Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng vào xây dựng văn hóa Đảng trong thời kỳ đổi mới

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Góc bình yên, 24 Tháng bảy 2022.

  1. Góc bình yên

    Bài viết:
    846
    VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HOÁ ĐẢNG VÀO

    XÂY DỰNG VĂN HOÁ ĐẢNG TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI


    ***

    [​IMG]


    MỤC LỤC

    Bấm để xem
    Đóng lại
    MỞ ĐẦU

    1. Tính cấp thiết của đề tài

    2. Tình hình nghiên cứu

    3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

    4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

    5. Phương pháp nghiên cứu

    6. Điểm mới của đề tài

    7. Kết cấu của đề tài


    NỘI DUNG

    Chương 1:

    TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA ĐẢNG

    1.1. Tổng quan về văn hóa Đảng

    1.1. 1. Khái niệm văn hóa, văn hóa Đảng

    1.1. 2. Bản chất và cấu trúc của văn hóa Đảng


    1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng

    1.2. 1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết tinh của những giá trị văn hóa dân tộc và nhân loại

    1.2. 2. Mục tiêu của Đảng là những giá trị văn hóa cao đẹp của dân tộc và thời đại

    1.2. 3. Hạt nhân cốt lõi của văn hóa Đảng là chủ nghĩa Mác – Lênin

    1.2. 4. Đạo đức của Đảng là hiện thân giá trị văn hóa cao quý của loài người

    1.2. 5. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức, sinh hoạt của Đảng là sản phẩm văn hóa cao đẹp của Đảng


    Chương 2:

    XÂY DỰNG VĂN HÓA ĐẢNG TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA ĐẢNG

    2.1. Thực trạng văn hóa Đảng ở nước ta trong thời kỳ đổi mới

    2.1. 1. Những thành tựu đạt được trong xây dựng văn hóa Đảng

    2.1. 2. Một số yếu kém xét ở góc độ văn hóa Đảng


    2.2. Những giải pháp nhằm vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng vào xây dựng văn hóa Đảng trong thời kỳ đổi mới

    2.2. 1. Tăng cường và nâng cao hiệu quả giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

    2.2. 2. Kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh

    2.2. 3. Thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo và sinh hoạt của Đảng

    2.2. 4. Nâng cao phẩm chất đạo đức và năng lực công tác cho cán bộ, đảng viên trong thời kỳ đổi mới

    2.2. 5. Tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng chống quan liêu tham nhũng làm trong sạch hàng ngũ Đảng


    KẾT LUẬN

    DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

    - Còn tiếp -
     
    Chỉnh sửa cuối: 4 Tháng tám 2022
  2. Góc bình yên

    Bài viết:
    846
    MỞ ĐẦU

    1. Tính cấp thiết của đề tài

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930, là sự kiện trọng đại trong tiến trình lịch sử của cách mạng Việt Nam. Sự kiện trọng đại đó gắn liền với Nguyễn Ái Quốc. Sau nhiều năm bôn ba tìm chân lý cách mạng cứu nước, cứu dân. Cuối cùng, Người đã tìm ra con đường cách mạng nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người – đó chính là con đường cách mạng vô sản. Và trước tiên Hồ Chí Minh khẳng định: "Trước hết phải có đảng cách mệnh.. Đảng có vững cách mạng mới thành công.. cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy" [1] .

    Trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người luôn cho rằng vai trò tiên phong lãnh đạo của Đảng, đường lối cách mạng của Đảng, sự vững mạnh của Đảng, đạo đức trong sạch và sức chiến đấu của Đảng – Xét dưới góc độ văn hóa Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã dồn nhiều tâm sức cho sự nghiệp xây dựng đạo đức, giáo dục và rèn luyện Đảng ta thành một đảng thật sự cách mạng, thật sự cộng sản, một đảng macxit chân chính và sáng tạo, đủ sức đáp ứng những đòi hỏi phức tạp, kết hợp ba cuộc giải phóng, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người, nhằm thực hiện hai mục tiêu cao cả độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, những vấn đề liên quan đến văn hóa Đảng được Người đề cập nhiều trong tác phẩm của mình và ngày càng được hoàn thiện. Điều này được thể hiện sâu sắc khi Người đi đến kết luận: "Đảng ta là đạo đức, là văn minh" [2] trong dịp kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng năm 1960.

    Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là đạo đức, là văn minh. Với quan điểm như vậy, Đảng ta cũng là biểu tượng sáng ngời của văn hóa, do đó hoàn toàn có thể nói về văn hóa Đảng trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

    Vấn đề văn hóa Đảng được đặt ra hơn ba phần tư thế kỷ nay, thông qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu chúng ta đã đạt được những thành tựu nghiên cứu nhất định liên quan đến phạm trù văn hóa Đảng. Tuy nhiên, hiện nay về nhận thức chưa có sự thống nhất chung cho vấn đề này. Văn hóa Đảng đang là diễn đàn tranh luận của các nhà nghiên cứu khoa học, thậm chí còn có cách nhìn nhận, đánh giá chưa thỏa đáng cho việc luận giải phạm trù văn hóa Đảng, đặc biệt là tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng. Vấn đề này đặt ra câu hỏi Hồ Chí Minh có tư tưởng về văn hóa Đảng hay không? Hiểu như thế nào về văn hóa Đảng trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng là gì? Để trả lời cho câu hỏi này có nhiều cách đánh giá được các nhà khoa học nghiên cứu trên nhiều bình diện khác nhau. Với đề tài: "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng vào xây dựng văn hóa Đảng trong thời kỳ đổi mới", tác giả mong muốn bước đầu tìm hiểu, làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng, và việc vận dụng tư tưởng của Người về vấn đề này vào xây dựng văn hóa Đảng trong giai đoạn hiện nay, trên tinh thần kế thừa và phát huy các thành tựu của các nhà khoa học đi trước, kết hợp với tri thức và cách đánh giá mới của tác giả.

    Toàn cầu hóa trong điều kiện hiện nay là quá trình có tính hai mặt vừa tích cực, vừa tiêu cực; vừa là thời cơ, vừa là thách thức; vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Vì vậy, việc tìm hiểu về văn hóa Đảng; tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng để vận dụng một cách phù hợp và sáng tạo trong bối cảnh hiện nay là một việc làm cấp thiết. Điều đó, cũng giúp chúng ta lý giải và minh chứng tính đúng đắn và phù hợp với quy luật vận động của dân tộc và thời đại. Khi chúng ta khẳng định và thừa nhận tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng.

    Văn hóa Đảng là thế giới quan khoa học, là hệ tư tưởng của Đảng. Thế giới quan đó, hệ tư tưởng đó là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời văn hóa Đảng còn bao gồm những giá trị tinh thần đạo đức, những phẩm chất cao đẹp mà mỗi cán bộ, đảng viên cần phải có. Mặc dù, xét về mặt nhận thức là như vậy nhưng trong thực tế do tác động của cơ chế thị trường trong giai đoạn quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay và ảnh hưởng của những biến động trên thế giới đã làm cho việc thực hiện và hoàn thiện văn hóa Đảng gặp rất nhiều khó khăn. Đặc biệt nghiêm trọng là một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã phạm phải những tiêu cực, tha hóa trên các mặt tư tưởng – chính trị, đạo đức, lối sống theo giác độ văn hóa Đảng. Điều đó, gây mất niềm tin của quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, cản trở sự phát triển của cách mạng Việt Nam.

    Để văn hóa Đảng thực sự đi vào thực tiễn, củng cố và tăng cường địa vị lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng trong công cuộc xây dựng nước nhà theo hướng "dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh".. Tác giả cho rằng việc nghiên cứu đề tài: "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng vào xây dựng văn hóa Đảng trong thời kỳ đổi mới" đang là một yêu cầu cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn.

    [1] . Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2009, t. 2, tr. 267.

    [2] . Sđd: T. 10, tr. 5.

    - Còn tiếp -
     
    Chỉnh sửa cuối: 31 Tháng bảy 2022
  3. Góc bình yên

    Bài viết:
    846
    MỞ ĐẦU

    2. Tình hình nghiên cứu

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ở Việt Nam, khái niệm "văn hóa Đảng" chưa được đề cập chính thức trong các Văn kiện Đảng. Trên bình diện lý luận, vấn đề "văn hóa Đảng" và tư tưởng Hồ Chí Minh về "văn hóa Đảng" còn được ít người đề cập đến. Các công trình khoa học liên quan đến vấn đề này, có thể kể đến như:

    * Một số ấn phẩm của Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia và Nhà xuất bản Đà Nẵng

    Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng của PGS. TS Phạm Ngọc Anh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010; Bàn về văn hóa Đảng của Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương, Hà Nội, 2005; Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mớ i của Phân viện Đà Nẵng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng, 2000.

    * Một số bài viết đăng trên các tạp chí

    - Tạp chí Tư tưởng – Văn hóa: Tư tưởng đạo đức, lối sống – Vấn đề quan trọng nhất trong xây dựng văn hóa Đảng hiện nay, của GS. Nguyễn Đức Bình, số 2, 2005; Về phương pháp luận tiếp cận vấn đề văn hóa Đảng, của GS. Nguyễn Đức Bình, số 12, 2004; Muốn văn hóa dân tộc phát triển thì văn hóa Đảng phải đi đầu, của Nguyễn Khoa Điềm, số 2, 2005; Xây dựng văn hóa Đảng thực chất là giữ gìn và phát huy vai trò gương mẫu của tổ chức Đảng và cán bộ, đảng viên trước toàn dân, của Nguyễn Khánh, số 12, 2004; Lịch sử Đảng và văn hóa Đảng của Nguyễn Trọng Phúc, số 2, 2005; Văn hóa Đảng và vấn đề nâng cao vai trò người đảng viên, của Văn Đức Thanh – Phạm Văn Thắng, số 2, 2005; Một số nội dung cơ bản xây dựng văn hóa Đảng, của Lê Duy Trí, số 3, 2005; Về văn hóa Đảng và việc vận dụng xây dựng văn hóa trong các tổ chức Đảng, của Hồng Vinh, số 12, 2004; Xây dựng văn hóa Đảng từ cơ sở, của Bùi Trọng Vị, số 4, 2004.

