêm vận chuyển công văn, tài liệu, báo chí, đưa đón cán bộ, bộ đội hoạt động bí mật trong các thành phố, thị xã bị tạm chiếm. Các chị phải nằm hầm, lội sông, ngâm trong nước, bị bắt, bị tra tấn dã man bằng đủ mọi cực hình, thậm chí có chị bị xẻo thịt, moi ruột, bắn chết nhưng vẫn không làm lộ bí mật đường dây của Đảng, vẫn bảo tồn được cán bộ và tài liệu kháng chiến.

    Bên cạnh đó, trong công tác xây dựng các tổ chức chính trị ở các địa phương cũng có sự đóng góp to lớn của những người phụ nữ. Mặc dù địch dựng đồn bốt, lập tề, tổ chức hương dõng, đánh phá cơ sở ta triền miên, nhiều cán bộ nữ đã anh dũng hy sinh, nhưng ngay sau đó cơ sở phụ nữ vẫn nhanh chóng được phục hồi, phát triển. Để xây dựng các tổ chức chính trị: Hội phụ nữ cứu quốc, Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội mẹ chiến sỹ.. nhằm giữ vững và phát triển cơ sở kháng chiến trong vùng địch tạm chiếm. Phụ nữ là lực lượng rất kiên trì xây dựng lực lượng trung kiên lãnh đạo nhân dân đấu tranh với địch. Đoàn phụ nữ cứu quốc đã có cơ sở ở hầu hết các thôn, xã, đường phố. V. V.. và đã có Ban chấp hành lãnh đạo từng cấp. Năm 1947, Ban chấp hành phụ nữ Nam Bộ cũng được thành lập, sau các Ban chấp hành Bắc Bộ và Trung Bộ, các cấp xứ và tỉnh đều mở lớp đào tạo cán bộ cho phong trào. Ban liên lạc phụ nữ Bắc bộ có tờ báo "Tiếng gọi phụ nữ", "Nhà sách phụ nữ" để tuyên truyền giáo dục cho hội viên.

    Phụ nữ còn đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng và duy trì các tổ chức xã hội, sự có mặt của họ đã trở thành nguồn sức mạnh tinh thần lớn lao đồng thời tạo cơ sở vật chất vững chắc cho công cuộc kháng chiến của dân tộc . Điển hình nhất là ở Nam Bộ, chị em phụ nữ hoạt động công tác xã hội rất sôi nổi và tích cực. Đồng chí Phó hội trưởng Hội liên hiệp phụ nữ Nam Bộ được cử tham gia Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ trực tiếp phụ trách công tác xã hội. Công việc đào tạo y tá, hộ sinh được tiến hành rộng rãi. Hội phụ nữ Nam Bộ còn mở trường đào tạo hàng trăm nữ hộ sinh.

    Hội mẹ chiến sỹ do Đoàn phụ nữ cứu quốc và Hội Liên hiệp phụ nữ tổ chức ở khắp nơi, chăm sóc cho bộ đội thương binh.. Các mẹ đóng vai trò nòng cốt trong phong trào ủng hộ bộ đội "," nuôi quân giết giặc ". Có nhiều mẹ, nhiều chị đã đón cả 5, 7 thương binh về nhà nuôi. Các anh em bộ đội đi đường bị cảm, bị ốm đau, các mẹ, các chị đã đón vè nhà chăm sóc. Các bà mẹ chiến sỹ đã hết lòng chăm sóc bộ đội, thương binh như con đẻ của mình, xứng đáng với lời ca ngợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: " Các bà mẹ và chị em giúp thương binh đã hòa lẫn lòng yêu nước, yêu con, yêu chiến sỹ thành một mối yêu thương không bờ bến " 1 . Trong Thư gửi Hội mẹ chiến sĩ liên khu IV (1949), Hồ Chí Minh vô cùng cảm động trước những tấm lòng bao la của các mẹ, các chị dành cho cách mạng, Người xúc động nói: " Các cụ, các bà thì thương yêu săn sóc chiến sĩ như con cháu ruột thịt. Thế là các cụ các bà cũng trực tiếp tham gia kháng chiến. Tôi mong rằng khắp cả nước, các liên khu, các tỉnh, các làng, ở đâu cũng có Hội mẹ chiến sĩ " 2 . Người không chỉ cảm động trước tấm chân tình mà các mẹ, các chị đã cống hiến cho sự nghiệp cách mạng, cho dân tộc Việt Nam mà Người còn mong muốn phụ nữ Việt Nam luôn giữ vững và phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò to lớn của mình trong sự nghiệp cách mạng to lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh.

