Tuyển Tập Truyện Ngắn Lỗ Tấn

Thảo luận trong 'Văn Học' bắt đầu bởi Phan Kim Tiên, 1 Tháng chín 2021.

  1. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Bài viết:
    2,079
    Xã hí

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Trong hai mươi năm kể ngược lên, tôi chỉ xem có hai lần bát tuồng Trung Quốc, mười năm trước dứt khoát không xem lần nào, vì không có ý và cũng không có dịp đi xem, còn hai lần đi xem đều ở về mười năm sau, nhưng mà rốt cuộc đều không xem được cái gì hết thì đi ra khỏi rạp.

    Lần thứ nhất là khi tôi mới đến Bắc Kinh, vào Dân quốc nguyên niên[2], bấy giờ một người bạn nói với tôi, hát tuồng Bắc Kinh hay lắm, sao anh không đi xem cho biết mùi đời? Tôi nghĩ, xem hát tuồng thú lắm, huống chi là ở Bắc Kinh. Thế rồi cùng nhau hăm hở đi đến cái rạp gì đó, tuồng đã giáo đầu rồi, bên ngoài cũng đã nghe tiếng trống thùng thùng. Chúng tôi chen vào cửa, trước mắt tôi vừa nhấp nhoáng những màu hồng màu lục, thì lại thấy dưới sân khấu lúc nhúc những cái đầu, để ý nhìn bốn phía, thấy ở giữa còn có mấy chỗ trống. Khi lấn mà vào cho được để mà ngồi, thì lại có người nói gì đó với tôi, tôi vì đã ù tai từ trước rồi, nên c trí lắm mới nghe ra hắn nói là có người rồi, không được!

    Chúng tôi lùi lại đằng sau, một người có đuôi sam láng bóng[3] lại dẫn chúng tôi đến gian bên, chỉ cho một chỗ ngồi. Cái chỗ gọi là chỗ ngồi ấy, vốn là một cái ghế dài, nhưng mà cái mặt ván để ngồi của nó so với cái đùi cảu tôi lại hẹp đến ba phần tư, cái chân của nó so với cái chân của tôi lại cao quá hai phần ba. Tôi trước tiên không có gan dám trèo lên, chợt lại liên tưởng đến thứ hình cụ tra tấn ngoài luật lệ, tự dưng bắt rởn ốc rùng mình tháo ra ngay.

    Đi một đỗi đường, bỗng nghe tiếng người bạn tôi hỏi: Chứ sao thế? Tôi quay mặt lại, thì té ra anh ta cũng bị lôi ra rồi. Rất lấy làm lạ, anh hỏi: Sao cứ đi một mạch, không trả lời? Tôi nói: Xin lỗi bạn, lỗ tai tôi đang bị tiếng thùng thùng xòe xòe làm ù đây, không nghe được câu nói của anh.

    Về sau, mỗi khi nghĩ đến, tôi rất lấy làm quái lạ, hình như lối hát tuồng ấy chẳng hay tí nào, nếu không thì là tôi gần nay không thích hợp sống còn[4] dưới sân khấu.

    Lần thứ hai quên là năm nào, tóm lại là khi quyên tiền giúp nạn lụt Hồ Bắc và Đàm Kiếu Thiên[5] chưa chết. Quyên bằng cách mua cái vé xem hát hai đồng bạc, được đến xem hát ở Đệ nhất võ đài, ở đó đóng tuồng phần nhiều là kép nhất, mà Tiểu Kiếu Thiên là một. Tôi có mua một vé, vốn là làm cho có đối với người đi quyên, nhưng rồi hình như có kẻ hiếu sự, nhân dịp bảo cho tôi biết cái lẽ quan trọng rằng đã có Kiếu Thiên thì thế nào cũng phải đi xem mới được. Thế rồi tôi quên hẳn cái nạn thùng thùng xòe xòe năm trước trót đi đến Đệ nhất võ đài, song chừng như nửa phần cũng vì đã mua cái vé báu quý kia bằng giá đắt thì phải sdj nó mới thỏa mãn. Tôi biết tin Kiếu Thiên lên sân khấu muộn, mà Đệ nhất võ đài là rạp hát kiểu mới, không cần giành chỗ ngồi, bèn lơ đễnh, chần chờ đến chín giờ mới ra đi. Ai ngờ người ta vẫn cứ đầy rạp, cả đến kiếm chỗ đứng cũng khó, tôi chỉ phải chen trong đám người đứng xa xem một vai đàu già đang hát trên sân khấu. Vai đàu già nọ ở khóe miệng cắm hai cái que quấn giấy châm lửa, bên cạnh có một thằng quỷ sứ, tôi nghĩ mãi, mới ngờ đó hoặc là bà mẹ của Mục Liên[6], vì về sau lại ra một vị hòa thượng nữa. Nhưng tôi không biết cái người đóng vai ấy là ai, bèn hỏi một vị thân sĩ mập bị lấn bẹp bên trái tôi. Ông ta ra dáng không thèm đếm xỉa, liếc tôi nửa mắt, nói: Củng Vân phủ! [7] . Tôi hổ mình đã quê mùa lại thô vụng, trên mặt thấy nóng, đồng thời trong óc cũng đặt ra một điều luật là nhất định từ đây không hỏi nữa. Thế rồi xem đàu tơ hát, xem đàu điên hát, xem kép già hát, xem vai gì đó hát, xem một đám người đánh nhau, xem hai ba người đánh nhau, từ chín giờ hơn đến mười giờ, từ mười giờ đến mười một giờ, từ mười một giờ đến mười một giờ rưỡi, từ mười một giờ rưỡi đến mười hai giờ, nhưng mà Kiếu Thiên vẫn còn chưa thấy.

    Từ hồi nào đến giờ tôi chưa hề nhịn nhục chầu chực một cái gì lâu như vậy, thêm nữa, cái hơi thở phù phù của ông thân sĩ mập bên cạnh mình, cái tiếng đánh thùng thùng xòe xòe trên sân khấu, cái vờn lượn của vô số màu hồng màu lục, lại thêm mười hai giờ, bỗng làm tôi nghĩ thấy mình không thích hợp sống còn ở chỗ này. Đồng thời tôi bèn xoay mình như cái máy, cố sức chen một cái ra ngoài, thì thấy sau lưng đã lại kíp cả rồi, đại khái cái ông thân sĩ mập hay co hay giãn ấy đã giãn nửa người ra lấp chỗ trống của tôi. Tôi không đường quay lại, cố nhiên phải chen và chen, cuối cùng thoát được ra cổng. Trên đường phố, ngoài những chiếc xe đậu để chờ khách, hầu như không có người đi, song chỗ cổng lại có mấy người ngửng đầu xem chương trình buổi hát, còn một đống người đứng mà không xem gì hết, tôi tưởng, có lẽ họ đứng để xem phụ nữ đi ra sau khi tan rạp, thế mà Kiếu Thiên cũng vẫn còn chưa thấy..

    Song le khi trời ban đêm rất trong sáng, thật như ta quen nói ngấm vào lòng người, tôi ở Bắc Kinh gặp phải cái không khí tốt lành ấy, lần này chừng như là lần thứ nhất.

    Đêm ấy tức là đêm tôi từ giã hát tuồng Trung Quốc, sau đó không hề nghĩ đến nó nữa, dù có đi ngang qua rạp hát, nó với tôi cũng phớt nhau, về mặt tinh thần, đã là một ở trời nam, một ở đất bắc rồi.

    Nhưng mấy hôm trước đây, tôi tình cờ xem một cuốn sách chữ Nhật, đáng tiếc là quên mất tên sách và tên tác giả, tóm lại là sách ấy nói về hát tuồng Trung Quốc. Trong đó có một thiên, đại ý nói, hát tuồng Trung Quốc đánh thổi rộn, la to, nhảy múa nhiều, khiến người xem nhức đầu long óc, rất không thích hợp với sân khấu, song nếu ở chỗ lanh lan ngoài đồng trống, đứng xa xa mà xem, thì nó lại có phong thú riêng của nó. Khi đọc đó, tôi thấy sách ấy đã nói cái điều sẵn có trong ý tôi mà chưa hề nghĩ đến, bởi vì tôi nhớ chắc chắn rằng mình từng xem hát tuồng rất hay ngoài đồng trống, sau khi đến Bắc Kinh, luôn hai lần vào rạp hát, có lẽ cũng vì chịu ảnh hưởng của lần xem này. Tiếc cho không biết thế nào tôi nhè quên khuấy tên sách.

    Đến như cái buổi tôi xem hát hay ấy, thực ra đã cách lâu lắm rồi, lúc đó ước chừng tôi mới mười một mười hai tuổi. Theo thói quen Lỗ Trấn chúng tôi, hễ con gái xuất giá rồi, mà chưa coi việc nhà, thì đến mùa hè đại để đều về nghỉ hè ở nhà mẹ. Bấy giờ bà nội tôi tuy còn mạnh, mẹ tôi cũng đã gánh đỡ việc nhà, cho nên cả mùa hè không về thăm lâu được, chỉ phải đợi khi dẫy mã xong rồi, thừa lúc rỗi về ở mấy ngày. Hàng năm vào dịp ấy, tôi bèn theo mẹ tôi về ở nhà bà ngoại tôi. Nơi đó gọi là làng Bình Kiều, là một làng nhỏ gần sông, cách bờ biển không xa, rất hẻo lánh. Cả làng không đầy ba chục nhà, đều làm ruộng, đánh cá, chỉ có một tiệm hàng xén rất nhỏ. Song đối với tôi thì là đất vui, vì tôi ở đó chẳng những được chiều chuộng mà còn khỏi phải đọc "Trật trật tư can, u u man man" [8] .

    Có nhiều người bạn nhỏ cùng đi chơi với tôi. Nhân vì có khách đường xa, nên họ đều được cha mẹ cho phép bớt giờ làm việc, đến cùng tôi chơi nhởi. Ở làng nhỏ, khách của một nhà hầu như là khách chung của mọi nhà. Tuổi chúng tôi xuýt xoát nhau, song kể về thế thứ thì lại ít nhất cũng là vai chú, có mấy người còn là vai ông, bởi vì cả làng cùng một họ, bà con với nhau cả. Nhưng mà chúng tôi là bạn, ví phỏng tình cờ đâm ra rầy lộn, cháu đánh ông, cả làng từ già đến trẻ cũng quyết chẳng có một ai có thể nghĩ được ra hai chữ "phạm thượng", vả lại chín mươi chính phần trăm giữa bọn họ đều là không biết chữ.

    Việc chúng tôi làm hằng ngày là đi đào con giun, đem móc vào lưỡi câu uốn bằng sợi chỉ đồng, rồi ngồi ở bờ sông câu tôm. Tôm là thứ đồ khờ dại trong thế giới nước, nó không ngại lấy hai cái càng bợ lấy lưỡi câu đưa vào trong mồm, cho nên không đầy nửa buổi có thể câu được một bát lớn. Những tôm ấy, theo lệ là về phần tôi ăn. Thứ đến là cùng đi thả trâu, song có lẽ vì nó là động vật bậc cao, cho nên trâu hay bò đều dể người kẻ lạ, nó dám khinh nhờn tôi, thành tôi cũng không dám đến gần nó, cứ phải đi theo hay là đứng cách xa nó. Những khi ấy, các bạn nhỏ chẳng còn vì tôi biết đọc "Trật trật tư can" mà nể nang tôi, cả bọn lại đâm ra cười nhạo tôi.

    Đến như cái điều tôi trông mong nhất trong khi ở đó, lại là điều đi xem hát ở làng Triệu. Làng Triệu là làng khá lớn cách làng Bình Kiều năm dặm ; làng Bình Kiều nhỏ quá, tự mình không sắm nổi một chầu hát, nên hằng năm cứ đụng với làng Triệu một số tiền, kể như là hát chung. Bấy giờ tôi cũng không hề nghĩ đến vì lẽ gì mà họ cứ mỗi năm mỗi hát. Bây giờ nghĩ thấy, hoặc giả đó là hát mừng mùa xuân, tức gọi là "xã hí".

    Cái năm mà tôi mười một mười hai tuổi đó, ngày hát lệ ấy trông chừng đã đến. Không ngờ cái năm ấy thật đáng tiếc, buổi sáng thuê không được thuyền. Làng Bình Kiều chỉ có một chiếc đò dọc sáng đi chiều về là thuyền lớn, không lẽ nào choán lấy mà dùng riêng. Còn bao nhiêu đều là thuyền nhỏ, không dùng được ; cậy người đi thuê ở làng khác, cũng không có, đều cho người khác thuê trước cả rồi. Bà ngoại tôi giận lắm, cằn rằn người nhà sao không thuê trước. Mẹ tôi bèn khuyên giải bà, nói hát tuồng ở Lỗ Trấn chúng tôi hay hơn ở làng nhỏ nhiều, đã xem mấy lần, hôm nay không xem cũng được. Chỉ có tôi bực tức muốn khóc, mẹ tôi hết sức dỗ dành tôi, nói không nên làm nũng, sợ làm cho bà ngoại giận, lại không chịu để tôi đi với người khác, nói vì sợ bà ngoại không an tâm.

    Thế là hết chuyện. Đến buổi chiều, các bạn tôi đều đi cả, tuồng hát đã giáo đầu, tôi mường tượng nghe thấy tiếng đồng là trống chiến, vả lại biết các bạn tôi đang mua sữa đậu nành ăn dưới sân khấu.

    Cả ngày hôm ấy tôi không đi câu tôm, cũng ít ăn cái gì. Mẹ tôi lo lắm, không biết nghĩ làm sao. Đến lúc ăn cơm chiều, bà ngoại tôi cũng biết được, bà nói tôi buồn là phải lắm, chúng nó dể duôi quá, thuở nay trong phép đãi khách không có đâu bất lịch sự như thế. Sau bữa cơm, các bạn nhỏ đi xem hát về cũng rủ nhau đến, say sưa kể lại những lớp tuồng. Chỉ có tôi không nói năng gì ; bọn họ đều than thở và tỏ ý bất bình hộ tôi. Thình lình, Song Hỉ, một người rất thông minh trong bọn, như sực nhớ ra, đưa ra một đề nghị. Hắn nói: "Cần phải có thuyền lớn à? Chiếc đò dọc của Chú Tám chẳng đã về rồi là gì?". Mười mấy người bạn nhỏ khác cũng sực nhớ ra, mỗi người xúi vào một tiếng, nói có thể cùng đi với tôi bằng chiếc đò dọc ấy. Tôi thấy vui lên. Nhưng bà ngoại tôi sợ cả lũ đều trẻ con, không tin cậy được ; mẹ tôi lại nói nếu bảo một người lớn cùng đi, ai nấy ban ngày đều có công việc làm, bắt họ thức đêm là không hợp lẽ. Trong lúc dùng dằng ấy, Song Hỉ thấy ngay được chỗ mấu chốt, bèn lớn tiếng nói rằng: "Tôi xin viết tờ cam đoan! Thuyền đã lớn, anh Tấn lại không hề chạy lung tung, chúng tôi đây lại đều là tay dạn nước!".

    Thật thế! Mười mấy người bạn nhỏ đó thật ra không có một người nào là không biết lội lặn, vả lại có vài ba kẻ còn là thiện nghệ nữa kia.

    Bà ngoại và mẹ tôi có ý tin, không bẻ bác nữa, đều mỉm cười. Tức thì chúng tôi ồn ào kéo nhau ra khỏi cổng.

    Quả tim nặng nề của tôi bỗng thấy nhẹ nhõm, cả người tôi cũng như là vươn lớn lên đến không hình dung ra được. Vừa ra khỏi cổng, thấy chiếc đò dọc mui trắng đậu ở gầm cầu Bình Kiều dưới ánh trăng. Mọi người nhảy xuống thuyền, Song Hỉ nhổ sào mũi, A Phát nhổ sào lái, những đứa nhỏ nhất ngồi với tôi ở trong khoang, những đứa lớn hơn ngồi ở sau lái. Khi mẹ tôi đưa ra đến nơi, dặn "phải cẩn thận", thì chúng tôi đã bắt đầu cho thuyền đi, nống trên hòn đá cầu một cái, lùi lại mấy thước, liền trồi tới đằng trước ra khỏi cầu. Thế rồi gác hai cái chèo lên, mỗi cái hai người, cứ một dặm đường thay tay một lần. Trong thuyền có nói cười, có la ó, kèm theo tiếng rạch nước róc rách ở mũi thuyền, dọc theo giữa dòng sông mà hai bên đều là ruộng lúa và đậu xanh nghít, chiếc thuyền nhằm làng Triệu tiến lên như bay.

    Mùi thơm dịu dàng của lúa đậu hai bên bờ và của rong cỏ dưới sông, lẩn trong hơi nước thoáng đưa vào mặt ; ánh trăng lờ mờ ở trong cái hơi nước ấy. Những dãy núi màu đen nhạt chỗ trồi chỗ sụt, giống như cái lưng con thú bằng sắt đang nhảy, đều xa xa nhằm phía lái thuyền nhảy đi mất, thế mà tôi còn cho là thuyền đi chậm. Họ thay tay chèo bốn lần, dần dần như trông thấy làng Triệu, lại như nghe được tiếng trống hát, còn có mấy đốm lửa, đó là đèn của rạp hát, song cũng có thể là đèn của thuyền đánh cá.

    Tiếng kia đại khái là tiếng sáo, trầm bổng, véo von, làm cho quả tim tôi cũng chìm lặng, song lại tự quên mình đi mất, thấy như mình cùng với nó tan ra trong hơi đêm ngấm mùi thơm của lúa đậu và rong cỏ.

    Đến gần đốm lửa, quả nhiên là đèn của thuyền đánh cá ; tôi mới nhớ ra cái chỗ hồi nãy trông thấy cũng không phải là làng Triệu. Đó là một cụm rừng thông ngay trước mũi thuyền, năm ngoái tôi từng đi chơi qua đó, còn xem thấy con ngựa đá sứt mẻ nằm dưới đất, con dê đá ngồi trong cỏ. Qua khỏi cái rừng ấy, thuyền rẽ vào ngã ba sông, đây mới thật nhìn thấy làng Triệu rồi.

    Chọc vào mắt trước hết là cái đài sân khấu[9] đứng sựng trên đất trống ven sông bên ngoài làng, nó mường tượng ở trong đêm trăng xa tắp, hầu như không nhìn ra được là ở chỗ nào trong không gian, tôi đã ngờ rằng cái cảnh tiên mình từng thấy trong tranh vẽ, chính nó xuất hiện ở đây rồi. Lúc đó thuyền đi càng nhanh hơn, chẳng bao lâu, thấy rõ các vai trò trên sân khấu, nhúc nhích những màu hồng màu lục ; và giữa sông gần sân khấu, trông một đám đen ngòm, đó là mui thuyền của những người đi xem.

    "Gần sân khấu không có chỗ nào trống rồi, chúng ta đậu thuyền xa xa mà xem." A Phát nói.

    Lúc này thuyền đã đi chậm, một lát thì đến, quả thật không đến gần sân khấu được, chỉ phải cắm sào ở chỗ so với cái bàn thơ thần[10] ngay sân khấu còn xa hơn. Thực ra tì cũng bởi thuyền của chúng tôi mui trắng, không muốn đậu chung một chỗ vói những thuyền mui đen, huống chi là không còn có chỗ trống nào..

    Trong khi vội vã cắm thuyền, thấy trên sân khấu có một người râu dài mà đen, trên lưng giắt bốn lá cờ lệnh, cầm giáo dài, đang đánh trận với một tốp người ở trần. Theo lời Song Hỉ, đó là kép đầu sắt nổi tiếng, có thể lộn nhào luôn tám mươi bốn keo một lúc, chính hắn lúc ban ngày đã đếm.

    Chúng tôi bèn chen nhau ngồi ở đầu mui thuyền xem đánh trận, nhưng anh kép đầu sắt kia không lộn nhào, chỉ có mấy người ở trần lộn nhào thôi, lộn nhào một mẻ rồi đi vào hết. Tiếp đó là một vai đàu tơ ra, ê ê a a hát. Song Hỉ nói: "Ban đêm người xem có ít, kép đầu sắt cũng mệt rồi, ai lại chịu trổ tài để chẳng có ma nào thưởng thức?". Tôi cho nói thế là đúng, vì khi đó dưới sân khấu đã thưa người, người nhà quê ngày mai phải làm việc, không thức đêm được, đã đi ngủ hết, những người còn đứng rải rác chẳng qua mấy chục kẻ vô công rồi nghề ở làng đó và làng bên ; còn những vợ con của bọn phú ông trong những thuyền mui đen thì vẫn có đó, nhưng chúng không thiết gì xem hát ; phần nhiều là đến đây để ăn bánh ngọt, trái cây, và cắn hột dưa. Cho nên có thể nói gọn là không có ma nào.

    Nhưng mà trong ý tôi lại cũng không thiết gì xem lộn nhào. Vai trò tôi thích xem là vai tinh rắn do một người lợp vải trắng, hai tay bưng cái đầu rắn giống một cái gậy trên đầu mình, thứ đến là vai cọp nhảy do một người đội lốt vải vàng đóng. Song le đợi đã lâu mà đều chẳng thấy, vai đàu tơ tuy vào rồi, tức khắc lại ra một vai kép rất già. Tôi thấy hơi mệt, nhờ Quế Sinh đi mua sữa đậu nành. Hắn đi một lát, rồi trở về nói: "Không có, cái anh điếc bán sữa đậu nành cũng đi về rồi. Ban ngày thì có, tôi có ăn hai bát. Bây giờ thì tôi đi múc một bầu nước cho cậu uống nhỉ."

    Tôi không uống nước, cứ cố rán để xem, nhưng cũng không xem hẳn ra được cái gì, chỉ thấy những cái mặt của vai tuồng dần dần có hơi kỳ quái, miệng mũi tai mắt lu mờ đi, như là nhào thành một khối không có gì cao thấp. Mấy đứa nhỏ thì ngáp, mấy đứa lớn thì chăm nói chuyện với nhau. Thình lình một vai hề mặc áo đỏ bị trói ở cây cột trên sân khấu, để cho một ông râu bạc đánh bằng roi ngựa, mọi người mới lại hăng hái lên vừa cười vừa xem. Theo tôi, đó là một lớp tuồng rất hay trong một đêm hát ấy.

    Nhưng mà rốt lại, vai đàu già lại ra. Đàu già là thứ mà tôi rất sợ, sợ nhất là khi ngồi xuống và hát. Lúc đó, thấy mọi người đều cụt hứng, mới biết họ cũng cùng có một ý kiến với tôi. Ban đầu đàu già còn đi qua đi lại hát, đến sau, quả đã ngồi xuống trên ghế bành ở chính giữa. Tôi lo lắm. Bọn Song Hỉ thì lại vọt miệng rầm rì chửi. Tôi cố rán chờ xem, đã bao lâu mới thấy đàu già đưa tay lên một cái, tôi tưởng là hắn sẽ đứng dậy. Té ra không phải, hắn lại từ từ thả tay xuống, vẫn cứ hát. Trong thuyền, có mấy đứa cứ thở ra mãi, còn mấy đứa cũng cứ ngáp. Cuối cùng Song Hỉ chịu không nổi nữa, nói rằng e nó còn hát mãi cho đến sáng, thôi thì chúng ta đi về là hơn. Mọi người liền đồng ý, hăng hái cũng như hồi bắt đầu đi, ba bốn người chạy ra đằng lái, nhổ sào, lùi một ít, quay mũi thuyền lại, gác chèo lên, cứ vừa chửi đàu già, vừa cho thuyền nhằm rừng thông thẳng tới.

    Trăng vẫn chưa lặn, thấy như xem hát cũng không lâu mấy, và, vừa đi khỏi làng Triệu, ánh trăng lại càng tỏ rạng mười phần. Quay nhìn đài sân khấu ở trong ánh sáng đèn, cũng như hồi mới đến, mường tượng một tòa lâu đài trên non tiên, bị ráng đỏ vây bọc, tiếng sáo lại thổi đến bên tai rất véo von ; tôi nghĩ rằng bây giờ đàu già đã đi vào rồi, song cũng không buồn nói trở lại xem.

    Một chốc chi đó, thuyền đã bỏ rừng thông rồi, nó đi cũng không chậm, có điều bốn phía bóng đen dày đặc, biết rằng đêm đã khuya lắm. Bọn họ một mặt bàn luận các vai tuồng, kẻ thì cười, người thì chửi, một mặt gấp sức lên chèo thuyền. Lần này tiếng mũi thuyền rạch nước lại càng vang dội, chiếc đò dọc khác nào một con cá trắng lớn cõng một bầy trẻ con vượt trên hoa sóng, cả đến mấy ông chài chài đêm cũng ngừng xuồng lại xem và vỗ tay reo mừng.

    Cách làng Bình Kiều còn có chừng một dặm. Thuyền lại đi chậm rồi. Những tay chèo đều kêu mệt quá, vì dùng sức nhiều quá. Mà lại từ tối đến giờ không có gì ăn. Lần này do Quế Sinh nghĩ ra một kế, hắn nói đậu la hán[11] đã no hột, củi lửa lại có sẵn, chúng ta có thể đi lấy trộm một ít luộc đi mà ăn. Ai nấy đều tán thành, tức khắc cắm thuyền gần bờ ; những đám ruộng trên bờ hiện ra màu đen mơn mởn, đều là đậu la hán sai trái.