    - Tạp chí Văn hóa quân sự: Một vài cảm nghĩ về văn hóa Đảng của Ngô Tiến Ban, số 1, tháng 9 – 2005.

    - Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội: Đảng – những vấn đề xây dựng Đảng và văn hóa Đảng trong tình hình hiện nay, (Tổng thuật) số 1, 2, năm 1993.

    - Tạp chí Xây dựng Đảng: Văn hóa chính trị - Một cách nhìn trong thời kỳ đổi mới, của Trần Đình Huỳnh, số 10, 1998.

    - Tạp chí Lý luận chính trị: Về văn hóa chính trị, của Văn Hải, số 5, 2001.

    - Tạp chí Lịch sử Đảng: Suy nghĩ về văn hóa chính trị Hồ Chí Minh, của Bùi Đình Phong, số 11, 1998; Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh, đặt vấn đề nghiên cứu, của Phạm Xanh, số 7, 1998.

    * Một số bài viết đăng trên Báo Hà Nội mới:

    Tư tưởng Hồ Chí Minh về đường lối đổi mới của Đảng trong chiến lược phát triển Văn hóa, của Hoàng Chí Bảo, ngày 29 – 03 – 1998; Đôi điều về văn hóa Đảng, của Đỗ Công Đinh, ngày 04 – 05 – 2005.

    Các ấn phẩm và bài viết trên mới chỉ dừng lại ở dạng nêu vấn đề, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng khi nói về văn hóa chính trị. Còn rất ít những công trình nghiên cứu chuyên biệt tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng. Tuy nhiên, đây là nguồn tư liệu quý báu để tác giả học hỏi, kế thừa làm cơ sở lý luận để vận dụng triển khai trong nghiên cứu đề tài: "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng vào xây dựng văn hóa Đảng trong thời kỳ đổi mới" .

    - Còn tiếp -
     
    Chỉnh sửa cuối: 31 Tháng bảy 2022
  4. Góc bình yên

    Bài viết:
    846
    MỞ ĐẦU

    3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

    Bấm để xem
    Đóng lại
    3.1. Mục đích nghiên cứu

    Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng, và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng vào xây dựng văn hóa Đảng trong thời kỳ đổi mới, nhằm phát huy vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước phù hợp với xu thế vận động của dân tộc và thời đại.


    Bấm để xem
    Đóng lại
    3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

    Làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng

    Tìm hiểu thực trạng văn hóa Đảng ở nước ta trong thời kỳ đổi mới

    Trên cơ sở đó đưa ra những khuyến nghị nhằm vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng vào xây dựng văn hóa Đảng trong thời kỳ đổi mới.

    4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

    Bấm để xem
    Đóng lại
    4.1. Đối tượng nghiên cứu

    Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng; và vận dụng tư tưởng đó vào xây dựng văn hóa Đảng ở nước ta trong thời kỳ đổi mới.


    Bấm để xem
    Đóng lại
    4.2. Phạm vi nghiên cứu

    Nghiên cứu các quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng.

    Nghiên cứu xây dựng văn hóa Đảng ở nước ta trong thời kỳ đổi mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng.

    5. Phương pháp nghiên cứu

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Phương pháp chủ yếu mà tác giả sử dụng là: Phương pháp luận duy vật biện chứng – duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin.

    Ngoài ra tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học khác như: Phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp lịch sử và logic, phương pháp so sánh.


    6. Điểm mới của đề tài

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Góp phần làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng; xây dựng văn hóa Đảng trong thời kỳ đổi mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng.


    7. Kết cấu của đề tài

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo đề tài gồm có 2 chương. Cụ thể là:

    Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng

    Chương 2: Xây dựng văn hóa Đảng ở nước ta trong thời kỳ đổi mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng.


    - Còn tiếp -
     
    Chỉnh sửa cuối: 6 Tháng tám 2022
  5. Góc bình yên

    Bài viết:
    846
    NỘI DUNG

    Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA ĐẢNG

    1.1. Tổng quan về văn hóa Đảng

    1.1. 1. Khái niệm văn hóa, văn hóa Đảng


    Download:

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Một là; khái niệm văn hóa

    Văn hóa là sản phẩm sáng tạo của con người, có từ thuở bình minh của loài người. Ở phương Đông, từ "văn hóa" đã có trong đời sống ngôn ngữ từ rất sớm. Trong Chu Dịch, quẻ Bi đã có từ văn và từ hóa. Người sử dụng từ văn hóa sớm nhất là Lưu Hướng, thời Tây Hán với nghĩa như là một phương thức giáo dục con người. Theo tiếng Hán thì văn nghĩa là vẻ đẹp của muông thú, là vằn lông, vẻ đẹp của con người là lời hay ý đẹp, hóa là giáo hóa, văn hóa là hóa, là sửa sang, trau dồi thành đẹp đẽ hơn. Ở phương Tây, văn hóa bắt nguồn từ "từ Curula" là trồng trọt, trong xã hội có loại trồng vật chất, có loại trồng tinh thần, vun chồng tinh thần ấy là văn hóa. Tuy vậy, xác định và sử dụng khái niệm văn hóa cũng thay đổi theo thời gian và không gian.

    Vào thế kỷ XIX, thuật ngữ văn hóa được những nhà nhân loại học dùng như một danh từ chính. Bởi vì, họ cho rằng bản chất văn hóa hướng về trí lực và sự vươn lên, sự phát triển tạo thành văn minh. E. B. Taylo là đại diện của họ, ông định nghĩa văn hóa rằng: Văn hóa là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, phong tục, những khả năng vằ tập quán khác nhau mà con người có được với tính cách là mọi thành viên của xã hội.

    Ở thế kỷ XX, khái niệm văn hóa thay đổi theo F. Beo ý nghĩa văn hóa được quy định do khung giải thích riêng chứ không phải bắt nguồn từ cứ liệu cao siêu nào, vì thế sự khác nhau về mặt văn hóa từng dân tộc cũng không theo tiêu chuẩn trí lực. Đó cũng là tương đối luận của văn hóa. Văn hóa không xét ở mức độ cao hay thấp mà xét ở góc độ khác biệt.

    UNESCO đưa ra khái niệm văn hóa: Văn hóa hôm nay có thể là tổng thể những nét khác biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quy định tính cách của một xã hội hay của một nhóm trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống của các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người những khả năng suy xét về bản thân. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thiện đặt ra để xem xét các thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt trội lên bản thân.

    Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói về văn hóa như sau: "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích sống của loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn hóa, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa" [1] .

    GS. Phan Ngọc đưa ra định nghĩa văn hóa: Không có vật gì gọi là văn hóa cả và ngược lại bất kỳ vật gì cũng có cái mục đích văn hóa. Văn hóa là một quan hệ. Nó là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng và thế giới thực tại. Quan hệ ấy biểu hiện thành kiểu lựa chọn riêng của mỗi tộc người, mỗi cá nhân so với dân tộc khác, một cá nhân khác. Nét khác biệt giữa kiểu lựa chọn làm cho chúng khác nhau, tạo thành những nền văn hóa khác nhau có độ khúc xạ. Tất cả mọi cái mà tộc người tiếp thu hay sáng tạo, đều có một độ khúc xạ riêng có mặt ở mọi lĩnh vực và rất khác độ khúc xạ ở một tộc người khác.

    Trên cơ sở vừa phân tích các định nghĩa và dựa vào hệ thống các giá trị. PGS. TS. Trần Ngọc Thêm đưa ra một định nghĩa văn hóa như sau: Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra và tích lũy được trong quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa môi trường tự nhiên và môi trường xã hội của mình. Như vậy, ở mỗi khía cạnh nghiên cứu khác nhau sẽ đưa ra những định nghĩa khác nhau về văn hóa. Tùy thuộc vào khía cạnh nghiên cứu của từng tác giả.

    Ở góc độ nghiên cứu của đề tài này, cho thấy văn hóa như một khái niệm bao trùm, trong đó có văn hóa chính trị, văn hóa Đảng.. Mang đậm bản sắc riêng của một cộng đồng được thể hiện ra trong lịch sử tồn tại và phát triển, bản sắc cộng đồng thể hiện trong hệ thống giá trị đặc trưng, là cái cốt lõi của văn hóa. Hệ giá trị là những gì các thành viên cộng đồng quan tâm, tin tưởng thuộc phạm vi tốt và xấu, mong muốn hoặc không đáng mong muốn, được biểu hiện trong thế giới quan chính trị, đạo đức, lối sống, thói quen, tập quán. Hệ giá trị đó thông qua cơ chế tác động đã chuyển biến thành các chuẩn mực phổ cập, là công cụ định hướng cho hoạt động của các thành viên trong cộng đồng.

    Hệ giá trị do một cộng đồng tạo nên có tính ổn định lâu dài và tương đối bền vững. Lịch sử xã hội loài người phát triển theo xu hướng tiến lên, trong sự phát triển và tiến bộ đó, các giá trị nằm trong hệ giá trị thường không biến mất mà chuyền hóa thành các giá trị của thời đại sau, theo quy luật kết thừa, sáng tạo mang tính phù hợp với xã hội đương đại. Đó chính là quan hệ giữa truyền thống và hiện đại là biểu hiện đặc trưng của tính liên tục và liền mạch của văn hóa.


    Hai là; khái niệm văn hóa Đảng

    Theo PGS. TS. Phạm Ngọc Anh thì: "Văn hóa Đảng là hệ thống các giá trị đặc trưng, biểu hiện tinh thần, ý chí thực tiễn hoạt động của Đảng, ở mọi lúc, mọi nơi, vươn tới mục tiêu mang ý nghĩa văn hóa toàn diện của mình xét trên tầm vi mô hay vĩ mô" [2] . Như vậy, theo định nghĩa về văn hóa Đảng của PGS. TS. Phạm Ngọc Anh, văn hóa Đảng đã khẳng định tổ chức và hoạt động của Đảng có sắc thái văn hóa, thể hiện Đảng là chủ thể của văn hóa. Thông qua hoạt động, Đảng đã chứng tỏ tính tích cực, sáng tạo của mình trong việc xây dựng những giá trị văn hóa đặc trưng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

    Văn hóa Đảng thuộc loại hình cao nhất trong các loại hình văn hóa. Đó là thế giới quan khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, là hệ tư tưởng của Đảng. Hệ tư tưởng đó chính là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng, đó cũng chính là nền tảng văn hóa Đảng ta.

