90. Côn Sơn ca Bấm để xem Côn Sơn hữu tuyền, Kỳ thanh lãnh lãnh nhiên, Ngô dĩ vi cầm huyền. Côn Sơn hữu thạch, Vũ tẩy đài phô bích, Ngô dĩ vi đạm tịch. Nham trung hữu tùng, Vạn lí thúy đồng đồng, Ngô ư thị hồ yển tức kì trung. Lâm trung hữu trúc, Thiên mẫu ấn hàn lục, Ngô ư thị hồ ngâm tiếu kì trắc. Vấn quân hà bất quy khứ lai, Bán sinh trần thổ trường giao cốc? Vạn chung cửu đỉnh hà tất nhiên, Ẩm thủy phạn sơ tùy phận túc. Quân bất kiến: Đổng Trác hoàng kim doanh nhất ổ, Nguyên Tái hồ tiêu bát bách hộc. Hựu bất kiến: Bá Di dữ Thúc Tề, Thú Dương ngạ tự bất thực túc? Hiền ngu lưỡng giả bất tương mâu, Diệc các tự cầu kì sở dục. Nhân sinh bách tuế nội, Tất cánh đồng thảo mộc. Hoan bi ưu lạc điệt vãng lai, Nhất vinh nhất tạ hoàn tương tục. Khâu sơn hoa ốc diệc ngẫu nhiên, Tử hậu thùy vinh cánh thùy nhục. Nhân gian nhược hữu Sào Do đồ, Khuyến cừ thính ngã sơn trung khúc. Côn Sơn là một ngọn núi ở xã Chí Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương (Bắc Việt), trên núi có động Thanh Hư, dưới có cầu Thấu Ngọc, đều là thắng cảnh (theo sách Quảng Dư Chí). Đời Trần, Trúc Lâm thiền sư dựng am ở đây, và trạng nguyên Lý Đạo Tái (tức sư Huyền Quang) sau khi từ chức trở về nhập thiền và trụ trì chùa Ân Tứ ở núi này. Triều Trần, quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, ông ngoại của Nguyễn Trãi, thường ngâm thơ uống rượu ở núi Côn Sơn sau khi từ chức vì can gián Hồ Quý Ly chuyên quyền mà không được. Tác giả từng thừa hưởng cơ ngơi của ngoại tổ. Bài ca này Nguyễn Trãi làm khi về nghỉ ở Côn Sơn, cạnh chùa Hun, nhân dịp sưu tập, sắp xếp tập thơ Băng Hồ Ngọc hác tập của Trần Nguyên Ðán, ông ngoại mình.
91. Quá hải Bấm để xem Bát tận nhàn sầu độc ỷ bồng, Thủy quang diểu diểu tứ hà cùng. Tùng Lâm địa xích cương Nam Bắc, Long Vĩ sơn hoành hạn yếu xung. Nghĩa khí tảo không thiên chướng vụ, Tráng hoài hô khởi bán phàm phong. Biển chu tiển ngã triều thiên khách, Trực giá kình nghê khóa hải Đông. Dịch nghĩa Gác bên mọi sầu muộn, một mình ta tựa mạn thuyền Ánh nước mênh mông khó tả sao cho hết ý Rừng tùng mở ra ranh giới chia Nam Bắc Núi Long Vĩ chặn ngay chỗ hiểm yếu Lòng nghĩa khí quét sạch mây mù Chí anh hùng gọi gió thổi căng nửa cánh buồm Thuyền con mừng ta làm khách đi chầu Thiên khuyết (Triều đình Trung Quốc) Cưỡi cá kình vượt biển Đông.
92. Tầm Châu Bấm để xem Tầm Châu thành hạ cổ bề thanh, Khách lộ hoàn yêm sổ nguyệt trình. Khê động hữu manh sơn bát vạn, Thú lâu xuy giốc nguyệt tam canh. Ngạn hoàng sắt sắt bi phong khởi, Giang thủy du du lữ mộng thanh. Lão ngã thế đồ gian hiểm thục, Trung tiêu bất mị độc thương tình. Dịch nghĩa Dưới thành Tầm Châu vang tiếng trống Hành trình của khách phải dừng lại ở đây mấy tháng Trong khe động có dân miền núi ở hàng vạn (tám vạn) Trên vọng gác vang tiếng tù và Bụi tre bên sông nổi tiếng gió buồn thảm Khách lữ hành mơ màng trên nước sông mênh mông Ta đã già, đường đời gian khó đã thấm nhuần Giữa đêm không ngủ, một mình riêng thương xót.