    Này A Phát này, bên kia là đậu của nhà mầy, bên kia là của nhà Già Sáu, chúng ta nên lấy của bên nào? Song Hỉ nhảy xuống nước, đứng trên bờ hỏi như thế.

    Chúng tôi cũng nhảy lên bờ. A Phát vừa nhảy lên, vừa nói: Khoan đã, để tôi xem thử xem. Thế rồi hắn đi qua đi lại sờ soạng một lúc, rồi đứng thẳng lên nói rằng: Lấy của cto đi, đậu của chúng tôi to hơn nhiều. Một tiếng ừ, mọi người di tản ra trong đám đậu nhà A Phát, mỗi người hái một nạm lớn, ném vào trong khoang thuyền. Song Hỉ bàn rằng nếu lấy nhiều nữa và nếu mẹ A Phát biết được thì sẽ khóc và chửi cho, thế rồi ai nấy tạt sang ruộng ông cụ Sáu, mỗi người lại lấy một nạm lớn nữa.

    Mấy đứa lớn tuổi trong chúng tôi vẫn chèo thuyền chậm chậm, mấy đứa nữa đến khoang lái nhen lửa, còn mấy đứa nhỏ và tôi thì bóc đậu. Một lát đậu chín, bèn thả thuyền lềnh bềnh trên mặt nước, xúm lại lấy tay bốc đậu ăn. Ăn xong, lại chèo đi, một mặt dọn rửa đồ đạc, ném cả vỏ đậu dưới sông, không còn có tang tích gì cả. Song Hỉ lo nhất là đã dùng muối và củi trong chiếc đò dọc của ông cụ Tám, ông cụ này tinh lắm, thế nào cũng sẽ biết, sẽ mắng cho. Nhưng mà sau khi mọi người bàn luận rồi, rốt câu lại không sợ. Ông cụ nếu mắng thật, thì chúng ta sẽ đòi ông trả lại cành cây bách khô bên bờ sông mà năm ngoái ông đã nhặt đi, lại còn ngay trước mặt gọi ông là thằng Tám hủi.

    Về cả đây rồi! Nói có sai đâu? Tôi đã nói viết tờ cam đoan kia mà? Song Hỉ đứng ở mũi thuyền bỗng dưng nói to lên.

    Tôi nhìn phía mũi thuyền, đằng trước đã là cầu Bình Kiều rồi. Một người đứng ở gầm cầu, thì ra chính là mẹ tôi. Song Hỉ nói là đối với mẹ tôi mà nói. Tôi chạy ra khoang mũi, thuyền cũng đã tới sát cầu, cắm sào rồi, chúng tôi rộn rịp kéo lên bờ. Mẹ tôi có ý không ưng, nói đã quá canh ba rồi, sao mà về trễ thế, nhưng rồi cũng vui lên, cười và mời hết thảy về nhà ăn ngô rang.

    Ai nấy đều nói đã ăn lót lòng rồi, lại buồn ngủ, tốt hơn là đi ngủ sớm, thế rồi ai về nhà nấy.

    Ngày hôm sau, đến trưa tôi mới thức dậy, không nghe thấy có chuyện lôi thôi gì với ông cụ Tám về muối và củi, buổi chiều vẫn đi câu tôm.

    Song Hỉ, chúng bay đồ tiểu yêu, tối hôm qua ăn trộm đậu của tao chứ gì? Lại không chịu hái cho tử tế, đạp dập đi hết một mớ. Tôi ngước đầu lên, thì là ông cụ Sáu đang chèo chiếc thuyền con đi bán đậu về, trong thuyền còn có một đống đậu không bán hết.

    Phải đấy. Chúng tôi đãi khách đấy. Ban đầu chúng tôi cũng không nghĩ đến lấy của ông đâu. - ủa hay, ông đuổi tôm của tôi chạy mất cả rồi! Song Hỉ nói.

    Ông cụ Sáu thấy tôi, liền ngừng chèo, cười và nói: Đãi khách đấy à? - Thế thì nên lắm. Rồi nói với tôi: Cậu Tấn, hôm qua hát có hay không?

    Tôi gật đầu một cái, nói: Hay.

    Đậu ăn có khá không?

    Tôi lại gật đầu, nói: Ngon lắm.

    Không ngờ ông cụ Sáu ra dáng cảm động khác thường, giơ ngón tay cái lên, hể hả nói: Thật là người có học ở thành phố lớn có khác, biết người biết của! Đậu của tôi chọn từng hột giống đấy, người nhà quê không biết thế nào là tốt thế nào là xấu, lại nói đậu của tôi không bằng đậu người ta. Hôm nay tôi phải đem biếu một ít cho cô nhà ta[12] ăn thử xem.. Thế rồi ông cụ chèo thuyền đi.

    Đến khi mẹ tôi gọi tôi về ăn cơm chiều, trên bàn có một bát đậu la hán nấu chín, tức là của ông cụ Sáu biếu mẹ tôi và tôi ăn đấy. Nghe nói ông còn đối với mẹ tôi khen tôi hết lời mà rằng: Chưa mấy tuổi mà có kiến thức, thế nào sau cũng đỗ trạng nguyên. Cô nè, có thể cầm chắc mười mươi rằng cô sẽ được sung sướng. Song le tôi ăn đậu thì lại thấy không ngon bằng đêm hôm qua.

    Thật đấy, cho đến bây giờ, tôi chưa được ăn đậu nào ngon như đêm hôm ấy, - cũng chưa hề được xem hát nào hay như đêm hôm ấy.

    Tháng 10, năm 1922

    (Dịch ở Nột hám)
     
    Nguyễn Ngọc NguyênLibra1110 thích bài này.
  2. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Bài viết:
    2,079
    Trên lầu tiệm rượu

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tôi từ đất bắc đi đường xuống đông nam, nhân tạt về thăm quê nhà, bèn đến thành S[1] . Thành này cách làng quê tôi chỉ độ ba mươi dặm, đi thuyền nhỏ, non nửa ngày thì đến được, tôi từng làm thầy giáo trong một trường học ở đó một năm. Giữa mùa đông, sau cơn tuyết, phong cảnh đìu hiu, cái mối tình bơ phờ và nhớ cũ cùng xoắn xuýt lên một lúc, làm tôi phải tạm nghỉ lại trong phòng nghỉ Lạc Tư ở thành S ; phòng nghỉ này trước kia vốn chưa có. Trong thành không rộng mấy, đi tìm thăm mấy người đồng sự cũ mà mình tưởng là có thể gặp được, thì không gặp một người nào, chẳng biết họ đã tan tác đi đâu ; đi ngang qua cửa trường học, tên trường và bộ dạng cũng đều thay đổi, đối với tôi rất xa lạ. Trong không đầy hai giờ, tôi thấy không còn có hứng thú gì hết, hơi ăn năn cái sự mình đến đây là thừa.

    Cái phòng nghỉ tôi trọ chỉ cho thuê buồng mà không bán cơm, phải mua cơm và thức ăn ở ngoài, nhưng dở lắm, cho vào miệng phát chối. Ngoài cửa sổ chỉ có vách tường loang lổ vết nước mưa, dán những rêu meo chết đứng ; bên trên là trời màu chì, trắng ngà ngà không có vẻ sáng trời, hoa tuyết lại bay lác đác. Bữa cơm trưa tôi ăn không no, vả lại không có món gì để tiêu khiển, tự nhiên nhớ đến cái tiệm rượu rất quen trước kia tên là Nhất thạch cư, kể thì cách phòng nghỉ cũng chẳng bao xa. Thế rồi tôi liền khóa cửa buồng, ra đường phố đi đến tiệm rượu ấy. Thực thì cũng chỉ muốn chạy trốn cái buồn tẻ trong khi tác khách, chứ không cốt mua một bữa say. Nhất thạch cư vẫn còn đó, cái tiệm chật hẹp ẩm thấp và cái bảng chiêu hàng cũ kỹ vẫn y như trước, có điều từ chủ quày đến phổ ky lại đều không có một người nào quen, trong tiệm Nhất thạch cư tôi cũng thành ra một người khách lạ hoàn toàn. Nhưng mà tôi cũng cứ bước lên cái thang gác đã đi quen ở góc nhà mà đến thẳng trên lầu. Trên đó cũng vẫn là năm cái bàn nhỏ ; chỉ có cái cửa sổ phía sau nguyên là song gỗ thì đã đổi bằng cửa kính.

    Một cân rượu Thiệu[2] . Còn thức nhắm? Mười cái đậu rán, tương ớt phải cho nhiều!

    Tôi một mặt bảo người phổ ky đang theo tôi lên lầu, một mặt đi ngay đến cửa sổ phía sau, ngồi ở cạnh một cái bàn kề cửa sổ. Trên lầu vắng tanh vắng ngắt, tha hồ tôi chọn được chỗ ngồi rất tốt, có thể dòm xuống cái vườn hoang dưới lầu. Cái vườn này chừng là không thuộc về tiệm rượu, tôi trước kia từng dòm qua bao lần, có lần cũng ở trong trời tuyết. Nhưng hiện giờ lấy con mắt quen với phương bắc mà xem, lại rất đáng lấy làm lạ: Mấy gốc mai già hợm hĩnh ganh đua với tuyết cứ nở đầy hoa, hình như bất chấp cả mùa đông lạnh lẽo ; cạnh cái chòi sập đổ ; còn có một cây sơn trà, từ trong những chòm lá xanh sẫm ló ra mười mấy bông hoa đỏ, sáng dọi trong tuyết như màu lửa, coi bộ tức giận mà ngạo nghễ, dường muốn coi khinh người du khách cam chịu đi xa. Tôi khi ấy thình lình nghĩ đến tuyết đọng ở đây nhuần đẫm, dính vào vật gì thì bám lấy, sáng có ngời, không như tuyết phương bắc khô rời như bột, một cơn gió mạnh là bay đầy trời như khói ngút..

    Ông khách rượu đây..

    Chú phổ ky lơ lửng nói, đặt chén, đũa, ve rượu và bát đĩa xuống bàn, thế là rượu đã đến. Tôi quay mặt lại cái bàn, sắp dọn các thứ, rót rượu ra. Nghĩ thấy phương bắc vốn chẳng phải quê hương của mình, mà về phương nam lại chỉ kể được là một người khách, mặc dầu tuyết khô ở bên đó bay rối rít như thế nào, tuyết nhủn ở đây đọng lại đặm đà như thế nào, với tôi cũng đều không có quan hệ gì cả. Tôi có vẻ hơi buồn rầu, nhưng lại uống một ngụm rượu rất khoan khoái. Giọng rượu thật đúng[3] ; đậu rán rán cũng khéo mười phần ; chỉ tiếc tương ớt nhạt quá, vốn tính người thành S không biết ăn cay.

    Có lẽ là vì đang giữa buổi chiều, ở đây tuy nói là tiệm rượu mà không có màu tiệm rượu chút nào, tôi đã uống hết ba chén rồi mà ngoài tôi ra vẫn còn là bốn cái bàn không. Tôi mải nhìn cái vườn hoang dần dần cảm thấy mình cô độc, song lại không muốn có người khách rượu nào khác. Tình cờ nghe thấy tiếng bước lên thang gác, tự dưng có hơi bực mình, đến khi thấy là chú phổ ky, mới lại yên lòng, thế rồi lại uống hai chén nữa.

    Lần này nghe tiếng bước đi chậm hơn tiếng của phổ ky, tôi nghĩ chắc chắn là khách rượu rồi. Liệu chừng khi đi lên khỏi thang gác, tôi dường như sợ sệt ngước nhìn kẻ đồng bạn không can cập gì tới mình, và đồng thời cũng giật mình đứng dậy. Tôi có ngờ đâu ở chốn này thình lình gặp lại người bạn - giá phỏng người ấy hiện giờ vẫn cho phép tôi gọi mình là bạn. Cái người đi lên kia rõ ràng là bạn đồng học của tôi, cũng là bạn đồng sự cũ khi tôi làm thầy giáo, tuồng mặt tuy có hơi đổi khác, song thấy thì nhìn ra được ngay, chỉ có cất nhắc lại chậm chạp thế nào ấy, thật không giống với Lã Vĩ phủ là người nhanh nhẹn tinh ranh thuở nọ.

    A, - Vĩ phủ, là anh đấy à? Tôi không ngờ đâu lại gặp anh ở đây.

    A a, té ra là anh? Tôi cũng không ngờ đâu..

    Tôi mời anh ta cùng ngồi, song anh hình như ngần ngừ một chút rồi mới ngồi xuống. Trước tiên tôi rất lấy làm lạ, tiếp đó có hơi buồn thương và đâm nản. Xem kỹ dáng bộ anh ta, cũng vẫn là râu tóc bờm xờm, cái mặt vuông mà dài và trắng xanh, nhưng đã gầy tóp. Tinh thần anh ta rất trầm tĩnh, hay lại là đồi đường ; cặp con mắt dưới chang mày vừa rậm vừa đen không còn có vẻ sáng sủa, nhưng khi chậm rãi nhìn quanh bốn phía, nhìn đến cái vườn hoang, bỗng lòe ra cái tia sáng bắn vào người mà tôi thường thấy trong lúc còn ở trường học.

    Chúng mình, tôi vui lên, nói, nhưng mà không được tự nhiên, chúng mình biệt nhau lần ấy, e có đến mười năm rồi. Tôi vốn đã biết anh ở Tế Nam, có điều tổ làm biếng, không hề viết cho nhau một bức thư..

    Ai thì cũng thế. Song hiện giờ tôi đã ở Thái Nguyên rồi, ở đó hơn hai năm nay với mẹ tôi. Khi tôi về đón mẹ tôi, mới biết anh đã dọn đi rồi, dọn sạch hết cả.

    Anh ở Thái Nguyên làm gì? Tôi hỏi.

    Dạy học, ở nhà một người đồng hương.

    Trước đó anh làm gì?

    Trước đó à? Anh ta móc trong túi áo ra một điếu thuốc châm lửa ngậm vào mồm, nhìn tia khói phì ra, hình như suy nghĩ gì, nói: Cũng lại chỉ làm những việc tẻ ngắt, cầm như chẳng có làm gì hết.

    Anh ta cũng hỏi về tình hình tôi sau khi biệt nhau ; tôi một mặt bảo cho biết qua loa, một mặt gọi phổ ky lấy thêm chén đũa, để anh uống trước rượu của tôi, rồi mới gọi thêm hai cân nữa. Còn có việc chấm thức ăn: Trước kia giữa chúng tôi vốn không có khách tình gì cả, nhưng bây giờ thì đâm ra nhường nhau, rốt lại không biết thức ăn nào là do người nào chấm, cứ theo miệng chú phổ ky kể ra bốn món đã được chấm là đậu hồi hương, thịt đông, đậu rán và khô cá.

    Tôi trở về đây một cái, liền nghĩ thấy mình đáng buồn cười. Anh ta một tay cầm điếu thuốc, một tay nâng chén rượu giống như cười mà không phải cười, nói với tôi: Tôi hồi còn nhỏ, thấy con ong hoặc con ruồi đậu ở một chỗ nào đó, bị cái gì làm kinh động, liền bay đi, nhưng bay quanh một vòng không xa mấy, rồi lại trở về đậu ở chỗ cũ, thì lấy làm rất đáng buồn cười, cũng đáng thương hại. Không ngờ hiện nay chính mình tôi cũng chỉ bay quanh một vòng nho nhỏ rồi lại trở về đây. Lại không ngờ anh cũng trở về nữa. Anh không thể bay xa hơn một chút nữa sao?

    Điều đó khó cắt nghĩa, đại khái cũng chỉ bay quanh một vòng nho nhỏ thôi. Tôi cũng giống như cười mà không phải cười, nói thế. Nhưng mà anh vì làm sao lại bay trở về.

    Cũng chỉ vì cái việc tẻ ngắt. Anh ta uống một hơi cạn chén rượu, hút mấy khói thuốc, mắt hơi mở to ra. Thật là tẻ ngắt. - Có điều chúng ta cứ nói.

    Chú phổ ky đem thêm lên rượu và thức ăn, bày đầy một bàn, trên lầu thêm hơi nóng của khói thuốc và đậu rán, hình như có vẻ tấp nập ; ở ngoài lầu tuyết cũng càng tơi bời sa.

    Anh vốn cũng có biết, hắn ta nói nốt, tôi từng có một đứa em trai, chết lúc mới ba tuổi, chôn ở làng này. Tôi bây giờ, cả đến cái dáng dấp của nó cũng không còn nhớ rõ, nhưng nghe mẹ tôi nói, nó là thằng bé đáng thương nhớ, rất ăn ý với tôi, mỗi khi mẹ tôi nhắc đến còn như muốn rơi nước mắt. Mùa xuân năm nay, một người anh họ gửi đến một phong thư, nói nấm mồ nó đã bị nước xoi dần dần tới, e chẳng bao lâu nữa sẽ lở xuống sông, phải tính cách nào gấp đi. Mẹ tôi biết được liền sốt ruột, hầu không ngủ được luôn mấy đêm, - chính mình mẹ tôi lại xem được thư. Song le, tôi mà có cách nào được? Không có tiền, không có thì giờ, lúc bấy giờ tôi chẳng có một cách nào.

    Lần lữa đến nay, nhân dịp nghỉ Tết rỗi rãi, tôi mới về nam được mà dời mà cho nó. Anh ta lại uống cạn một chén rượu, nhìn ra cửa sổ, nói: Ở trên kia đâu được thế này? Giữa trời tuyết mà lại có hoa, dưới đất tuyết mà lại không giá. Thì hôm kia đây, tôi ở trong thành mua một chiếc quan nhỏ, - vì tôi đoán chắc cái săng dưới đất đã mục rồi, - đem theo bông gòn và chăn nệm, thuê bốn người làm đất, xuống làng dời mả. Tôi lúc đó bỗng cao hứng lên, muốn bới nấm mồ ra, muốn thấy cái bộ xương của đứa em từng hòa thuận với tôi một cái: Những việc như thế đời tôi chưa hề trải qua. Khi đến chỗ mả rồi, thấy thật thế, nước sông cứ khoét tới mãi, cách cái nấm còn không đầy hai thước. Tội nghiệp cái nấm mả, hai năm nay không đáp, cũng đã trịt xuống rồi. Tôi đứng trong tuyết, chỉ nấm mả nói chăm bẳm với những người làm đất: Bới ra đi! Tôi vốn là một người thường, lúc đó tôi thấy tiếng nói của mình có hơi lạ, cái mệnh lệnh ấy cũng là cái mệnh lệnh rất vĩ đại trong đời tôi. Song le những người làm đất lại không lấy làm quái gì cả, liền bắt tay đào xuống. Khi đào đến chỗ huyệt, tôi bèn đến xem, quả thật cái săng đã mục nát hầu hết, chỉ còn lưu lại một đống dăm và những mảnh gỗ vụn. Lòng tôi rung động, chính mình đi vạch những cái ấy ra, rất cẩn thận, cốt muốn xem thử đứa em tôi một cái. Nhưng mà không ngờ! Chăn nệm, áo quần, xương xẩu, cái gì cũng không có. Tôi nghĩ, những cái ấy tiêu hết rồi, từ trước nghe nói tóc khó tiêu, hoặc giả còn chăng. Tôi bèn cúi xuống, kỹ càng xem trong đất bùn chỗ đặt cái thủ cấp, cũng không có. Thật là không có gì cả!

    Tôi bỗng thấy cái quầng mắt anh ta hơi đỏ, song liền biết ngay đó là có hơi rượu. Anh ta không ăn gì mấy, chỉ cất chén uống mãi, uống hơn một cân, rồi thần sắc và cử động đều sấn sướt lên, gần giống như Lã Vĩ phủ trước kia mà tôi thấy. Tôi gọi phổ ky lấy thêm hai cân rượu, rồi quay mặt lại, cầm chén rượu nhìn anh ta lẳng lặng nghe.

    Thực ra, đã như thế thì không cần dời nữa cũng được, chỉ phải lấp đất lại, bán quách chiếc quan đi, là xong chuyện. Tôi mà đi bán cái quan coi cũng có hơi kỳ đó chúc, song nếu hạ giá rất rẻ, cửa hàng sũ chắc sẽ lấy lại cho, ít nữa cũng vớt về được ít đồng tiền rượu. Nhưng tôi không làm thế, tôi vẫn trải chăn nệm ra, dùng bông bọc lấy những đất bùn chỗ cái xác nó nằm hồi trước rồi gói lại, đặt vào cái săng mới, khiêng đến đám đất mả ông thân tôi, chôn kề một bên. Nhân vì ngoài cái săng còn dùng cái quách sành, nên hôm qua tôi còn phải bận mất già nửa ngày: Coi thợ làm. Có đều thế đó cũng kể được là xong đi một việc, có thể trở về nói phỉnh mẹ tôi, làm cho bà yên lòng. - A a, anh nhìn tôi như thế, anh lấy làm quái tôi sao khác với ngày trước quá phải không? Phải đấy, tôi còn nhớ khi chúng ta vào nhổ râu pho tượng thần trong miếu Thần hoàng, còn nhớ khi bàn cãi về phương pháp cải cách Trung Quốc đến nỗi đánh nhau. Nhưng bây giờ thì tôi là thế ấy đấy, bôi bôi trét trét, vờ vờ vĩnh vĩnh. Chính tôi có lúc cũng nghĩ rằng nếu bạn bè trước kia gặp lại tôi, e khỉ không nhận tôi là bạn nữa. - Nhưng mà tôi bây giờ thì là thế ấy đấy.

    Anh ta lại móc ra một điếu thuốc, ngậm ở mồm, châm lửa.

    Xem ý anh, hình như anh còn có chút ít ước mong cho tôi, - tôi bây giờ vốn là tê liệt quá rồi, tuy vậy cũng còn có những điều tôi thấy ra được. Điều đó làm tôi rất cảm kích, nhưng cũng làm tôi rất không an tâm: E tôi rốt cuộc chỉ phụ lòng bạn cũ đến nay còn có ý tốt đối với tôi.. Anh ta bỗng ngừng lại, hút mấy khói thuốc, rồi mới chậm rãi nói tiếp: Ngay hôm nay, trước khi đến tiệm Nhất Thạch Cư này, tôi cũng đã làm một việc tẻ ngắt, nhưng cũng là việc tôi vui lòng làm. Tên Trường Phú, người láng giềng phía đông nhà tôi trước kia, là một người lái thuyền, hắn có một đứa con gái gọi A Thuận, bấy giờ anh đến nhà tôi, chắc cũng có thấy nó, có đều anh không để ý làm gì, vì lúc đó nó còn nhỏ. Sau nó lớn lên coi cũng không ngộ mấy, chẳng qua là hạng thường, mặt trái xoan gầy gầy, nước da vàng, chỉ có cặp mắt rất to, lông nheo rất dài, tròng trắng con mắt lại xanh như trời tạnh ban đêm, mà là trời tạnh không có gió của phương bắc, chứ ở đây thì không có cái trong sáng ấy. Nó giỏi giang lắm, hơn mười tuổi mất mẹ, một mình săn sóc hai đứa em gái và trai ; hầu hạ cha nó, việc gì cũng tới nơi tới chốn ; lại biết tiện tặn, cảnh nhà dần dần khá lên. Hàng xóm hầu như không ai không khen ngợi nó, cả đến lão Trường Phú cũng thường ngỏ lời cảm khích. Lần này, khi tôi cất thân đi về đây, mẹ tôi lại nhớ đến nó, người già thật hay nhớ dai. Mẹ tôi nói trước kia có biết A Thuận vì thấy ai đó trên đầu tết cái hoa nhung đỏ, nó cũng muốn có một cái mà không sao có được, nó khóc, khóc đến non nửa đêm, bị cha nó đánh cho một trận, sau lại mí mắt còn húp đỏ đôi ba ngày. Thứ hoa nhung ấy là đồ của tỉnh ngoài, trong thành S còn tìm chẳng ra mà mua thay, nó muốn có thì làm sao cho có được? Nhân tiện chuyến này tôi về nam, mẹ tôi bảo tôi mua làm quà nó hai cái.