    Văn hóa Đảng bao gồm những giá trị tinh thần, đạo đức, những phẩm chất cao đẹp của mỗi cán bộ, đảng viên. Đó là sự giác ngộ lý tưởng, là niềm tin cộng sản; là ý chí chiến đấu và tinh thần tiên phong gương mẫu trong hành động; là đức hy sinh, một lòng một dạ phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, phục vụ sự nghiệp cách mạng; là sự gắn bó máu thịt với nhân dân, là tấm gương về lòng yêu nước, tinh thần nhân đạo và chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân. Có thể nói, văn hóa của Đảng đặc trưng bởi hoạt động của những người có đạo đức cách mạng và lý tưởng xã hội chủ nghĩa mà Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời, đại diện tiêu biểu nhất cho những điều vừa nói.

    Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng thực chất là một sự nghiệp văn hóa ở các khâu có liên quan đến lãnh đạo, hoạt động của Đảng. Nhằm thực hiện lý tưởng của Đảng xây dựng xã hội không có áp bức, bóc lột, giải phóng con người một cách hoàn toàn, triệt để. Như vậy, con người và sự phát triển toàn diện của con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với lý tưởng hành động của Đảng đã trở thành trung tâm. Muốn hiện thực điều đó trong bối cảnh hiện nay, tất yếu phải xây dựng và hiện thực văn hóa Đảng trong đời sống xã hội.

    Trải qua quá trình hình thành và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dịp kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã đi đến: "Đảng ta là đạo đức, là văn minh" [3] . Với quan điểm như vậy, Đảng cũng chính là biểu tượng sáng ngời của văn hóa. Vì lẽ đó, Đảng Cộng sản Việt Nam hơn 80 năm qua luôn hướng tới xây dựng một nền văn hóa nhân đạo, tức là một nền văn hóa có những cơ chế cổ vũ và xác lập tính cộng đồng về các lợi ích, bình đẳng và hài hòa về các giá trị, không có giá trị nào độc quyền, mỗi người có năng lực, có khả năng đều được khuyến khích và tạo điều kiện phát triển, mỗi cá nhân thông qua khả năng phát triển lại từng bước hoàn thiện nhân cách làm người. Từ đó, hình thành nên đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ đức, đủ tài đảm nhiệm sứ mệnh vô cùng vẻ vang nhưng cũng không ít khó khăn thách thức, lãnh đạo nhân dân xây dựng nước nhà tiến lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi mục tiêu "dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh".

    [1] . Sđd: T. 3, tr. 431.

    [2] . PGS. TS Phạm Ngọc Anh, Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010.

    [3] . Sđd: T. 10, tr. 5.


    - Còn tiếp -
     
    Chỉnh sửa cuối: 6 Tháng tám 2022
  6. Góc bình yên

    Bài viết:
    846
    NỘI DUNG

    Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA ĐẢNG

    1.1. Tổng quan về văn hóa Đảng

    1.1. 2. Bản chất và cấu trúc của văn hóa Đảng


    Download:

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Một là; bản chất của văn hóa Đảng

    Thứ nhất; Đảng Cộng sản Việt Nam là chủ thể sáng tạo ra những giá trị văn hóa Đảng, thống nhất biện chứng với các giá trị văn hóa dân tộc trên cơ sở kế thừa và phát triển

    Đảng Cộng sản Việt Nam là chủ thể sáng tạo ra những giá trị văn hóa Đảng. Khi các hoạt động của con người hướng tới những mục tiêu cao cả là xây dựng và phát triển con người một cách toàn diện thì các hoạt động đó sẽ tạo nên những giá trị. Nói giá trị là nói đến những thành tựu kết tinh sự sáng tạo của con người trên các hoạt động hướng tới thực hiện mục tiêu đó. Bởi lẽ, văn hóa sinh ra cùng với con người, có mặt trên bất cứ hoạt động nào của con người. Nói đến văn hóa là nói đến con người, là việc phát huy các năng lực bản chất người vào hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội. Trong đó con người là chủ thể sáng tạo, cũng như vậy trong văn hóa Đảng thì Đảng Cộng sản Việt Nam là chủ thể sáng tạo ra những giá trị văn hóa Đảng thống nhất với văn hóa dân tộc thông qua tài năng và đạo đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

    Văn hóa Đảng thống nhất với các giá trị văn hóa dân tộc trên cơ sở kế thừa và phát triển các giá trị văn hóa đã từng có trong lịch sử. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là cơ sở khoa học để chỉ ra những mối liên hệ giữa văn hóa dân tộc và văn hóa Đảng tạo nên một nền văn hóa mới. Nền văn hóa mới đó là kết quả của một quá trình biến đổi to lớn đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định tại Đại hội lần thứ II của Đảng (năm 1951), trong "Báo cáo chính trị" có đoạn: "Xúc tiến công tác văn hóa để đào tạo con người mới và cán bộ mới cho công cuộc kháng chiến kiến quốc. Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hóa đế quốc. Đồng thời phát triển những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc và hấp thu những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam" [1] .

    Văn hóa Đảng phải cắm rễ sâu vào văn hóa dân tộc, hút tinh túy từ nền văn hóa dân tộc. Việc xây dựng văn hóa Đảng phải là một bộ phận quan trọng có tính chất đột phá, trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Ở nước ta hiện nay, chỉ trên cơ sở phát huy những tinh hoa văn hóa dân tộc thì mới có điều kiện xây dựng văn hóa Đảng vững chắc.

    Thứ hai; văn hóa Đảng là một phạm trù văn hóa lãnh đạo hướng vào phục vụ mục tiêu chính trị và mang bản chất của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam

    Văn hóa Đảng là một phạm trù văn hóa lãnh đạo. Đảng ra đời là bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam, lãnh đạo nhân dân đi qua những thăng trầm, biến cố của lịch sử, nhận lấy trách nhiệm vô cùng vẻ vang nhưng cũng không ít khó khăn, trở ngại lãnh đạo nhân dân xây dựng nước nhà tiến lên chủ nghĩa xã hội. Sứ mệnh đó đòi hỏi Đảng và những cán bộ, đảng viên phải có trình độ cao về năng lực, phẩm chất.

    Trong bối cảnh hiện nay, cùng với nhiệm vụ chính trị của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đặt ra yêu cầu Đảng ta phải tiếp tục đổi mới. Hoạt động lãnh đạo của Đảng phải được nâng lên tầm khoa học và nghệ thuật, tức là phải trở thành văn hóa lãnh đạo mang tính định hướng, chỉ đạo hoạt động của Đảng. Văn hóa lãnh đạo được xem là một bộ phận quan trọng của văn hóa Đảng nhằm hình thành một Đảng có đủ sức lãnh đạo nhân dân xây dựng xã hội mới phù hợp với mục đích nhân văn cao cả của văn hóa và khát vọng dân chủ của thời đại.

    Văn hóa Đảng hướng vào thực hiện mục tiêu chính trị. Từ trong bản chất, nền văn hóa mới gắn bó chặt chẽ với chế độ mới. Chế độ mới đòi hỏi một nền văn hóa mới ra đời, sự ra đời và phát triển của nền văn hóa mới càng củng cố và thúc đẩy xã hội mới phát triển. Đó là phép biện chứng diễn ra một cách tự giác thông qua quá trình hoạt động của Đảng tạo dựng và xác lập nên những giá trị văn hóa Đảng. Bài báo của Lênin được viết năm 1905, đã trở thành cương lĩnh hoạt động của những người cộng sản trên lĩnh vực văn hóa, Lênin khẳng định: "Những người cộng sản sẽ xây dựng một nền văn hóa, nghệ thuật công khai gắn chặt với giai cấp vô sản, phục vụ hàng triệu, hàng chục triệu nhân dân lao động" [2] . Trong tư tưởng của Lênin văn hóa cách mạng không thể đứng trên xã hội, đứng ngoài lề xã hội mà phải là một bộ phận hữu cơ của sự nghiệp cách mạng. Cũng như Lênin, Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến đời sống tinh thần của dân tộc. Trong "Thư gửi anh chị em và trí thức Nam Bộ" (ngày 25/3/1947), Bác viết: "Ngòi bút của các bạn cũng là vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính trừ tà, mà anh em văn hóa và trí thức phải làm cũng như là những chiến sĩ anh dũng trong công cuộc kháng chiến để tranh lại quyền thống nhất và độc lập" [3] . Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy mối quan hệ cơ bản giữa văn hóa và chính trị là cực kỳ cần thiết, để văn hóa thực sự trở thành nền văn hóa cách mạng hướng vào phục tùng mục tiêu chính trị.

    Thấm nhuần chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã vận dụng những quan điểm trên một cách sáng tạo vào trong bối cảnh hiện nay. Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Đảng (năm 1991) đã đưa ra chủ trương xây dựng "nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc". Văn hóa Đảng và văn hóa dân tộc có mối quan hệ mật thiết với nhau. Văn hóa Đảng là một bộ phận của nền văn hóa dân tộc, văn hóa dân tộc hướng vào phục vụ mục tiêu chính trị của Đảng. Ngược lại, sự chỉ đạo về mặt đường lối của Đảng đối với văn hóa nói chung và văn hóa Đảng nói riêng sẽ trở thành nhân tố quyết định đến những thành tựu của văn hóa Đảng, văn hóa dân tộc.