93. Bình Nam dạ bạc Bấm để xem Phiến phàm cao chiếm vãn phong khinh, Mộ túc Bình Nam cổ huyện thành. Đăng ảnh chiếu nhân hòa nguyệt ảnh, Thụ thanh xao mộng tính than thanh. Hồ sơn hữu ước vi sơ chí, Tuế nguyệt như lưu mạn thử sinh. Dạ bán thú lâu xuy họa giốc, Khách trung thê sảng bất thăng tình. Dịch nghĩa Cánh buồm giương phập phồng trong gió chiều thổi nhẹ Buổi tối tá túc ở huyện thành cổ Bình Nam Ánh đèn hòa cùng ánh trăng chiếu vào người Tiếng cây cùng với tiếng thác nước xua giấc mộng Chí nguyện trước với núi sông giờ đã bị vi phạm Năm tháng như trôi qua cuộc đời uổng phí Nửa đêm tù và thổi trên lầu canh Trong lòng khách thương xót khôn xiết.
94. Ngô Châu Bấm để xem Lộ nhập Thanh Ngô cảnh cánh gia, Ngạn biên dương liễu thốc nhân gia. Cửu Nghi tích thúy phong như ngọc, Nhị Quảng phân lưu thủy nhược xoa. Lâm Quán không văn phi bạch hạc, Tiên nhân bất kiến tụ thanh xà. Hỏa sơn băng tỉnh chân kỳ sự, Cựu tục tương truyền khủng diệc soa. Dịch nghĩa Đường đến Thanh Ngô (Ngô Châu) cảnh lại càng đẹp Dương liễu bên bờ rợp bóng nhà dân Núi Cửu Nghi màu biếc nom như ngọc Miền Lưỡng Quảng (Quảng Đông, Quảng Tây) dòng nước chia như rẽ đôi Đền Ngọc (Bạch hạc quán) thấy nói có hạc trắng bay Trong (bụi) cây tiên nhân chẳng thấy có rắn xanh tụ tập Núi lửa và giếng băng quả là chuyện lạ Tục xưa truyền lại e có sai chăng?
95. Du Nam Hoa tự Bấm để xem Thần tích phi lai kỷ bách xuân, Bảo Lâm hương hỏa khế tiền nhân. Hàng long phục hổ cơ hà diệu, Vô thụ phi đài ngữ nhược tân. Ðiện trắc khởi lâu tàng Phật bát, Kham trung di tích thuế chân thân. Môn tiền nhất phái Tào Khê thủy, Tẩy tận nhân gian kiếp kiếp trần. Dịch nghĩa Gậy thần tích bay đến đây đã mấy trăm xuân rồi Hương hỏa chùa Bảo Lâm họp cùng nhân duyên trước. Rồng giáng, hổ phục, mấy huyền vi thật thần diệu "Không cây, cũng không đài" lời nói nghe như mới Bên điện dựng lầu giữ gìn bát Phật Trong hộp còn ghi dấu nhưng chân thân đã giải thoát Một dòng suối Tào Khê tuôn trước cửa Rửa sạch bụi bám đời đời cho nhân gian
96. Thiều Châu Văn Hiến miếu Bấm để xem Phản trạng đương niên biện Yết nhi, Chí minh tiên kiến nhược thi quy. Tế thì nho thuật sinh bình hữu, Gián chúa trung ngôn tử hậu tri. Vạn cổ bất ma Kim giám lục, Thiên niên do hưởng Khúc giang từ. Cao phong truy tưởng hồn như tạc, Thủ phất thanh đài nhận thạch bi. Dịch nghĩa Kết tội phản trắc của bọn Yết nhi (chỉ An Lộc Sơn) năm xưa Sáng suốt thấy trước như bói quẻ (cỏ thi, mai rùa) Thuật của nhà nho giúp đời thường vốn có Lời trung can gián chúa sau khi chết rồi mới nhận ra Muôn thuở chẳng mòn tấm gương vàng được ghi lại Nghìn năm hướng lên từ đường (miếu tổ) ở sông Khúc Giang Phong độ cao quý nhớ lại hoàn toàn như mới hôm qua Dùng tay phủi lớp bụi rêu để nhận ra bia đá.