    Đối với sự sai bảo đó tôi chẳng những không lấy làm phiền mà lại lấy làm thích ; thực ra, với A Thuận, tôi còn có ý vui lòng giúp nó nữa kia. Năm kia, khi tôi về đón mẹ tôi, có một hôm, Trường Phú ở nhà, tình cờ tôi gẫu chuyện với hắn. Hắn bèn mời tôi ăn lót lòng, bột kiều mạch[4] khuấy đường, vả lại bảo cho tôi biết là đường trắng. Anh nghĩ, nhà lái thuyền mà có đường trắng, đủ biết không phải nhà nghèo, cho nên mới ăn được sang. Tôi bị nài ép mãi, nhận lời, chỉ xin dùng cái bát nhỏ. Hắn cũng rất thạo đời, bèn dặn bảo A Thuận rằng: Các ổng người văn nho, không hay ăn uống mấy, mầy hãy dùng cái bát nhỏ, cho đường nhiều vào! Thế nhưng đến khi khuấy xong bưng lên, vẫn còn làm tôi phát sợ, nó là cái bát lớn, đủ cho tôi ăn một ngày. Có điều đem so với cái bát của Trường Phú thì cái của tôi đúng là cái bát nhỏ. Tôi từ trước chưa hề ăn bột kiều mạch, lần này nếm qua, thấy không vừa miệng, lại ngọt quá. Tôi ăn qua loa mấy miếng định không ăn nữa, nhưng trong lúc bất ngờ, bỗng thấy A Thuận đứng xa xa ở góc nhà, làm cho tôi tức thì mất cái mạnh dạn bỏ bát đũa xong. Tôi xem nó có ý sợ và mong, giạc chừng sợ mình khuấy không khéo, mong chúng tôi ăn thấy ngon. Tôi biết nếu mình bỏ lại già nửa, chắc sẽ làm nó buồn và tủi. Thế rồi tôi quyết ý, hả họng ra trút vào, ăn gần nhanh bằng Trường Phú. Do đó tôi mới biết sự ăn ép là khổ thân, nhớ lại chỉ có hồi nhỏ tôi phải ăn hêté một bát thuốc sán khuấy với đường thì mới khó khăn như thế. Nhưng mà tôi chẳng cưu hờn chút nào, vì cái dáng đắc ý mà nhịn cười của A Thuận tỏ ra trong khi đến dọn dẹp bát không, đã đủ bù lại sự khổ thân của tôi mà có thừa rồi. Cho nên đêm hôm ấy, tôi tuy no kềnh đến ngủ không yên, lại thấy một tràng chiêm bao quái ác, tôi cũng cứ cầu chúc cho nó sung sướng một đời, nguyền cho thế giới vì nó trở nên tốt đẹp. Song cái ý ấy cũng chẳng qua là dấu vết của những chiêm bao của tôi ngày trước, liền đó tự cười lấy mình và rồi cũng quên bẵng đi.

    Tôi từ trước vốn không biết chuyện A Thuận từng vì cái hoa nhung mà bị đánh, chỉ nhân mẹ tôi nhắc đến, bèn cũng nhớ lại chuyện ăn bột kiều mạch, đâm ra vồn vập bất ngờ. Tôi đi tìm trước trong thành Thái Nguyên khắp một lượt mà không có, cho tới khi đến Tế Nam..

    Ngoài cửa sổ có một loạt tiếng lợt đợt, bao nhiêu hoa tuyết đọng đè oằn một cành cây sơn trà đang tuột xuống, cành cây vươn thẳng lên, làm nổi bật những lá xanh sẩm mươn mướt và những hoa đỏ như tiết. Màu trắng đục giữa quãng không càng đậm hơn ; những chim chóc nhỏ kêu chin chít, chừng là vì gần chạng vạng rồi, tuyết lại phủ cả mặt đất, chẳng kiếm được cái gì ăn, đều về tổ sớm để nghỉ.

    Cho tới khi đến Tế Nam, anh ta dòm ra cửa sổ một chốc, quay lại uống cạn một chén rượu, lại hút mấy khói thuốc, rồi nói tiếp, tôi mới mua được hoa nhung. Tôi cũng không biết thứ hoa nhung làm nó bị đánh có phải là thứ nầy chăng, cứ hễ làm bằng nhung là được rồi. Tôi cũng không biết nó thích màu đậm hay màu nhạt, thì mua cả một bông hoa đỏ sặm, một bông hoa đỏ phớt đem về đây.

    Thế là sau buổi trưa hôm nay, ăn cơm xong một cái, tôi liền đi thăm Trường Phú, chỉ vì việc ấy mà tôi nấn ná lại đây mất một ngày. Nhà hắn ta vẫn còn đó, chỉ trông có vẻ mờ sẩm, song đó có lẽ là cái cảm giác riêng của tôi. Thằng bé của hắn và đứa con gái thứ hai, A Chiêu, đều đứng ở cửa, đã lớn rồi. A Chiêu không giống chị nó chút nào cả, xấu như ma lem, nhưng khi thấy tôi đi vào nhà, nó liền tất tưởi chạy trốn trong buồng. Tôi hỏi thằng bé, biết Trường Phú không có ở nhà. Nào chị cả mầy đâu? Nó lập tức trợn mắt lên, hỏi dặp tôi tìm chị nó có việc gì, vả lại bộ tướng hung hăng như muốn vồ tới cắn tôi. Tôi giữ mánh rút lui, tôi bây giờ là bôi bôi trét trét..

    Anh không biết đấy, tôi thế mà còn sợ gặp người ta hơn so với trước kia. Bởi tôi đã biết kỹ mình là đáng chán ghét, cả đến mình cũng chán ghét lấy mình, thế thì sao lại còn cứ chứng nào tật ấy, làm cho người ta ngấm ngầm khó chịu? Nhưng mà cái việc sai bảo lần này phải làm cho xong mới được, cho nên ngẫm nghĩ một lúc, rốt lại tôi tạt sang cái tiệm bán củi ở xế cửa. Bà mẹ của chủ tiệm, bà cụ Phát, vẫn còn sống, vả lại vẫn còn nhìn biết tôi, vồn vã mời tôi vào ngồi trong tiệm. Sau khi hỏi thăm nhau mạnh giỏi, tôi bèn nói rõ cái sở dĩ về thành S tìm Trường Phú để làm gì. Không ngờ bà cụ than thở nói:

    Tiếc cho A Thuận bạc phúc kjc ài được cái hoa nhung ấy rồi.

    Thế rồi bà cụ cặn kẽ bảo tôi, nói rằng ước chừng từ mùa xuân năm ngoái về sau, thấy A Thuận vàng vọt đi, rồi lại thường hay rơi nước mắt, hỏi cớ gì thì nó lại không nói, có khi nó khóc cả đêm, khóc đến nỗi Trường Phú đâm tức mình không nhịn được, mắng nó lớn tuổi rồi hóa điên. Nhưng bước sang mùa thu, mới đầu chỉ cảm gió sơ sài, sau rồi nằm liệt xuống, từ đó không dậy được nữa. Thẳng đến mấy ngày trước khi hấp hối, mới chịu nói với Trường Phú rằng nó lâu nay thỉnh thoảng khạc ra máu, và đổ mồ hôi đêm giống mẹ nó hồi trước, có điều sợ cha nó đâm lo, nó cứ giấu đi. Có một đêm, bác nó là Trường Canh[5] lại đến khảo điền. - Đó là việc thường có, - nó không cho, thì Trường Canh cười gằng nói: Mầy đừng làm bộ, thằng đàn ông của mầy còn không bằng tao! A Thuận từ đó phát rầu, lại xấu hổ, không buồn hỏi, chỉ việc khóc. Trường Phú vội vàng đem chuyện thằng chồng chưa cưới của nó giỏi trai như thế nào kể cho nó nghe, nhưng nào có kịp? Vả lại nó cũng không tin, trở nói rằng: Thật tình tôi đã là thế này rồi, có gì đi nữa cũng không cần.

    Bà cụ lại nói: Nếu quả thằng đàn ông của nó không bằng Trường Canh, thì thật cũng đáng tởm nhỉ! Không bằng một đứa ăn trộm gà, thì còn ra cái thá gì? Nhưng khi hắn đến xem nhập liệm, chính mắt tôi thấy hắn, ăn mặc rất sạch sẽ, người cũng ra bề ; còn đẫm nước mắt nói: Nửa đời người đi chở thuyền, chịu khó, hà tiện, dồn tiện lại để cưới một con vợ, thế mà lại chết quách đi. Đủ biết hắn là một người tốt, lời Trường Canh toàn là lời nói dối, chỉ tiếc cho A Thuận lại tin lời nói dối của thằng kẻ cắp ấy mà chết phí cái đời. - Nhưng mà điều đó cũng không có thể trách ai được, chỉ trách chính mình A Thuận úao không có số tốt.

    Thế thì thôi, công việc của tôi cũng lại xong rồi. Có đều xử trí làm sao hai cái hoa nhung đem theo bên mình tôi đây? Được rồi, tôi nhờ bà cụ đưa nó cho A Chiêu. Con A Chiêu thấy tôi một cái liền chạy trốn, chừng như nó coi tôi là một con chó sói hay là gì đấy, thực tình tôi không muốn đưa cho nó. - Nhưng rồi tôi cũng đưa cho nó, chỉ sẽ nói với mẹ tôi rằng A Thuận thấy thì vui mừng quá lắm là được rồi. Những chuyện tẻ ngắt ấy có đáng kể gì? Chỉ phải vờ vờ vĩnh vĩnh. Vờ vờ vĩnh vĩnh qua năm mới xong, rồi tôi lại cứ đi dạy tử viết thi vân như cũ.

    Anh là lại dạy tử viết thi văn hay sao? Tôi lấy làm lạ, hỏi:

    Cố nhiên. Anh vẫn tưởng là còn dạy a, b, c, d, hay sao? Tôi trước kia có hai đứa học trò, một đứa học Kinh Thi, một đứa học Mạnh Tử. Mới rồi lại thêm một đứa, con gái, học Nữ nhi kinh[6] . Cả đến toán cũng không dạy, không phải tôi không dạy, chúng nó không cần dạy.

    Tôi thật không ngờ anh mà lại đi dạy những thứ sách ấy..

    Cha chúng nó muốn chúng nó học những thứ sách ấy, tôi là người ngoài, sư tùy chủ. Những chuyện tẻ ngắt ấy có đáng kể gì? Miễn cho thế nào xong thôi..

    Cả cái mặt anh ta đã đỏ gay, giống như có hơi say lắm, song cặp mắt lại lờ đờ không còn có tia sáng. Tôi ngậm ngùi kín đáo, một lúc không biết nói gì. Thang lầu có tiếng ầm ầm, kéo nhau lên mấy người khách rượu: Đi đầu là anh chàng lùn, mặt tròn mà bì sị ; rồi đến một người cao, trên mặt lộ ra cái sống mũi đỏ đập vào mắt ; đằng sau còn có nữa, đi cả một dui làm cho cái lầu nhỏ phát run. Tôi liếc mắt nhìn Vĩ phủ, anh ta cũng vừa liếc mắt nhìn tôi, tôi bèn kêu phổ ky tính tiền rượu.

    Anh cứ dạy học như thế, vẫn có thể nuôi sống được chứ? Tôi một mặt sửa soạn đi, một mặt hỏi.

    Phải đấy. - Tôi mỗi tháng kiếm được hai chục đồng, cũng không đủ xài cho lắm.

    Vậy thì, sau này anh tính xoay xở làm sao?

    Sau này à? - Tôi không biết. Anh xem những việc chúng ta tính trước kia có một việc nào vừa ý chúng ta? Tôi bây giờ không biết một cái gì hết, cả đến ngày mai thế nào tôi cũng không biết, cả đến một phút..

    Phổ ky đem toa tính tiền lên, đưa cho tôi. Anh ta bây giờ không khiêm nhường giống như hồi mới vào nữa, chỉ nhìn tôi một cái, rồi cứ hút thuốc, để mặc tôi trả tiền.

    Chúng tôi cùng ra cửa tiệm. Cái phòng nghỉ của anh và của tôi ở trái hướng nhau, bèn chia tay nhau từ chỗ cửa. Tôi một mình đi về phòng nghỉ của tôi, gió lạnh và hoa tuyết tạt vào mặt, lại thấy trong người rất khoan khoái. Màu trời đã nhá nhem tối, cả nhà cửa và đường sá đều như dệt ở trong tấm lưới tuyết dày, trắng nõn mà chờn vờn.

    16-2-1924

    (Dịch ở Bàng hoàng)
     
    Nguyễn Ngọc NguyênLibra1110 thích bài này.
  3. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Bài viết:
    2,079
    Cái gia đình có hạnh phúc

    Bấm để xem
    Đóng lại
    ".. Viết hay không viết thảy đều bởi tự ý mình, thứ tác phẩm ấy giống như ánh sáng mặt trời, từ trong nguồn sáng vô ngần trào ra, không giống như lửa đá, dùng sắt với đá đánh ra, thế mới là nghệ thuật thật. Và tác giả ấy, cũng mới là nhà nghệ thuật thật. - Mà ta đây.. cái đó có kể gì?" Hắn ta nghĩ đến đó, thình lình từ trên giường nhảy xuống. Từ trước hắn vỗn đã nghĩ rồi, phải vét được một số tiền nhuận bút để mà nuôi sống; chỗ gửi bài, định sẵn là nhà báo Hạnh phúc, vì ở đó tiền nhận bút hình như hậu hĩ hơn nơi khác. Có đều tác phẩm theo khuôn khổ, không thì sợ e không thu nhận. Khuôn khổ, ừ thì khuôn khổ.. cái vấn đề lớn trong óc thanh niên hiện nay là gì? Đại khái cũng có nhiều, hoặc như luyến ái, hôn nhân, gia đình các thứ.. Phải đấy, giữa bọn họ quả có nhiều người buồn nản, đang thảo luận những vấn đề ấy. Vậy thì, viết về gia đình đi. Nhưng mà viết thế nào? Không thì sợ e không thu nhận, cố nhiên không nói những câu chuyện trái mùa, nhưng mà.. Sau khi nhảy xuống khỏi giường nằm, hắn đi bốn năm bước thì đến trước bàn viết, ngồi xuống, rút ra một tờ giấy kẻ ô màu lục[1], không chần chờ chút nào, song lại như liều lĩnh viết phức cái đầu đề choán một hàng: Cái gia đình có hạnh phúc.

    Ngọn bút của hắn tức thì ngừng lại. Hắn nước đầu lên, hai mắt nhìn trần nhà, đang chọn lựa nơi nào để mà đặt "cái gia đình có hạnh phúc" ấy. Hắn nghĩ: "Bắc Kinh ư? Không được, cái vẻ chết đừ đừ, cả đến không khí cũng chết. Giá như xây chung quanh gia đình ấy một bức tường cao, có thể nào ngăn cách được không khí à? Gỏn lọn là không được! Giang Tô, Chiết Giang, ngày nào cũng có cơ đánh nhau, Phúc Kiến càng khỏi phải nói. Tứ Xuyên, Quảng Đông? Đều đang đánh nhau thực sự. Hay là mấy tỉnh như Sơn Đông, Hà Nam? Ối, có mà bị bắt cóc đấy, rủi bị bắt mất một mống thì lại hóa ra cái gia đình bất hạnh mất. Ở về tô giới Thượng Hải, Thiên Tân thì thuê nhà đắt.. cũng cầm bằng ở ngoại quốc; ai lại thế? Không biết Vân Nam, Quý Châu thì thế nào, song giao thông cũng quá không tiện.." Hắn nghĩ đi nghĩ lại, nghĩ không ra nơi nào tốt, bèn phải giả định là nơi A. Nhưng lại nghĩ, "Hiện có nhiều người phản đối dùng chữ cái la tinh thế cho tên người tên đất, nói rằng làm giảm mất hứng vị của độc giả. Ta gửi bài lần này, có lẽ cũng đừng dùng là chắc ăn hơn. Vậy thì, ở đâu được bây giờ? - Hồ Nam cũng đang đánh nhau, Đại Liên, tiền thuê nhà vẫn đắt; Sát Cáp Nhĩ, Cát Lâm, Hắc Long Giang đi thôi, - nghe nói có mã tặc[2], cũng không được!.." Hắn lại nghĩ đi nghĩ lại, cũng nghĩ không ra chỗ nào tốt, thế rồi cuối cùng dứt khoát, giả định cái nơi mà "cái gia đình có hạnh phúc" ấy ở, gọi là A.

    "Tóm lại, cái gia đình có hạnh phúc ấy nhất định phải ở A, không còn bàn tán gì nữa. Trong gia đình tự nhiên là hai vợ chồng, tức là ông chủ và bà chủ, vốn tự do kết hôn. Họ có ký kết điều ước với nhau hơn bốc chục khoản, hết sức tỉ mỉ, cho nên bình đẳng nhất mực, tự do rất mực. Vả lại đều đã chịu qua giáo dục cao đẳng, ưu mĩ và cao thượng.. Lưu học sinh Nhật Bản đã không thường thấy lắm[3], - vậy thì, giả định cho là lưu học sinh Âu Mỹ đi. Ông chủ luôn luôn mặc đồ tây, cái cổ cứng luôn luôn trắng nõn, bà chủ thì tóc mái trước luôn luôn uốn bờm xờm giống cái tổ chim sẻ, răng luôn luôn trắng và lộ ra, song quần áo lại mặc kiểu Trung Quốc.."

    "Không được, không được, thế không được! Hai mươi lăm cân!"

    Hắn nghe thấy tiếng một người đàn ông ngoài cửa sổ, bắt phải quay đầu nhìn, tấm màn cửa sổ vẫn xủ, ánh sáng mặt trời vẫn dọi, sáng đến chói mắt, làm mắt hắn đổ đốm ra; tiếp đó là tiếng những thanh củi nhỏ ném trên đất. "Việc quái gì đến mình", hắn lại quay đầu lại, nghĩ, "cái gì lại hai mươi lăm cân? - Họ là người ưu tú và cao thượng, rất ưa văn nghệ. Song le vì từ hồi nhỏ đều sinh trưởng trong hạnh phúc, cho nên không ra tiểu thuyết nước Nga.. Tiểu thuyết nước Nga phần nhiều miêu tả người bậc bét, thật ra không hợp với cái gia đình dường ấy." Hai mươi lăm cân? "Mặc kệ nó. Vậy thì, họ xem sách gì? - Thơ của Bay Ơn? Của Kê át? [4] Không được, đều không ổn. - à, có rồi, họ đều ưa xem Người chồng lý tưởng. Ta tuy chưa thấy qua sách ấy, song đã là cả đến giáo thụ đại học cũng khen nó, thì chắc họ cũng đều thích xem, mình xem, tôi xem, - họ có mỗi người một cuốn, trong gia đình ấy cộng lại có hai cuốn.." Hắn thấy trong dạ dày có hơi trống, bỏ bút xuống, hai tay chỏi lấy đầu, làm cái đầu của mình giống như cái địa cầu nghi treo giữa hai cây trụ.

    "Hai người họ đang dùng bữa cơm trưa," hắn nghĩ, "trên bàn trải miếng vải trắng nõn, đầu bếp đưa thức ăn lên, thức ăn Trung Quốc. Cái gì lại hai mươi lăm cân? Mặc kệ nó. Vì sao lại phải thức ăn Trung Quốc? Người Tây nói, thức ăn Trung Quốc rất tiến bộ, rất ngon, rất vệ sinh, cho nên họ chọn thức ăn Trung Quốc. Bát bưng lên là bát thứ nhất, nhưng bát thứ nhất ấy là thức gì?"

    "Củi tạ.."

    Hắt dựt mình quay đầu nhìn, bà chủ của chính gia đình hắn đứng tựa bên vai tả, hai con mắt lạnh lùng đang giắt vào mặt hắn.

    "Cái gì?" Hắn cho là người đàn bà đến quấy rối sáng tác của mình, có hơi nổi giận.

    "Củi tạ, dùng hết sạch cả rồi, hôm nay mua một ít. Lần trước vẫn là hai quan tư[5] mười cân, hôm nay lại đòi hai quan sáu. Tôi định trả hai quan năm, được không?"

    "Được được, thì trả hai quan năm."

    "Cân thế quái nào mà làm thiệt mình quá, nó nhất định tính là hai mươi bốn cân rưỡi mới nghe; tôi muốn tính cho nó hai mươi ba cân rưỡi thôi, được không?"

    "Được được, thì tính hai mươi ba cân rưỡi."

    "Thế thì, năm lần năm là hai mươi lăm, ba lần năm là mười lăm.."

    "Ừ, ừ năm lần năm là hai mươi lăm, ba lần năm là mười lăm.." Hắn tình mồm cũng không trôi, ngừng một lát, bỗng hăm hở nắm lấy quản bút, nhè trên tờ giấy kẽ ô màu lục có viết một hàng "cái gia đình có hạnh phúc" làm phép tính, làm một lúc lâu, rồi mới ngước đầu lên nói:

    "Năm quan tám!" [6]

    "Thế là, tiền ở đây của tôi không đủ rồi, còn thiếu tám chín.."

    Hắn mở ngăn kéo bàn viết ra, vốc một vốc tất cả xu đồng độ chừng hai ba chục, thả vào bàn tay vợ đang sè ra, nhìn vợ ra khỏi buồng, rồi mới quay đầu trở lại phía bàn viết. Hắn thấy trong đầu chương lên, kềnh kềnh càng càng, hình như bị chất đầy những thanh củi, năm lần năm là hai mươi lăm, trên màng óc còn in bao nhiêu những chữ số "Aráp ra khỏi trong đầu. Quả thế, sau khi thở ra, đáy lòng cũng nhẹ nhõm đi nhiều, thế rồi lại cứ mơ mơ màng màng nghĩ..

    " Thức ăn gì? Thức ăn có quái lạ một chút cũng không sao. Sườn sào dấm, đột đột nấu với tôm, thực ra, xoàng xĩnh quá. Ta muốn nói món ăn của họ là món "long hổ hội". Nhưng mà, "long hổ hội" là cái gì? Có người nói là rắn nấu với mèo, món ăn sang của Quảng Đông, chỉ trong bữa tiệc lớn mới có. Nhưng ta thấy cái tên món ăn ấy trên thực đơn của tiệm ăn Giang Tô, thì hình như người Giang Tô không ăn mèo với rắn, e nó là ếch với lươn như có người nói. Bây giờ đến giả định ông chủ và bà chủ ấy là người ở tỉnh nào? - Mặc kệ nó. Nói tóm là không luận người tỉnh nào, ăn một bát rắn với mèo hoặc ếch với lươn là cũng không hại gì cho cái gia đình có hạnh phúc cả. Nói gọn, cái bát thứ nhất định là bát "long hổ hội", không còn bàn tán gì nữa.

    "Thế rồi một bác" long hổ hội "bày ở giữa bàn, hai người họ đồng thời cầm đũa lên, chỉ vào miệng bát, cười khúc khích mình nhìn tôi, tôi nhìn mình..

    " My dear, please.

    "Please you eat first, my dear.

    " Oh no, please you! [7]

    "Thế rồi họ đồng thời nhúng đũa vào, đồng thời gắp ra một miếng thịt rắn - không không, thịt rắn thì kỳ quái quá, chi bằng nói thịt lươn là hơn. Vậy thì, cái bát" long hổ hội "ấy là nấu bằng lươn với ếch. Họ đồng thời gắp ra một miếng thịt lươn, bằng cỡ nhau, năm lần năm là hai mươi lăm, ba lần năm là.. mặc kệ nó, đồng thời cho vào miệng.." Hắn không dằn lòng được, chỉ toan quay đầu lại xem, vì hắn cảm thấy sau lưng rất chộn rộn, có người đi qua đi lại hai ba lần. Nhưng hắn cứ cố nhịn, cứ bừa bãi nghĩ nốt, "thế hình như có hơi tởm, đâu có thứ gia đình như thế? Ê ê, ta sao lại nghĩ xằng nghĩ xịt như vậy, cái đầu đề hay thế mà e có lẽ viết không thành bài. - Hay là không cứ phải dùng lưu học sinh, nói là ở trong nước chịu giáo dục cao đẳng cũng được. Họ đều là tốt nghiệp đại học, cao thượng, ưu mỹ, cao thượng.. Người đàn ông là nhà văn học, người đàn bà cũng là nhà văn học hoặc là kẻ sùng bái nhà văn học. Hoặc là người đàn bà là nhà thơ, người đàn ông là kẻ sùng bái nhà thơ, kẻ nịnh đầm. Hay là.." Cuối cùng hắn không nhịn nổi, quay đầu lại.

    Thì ở bên cạnh cái giá để sách sau lưng hắn đã xuất hiện một đống cải bắp, từng dưới ba bắp, từng giữa hai bắp, trên cùng một bắp, chồng chất thành một chữ A rất lớn đối với hắn.

    "Ối chà!" Hắn giật mình bài hãi, đồng thời thấy trên mặt bỗng phát nóng, trên xương sống còn có bao nhiêu kim nhè nhẹ châm. "Ha.." Hắn thở hắn ra một hơi rất dài, trước xua đuổi những kim trên xương sống, rồi vẫn cứ nghĩ, "Cái nhà của gia đình có hạnh phúc phải cho rộng. Có một căn buồng chứa đồ vặt, những thứ như cải bắp đều chất vào đó. Ông chủ có một phòng sách riêng, kề vách đặt đầy những giá để sách, cạnh đó tự nhiên không thể có đống cải bắp nào; trên giá đầy những sách Trung Quốc, sách ngoại quốc, trong đó tự nhiên có Người chồng lý tưởng - cộng là hai cuốn. Buồng ngủ riêng một căn; giường đồng, muốn chất phác một chút thì thứ giường bằng gỗ gie đóng ở công trường Nhà ngục số 1 cũng được, dưới giường rất sạch sẽ.." Tức thì hắn liếc dòm dưới giường của mình, củi tạ đã dùng hết sạch, chỉ có một sợi thừng bện bằng rơm, nằm thườn thượt như con rắn chết.