    Trên mặt trận kinh tế, những người phụ nữ đã chung tay xây dựng, cải tạo nền kinh tế, sản xuất và tiết kiệm phục vụ cho cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc. Những cống hiến to lớn của họ cho kháng chiến, cả ở hậu phương và tiến tuyến, đã góp phần xứng đáng vào sự thành công của các chiến dịch và sự thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến kiến quốc nói chung.

    Đất nước ta bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp với một nền sản xuất nhỏ, thấp kém. Trong phong trào thi đua ái quốc do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động nhằm" diệt giặc đói, diệt giặc dốt, điệt giặc ngoại xâm "phụ nữ đã đảm nhiệm công tác hậu phương thay thế cho nam giới ra tiền tuyến." Phong trào phụ nữ tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm ", vừa nhằm tự cấp, tự túc về mọi mặt vừa đóng góp cho nhu cầu kháng chiến. Chị em đã thực hiện nhiệm vụ đó trong những điều kiện và hoàn cảnh đặc biệt khó khăn vì thiên tai địch họa xảy ra liên tiếp. Giặc pháp còn mở những trận càn quét phá hoại thóc lúa, hoa màu, phá hoại sản xuất rất nặng nề. Nhưng phong trào" tăng gia sản xuất và tiết kiệm "vẫn được phát triển mạnh mẽ để giải quyết nạn đói

    Phụ nữ đô thị hưởng ứng triệt để lệnh tản cư, rời bỏ nhà cửa và mọi tiện nghi sinh hoạt, ra bưng biền kháng chiến. Mọi tình cảm của phụ nữ đều hướng về kháng chiến. Ở các chiến khu vùng nông thôn miền núi, bưng biền, bà con sẵn sàng nhường nhà cửa, tiếp tế lương thực, thực phẩm.. giúp đỡ các gia đình tản cư, ổn định việc sinh sống cùng nhau phục vụ kháng chiến, bước đầu làm thất bại âm mưu chia rẽ của địch.

    Trên mặt trận văn hóa, phụ nữ đã tích cực tham gia vào các hoạt động văn hóa, sôi nổi tham gia và đóng góp sức mình vào phong trào" chống giặc dốt ". Phong trào" chống nạn mù chữ "được đề cập cấp bách, để đưa 90% dân số mù chữ ra khỏi nạn dốt, trong đó phần lớn là phụ nữ. Theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đông đảo phụ nữ phấn khởi tham gia" chống giặc dốt ". Chị em đã tích cực đi học và dạy học. Trường lớp tổ chức khắp nơi, ở các trụ sở, trong các gia đình và có khi ngay ở các chợ và trên bờ ruộng..

    Các hoạt động văn hóa, xã hội rất phong phú và có ý nghĩa đã trở thành những phong trào sôi nổi của quần chúng. Trong các cuộc vận động" ngày đồng tâm ", 'hũ gạo cứu quốc", trong phong trào "bảo trợ thiếu nhi", phong trào "cứu trợ động bào bị bão lụt", phong trào "cứu đói", phong trào "truyền bá vệ sinh".. được đông đảo phụ nữ hưởng ứng tham gia tích cực.

    Có thể nói, người phụ nữ Việt Nam đã đóng vai trò vô cùng quan trọng trong công cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc. Họ là động lực to lớn trên mọi mặt trận, mọi phương diện của cuộc chiến; họ vừa là nguồn động viên cổ vũ to lớn, vừa là những người xây dựng nền tảng vật chất vững chắc đảm bảo thắng lợi của từng chiến dịch và thắng lợi chung của cách mạng.