    Văn hóa Đảng mang bản chất của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Để cho nền văn hóa cách mạng đi đúng hướng, nghĩa là đối lập với những tư tưởng phi văn hóa của giai cấp tư sản, thì nền văn hóa đó phải trở thành văn hóa Đảng chịu sự theo dõi, kiểm soát của giai cấp vô sản. Văn hóa được xem là nền tảng tinh thần để phát triển xã hội thì văn hóa Đảng phải trở thành nền tảng tư tưởng phát triển của Đảng đáp ứng những đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng xã hội. Do đó, việc Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương xây dựng văn hóa Đảng như một nội dung trọng yếu của công tác xây dựng Đảng là đi đúng vào quỹ đạo tinh thần của thời đại, thực hiện di huấn của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

    Thứ ba; văn hóa Đảng là hướng đến mục tiêu giải phóng con người một cách hoàn toàn triệt để, xác lập nên các giá trị văn hóa của nhân loại

    Văn hóa Đảng hướng đến mục tiêu giải phóng con người một cách hoàn toàn triệt để . Tư tưởng Hồ Chí Minh về nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa cao. Để có thể xây dựng được nền văn hóa của chủ nghĩa xã hội, trước hết phải xây dựng được con người xã hội chủ nghĩa, Người khẳng định: "Muốn xã hội chủ nghĩa, phải có: Người xã hội chủ nghĩa" [4] . Đó là những con người có tinh thần tự giác cao, có đạo đức trong sáng, có tình yêu sâu sắc đối với người lao động, được phát triển toàn diện, có cuộc sống tập thể và cá nhân hài hòa. Các xã hội cũ đã để lại những bất bình đẳng sâu sắc thì hôm nay, văn hóa Đảng sẽ xóa đi những hạn chế của những xã hội trước để lại, tạo dựng nên một nền văn hóa mới hướng đến xây dựng nền văn hóa chủ nghĩa xã hội ở trình độ phát triển cao của đức, trí, thể, mĩ.

    Văn hóa Đảng hướng đến xác lập nên các giá trị văn hóa của nhân loại. Đồng thời văn hóa Đảng còn là sự gặp gỡ lẫn nhau giữa cộng đồng dân tộc và cộng đồng thời đại, là sự gặp gỡ của các giá trị. Trong thời đại ngày nay, vận mệnh của mỗi quốc gia, dân tộc gắn liền với vận mệnh của nhân loại. Xây dựng nền văn hóa mới ở Việt Nam có sự thiết lập mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế. Kiến tạo năng lượng dân chủ mới, ý thức pháp luật mới, huy động đông đảo nhân dân tham gia quá trình xã hội hóa các hoạt động văn hóa lành mạnh, thống nhất và đa dạng, điều hòa các quyền lực thế hệ, quyền lực chính trị, quyền lực kinh tế. Đó là nội dung cơ bản của văn hóa Đảng trong quá trình xây dựng nền văn hóa mới hiện nay theo di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.


    Hai là; cấu trúc của văn hóa Đảng

    Thứ nhất; văn hóa Đảng được kết tinh trong trí tuệ của Đảng, thể hiện ở trình độ, năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ, đảng viên

    Văn hóa Đảng được kết tinh trong trí tuệ của Đảng. Trí tuệ của Đảng có nhiều cách hiểu khác nhau song nổi bật lên lại là trình độ nhận thức và hiểu biết về chủ quan và khách quan, về mối quan hệ tác động phát triển chuyển thể về con người và tổ chức. Tất cả những điều đó được phản ánh trong Cương lĩnh chính trị của Đảng, kết tinh những giá trị của văn hóa Đảng, trí tuệ của Đảng. Ngày nay, những điều kiện đã chín muồi để tìm ra những đồng thuận mới về mục tiêu phát triển đất nước vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tầm nhìn về mục tiêu phát triển ấy là trí tuệ chính trị và sự tỉnh táo chính trị có trí tuệ của Đảng trong tình hình mới. Trí tuệ và sự tỉnh táo ấy bắt nguồn từ quá khứ với nhiều nội dung phong phú được nâng cao dần lên trong tiến trình lịch sử, được kết tinh và khẳng định từ chính hiện thực cuộc sống xã hội và dân tộc luôn vươn tới cái mới và tốt đẹp hơn kết tinh sâu sắc trong các giá trị văn hóa Đảng.

    Văn hóa Đảng - trí tuệ của Đảng thể hiện ở trình độ, năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Do những người con ưu tú nhất, chân chính nhất, cách mạng nhất tạo dựng lên dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Do đó, những giá trị văn hóa Đảng cũng được xây dựng và phát triển bởi bàn tay của những người cán bộ, đảng viên của Đảng. Trí tuệ của cán bộ, đảng viên thể hiện sâu sắc ở trình độ, năng lực tư duy của họ. Họ có trí tuệ thì Đảng có trí tuệ, điều này khẳng định tính đúng đắn về phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin khi nói đến phép biện chứng về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Điều này cho phép chúng ta nhận thức và quán triệt thấu đáo trong công tác xây dựng Đảng nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trở thành nhân cách văn hóa, có trí tuệ, trở thành người dẫn đường xứng đáng của nhân dân.

    Thứ hai; văn hóa Đảng thể hiện trong đạo đức cách mạng cao cả của Đảng, hóa thân thành các phẩm chất của từng cán bộ, đảng viên

    Văn hóa Đảng thể hiện trong đạo đức cách mạng cao cả của Đảng. Văn hóa Đảng không chỉ được kết tinh trong trí tuệ của Đảng, mà còn kết tinh trong đạo đức cách mạng của Đảng, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: "Đảng ta là đạo đức, là văn minh" [5] . Đạo đức của Đảng thể hiện sâu sắc trong mục tiêu, lý tưởng của Đảng, của cuộc cách mạng vô sản là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Mục tiêu, lý tưởng của Đảng đã dần được hiện thực hóa khi lãnh đạo nhân dân ta đứng lên đấu tranh giành lại phẩm giá và đạo đức vốn có đã bị kẻ thù tước mất. Và đạo đức ấy hôm nay là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, với mong muốn đưa lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân và xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột và bất công trong xã hội, hướng tới thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh". Đạo đức của Đảng Cộng sản Việt Nam là đạo đức của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc Việt Nam là đạo đức tốt đẹp mà nhân loại tiến bộ đang hướng tới theo xu thế phát triển tiến lên của lịch sử xã hội loài người.

    Văn hóa Đảng – Đạo đức của Đảng hóa thân thành các phẩm chất của từng cán bộ, đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên là một biểu tượng văn hóa cao đẹp, hội tụ các đức tính truyền thống mà rất hiện đại. Đó là hệ thống các tiêu chuẩn đạo đức mà mỗi cán bộ, đảng viên cần phải có. Cụ thể là: Suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng; đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết; toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân; vì Đảng, vì dân mà hết lòng phục vụ, hy sinh quên mình; gương mẫu trong mọi công việc, không ngừng cố gắng học tập nâng cao trình độ, đạo đức, văn hóa và chủ nghĩa Mác – Lênin, yêu thương giúp đỡ đồng bào, đồng chí trên tinh thần phê bình và tự phê bình một cách trong sáng để cùng nhau tiến bộ.

    Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan niệm một con người hoàn thiện là một con người hội tụ đầy đủ tài năng và đạo đức, vừa hồng, vừa chuyên. Như vậy, người cán bộ, đảng viên mới có thể cống hiến và phục vụ cho Tổ quốc, cho nhân dân. Văn hóa Đảng cũng như vậy, phải bao gồm cả trí tuệ và đạo đức như thế mới tạo nên các giá trị văn hóa Đảng đại diện cho một nền văn hóa tiên tiến, là sức sống, sức chiến đấu của Đảng, của vận mệnh dân tộc trước thời cuộc.


    Ba là; văn hóa Đảng thể hiện trong các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt, phong cách lãnh đạo dân chủ của Đảng

    Thực hiện các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt, phong cách lãnh đạo dân chủ của Đảng là bảo đảm và phát huy sức sống, sức chiến đấu của Đảng nhằm khẳng định giá trị trường tồn của văn hóa Đảng.

    Đối với Đảng, dân chủ không những chỉ tồn tại với tư cách là một giá trị văn hóa cần được phát huy mà nó còn là mục tiêu, động lực, là giải pháp mang tính cấp thiết để làm trong sạch tổ chức của Đảng, khơi dậy nguồn lực trí tuệ trong toàn Đảng, tạo niềm tin đối với quần chúng, nắm vững ngọn cờ lãnh đạo mà nhân dân giao phó. Để thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, trước hết mỗi cán bộ, đảng viên cần phải làm tốt công tác tự phê bình và phê bình. Có thể khẳng định đây là hành vi căn bản của văn hóa Đảng. Văn hóa Đảng về bản chất là văn hóa của một tổ chức chính trị. Sợi dây liên kết giữa các thành viên trong tổ chức đó bên cạnh sự thống nhất về lý tính còn là tình cảm. Chính vì vậy, để tằng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, ngoài việc cùng chung lý tưởng, chung chí hướng phấn đấu, các cán bộ, đảng viên còn phải đối xử với nhau trên tinh thần nhân văn, nhân ái.

    Từ đạo đức để đi đến trí tuệ, đến phong cách lãnh đạo dân chủ của Đảng là con đường hình thành nhân cách văn hóa cộng sản và cũng là cơ chế thích hợp để hình thành văn hóa Đảng, nguyên tắc cơ bản để xây dựng văn hóa Đảng.

    [1] . Sđd: T. 6, tr137.

    [2] . V. I Lênin: Toàn tập, Nxb. Matxcơva, 1979, t. 12, tr. 127.

    [3] . Sđd: T. 5, tr. 31

    [4] . Sđd: T. 9, tr. 296.

    [5] . Sđd: T. 10, tr. 5.


    - Còn tiếp -
     
    Chỉnh sửa cuối: 6 Tháng tám 2022
  7. Góc bình yên

    Bài viết:
    846
    NỘI DUNG

    Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA ĐẢNG

    1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng

    1.2. 1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết tinh của những giá trị văn hóa dân tộc và nhân loại


    Download:

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Một là; chủ nghĩa Mác – Lênin ra đời là kết tinh những tinh hoa văn hóa của nhân loại

    Triết học Mác - Lênin ra đời từ nửa cuối thế kỷ XIX và phát triển cho đến ngày nay. Từ khi ra đời, triết học Mác - Lênin đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học và trở thành thế giới quan, phương pháp luận của hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn của con người nhằm cải biến xã hội. Là nền tảng tư tưởng, lý luận cách mạng của giai cấp vô sản.