    "Hai mươi ba cân rưỡi!.." Hắn biết thế nào rồi củi tạ cũng sẽ liên tiếp khuân vào dưới giường, trong đầu lại có hơi kềnh kềnh càng càng, bèn đứng phắt dậy, đi lại chỗ cửa định đóng cửa. Nhưng hai tay vừa chạm đến cánh cửa, lại nghĩ làm như thế coi xốc nổi quá, liền ngừng tay, chỉ buông cái màn cửa chứa đầy bụi bặm xuống thôi. Một mặt hắn nghĩ, đóng cửa thì ra điều mình gay gắt, mở cửa thì chịu không nổi ồn ào, chỉ buông cái màn xuống là khỏi cả hai điều đó, rất hợp với "cái đạo trung dung".

    ".. Cho nên cái cửa phòng sách của ông chủ là cứ phải đóng luôn luôn." Hắn đi trở lại, ngồi xuống, nghĩ. "Có việc gì muốn nói thì gõ cửa trước, có cho phép vào mới được vào, làm như thế là thật đúng. Bây giờ ví thử ông chủ ngồi trong phòng sách mình, bà chủ đến nói chuyện văn nghệ, cũng trước phải gõ cửa. - Thế thì khỏi lo, bà ấy chắc không đến nỗi khuân cải bắp vào.

    " Come in, please, my dear. [8] "

    " Song le khi ông chủ không có giờ rỗi để nói chuyện văn nghệ thì làm thế nào? Vậy thì, phớt bà ấy đi, để mặc bà đứng ngoài cửa gõ cạch, cạch mãi hay sao? Như thế có lẽ không được. Điều đó hoặc có chép trong sách Người chồng l? Ý tưởng, - sách này e quả là một bộ tiểu thuyết hay, nếu ta có được tiền nhuận bút, cũng phải mua một bộ xem xem.. "

    Phạch!

    Hắn thẳng lưng lên, bởi vì theo kinh nghiệm, hắn biết rằng cái tiếng" phạch "ấy là tiếng bàn tay bà chủ đánh trên đầu đứa con gái ba tuổi.

    " Cái gia đình có hạnh phúc.. "Hắn nghe thấy tiếng nghẹn ngào của đứa bé, nhưng vẫn cứ thẳng lưng nghĩ," còn thì nên chậm mới có, chậm mới có là hơn. Hay là chi bằng dừng có quách, trơ trọi chỉ hai người. Hay là chi bằng ở ngay khách sạn, cái gì cũng cho khách sạn bao cả, chỉ một người trơ trọi.. "Hắn nghĩ thấy tiếng nghẹn ngào rộ lên, thì cũng đứng lên, chui qua cái màn cửa, vẫn cứ nghĩ," Mác ở trong tiếng khóc nheo nhóc của trẻ con còn có thể viết được Tư bản luận, thế mới là vĩ nhân.. "Đi ra đến ngoài, mở cái líp đón gió, ngửi thấy mùi dầu hỏa. Đứa trẻ nằm vật cạnh cái líp, úp mặt xuống đất, thấy bố, bèn khóc òa lên.

    " À à, được rồi, đừng khóc đừng khóc, em bé ngoan của bố. "Hắn khom lưng xuống, bế đứa bé lên.

    Hắn bế đứa bé xoay người lại, thấy bà chủ vẫn đứng phía kia líp, cũng thẳng lưng, nhưng hai tay chống nạnh, giận hằm hằm, tuồng như sắp sửa bắt đầu tập thể thao.

    " Cả đến mầy cũng làm khổ tao, không đỡ được việc gì hết, chỉ quấy, cả đến cái đèn dầu cũng đổ đi cho được. Tối đây rồi lấy gì mà thắp? "

    " À à, được rồi, đừng khóc đừng khóc. "Hắn phớt đều những tiếng nói giận run ấy, bến con bé vào buồng, xoa đầu nó, nói," em bé ngoan của bố ". Thế rồi thả con bé ra, kéo ghế ngồi xuống, để nó đứng giữa hai đầu gối, giơ tay lên, nói," Đừng khóc nữa, chóng ngoan. Để bố làm "mèo rửa mặt" cho bé xem nhé ". Đồng thời hắn ườn cổ ra, lè lưỡi, xa xa liếm hai liếm nhằm cái bàn tay, rồi lấy cái bàn tay ấy xoa hai vòng tròn trên mặt mình.

    " Ha ha ha, con Hoa. "Đứa bé vùng cười lên.

    " Phải đấy, phải đấy, con Hoa đấy. "Hắn lại xoa nốt mấy vòng tròn nữa, rồi mới ngừng tay, thấy đứa bé vẫn cười khì khì mắt đeo ngấn lệ nhìn hắn. Thình lình hắn nghĩ thấy, cái mặt ngây thơ đáng yêu của con bé sao mà giống mẹ của nó năm năm về trước, giống nhất là cặp môi đỏ chót, chỉ khuôn khổ nhỏ hơn. Lúc đó cũng là trời mùa đông tạnh sáng, khi mẹ nó nghe hắn nói quyết chống lại mọi sự trở ngại, vì nhau hi sinh, cũng lại cười khì khì mắt đeo ngấn lệ nhìn hắn như thế. Hắn cứ ngồi thừ ra, như có hơi say.

    " A a, cặp môi đáng yêu.. "Hắn nghĩ.

    Cái màn cửa bỗng vắt lên, củi tạ khuân vào rồi.

    Hắn cũng sực tỉnh ra, thoáng nhìn, thấy con bé vẫn mắt đeo ngấn lệ, vả lại hé cặp môi đỏ chót nhìn lại hắn." Cặp môi.. "Hắn liếc sang bên kia, củi tạ đang khuân vào,".. e lát nữa cũng vẫn là năm lần năm là hai mươi lăm, chín lần chín là tám mươi mốt!.. vả lại hai con mắt còn lạnh lùng nữa kia.. "Hắn nghĩ thế, rồi liền cộc cằn vớ lấy tờ giấy khẽ ô màu lục trên có viết một hàng đầu đề và một đống chữ làm tính, vò viên cho nhàu đi, lại mở ra lau nước mắt nước mũi cho con bé." Em bé ngoan, thôi đi chơi đi."Một mặt hắn đẩy con bé ra, nói thế; một mặt vứt mạnh gùi giấy vào giỏ giấy loại.

    Nhưng liền đó hắn cảm thấy đối với con bé có hơi không đang tâm, lại quay đầu, dùng mắt đưa nó đi ra vò võ một mình; trong lỗ tai nghe thấy tiếng những thanh củi. Hắn nghĩ nên yên định tâm thần một chút, bèn quay đầu trở lại, nhắm mắt, dập tắt mọi nghĩ ngợi bâng quơ, lặng lòng nín thở ngồi. Hắn xem thấy trước mắt nổi lên một bông hoa đen hình tròn dẹp, lòng vàng chanh, từ khóe tả mắt bên tả trôi sang bên hữu, tiêu đi mất; tiếp đó một bông hoa màu lục sáng, lòng màu lục đậm; tiếp đó một đống sáu cái bắp cải chồng lên nhau, sừng sựng đối với hắn thành một chữ A rất lớn.

    18-3-1924

    (Dịch ở Bàng Hoàng)
     
    Nguyễn Ngọc NguyênLibra1110 thích bài này.
  4. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Bài viết:
    2,079
    Người cô độc

    Bấm để xem
    Đóng lại
    I

    Tôi với Ngụy Liên Thù quen biết nhau, bây giờ nghĩ lại cũng có vẻ khác thường: Bắt đầu bằng một lần nhập liệm, cuối cùng cũng bằng một lần nhập liệm.

    Hồi đó tôi ở thành S[1], thường khi nghe người ta nhắc đến tên anh ta, ai cũng bảo hắn có hơi cổ quái: Cái mình học là môn động vật học, lại đi làm giáo viên dạy lịch sử ở trường trung học ; đối với mọi người cứ hay làm ra vẻ thờ ơ, thế mà lại cứ hay lo bao đồng việc của người khác ; lúc nào cũng bảo phải phá bỏ gia đình, thế mà hễ lãnh lương tháng một cái là lập tức gửi cho bà nội, một ngày cũng không để trễ. Ngoài ra còn có bao nhiêu chuyện vụn vặt ; tóm lại, ở thành S, anh ta cũng kể là một người làm đầu câu chuyện cho người khác. Mùa thu năm nọ, tôi ở chơi trong nhà người bà con tại Hàn Thạch Sơn, những người này họ Ngụy, trong họ Liên Thù. Nhưng họ lại cũng không biết rõ anh ta, ý chừng coi anh ta là người ngoại quốc, nói rằng "hắn với chúng tôi khác hẳn".

    Cái đó cũng chẳng lấy gì làm lạ. Ở Trung Quốc mở mang việc học tuy đã hai mươi năm nay rồi, thế mà Hàn Thạch Sơn cả đến trường tiểu học cũng chưa có. Cả miền làng núi ấy, chỉ có Liên Thù là người đi ra ngoài du học, cho nên trong con mắt người làng, anh ta là một thứ người khác ; thế nhưng họ lại cũng ganh tị và thèm thuồng lắm, nói anh ta kiếm được nhiều tiền.

    Đến cuối thu, trong miền làng núi lan tràn bệnh lị ; tôi cũng sợ cho mình, muốn trở về trong thành. Vừa nghe nói bà nội Liên Thù nhuốm bệnh, vì tuổi già nên bệnh nặng lắm, trong miền núi lại không có một thầy lang nào. Gọi là người nhà của Liên Thù, thực ra chỉ có một bà cụ ấy, thuê một đứa ở gái sống chật hẹp qua ngày ; anh ta mồ côi cha mẹ từ hồi nhỏ, nhờ bà cụ nuôi nấng cho nên người. Thấy nói bà cụ trước kia cũng đã chịu nhiều vất vả, nhưng bây giờ thì được thảnh thơi. Có điều bởi Liên Thù không có vợ con, hóa nên trong nhà vắng vẻ lắm, ước chừng đó cũng là một điều mà người ta cho là "khác hẳn" vậy.

    Hàn Thạch Sơn cách với thành theo đường bộ một trăm dặm, theo đường thủy bảy mươi dặm, nếu cho người đi gọi Liên Thù, vừa đi vừa về ít nhất cũng phải bốn ngày. Làng núi quê mùa, những việc thế này đã kể là việc mới lạ mà mọi người tò mò muốn biết ; ngày hôm sau bèn đồn ầm lên rằng bệnh bà cụ đã ngặt lắm, người đi gọi Liên Thù cũng đã đi ; song le đến canh tư thì bà cụ tắt nghỉn, câu nói cuối cùng là: "Tại sao lại không để cho tôi gặp Liên Thù một cái?"

    Trưởng tộc, bà con gần, thân nhân bên phía bà cụ, cả người dưng nữa, nhóm lại đầy nhà, tính trước rằng khi Liên Thù về đến phải là lúc sắp sửa nhập liệm. Thọ đường và áo dưỡng già đều có sẵn rồi, không cần lo tính ; vấn đề lớn nhất của họ là đối phó cách nào với ông "cháu thừa trọng" [2] ấy, vì họ liệu trước rằng về mọi nghi lễ đám ma, thế nào anh ta cũng đổi theo lối mới. Sau khi nhóm bàn, đại khái họ đặt ra ba điều kiện, buộc anh ta phải theo: Một là mặc đồ trắng, hai là quỳ lạy, ba là rước thầy tu thầy phù thủy đến cúng làm phép. Nói tóm lại là: Hết thảy đều theo cũ.

    Họ đã bàn định xong, bèn hẹn nhau ở cái ngày Liên Thù về đến nhà, thì hết thảy họp ở phòng khách, dàn ra trận thế, kẻ tung người hứng, kéo cách nhau làm một cuộc biện luận gắt gao. Bọn người làng đều nuốt nước bọt, tò mò chờ nghe tin tức ; họ biết Liên Thù là người "tân đảng" và "ăn đạo" [3], thuở nay không kể phải trái gì cả, thế nào hai bên cũng sẽ có sự đấu tranh nhau, không khéo còn sẽ gây nên một trò xem lạ bất ngờ.

    Có tin nói Liên Thù về tới nhà vào buổi chiều, vào nhà rồi, đến trước linh sàng bà cụ chỉ cúi mình một cái. Bọn trưởng tộc liền làm theo kế hoạch đã định, gọi anh ta vào phòng khách, nói một tràng giáo đầu rồi mới vào đề, vả lại người này xướng, kẻ kia họa, chín người mười miệng, làm anh ta không còn có chỗ đặt mồm vào. Song nói mãi rồi cũng đến hết, cả phòng khách im lặng, mọi người đều dớn giác nhìn sửng ở mồm anh ta. Chỉ thấy Liên Thù không thay đổi nét mặt, trả lời gọn lỏn một câu:

    "Đều được tất cả."

    Thế là càng là điều họ không ngờ đến, gánh nặng trong lòng mọi người vừa trút xuống, hình như lại nặng thêm, họ thấy rất mực "khác hẳn", trở như có điều đáng lo ngại. Những người lòng dò nghe tin tức cũng đều thất vọng, bảo nhau: "Hắn nói" được tất cả ", thế mới quái lạ cho! Để rồi xem xem!" Được tất cả, tức là đều theo cũ, thì còn có gì đáng xem, nhưng họ còn cứ muốn xem, sau lúc chạng vạng, đã thấy hơn hớn xúm đầy trước nhà.

    Tôi cũng là một người trong số đi xem. Trước đưa đến một ít đèn nhang, đến chừng tôi vào nhà thì thấy Liên Thù đang mặc quần áo cho người chết. Thì ra anh ta là người thấp bé và gầy, khổ mặt dài, đầu tóc bờm xờm và râu mày đen rậm choán mất nửa cái mặt, chỉ còn thấy cặp mắt nhoáng sáng trong cái bóng đen ấy. Làm sãi rất khéo, đâu ra đó, như một người làm sãi chuyên môn, khiến người đứng xem đều phải khen phục. Theo lề thói ở Hàn Thạch Sơn, vào lúc này, người bên họ ngoại thế nào cũng kiếm chuyện bẻ bai bẻ họe cho kỳ được mới nghe ; thế mà anh ta lại cứ làm thinh, thấy bẻ thế nào thì sửa chữa theo thế ấy, nét mặt cũng không đổi khác. Một bà cụ đầu bạc đứng đằng trước tôi, bật ra tiếng trằm trồ khen ngợi.

    Sau đó là lạy ; lại sau đó là khóc, hết thảy đàn bà đều lâm râm khấn vái. Sau đó nữa là nhập liệm ; lại sau đó nữa là lạy, lại là khóc, cho đến khi đóng nắp quan lại. Im lặng một phút, bỗng mọi người nhôn nhao lên, tuồng như có điều lấy làm quái lạ và thắc mắc. Tôi cũng tự dưng chợt nhận thấy: Té ra Liên Thù từ đầu đến cuối không hề nhỏ một giọt nước mắt, chỉ ngồi trên tấm đệm rơm, đôi mắt trong bóng đen lập lòe nhoáng sáng.

    Việc nhập liệm đã làm xong trong cái không khí lấy làm quái lạ và thắc mắc ấy. Ai nấy đều bực tức, muốn ra về quách, nhưng Liên Thù lại cứ ngồi trên đệm rơm, ngẫm nghĩ. Thình lình, anh ta chảy nước mắt, rồi đến ấm ức, tức khắc lại khóc rống lên, giống như một con chó sói bị thương, đêm khuya gào thét trong đồng vắng, trong thê thảm xen lẫn tức giận và đau xót. Cái bộ điệu ấy, bình thường chưa hề có, cũng không ai liệu trước, nên mọi người đều đến khuyên giải anh ta, càng đến càng đông, cuối cùng dồn thành một đám. Nhưng anh ta vẫn cứ ngồi ỳ ra mà kêu gào, không động đậy như một ngôi tháp bằng sắt.

    Mọi người đành ngơ ngác đi tán ra. Còn anh ta cứ khóc, khóc mãi, chừng đến nửa tiếng đồng hồ, thế rồi bỗng ngừng bặt chẳng chào mời ai hết, lằm lụi đi vào nhà trong. Sau đó có mấy người đi theo rình mò trở ra kể chuyện: Liên Thù đi vào phòng bà cụ, nằm trên giường, vả lại, như đã ngủ thiếp đi.

    Cách hai ngày sau, trước hôm tôi định đi vào thành một hôm, nghe người làng ai nấy bàn luận rối rít, nói Liên Thù sẽ đem già nửa phần trong toàn số đồ đạc, đốt cho bà cụ, còn thì cho đứt người ở gái là kẻ lúc bà sống thì hầu hạ, lúc bà chết thì đưa đám, vả lại cả cái nhà cũng định cho mụ ấy ở nhờ không kỳ hạn. Bà con nội ngoại đều can ngăn, nói đến mỏi mồm rát cổ mà chung quy không được.

    Có lẽ phần nhiều cũng bởi tánh tò mò, trên đường về đi ngang qua cổng nhà anh ta, sẵn giằm tôi lại tạt vào chia buồn. Anh ta mặc áo trắng xổ gấu ra tiếp tôi, nét mặt cũng vẫn cứ lạnh lùng như thế. Tôi cạn lời khuyên giải, anh chỉ vâng vâng dạ dạ, ngoài ra, vẻn vẹn đáp lại tôi một câu: "Cảm ơn anh có lòng tốt."

    II

    Hai chúng tôi gặp nhau lần thứ ba ở vào đầu mùa đông năm ấy. Trong một tiệm sách ở thành S, cả hai cùng một lúc gật đầu chào, thế kể là đã quen biết nhau. Nhưng làm cho chúng tôi bắt đầu gần gụi nhau lại ở vào cuối năm ấy, sau khi tôi mất chỗ làm. Từ đó, tôi năng đi lại với Liên Thù. Lẽ thứ nhất, tự nhiên vì ở dưng thấy buồn ; lẽ thứ hai, vì nghe người ta nói, anh ta dù tánh vốn lạnh lùng, chứ lại ưa thân cận với với người thất ý. Có điều việc đời chìm nổi không chừng, người thất ý không phải cứ thất ý mãi mãi, cho nên anh ta cũng ít có được người bạn lâu dài. Lời người ta nói đó quả không sai, tôi đưa danh thiếp vào là anh ra tiếp ngay. Cái phòng khách suốt hai căn, không có bày biện gì cả, ngoài một số bàn ghế, chỉ mấy cái giá để sách, ai cũng nói anh là một "tân đảng" đáng sợ, nhưng trên giá lại không có tân thư mấy. Anh vốn đã biết tôi mất chỗ làm ; nhưng chỉ nói vài câu khách sáo, rồi hai người lẳng lặng nhìn nhau, dần dần đến có vẻ nặng nề. Tôi chỉ thấy anh hút chóng hết một điếu thuốc quá, khi cái tàn thuốc sắp cháy đến ngón tay, anh mới ném trên đất.

    "Hút thuốc đi." Khi anh thò tay lấy điếu thuốc thứ hai, bỗng nhưng nói.

    Tôi cũng lấy một điếu, hút, nói chuyện dạy học và sách vở, nhưng vẫn thấy nặng nề khó chịu. Giữa lúc tôi đang muốn cáo lui, thì ngoài cửa có tiếng la rầy và tiếng chân bước, bốn đứa trẻ vừa trai vừa gái xồng xộc chạy vào. Đứa lớn tám chín tuổi, đứa nhỏ bốn năm tuổi, mặt mũi áo quần đều bẩn thỉu, vả lại xấu như ma lem. Thế nhưng đôi mắt Liên Thù lại bật lên ánh sáng vui vẻ, vội vàng đứng dậy, chạy vào cái buồng kề phòng khách, miệng nói:

    "Lương lớn, lương nhỏ, lại cả đây! Hôm qua các em đòi cái kèn, tôi đã mua được đây."

    Cả lũ trẻ theo chân ùa vào, tức thì mỗi đứa thổi một cái kèn và ùa ra, chẳng biết thế nào, ra khỏi cửa phòng khách lại đâm ra đánh nhau. Có một đứa khóc lên.

    "Mỗi đứa một cái, cái nào cũng như cái nào. Đừng giành nhau nhá!" Liên Thù đi theo đằng sau bảo.

    "Trẻ con nhà ai mà đông thế?" Tôi hỏi.

    "Con của chủ nhà này đấy. Chúng nó mất mẹ, chỉ có bà nội."

    "Thế chủ nhà ở có mỗi một mình à?"

    "Phải. Vợ hắn ta chết đâu ba bốn năm rồi, không cưới vợ khác. - Nếu không thì người một thân một mình như tôi, ai chịu đem nhà thừa cho thuê?" Anh ta vừa nói, vừa lạnh lùng mỉm cười.

    Tôi muốn hỏi anh ta tại sao đến giờ vẫn còn ở một mình, có điều vì chưa quen lắm nên không tiện hỏi.

    Đã quen với Liên Thù rồi thì có thể nói chuyện được lắm. Anh ta nghị luận lung tung, vả lại thường thường có chỗ độc đáo. Cái điều làm người ta khó chịu lại là mấy ông khách đến với anh ta, chừng như là người đã đọc qua "Trầm luân" rồi, hay xưng mình là "người thanh niên bất hạnh" hoặc "người thừa" [4], cứ khệnh khạng và ngông nghênh chất trên ghế bành, một mặt than vắn thở dài, một mặt nhăn mày hút thuốc vặt. Lại có lũ trẻ của chủ nhà, cứ hay rầy lộn nhau, đánh đổ bát đĩa, đòi quà bánh, làm người ta đinh tai nhức óc. Nhưng Liên Thù hễ thấy chúng nó một cái thì vẻ mặt lại không lạnh lùng như bình thường nữa, coi chúng nó còn quý báu hơn tánh mạng của mình. Thấy nói có một lần thằng Lương tý lên sởi, anh ta hốt hoảng đến nỗi bóng đen trên mặt càng thêm đen ; có ngờ đâu bệnh ấy là bệnh nhẹ, thế rồi về sau bị bà nội lũ trẻ đem rêu rao làm trò cười.

    "Dù thế nào trẻ con cũng là tốt. Chúng nó toàn là ngây thơ chân thật.." Một hôm, hình như anh ta thấy tôi có hơi khó chịu, thừa dịp nói với tôi như thế.

    "Cũng không hẳn thế đâu." Tôi trả lời cho qua chuyện.

    "Không. Những tánh xấu của người lớn, trẻ con không có. Về sau đâm xấu, như anh thường hay công kích, là tại hoàn cảnh làm nên xấu. Chứ hồi đầu vốn không xấu, ngây thơ chân thật.. Tôi cho rằng Trung Quốc còn có chỗ trông mong được, chỉ ở một chút ấy."

    "Không. Nếu trong đứa bé không có cái mầm xấu, thì lớn lên sao có hoa quả xấu được? Ví như một hột giống, ở trong vốn có cái mầm cành lá hoa quả sẵn rồi, sau mọc lên mới có thể nảy ra các thứ ấy. Đâu có phải là chuyện vụt thình lình.." Tôi hồi đó nhân ngồi rỗi, bèn cũng làm như các cụ các ngài hễ hạ giã[5] một cái là ăn chay tụng niệm, đang đọc kinh Phật. Lẽ Phật tự nhiên là tôi không hiểu gì, có điều trót đã chẳng nghĩ tới nghĩ lui, cứ buột mồm nói.

    Nhưng mà Liên Thù đã đâm tức, nhìn tôi một cái, không nói nữa. Tôi cũng không đoán được là anh không có câu trả lời được hay không thèm cãi. Song thấy anh lại tỏ ra cái thái độ lạnh lùng mà bấy lâu không thấy, cứ làm thinh làm thế hút luôn hai điếu thuốc ; đến khi anh lấy đến điếu thuốc thứ ba, tôi chỉ có việc chuồn.

    Sự giận nhau đó qua ba tháng mới hết. Đại khái một phần vì quên đi, một phần vì chính anh ta rồi cũng bị đứa trẻ "ngây thơ chân thật" nó xúc phạm, thành ra anh thấy những lời tôi xúc phạm đến trẻ con cũng đáng tha thứ. Nhưng đó chỉ là điều tôi đề chừng. Lúc ấy là ở nhà trọ tôi sau cơn uống rượu, anh giống như tỏ vẻ buồn rầu, hơi ngước mặt lên nói:

    "Nghĩ cũng hơi lạ thật. Khi tôi đi đến đây, trên đường phố thấy một thằng bé tí hon, cầm một cái lá lau chỉ vào tôi mà nói: Giết chết! Nó vừa mới biết đi chập chững.."

    "Đó là bởi hoàn cảnh làm nên xấu."

    Nói xong, tôi hối ngay. Nhưng anh ta hình như không để? , cứ việc uống rượu, thỉnh thoảng lại cứ việc hút thuốc.

    "À tôi quên, không hỏi anh", tôi đánh lãng sang chuyện khác, "anh ít hay đi thăm ai, sao hôm nay lại cao hứng đi đến tôi? Chúng ta biết nhau hơn một năm rồi, anh đến đây với tôi lần này là lần thứ nhất."