    Hai là, trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam


    Thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, phụ nữ với tư cách là lực lượng nòng cốt của "hậu phương lớn" đã cùng với toàn Đảng, toàn Dân chung tay kiến thiết nước nhà, sản xuất phục vụ kháng chiến, cung cấp sức người sức của cho "tiền tuyến lớn" miền Nam ruột thịt.

    Phụ nữ Việt Nam vốn có truyền thống đấu tranh anh dũng, cần cù, là động lực to lớn góp phần làm thắng lợi của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà. Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, phụ nữ đã tỏ rõ vị trí, vai trò to lớn của mình trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, làm lên những chiến công hiển hách xứng đáng với tám chữ vàng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng "anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang". Nhân ngày Quốc tế phụ nữ (8/3), Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho phụ nữ toàn quốc, đăng trên báo Nhân dân, số 2181 ra ngày 8/3/1960, trong thư Người viết: "Phụ nữ Việt nam ta sẵn có truyền thống đấu tranh anh dũng và lao động cần cù. Trong kháng chiến, phụ nữ ta từ Bắc đến Nam đều hăng hái tham gia đánh giặc cứu nước. Từ ngày hòa bình trở lại, nước ta bị chia cắt làm hai miền. Chị em miền Nam đang bền bỉ đấu tranh chống ách thống trị dã man của Mỹ - Diệm. Ở miền Bắc hoàn toàn giải phóng, chị em phụ nữ đều phấn khởi thi đua sản xuất và thực hành tiết kiệm, công tác và học tập đều tiến bộ khá" 1 . Điều đó, đã chứng tỏ Hồ Chí Minh rất tin tưởng và coi trọng vào sức mạnh to lớn của phụ nữ. Phụ nữ là động lực thật sự to lớn có ý nghĩa quyết định vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

    Về kinh tế, phụ nữ đã thể hiện vai trò quan trọng của mình trong sản xuất và quản lý kinh tế, họ cũng đảm nhiệm tốt khâu sản xuất hàng tiêu dùng và vũ khí, quân trang, thuốc men, cung cấp cho bộ đội và nhân dân đánh giặc.

    Trong công nghiệp, rất nhiều phụ nữ đã thi đua đưa mức sản xuất lên cao giành lá cờ đầu ở nhiều ngành công nghiệp. Ở các công binh xưởng, chị em đã tình nguyện làm thêm mỗi ngày một giờ để cung cấp được nhanh và nhiều vũ khí cho bộ đội đánh giặc. Ở Liên khu 5, còn có phong trào "phụ nữ chức nghiệp", mỗi phụ nữ phải học một hai nghề thay cho nam giới ra trận. Chị em rất hăng hái tham gia phong trào này: Nữ nông dân học cày bừa và các khâu canh tác; nữ công nhân hoc giỏi nghề của mình và học thêm nghề nữa, nữ trí thức và học sinh, ngoài công tác chuyên môn và học tập còn tự túc lương thực, thực phẩm.

    Trong thương nghiệp, phụ nữ tiểu thương nghiệp, công thương đã góp phần vào phong trào phát triển sản xuất. Chị em đã hùn vốn kinh doanh hàng nội hóa và khai thác các nguồn hàng, làm tốt khâu giao lưu hàng hóa giữa vùng tự do và vùng tạm bị chiếm góp phần đáng kể vào việc tiếp tế cho kháng chiến.