    Để xây dựng học thuyết của mình ngang tầm với trí tuệ nhân loại, C. Mác và Ph. Ăngghen đã kế thừa những thành tựu trong lịch sử tư tưởng nhân loại như:

    Triết học Đức với hai nhà triết học tiêu biểu Hêghen và Phoiơbắc là nguồn gốc trực tiếp của triết học Mác. C. Mác và Ph. Ăngghen đã từng là những người theo học triết học Hêghen và nghiên cứu triết học Phoiơbắc. Qua đó, hai ông đã nhận thấy: Tuy học thuyết triết học của Hêghen mang quan điểm của chủ nghĩa duy tâm nhưng chứa đựng cái "hạt nhân hợp lý" của phép biện chứng. Còn học thuyết triết học Phoiơbắc tuy còn mang nặng quan niệm siêu hình nhưng nội dung lại thấm nhuần quan điểm duy vật. C. Mác và Ph. Ăngghen đã kế thừa "hạt nhân hợp lý" của Hêghen và cải tạo, lột bỏ cái vỏ thần bí để xây dựng nên lí luận mới của phép biện chứng. Hai ông đã kế thừa chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc, khắc phục tính siêu hình và những hạn chế lịch sử khác của nó để xây dựng nên lí luận mới của chủ nghĩa duy vật. Từ đó tạo ra cơ sở để hai ông xây dựng nên học thuyết triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất một cách hữu cơ.

    Việc kế thừa và cải tạo kinh tế chính trị học với những đại biểu xuất sắc là A. Smít và Đ. Ricácđô không những là nguồn gốc để xây dựng học thuyết kinh tế mà còn là tiền đề lý luận để hình thành quan điểm triết học.

    Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những đại biểu nổi tiếng như Xanh Ximông và S. Phuriê là một trong ba nguồn gốc lí luận của triết học Mác. Các Mác và Ph. Ăng ghen đã kế thừa những quan điểm tiến bộ của chủ nghĩa xã hội không tưởng!..

    Chủ nghĩa Mác – Lênin ra đời dựa trên những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Trên cơ sở kế thừa những thành tựu của triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng ở Pháp để xây dựng nên học thuyết của mình trở thành học thuyết cách mạng của giai cấp vô sản.


    Hai là; sự ra đời của giai cấp công nhân và phong trào công nhân ở Việt Nam là kết tinh của những tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại

    Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, do tác động của cuộc cách mạng trong công nghiệp làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Sự phát triển của lực lượng sản xuất làm cho quan hệ sản xuất tư bản được củng cố tạo ra cơ sở kinh tế để cho xã hội tư bản phát triển kèm theo đó mâu thuẫn xã hội càng thêm gay gắt. Những xung đột giữa giai cấp vô sản với tư sản đã phát triển thành những cuộc đấu tranh giai cấp.

    Thứ nhất; sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử

    Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ra đời và lớn lên cùng với sự hình thành và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Giai cấp công nhân đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến trong lịch sử xã hội loài người từ trước tới nay. Là giai cấp vô sản và bị trị nên họ có tinh thần cách mạng triệt để nhất, cách mạng nhất, lại được lí luận Mác – Lênin soi đường nên ngay từ sớm họ đã ý thức được sứ mệnh lịch sử của mình là lãnh đạo các tầng lớp, giai cấp khác của xã hội làm cách mạng xã hội với mong muốn xây dựng một xã mới tốt đẹp hơn, tiến bộ hơn so với xã hội tư bản chủ nghĩa.

    Khi chế độ tư bản chủ nghĩa được xác lập, giai cấp tư sản trở thành giai cấp thống trị xã hội, giai cấp vô sản trở thành bị trị thì mâu thuẫn giữa vô sản với tư sản vốn mang tính đối kháng phát triển trở thành những cuộc đấu tranh giai cấp. Cuộc khởi nghĩa của thợ dệt ở thành phố Liông (Pháp) năm 1831 tuy bị đàn áp nhưng lại bùng nổ tiếp vào năm 1834. Ở Anh có phong trào Hiến chương vào cuối những năm 30 của thế kỷ XIX, là phong trào cách mạng to lớn có tính chất quần chúng và có hình thức chính trị. Nước Đức nổi lên phong trào đấu tranh của thợ dệt ở Xilêdi đã mang tính giai cấp.

    Trong hoàn cảnh lịch sử đó, giai cấp tư sản không còn đóng vai trò là giai cấp cách mạng. Ở Anh, Pháp giai cấp tư sản tuy nắm quyền thống trị, lại hoảng sợ trước cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nên không còn là vị trí tiên phong trong quá trình cải tạo dân chủ như trước. Còn giai cấp tư sản Đức đang lớn lên trong lòng xã hội phong kiến, vốn đã khiếp sợ bạo lực cách mạng khi nhìn vào tấm gương Cách mạng tư sản Pháp 1789, nay lại thêm sợ hãi trước sự phát triển của phong trào công nhân Đức. Vì vậy, giai cấp vô sản xuất hiện trên vũ đài lịch sử với sứ mệnh xóa bỏ xã hội tư bản và trở thành lực lượng tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền dân chủ và tiến bộ xã hội.

    Thứ hai; sự ra đời của giai cấp công nhân Việt Nam và phong trào đấu tranh do họ lãnh đạo

    Dưới chế độ thống trị của đế quốc Pháp và tay sai, xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi về văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội. Du nhập phương thức sản xuất mới vào nước ta, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa của tư bản Pháp trùm lên phương thức sản xuất phong kiến lỗi thời đã làm phân hóa các giai cấp cũ một cách sâu sắc, tạo ra kết cấu giai cấp mới. Giai cấp địa chủ phong kiến bị phân hóa, giai cấp công nhân ra đời, giai cấp tư sản Việt Nam xuất hiện phân hóa thành hai bộ phận. Một số ít ôm chân đế quốc trở thành tư sản mại bản.

    Giai cấp công nhân Việt Nam là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Không chỉ mang bản chất của giai cấp công nhân quốc tế mà còn mang bản chất của giai cấp công nhân Việt Nam. Là sản phẩm của sự phát triển trong lịch sử xã hội loài người và trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Là kết tinh của những giá trị văn hóa dân tộc và nhân loại.

    Sinh trưởng trong một nước thuộc địa, nửa phong kiến, cũng như nông dân và các tầng lớp lao động khác, giai cấp công nhân Việt Nam bị ba tầng áp bức, bóc lột của đế quốc, phong kiến và tư sản. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời muộn hơn so với giai cấp công nhân quốc tế, do đó họ có điều kiện kế thừa các tinh hoa văn hóa của giai cấp mình trên thế giới và là sản phẩm trong quá trình lịch sử xã hội loài người phát triển tiến lên.

    Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời, mâu thuẫn đối kháng với giai cấp tư sản chính quốc và tư sản Việt Nam, đồng thời sống trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến do đó họ cũng có lợi ích mâu thuẫn với giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam. Bị áp bức, bóc lột dã man nên họ sớm có tinh thần yêu nước, đấu tranh cách mạng triệt để lại được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc giác ngộ lí luận Mác - Lênin, giai cấp công nhân Việt Nam đã từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, nhanh chóng phát triển từ tự phát đến tự giác. Họ đại diện cho lực lượng mới, lực lượng cấp tiến trong xã hội lãnh đạo phong trào cách mạng theo khuynh hướng vô sản, vượt qua những phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và khuynh hướng dân chủ tư sản đã lỗi thời.

    Như vậy, sự xuất hiện của giai cấp công nhân thế giới nói chung và giai cấp công nhân Việt Nam nói riêng đã là những sản phẩm văn hóa. Là con đẻ của một dân tộc anh hùng, lớn lên trong thời đại mới.

    Ba là; phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỳ XIX đầu thế kỷ XX là phát huy những giá trị văn hóatrong truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam

    Yêu nước là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam đã có từ lâu đời. Như chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng đinh: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước" [1] . Chủ nghĩa yêu nước là sản phẩm tinh thần cao quý nhất của dân tộc Việt Nam, là tư tưởng và tình cảm thiêng liêng giữ vị trí chuẩn mực cao nhất của đạo lý và đứng đầu bậc thang giá trị dân tộc. Tinh thần đó đã phát huy sức mạnh vô biên của nó trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và là một động lực nội sinh của cộng đồng dân tộc trong sự nghiệp xây dựng đất nước, sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam.

    Phong trào yêu nước đã dâng cao mỗi khi đất nước bị ngoại xâm, lôi cuốn mọi tầng lớp nhân dân, toàn thể dân tộc đứng lên chống kẻ thù chung để giành lại và bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Khi bị thực dân Pháp xâm lược và đặt ách thống trị nên đất nước ta, thì chủ nghĩa yêu nước trong truyền thống dân tộc chính là cội nguồn của các phong trào yêu nước cuối thế kỳ XIX đầu thế kỷ XX theo hệ tư tưởng phong kiến và dân chủ tư sản.. của các bậc hiền nhân yêu nước.

    Chủ nghĩa yêu nước, với tư cách là dòng tư tưởng chủ đạo trong lịch sử phát triển dân tộc Việt Nam, là một trong những cơ sở quan trọng nhất hình thành nên những giá trị văn hóa tốt đẹp trong truyền thống hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.

    Có thể khẳng định rằng Đảng ra đời là kết tinh của những giá trị văn hóa dân tộc và thời đại là chính xác. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: "Chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930" [2] . Như vậy, sự ra đời của Đảng ta tuân theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin về Đảng kiểu mới, đồng thời còn thêm nhân tố đó là phong trào yêu nước Việt Nam.

    Ở trên, chúng ta vừa phân tích, tìm hiểu những giá trị văn hóa nhân loại của chủ nghĩa Mác – Lênin, của sự ra đời giai cấp công nhân thế giới. Và những giá trị văn hóa trong truyền thống dân tộc Việt Nam của chủ nghĩa yêu nước và sự ra đời của giai cấp công nhân Việt Nam. Đảng ta ra đời dựa trên sự kết hợp của ba thành tố là chủ nghĩa Mác – Lênin, với phong trào công nhân và phong trào yêu nước thì không có lý gì không nói đến các giá trị văn hóa dân tộc và thời đại hội tụ trong Đảng, hay nói cách khác Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết tinh những giá trị văn hóa dân tộc và thời đại.