    "Ấy, tôi cũng đang muốn nói cho anh biết: Mấy hôm trong dạo này, anh đừng đến nhà trọ tôi thăm tôi nhé. Chỗ tôi trọ đang có một lớn một bé ở đó, đều không ra hồn người!"

    "Một lớn một bé? Là ai thế?" Tôi hơi lấy làm lạ.

    "Ấy là ông anh con nhà bác của tôi với thằng bé của ông. Ha ha, thằng bé cũng một cái thá như bố nó."

    "Đó là lên thành thăm anh, luôn tiện đi xem chơi chứ gì?"

    "Không. Thấy nói lên để bàn với tôi, định đem thằng bé lập tự cho tôi đấy."

    "À! Lập tự cho anh?" tôi phải ngạc nhiên kêu lên, "chẳng là anh chưa lấy vợ à?"

    "Họ biết tôi không lấy vợ. Nhưng điều đó không có quan hệ gì cả. Thực ra họ muốn lập tự cho cái gian nhà đổ nát ở Hàn Thạch Sơn của tôi. Ngoài đó ra, tôi không có một cái gì, anh vẫn biết, tiền vào tay là tiêu sạch. Chỉ độc có gian nhà đổ nát ấy. Sự nghiệp một đời của cha con họ là cốt đuổi con mụ ở nhờ cái nhà ấy ra khỏi."

    Cái ý gai lạnh của câu nói anh ta, thật làm tôi ghê rợn. Tuy vậy, tôi cũng cứ yên ủi:

    "Tôi xem người trong họ của anh cũng không đến nỗi thế. Chẳng qua tư tưởng của họ có hơi cũ một chút. Thì coi như năm nọ, lúc anh khóc dữ quá, họ chẳng đã hết lòng hết sức khuyên giải anh là gì?"

    "Sau khi cha tôi chết, vì muốn cướp cái nhà của tôi, họ bắt tôi ký tên vào văn tự, thế mà khi tôi khóc to, họ cũng làm như thế, cũng vây chung quanh hết sức khuyên giải tôi.." Anh ta ngước mắt đăm đăm nhìn lên, tự hồ muốn tìm lại trong quãng không cái quang cảnh lúc bấy giờ.

    "Nói tóm lại, chỗ cốt yếu là tại anh không có con. À mà tại sao anh lại cứ không chịu lấy vợ?" Tôi bỗng tìm được câu nói day chiều, cũng là câu từ lâu tôi muốn hỏi, thấy lúc này thật là dịp tốt.

    Anh ta ra điều lấy làm lạ cứ nhìn tôi, một chốc, quay xuống nhìn đầu gối, thế rồi lại hút thuốc không trả lời.

    III

    Thế nhưng, mặc dầu ở trong một tình cảnh tẻ ngắt như vậy, người ta cũng còn không để cho Liên Thù ở yên. Dần dần, trên mấy tờ báo lá cải có kẻ giấu tên công kích anh, trong học giới cũng thường có tin đồn về anh, mà không phải chỉ đem làm đầu câu chuyện như trước kia đâu, đại khái là đối với anh có tổn hại. Tôi biết đó là cái kết quả gần nay anh ưa phát biểu? Kiến trên báo, cũng chẳng để ý làm gì. Người thành S họ rất không muốn có ai phát ra những lời nghị luận không kiêng nể, hễ có, là họ ngấm ngầm quật ngay cho kỳ được, xưa nay vẫn thế, chính Liên Thù cũng biết thế. Nhưng đến mùa xuân, bỗng nghe nói anh bị ông hiểu trưởng giải chức. Cái tin đó làm tôi thấy hơi đột ngột ; thực ra, đó là việc xưa nay vẫn thế, chỉ vì tôi mong cho người minh quen may mà khỏi, nên mới lấy làm đột ngột đó thôi, có phải người thành S lần này ác hơn những lần khác đâu.

    Lúc đó tôi cứ bận vì sự sống chính mình, phần thì đang lo dàn xếp việc đi làm giáo viên ở Sơn Dương mùa thu sắp tới, nên không có thời giờ đi thăm anh ta. Đợi đến lúc hơi rảnh rỗi, chừng gần ba tháng sau anh ta bị giải chức, mà tôi cũng không nghĩ tới sự đi thăm Liên Thù. Có một hôm, tôi đi qua đường phố lớn, tình cờ đứng lại trước cái sạp bán sách cũ, bỗng làm tôi sửng sốt, vì ở đó chưng bày bộ Sử ký sách ẩn do Cấp Cổ Các[6] in ra lần đầu, chính là sách của Liên Thù. Anh tuy không phải người chứa sách, nhưng ham sách, bộ sách này, theo anh, coi là sách tốt và quý, nếu chẳng phải cực chẳng đã quá lắm thì không dễ gì chịu đem bán đâu. Có lẽ nào anh mới thất nghiệp vài ba tháng mà đã túng kiết đến thế? Khốn nhưng từ hồi nào đến giờ anh hễ có tiền là tiêu hết liền tay, không hè để dành để dụm đồng nào. Thế rồi tôi quyết ý đi thăm Liên Thù, nhân tiện theo dọc đường phố mua một bình rượu cất[7], hai gói lạc rang, hai gói đầu cá nướng.

    Cửa phòng anh ta đóng kín mít, gọi mấy tiếng, chẳng thấy thưa. Tôi tưởng anh đang ngủ, lại gọi to hơn, và giơ tay đập cửa.

    Đi vắng rồi! Bà nội lũ thằng Lương lớn, người đàn bà béo có con mắt ba khía kia, đứng trong cửa số đối ngay tôi, thò cái đầu bạc hoa ram ra, cũng lớn tiếng nói, hình như bực mình không chịu được.

    Đi đâu thế? Tôi hỏi.

    Đi đâu? Ai biết được? Ông ấy mà có thể đi đâu, hãy đứng đợi một lát, thế nào cũng sẽ về.

    Tôi bèn đẩy cửa đi vào phòng khách của anh. Thật là một ngày chẳng thấy, như cách ba thu, cả cái phòng lạnh lẽo và trống hoang trống hoách, chẳng những đồ đạc không còn thừa mấy cái, cả đến sách vở cũng chỉ còn lại mấy cuốn đóng kiểu tây mà người thành S không ai thèm. Cái bàn tròn giữa nhà vẫn còn đó, là chỗ trước kia thường thường quây quần những tranh thanh niên buồn nản mà hăng hái, những tay kỳ sĩ ôm tài chẳng gặp thời, với lại lũ trẻ con lem luốc làm ầm ĩ, bây giờ lại thấy vắng ngắt, chỉ một lớp bụi mong mỏng phủ lên mặt bàn. Tôi bèn đặt bình rượu và gói lạc trên bàn, kéo một cái ghế bành, ngồi tựa bàn ngay trước cửa.

    Thật đúng chỉ một lát, cửa phòng mở, một con người như cái bóng lẳng lặng tiến vào, chính là Liên Thù. Có lẽ là bởi gần tối, trông anh ta như đen hơn trước, nhưng dáng dấp thì lại vẫn như thế.

    A! Anh ở đây rồi! Đến đã lâu chưa? Anh ta như có vẻ vui mừng.

    Không lâu mấy. Tôi nói, còn anh đi đâu thế?

    Không đi đâu cả, chỉ chạy nhăng thôi.

    Anh cũng kéo ghế ngồi cạnh bàn. Chúng tôi bắt đầu uống rượu, đồng thời nói về chuyện anh thất nghiệp. Nhưng anh lại không muốn nói nhiều về chuyện ấy ; anh cho rằng đó là việc mình cầm chắc sẽ xảy ra, cũng là việc mình thường gặp, không có gì đáng lạ, vả lại không có gì đáng nói. Theo lệ thường, anh cứ chăm chỉ uống rượu, lại vẫn cứ bàn luận về xã hội và lịch sử. Không hiểu sao, lúc đó tôi xem thấy cái giá sách trống rỗng, lại nhớ đến bộ Sử ký sách ẩn do Cấp cổ các in lần đầu, bỗng cảm thấy phớt qua một nỗi buồn rầu hiu quạnh.

    Cái phòng khách của anh lạnh lẽo thế này.. Dạo này vắng khách rồi sao?

    Không có nữa. Họ cho rằng đang lúc tâm tình tôi không khoái hoạt, thật có thể làm cho người ta không thích. Vườn hoa mùa đông, thì không có người đi chơi.. Anh uống luôn hai hớp rượu, lặng thinh nghĩ gì đó, vụt một cái, ngước mặt lên nhìn tôi hỏi rằng: Cái chỗ làm mà anh đang chạy chọt đó cũng lại không có câu kéo gì hẳn?

    Tôi tuy biết rằng anh đã hơi có chén, nhưng cũng đâm tức, đang định mở miệng nói, thì thấy anh vừa lắng tai nghe, liền vốc một vốc lạc rang đi ra. Ở ngoài cửa có tiếng cười ồn của bọn thằng Lương lớn.

    Nhưng anh vừa đi ra, thì tiếng lũ trẻ đã im phăng phắc, hình như chúng nó đều đã chạy đi đâu cả. Anh còn đuổi theo, nói gì đó, lại không nghe có tiếng trả lời. Anh cũng lẳng lặng trở vào như một cái bóng, đem một vốc lạc rang bỏ trở lại vào gói giấy.

    Cả đến của mình chúng nó cũng không thèm ăn nữa. Anh hạ giọng xuống, nói như là cười nhạo.

    Tôi thấy buồn bẽo quá, nhưng vờ mỉm cười, nói:

    Liên Thù, tôi cho rằng anh chỉ chác lấy khổ não cho mình thôi. Anh coi người đời xấu quá..

    Anh ta lạnh lùng cười một cái.

    Câu tôi nói chưa hết đâu. Đối với cto là những người tình cờ đến thăm anh, anh cũng cho là vì rỗi rãi không việc gì thì đến đây, đem anh làm món đồ tiêu khiển phải không?

    Không. Nhưng cũng có lúc nghĩ thế. Hoặc là đến để tìm mẩu chuyện.

    Thế thì anh có thể lầm rồi. Thật ra, không ai như thế đâu. Anh đã chính tay mình làm ra cái kén, rồi đem mình nhốt vào đó. Anh nên xem đời tươi sáng một chút thì hơn. Tôi nói với cái giọng than tiếc.

    Cũng có lẽ là thế. Thế nhưng tôi hỏi anh: Cái tơ làm kén đó nó ở đâu ra? - Tự nhiên, ở đời thế nào cũng có người dường ấy, như bà nội tôi là thế đó. Tôi tuy không chia được giọt máu của bà, nhưng có lẽ sẽ thừa kế số phận của bà. Song le cái đó cũng chẳng hề chi, tôi đã sẵn sàng khóc qua một trận rồi..

    Tôi lập tức nhớ lại cái tình cảnh lúc nhập liệm bà nội anh, nó như hiện ra trước mắt, rồi hỏi một cách lờ mờ:

    Tôi vẫn không hiểu cái sự anh khóc to lúc bấy giờ..

    Lúc nhập liệm bà tôi chứ gì? Anh không hiểu là phải. Anh ta vừa thắp đèn, vừa lạnh lạt nói: Tôi tưởng sở dĩ anh đi lại với tôi, cũng chỉ vì cái khóc lần ấy. Anh không biết đấy, bà ấy là mẹ kế của cha tôi ; còn mẹ đẻ cha tôi thì đã chết lúc cha tôi ba tuổi rồi. Anh ta nghĩ ngợi, làm thinh uống rượu, nhấm hết cả một cái đầu cá nướng.

    Những việc đã qua ấy, tôi vốn không biết. Song le hồi tôi còn bé, tôi đã thấy có điều không hiểu được. Bấy giờ cha tôi còn sống, cảnh nhà còn khá, khoảng tháng giêng, lệ thường đem chân dung tổ tiên ra treo, cúng cấp linh đình. Hồi đó, được xem những bức vẽ chân dung ăn mặc sang trọng ấy, tôi coi như là hạnh phúc ít có cho cặp mắt mình. Nhưng cái u em bế tôi lại chỉ cho tôi một bức mà nói: Đây là chính bà nội của em, hãy lạy đi, để bà phù hộ cho em hay ăn chóng lớn. Tôi thật không hiểu sao mình đã rành rành có bà nội đó rồi, lại còn có chính bà nội nào nữa. Thế nhưng tôi yêu chính bà nội ấy, bà không già như bà nội ở nhà ; bà trẻ, trông xinh xắn, mặc áo quần màu đỏ thếp vàng, đội mũ khảm hạt trai, không khác mẹ tôi là mấy. Khi tôi nhìn bà, con mắt bà cũng tròng trọc nhìn tôi, ở khóe miệng mỗi lúc mỗi hiện thêm dáng cười: Tôi biết chắc bà cũng yêu tôi lắm lắm.

    Nhưng mà tôi cũng yêu bà nội hiện ở trong nhà, suốt ngày cặm cụi ngồi khâu dưới cửa sổ. Mặc dầu những khi ở trước mặt bà, tôi có hớn hở nô đùa đến đâu, gọi bà, cũng không gợi cho bà vui cười được, thường làm cho tôi thấy lạnh lùng quá, khác với các bà nội nhà người ta. Tuy vậy tôi vẫn yêu bà. Nhưng đến về sau, đối với bà, dần dần tôi thấy xa lạ ; đó không phải vì cớ đã lớn lên rồi, đã biết bà không phải là người đẻ ra cha mình, nhưng là vì cứ thấy suốt ngày suốt năm khâu mãi, khâu mãi, như cái máy, không khỏi sinh ra khó chịu. Song le, bà vẫn cứ như trước, vẫn cứ khâu ; săn sóc tôi, yêu nâng tôi, tuy ít thấy dáng cười, chứ cũng không quở mắng. Cho đến khi cha tôi qua đời, bà vẫn cứ thế ; về sau, chúng tôi hầu như nhờ cả vào cây kim sợi chỉ của bà mà sống, và mãi như thế cho đến khi tôi vào trường học..

    Ngọn đèn lụi dần, dầu hỏa đã hầu cạn, anh bèn đứng dậy, mò dưới giá sách lấy ra một cái bình sắt tây nho nhỏ rót thêm dầu.

    Chỉ trong một tháng nay, dầu hỏa đã lên giá hai lần rồi. Anh vừa xoay cái họng đèn vào vừa chậm rãi nói: Sự sống càng ngày càng thấy khó khăn. - Bà tôi sau rồi cũng vẫn cứ thế, cho đến ngày tôi tốt nghiệp, có việc làm rồi, sinh hoạt mới yên ổn hơn trước đôi chút ; e còn có lẽ cho đến ngày bà phát bệnh, thật tình không còn gắng gượng được nữa, mới phải nằm xuống..

    Theo tôi tưởng thì tuổi già của bà cũng kể là không đến nỗi khổ lắm, hưởng thọ cũng chẳng ít, không cần tôi khóc làm chi. Huống chi những người khóc chẳng đã có nhiều rồi sao? Cả đến những người trước kia ra sức giày xéo bà cũng khóc, ít nhất là vẻ mặt cũng buồn thỉu buồn thiu. Ha ha!.. không biết thế nào, hồi đó tôi lại đem thu gọn cả cuộc đời của bà ở trước mắt, cả cuộc đời của cái người chính tay mình gây nên cô độc, lại đặt vào miệng mà nhấm nháp. Vả lại thấy những người như thế còn có rất nhiều. Hạng người ấy làm cho tôi phải đau đớn khóc, có điều phần lớn cũng vì lúc bấy giờ tôi xử sự quá thiên về tình cảm..

    Cái ý kiến của anh đối với tôi bây giờ, tức là cái ý kiến của tôi đối với bà tôi ngày trước. Nhưng mà cái ý kiến của tôi lúc đó, thực ra cũng không đúng. Nghĩa là chính mình tôi, bắt đầu từ khi hơi hiểu biết việc đời, thì thật đã dần dần xa lạ với bà tôi rồi..

    Anh ta im lặng, kẹp điếu thuốc giữa hai ngón tay, cúi đầu ngẫm nghĩ. Ngọn đèn hơi run run, chao đảo.

    A, người ta muốn cho sau khi chết không có một người nào khóc mình, không phải là việc dễ. Anh lẩm bẩm như nói một mình. Ngừng một lát, anh ngước mặt lên nói với tôi: Nghĩ thì anh cũng không có cách nghĩ. Còn tôi, tôi cũng phải tìm gấp việc gì để làm..

    Anh không còn có bạn bè nào nhờ cậy được sao? Tôi khi ấy thật không nghĩ cách gì được, cả đến chính mình.

    Bạn bè thì đại khái còn có mấy người, nhưng cảnh ngộ của họ cũng chẳng khác tôi là mấy..

    Lúc tôi từ biệt Liên Thù bước ra cửa, vừng trăng tròn đã lên giữa trời, đêm rất yên lặng.

    IV

    Cái tình hình dạy học ở Sơn Dương rất không tốt. Tôi đến trường đã hai tháng, không lãnh được một đồng lương, cả đến thuốc lá cũng phải bớt hút. Nhưng bọn người trong trường, tuy là những chức viên nhỏ, lương tháng mười lăm, mười sáu đồng, cũng chẳng có một kẻ nào là chẳng biết điều và yên phận, nhờ cái xương sắt gân đồng đã luyện nên, một mực chịu mặt vàng da bủng làm việc cho nhà trường từ sáng đến tối, khi thấy vai trên nhích hơn mình một tí còn phải lễ phép đứng dậy, thật đều là thứ dân không cần phú quý rồi mới sinh lễ nghĩa. Mỗi khi tôi thấy cái tình trạng ấy, chẳng biết thế nào lại cứ nhớ đến lời Liên Thù cậy tôi khi sắp biệt nhau. Hồi này sự sống anh ta càng túng ngặt quá, mỗi lúc lộ ra cái bộ mặt quẫn, xem chừng không còn có vẻ thâm trầm như trước, biết tôi sắp đi, đêm khuya đến thăm tôi, ngần ngừ chặp lâu, rồi anh mới ấp úng nói:

    Không biết ở bên đó có kiếm được cái gì không? - Dù là sao chép, một tháng hai ba chục đồng cũng được. Tôi..

    Tôi rất lấy làm lạ, không ngờ anh ta lại chịu dún giá xuống đến như thế, ngay lúc đó không biết nói thế nào.

    Tôi.. tôi còn phải sống ít ngày..

    Để sang bên đó xem xem, thế nào cũng hết sức kiếm cách.

    Đó là câu tôi cả quyết chịu miệng lúc bấy giờ, về sau thường thường chính mình nghe thấy, trước mắt đồng thời cũng nổi bật tuồng mặt Liên Thù, vả lại đang ấp úng nói Tôi còn phải sống ít ngày. Những lúc đó, tôi bèn liệu cách tiến cử anh cho các nơi, nhưng mật ít ruồi nhiều, không được gì cả, rốt cuộc là người ta nói với tôi mấy lời xin lỗi, tôi lại viết thư nói với anh mấy lời xin lỗi. Đến lúc gần mãn một học kỳ, tình hình lại càng thêm hỏng lắm. Trên tờ Học lý chu báo của mấy tay thân sĩ ở đó chủ trương, đã bắt đầu công kích tôi, cố nhiên là không gọi tên ra, nhưng bằng những lời lẽ rất khéo, làm ai đọc đến cũng hiểu ngay chính tôi là kẻ đang khiêu dịch học trào[8], cả đến việc tiến cử Liên Thù, cũng cho là rủ bè kéo cánh.

    Tôi chỉ còn có cách im lìm không cựa quậy. Ngoài giờ lên lớp, cứ đóng cửa trốn trong nhà, có khi cả đến khói thuốc lá lọt ra khe cửa sổ, cũng sợ bị nghi là khiêu dịch học trào. Cái việc của Liên Thù, tự nhiên là không thể nói đến được. Cứ như thế thẳng đến giữa mùa đông.

    Một hôm trời sa tuyết, mãi đến đêm chưa dứt, bên ngoài thay thảy rất im lặng, im lặng đến nỗi như có thể nghe thấy tiếng của im lặng. Dưới ánh đèn leo lét, tôi nhắm mắt, ngồi khàn, như thấy từng mảnh hoa tuyết tơi bời sa xuống, để bù đắp thêm cho cái đống tuyết mênh mông kia ; làng quê cũng đang sắm sửa ăn Tết, ai nấy bận rộn hết sức ; mà chính tôi lại còn là một đứa bé, đang ở chỗ đất phẳng sau cái vườn cùng một tụi bạn bé dùng tuyết nặn hình ông Bụt. Cặp mắt của ông Bụt tuyết, dùng hai hòn than nhỏ làm thành, nó đen nhánh, nhấp nhoáng một cái, biến ngay ra là cặp mắt của Liên Thù.

    Tôi còn phải sống ít ngày! Vẫn là cái tiếng nói ấy.

    Tại sao? Tôi bỗng dưng hỏi bâng quơ như thế, tức khắc, tự tôi tôi cũng thấy buồn cười.

    Cái câu hỏi buồn cười ấy làm tôi chợt tỉnh, ngồi thẳng lên, châm một điếu thuốc, đẩy cửa sổ trông ra, quả nhiên tuyết xuống càng nhiều. Nghe có tiếng gõ cửa, một lát, có người đi vào, nhưng là tiếng chân đã nghe quen của kẻ làm việc vặt trong nhà trọ. Hắn đẩy cửa phòng tôi, đưa cho tôi một phong thư dài chừng hơn sáu tấc, tuồng chữ ngoạch ngoạc, nhưng nhác thấy hai chữ Ngụy gửi thì biết là thư của Liên Thù.

    Đó là phong thư đầu tiên anh gửi cho tôi sau khi tôi lìa khỏi thành S. Tôi biết anh lười, vốn tình chẳng lấy sự bặt tin làm lạ, song có lúc cũng hơi oán anh sao chẳng hề gửi cho một lá thư. Đến khi tiếp được phong thư này, bỗng lại lấy làm lạ, vội vàng mở xem. Bên trong vẫn dùng một lối chữ ngoạch ngoạc viết như thế này:

    Thân Phi..

    Tôi gọi anh bằng gì bây giờ? Tôi để trống. Anh tự ý muốn tôi gọi bằng gì thì cứ điền thêm vào. Tôi thì thế nào cũng được.

    Sau khi biệt nhau tiếp được ba lần thư, không trả lời. Cái lý do rất giản đơn, cả đến tiền mua tem tôi cũng không có.

    Có lẽ anh muốn biết sơ về tin tức của tôi, nay tôi bảo gọn cho anh biết, tôi thất bại rồi. Trước kia, tôi tự cho mình là kẻ thất bại, bây giờ biết là chưa phải, bây giờ tôi mới thật là kẻ thất bại. Trước kia, khi còn có người muốn tôi sống ít ngày, chính tôi cũng còn muốn sống ít ngày, thì sống không nổi ; bây giờ đây, rất có thể không cần nữa rồi, nhưng mà lại cứ phải sống..

    Nhưng mà cứ phải sống thì sống được à?

    Cái người muốn tôi sống ít ngày, chính mình họ đã không sống được rồi. Người ấy đã bị kẻ địch lừa giết đi rồi. Ai giết? Chả ai biết cả.

    Đời người thay đổi chóng quá đi mất! Nửa năm nay, tôi hầu đi ăn xin, sự thực, cũng kể được là đã đi ăn xin rồi. Nhưng mà tôi còn vì cái gì đó, tôi vui lòng vì cái gì đó mà đi ăn xin, vì cái gì đó mà chịu đói rét, vì cái gì đó mà chịu hiu quạnh, vì cái gì đó mà chịu đắng cay. Song le, đến cái chết thì toi không vui lòng được. Anh xem, có một người muốn tôi sống ít ngày, cái lực lượng ấy lớn đến như thế đấy. Nhưng mà hiện nay đã không có rồi, cả đến một người như thế cũng không có rồi. Đồng thời, chính mình tôi cũng thấy không đáng sống nữa ; còn người khác? Cũng không đáng sống. Đồng thời, chính mình tôi lại thấy phải vì những người không muốn cho tôi sống nữa mà sống nữa ; may mà những người muốn cho tôi sống cho ra lòng. Làm cho những người như thế đau lòng, là điều tôi không muốn. Nhưng mà hiện nay thì không có nữa, cả đến một người như thế cũng không có. Khoan khoái lắm rồi, thoải mái lắm rồi, chính mình tôi đã thực hành hết thảy những cái gì mà trước kia tôi ghét, tôi phản đối, ruồng bỏ hết thảy những cái gì mà trước kia tôi sùng bái, tôi chủ trương rồi. Tôi đã là thất bại thật, - nhưng mà tôi thắng lợi.

    Anh cho tôi là điên rồi phải không? Anh cho tôi là đã thành ra anh hùng hoặc vĩ nhân rồi phải không? Không, không phải đâu. Việc đó rất giản đơn: Gần nay tôi đã làm cố vấn của Đỗ sư trưởng rồi, lương mỗi tháng có tám chục đồng rồi.

    Thân Phi..

    Anh sẽ cho tôi là cái thá gì, tùy anh định lấy, tôi thì thế nào cũng được.