    Trong nông nghiệp, nếu như trước đây, dưới xã hội cũ người phụ nữ chỉ biết đến lao động nông nghiệp truyền thống thì nay, trong thời kỳ cách mạng, thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội người phụ nữ tham gia vào tất cả các ngành nghề của xã hội. Họ có thể đảm nhiệm những công việc của nam giới trong các nhà máy, họ có thể lãnh đạo các cơ sở sản xuất.. một cách hiệu quả. Báo cáo tại Hội nghị chính trị đặc biệt, ngày 26/03/1964 có viết: "Phụ nữ ta có thành tích lớn trong sản xuất nông nghiệp và công nghiệp; có nhiều anh hùng chiến sĩ thi đua, đội trưởng sản xuất trong các nhà máy, chủ nhiệm hợp tác xã, đội trưởng dân quân, bác sĩ, giáo viên.. rất giỏi" 1 .

    Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đoàn phụ nữ Cứu quốc và Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã động viên chị em vượt qua mọi khó khăn thực hiện nhiệm vụ trung tâm là sản xuất nông nghiệp đảm bảo cho bộ đội "ăn no đánh thắng".

    Bên cạnh đó, phụ nữ còn tham gia vào các phong trào đấu tranh chống địch vơ vét cướp bóc. Chị em đã đấu tranh bằng nhiều hình thức từ đưa đơn, cử đại biểu gặp thị trưởng đến biểu tình trước tòa thị chính, tổng bãi thị. V. V.. Chị em tiểu thương chợ Đồng Xuân (Hà Nội), và nhiều chợ khác đã tổ chức hàng trăm cuộc bãi thị để phản đối tăng thuế. Ở Hải Phòng, chỉ trong vòng 6 tháng đầu năm 1954 đã nổ ra 50 cuộc đấu tranh chống thuế.

    Trong sinh hoạt chính trị, đông đảo phụ nữ được Đảng rèn luyện và giáo dục đã phân biệt được rõ đâu là cách mạng chân chính; đâu là bọn phản động nhằm phá hoại chính quyền. Ở Hòn Gai, bọn phản động tổ chức ám sát, bắt cóc, giết hại cán bộ ta một cách trắng trợn. Phụ nữ Hòn Gai đã vượt qua mọi khó khăn nguy hiểm bảo vệ cán bộ cách mạng. Đoàn phụ nữ cứu quốc vận động các tầng lớp phụ nữ tham gia xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng.

    Bên cạnh việc đóng góp sức mình vào đấu tranh giành chính quyền, xây dựng đất nước, khẳng định tiếng nói của mình trong quản lí tổ chức bộ máy Nhà nước, trên diễn đàn chính trị. Phụ nữ Việt Nam vẫn chú trọng đến chăm sóc gia đình, làm tròn thiên chức người mẹ, người vợ. Đã có những gương nữ anh hùng vừa chiến đấu, vừa sản xuất, vừa nuôi dạy con cái thay thế vai trò của người đàn ông trong gia đình. Họ biết đoàn kết nhau lại, tổ chức những tổ đổi công trong sản xuất, tổ thi đua, gây dựng các các quỹ tiết kiệm cho kháng chiến, phát động những phong trào như "ba đảm đang". Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến những người Mẹ chiến sĩ suốt đời hi sinh cho dân tộc.


    Trong đấu tranh giải phóng miền Nam, những người phụ nữ cũng đóng vai trò vô cùng to lớn. Họ không chỉ trực tiếp tham gia lực lượng vũ trang vào miền Nam chiến đấu, họ còn góp sức mình tăng gia sản xuất cung cấp lương thực thực phẩm chi viện cho "tiền tuyến lớn".

    Phụ nữ là lực lượng đấu tranh quan trọng trong vùng địch kiểm soát. Phần lớn nam giới ở đấy đã ra vùng tự do, đi bộ đội, chỉ một bộ phận nhỏ ở lại là hoạt động bí mật. Địch tăng cường cướp phá, bóc lột, bần cùng hóa, phục hồi các hủ tục mê tín, dị đoan làm trụy lạc thanh niên. Chúng đặt ra nhiều tổ chức chính trị, tôn giáo để lừa bịp quần chúng. Nhận thức sâu sắc âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, các cán bộ phụ nữ đi vào quần chúng, thông qua những chị em cốt cán và cảm tình với kháng chiến, vạch rõ âm mưu của địch, tiến lên biến những tổ chức của địch thành những tổ chức hoạt động cho ta, hoặc phá hẳn những tổ chức ấy (nếu là tổ chức chính trị).