    [1] . Sđd: T. 1, tr. 171.

    [2] . Sđd: T. 8, tr. 650.


    - Còn tiếp -
     
    Chỉnh sửa cuối: 4 Tháng tám 2022
  8. Góc bình yên

    Bài viết:
    846
    NỘI DUNG

    Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA ĐẢNG

    1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng

    1.2. 2. Mục tiêu của Đảng là những giá trị văn hóa cao đẹp của dân tộc và thời đại

    Download:

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Một là; Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc giành lại nền độc lập dân tộc

    Văn hóa Đảng là sự kết tinh các giá trị văn hóa dân tộc và thời đại. Nền văn hóa ấy đại diện cho nền văn hóa tiên tiến của dân tộc và nhân loại. Phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc cũng là một nét đẹp của văn hóa Đảng. Việc Đảng ra đời, lãnh đạo nhân dân giành lại nền độc lập dân tộc là sự kết thừa và phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc.

    Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam luôn được gìn giữ và phát huy, chủ nghĩa yêu nước ấy mang đậm tính chất nhân văn, vì lợi ích chung của dân tộc. Từ truyền thống tốt đẹp đó, đã có bao tư tưởng yêu nước mới được sản sinh trên cơ sở phát huy chủ nghĩa yêu nước truyền thống nhằm giải phóng dân tộc thoát khỏi ách đô hộ, xâm chiếm của giặc ngoại xâm, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc đã hình thành nên nền văn hiến hàng ngàn năm của dân tộc như Bác Hồ đã từng viết:

    "Kể hơn bốn ngàn năm văn hiến

    Tổ tiên rực rỡ anh em thuận hòa

    Hổng Bàng là tổ nước ta

    Nước ta lúc ấy gọi là Văn Lang" [1] .

    Nói đến truyền thống của dân tộc Việt Nam là phải nói đến lòng yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, ý thức về nền độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia.

    Thời kỳ Văn Lang – Âu, đây là giai đoạn hình thành của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam nhưng đã có nội dung mang chiều sâu tư tưởng, ý thức về nền độc lập của dân tộc. Trong thời kỳ hàng nghìn năm chống Bắc thuộc Hán, Đường thì ý thức vững chắc về quyền tồn tại độc lập của dân tộc đã được đề lên rất cao. Kẻ thù muốn tiêu diệt dân tộc ta bằng chính sách đồng hóa toàn diện. Ta đấu tranh trước hết là để bảo vệ văn hóa dân tộc. Đấu tranh bảo vệ văn hóa và coi văn hóa là một vũ khí đấu tranh rất quan trọng chống xâm lược là hai nội dung gắn liền với nhau tạo thành động lực phát triển của dân tộc trong thời kỳ đêm đen Bắc thuộc.

    Bước sang thời thời kỳ mới trong điều kiện nhà nước phong kiến độc lập. Lý Thường Kiệt lãnh đạo kháng chiến chống Tống thắng lợi là khẳng định bước phát triển cao hơn của tinh thần yêu nước và ý thức độc lập tự chủ; khẳng định trong nhận thức, hành động quyền độc lập bình đẳng của dân tộc:

    "Sông núi nước Việt nam, vua Nam ở

    Rành rành định phận ở sách trời

    Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?

    Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời".

    Tiếp đó là vua tôi nhà Trần đã đánh bại ý đồ xâm lược, bành trướng của quân Mông – Nguyên. Từ Chiếu dời đô của Lý Thái Tổ đến các chính sách cụ thể thời Lý, Trần đều nhằm củng cố quốc gia thống nhất và nền độc lập của dân tộc. Đến Nguyễn Trãi, với Bình ngô đại cáo đã khái quát và khá toàn diện về sự tồn tại của đất nước, về độc lập dân tộc:

    "Như nước Đại Việt ta từ trước,

    Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.

    Cõi bờ sông núi đã riêng,

    Phong tục Bắc Nam cũng khác

    Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước,

    Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên đều xưng đế một phương".

    Nguyễn Trãi luôn coi Việt Nam là nước độc lập riêng biệt; dân tộc Việt Nam là dân tộc riêng biệt. Nước Việt Nam là nước có nền văn hiến lâu đời. Nguyễn Trãi đề cao ý thức dân tộc và tự hào dân tộc, ông khẳng định tuy nước ta nhỏ, nước họ lớn, nhưng không phân cao thấp, hơn thua.

    Với phong trào Tây Sơn, trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, Nguyễn Huệ cũng đã khẳng định một nội dung cơ bản của chủ nghĩa yêu nước là lịch sử và văn hóa chung. Bảo vệ văn hóa dân tộc, bảo vệ phong tục tập quán cũng chính là khẳng định tinh thần tự tôn dân tộc, ý thức về nền độc lập của nước Việt Nam:

    "Đánh cho để đen răng

    Đánh cho để dài tóc

    Đánh cho nó chích luân bất phản,

    Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn,

    Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ".

    Nhìn lại từ thời dựng nước đời Hùng Vương, An Dương Vương, trải quan nghìn năm chống Bắc thuộc, đến thời phong kiến độc lập, chủ nghĩa yêu nước, tinh thần độc lập dân tộc đã có quá trình hình thành và phát triển ngày càng rõ nét.

    Ý thức sâu sắc về độc lập dân tộc tạo nên sức mạnh vô biên. Tổng kết về chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam trong đó có khát vọng về độc lập tự do, ý thức về quyền quốc gia, niềm tự tôn dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết từ năm 1922 như sau: "Nhờ chí khí độc lập và khát khao tự do hơn là nhờ quân đông sức mạnh, nước Nam đã thắng" [2] . Năm 1951, trong Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ II của Đảng, Người khẳng định: "Lịch sử nước ta đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của dân tộc ta. Chúng ta có quyền tự hào vì những trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung.. Chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng". [3]

    Ngay khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam, quần chúng đã có suy nghĩ giặc đến cướp nước ta thì phải đánh giặc giữ nước. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tinh thần yêu nước và ý thức độc lập dân tộc lại được phát huy lên một tầm cao mới và đã đánh thắng hai kẻ thù lớn là đế quốc Pháp, Mỹ bảo vệ nền độc lập, tự chủ của Việt Nam mang chiều sâu giá trị văn hóa Đảng, văn hóa dân tộc và văn hóa nhân loại.

    Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, nhân dân ta đã phải sống hơn nửa thế kỷ dưới ách thống trị của chủ nghĩa thực dân. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: "Từ ngày bị đế quốc Pháp xâm chiếm, nước ta là một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác. Trong mấy mươi năm khi chưa có Đảng, tình hình đen tối như không có đường ra" [4] . Mất độc lập dân tộc là mất tất cả! Lúc đó giải phóng dân tộc là nhiệm vụ cấp bách, thiêng liêng nhất.

    Sự ra đời của Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng nước ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đã tiến hành thắng lợi cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945. Đưa nhân dân ta từ thân phận một dân tộc nô lệ bước vào kỷ nguyên độc lập. Đưa nhân dân ta từ thân phận nộ lệ của một nước thuộc địa trở thành chủ nhân của một nước tự do, độc lập; mở ra thời kỳ phi thực dân cho Việt Nam cho cả hệ thống thuộc địa và các nước phụ thuộc trên thế giới.

    Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại quảng trường Ba Đình. Sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Nhà nước độc lập tự chủ. Trả lại những giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam trường tồn với thời gian, đồng hành cùng đất nước trên con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.


    Hai là; Đảng lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội hướng đến giải phóng giai cấp, giải phóng con người

    Thứ nhất; Đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành lại phẩm giá và đạo đức cho chính mình

    Văn hóa Đảng hội tụ những nét đẹp trong lý tưởng và mục tiêu lý tưởng của Đảng. Mong muốn đem lại những gì tốt đẹp nhất cho nhân dân Việt Nam và nhân loại. Nhưng khi thực dân Pháp thống trị nước ta chúng đã trà đạp lên nhân phẩm, danh dự của người dân An Nam một cách bỉ ổi, vô nhân đạo với danh nghĩa "khai hóa văn minh". Đảng ra đời là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam, lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành lại những phẩm giá và đạo đức của con người, của người con đất Việt.

    Nguyễn Ái Quốc quyết liệt lên án tội ác của chủ nghĩa thực dân, trực tiếp là thực dân Pháp và chính sách "khai hóa văn minh" của chúng. Tội ác của chủ nghĩa đế quốc, thực dân gieo rắc trên các thuộc địa và trên thân thể người dân thuộc địa. Cùng với sự bóc lột nặng nề về kinh tế, chúng còn kìm hãm, triệt tiêu đời sống chính trị và nhận thức văn hóa của họ là sự nô dịch về văn hóa, sự phân biệt đối xử, sự kì thị dân tộc ở bất cứ đâu, nơi chủ nghĩa thực dân thống trị hay đặt sự bảo hộ của mình.

    Chính sách thống trị của thực dân Pháp đối với nhân dân Việt Nam là một chính sách thống trị chuyên chế về chính trị, bóc lột nặng nề về kinh tế, kìm hãm và nô dịch về văn hóa, giáo dục chứ không phải đem đến một sự "khai hóa văn minh" – một sự khai hóa và cải tạo thực sự theo kiểu phương Tây cho dân tộc Việt Nam. Bản chất của "sứ mệnh khai hóa" đó chính là sự khai thác thuộc địa; áp bức, bóc lột và trà đạp lên số phận của người dân thuộc địa diễn ra dưới lưỡi lê, họng sung, máy chém.. Hồ Chí Minh từng nói về "nhà khai hóa" như sau: "Khi người ta đã là một nhà khai hóa thì người ta có thể làm những việc dã man mà vẫn cứ là người văn minh nhất" [5] . Và nếu các tầng lớp, giai cấp khác trong xã hội không chịu nhục được, phải vùng lên, thì các nhà khai hóa "điều quân đội, súng liên thanh, súng cối và tàu chiến đến, người ta ra lệnh giới nghiêm. Người ta bắt bớ và bỏ tù hàng loạt. Đấy! Công cuộc khai hóa nhân từ là như thế đấy" [6] . Vì vậy, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ và yêu cầu cấp bách của cách mạng Việt Nam nhằm giành lấy những phẩm giá và đạo đức về tay nhân dân.

    Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự kiện này là mốc son đánh dấu sự kết hợp các nhân tố dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong bản chất của văn hóa Đảng. Khi Đảng đã lãnh đạo thành công cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945, mở ra thời kỳ phi thực dân sau Việt Nam cho cả hệ thống thuộc địa và các nước phụ thuộc trên thế giới.

    Thứ hai; Đảng lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh"

    Mục tiêu, lý tưởng của Đảng thể hiện các giá trị văn hóa cao đẹp của Đảng. Mục tiêu, lý tưởng ấy là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc sắc, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đặc sắc ấy thể hiện nhất quán mục tiêu của con đường cách mạng, thể hiện những giá trị văn hóa sâu sắc mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Đáp ứng được yêu cầu cấp bách của dân tộc và khát vọng cháy bỏng của nhân dân giành lấy độc lập, tự do, ấm no và hạnh phúc, giải phóng cuộc đời lầm than, đói khổ dưới ách thống trị tàn bạo của chủ nghĩa thực dân, đế quốc và bè lũ tay sai.

    Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nhất là ở giai đoạn đấu tranh giành chính quyền, chủ nghĩa xã hội mới chỉ là mục tiêu, nhưng nó chỉ rõ phương hướng đi lên của cách mạng Việt Nam. Đường lối vừa kháng chiến, vừa kiến quốc thực sự đóng vai trò to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và tạo lập chế độ mới trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.

    Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam phù hợp với xu thế chung của lịch sử, của thời đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ; chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người, không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc, có một xã hội tốt lành gắn liền với tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no; bảo đảm việc làm cho mọi người, tất cả vì niềm vui, hòa bình, hạnh phúc của con người.

    Xét đến cùng văn hóa Đảng là đạo đức, là văn minh thể hiện ở mục tiêu lý tưởng và trí tuệ của Đảng, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhân dân ta mang những giá trị văn hóa sâu sắc, xét về lôgíc là một tất yếu khách quan; xét về lịch sử, là hoàn toàn phù hợp với sự vận động của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; xét về nhu cầu, là hoàn toàn xuất phát từ điều kiện cụ thể của một nước thuộc địa, nửa phong kiến và nguyện vọng cháy bỏng của nhân dân Việt Nam; và xét về mặt xã hội, đó là một hệ giá trị cơ bản nhất quyết định sự phát triển của đất nước Việt Nam hôm nay và mai sau.

    Có thể khẳng định như vậy bởi vì việc giải quyết vấn đề độc lập dân tộc theo ý thức hệ phong kiến và tư sản, trong khuôn khổ của chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa không tránh khỏi những mâu thuẫn và những hạn chế bắt nguồn từ bản chất kinh tế và chính trị của các chế độ ấy. Vượt qua những mâu thuẫn và những hạn chế ấy để tìm đến những giá trị văn hóa cao đẹp hơn trong việc giải quyết vấn đề độc lập dân tộc theo lập trường của giai cấp công nhân, của chủ nghĩa xã hội khoa học.

    Bản chất của chủ nghĩa xã hội được Hồ Chí Minh giải thích rõ: "Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ.. Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội" [7] . Chủ nghĩa xã hội nhằm xóa bỏ căn nguyên kinh tế sâu xa của tình trạng người bóc lột người do chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sinh ra. Chỉ với độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mới đạt tới mục tiêu phục vụ lợi ích và quyền lực của mọi người lao động. Nó cũng bảo đảm cho dân tộc vượt qua tình trạng đói nghèo, lạc hậu và tụt hậu trong tương quan với các dân tộc khác trên thế giới và ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn để đạt tới sự bình đẳng trong các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cộng đồng dân tộc này với cộng đồng dân tộc khác.

    Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, với Việt Nam không chỉ là mục tiêu, là nhu cầu, là cương lĩnh hành động, là ngọn cờ hiệu triệu, mà còn là động lực, là niềm tin sắt son của dân tộc Việt Nam. Độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là sự gắn kết hai sức mạnh thành một sức bật mới; là cội nguồn thắng lợi của cách mạng Việt Nam hôm qua, hôm nay và mai sau. Như vậy, có thể khẳng định rằng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự thể hiện sâu sắc các giá trị của văn hóa Đảng thể hiện tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc, đó là vì con người và do con người.

    [1] . Sđd: T. 3, tr. 221.

    [2] . Sđd: T. 1, tr. 80.

    [3] . Sđd: T. 6, tr. 171.

    [4] . Sđd: T. 10, tr. 3.

    [5] . Sđd: T. 2, tr. 56

    [6] . Sđd: T. 2, tr. 58

    [7] . Sđd: T. 10, tr. 591.


    - Còn tiếp -
     
  9. Góc bình yên

    Bài viết:
    846
    NỘI DUNG

    Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA ĐẢNG

    1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng

    1.2. 3. Hạt nhân cốt lõi của văn hóa Đảng là chủ nghĩa Mác – Lênin


    Download:

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Một là; bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin hình thành nên các giá trị văn hóa Đảng

    Thông qua quá trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đi đến kết luận: "Đảng ta có chủ nghĩa Mác – Lênin là chủ nghĩa cách mạng và khoa học nhất" [1] . Theo Hồ Chí Minh thì chủ nghĩa Mác – Lênin được xem là nền tảng tư tưởng của Đảng, hạt nhân cốt lõi của văn hóa Đảng. Bởi lẽ, nó là một học thuyết cách mạng và khoa học nhất.

    Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời là một tất yếu của lịch sử xã hội loài người. Nó không những đã phản ánh thực tiễn xã hội mà còn là sự phát triển hợp lôgíc của lịch sử tư tưởng nhân loại. Đem lại cơ sở khoa học cho việc luận giải những hiện tượng của đời sống xã hội và quá trình lịch sử, hướng đến cải tạo thế giới hiện thực. Đúng như C. Mác đã từng khẳng định: "Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới" [2] . Vì thế, bản chất khoa học thống nhất về cơ bản với bản chất cách mạng trong chủ nghĩa Mác - Lênin. Cụ thể là:

    Trên phương diện lý luận tính khoa học và tính cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhau. Trong mối quan hệ biện chứng giữa tính khoa học và tính cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin thì tính khoa học đóng vai trò cơ sở của tính cách mạng, đảm bảo cho tính cách mạng gắn liền với sự sáng tạo và khả năng hiện thực hóa. Ngược lại, tính cách mạng tạo nên sức sống của tính khoa học, và làm cho vai trò hướng dẫn, soi đường của tri thức khoa học đi vào thực tiễn.

    Trên phương diện hoạt động thực tiễn, mối quan hệ giữa tính khoa học và tính cách mạng gắn bó chặt chẽ có tác động qua lại với nhau. Sự thống nhất biện chứng giữa tính khoa học với tính cách mạng trong hoạt động thực tiễn là cội nguồn thắng lợi của các cuộc đấu tranh cách mạng và các hoạt động cải biến cách mạng.

    Cần phải phát triển sáng tạo tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Học thuyết Mác - Lênin là một học thuyết mở. Bản thân những người sáng lập ra nó đã khẳng định rõ: Học thuyết của các ông không phải là giáo điều mà sẽ liên tục phát triển cùng với sự phát triển của thực tiễn. Lênin cũng đã từng khẳng định: "Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì xong xuôi hẳn, hoặc bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng của một môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt" [3] . Tiếp nối tinh thần của Lênin, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông" [4] . Chính bởi chủ nghĩa Mác – Lênin là một học thuyết mở nên nó luôn luôn được bổ sung và hoàn thiện cho phù hợp với điều kiện của mỗi quốc gia dân tộc và của thời đại, đại diện cho một lý luận cách mạng tiên tiến có tính chất tiên phong mà không bị lỗi thời, lạc hậu.

    Bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin cho thấy sự lựa chọn đúng đắn của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh khi khẳng định và thừa nhận chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng. Cho thấy những giá trị văn hóa Đảng được kết tinh từ những gì tinh tú nhất của nhân loại, để lại những giá trị văn hóa trường tồn với thời gian.


    Hai là; chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, là hạt nhân cốt lõi của văn hóa Đảng

    Trên cở sở phân tích chỉ rõ bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mac – Lênin để thấy rõ tính chất tiên phong và các giá trị văn hóa mà nó bao hàm, Hồ Chí Minh đi đến khẳng định: "Về lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam theo chủ nghĩa Mác – Lênin" [5], chủ nghĩa Mác – Lênin là kim chỉ nam cho hành động. Trả lời phỏng vấn nhà báo Pháp, Sácli Phuốcniô, Người nói: "Đồng chí biết truyền thuyết của chúng tôi cái" cẩm nang ". Khi gặp khó khăn, người ta giở cẩm nang ra và tìm cách giải quyết. Chủ nghĩa Mác – Lênin cũng gần như cái cẩm nang thần kỳ đó" [6] .

    Năm 1951, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Ta có một Đảng to lớn mạnh mẽ. To lớn mạnh mẽ là vì có chủ nghĩa Mác – Lênin. Vận dụng và phát triển tư tưởng Lênin vào điều kiện Việt Nam, Hồ Chí Minh đã luận giải mối quan hệ sâu sắc giữa chủ nghĩa Mác – Lênin với danh dự, trí tuệ và lương tâm của Đảng. Năm 1955, Hồ Chí Minh viết: "Chủ nghĩa Mác – Lênin là lực lượng tư tưởng hùng mạnh chỉ đạo Đảng chúng tôi, làm cho Đảng chúng tôi có thể trở thành hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao động, làm cho Đảng chúng tôi có thể trở thành hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc chúng tôi" [7] .

    Trong quan niệm của Người, nền tảng tư tưởng, lý luận gắn bó chặt chẽ với văn hóa. Bác bỏ quan điểm cho rằng: "Chủ nghĩa Mác – Lênin bó buộc tư tưởng, bó buộc giáo dục" [8] . Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Chủ nghĩa Mác – Lênin soi phương hướng, đường lối cho chúng ta đi" [9] . Chủ nghĩa Mác – Lênin, tiêu biểu cho những gì tiến tiến của nhân loại, hàm chứa các giá trị văn hóa Đảng đã thấm nhuần vào trong văn hóa Đảng Cộng sản Việt Nam làm nên những biến đổi to lớn có tính chất thời đại.