    Anh đại khái còn nhớ cái phòng khách của tôi hồi trước, cái phòng khách mà chúng ta ở trong thành gặp nhau lần đầu và biệt nhau lần chót. Bây giờ tôi vẫn còn dùng cái phòng khách ấy. Ở đấy, bây giờ có khách khứa mới, đồ biếu xén mới, sự tâng bốc mới, sự chạy chọt mới, cái vập đầu và khom lưng mới, cuộc đánh bài và đánh toan mới, cái lạnh lùng và cái hằn học mới, cái mất ngủ và cái hộc máu mới..

    Trong thư trước, anh nói anh dạy học rất không được vừa ý. Thế thì anh có muốn làm cố vấn không? Cứ bảo tôi đi, tôi xoay cho. Thực ra thì làm thằng gác cửa cũng chẳng hại chi, rồi cũng có khách khứa mới, đồ biếu xén mới và sự tâng bốc mới..

    Ở đây sa tuyết to rồi. Nơi anh thế nào? Giờ đây đêm đã khuya, hộc hai lần máu, tôi thấy trong người tỉnh táo. Nhớ lại từ mùa thu đến nay anh tiếp tục gửi tôi ba phong thư, đó là sự đáng kinh dị dường nào. Tôi phải cho anh biết một ít tin tức mới được, có lẽ anh không đến nỗi thở ra một hơi lạnh lẽo.

    Rày về sau, cơ chừng tôi không viết thư nữa, cái thói quen ấy của tôi, anh vẫn viết. Bao giờ về? Nếu về sớm thì chắc có thể gặp nhau đấy. - Nhưng tôi tưởng, đại khái chúng ta rốt cuộc không cùng đi một đường đâu, vậy thì, xin anh quên tôi đi. Tôi thật lòng cảm ơn anh trước kia thường vì tôi lo toan sinh kế. Song bây giờ hãy quên tôi đi ; tôi bây giờ đã tốt rồi.

    Liên Thù

    Ngày 14 tháng 12

    Bức thư tuy không làm cho tôi thở ra một hơi lạnh lẽo, song sau khi xem sơ qua một bận rồi, lại xem kỹ một bận nữa, thấy có hơi khó chịu, mà đồng thời lại thấy lẫn vào chút ít khoái ý và cao hứng ; và nghĩ, về sinh kế của anh ta, thế là đã không thành vấn đề rồi, tôi cũng trút được một cái gánh, mặc dầu về việc đó thủy chung tôi cũng chỉ không biết xoay sở cách nào. Bỗng lại nghĩ viết thư trả lời anh, nhưng rồi thấy không có chuyện gì nói, thế rồi cũng liền thủ tiêu cái ý nghĩ ấy.

    Quả thật tôi dần dần quên bẵng anh ta. Trong trí nhớ của tôi, tuồng mặt anh không thường thường hiện ra nữa. Song sau khi nhận được thư không đầy mười ngày, Nhà Học lý tuần báo ở thành S bỗng dưng tiếp tục gửi tờ Học lý tuần báo cho tôi. Tôi vốn không hay đọc những của ấy, chẳng qua đã gửi đến, thì cũng vui tay lật trang này qua trang khác. Không ngờ nó làm cho tôi nhớ đến Liên Thù, vì trong báo ấy thường có những bài thơ văn dính dáng đến anh, như là Đêm tuyết ra mắt Liên Thù tiên sinh, Buổi họp ở phòng khách quan cố vấn Liên Thù chẳng hạn. Có một lần, ở mục Nhàn đàm còn say sưa nhắc lại những chuyện trước kia anh bị đưa ra làm trò cười, gọi là dật văn, giữa những dòng chữ rõ có cái ý muốn nói Vả chăng con người phi thường ắt có thể làm những việc phi thường.

    Tuy rằng nhân đó nhớ lại Liên Thù, có điều không biết thế nào, tuồng mặt của anh lại cứ mờ dần đi ; nhưng lại thấy như với tôi càng ngày thêm mật thiết, thỉnh thoảng cảm thấy một thứ áy náy và hơi rùng mình mà chính tôi cũng không hiểu là gì và bởi đâu. May mà đến cuối thu, tờ Học lý tuần báo không gửi đến nữa ; tờ Học lý chu san ở Sơn Dương lại mỗi kỳ liên tiếp đăng một bài luận dài: Lưu ngôn tức sự thực. Trong đó nói, những tiếng đồn về mấy ông nọ đã ầm lên trong hàng thân sĩ đứng đắn rồi. Đó là nói riêng về mấy người thôi, mà trong đó có tôi ; tôi chỉ phải cẩn thận hết sức, cả đến khói thuốc hút cũng cứ giữ gìn không dám cho bay ra ngoài. Cẩn thận giữ gìn là một thứ đau khổ thường xuyên, nhân đó có thể mọi việc đều nhãng bỏ, tự nhiên cũng không rồi đâu nhớ đến Liên Thù. Tóm lại, thực ra tôi đã quên bẵng anh ta rồi.

    Nhưng rốt lại tôi cũng không bôi trét cho đến nghỉ hè được, cuối tháng năm, bèn lìa khỏi Sơn Dương.

    V

    Từ Sơn Dương đến Lịch Thành, lại đến Thái Cốc, xoay quanh già nửa năm trời, chung quy chẳng tìm được việc gì làm, tôi bèn quyết kế lộn về thành S. Lúc đến nơi là buổi chiều đầu xuân, màu trời muốn mưa mà không mưa, mọi vật đều lồng trong sắc xám ; chỗ trọ cũ còn có phòng trống, tôi lại đến ở đó. Dọc đường nhớ đến Liên Thù, sau khi đến, quyết định ăn cơm chiều xong đi thăm anh. Tôi mang theo hai gói bánh luộc, sản phẩm nổi tiếng ở Văn Hỉ, đi bao nhiêu chặng đường lầy lội, tránh bao nhiêu con chó nằm kềnh cản đường, mới đến được trước cửa nhà Liên Thù. Bên trong có vẻ sáng sủa khác thường. Tôi bụng bảo dạ, người ta làm cố vấn có khác, cả đến chỗ ở cũng đâm quang rạng ra, rồi bất giác cười thầm. Nhưng ngước nhìn một cái, cạnh cửa có cái gì trăng trắng, rõ ràng là một tờ giấy dán chéo ở đó[9] . Tôi lại bụng bảo dạ, chắc bà nội lũ thằng Lương lớn chết rồi hẳn ; đồng thời tôi cũng bước qua ngưỡng cửa, đi thẳng vào trong.

    Trong phòng ánh sáng hơi mờ, thấy để một cỗ quan tài, bên cạnh đứng một người lính mặc áo dấu hoặc là người mã phu, còn có một người nữa đang nói chuyện với hắn, nhìn ra thì lại là bà nội thằng Lương lớn ; ngoài ra còn có mấy kẻ áo ngắn cục mịch đứng vơ vẩn. Quả tim tôi tức khắc thấy hồi hộp. Bà lão nọ cũng quay mặt nhìn sững tôi.

    Ối già! Ông về đấy rồi? Sao không về sớm mấy ngày.. bỗng dưng bà ta kêu to lên.

    Ai.. ai mất đấy? Thực ra, đại khái tôi đã biết rồi, có điều cứ hỏi.

    Ông lớn Ngụy đấy, ngài mất hôm qua.

    Tôi nhìn quanh, trong phòng khách tờ mờ, chừng như chỉ có một thếp đèn ; ở nhà giữa lại treo màn tang trắng, mấy đứa trẻ xúm nhau ở ngoài nhà, tức là lũ Lương lớn Lương nhỏ.

    Ngài nằm ở đấy. Bà thằng Lương lớn tiến đến trước, lấy tay chỉ và nói: Ông lớn Ngụy sau khi thăng quan, tôi đem cả cái nhà giữa này cho ngài thuê ; bây giờ ngài nằm ở đấy.

    Chỗ cái màn tang không có gì khác, phía trước một cái bàn dài, một cái bàn vuông, trên bàn vuông bày ra mươi bát cơm và thức ăn. Tôi vừa bước vào, trước mặt bỗng hiện ra hai người mặc áo trắng dài gàn tôi lại, trợn mắt như mắt cá chết, có vẻ kinh hãi và ngờ vực, nhìn tròng trọc vào mặt tôi. Tôi vội vàng nói rõ mối quan hệ giữa tôi và Liên Thù, bà thằng Lương lớn cũng làm chứng giúp, họ mới dần dần buông tay dịu mắt, ngấm ngầm cho phép tôi đến đằng trước nghiêng mình.

    Tôi vừa nghiêng mình thì trong tôi bỗng có người ồ ồ khóc rống lên, nhìn kỹ thấy một đứa bé hơn mười tuổi chum hum trên chiếc đệm rơm, cũng mặc đồ trắng, trên cái đầu tóc hớt nhẵn nhụi quấn một vành sợi gai lớn.

    Sau khi hỏi thăm, tôi biết trong hai người đó một người là anh em chú bác với Liên Thù, kể là bà con gần nhất, còn một người là cháu gọi bằng bác hay chú họ xa. Tôi xin nhìn mặt người bạn cũ một lần chót, họ hết sức ngăn trở, nói là không dám. Sau tôi nói mãi, họ mới chịu vén màn tang lên.

    Lần này tôi giáp mặt Liên Thù đã chết. Song quái lạ! Anh tuy mặc một bộ áo quần ngắn và nhàu, trên mỏ hò còn có dấu máu, nét mặt cũng gầy đét tệ, nhưng diện mạo vẫn là cái diện mạo trước kia, im lìm mím miệng nhắm mắt, như là ngủ, hầu khiến tôi giơ tay trước mũi anh, xem có phải thực ra anh vẫn còn thở.

    Hết thảy đều im lìm như chết, cả người chết lẫn người sống. Tôi lùi ra, người anh em chú bác của anh lại đến xoắn xuýt, nói chú nó đang lúc tuổi giàu sức mạnh, con đường trước mặt thênh thang, thế mà bỗng làm người thiên cổ, đó chẳng những là điều chẳng may của nhà cháu, mà cũng làm cho bầu bạn đau lòng. Không nói rõ ra, nhưng hơi có ý xin lỗi hộ Liên Thù. Người miền núi mà nói thạo như thế là ít có lắm. Song sau đó cũng lại chìm lặng, hết thảy đều im lìm như chết, cả người chết lẫn người sống.

    Tôi thấy tẻ ngắt, buồn thương lại không có gì là buồn thương, bèn lui ra nhà ngoài, nói chuyện phiếm với bà nội lũ thằng Lương lớn. Nhân đó biết rằng giờ nhập liệm gần tới, chỉ chờ áo dưỡng già đưa đến thôi ; và trong lúc đóng chốt nắp quan, thế nào bốn tuổi tý ngọ mẹo dậu cũng phải tránh xa. Bà lão nói chuyện rất hăng, cuồn cuộn như nước suối chảy, nói đến bệnh trạng Liên Thù, nói đến tình cảnh khi anh còn sống, còn đèo thêm đôi lời phê bình về anh nữa.

    Ông nên biết rằng ông lớn Ngụy từ sau khi vận tấy, người khác với trước, mặt vểnh lên, khí phách hiên ngang. Đối với mọi người cũng không gàn như trước nữa. Ông biết trước kia ngài chẳng gọi tôi bằng bà cụ là gì? Thế mà về sau gọi là mụ già. E ê, hay đáo để. Người ta biến ngài món truật Tiên cư[10], ngài không ơi, ném ra giữa nhà, - là chỗ này đây -, và bảo tôi: Mụ già, đem mà ăn đi. Sau khi ngài vận tấy, đông người tới lui, tôi bèn nhường cái nhà giữa cho ngài ở, tôi dọn ở cái phòng bên trái này. Ngài từ bước sang vận đỏ một cái, thật là khác hẳn mọi người, chúng tôi thường thường nói cười với nhau như thế. Phải chi ông đến sớm lấy một tháng thì còn kịp thấy cái cảnh tấp nập ở nơi này, vài ba hôm lại có cuộc đánh toan, quay thìa, ai nói cứ nói, ai cười cứ cười, ai hát cứ hát, ai làm thơ cứ làm thơ, ai đánh bài cứ đánh bài..

    Ngài trước kia sợ trẻ con còn hơn trẻ con sợ bố nữa, cứ là bé tiếng dịu giọng. Gần nay thì lại khác, hay nói hay đùa, lũ thằng Lương lớn chúng tôi cũng rất thích đùa với ngài, hễ hở ra một cái, là đều chạy sang nhà ngài. Ngài còn dùng nhiều cách gợi trò đùa: Trẻ con đòi mua thức gì, thì ngài buộc chúng phải làm chó sủa, hay là vập đầu một cái cho kêu. Ha ha, thật là vui quá. Hai tháng trước đây thằng Lương nhỏ đòi ngài mua giày, phải vập đầu ba cái đấy, đôi giày ấy, hiện nay nó còn đi chưa hỏng mà.

    Một người mặc áo dài trắng đi ra, bà lão ngừng nói. Tôi muốn biết chừng bệnh của Liên Thù, thì bà ta không rõ lắm, chỉ nói đại khái là người anh đã gầy đi từ lâu, có điều không ai để ý đến, vì anh cứ vui vẻ như thường. Đến trước đây hơn một tháng, mới nghe nói anh hộc mấy lần máu, song hình như cũng chẳng đi xem thầy thuốc ; sau rồi nằm liệt ; ba ngày trước khi chết thì tắt tiếng, nói không ra một lời. Ông Mười ba từ Hàn Thạch Sơn đi diệu vợi lên thành, hỏi anh có còn tiền bạc gì không, anh không nói gì cả. Ông Mười ba ngờ anh giả đò, cũng có kẻ nói một số người chết vì bệnh lao thì tắt tiếng như thế, chẳng biết thế nào..

    Nhưng mà tánh khí ông lớn Ngụy cũng cổ quái quá. Bà lão bỗng dưng hạ giọng nói. Ngài chẳng chịu chắt bóp một tí gì, tiêu tiền cứ như nước. Ông Mười ba còn ngờ cho chúng tôi có được béo bở gì. Thực ra có béo bở đếch gì đâu? Ngài đã xài phí phạm bừa bãi hết cả rồi. Ví dụ mua một vật gì, ngày nay mua, ngày mai lại bán, hoặc đập vỡ, thật chẳng hiểu ra làm sao cả. Đến lúc buông xuôi tay chân một cái, cái gì cũng không có, thật hỏng bét. Nếu không thì hôm nay có đâu đến nỗi hiu quạnh thế này..

    Ngài thì cứ ẩu xị, chẳng lo làm một việc gì gọi là căn cơ. Tôi đã nghĩ đến, cũng đã khuyên ngài. Ngần ấy tuổi rồi, đáng lẽ phải có gia đình ; theo bề thế hiện giờ, xe một mối tơ hồng dễ lắm ; bằng không có nơi môn đăng hộ đối thì mua trước mấy cô hầu cũng được: Đã là người thì phải cho ra người chứ. Thế mà nghe nói một cái là ngài vùng lên cười, bảo tôi: Thì ra mụ già này vẫn cứ chăm lo những việc như thế cho người khác à? Ông xem, ít lâu nay ngài bập bềnh mà không đáy chốt, người ta nói phải lại không cho là phải để mà nghe. Giá sớm nghe lời tôi, đâu đến nỗi bây giờ vò võ một thân một mình sờ soạng nơi âm phủ, ít nhất cũng còn được nghe mấy tiếng khóc của người thân chứ lại..

    Một người thợ bạn ở tiệm may mang quần áo đến. Ba người bà con bèn chọn lấy đồ mặc trong, đi vào sau màn. Một chốc, màn vén lên, đồ mặc trong đã thay rồi, đến mặc quần áo ngoài. Có điều này làm tôi không ngờ đến: Một cái quần nhà binh màu ka ki viền nẹp đỏ rất rộng mặc vào xong, rồi đến mặc cái áo nhà binh, hai vai ngù vàng nhoáng sáng, cũng chả biết là phẩm hàm gì, và phẩm hàm từ đâu đến. Khi nhập quan, thấy Liên Thù nằm rất không thoải mái, bên chân đặt một đôi giày da vàng, bên sườn một cái gươm chỉ huy bằng giấy, cạnh cái mặt đen xám gầy như que củi một cái mũ nhà binh viền kim tuyến.

    Ba người bà con vịn lấy thành quan tài khóc một hồi, ngừng khóc lau nước mắt ; thằng bé đầu quấn vành gai lùi ra, thằng Lương tý cũng đi tránh chỗ khác, chắc hẳn mỗi đứa đều thuộc về một tuổi trong bốn tuổi tý ngọ mẹo dậu.

    Có người khiêng nắp quan tài đến, tôi lại gần để nhìn Liên Thù một lần cuối cùng.

    Anh nằm yên lặng giữa những áo mũ kịch cợm, nhắm mắt, mím miệng, khóe miệng tuồng như mỉm cười lạnh lùng, cười lạnh lùng cái xác chết đáng buồn cười ấy.

    Tiếng đóng chốt vang lên một cái, tiếng khóc đồng thời cũng òa lên. Tiếng khóc ấy làm tôi không thể nghe trọn được, chỉ phải lùi ra nhà ngoài ; thằng giằm, không dè đi tuốt ra khỏi cổng. Con đường lầy lội rất rõ ràng, ngước lên nhìn trời, đám mây đặc đã tan hết, một vừng trăng tròn tỏa ra ánh sáng lạnh lùng.

    Tôi đi thật nhanh, như muốn từ trong cái gì nặng nề xông ra cho khỏi, song không đủ sức. Trong lỗ tai có cái gì đang vùng vẫy, chặp lâu, chặp lâu, rồi vùng vẫy thoát ra được, mường tượng như tiếng rống dài, như một con chó sói bị thương đêm khuya gào thét nơi đồng vắng, trong thê thảm xen lẫn tức giận và đau xót.

    Lòng tôi thấy nhẹ nhõm, thản nhiên đi trên con đường đá lầy lội, dưới ánh sáng trăng.

    Viết xong ngày 17 tháng 10 năm 1922

    (Dịch ở Bàng hoàng)
     
    Nguyễn Ngọc NguyênLibra1110 thích bài này.
  5. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Bài viết:
    2,079
    Ối tình ôi!

    Bấm để xem
    Đóng lại
    (Bút tích của Quyên Sinh)

    Nếu tôi có thể, tôi sẽ viết ra cái ăn năn và đau xót của tôi, vì Tử Quân, vì chính mình tôi.

    Cái nhà đổ nát ở nơi khuất vắng bị quên đi trong hội quán[2], nó là vắng vẻ và trống hổng như thế này. Thời giờ qua đi vùn vụt, tôi yêu Tử Quân, nhờ nàng trốn ra khỏi nơi vắng vẻ và trống hổng ấy, đã đầy một năm rồi. Rủi làm sao, khi tôi trở lại, lại bưa vừa chỉ có căn nhà ấy bỏ trống, vẫn y nguyên cái cửa sổ như thế ấy, cây hòe khô nửa thân và dây đằng tía[3] ngoài cửa sổ thế ấy, cái bàn vuông trước cửa sổ thế ấy, cái vách nát thế ấy, cái giường ván kê sát vách thế ấy. Đêm khuya một mình nằm trên giường, chẳng khác nào lúc chưa ở chung với Tử Quân, cái thời gian trong một năm vừa qua bị tiêu diệt tất cả, không có gì tất cả, tôi chưa có hề dọn ra khỏi cái nhà nát này, ở đường hẻm Cát Triệu gây dựng nên cái gia đình nho nhỏ đầy hy vọng.

    Chẳng những thế thôi. Trước đây một năm, cái vắng vẻ và trống hổng cũng chẳng đến thế này, nó thường cứ mang sự mong đợi, mong đợi Tử Quân sẽ đến. Trong khi đợi lâu sốt ruột, nghe được tiếng mũi giày cao gót chạm trên đường gạch một cái, làm cho tôi sấn sướt lên biết ngần nào! Thế rồi liều xem thấy cái mặt tròn trắng xanh với cái má lúm đồng tiền, cái cánh tay trắng xanh mà gầy, cái áo dài bằng vải sọc, cái váy màu huyền. Nàng lại đem vào cho tôi thấy cái lá mới của cây hòe khô nửa thân ngoài cửa sổ, lại với từng chùm hoa đằng tía và trắng của cái gốc già giống như sắt.

    Nhưng mà bây giờ đây, chỉ có cái vắng vẻ và trống hổng y nguyên như cũ, còn Tử Quân quyết không đến nữa, vả lại không đến mãi mãi, mãi mãi!

    *

    * *

    Khi Tử Quân không ở trong cái nhà nát này, bất cứ cái gì tôi cũng xem không thấy. Trong cơn chán ngắt, thò tay vớ bậy một cuốn sách, khoa học cũng được, văn học cũng được, sách nào thì cũng thế, cứ xem, cứ xem, bỗng tự mình thấy ra, đã lật qua mười mấy tờ rồi, song le chẳng nhớ được trong sách nói chuyện gì. Duy có lỗ tai thính đặc biệt, mường tượng nghe thấy mọi tiếng giày qua lại ngoài cổng, trong đó có tiếng giày của Tử Quân, vả lại cộp cộp càng đến càng gần, - nhưng lại thường thường càng mờ loãng, cuối cùng hút mất trong những tiếng bước đi rộn rịp khác. Tôi chúa ghét đứa con trai của người tùy phái đi đôi giày đế vải không giống tiếng giày của Tử Quân, tôi cũng chúa ghét cái thằng nhỏ chát bự kem ở phòng bên cạnh, thường thường đi giày da mới mà giống tiếng giày của Tử Quân quá.

    Có lẽ nàng bị đổ xe chăng? Hay là nàng bị xe điện chẹt rồi chăng?

    Tôi liền muốn lấy cái mũ đi thăm nàng, nhưng mà người chú ruột nàng đã từng chửi tôi ngay trước mặt.

    Thình lình, tiếng giày của nàng tới gần, mỗi bước càng vang thêm, khi tôi ra đón, thì nàng đã đi khỏi dưới giàn hoa đằng tía, cười tủm tỉm lộ đồng tiền trên má. Tôi đồ rằng chắc nàng không bị giày vò gì ở nhà người chú nàng, lòng tôi thấy thơ thái. Sau khi lẳng lặng nhìn nhau một chốc, trong căn nhà nát dần dần vang dầy tiếng nói của tôi, nói về chuyên chế trong gia đình, nói về phá bỏ thói tục cũ, nói về trai gái bình đẳng, nói về Ípsen, nói về Tagore, nói về Silây.. [4] . Nàng cứ một mực mỉm cười gật đầu, đôi mắt đầy ánh sáng thơ ngây và tọc mạch. Trên vách có dán bức tượng nửa người của Silây in bản đồng, cắt trong tạp chí ra, là bức tượng đẹp nhất của ông. Khi tôi chỉ cho nàng xem bức tượng ấy, nàng chỉ nhìn sơ qua, bèn cúi đầu xuống, hình như có ý thẹn. Chỗ đó thấy ra Tử Quân như còn chưa thoát khỏi trói buộc của tư tưởng cũ, về sau tôi cũng nghĩ, chi bằng đổi bức tượng kỉ niệm Silây chết đuối ở biển hay là bức tượng của Ípsen thì hơn ; nhưng rồi cũng không đổi, đến bây giờ thì cả đến cái bức ấy mất đi đâu cũng không biết.

    *

    * *

    Con người tôi là của tôi, bọn họ bất kỳ ai cũng không có quyền can thiệp đến tôi được!

    Đó là câu nói của nàng, khi chúng tôi gần gụi nhau được nửa năm, lại bàn đến chuyện người chú ruột nàng ở đây và người cha nàng ở nhà, nàng ngẫm nghĩ một lúc rồi đằm thắm, dứt khoát, kiên quyết nói như thế. Lúc đó thì tôi đã tỏ bày hết ý kiến của tôi, thân thế của tôi, khuyết điểm của tôi, ít có giấu giếm gì, nàng cũng đã hiểu rõ tất cả. Mấy lời đó rất làm cho linh hồn tôi rung động, sau bao nhiêu ngày còn vang dội bên tai, vả lại mừng hết chỗ nói, biết rằng đàn bà con gái Trung Quốc không phải là nan hóa như mấy ông chán đời đã tưởng, mà một ngày mai không xa, sẽ có ánh sáng hừng đông rực rỡ cho mà xem.

    Đưa nàng ra cửa, cứ thường lệ là đi cách nhau mười bước xa ; cứ thường lệ là cái thằng cha già râu cá chốt kia lại dán mặt trên tấm cửa kính bẩn, cả đến sống mũi cũng bẹp dí đi ; đến nhà ngoài, lại cứ thường lệ là trong tấm cửa kính sáng choang, ló cái mặt thằng nhỏ nọ chát kem càng bự. Nàng đi một cách kiêu ngạo, mắt không nhìn nghiêng nên không thấy gì cả ; còn tôi cũng đi một cách kiêu ngạo mà trở về.

    Con người tôi là của tôi, bọn họ bất kỳ ai cũng không có quyền can thiệp đến tôi được! Cái tư tưởng dứt khoát ấy ở trong óc nàng kể còn thấu suốt mạnh mẽ hơn tôi nhiều. Thứ đồ nửa lọ kem và cái sống mũi bẹp dí kia, đối với nàng mà có kể được là cái thá gì?