    Phụ nữ hưởng ứng lời kêu gọi của Chính phủ quyên góp vào "Quỹ độc lập" với tấm lòng tha thiết và tích cực nhất chi viện cho miền Nam. Trong "tuần lễ vàng" người có nhiều góp nhiều, người có ít góp ít. Các bà, các chị đã đem cả tư trang ngày cưới góp vào "tuần lễ vàng" để góp phần cho Chính phủ mua sắm vũ khí.. Các cụ, các mẹ góp cả mâm thau, nồi đồng, đỉnh đồng, lư đồng để Chính phủ đúc súng đạn..

    Có thể tự hào rằng, phụ nữ Việt Nam có vai trò vô cùng quan trọng trong gia đình, trong đấu tranh cách mạng, trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Đúng như lời khẳng định của "Ông C. Mác nói rằng: Ai đã biết lịch sử thì biết rằng muốn sửa sang xã hội mà không có phụ nữ giúp vào, thì chắc chắn không làm nổi" 1 . Hồ Chí Minh đã dành cho những người phụ nữ Việt Nam anh hùng quả cảm trong lao động sản xuất và chiến đấu tám chữ vàng: "Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang" để minh chứng cho điều đó.

    2 . Sđd. T10, tr88

    1 . Sđd. T6, tr473

    1 . Sđd. T6, tr431

    2 . Sđd. T5, tr689

    1 . Sđd. T10, tr85

    1 . Sđd. T11, tr225

    1 . Sđd. T2, tr288


    - Còn tiếp -
     
  4. Góc bình yên

    Bài viết:
    846
    NỘI DUNG

    CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI PHÓNG PHỤ NỮ

    1.3 Sự nghiệp giải phóng phụ nữ phải do bản thân phụ nữ làm chủ

    Download:

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Phụ nữ không chỉ trông mong công cuộc giải phóng mình vào người khác, mà họ phải tự mình làm cuộc cách mạng to và khó này. Họ cần thay đổi nhận thức cổ hủ, lạc hậu mà xã hội cũ đã nhồi nhét vào trong suy nghĩ, đầu óc của họ. Họ cần có nhận thức mới, nhận thức đúng đắn về vai trò của mình trong gia đình và ngoài xã hội, mặt khác phải không ngừng cố gắng vươn lên hoàn thiện bản thân.. Để có thể đảm nhiệm trọng trách lớn lao của giới mình. Làm tròn nhiệm vụ một cách xuất sắc.

    Trước tiên, phụ nữ cần phải nhận thức đúng vị trí, vai trò của mình

    Theo Hồ Chí Minh công cuộc giải phóng phụ nữ không chỉ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội mà còn là trách nhiệm của bản thân phụ nữ. Do đó, phụ nữ cần phải nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò cũng như trách nhiệm của mình. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh còn đề cập đến việc phụ nữ phải đoàn kết để có thể thực hiện thành công mỗi công việc, Người nhắc nhở: "Mỗi một người và tất cả phụ nữ phải hăng hái nhận lấy trách nhiệm của người làm chủ đất nước, tức là phải thi đua tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm để xây dựng nước nhà, xây dựng Chủ nghĩa xã hội" 1 . Theo Người: "Muốn làm trọn nhiệm vụ vẻ vang đó, phụ nữ ta phải xóa bỏ cái tâm lý tự ti và ỷ lại, phải có ý chí tự cường, tự lập; Phải nâng cao lên mãi trình độ chính trị, văn hóa, kỹ thuật" 2, bởi nếu không đấu tranh thì "những đồng chí nam có thành kiến với phụ nữ sẽ không tích cực sửa chữa" 3 . Trước lúc đi xa, Người vẫn không quên nhắc nhở điều đó: "Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ" 4 . Nhằm giải phóng phụ nữ một cách toàn diện và triệt để.

    Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tôn trọng phụ nữ, đánh giá đúng vị trí, vai trò của phụ nữ, song Người cũng rất nghiêm khắc đối với phụ nữ, Người nhắc nhở phụ nữ phải ý thức được vai trò, vị thế của mình mà phấn đấu cho mình và cho dân tộc. Người nói: "Đảng, Chính phủ và Bác mong phụ nữ tiến bộ nhiều hơn nữa, hiện nay trong các ngành, số phụ nữ tham gia còn ít" 1 . Vì vậy, Người nhắc nhở phụ nữ: "Không nên ỷ lại vào Đảng, Chính phủ mà phải quyết tâm học tập, phát huy sáng kiến, tin tưởng ở khả năng mình, nâng cao tinh thần tập thể, đoàn kết giúp đỡ nhau để giải quyết mọi khó khăn của phụ nữ trong công tác chính quyền" 2 . Người đã chỉ cho phụ nữ Việt Nam thấy rằng, muốn thật sự giải phóng giới mình, phụ nữ không nên chỉ trông chờ vào người khác mà "bản thân chị em phụ nữ phải có chí khí tự cường tự lập, phải đấu tranh để bảo vệ quyền lợi của mình" 3 .


    Thứ hai, phụ nữ phải biết tự vươn lên, tự hoàn thiện mình

    Cùng với việc tạo mọi điều kiện cho chị em phụ nữ được học tập văn hóa, nâng cao trình độ, vươn lên làm chủ bản thân, làm chủ đất nước, Người luôn nhắc nhở: "Phụ nữ ta phải xóa bỏ cái tâm lý tự ti và ỷ lại, phải có ý chí tự cường, tự lập; phải nâng cao lên mãi trình độ chính trị, văn hóa, kỹ thuật" 4 Và "Chị em phụ nữ ta phải nhận rõ địa vị người làm chủ nước nhà; phải có quyết tâm mới, đạo đức mới, tác phong mới để làm trọn nghĩa vụ mới của mình là góp phần xứng đáng vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh" 5 .

    Sự nghiệp giải phóng phụ nữ không thể thành công, nếu chỉ có điều kiện đưa đến, nghĩa là không phải chỉ đạt được khi có sự bình đẳng về kinh tế, chính trị, gia đình, xã hội.. khi có được nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò trong gia đình và xã hội, mà điều chủ yếu là chị em phải tự vươn lên hăng hái xung phong đạp bằng mọi khó khăn trở ngại, khắc phục mọi quan niệm tự ty, an phận để góp phần giành lấy quyền lợi cho mình, khẳng định vị trí, vai trò của mình trong gia đình và xã hội.