    Chủ nghĩa Mác – Lênin đã góp phần tạo nên những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam. Về thắng lợi cách mạng tháng Tám đó là thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam cũng là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác – Lênin ở một nước thuộc địa. Tổng kết thắng lợi của chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Một lần nữa chủ nghĩa Mác – Lênin đã soi đường cho giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam, kháng chiến cứu nước thành công, giữ gìn thành quả cách mạng của mình" [10] . Ngày 15-7-1969, trước khi đi về với thế giới người hiền, Hồ Chí Minh khẳng định chính nhân tố cốt lõi của văn hóa Đảng đã tạo nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam: Chúng ta giành được những thắng lợi to lớn là do nhiều nhân tố, nhưng cần phải nhấn mạnh có được những thắng lợi to lớn đó trước hết là nhờ cái vũ khí không gì thay thế được là chủ nghĩa Mác – Lênin.

    Qua phân tích tìm hiểu bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin. Điều này được chứng minh một cách đúng đắn và đầy đủ trong suốt tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam. Do đó, chủ nghĩa Mác – Lênin có vai trò là nền tảng tư tưởng, lý luận kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng, là hạt nhân cốt lõi của văn hóa Đảng.

    [1] . Sđd: T. 6, tr. 497.

    [2] . C. Mác - F. Ăngghen. Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 3 tr. 12.

    [3] . C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, sđd: T. 3, tr. 21.

    [4] . Sđd: T. 1, tr. 65.

    [5] . Sđd; t. 6, tr. 174.

    [6] . Sđd: T. 12, tr. 474.

    [7] . Sđd: T. 7, tr. 517.

    [8] . Sđd: T. 8, tr. 138.

    [9] . Sđd: T. 8, tr. 138.

    [10] . Sđd: T. 10, tr. 12.


    - Còn tiếp -
     
  10. Góc bình yên

    Bài viết:
    846
    NỘI DUNG

    Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA ĐẢNG

    1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng

    1.2. 4. Đạo đức của Đảng là hiện thân giá trị văn hóa Đảng


    Download:

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Hồ Chí Minh đã từng khẳng đinh: "Đảng ta là đạo đức, là văn minh" [1] . Đạo đức ấy, văn minh ấy được cụ thể hóa trong mục tiêu, lý tưởng và trí tuệ của Đảng; hóa thân vào trong đạo đức và tài năng của cán bộ, đảng viên. Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng là những người đày tớ trung thành của nhân dân. Do đó, đạo đức của Đảng là đảm bảo lợi ích của quần chúng nhân dân, được thực hiện bởi những con người có phẩm chất đạo đức cách mạng và năng lực công tác.

    Một là; Đảng đại diện cho lợi ích của dân tộc, của giai cấp và của nhân dân lao động

    Từ khi mới ra đời đã Đảng Cộng sản Việt Nam đã mang bản chất giai cấp công nhân sâu sắc. Hồ Chí Minh khẳng định: "Đảng ta luôn đứng vững trên lập trường giai cấp vô sản, tuyệt đối trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động" [2] . Đồng thời Người luôn nhìn nhận bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong sự thống nhất biện chứng với tính dân tộc và tính nhân loại. Đại diện cho lợi ích của dân tộc, của giai cấp và của nhân dân lao động, Người thường chỉ ra cho cán bộ, đảng viên: "Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích nào khác" [3], hay "Đảng ta là một đảng cách mạng, một đảng lãnh đạo. Ngoài lợi ích của nhân dân và của giai cấp công nhân, Đảng ta không có lợi ích nào khác" [4] . Chính luận điểm này đã làm nên những giá trị cao đẹp của văn hóa Đảng, nó không vì lợi ích tự thân như các chính đảng khác của giai cấp tư sản hay của giai cấp khác trong xã hội.

    Cũng như các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã không chỉ phê phán các quan điểm tách rời đạo đức với lợi ích, hoặc che đậy các lợi ích bằng một thứ đạo đức giả dối của giai cấp thống trị cũ, khi bàn về mối quan hệ giữa đạo đức và lợi ích. Đồng thời, Người còn khẳng định đạo đức cách mạng của Đảng – đạo đức xã hội chủ nghĩa và đạo đức cộng sản chủ nghĩa gắn với lợi ích của quần chúng nhân dân lao động, Người viết: "Đảng ta là Đảng chỉ có một điều là phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Ngoài ra không có lợi ích nào khác" [5] . Hơn nữa, Người còn nhấn mạnh đạo đức cách mạng đòi hỏi chúng ta phải phục vụ lợi ích của quần chúng và đem lại lợi ích cho quần chúng nhân dân thông qua sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực trên đất nước ta, theo lý tưởng cộng sản chủ nghĩa cao đẹp "đạo đức cách mạng là.. một lòng một dạ phục vụ lợi ích chung của giai cấp, của nhân dân, nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hội" [6] .

    Vì vậy, Đảng ta đã và đang trở thành biểu tượng đạo đức, là nơi gửi gắm những ước mơ, khát vọng đồng thời cũng là động lực để chúng ta xây dựng Đảng ngày càng đạo đức, ngày càng văn minh. Nó sẽ trở thành hiện thực trong tương lai và cũng phải biểu hiện thành hiện thực của chính ngày hôm nay. Cho nên, khi bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là những chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ ở nước ta. Việc xây dựng và phát triển các giá trị đạo đức trong văn hóa Đảng phải gắn với nhận thức về chủ nghĩa xã hội và vấn đề lợi ích gắn với lý tưởng đạo đức là những vấn đề có ý nghĩa rất lớn. Và những tư tưởng ấy của Hồ Chí Minh về đạo đức của Đảng thể hiện sâu sắc những giá trị văn hóa Đảng có ý nghĩa lớn lao trong thời kỳ đổi mới của đất nước hiện nay.

    Hai là; Đạo đức của Đảng hóa thân vào đạo đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên

    Đạo đức của Đảng – Văn hóa Đảng hóa thân vào trong phầm chất đạo đức cách mạng và năng lực của mỗi cán bộ, đảng viên. Vì vậy, đạo đức, sự gương mẫu của từng cán bộ, đảng viên là điều kiện hàng đầu để tạo nên đạo đức, sự gương mẫu của toàn Đảng. Người cho rằng: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng thì phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân" [7] . Do đó, đạo đức có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng trong việc xác lập và củng cố các giá trị văn hóa Đảng.

    Để Đảng ta "là một Đảng lãnh đạo, Đảng ta cần phải mạnh mẽ, trong sạch, kiểu mẫu" [8], nhân cách văn hóa của mỗi cán bộ, đảng viên chính là nhân tố quyết định. Bởi lẽ, đạo đức của Đảng được xây dựng và bồi đắp bởi những con người ưu tú nhất, cách mạng nhất hội tụ những phẩm chất cách mạng cao quý, Đó là: Trung với nước, hiếu với dân; là cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; suốt đời phấn đấu quên mình vì nước, vì dân; tinh thần gương mẫu đi đầu của họ trong việc đấu tranh chống các căn bệnh nảy sinh làm tổn hại đến lợi ích của Đảng, của nhân dân..

    Đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên biểu hiện ở rất nhiều mặt, nhiều khía cạnh. Nhưng cái cơ bản nhất, cốt lõi nhất, cái lõi, cái bao trùm của đạo đức cách mạng – theo Người đó là tinh thần tập thể, ý thức tập thể. Chủ nghĩa cá nhân ích kỷ là kẻ thù tập trung nhất của đạo đức cách mạng. Tại Đại hội lần thứ III Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam, Người dạy: "Đạo đức cách mạng là đạo đức tập thể, nó phải thắng và tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân" [9] .

    Vì vậy, Hồ Chí Minh cho rằng vấn đề xây dựng nhân cách văn hóa cho cán bộ, đảng viên là vấn đề có ý nghĩa chiến lược của cách mạng Việt Nam, là công việc gốc của Đảng. Nhân cách của họ sẽ có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống xã hội, là điểm tựa tạo lập nên niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sự nghiệp xây dựng con người mới, xã hội mới.

    Nhân cách, đạo đức của cán bộ, đảng viên không phải từ trên trời rơi xuống mà là quá trình giáo dục, phấn đấu, rèn luyện thường xuyên của tổ chức đảng và chịu sự góp ý, giám sát và giúp đỡ của nhân dân. Đây là những chỉ dẫn quý báu của Người để chúng ta quán triệt và học tập vào xây dựng văn hóa Đảng, xây dựng đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay. Và điều quan trọng nhất để xây dựng đạo đức cách mạng là phải kinh qua cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, phải vừa cải tạo thế giới, vừa cải tạo bản thân mình, phải không ngừng học tập nâng cao hiểu biết, phải thường xuyên phê bình và tự phê bình của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

    Trong điều kiện hiện nay, khi quan hệ sản xuất mới đã hình thành, học tập đạo đức Hồ Chủ tịch càng có nhiều thuận lợi, như Người đã dạy: "Đạo lý ngày xưa các cụ nêu lên không phải ai cũng làm được, vì con người sống trong xã hội cũ là xã hội người đi áp bức, bóc lột người, quan hệ giữa người với người thường là xấu. Bây giờ xã hội mới, không có áp bức, bóc lột, ai cũng có thể vươn tới đỉnh cao của đạo đức cách mạng" [10] . Do đó, đây cũng là điều kiện thuận lợi để chúng ta hình thành văn hóa Đảng hiện nay thông qua đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

    [1] . Sđd: T. 10, tr. 590.

    [2] . Sđd: T. 8, tr. 591.

    [3] . Sđd: T. 9, tr. 555.

    [4] . Sđd: T. 8, tr. 560.

    [5] . Sđd: T. 9, tr. 263.

    [6] . Sđd: T2, tr. 220.

    [7] . Hồ Chí Minh: Sửa đổi lề lối làm việc, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1994, tr. 30.

    [8] . Sđd: T. 3, tr. 480.

    [9] . Sđd: T. 2, tr. 220.

    [10] . Sđd: T. 2, tr. 490.


    - Còn tiếp -
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...