    *

    * *

    Lúc đó tôi đã đem tình yêu chân thật nồng nàn mà bày tỏ cho nàng bằng cách nào, đến bây giờ tôi không còn nhớ rõ. Mà chẳng những bây giờ, lúc đó việc xong rồi thì đã xao lãng, ban đêm nhớ lại, cũng chỉ còn sót từng mảnh vụn ; sau khi ở chung một vài tháng, cả đến những mảnh vụn ấy cũng lại hóa ra cái bóng không đuổi bắt được trong chiêm bao. Tôi chỉ nhờ rằng trước đó mười mấy ngày, từng đã nghiên cứu rất kỹ càng về cái thái độ bắt tình, về sự sắp đặt thứ lớp lời nói, cho đến cái tình hình sau khi nếu bị cự tuyệt. Song le đến lúc rồi hầu như đều vô dụng, trong cơn hoảng hốt, không tự chủ được, tôi trót đã dùng cái phương pháp từng thấy trên màn chiếu bóng. Về sau nghĩ đến, làm tôi rất xấu hổ, nhưng trong trí nhớ lại chỉ có một chút đó còn mãi không phai, đến nay vẫn như là ánh đèn trong buồng tối rọi thấy tôi rưng nước mắt cầm lấy tay nàng, một đầu gối riu ríu quỳ xuống..

    Chẳng những chính mình tôi, cả đến nói năng cất nhắc của Tử Quân, lúc bấy giờ tôi cũng không thấy rõ, chỉ biết nàng đã nhận lời tôi rồi. Song cũng còn mường tượng nhớ rằng sắc mặt nàng đổi ra trắng xanh, sau dần dần trở nên ửng đỏ, - cái ửng đỏ mà trước chưa từng thấy, và về sau cũng không thấy nữa, như trẻ con một thứ, cặp mắt nàng lộ ra vẻ vừa buồn vừa mừng, lại đèo thêm sợ sệt, dù vậy hết sức tránh tầm mắt của tôi, và hốt hoảng như muốn phá tung cửa sổ bay đi. Nhưng mà tôi biết nàng đã nhận lời tôi rồi, chứ không biết nàng có nói thế nào hay là không có nói gì hết.

    Nàng thì lại cái gì cũng nhớ được cả: Những lời tôi nói, nàng như đã đọc thuộc làu, có thể nhẩm lại hàng tràng ; những cái cử chỉ của tôi, thì như có một phim ảnh mà tôi không thấy, phơi ra dưới mắt nàng, nàng kể lại như là thực, rất tỉ mỉ, cả đến cái trò trong chiếu bóng mà tôi không buồn nhớ lại. Đêm khuya người vắng, là lúc cùng nhau ôn lại, tôi thường bị gạn hỏi, bị thử thách, và bị bảo nhắc lại những câu nói lúc bấy giờ, nhưng mà thường phải nhờ nàng bổ túc cho, nhờ nàng đính chính cho, tôi chỉ giống một anh học sinh lớp bét.

    Sự ôn lại ấy về sau cũng thưa dần đi. Có điều, hễ khi tôi thấy nàng đôi mắt đăm đăm nhìn quãng không, đờ người ra ngẫm nghĩ, thế rồi nết mặt càng nhu mì, má đồng tiền càng lúm xuống, thì tôi biết rằng chính mình nàng đang ôn lại, chỉ sợ nàng thấy đến cái trò trong chiếu bóng đáng buồn cười của tôi. Song tôi lại biết rằng thế nào nàng cũng thấy đến, vả lại không thấy không được.

    Nhưng mà nàng cũng không thấy là đáng buồn cười đâu. Dù cho tự tôi cho là đáng buồn cười, thậm chí đáng khinh bỉ nữa, là nàng cũng chẳng cho là đáng buồn cười chút nào. Việc đó tôi biết rạch ròi lắm, bởi vì nàng yêu tôi, yêu đến nồng nàn thế kia, đến chân thật thế kia.

    *

    * *

    Cuối xuân năm ngoái là một thời gian rất có hạnh phúc mà cũng rất bận rộn. Lòng tôi đã yên tĩnh lắm rồi, nhưng lại có một bộ phận khác và cả thân thể bắt đầu cùng bận rộn lên. Lúc đó chúng tôi mới cùng đi với nhau ngoài đường, cũng có mấy lần cùng dạo vườn hoa, nhiều nhất là khi đi tìm thuê nhà trọ. Tôi thấy ở lúc đi đường, chốc chốc lại gặp những con mắt tò mò, chế nhạo, trơi lờn và khinh rẻ, lơ đễnh một cái là làm cho tôi cả người co rúm lại, chỉ phải tức khắc làm ra vẻ kiêu ngạo và phản kháng để mà chống chỏi. Nhưng nàng thì lại bất chấp tất cả, không thèm bận lòng với những điều ấy, cứ lẳng lặng thư thả đi, thênh thang như vào chỗ không có người.

    Tìm nhà trọ thật không phải việc dễ, có nhiều nơi bị cự tuyệt bằng cớ này hay cớ khác, một ít nơi thì chúng tôi cho là không thích hợp với mình. Đầu tiên chúng tôi chọn lựa rất gắt, - cũng không phải gắt, vì xem qua thì thấy không phải chỗ chúng tôi có thể an thân ; đến sau, miễn chỗ nào họ cho ở là được rồi. Đi xem hơn hai mươi chỗ, mới thuê được một nơi khả dĩ ở tạm, là hai căn phía nam của một sở nhà nhỏ ở đường hẻm Cát Triệu ; chủ nhà là một viên quan nhỏ, song là người sòng phẳng, chính mình ở nhà giữa và phòng bên. Hắn có vợ và một đứa con gái chưa đầy tuổi tôi, thuê một cô gái nhà quê giúp việc, khi đứa bé không khóc, thì thật là thảnh thơi vắng lặng.

    Đồ đạc của chúng tôi không có gì mấy, thế mà cũng đã tiêu hết già nửa món tiền tôi đã chạy được ; Tử Quân còn phải bán mất cái nhẫn vàng và đôi hoa tai vàng mà nàng vẻn vẹn có. Tôi ngăn nàng, nàng cũng cứ nhất định bán, thì tôi không ngăn nữa, vì biết rằng nếu không để nàng chung đụng một phần tiền, chắc nàng ở không được thoải mái.

    Nàng đã làm rầy rà với chú nàng, đến nỗi hắn tức giận không chịu nhìn nàng là cháu gái nữa. Tôi cũng lần lượt tuyệt giao với mấy người bạn tự cho là lấy lòng thành khuyên bảo tôi, mà thật ra là non gan sợ ch tôi, hay là chỉ vì ghen với tôi. Nhưng mà như thế lại hóa ra rất yên tĩnh. Mỗi ngày sau khi tan sở, tuy đã nhá nhem tối, anh phu xe lại cứ chạy chậm, nhưng rốt lại còn có lúc hai người giáp mặt nhau. Trước tiên chúng tôi lẳng lặng nhìn nhau, kế đó là cởi mở và nói chuyện với nhau thân mật, sau cùng lại là lẳng lặng. Mỗi người cúi đầu ngẫm nghĩ, song lại chưa hề ngẫm nghĩ việc gì. Tôi cũng dần dần sáng suốt đọc khắp cả thân thể nàng, linh hồn nàng, chỉ trong ba tuần lễ, hầu như tôi đã hiểu thêm về nàng, bao nhiêu điều trước kia cho rằng đã hiểu, bây giờ mới vỡ ra, thấy còn cách vách, mà là cách vách thật.

    Tử Quân cũng mỗi ngày càng hoạt bát hẳn lên. Song nàng không yêu hoa, hai chậu hoa nhỏ tôi mua ở hội chùa về, trải bốn ngày không tưới, chết khô ở góc tường, tôi lại không có giờ rỗi để chăm sóc mọi sự. Vậy mà nàng lại yêu động vật, cái này có lẽ là lây bà quan nọ, không đầy một tháng, gia quyến chúng tôi thoạt thêm nhiều ra bốn con gà với mười mấy con của nhà chủ cũng lảng vảng trước sân. Có điều họ khéo nhận mặt từng con gà, mỗi người đều nhìn biết con nào là của mình. Lại có một con chó nhỏ đốm trắng, mua ở hội chùa, nguyên nó có tên gì đó, Tử Quân lại đặt cho nó cái tên khác là con Tùy. Tôi cũng cứ gọi nó là con Tùy, nhưng tôi không thích cái tên ấy.

    Thật thế, tình yêu cần phải mỗi lúc đổi mới, sinh sôi, gây dựng. Tôi đem cái lẽ đó nói với Tử Quân, nàng cũng hiểu ý, gật gật đầu. Ôi, đó là cái đêm êm ả mà có hạnh phúc biết ngần nào!

    *

    * *

    Êm ả và hạnh phúc, cái đó phải vững bền, cứ phải mãi mãi là êm ả và hạnh phúc như thế. Khi chúng tôi ở trong hội quán, còn tình cờ có xô xát nhau về lời nói và hiểu lầm nhau về ý nghĩ, từ lúc đến ở đường hẻm Cát Triệu, không hề có như thế nữa ; chỉ khi đối mặt nhau dưới đèn, chúng tôi nhớ lại chuyện cũ, nhấm nháp lại cái thú vui nẩy sinh bởi cuộc hòa giải sau cơn xô xát nhau lúc bấy giờ.

    Tử Quân đâm béo ra, nét mặt cũng hồng hào lên ; chỉ đáng tiếc là nàng bận. Coi sóc việc nhà cả đến không có thời giờ nói chuyện gẫu, huống chi là đọc sách và đi chơi phiếm. Chúng tôi thường bàn với nhau, thế nào cũng phải thuê một đứa ở gái.

    Điều này làm cho tôi cũng không khoan khoái, chiều tối về tới nhà, thường thấy nàng có vẻ không khoan khoái ; điều làm cho tôi càng buồn hơn, là nàng phải giả tảng cười gắng gượng. May mà dò biết ra được, đó là bởi lục đục với bà quan nhỏ nọ, đầu đuôi chỉ vì những con gà con của hai nhà. Nhưng sao lại cứ phải một mực giấu tôi? Người ta thế nào cũng phải có gia đình riêng biệt mới được. Không thể ở cái chỗ như chỗ này.

    Con đường tôi đi cứ là một chiều, sáu ngày trong mỗi tuần lễ, ngày nào cũng đi từ nhà đến sở, rồi lại từ sở về nhà. Ở trong sở thì ngồi nơi bàn giấy sao chép, sao chép công văn và thư tín ; ở nhà thì đối nhau với nàng, hay là giúp nàng nhen bếp lửa, nấu cơm, hấp bánh bao. Tôi mà biết nấu cơm là từ lúc đó.

    Nhưng thức ăn của tôi lại khá nhiều hơn hồi ở trong hội quán. Tử Quân tuy không rành nghề làm bếp, nhưng nàng hết lòng hết sức về việc ấy ; đối với việc mà nàng ngày đêm lo lắng, khiến tôi cũng không thể không lo lắng cùng nàng, để gọi là xẻ đắng chia cay. Huống chi nàng suốt ngày mồ hôi mồ kê thế kia, những sợi tóc ngắn dính trên trán, hai bàn tay còn cứ đâm ra xô xảm thế ấy nữa.

    Hơn nữa, còn phải cho con Tùy ăn, cho gà con ăn.. đều là việc chính tay nàng phải làm.

    Tôi từng bảo thật nàng: Tôi không ăn thì thôi cũng được ; chứ không có thể nào để nàng nhọc nhằn như vậy. Nàng chỉ liếc nhìn tôi một cái, không nói gì, dáng mặt có hơi buồn ; rồi tôi cũng không nói gì. Nhưng mà nàng vẫn cứ chịu nhọc nhằn như vậy. Nàng chỉ liếc nhìn tôi một cái, không nói gì, dáng mặt có hơi buồn ; rồi tôi cũng không nói gì. Nhưng mà nàng vẫn cứ chịu nhọc nhằn như thế.

    *

    * *

    Cái đòn đánh mạnh vào tôi mà tôi cầm chắc sẽ xảy ra thì quả đã xảy đến. Một buổi chiều trước tết Song thập[5] một hôm, tôi ngồi đờ ra, còn nàng đang rửa bát. Nghe tiếng gõ cửa, tôi ra mở cửa, thì một tên chạy thư của sở đưa cho tôi một mảnh giấy in thạch. Tôi đã có hơi đoán trước rồi, đem lại dưới đèn xem, thì quả nhiên, mảnh giấy in thế này:

    Theo mệnh lệnh vị thủ trưởng của sở, ông Sử Quyên sinh không phải đến làm việc ở sở nữa.

    Phòng bí thư

    Ngày 9 tháng 10

    Việc này, khi ở trong hội quán, tôi đã liệu đến rồi. Cái thằng bự kem kia là bạn cờ bạc với con trai của viên chủ sở, chắc nó đã thêm thắt dèm pha, bịa đặt lời báo cáo. Đến hôm nay mới vỡ việc, kể là đã muộn lắm rồi. Thực ra thì với tôi, việc đó cũng không kể được là đòn đánh mạnh, vì tôi đã quyết định trước, tôi có thể làm kẻ sao chép ở nơi khác, hay là dạy học, hay là chịu khó dịch sách cũng nên, vả lại ông chủ bút tờ báo Bạn của tự do là người quen có gặp mấy lần, còn thư từ cho nhau cách hai tháng trước. Tuy vậy, quả tim của tôi vẫn cứ đập mạnh. Mà cái người bất chấp tất cả là Tử Quân cũng đổi ngay sắc mặt đi, làm cho tôi càng đau lòng ; nàng gần nay hình như cũng hóa ra khiếp nhược không bằng hồi trước.

    "Không hề gì. Hừ, chúng ta đổi làm nghề mới. Chúng ta..". Nàng nói như thế.

    Nàng không nói hết câu. Chẳng biết thế nào, tiếng nói kia tôi nghe ra nó vông vông thế nào ấy ; ánh sáng đèn cũng thấy là leo lét khác thường. Người ta thật là thứ động vật đáng buồn cười, một việc nhỏ xíu cũng có thể làm cho day động mạnh. Chúng tôi trước còn lẳng lặng nhìn nhau, dần đến bàn luận, cuối cùng quyết định còn bao nhiêu tiền tiêu xẻn lại, một mặt đăng quảng cáo tìm nơi sao chép hoặc dạy học, một mặt viết thư cho ông chủ bút Bạn của tự do nói rõ cảnh ngộ của tôi, nhờ ông nhận đăng những bài dịch, giúp tôi chút đỉnh trong cơn túng ngặt.

    "Đã nói làm thì làm đi! Để mở một con đường mới!".

    Tôi lập tức quay mặt vào bàn viết, đẩy cái lọ đựng dầu thơm và cái bình đựng dấm, Tử Quân đưa cái đèn lù mù bên kia sang. Trước hết tôi nghĩ viết lời quảng cáo ; rồi đến chọn sách nào nên dịch, là những sách từ hồi dời nhà đến nay chưa hề mở xem, trên đầu cuốn nào cũng đầy tro bụi ; cuối cùng viết bức thư.

    Tôi ngần ngừ mãi, chẳng biết nên nói thế nào, giữa lúc ngừng bút ngẫm nghĩ, liếc mắt nhìn qua mặt nàng, trước ánh đèn tờ mờ, lại thấy vẻ buồn thiu. Tôi thật không ngờ cái việc nhỏ mọn dường kia mà lại làm cho Tử Quân, con người kiên quyết, bất chấp tất cả, thay đổi hẳn đi đến thế được. Thật ra, nàng gần đây đã hóa ra khiếp nhược, chứ không phải bắt đầu từ đêm nay. Lòng tôi vì đó thêm rối loạn, bỗng dưng trước mắt thoáng hiện ra cái bóng sự sống êm đềm - cái thanh vắng của căn nhà nát trong hội quán, mới vừa toan trố mắt nhìn, thì lại thấy ánh đèn tờ mờ.

    Một chặp lâu, bức thư cũng viết xong, là một bức thư hơi dài. Thấy mỏi mệt lắm, hình như gần nay chính tôi cũng hóa ra khiếp nhược hơn trước. Thế rồi chúng tôi quyết định, nội trong ngày mai thì đăng quảng cáo và gửi bức thư ngay. Hai chúng tôi không hẹn mà rập nhau vươn thẳng lưng lên, không nói ra, chứ mỗi người như đều cảm thấy mình có cái tinh thần bền dẻo và mạnh mẽ, và còn nhìn xem cái hy vọng tương lai mới nứt mầm.

    *

    * *

    Cái đòn đánh từ ngoài đến, thật ra lại làm cho cái tinh thần mới của chúng tôi hăng hái lên. Làm việc ở sở, chẳng khác nào cũng con chim trong tay người lái bán chim, chỉ có một ít gạo tấm ăn cầm hơi, không thế nào cho béo mập được ; mà hễ lâu ngày thì lông cánh tê dại đi, dù cho thả ra khỏi lồng cũng đã không bay nổi. Hiện giờ thì cũng kể được là ra khỏi lồng đấy, tôi còn kịp khi chưa quên đập cánh, từ đây phải bay lượn trong quãng trời mới rộng rãi mênh mông.

    *

    * *

    Quảng cáo mới vừa đăng, không phải một lúc mà có hiệu nghiệm ngay được. Còn dịch sách cũng không phải việc dễ, những chỗ trước kia xem qua, cho là hiểu được rồi, đến lúc bắt tay dịch, lại thấy khó khăn trăm bề, cho nên công việc làm rất chậm. Nhưng tôi quyết chí rán sức làm, một cuốn tự điển còn khá mới, không đầy nửa tháng, dựa triêng đã đầy dấu ngón tay làm đen hoen, đủ biết là tôi làm việc chăm chỉ. Ông chủ bút Bạn của tự do từng nói với tôi, tờ báo của ông nhất định không bỏ qua những bài dịch hay mà không đăng.

    Đáng tiếc là tôi không có được một gian phòng vắng vẻ, Tử Quân lại không đằm thắm khéo chiều như trước, trong nhà cứ là bừa bãi những bát đĩa, tràn ngập những khói than đá, khiến người ta không thể yên lòng làm việc, song cái đó chỉ nên trách lấy bản thân tôi không đủ sức sắm một thư phòng riêng. Thế mà lại còn thêm con Tùy, còn thêm bầy gà con nữa. Còn thêm bầy gà con càng ngày càng lớn, dễ dàng làm đầu dây mối nhợ cho hai nhà rầy rà nhau.

    Còn thêm mỗi ngày cứ phải ăn cơm ; công lao của Tử Quân hình như ở cả trong sự ăn cơm ấy. Ăn xong đi chạy tiền, chạy tiền được lại ăn, còn phải cho con Tùy ăn, cho gà ăn ; nàng hầu quên tất cả cái gì trước kia đã biết, cũng chẳng nghĩ đến mỗi khi hối giục ăn cơm như thế thường thường làm cho tứ văn trong óc tôi đứt mạch. Trong bữa cơm, dù có tỏ cho thấy một vài nét giận dỗi, nàng cũng không cải nết, vẫn cứ việc ăn lấy ăn để, như không hề cảm thấy tí gì.

    Mất hết năm tuần lễ tôi mới làm cho nàng hiểu rõ rằng công việc của tôi không thể bị bó buộc bởi sự ăn cơm đúng giờ. Sau khi hiểu rõ rồi, dáng chừng nàng rất không vui, song không nói ra. Việc làm của tôi từ đó quả được nhanh chóng hơn trước, không mấy nỗi mà dịch được năm vạn chữ, chỉ phải trau tria một ít, có thể luôn với hai bài văn ngắn đã viết xong gửi cho Bạn của tự do cùng một thể. Có điều cái sự ăn cơm lại vân cứ làm cho tôi chịu khổ. Đồ ăn nguội, cái đó không can chi, ngặt vì đến nỗi không đủ ; có khi cả đến cơm cũng không đủ, mặc dầu tôi vì cả ngày ngồi ở nhà dùng sức óc, mức ăn cơm so với trước đã giảm đi nhiều. Đó là tại đã cho con Tùy ăn trước đi, có khi lại còn cho nó ăn cả đến món thịt dê là món chính tôi cũng không dễ gì ăn. Nàng nói, thật con Tùy nó gầy đến thảm hại, bà chủ nhà còn nhân đó chê cười chúng tôi, nàng không chịu được cái sự chế nhạo như thế.

    Thế là chỉ có bầy gà ăn cơm thừa của tôi. Điều đó lâu ngày tôi mới thấy ra được, song đồng thời tôi cũng tự thấy, như Húit-lây luận định về "vị trí loài người ở trong vũ trụ" [6], vị trí của tôi chẳng qua là ở giữa con chó nhỏ và bầy gà.

    *

    * *

    Đến sau, trải qua nhiều lần chống cự và thúc giục, bầy gà cũng lần lượt bị giết thịt, chúng tôi và con Tùy đều hưởng được chất béo hơn mười ngày. Có điều thật ra chúng nó gầy quá, vì lâu nay mỗi ngày chỉ ăn được mấy hột lúa ngô. Từ đây trong nhà được yên tĩnh hơn. Chỉ có Tử Quân trông uể oải quá, thường có dáng bộ buồn nản và tẻ ngắt, đến nỗi không muốn nói năng gì. Tôi nghĩ, người ta sao mà dễ dàng thay đổi đến thế này!

    Đến ngày con Tùy cũng sẽ không nuôi được nữa rồi. Chúng tôi đã chẳng còn trông mong từ đâu có thư gửi đến, Tử Quân cũng không còn có chút gì ăn được để có thể bắt nó cúi chào hoặc đứng thẳng lên. Mùa đông lại sắp đến rồi, lò sưởi sẽ là một vấn đề lớn ; mức ăn của nó, không nói cũng biết, thật đã là cái gánh nặng cho chúng tôi. Thế rồi cả đến con vật ấy cũng không để được.

    Giá như dắt nó ra chợ bán đi, có lẽ cũng được mấy đồng tiền đấy, nhưng mà chúng tôi không có thể và cũng không muốn làm như thế. Rốt lại là lấy khăn gói trùm đầu nó lại, do tôi mang đi thả ở ngoại ô phía tây, nó còn chạy theo, thì xô nó xuống một cái hầm đất không sâu mấy.

    Tôi trở về nhà, thấy càng yên tĩnh hơn nhiều. Song cái nét mặt sầu thảm của Tử Quân lại làm cho tôi phát sợ. Cái nét mặt ấy từ trước chưa từng thấy, chắc là vì con Tùy. Nhưng mà việc gì lại đến nỗi phải thế? Tôi còn chưa thuật chuyện xô nó xuống hầm đất.

    Đến đêm, trên cái nét mặt sầu thảm của nàng, lại phủ thêm một lớp giá lạnh nữa.

    "Quái lạ. - Tử Quân, em hôm nay sao mà như thế?". Tôi cầm lòng không đâu, hỏi.

    "Cái gì?". Nàng nói mà không hề nhìn tôi.

    "Nét mặt của em..".

    "Không có gì, - có gì đâu".

    Cuối cùng, theo lời lẽ dáng điệu của nàng, tôi biết đại khái nàng đã nhận định tôi là một đứa nhẫn tâm. Thực ra, một mình tôi thì sự sống cũng dễ dàng, dầu vì kiêu ngạo, lâu nay không tới lui với bạn cũ, sau khi dời nhà, lại tránh xa những người quen, chứ hễ xa chạy cao bay được thì con đường sống cũng còn rộng rãi lắm. Hiện giờ bấm bụng chịu đau khổ bởi sự sống đè nén, phần lớn lại là vì nàng, cho đến đem con Tùy vứt bỏ, cũng chỉ như thế. Song le cái kiến thức của Tử Quân hình như đâm ra thấp kém, đến nỗi cả đến một chút đó mà cũng không nghĩ tới.

    Tôi chọn một dịp tốt, đem những lẽ ấy ngỏ ý cho nàng biết ; nàng gật đầu dáng chừng có hiểu. Nhưng mà xem tình hình nàng về sau, thì ra nàng không hiểu, hay là còn không tin tôi nữa.

    *

    * *

    Cái lạnh của khí trời và cái lạnh của dáng người bức tôi không thể yên thân trong gia đình được. Nhưng đi đâu bây giờ? Trên đường phố, trong vườn hoa, tuy không có cái dáng người giá lạnh, chứ gió lạnh cũng đến cắt da. Rốt lại tôi tìm được chỗ thiên đường của tôi ở trong Thư viện Thông tục.

    Vào đó không phải mua vé, trong phòng đọc sách lại đặt sẵn hai cái lò sưởi bằng sắt. Mặc dầu đốt trong lò sưởi chẳng qua là thứ than đá tồi, miễn thấy có lò sưởi, trên tinh thần cũng thấy có hơi ấm áp. Sách thì lại không có gì xem được: Sách cũ thì cổ hủ, sách mới hầu như không có cuốn nào.