    Trong xã hội phong kiến, luật tam tòng buộc người phụ nữ phụ thuộc hoàn toàn vào đàn ông một cách hà khắc. Trong xã hội thực dân, phong kiến, thân phận người phụ nữ lại càng cùng cực hơn. Từ thực tế đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch trần tội ác của kẻ đi xâm lược và kẻ bán nước cầu vinh đối với người phụ nữ: "Dưới chế độ thực dân phong kiến, phụ nữ bị áp bức tồi tệ, ngoài xã hội, phụ nữ bị coi khinh như nô lệ, ở gia đình, họ bị kìm hãm trong xiềng xích tam tòng" 1 . Vì thế muốn sự nghiệp giải phóng phụ nữ thành công, theo Hồ Chủ tịch thì: Giành quyền bình đẳng, chống sự phân biệt đối xử với phụ nữ không phải ai làm hộ cho phụ nữ mà chính họ phải vươn lên tự giải phóng, đứng lên đấu tranh cho quyền lợi của mình, "về phần mình, chị em phụ nữ không nên ngồi chờ Chính phủ, chờ Đảng ra Chỉ thị giải phóng cho mình, mà tự mình phải tự cường, phải đấu tranh" 2, lợi quyền của phụ nữ phải thực sự được đảm bảo. Bản thân phụ nữ lại phải đấu tranh, tự cường, tự lập để giữ lấy quyền của mình. Có thể thấy rằng, Bác Hồ luôn luôn thể hiện lòng tin vào sức mạnh quần chúng, vào năng lực nhiệt tình cách mạng của phụ nữ, dù đó là những người phụ nữ mà từ trước đến nay bị coi là hèn kém, lạc hậu, dốt nát. Người nói: "Từ ngày cách mạng thành công, kháng chiến thắng lợi, Đảng ta và Chính phủ đã làm cho gái và trai bình quyền, các dân tộc bình đẳng" 3, "pháp luật của Nhà nước ta cũng quy định đàn bà cũng có quyền lợi như đàn ông. Để thực sự bình quyền, phụ nữ phải ra sức phấn đấu" 4 . Như vậy, một khi đã nhận thức được quyền lợi chính đáng, khả năng to lớn của mình, với sức mạnh và trí thông minh, chị em sẽ vùng dậy, đoàn kết thành động lực mạnh mẽ đập tan xiềng xích nô lệ, hòa mình vào công cuộc xây dựng nền kinh tế mới, chế độ mơi, nền văn hóa mới và con người mới vì hạnh phúc gia đình, hạnh phúc của chính người phụ nữ là sự phồn vinh của đất nước. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh viết: "Trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, phụ nữ vô cùng đảm đang, đã đóng góp rất nhiều trong chiến đấu và sản xuất. Đảng, Chính phủ cần có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày càng thêm nhiều phụ nữ phụ trách nhiều công việc kể cả lãnh đạo. Phụ nữ phải phấn đấu vươn lên, đây là thực sự là một cuộc cách mạng" 1 .

    Như vậy, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, cách mạng chỉ có thể thắng lợi và đứng vững khi nó được tự bảo vệ và sự nghiệp giải phóng phụ nữ có thể thực hiện triệt để khi chị em phụ nữ biết tự bảo vệ, tự giải phóng.

    Có thể nói, lịch sử thế giới nói chung và lịch sử Việt Nam nói riêng chưa từng có vị lãnh tụ nào lại sâu sắc và tận tâm vì công cuộc giải phóng phụ nữ đến như vậy, Hồ Chủ tịch không chỉ thể hiện sự quan tâm của mình đến công cuộc giải phóng cho người phụ nữ thông qua việc soạn thảo những văn bản có tính chất pháp lý quy định quyền lợi, nghĩa vụ của người phụ nữ, Người còn để tâm đi sâu tìm hiểu công cuộc giải phóng phụ nữ trong từng đơn vị, cơ sở. Không chỉ nghe những báo cáo của các đơn vị về việc tạo điều kiện cho phụ nữ được tham gia công việc xã hội, Người còn trực tiếp đến các cơ sở, lắng nghe những tâm tư, những khó khăn của chị em phụ nữ, trực tiếp đưa ra những lời phê bình, những kiến giải cho công cuộc giải phóng phụ nữ, đào tạo bồi dưỡng phụ nữ về mọi mặt. Điều đó đã làm lên một nhân cách lớn, một tư tưởng lớn của vị cha già dân tộc. Hồ Chí Minh mãi mãi là tấm gương ngời sáng, là ngọn đèn hải đăng soi sáng đường cho chúng ta đi hôm nay, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh nói chung và định hướng cho công cuộc giải phóng phụ nữ một cách hoàn toàn nói riêng.


    1 . Sđd. T10, tr295

    2 . Sđd. T10, tr295

    3 . Sđd. T10, tr208

    4 . Sđd. T12, tr504

    1 . Sđd. T10, tr89

    2 . Sđd. T10, tr185

    3 . Sđd. T11, tr259

    4 . Sđd. T10, tr195

    5 . Sđd. T10, tr295

    1 . Sđd. T10, tr325

    2 . Sđd. T10, tr524

    3 . Sđd. T11, tr214

    4 . Sđd. T11, tr214

    1 . Sđd. T12, tr504


    - Còn tiếp -
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...