97. Quá lĩnh Bấm để xem Tiền cương nhật lạc mã hôi đồi, Hành tận Mai quan bất kiến mai. Giáp đạo thiên tùng xanh Hán lập, Duyên vân nhất lộ phách sơn khai. Trường An nhật cận liêu thư mục, Cố quốc thiên dao trọng cảm hoài. Đường tướng nhất tòng thông thử đạo, Bách tri kim kỷ bách niên lai. Dịch nghĩa Ở dốc núi phía trước mặt trời đã lặn, ngựa đã nhọc Đi đến (cửa ải) Mai quan mà chẳng thấy có mai Sát đường nghìn cây tùng (vươn lên) chống giải ngân hà Gần cõi mây một con đường xẻ núi mà đi Mặt trời đã xuống (kinh đô) Trường An, khiến tầm mắt tạm được thư thái Xa bầu trời cố quốc lòng nặng cảm hoài Khi tướng nhà Đường mở con đường này Đến nay chẳng biết đã mấy trăm năm rồi.
98. Giang Tây Bấm để xem Tự cổ Hồng Đô xưng thắng địa, Kim triêu khách lý tạm tương qua. Yên thu Nam Phố tình quang hảo, Nhật lạc Tây Sơn mộ cảnh gia (giai). Cáo kiết thành phong liên tục bạc, Từ chương hữu học trúng khoa đa. Tinh Dương thiết trụ kim do tại, Bi khắc thiên niên tiển dĩ hoa. Dịch nghĩa Từ xưa Hồng Đô nổi tiếng là thắng cảnh Sáng hôm nay trên đường khách đi tạm ghé qua Khói từ Nam Phố trời sáng tốt Mặt trời xuống ở Tây Sơn cảnh chiều đẹp Thói thưa gửi (kiện tụng, bươi móc) trở thành lệ khiến phong tục kém Có học từ chương nên thi cử đỗ nhiều Trụ sắt của (Hứa) Tinh Dương nay hãy còn Bia khắc nghìn năm đã lốm đốm rêu.
99. Thái Thạch hoài cổ Bấm để xem Thái Thạch tằng văn Lý trích tiên, Kỵ kình phi khứ dĩ đa niên. Thử giang nhược biến vi xuân tửu, Chỉ khủng ba tâm thượng túy miên. Dịch nghĩa Về sông Thái Thạch từn gnghe chuyện trích tiên họ Lý Cưỡi cá kình bay đi đã nhiều năm qua Ví thử (nước) sông ấy biến thành rượu xuân Ắt sẽ ngại ông còn mãi ngủ say dưới lòng sông! Thái Thạch là sông thuộc tỉnh An Huy, Trung Quốc. Tương truyền Lý Bạch (Lý Thái Bạch) đi thuyền uống rượu say, cúi xuống sông định bắt lấy ánh trăng nên chết đuối tại sông này. Nơi đây có xây một cái đài gọi là Tróc Nguyệt đài (đài bắt trăng). Lý Bạch tự cho mình là Hải thượng kỵ kình (khách cưỡi cá kình trên biển). Người đương thời bảo Lý Bạch là tiên bị đày xuống trần gian (Lý Trích Tiên). Đỗ Phủ, cùng thời với Lý Bạch, có câu: "Nhược phùng Lý Bạch kỵ kình ngư, Đạo Phủ vấn tấn kim hà như" (Nếu gặp Lý Bạch cưỡi cá kình, Thì bảo giùm rằng Phủ đây hỏi Bạch nay ra sao). Nguyễn Tôn Quai, thi nhân Việt Nam đời Hậu Lê, có câu thơ về Lý Bạch như sau: "Ẩm tàn giang quốc thiên ba nguyệt, Ngâm động tinh hà ngũ dạ thiên" (Uống hết bóng trăng trong nghìn sóng giữa sông, Ngâm lên cho chuyển động dòng sông Ngân Hà suốt đêm).