    May mà tôi đến đây cốt không phải vì xem sách. Ngoài tôi ra lúc nào cũng có mấy người, lúc nhiều đến mười mấy người, đều là áo quần mỏng manh như tôi, mỗi người xem sách của mình, mượn cớ để lấy nhờ hơi ấm. Cái đó với tôi càng thích hợp lắm. Trên đường phố thế nào cũng gặp những người quen, thế nào cũng bị một cái liếc mắt khinh miệt, chứ ở đây thì chắc khỏi cái chua chát ấy, bởi vì bọn họ luôn luôn vây chung quanh thứ lò sưởi khác, hay là tựa cạnh cái lồng ấp của mình.

    Ở đó tuy không có sách cho tôi xem, nhưng còn có yên tĩnh để cho tôi suy nghĩ. Đợi đến lúc một mình ngồi thừ, nhớ lại về trước, mới thấy rằng hơn nửa năm nay, chỉ vì yêu - cái yêu mù quáng - mà xao nhãng mất cả những cái cần yếu khác của đời người. Thứ nhất là sự sống. Người ta phải sống đã, rồi cái yêu mới có chỗ nương tựa. Trên đời không phải là không có con đường sống mở ra cho kẻ hay phấn đấu ; tôi cũng chưa quên đập cánh, tuy có đồi đường hơn trước kia phần nào.

    Cái nhà và những người đọc sách dần dần mất đi, tôi xem thấy người đánh cá trong sóng cồn, người lính đánh trận trong hầm núp, người sang trọng trong xe hơi, tay buôn bán đầu cơ trên dương trường[7], đấng hào kiệt giữa rừng sâu núi thẳm, vị giáo sư trên giảng đàn, kẻ đi vận động ban tối và thằng ăn trộm đêm khuya.. Tử Quân - không có ở đây. Cái dũng khí của nàng đã mất hết, chỉ cứ vì con Tùy mà buồn bực, vì nấu cơm mà đờ người ra, nhưng mà lạ một điều là lại không gầy ốm chi cả..

    Trời lạnh, mấy cục than đá tồi trong lò sưởi cuối cùng cũng cháy hết, đã là lúc đóng cửa thư viện rồi. Bây giờ lại phải về đường hẻm Cát Triệu, chịu đựng lấy cái bộ mặt giá lạnh rồi đây. Mấy lâu nay thỉnh thoảng cũng có chộ cái dáng điệu đằm ấm, song như thế lại làm cho tôi thêm đau khổ. Nhớ có một đêm, từ cặp mắt Tử Quân bỗng phát ra cái tia sáng ngây thơ mà lâu nay không thấy, nàng cười và nhắc lại với tôi cái tình hình khi còn ở trong hội quán, chốc chốc lại lộ cái vẻ hơi sợ hãi. Tôi biết rằng tôi gần nay còn lạnh lùng quá nàng nữa, đã làm cho nàng đâm lo ngại, nên chi cũng gắng gượng nói cười, muốn cho nàng khuây khỏa một vài. Nhưng mà nụ cười tôi vừa nở trên môi, lời nói tôi vừa ra khỏi miệng, tức thì lại biến thành trống hổng, cái trống hổng lại tức thì biến thành tiếng dội, dội vào tai mắt tôi, ban cho tôi một sự nhạo ngầm cay độc khó chịu.

    Tử Quân hình như cũng biết được, từ đó mất hẳn cái dáng đằm lặng như tê dại trước kia thường có, mặc dầu hết sức che đậy, chốc chốc cái nét mặt lo ngại cũng vẫn cứ lộ ra, nhưng đối với tôi thì lại ôn hòa hơn nhiều.

    Tôi muốn nói rõ cho nàng biết, song còn chưa dám, khi quyết ý muốn nói ra, trông thấy cặp mắt như trẻ con của nàng, liền phải gắng gượng làm bộ vui vẻ. Song cái bộ vui vẻ ấy lại tức thì hóa ra nhạo ngầm tôi, vả còn làm cho tôi mất hẳn cái dáng đằm lặng lạnh lùng.

    *

    * *

    Từ đó nàng lại bắt đầu ôn lại việc cũ và mở cuộc thử thách mới, bắt buộc tôi phải bịa ra bao nhiêu câu trả lời đậm đà mà giả dối, cái đậm đà đem tỏ cho nàng, còn cái bản thảo giả dối thì chép ngay ở trong lòng tôi. Lòng tôi dần dần bị những bản thảo ấy lấp đầy, luôn luôn thấy khó thở. Trong cơn khổ não tôi thường hay nghĩ thấy, nói sự thực, tự nhiên cần phải có cái dũng khí rất lớn ; ví thử không có cái dũng khí ấy, mà cứ chịu giả dối cho qua ngày, thì người ấy là người không có thể mở một con đường sống mới. Chẳng những chẳng có việc ấy, mà cả đến con người ấy cũng chưa hề có!

    Tử Quân có vẻ oán hận, ở một buổi sáng sớm, buổi sáng sớm rất lạnh, đó là điều chưa từng thấy qua, song cũng có lẽ là cái vẻ oán hận mà tự tôi nhìn thấy. Lúc bấy giờ tôi giận mát và cười thầm: Cái tư tưởng rèn luyện và cái ngôn luận khoáng đạt bất chấp tất cả của nàng, rốt cuộc cũng hoàn là trống hổng, mà đối với cái trống hổng ấy nàng lại không tự biết. Lâu nay bất cứ sách gì nàng cũng không đọc, không biết cái điều thứ nhất của đời sống người ta là phải tìm cách sống, mà muốn nhằm tới con đường tìm cách sống ấy thì cần phải nắm tay cùng đi, hay là một mình sấn bước, nếu chỉ biết níu lấy chéo áo của một người nào, thì dầu cho người ấy là chiến sĩ cũng khó mà chiến đấu, rốt lại cả hai phải cùng chết mất mà thôi.

    Tôi thấy rằng cái hy vọng mới chỉ ở sự chúng tôi lìa nhau ra ; nàng phải quả quyết dứt bỏ, tôi cũng vụt nghĩ đến cái chết của nàng, song le tức khắc trách mình, ăn năn ngay. May mà là buổi sáng sớm, thời giờ còn dài, tôi có thể nói hết sự thực của tôi. Mở con đường mới cho chúng tôi, là ở một lần này.

    Tôi cùng nàng gẫu chuyện, cố ý gợi ra việc cũ của chúng tôi, giở đến văn nghệ, thế rồi đụng đến nhà văn ngoại quốc, tác phẩm của nhà văn: Nara, người đàn bà của biển[8] . Khen ngợi cái quả quyết của Nara.. Cũng vẫn là những câu chuyện đã nói trong căn nhà nát của hội quán, có điều hiện giờ đã biến thành trống hổng, từ mồm tôi truyền vào trong tai tôi, mỗi lúc ngờ rằng có một đứa bé tinh nghịch tàng hình, ở đằng sau lưng nhại theo một cách ranh mãnh và cay độc.

    Nàng vẫn cứ gật đầu chịu lắng nghe, sau rồi lặng thinh. Tôi cũng chắp nối nói xong câu chuyện của tôi, cả đến những tiếng rớt lại đều tiêu mất đi trong quãng trống.

    "Phải đấy". Nàng lại lặng thinh một hồi rồi mới nói: "Nhưng mà.. Quyên sinh, tôi thấy anh mấy lâu nay thay đổi nhiều. Có phải thế không? Anh, - anh bảo thật tôi đi".

    Tôi thấy như đó là một vố đánh vào tôi, song cũng liền tỉnh táo, nói rõ ý kiến và chủ trương của tôi ; về sự mở đường mới, gây dựng lại sự sống mới, có thế thì mới khỏi cả hai cùng chết mất.

    Gần rốt, tôi lấy lòng quả quyết mười phần, nói thêm mấy lời này:

    ".. Huống chi em đã có thể không cần lo về sau, cứ hăm hở đi tới. Em muốn tôi nói thật ; phải đấy, người ta không nên giả dối. Thì tôi nói thật đây: Bởi vì, bởi vì tôi đã không yêu em nữa rồi! Nhưng như thế là tốt cho em lắm, bởi vì em càng có thể làm việc mà không bận lòng gì cả..".

    Cùng một lúc ấy, tôi chắc mẩm rằng có biến cố gì lớn sẽ đến, nhưng mà không, chỉ có im lặng. Nét mặt nàng vụt đổi ra vàng xám, gần như chết ; trong nháy mắt lại sống lại, đôi mắt nẩy ra tia sáng nhấp nhoáng và ngây thơ. Tia sáng đó dọi ra bốn bề, giống như đứa trẻ đang đói khát tìm mẹ lành, song chỉ tìm trong quãng không, sợ sệt tránh tầm mắt của tôi.

    Tôi không thể thấy thế nữa, may mà là lúc sáng sớm, tôi xông pha gió lạnh chạy đến Thư viện Thông tục.

    Ở đó thấy tờ báo Bạn của tự do, hai bài văn ngắn của tôi đã đăng rồi. Điều đó làm tôi giật mình, hình như được một chút hơi sống. Tôi nghĩ, con đường sống vẫn còn rất nhiều - có điều hiện nay như thế này cũng còn là chẳng ăn thua vào đâu.

    *

    * *

    Tôi bắt đầu đi thăm những người quen mà lâu nay không tới lui nhau, song cũng chỉ có một vài lần ; nhà của họ tự nhiên là ấm cúng, trong xương tủy tôi lại thấy lạnh buốt. Đến đêm, bèn nằm co trong cái nhà lạnh so với giá còn lạnh hơn.

    Giá lạnh như kim chích vào linh hồn tôi, khiến tôi mãi chịu khổ với cái đau đớn tê dại. Con đường sống còn rất nhiều, tôi cũng còn chưa quên đập cánh, tôi nghĩ thế. - Tôi vụt nghĩ đến cái chết của nàng, song le tức khắc trách mình, ăn năn ngay.

    Trong Thư viện Thông tục thường thường nhác thấy một tia nhoáng sáng, con đường sống nằm ngang trước mặt. Nàng đã mạnh mẽ giác ngộ rồi, quả quyết đi ra khỏi cái nhà giá lạnh ấy, vả lại, không có vẻ oán hận chút nào. Tôi bèn nhẹ như mây bay, trôi nổi giữa quãng không, trên có trời xanh, dưới là núi sâu biển lớn, nhà rộng lầu cao, chiến trường, xe hơi, dương trường, công quán, giữa thành thị ồn ào nắng ráo, trong đêm tối tăm..

    Vả lại, thật đấy, tôi cảm thấy cái quang cảnh mới ấy sẽ đến ngay.

    *

    * *

    Như thế, chúng tôi cũng kể được là đã qua khỏi mùa đông khó chịu ; mùa đông của Bắc Kinh ; khác nào con chuồn chuồn rơi trong tay đứa bé nghịch ngợm, bị buộc bằng sợi chỉ nhỏ, mặc tình đùa bỡn, hành hạ, tuy may mà khỏi chết, chứ rốt cuộc vẫn phải nằm trên đất, chỉ một sớm một chầy.

    Viết cho ông chủ bút báo Bạn của tự do kể có ba bức thư, mới được trả lời, trong phong thư trả lời chỉ có hai cái vé mua sách, một cái hai hào và một cái ba hào[9] . Thế mà tôi lại cứ viết thư giục, tốn hết chín xu tem cả thảy, chịu đói một ngày, để ném qua cửa sổ mà chẳng được gì cho mình.

    Nhưng mà cái việc đồ rằng sẽ đến, thì nó đã đến.

    *

    * *

    Đây là việc xảy ra giữa khoảng đông và xuân. Bấy giờ gió không còn lạnh lắm, tôi cũng bê tha ở ngoài lâu hơn, mỗi khi về nhà, trời đã tối sẫm. Ở một đêm tối sẫm ấy, tôi cứ thường lệ uể oải đi về, về đến cổng, lại cứ thường lệ càng thêm xuôi lơ, bước đi càng chậm. Song cuối cùng vào đến nhà mình, không có đèn lửa, mò được bao diêm đánh lên, thì là cái quạnh hiu trống hổng lạ thường!

    Trong cơn sửng sốt, bà quan đến ngoài cửa sổ gọi tôi ra.

    "Hôm nay người cha của Tử Quân đến đây, dẫn nàng về rồi". Bà ta nói vẻn vẹn có thế.

    Đó hình như là việc bất ngờ, tôi khác nào bị đánh một vố đằng sau gáy, đứng im không nói chi.

    "Nàng đi rồi sao?". Được một lát, tôi chỉ hỏi một câu như thế.

    "Nàng đi rồi".

    "Nàng ; - nàng có nói gì không?".

    "Không nói gì cả. Chỉ dặn tôi hễ thấy ông về thì bảo cho ông biết nàng đi rồi".

    Tôi không tin, có điều trong nhà quạnh hiu trống hổng khác thường. Tôi lục lọi các chỗ, tìm Tử Quân ; chỉ thấy mấy cái đồ đạc cũ nát mà bơ thờ, đều rõ ra mồn một, đủ biết chúng nó không có sức che giấu một người nào hay một vật nào. Tôi xoay nghĩ đi tìm bức thư hoặc dấu chữ của nàng để lại, cũng không có ; chỉ có muối và ớt khô, bột mì, nửa bắp cải, để dồn lại một chỗ, bên cạnh còn có mấy chục đồng xu. Đó là toàn bộ vật liệu nuôi sống hai người chúng tôi, nay nàng trịnh trọng để lại cho một người là tôi, không nói cũng biết là bảo tôi nhờ đó mà cầm giữ sự sống cho được lâu dài hơn.

    Tôi như bị chung quanh chèn ép, chạy ra giữa sân, chung quanh tôi lại tối đen ; cửa sổ giấy của nhà giữa dọi ra ánh đèn, bọn họ đang đùa cười với đứa bé. Lòng tôi cũng chìm lặng xuống, thấy trong cái đè ép nặng nề, dần dần thoáng hiện ra con đường chạy thoát: Núi sâu chằm lớn, dương trường, bữa tiệc linh đình dưới đèn điện, hầm hố, đêm khuya tối thui tối thủi, một mũi dao đánh phặp, bàn chân bước không có tiếng tăm..

    Cõi lòng có hơi nhẹ nhõm, cởi mở, nghĩ đến món tiền đi đường, nhân thể thở một hơi ra.

    *

    * *

    Nằm xuống. Những bước tương lai tưởng tượng trước khi nhắm mắt, chưa tới nửa đêm đã hiện ra tất cả. Trong tối bỗng mường tượng thấy một đống thức ăn, sau đó, cái mặt vàng xám của Tử Quân liền nổi bật lên, trợn cặp mắt thơ ngây, nhìn tôi như tuồng van khấn. Định thần lại, không có gì cả.

    Nhưng lòng tôi lại thấy nặng nề. Tại sao tôi không rán chịu mấy ngày, mà lại vội vàng lấy lời thật bảo cho nàng? Hiện giờ nàng biết rằng từ nay về sau, cái mà nàng có được chỉ là cái oai nghiêm như mặt trời gắt của người cha - tức là chủ nợ của con cái - và những cặp mắt lạnh lùng của bà con làng xóm. Ngoài ra bèn là trống hổng. Mang cái gánh nặng trống hổng ấy, ở dưới cái oai nghiêm và mắt lạnh lùng, đi con đường gọi là con đường sống, đó là việc đáng ái ngại dường nào! Huống chi cuối cùng con đường ấy, lại chẳng qua là - cái mồ mà cả đến bia mồ cũng không có.

    Tôi không nên đem lời thật nói với Tử Quân, chúng tôi đã yêu nhau, tôi nên mãi mãi dâng cho nàng cái nói dối của tôi. Nếu cái chân thật quả là báu quý, thì ở Tử Quân đã chẳng là một cái trống hổng nặng nề. Nói dối vẫn là một thứ trống hổng, nhưng đến cuối cùng, quá lắm cũng chỉ nặng nề đến thế.

    Tôi tưởng rằng đem sự thực nói với Tử Quân, nàng có thể không lo ngại gì cả, kiên quyết mạnh dạn đi tới, cũng như khi chúng tôi sắp sửa ở chung. Song đó có lẽ là tôi lầm. Khi bấy giờ nàng dũng cảm và bất chấp tất cả là vì tình yêu.

    Tôi không có cái dũng khí mang lấy gánh nặng trống hổng, mà lại cởi cái gánh nặng chân thật phó cho nàng. Sau khi nàng yêu tôi, thì phải mang lấy cái gánh nặng ấy, ở dưới oai nghiêm và mắt lạnh lùng, đi con đường gọi là con đường sống.

    Tôi nghĩ đến cái chết của nàng.. Tôi thấy tôi là một kẻ khiếp nhược, đáng bị bẩy ra ngoài những người mạnh mẽ có sức, không cứ là người chân thật hay người giả dối. Nhưng mà nàng thì lại từ trước đến sau, vẫn trông mong cho tôi cầm giữ sự sống lâu dài hơn..

    *

    * *

    Tôi phải rời bỏ đường hẻm Cát Triệu, ở đó trống hổng và quạnh hiu lạ thường. Tôi nghĩ, chỉ có rời bỏ chỗ này, thì Tử Quân như còn ở bên mình tôi ; ít nhất là cũng như còn ở trong thành, rồi một ngày kia, sẽ bất thình lình tới thăm tôi, giống như hồi ở trong hội quán.

    Nhưng mà, hết thảy mọi sự nhờ cậy và gửi thư, đều không có hiệu quả gì cả, tôi cực chẳng đã phải đi đến một người quen vai trên mà lâu nay không hề tới thăm. Người này là bạn học hồi nhỏ với bác tôi, một vị bạt cống[10] có tiếng đứng đắn ở Bắc Kinh đã lâu, giao du cũng rộng rãi.

    Chừng cũng vì áo quần lùi xùi, vừa tới cổng đã bị người gác cổng nhìn bằng nửa mắt. Khó khăn lắm mới giáp mặt được, ông ấy vẫn nhận ra tôi, có điều lạnh lạt lắm. Việc vừa qua của chúng tôi, ông ta đều rõ cả.

    "Hẳn thế, anh cũng chẳng ở đây được nữa đâu". Sau khi nghe tôi nói nhờ ông tìm việc cho ở nơi khác, ông lạnh lùng bảo thế, và tiếp: "Có điều đi đâu bây giờ? Rất khó. - à gì đây, gì của anh đây, à, bạn của anh là Tử Quân, anh có biết chứ, nàng đã chết rồi".

    Tôi sửng sốt không nói gì.

    "Thật đấy chứ?". Rốt lại tôi buột mồm hỏi.

    "Ha ha, còn gì nữa mà không thật. Vương Thăng người nhà tôi ở cùng làng với nàng".

    "Nhưng mà, - chết thế nào mới được chứ?".

    "Còn ai biết thế nào. Tóm lại, chết rồi là chết rồi".

    Tôi đã quên khuấy lúc đó từ giã ông ta bằng cách nào rồi đi về nhà trọ mình. Tôi biết ông ta là người không nói dối ; thế nào Tử Quân cũng không lại đến nữa như thể năm ngoái. Nàng tuy muốn ở dưới cái oai nghiêm và con mắt lạnh lùng, mang cái gánh nặng trống hổng để mà đi con đường gọi là con đường sống, cũng đã không có thể được rồi. Số mạng của nàng đã quyết định cho nàng phải chết mất trong cái chân thật tôi bảo cho nàng, cái chân thật ấy là giữa người ta với người ta không có tình yêu.

    Hẳn thế, tôi không thể ở đây được nữa rồi. Nhưng mà, "đi đâu bây giờ?".

    Chung quanh là cái trống hổng mênh mông, còn có cái chết hiu quạnh. Tôi mường tượng thấy được mồn một cái bóng tối của cái chết ở trước mắt đám người không có tình yêu, lại còn nghe được hết thảy những tiếng quằn quại đau khổ và tuyệt vọng.

    Tôi còn cứ mong đợi cái gì mới sẽ đến, là cái không gọi tên được và bất ngờ. Song hết ngày nọ đến ngày khác, chỉ là cái chết hiu quạnh.

    Tôi đã không ra khỏi cửa như trước nữa, chỉ ngồi nằm trong cái trống hổng mênh mông, mặc cho cái chết hiu quạnh nó đục mòn linh hồn tôi. Chính mình cái chết hiu quạnh có lúc cũng run rẩy, ẩn núp, thế rồi trong dịp đứt nối ấy, chợt thấy có sự mong đợi mới, không gọi tên được và bất ngờ.

    Một hôm, vào buổi sáng oi ả, mặt trời không chen ra được khỏi đám mây, cả đến không khí đều mệt mỏi. Tai nghe tiếng bước tủn mủn và hơi thở lỗ mũi hừ hừ, làm tôi mở bừng mắt. Xem qua một cái, trong nhà vẫn trống hổng ; song tình cờ nhìn trên đất, thấy đang quanh quẩn một con vật nhỏ, gầy yếu, giở chết, tro bụi đầy mình..

    Tôi xem kỹ, quả tim tôi bỗng ngừng lại, kế đó lại nhảy mạnh lên.

    Đó là con Tùy, nó lại trở về rồi.

    *

    * *

    Tôi đi khỏi đường hẻm Cát Triệu, cũng chẳng phải chỉ vì sự khinh miệt của chủ nhà và đứa ở gái họ, song phần lớn là vì con Tùy. Nhưng mà, "đi đâu bây giờ?". Con đường sống mới tự nhiên còn rất nhiều, tôi có biết sơ qua, hoặc cũng mập mờ trông thấy, thấy như ở trước mặt tôi, nhưng bằng cách nào ở bước thứ nhất để đi đến đó thì tôi không biết.

    Trải qua nhiều phen nghĩ ngợi và đo đắn, thấy cũng chỉ còn có hội quán, là chỗ có thể dung thân được. Vẫn y nguyên cái nhà nát thế ấy, cái giường ván thế ấy, cây hòe khô nửa thân và dây đằng tía thế ấy, có điều sự sống làm cho tôi trông mong, vui sướng, yêu đường lúc bấy giờ, thì lại đã đi mất hết thảy, chỉ còn có một cái trống hổng, cái trống hổng tôi đã dùng sự chân thật mà đổi lấy.

    Con đường sống mới còn rất nhiều, tôi cần phải tiến lên, bởi vì tôi còn đang sống. Song tôi vẫn không biết bước thứ nhất tiến lên bằng cách nào. Có lúc, hình như thấy con đường sống ấy giống một con rắn dài mà trắng xám, nó uốn lượn bò đến tôi, tôi chờ đợi lại chờ đợi, song xem chừng gần đến, bỗng lại tiêu mất trong bóng tối.

    Cái đêm đầu xuân vẫn còn dài thế này. Trong khi ngồi thừ người đã lâu, nhớ đến đám ma thấy ở đầu đường phố buổi sáng, đằng trước là người giấy ngựa giấy, đằng sau là tiếng khóc giống như hát. Tôi bây giờ đã biết cái thông minh của bọn họ rồi, đó là việc nhẹ nhõm và dứt khoát biết bao.

    Nhưng mà đám ma của Tử Quân lại ở trước mắt tôi, ấy là một mình mang lấy cái gánh nặng trống hổng, tiến lên trên con đường dài trắng xám, mà lại lập tức tiêu mất dưới cái oai nghiêm và con mắt lạnh lùng ở chung quanh.

    Tôi muốn thật có cái gọi là hồn ma, thật có cái gọi là địa ngục, vậy thì, dầu cho ở trong gió dữ gầm thét, tôi cũng sẽ tìm kiếm Tử Quân, trước mặt nàng thốt ra cái điều ăn năn và đau xót của tôi, xin nàng tha thứ ; nếu không thì, lửa độc của địa ngục sẽ bao vây tôi, bừng bừng đốt cháy hết cái điều ăn năn và đau xót của tôi.

    Tôi sẽ ở trong gió dữ và lửa độc ôm lấy Tử Quân, xin nàng khoan dung cho, hoặc làm cho nàng khoái ý..

    *

    * *

    Song le, thế lại càng trống hổng hơn con đường sống mới. Hiện giờ cái đang có chỉ là đêm đầu xuân, mà nó còn dài thế này. Tôi đang sống, thế nào tôi cũng phải nhằm con đường sống mới tiến lên, cái bước thứ nhất, lại chẳng qua là viết ra cái điều ăn năn và đau xót của tôi, vì Tử Quân, vì chính mình tôi.

    Tôi vẫn cứ chỉ có tiếng khóc như hát, để đưa đám chôn Tử Quân, chôn trong sự quên khuấy.

    Mà tôi phải quên ; tôi vì chính mình tôi, vả lại không nên nghĩ đến sự dùng cái quên để chôn Tử Quân ấy nữa.

    Tôi phải nhằm con đường sống mới tiến lên bước thứ nhất, tôi phải đem sự chân thật giấu kín vào trong vết thương lòng, lẳng lặng đi tới, dùng quên khuấy và nói dối làm kẻ dẫn đường cho tôi..

    Viết xong ngày 21 tháng 10 năm 1925

    (Dịch ở Bàng hoàng)

    * * *
     
    Nguyễn Ngọc NguyênLibra1110 thích bài này.
Trả lời qua Facebook
Đang tải...